VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH NGỌC GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH NGỌC GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ GIA LÂM
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu
trách nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này
chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả đề tài
Nguyễn Thị Minh Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM HÌNH SỰ .................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .............. 8
1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự ............. 13
1.3. Ý nghĩa của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .......... 22
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ ........................................... 27
2.1. Khái quát lịch sử lập pháp của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .... 27
2.2. Quy định về giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 ................................................................................................... 29
Chương 3. THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............. 47
3.1. Thực tiễn thi hành quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về giới
hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân Quận Hoàng Mai ................... 47
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt quy định về giới hạn xét xử
sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai ....................... 61
KẾT LUẬN ........................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 79
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS
Cơ quan điều tra CQĐT
Điều tra viên ĐTV
Hội đồng xét xử HĐXX
Kiểm sát điều tra KSĐT
Kiểm sát viên KSV
Tòa án nhân dân TAND
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
Tố tụng hình sự TTHS
Thực hành quyền công tố THQCT
VKS VKS
VKS nhân dân VKSND
VKSNDTC VKS nhân dân tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tổng số bị cáo/vụ án TAND quận Hoàng Mai ........................ 49
thụ lý và xét xử từ năm 2016 đến năm 2020 ........................................... 49
Bảng 3.2. Số vụ khi xét xử Tòa án thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn so
với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 .......................................... 50
Bảng 3.3. Số vụ khi xét xử Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn so
với khung hình phạt VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ................ 51
Bảng 3.4. Số vụ khi xét xử tòa án thay đổi tội danh .............................. 52
so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ...................................... 52
Bảng 3.5. Số liệu trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND ......................... 53
quận Hoàng Mai từ 2016-2020 .............................................................. 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc cải cách tư pháp hướng tới xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Tòa án, thiết chế duy nhất được giao quyền xét xử
các vụ án.
Để có thể thực hiện tốt quá trình cải cách tư pháp đối với hoạt động
xét xử của Tòa án, những chế định, quy định có liên quan đến việc xét xử
trong đó có quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án cần phải được
nghiên cứu chuyên sâu để có cái nhìn từ tổng quát đến chi tiết các quy
định của pháp luật, từ đó phát huy những kết quả đạt được và đồng thời
khắc phục những quy định còn hạn chế. Giới hạn xét xử là một quy định
rất quan trọng của Tố tụng hình sự . Quy định giới hạn xét xử vừa đảm
bảo mục đích xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm vừa đảm bảo được vị thế độc lập của Hội đồng xét
xử, của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Quy định về giới hạn xét xử của Tòa án lần đầu tiên được đề cập
đến tại Điều 170 của Bộ luật Tố tụng hình sự 1988: “Toà án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án
đã quyết định đưa ra xét xử.” Tuy nhiên, quy định này lại quá khát quát
nên khi đưa vào thực tiễn áp dụng đã xảy ra tình trạng nhận thức không
thống nhât giữa VKS và Tòa án. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
chế định này đã được sửa đổi, bổ sung mở rộng thẩm quyền của Hội đồng
xét xử: “Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS
đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ
hơn tội mà VKS đã truy tố.” Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy
1
định trong các BLTTHS trước đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
tiếp tục sửa đổi, bổ sung và cơ bản hoàn thiện được những vấn đề bao
quát nhất của quy định về giới hạn xét xử tại Điều 298 Bộ luật này. Đây
được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta. Thực tế
cho thấy, chế định này đã và đang mang đến những hiệu quả nhất định mà
các nhà làm luật đã mong đợi, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội,
tránh bỏ lọt tội phạm, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm củaTòa án
trong xét xử để Tòa án thực sự độc lập, thực hiện đúng chức năng của
mình. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều chế định khác, hiện nay việc nhận
thức quy định về giới hạn xét xử vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau,
chính vì vậy mà dẫn đến những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp
dụng quy định này trong thực tiễn tố tụng, gây khó khăn trong giải quyết
các vụ án hình sự của nhiều địa phương trong cả nước.
Quận Hoàng Mai là một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc thành
phố Hà Nội với diện tích rộng lớn, mật độ dân cư đông đúc, tình trạng tội
phạm diễn biến phức tạp về cả tính chất, mức độ trên phạm vi toàn quận.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có
Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai trong việc đấu tranh phòng chống, đẩy
lùi tội phạm ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên, những vướng mắc, bất
cập trong quá trình xét xử nói chung và trong việc thực hiện quy định về
giới hạn xét xử tại địa phương nói riêng đã gây không ít khó khăn cho Tòa
án địa phương khi thực hiện chức năng xét xử của mình.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của giới hạn xét xử sơ thẩm phải được nhanh chóng đẩy mạnh,
tạo ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho Thẩm phán, Hội thẩm có thể áp
dụng chính xác, giải quyết nhanh chóng vụ án, đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp.
2
Xuất phát từ những lý do về tầm quan trọng của giới hạn xét xử đã
nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực
tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Dưới góc độ khoa học, việc nghiên cứu về giới hạn của việc xét xử
cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số công trình nghiên cứu
được công bố như :
Ở cấp độ luật văn thạc sĩ luật học đã có một số tác giả nghiên cứu
trực tiếp hoặc gián tiếp về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như:
Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị
Thúy Hoàn, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; Luận văn
Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả
Phan Thị Ánh Tuyết, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018; Luận văn
Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự của tác giả Ngô Thị Ánh, Đại học
Luật Hà Nội, năm 2007; Luận văn Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự
của tác giả Trần Văn Tín, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997; Luận
văn Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận 12, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần
Thùy Liên, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2017; Luận văn Giới hạn xét
xử theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Hồ Quốc Bình,
Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội,
năm 2016.
Ở cấp độ giáo trình, bài viết đăng trên tạp chí đã có đề cập trực tiếp
và gián tiếp về giới hạn xét xử như: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
3
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
Hà Nội, năm 2019; Bài viết Những hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về giới hạn việc xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Thị Kim
Thanh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20, năm 2010; bài viết Một số vấn đề
về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Hữu Chính,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 13, năm 2012; bài viết Hoàn thiện mối quan
hệ giữa Tòa án và VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của tác
giả Hồ Sĩ Sơn, Nhà nước và pháp luật, năm 2005; bài viết Một số vấn đề
cần chú ý khi xét xử vụ án hình sự của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí
Luật học số 9, năm 2012; bài viết Kiến nghị sửa đổi Điều 196 của Bộ luất
Tố tụng hình sự 2003 về giới hạn của việc xét xử của hai tác giả Hoàng
Minh Sơn và Vũ Quang Huy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14, năm 2015.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy nhiều công
trình nghiên cứu dựa trên những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
2003 nên đã không còn phù hợp. Vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn có
nhiều quan điểm khác nhau, từ thời điểm BLTTHS năm 2015 được ban
hành và có hiệu lực thi hành đến nay có ít công trình khoa học nghiên cứu
chuyên sâu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đặc biệt, chưa có
công trình nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn với
thực tiễn áp dụng tại một địa bàn cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
Luận văn Thạc sĩ “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” vẫn là một nội dung mang tính mới, đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề (lý luận)
chung và những quy định của pháp luật về giới hạn xét xử; nội dung của
4
giới hạn xét; nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS về giới
hạn xét xử, làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng để từ đó đưa
ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiểu quả xét xử nói chung
cũng như hiệu quả thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải
phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về giới hạn
xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
khi áp dụng giới hạn xét xử. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn
hoạt động áp dụng quy định về giới hạn xét xử tại Tòa án nhân dân quận
Hoàng Mai. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và
kiến giải hợp lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu
những đối tượng cụ thể :
+ Những vấn đề chung về giới hạn xét xử trong vụ án hình sự sơ
thẩm.
+ Nội dung quy định về giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân Quận
Hoàng Mai.
+ Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định giới hạn xét xử trong
Tố tụng hình sự từ thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về giới hạn
xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Cụ thể là từ khi VKS
5
chuyển hồ sơ cho Tòa án và Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi có
bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn
áp dụng quy định về giới hạn xét xử dựa trên công tác hoạt động của Tòa
án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong năm năm (từ năm
2016 năm đến năm 2020).
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được phân tích, nghiên cứu cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường
lối, chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa
học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về lý luận, đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận về giới hạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình , quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới
hạn xét xử gắn với thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của
đề tài góp phần hoàn thiện lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh
tham khảo hữu ích cho các đơn vị như Tòa án nhân dân các cấp nói chung
và đơn vị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng
trong thực tiễn thực hiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong vụ án
6
hình sự. Ngoài ra, kết quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho
các đối tượng nghiên cứu, áp dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luân văn
Chương 1: Những vấn đề chung về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét
xử sơ thẩm hình sự
Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân quận Hoàng Mai và
một số kiến nghị.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước,
mà hệ quả của nó có tác động lớn đến quyền con người, quyền công dân.
Chính vì vậy, các vấn đề liên quan đến TTHS luôn được sự quan tâm,
nghiên cứu nhất là hoạt động xét xử của Tòa án.
Xét dưới góc độ tranh tụng, xét xử là một trong ba chức năng cơ
bản của TTHS đó là: chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội (bào chữa);
chức năng xét xử. Xét xử chỉ được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất là
Tòa án. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 xác định: "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa XHCN Việt nam, thực hiện quyền tư pháp" [40].
Xét dưới góc độ TTHS, xét xử là một giai đoạn trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, do Tòa án có thẩm quyền tiến hành. Thông qua hoạt
động xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhân danh Nhà nước xem xét công khai,
khách quan, toàn diện kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa để
đưa ra phán quyết về vụ án. Theo quy định của pháp luật TTHS, có hai
cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, theo đó mỗi cấp Tòa án
sẽ có thẩm quyền xét xử nhất định đối với các vụ án hình sự.
Việc xét xử của Tòa án nói chung được thực hiện theo chế độ hai
cấp xét xử, đó là chế độ xét xử sơ thẩm và chế độ xét xử phúc thẩm. Qua
nghiên cứu các công trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công bố cho
8
thấy, khái niệm “xét xử sơ thẩm” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều góc
độ khác nhau:
Như vậy, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này.
Mỗi góc độ tiếp cận đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý nhất định, song
xét tính chính xác và đầy đủ thì hầu hết chỉ mang tính tương đối. Theo
quan điểm của tác giả: Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần đầu vụ án hình
sự do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp
luật. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do
CQĐT, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một
cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận
chất vấn những điều mà tại CQĐT họ không có điều kiện thực hiện. Do
đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục tố tụng vô cùng quan trọng đối với toàn bộ
quá trình tố tụng. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, kết
quả xét xử (bản án hoặc quyết định) của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử tại cấp
phúc thẩm.
Theo quan điểm của tác giả, giới hạn của việc xét xử là mối quan hệ
tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án ở giai đoạn xét xử từ sơ
thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện từ khi Viện Kiểm sát gửi cáo trạng và
hồ sơ vụ án sang Toà án và nó được thể hiện thông qua Kiểm sát viên
được Viện trưởng Viện kiểm sát uỷ quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm
cáo trạng và giữ quyền công tố trước toà cùng với Thẩm phán được giao
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ toạ phiên toà nếu vụ án
9
được đưa ra xét xử. Giới hạn xét xử là quy định pháp lí quan trọng có liên
quan đến nhiều đến các chức năng của tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là
phạm vi những vấn đề thuộc nội dung vụ án mà hội đồng xét xử được
phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại
nó được hạn chế trước hết bởi phạm vi những người và những hành vi mà
VKS truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thì cơ sở pháp lý để xác định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong mọi trường hợp chính là nội dung quyết định truy tố của
VKS và nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án hình sự trong phạm vi truy tố
của VKS và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán. Tòa án không
có quyền xét xử đối với những bị cáo và những hành vi mà VKS không
truy tố hoặc không được Thẩm phán quyết định đưa ra xét xử.
Trên cơ sở những phân tích và lý giải nêu trên, có thể đưa ra khái
niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: "Giới
hạn xét xử sơ thẩm hình sự là phạm vi mà Tòa án cấp sơ thẩm được xem
xét, giải quyết cũng như mức độ xem xét, giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ
thẩm theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát và quyết định đưa vụ án ra
xét xử của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử.
1.1.2. Đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình
sự
Thứ nhất, giới hạn xét xử sơ thẩm thể hiện mối quan hệ chặt chẽ
giữa Tòa án với VKS trong TTHS (quan hệ giữa cơ quan thực hành quyền
công tố-buộc tội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp- xét xử mà thực
chất là quan hệ giữa hai chức năng của Tố tụng hình sự). Giới hạn xét xử
sơ thẩm thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau giữa VKS và
10
Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền. Quyết định truy tố của VKS sẽ làm
căn cứ pháp lý thứ nhất để Tòa án khi tiến hành xét xử để xác định sự thật
khách quan của vụ án nhằm bảo vệ quyền con người, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,cá nhân. Hành vi bị
truy tố, tội danh mà VKS viện dẫn để truy tố tại bản cáo trạng là cơ sở để
Tòa án xem xét thực hiện chức năng xét xử của mình, còn VKS thực hiện
chức năng buộc tội trong suốt giia đoạn điều tra và được kéo dài cho đến
khi Tòa án cấp có thẩm quyền ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Đối tượng bị Tòa án xét xử sơ thẩm là hành vi và bị cáo mà Tòa án
sơ thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố
của VKS. Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội
của họ mà VKS truy tố, có nghĩa là Tòa án không được xét xử thêm hành
vi hoặc bị cáo khi chưa được VKS truy tố. VKS quyết định truy tố bằng
cáo trạng ra trước Tòa án sơ thẩm cấp có thẩm quyền là cơ sở pháp lý đầu
tiên để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án thực hiện chức năng
xét xử chứ không phải là bên buộc tội, nên Tòa án không thể đưa ra xét
xử những bị cáo ngoài diện VKS truy tố.
Thứ hai, giới hạn xét xử sơ thẩm khẳng định vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tính độc lập của Tòa án và VKS. Mặc dù VKS đã
có cáo trạng quyết định truy tố bị can ra Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm
quyền để xét xử về hành vi phạm tội do bị can đó gây ra theo điểm,
khoản, điều được quy định trong BLHS, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa, khi nghiên cứu
hồ sơ nếu xét thấy có căn cứ cho rằng bị can phạm một tội khác, hoặc có
đồng phạm khác, hoặc trong trường hợp tài liệu, chứng cứ đã thu được
trong giai đoạn điều tra cho thấy bị can phạm một tội khác nặng hơn tội
mà VKS đã truy tố, thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để
11
điều tra bổ sung hoặc truy tố về một tội nặng hơn. Trường hợp tội đó nhẹ
hơn hoặc bằng tội VKS truy tố thì Thẩm phán không nhất thiết phải ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung... Sau khi Thẩm phán trả hồ sơ
điều tra bổ sung, hoặc đề nghị VKS truy tố lại về tội nặng hơn mà VKS
vẫn giữ nguyên tội danh quyết định truy tố thì Thẩm phán quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Ngoài ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán còn
có thể ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của
pháp luật TTHS. Như vậy không phải lúc nào VKS truy tố bị can ra trước
Tòa án thì Tòa án đều sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, Thẩm
phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa không quyết định đưa vụ án
ra xét xử thì không có việc tiếp theo là mở phiên tòa và Tòa án chịu tác
động của giới hạn xét xử mà VKS đặt ra trong bản cáo trạng, vì vậy mọi
quyết định truy tố của VKS phải được Tòa án xem xét và thông qua bằng
việc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên toà, VKS giữ quyền công
tố, thực hiện việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết
định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ quyết định truy tố. Quyết định nhũng
vấn đề này thuộc về toà án theo đúng nguyên tắc “không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật ” (Điều 9
BLTTHS). Thực hiện chức năng của mình, toà án xét xử các bị cáo trong
phạm vi quyết định truy tố của VKS đồng thời phải xét xử trong phạm vi
quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Thứ ba, việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hướng đến mục tiêu
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội (bị can, bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm) đồng thời thể hiện sự nghiêm minh
của pháp luật hình sự, sự tuân thủ pháp chế. Mỗi cơ quan khác nhau có
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng đều hướng đến mục
tiêu chung nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người và giữ vững bản chất
12
của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với tư cách là chủ thể thực hiện quyền
tư pháp Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án có thẩm quyền sau khi nghiên cứu
toàn diện, khách quan hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét
xử công khai nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, người đã bị
VKS buộc tội là có tội hay không có tội, nếu có tội thì phạm tội gì, để có
thể ra bản án, quyết định phù hợp với hành vi mà VKS đã truy tố. Chế
định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án góp phần thực hiện mục tiêu
của TTHS đó là: Không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm
bảo quyền công tố của VKS cũng như sự độc lập của Tòa án (thẩm phán,
hội thẩm) giúp việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại, phạm vi xem xét, giải quyết cũng như mức độ được xem
xét, giải quyết khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án được không
phải là vô hạn, bởi nó bị hạn chế trong phạm vi những người và những
hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng cũng như quyết định đưa vụ
án ra xét xử của thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa.
1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
Pháp luật TTHS quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm xuất phát từ
chức năng, nhiệm vụ của VKS, Tòa án trong TTHS; các nguyên tắc cơ
bản của TTHS; mối quan hệ giữa các giai đoạn trong TTHS; vai trò của
Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; nhu cầu
cần giải quyết những quan điểm chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm dựa trên những cơ sở sau:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất quyền
con người, từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn thiện thủ tục
13
TTHS, từ vị trí, vai trò của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành TTHS,
cụ thể:
Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt
nhất quyền con người. Những nguyên tắc về quyền con người luôn được
ghi nhận và khẳng định trong BLTTHS và các văn bản pháp lý là tất yếu
và được hoàn thiện dần theo thời gian. Đến nay, Việt Nam đã tham gia
hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, cụ thể: Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948; Công ước về các Quyền
Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24-9-1982; Công ước
về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24-9-
1982… Một trong những quyền con người cơ bản là quyền sống, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay các hình thức nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm; không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND; quyền được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong tiến trình cải cách tư
pháp sâu rộng hiện nay thì vấn đề bảo vệ tốt nhất quyền con người càng
được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa. Ở đâu có buộc tội, ở đâu có xét xử thì
ở đó cần có sự bảo vệ (bào chữa) cần được tiến hành trong phạm vi, giới
hạn của sự buộc tội cũng như sự xét xử. Mặt khác, bên bảo vệ (bào chữa)
cần biết giới hạn xét xử (trên cơ sở giới hạn buộc tội) để có thể chuẩn bị
tốt các điều kiện để bảo vệ (bào chữa). Do vậy nhu cầu bảo vệ quyền con
người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đặt ra nhu cầu phải có giới hạn
xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn
thiện thủ tục TTHS. Nhiệm vụ của TTHS là đấu tranh phòng chống tội
phạm có hiệu quả và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công
14
dânCũng bởi vậy, phải quy định rõ ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
TTHS, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành
TTHS, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, của các cơ
quan, tổ chức bảo đảm ngăn chặn việc truy cứu trách nhiệm hình sự và kết
án không có căn cứ đối với con người, công dân. Trong tiến trình thực
hiện cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
việc ghi nhận và hoàn thiện các quy định của BLTTHS về giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là điều tất yếu, đây là cơ sở để các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện việc cải cách tư pháp có
hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng trong lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Thứ ba, xuất phát từ sự phân định vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS và Tòa án trong TTHS. Tuy nhiên, để thực hiện được
mục đích chung đó, VKS và Tòa án cần phải thực hiện chức năng riêng có
tính độc lập. Trong đó, VKS có thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, còn Tòa án thực hiện chức năng xét xử bảo đảm xét
xử công bằng, khách quan đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quyết
định truy tố của VKS là cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử của
Tòa án. . Do đó, chức năng xét xử là định hướng các hoạt động TTHS
của Tòa án, và việc quy định về giới hạn xét xử của Tòa án trong
BLTTHS là tất yếu khách quan để đảm bảo sự cân bằng và rạch ròi giữa
các chức năng tố tụng (buộc tội và xét xử).
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Việc quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên nền
tảng các chế định pháp lý quan trọng có liên quan chặt chẽ với nhau trong
15
BLTTHS, tạo thành một thể thống nhất đảm bảo chất lượng giải quyết vụ
án hình sự. Trong đó quan trọng nhất và quyết định nhất chính là hệ thống
các nguyên tắc của TTHS, bao gồm:
Thứ nhất, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 7 BLTTHS 2015):
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, là bảo
vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và
Nhà nước ta đã xác định khi xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước,
hoàn thiện pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói
riêng. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS quy định nguyên tắc bảo
đảm pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong hoạt
động TTHS, để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không được giải quyết
nguồn tin về tội phạm khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những
căn cứ mà BLTTHS quy định. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN đòi
hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, triệt
để và thống nhất theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật nói chung và TTHS nói riêng. Mọi hành vi
lạm quyền trong hoạt động TTHS vượt quá chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn coi như là vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN. Do vậy, Tòa án là cơ
quan tiến hành tố tụng và là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp với
chức năng xét xử phải luôn tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật
TTHS. Giới hạn xét xử sơ thẩm là một quy định rất quan trọng thể hiện
nội dung của mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Vì lẽ trên, việc quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm các
16
nhà làm luật căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
nguyên tắc hiến định bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS là cần thiết.
Thứ hai, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13 BLTTHS 2015): Đây là một nguyên
tắc rất quan trọng trong hoạt động TTHS, nguyên tắc này được Hiến pháp
2013 và BLTTHS 2015 ghi nhận nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án là cơ quan
duy nhất thực hiện chức năng xét xử, và chỉ có Tòa án, mới là cơ quan có
quyền kết tội một người nào đó bằng biện pháp áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn
diện sự thật của vụ án tại phiên tòa. Đây là nguyên tắc, quy định trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị
can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải có nghĩa vụ chứng minh. Vì
vậy, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử nếu xét thấy chưa có đủ cơ
sở chứng minh, thì giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Theo
đó, quá trình xét xử tại phiên tòa, nếu xét thấy chưa có đủ căn cứ chứng
minh bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử là một người đã thực hiện hành vi
phạm tội, thì HĐXX phải tuyên bố bị cáo không phạm tội. Chính vì vậy,
đây cũng là một trong những cơ sở để các nhà làm luật quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho phù hợp với nội dung của nguyên
tắc này.
Thứ ba, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15 BLTTHS 2015): Xác định
sự thật của vụ án là trách nhiệm chung của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm mục đích tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Để đạt được hiệu quả trong đấu tranh phòng chống
tội phạm thì mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện nhanh chóng,
17
kịp thời, chính xác và xử lý nghiêm khắc theo pháp luật. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ diễn biến của việc phạm tội đã xảy ra, nhằm làm rõ những
chứng cứ có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, trách nhiệm
này thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, bị can,
bị cáo có quyền nhưng không bắt buộc phải chứng minh. Như vậy, trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định sự thật vụ án cần phải
dựa trên quan điểm, tư tưởng khách quan, biện chứng. Nếu việc CQĐT,
điều tra không đầy đủ thì phải điều tra bổ sung, nếu việc xét xử không
khách quan, chính xác thì phải sửa án, hủy án. Tòa án khi tiến hành xét xử
vụ án hình sự trước hết phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan
toàn diện, đầy đủ để xác định hành vi của người bị truy tố có phải là hành
vi phạm tội không, nếu có hành vi phạm tội, thì phạm tội gì, người bị truy
tố có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội hay không, nếu là người
thực hiện hành vi phạm tội thì quyết định áp dụng hình phạt như thế nào
là tương xứng. Đây là trách nhiệm của Tòa án mà cụ thể là HĐXX phải
tuân thủ, chứ không phải chủ quan dựa vào ý kiến buộc tội từ cơ quan
truy tố VKS, hay ý kiến gỡ tội của người bào chữa, của bị can, bị cáo để
đưa ra một phán quyết thiên vị hay cảm tính đối với một bên. Cho nên,
việc xác định sự thật của vụ án cũng là một trong những cơ sở khi quy
định về giới hạn xét xử sơ thẩm trong BLTTHS.
Thứ tư, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Điều 16
BLTTHS 2015): Hiến pháp 2013, BLTTHS và Luật tổ chức TAND đã ghi
nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm bảo
vệ quyền con người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân trong
18
TTHS xuất phát từ quan điểm mở rộng tính dân chủ trong hoạt động tư
pháp trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm
quyền con người nói chung, quyền con người của người bị buộc tội nói
riêng trong TTHS là một xu thế tất yếu trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định trong
BLTTHS là nhằm bảo đảm cho họ được trình bày quan điểm đối với việc
bị buộc tội, đồng thời đưa ra các chứng cứ, những tình tiết cần thiết để các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét minh oan,
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội không chỉ là biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động
tư pháp mà còn là biểu hiện tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong
hoạt động TTHS.
Do vậy, pháp luật TTHS không chỉ quy định họ có quyền bào chữa
mà còn có những đảm bảo cần thiết để quyền bào chữa của họ được thực
hiện. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền
bào chữa được thông qua việc giao nhận quyết định khởi tố bị can, quyết
định tạm giữ, tạm giam, bản kết luận điều tra vụ án, cáo trạng và quyết
định đưa vụ án ra xét xử để họ tự chuẩn bị bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa thay cho họ, quyền được bào chữa của họ được thể hiện tập
trung nhất tại phiên tòa sơ thẩm, trong quá trình bào chữa họ và người bào
chữa thay cho họ có thể trình bày tất cả những gì trên cơ sở pháp luật để
làm sáng tỏ là mình không có tội hoặc được giảm nhẹ hình phạt. Do vậy,
trên cơ sở bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo được phát huy hiệu quả tại
phiên tòa sơ thẩm, thì pháp luật TTHS cần có quy định rõ ràng về giới hạn
xét xử sơ thẩm nói riêng sao cho thật phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ nắm
19
được họ bị truy tố xét xử về hành vi nào, về tội gì, điểm, khoản, điều luật
của BLHS quy định, từ đó chuẩn bị chứng cứ, tài liệu để thực hiện quyền
bào chữa. Đây là một trong những cơ sở để nhà làm luật xây dựng chế
định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS.
Thứ năm, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật (Điều 23 BLTTHS 2015): Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì dân, nên việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội
thẩm tham gia là nhằm đảm bảo tính dân chủ, khách quan, công bằng và
chính xác trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đây là một trong những
nguyên tắc rất cơ bản của TTHS được Hiến pháp, các BLTTHS, luật tổ
chức TAND ghi nhận. Theo đó, nguyên tắc này thể hiện ở hai nội dung cơ
bản đó là: Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm sẽ độc lập với nhau, không bị
phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đưa ra các ý kiến
và phán quyết của mình về vụ án; khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm chỉ
căn cứ và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Thứ sáu, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26 BLTTHS
2015): Trên cơ sở tư tưởng tranh tụng quán triệt trong các Nghị quyết
08/2002/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định về
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, trên cơ sở đó mà
BLTTHS 2015 cụ thể hóa thành nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm”. Đây được coi như một trong những nguyên tắc cơ bản quan
trọng của TTHS Việt Nam trong giai đoạn cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Theo Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trong tâm
20
của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã xác định "Bảo đảm tranh tụng
dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác... Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa" [13]. Tranh tụng trong TTHS bao giờ cũng có sự tham
gia của các bên có quyền và lợi ích trái ngược nhau. Việc pháp luật TTHS
quy định cho các bên tham gia tố tụng có quyền đưa ra chứng cứ chứng
minh và tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại
phiên tòa. HĐXX có trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án
bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ án thông qua việc xem xét
chứng cứ và nghe các bên tranh luận về nội dung giải quyết vụ án tại
phiên tòa để ra phán quyết. Quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm được diễn ra giữa bên buộc tội là công tố viên VKS và bên bào chữa
người bào chữa và bị cáo. HĐXX thực hiện chức năng xét xử độc lập với
chức năng buộc tội của VKS và chức năng gỡ tội của người bào chữa. Có
thể nói tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một hình thức tố tụng,
ở đó HĐXX không phải là người xét hỏi chính mà đóng vai trò như là
người "Trọng tài" điều khiển việc tranh tụng để các bên đối đáp ý kiến với
nhau thông qua quá trình thẩm vấn và tranh tụng, trên cơ sở đó, HĐXX
nhân danh Nhà nước xác định sự thật của vụ án để ra một phán quyết một
người có phạm tội hay không phạm tội nhằm giải quyết vụ án một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật. Do đó, Tòa án không
phải là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội, nên không
có trách nhiệm chứng minh tội phạm, mà chỉ có trách nhiệm chứng minh
vì sao đưa ra phán quyết tuyên bố một người phạm tội hay không phạm
tội và phải chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt. Có thể nói, đây
cũng là một trong những cơ sở khẳng định vị trí, vai trò của Tòa án là
21
người trọng tài trung lập, bảo đảm sự bình đẳng cho các bên trong quá
trình xét xử vụ án hình sự, bảo đảm sự thật khách quan được xác định.
1.2.3. Cơ sở thực tiễn
Việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn xuất phát
từ thực tiễn tố tụng khi hai cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là
Tòa án và VKS thực hiện các hoạt động theo chức năng của mình. Cụ thể
là khi VKS thực hành quyền công tố: truy tố và buộc tội người hoặc pháp
nhân bị truy tố tại phiên tòa sơ thẩm và khi Tòa án nghiên cứu hồ sơ
chuẩn bị xét xử hoặc khi HĐXX xét xử vụ án tại phiên tòa, quan điểm
giữa hai cơ quan này có thể không thống nhất với nhau. Trong trường hợp
đó, cần phải giải quyết như thế nào để vừa bảo đảm quyền công tố của
VKS không bị ảnh hưởng, hạn chế hoặc vô hiệu lại vừa bảo đảm quyền
độc lập của Tòa án (Thẩm phán, Hội thẩm) cũng như bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là một vấn đề cần xác định cụ thể. Bởi
vậy, phương án tốt nhất để đạt được mục đích này chính là việc phải quy
định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
1.3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật TTHS nói riêng,
trong đó có quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm là góp phần vào việc thực
hiện những nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp. Tòa án và VKS
là hai cơ quan tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực
Nhà nước một cách khách quan, công minh vì lợi ích của Nhà nước, của
xã hội cũng như lợi ích của công dân. Vì vậy, việc nhận thức và quy định
về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự một cách đúng đắn là cơ sở bảo
đảm cho bị cáo thực hiện được những quyền công dân của mình, mà cụ
thể là bảo đảm cho bị cáo có điều kiện để thực hiện quyền bào chữa của
22
mình tại phiên tòa, tạo điều kiện tranh tụng bình đẳng giữa bị cáo, người
bào chữa của bị cáo với người thực hành quyền công tố. Trong đó, chủ tọa
phiên tòa với vai trò là người điều khiển phiên tòa, đồng thời làm trọng tài
giữa các bên tranh tụng, HĐXX lắng nghe ý kiến tranh luận của đại diện
VKS thực hành quyền công tố và những người tham gia tố tụng khác, trên
cơ sở đó mới xem xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chỉ như thế mới ngăn chặn được sự
tùy tiện cũng như lạm quyền của Tòa án và VKS trong việc xử lý vụ án,
đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được khách quan, đúng pháp
luật.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Chiến lược cải cách tư pháp đã được định hướng trong các Nghị
quyết, văn kiện của Đảng, đã được quán triệt thành các kế hoạch hành
động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải cách tư
pháp theo Hiến pháp năm 2013, trong đó văn bản thể hiện quan điểm nhất
quán đó là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 24/5/2005
về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020”, của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và hoàn thiện bộ máy của các cơ quan tư pháp mà trọng tâm xây
dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND và VKSND
được thể hiện qua Luật Tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND năm 2014,
và nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được bổ sung sữa đổi trong đó có
BLTTHS, BLHS. Đây là những đạo luật cơ bản, rất quan trọng, trực tiếp
liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, liên
quan đến yêu cầu duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ công lý, bảo vệ
23
quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của công dân,
đồng thời nhiều hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật khác được ban
hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực tiễn làm cơ sở cho các cơ
quan tiến hành tố tụng. Thông qua quy định về giới hạn xét xử của Tòa
án, nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự Việt Nam được thể hiện một cách rõ
ràng gồm hai nhiệm vụ: Không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội. Việc quy định giới hạn xét xử là căn cứ pháp lý để tòa án thực hiện
quyền xem xét và xử vụ án về nội dung, giúp Thẩm phán, Hội thẩm độc
lập khi xét xử, đồng thời bảo đảm quyền công tố của Viện kiểm sát được
tôn trọng và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
1.3.3. Ý nghĩa thực tiễn
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, vừa bảo đảm về công bằng xã hội
thì việc pháp luật TTHS quy định quyền và bảo đảm quyền của người bị
buộc tội nhất là bảo đảm quyền bào chữa là một trong các quyền cơ bản
của bị cáo được thực hiện tại phiên tòa xét xử và quyền được bào chữa
được bảo đảm thực hiện thông qua giới hạn xét xử sơ thẩm là nhu cầu tất
yếu.
Đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn
thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, trọng tâm là xây dựng, hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Chính giới hạn xét xử là
yếu tố bảo đảm cho tòa án luôn là tòa án - cơ quan thực hiện chức năng
xét xử chứ không phải là cơ quan thực hiện chức năng buộc tội. Mặt khác
quy định này còn đảm bảo được nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo, tòa án không được xét xử những người chưa bị truy tố,
không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy
tố, không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS
24
truy tố... Từ đó, thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng và
Nhà nước ta. Do đó, việc quy định rõ giới hạn xét xử vụ án hình sự có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tại Chương 1, luận văn đã làm rõ khái niệm giới hạn xét xử sơ
thẩm hình sự, chỉ ra những đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn cũng đã phân tích và làm rõ các cơ sở lý luận, cơ
sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của việc hình thành chế định giới hạn xét xử
sơ thẩm hình sự trong pháp luận Tố tụng hình sự Việt Nam
Việc nghiên cứu những vấn đề chung về giới hạn xét xử sơ thẩm
hình sự được trình bày ở Chương 1 này là cơ sở để phân tích, đánh giá,
nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành cũng như thực tiễn áp
dụng các quy định về chế định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
quận Hoàng Mai. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS nhằm thực hiện
có hiệu quả chế định giới hạn xét xử của Tòa án trong thực tiễn ở quận
Hoàng Mai.
26
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ
2.1. Khái quát lịch sử lập pháp của giới hạn xét xử sơ thẩm
hình sự
Trước khi có BLTTHS 1988, vấn đề giới hạn xét xử được quy định
tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC về trình tự xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, theo đó, khi giải quyết các vấn đề về tội danh và
điều luật áp dụng mà Tòa án có ý kiến khác với ý kiến của VKS thì bắt
buộc Tòa án phải họp trù bị với VKS cùng cấp trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày Tòa án thụ lý.
Như vậy, Thông tư này đã xác định vai trò độc lập xét xử của Tòa
án cho phép HĐXX căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa
để quyết định tội danh của bị cáo mà không phụ thuộc vào cáo trạng truy
tố của VKS. Sau thời gian dài thực hiện Thông tư nói trên thì lần đầu tiên
vấn đề giới hạn xét xử được quy định tại Điều 170 BLTTHS 1988 như
sau: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử". Quy định này đã làm
hạn chế nguyên tắc xét xử độc lập và xét xử đúng người, đúng tội, vì vậy,
đã có nhiều ý kiến kiến nghị từ phía Tòa án các cấp đề nghị sửa đổi.
Sau khi BLTTHS 1988 ban hành, để việc áp dụng pháp luật một
cách thống nhất về nội dung mà điều luật quy định, ngày 08/12/1988
TANDTC và VKSNDTC ban hành Thông tư liên ngành số 01/TTLN
hướng dẫn: “Các Tòa án không xét xử những người và những hành vi
chưa được VKS truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội
27
danh mà VKS truy tố”. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, qua nghiên cứu
các tài liệu chứng cứ mà trong quá trình điều tra, truy tố, Tòa án thấy cần
truy tố thêm người, thêm tội hoặc xét xử bị cáo theo một tội danh khác
nặng hơn, thì Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung và thay đổi bản
cáo trạng truy tố, trong trường hợp Tòa án đề nghị VKS thay đổi tội danh
nặng hơn và đã trao đổi mà VKS không nhất trí thì cả hai bên phải báo
cáo ngay lãnh đạo cấp trên cùng cấp của mình xin ý kiến chỉ đạo. Sau khi
có văn bản báo cáo của hai cơ quan cùng cấp dưới, lãnh đạo hai cơ quan
cùng cấp trên trao đổi thống nhất hướng xử lý. Trong trường hợp cả hai
cùng thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, trường hợp
không thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố, hoặc áp dụng khung
hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà VKS đã đề nghị, Tòa án không
phải báo trước cho VKS và những người tham gia tố tụng [61].
So với BLTTHS năm 1988, thì BLTTHS năm 2003 có quy định sửa
đổi, bổ sung vấn đề giới hạn của việc xét xử tại Điều 196 BLTTHS năm
2003: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Nội dung của quy
định bao gồm: Thứ nhất, Toà án chỉ xét xử những bị cáo mà VKS đã truy
tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.
Như vậy, giới hạn của việc xét xử không phải là lần đầu tiên được
đề cập đến trong BLTTHS năm 2015 mà đã được các BLTTHS trước đây
quy định rất cụ thể. Tuy nhiên các quy định như trên đã dẫn đến một số
khó khăn cho việc xét xử của Tòa án. Trên thực tế cũng đã có nhiều
trường hợp Tòa án thấy cần truy tố thêm người, thêm tội hoặc xét xử theo
tội danh khác nặng hơn đã trả hồ sơ để VKS tự mình bổ sung hoặc trả hồ
sơ để cơ quan điều tra điều tra bổ sung, VKS thay đổi nội dung cáo trạng.
28
Tuy nhiên, nếu VKS không nhất trí với đề nghị của Tòa án thì Tòa án vẫn
phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, dẫn đến nhiều bản án sơ
thẩm bị hủy. Để khắc phục bất cập nêu trên, điều 298 BLTTHS năm 2015
đã mở rộng giới hạn xét xử cho Tòa án, cụ thể như sau:
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS
đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ
hơn tội mà VKS đã truy tố.
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ
lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu
VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội
danh nặng hơn đó".
Giới hạn xét xử của Tòa án theo khoản 1 và khoản 2 điều 298
BLTTHS năm 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên như điều 196 BLTTHS
năm 2003, chỉ khác ở chỗ khoản 1 điều 298 BLTTHS năm 2015 đã
sửa “Tòa án chỉ xét xử …” trong quy định của BLTTHS 2003 thành “Tòa
án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và
Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử”.
2.2. Quy định về giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015
Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực đã đánh dấu một sự thay đổi
rất lớn về tư duy lập pháp và khắc phục được rất nhiều các hạn chế của
BLTTHS năm 2003. Một trong những sự thay đổi “đột phá” trong
BLTTHS năm 2015 đó là về giới hạn xét xử sơ thẩm. Quy định mới đã
cho phép Hội đồng xét xử “linh hoạt” hơn và bảo đảm tính độc lập của
Tòa án trong việc áp dụng pháp luật. Nội dung giới hạn xét xử được quy
định cụ thể tại Điều 298 BLTTHS như sau:
29
2.2.1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh
mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử
Về mặt hình thức BLTTHS năm 2015 đã bỏ khái niệm “Tòa án chỉ
xét xử…” trong quy định của BLTTHS năm 2003 thành quy định “Tòa án
xét xử…”. Như vậy, quy định mới đã mở rộng giới hạn xét xử của Tòa án:
Ngoài chủ thể là “những bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố” và “những hành
vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố” thì Hội đồng xét xử có quyền ra
quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu
qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Có thể
thấy quy định của BLTTHS năm 2003 đã xung đột với nguyên tắc của
pháp luật TTHS là khi xét xử “thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án. Điều này vô
hình chung cũng đã tạo ra sự không rõ ràng trong chức năng tố tụng của
các chủ thể tiến hành tố tụng. Việc thay đổi, bỏ từ “chỉ” đi theo quy định
của BLTTHS năm 2015 phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tinh thần cải
cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng
thời cũng tháo gỡ không ít khó khăn trong thực tiễn xét xử của Tòa án,
bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa
án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được
kiểm tra công khai tại phiên tòa.
Theo quy định của BLTTHS, sau khi CQĐT có bản kết luận điều tra
vụ án chuyển sang VKS đề nghị truy tố đối với người phạm tội và những
hành vi do họ thực hiện ra trước Tòa án có thẩm quyền để xét xử, VKS sẽ
xem xét để ra quyết định có truy tố hay không bằng một bản cáo trạng.
Cáo trạng là văn bản tố tụng thể hiện quan điểm chính thức của VKS về
tội danh của bị can, nhưng quan điểm trong cáo trạng không phải là cố
định mà hoàn toàn có thể thay đổi phụ thuộc vào kết quả xét hỏi, tranh
30
luận, kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, sự thay đổi quan điểm đó
thể hiện trong phát biểu luận tội của KSV tại tòa. Đồng thời cáo trạng là
văn bản tố tụng pháp lý để Tòa án làm căn cứ quyết định đưa vụ án ra xét
xử về những người và những hành vi của họ đã bị VKS truy tố. Sau khi ra
quyết định truy tố, nếu thấy có một trong những căn cứ theo quy định của
luật định thì VKS có quyền rút quyết định truy tố trước khi Tòa án mở
phiên tòa và đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án theo Điều 282
BLTTHS năm 2015.
Sau khi Tòa án tiếp nhận hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang truy tố
bằng một bản cáo trạng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm
phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa qua nghiên cứu toàn bộ các
tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn diện sẽ
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa quyết
định đưa vụ án ra xét xử không đồng nghĩa với việc Tòa án đồng nhất
quan điểm với VKS về tội danh, điều khoản của BLHS mà VKS đã truy tố
thể hiện trong bản cáo trạng. Vì quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm
phán - Chủ tọa phiên tòa là một văn bản tố tụng được thể hiện về quan
điểm của mình đối với vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mình và
có đủ căn cứ để đưa ra xét xử đối với những bị cáo và những hành vi đã bị
VKS truy tố. Mục đích của quyết định đưa vụ án ra xét xử là tạo điều kiện
để cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có đủ điều kiện thực
hiện các quyền của mình theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy,
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa chính
là cơ sở để Tòa án mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
những bị cáo và những hành vi của bị cáo đã bị VKS truy tố, và chỉ những
bộ cáo nào, những hành vi nào đã bị VKS truy tố được Thẩm phán - Chủ
31
tọa phiên tòa quyết định đưa ra xét xử thì Tòa án mới được phép xét xử
tại phiên tòa.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, khi ra quyết định truy tố
VKS phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết. Bản cáo trạng giúp
định hướng cho hoạt động bào chữa, bên bào chữa chỉ có thể bào chữa khi
biết nội dung cụ thể của sự buộc tội. Ngoài ra thì quyết định đưa vụ án ra
xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và
người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà, quy định
này tạo điều kiện giúp bị cáo và người tham gia tố tụng có điều kiện thực
hiện các quyền của mình như: đưa ra yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng... sau khi nhận được quyết định đó. Quy định này hướng đến
việc đảm bảo mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, đồng thời được ghi nhận cụ thể tại điểm c Khoản 2 Điều 60,
điểm a Khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 về các quyền của bị can, bị cáo
trong TTHS.
Bên cạnh đó có những trường hợp không được khởi tố vụ án hình
sự khi có một trong các căn cứ sau: Không có sự việc phạm tội; Hành vi
không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của
họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá;
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác; Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134,
135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS mà bị hại hoặc
người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
32
Để làm rõ nội dung của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm tại khoản
1 Điều 298 BLTTHS năm 2015 có thể phân tích làm rõ ở hai vấn đề như
sau:
Thứ nhất, xét về giới hạn xét xử đối với đối tượng bị truy tố: “Tòa
án xét xử những bị cáo mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án
ra xét xử”. Theo quy định của BLTTHS 2015, đối tượng bị VKS truy tố
theo quy định của pháp luật hình sự có thể là người (cá nhân) hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội (tổ chức). Do đó, giới hạn xét xử sơ thẩm của
Tòa án cũng đặt ra đối với người hoặc pháp nhân thương mại đã bị VKS
truy tố bằng quyết định truy tố. Trong trường hợp vụ án có đồng phạm, vì
lý do nào đó mà có người đồng phạm chưa bị VKS truy tố thì Tòa án cũng
không có quyền xét xử đối với những người đồng phạm còn bị bỏ lọt đó.
Còn đối với trường hợp nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa mà
HĐXX phát hiện ra tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra
thì HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự
theo đúng thẩm quyền quy định tại Điều 153 BLTTHS năm 2015.
Trường hợp thứ nhất, nếu chỉ có một người phạm tội và chỉ thực
hiện một hành vi khách quan thì giới hạn của việc xét xử được xác định
căn cứ vào hành vi mà người phạm tội thực hiện với hành vi mà VKS truy
tố về một tội danh được quy định trong BLHS và Toà án quyết định đưa
ra xét xử.
Ví dụ: A tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và giết người, nhưng
VKS chỉ truy tố A về tội giết người mà không truy tố A về tội tàng trữ trái
phép vũ khí trái phép thì Toà án không xét xử A về hành vi tàng trữ trái
phép vũ khí trái phép. Nếu Toà án thấy việc VKS không truy tố A về hành
vi tàng trữ trái phép vũ khí trái phép thì chỉ có thể quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung và yêu cầu VKS truy tố A về hành vi tàng trữ trái phép
33
vũ khí trái phép; trường hợp đã trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung mà
VKS vẫn không truy tố thì Toà án chỉ có thể kiến nghị trong bản án hoặc
kiến nghị bằng văn bản với VKS cấp trên trực tiếp để VKS cấp trên xem
xét việc không truy tố A về hành vi tàng trữ trái phép vũ khí trái phép mà
Toà án yêu cầu.
Trường hợp thứ ba, nếu chỉ có một người phạm tội và người này
cũng thực hiện nhiều hành vi khách quan và tất cả những hành vi khách
quan đó VKS chỉ truy tố về một tội, nhưng Toà án thấy trong các hành vi
mà VKS truy tố có hành vi cấu thành tội khác với tội mà VKS truy tố thì
Toà án được xét xử tất cả các hành vi mà VKS truy tố nhưng không được
kết án tất cả các hành vi đó về một tội và cũng không được kết án thêm tội
mà VKS không truy tố. Chẳng hạn: Nguyễn Thị Lanh bị VKSND quận
Hoàng Mai truy tố về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" vì đã 8 lần chiếm
đoạt của ông Trần Văn Kì số tiền 540.000.000đ, trong thời hạn chuẩn bị
xét xử hoặc tại phiên tòa, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên
tòa hoặc HĐXX qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án hoặc quá trình thẩm vấn công khai tranh tụng tại phiên tòa thấy
rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Lanh chỉ có 5 lần "Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản" với số tiền 400.000.000đ, còn lại 3 lần có hành vi "Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" với số tiền 140.000.0000. Thẩm phán được
phân công làm Chủ tọa phiên tòa trong thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc tại
phiên tòa HĐXX phát hiện được việc truy tố của VKS đối với Nguyễn Thị
Lanh là không đúng thì trả hồ sơ vụ án cho VKS để điều tra bổ sung để
thay đổi nội dung bản cáo trạng để truy tố Nguyễn Thị Lanh thêm tội
"Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", nếu sau khi trả hồ sơ để điều tra
bổ sung thay đổi nội dung bản cáo trạng mà VKS không đồng ý thay đổi
cáo trạng vẫn truy tố Nguyễn Thị Lanh như cũ, thì trong trường hợp này
34
HĐXX vẫn xét xử Nguyễn Thị Lanh cả 8 hành vi " chiếm đoạt tài sản"
của ông Kì nhưng trong đó chỉ có 5 hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền
400.000.000đ, đồng thời kiến nghị VKS cấp trên trực tiếp xem xét mà
không được tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Lanh không phạm tội "Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản" về số tiền 3 lần lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt của
ông Kì 140.000.000đ. Vì nếu tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Lanh không
phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" về số tiền 140.000.000đ của ông
Hùng và bản án có hiệu lực pháp luật thì không thể truy cứu trách nhiệm
hình sự Nguyễn Thị Lanh về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"
số tiền 140.000.000đ.
2.2.2. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố
Quy định của BLTTHS năm 2015 tiếp tục có sự kế thừa quy định
của BLTTHS năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành trước đó, thể
hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 11
năm 2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử
sơ thẩm” hướng dẫn trình tự xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn
thì cần thực hiện như sau:
Một là, trước hết cần xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm
cụ thể đó, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nghiêm khắc
hơn thì tội đó nặng hơn.
Năm là, trong trường hợp điều luật quy định các loại hình
phạt chính đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định
hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn.
35
Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà
Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát
truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó.
Nội hàm của quy định trên còn thể hiện cụ thể ở các vấn đề sau:
Thứ nhất,
Tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP
ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn: "2.1. Tòa
án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố
trong cùng một điều luật, có nghĩa là với những hành vi mà VKS truy tố,
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn
so với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật" [64]. Cụ thể
hai trường hợp như sau:
Một là, Điều này phù hợp với nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự. Về nguyên tắc thì việc xét xử bị cáo theo khung hình phạt nhẹ
hơn phù hợp với nguyên tắc có lợi cho bị cáo, đồng thời cũng phù hợp với
nguyên tắc "Thẩm phán, HTND độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp
luật", thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta.
Hai là, Trong trường hợp này, Tòa án đã xét xử hành vi của bị cáo
theo đúng tội danh mà VKS truy tố nhưng ở vào trường hợp phạm tội
nặng hơn trường hợp VKS đã truy tố và KSV không buộc tội bị cáo theo
khoản đó khi luận tội. Tuy nhiên, hiện tại quy định này đã dẫn đến hai
quan điểm trái chiều nhau. Quan điểm thứ nhất thể hiện sự đồng tình cho
rằng việc Tòa án được quyền xét xử hành vi của bị cáo theo khoản khác
(khung hình phạt khác) nặng hơn sẽ đảm bảo được nguyên tắc "Thẩm
phán, HTND độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” cũng như nguyên
36
tắc xác định sự thật của vụ án. Vì vậy, vấn đề này cần được nghiên cứu
và có sự hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.
Không được trả hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vì khi chưa
tiến hành tố tụng tại phiên tòa, thực hiện các thủ tục kiểm tra, đánh giá
chứng cứ, và các thủ tục tranh tụng theo quy định của pháp luật, thì
HĐXX chưa đủ căn cứ để xác định bị cáo có phạm tội theo khoản nặng
hơn hay không.
Ví dụ: VKS truy tố bị can A về 5 hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo khoản 2 Điều 174 của BLHS năm 2015. Theo quy định tại khoản 2
Điều 298 của BLTTHS năm 2015 thì Tòa án có thể xét xử bị cáo A về
5 hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản này theo khoản 1 hoặc theo khoản 3
hoặc cũng có thể xét xử theo khoản 4 Điều 174 của BLHS năm 2015 tùy
thuộc vào kết quả điều tra và kết quả đánh giá chứng cứ công khai tại tòa
cũng như phù hợp với quy định về thẩm quyền xét xử của tòa án.
Thứ hai, giới hạn xét xử đối với trường hợp Toà án có thể xét xử bị
cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
. Ngược lại, trường hợp Tòa án xét xử hành vi của bị cáo theo tội
khác nhẹ hơn tội mà VKS truy tố là phổ biến trong thực tiễn.
Hai là, nếu hành vi phạm tội của bị cáo không cấu thành tội danh
mà VKS đã truy tố hoặc chưa đủ căn cứ để kết án người phạm tội nhưng
Tòa án lại phát hiện hành vi khác của bị cáo có cấu thành tội danh bằng
hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS truy tố thì cũng không được xét xử hành
vi của bị cáo về tội danh này vì hành vi của bị cáo chưa bị VKS truy tố.
Chẳng hạn: VKS truy tố Nguyễn Văn A hai hành vi chiếm đoạt tài sản về
tội "Cướp tài sản" và tội "Cướp giật tài sản". Nếu qua xét xử công khai tại
phiên tòa HĐXX có đủ căn cứ hai hành vi của bị cáo A chỉ cấu thành tội
"Cướp giật tài sản” (Tội danh này nhẹ hơn tội danh cướp tài sản) thì
37
HĐXX có thể xét xử bị cáo A về tội "Cướp giật tài sản” đối với cả hai
hành vi phạm tội của bị cáo A cấu thành tội danh "Cướp giật tài sản" nhẹ
hơn hai tội VKS đã truy tố, hoặc HĐXX thấy có đủ căn cứ xác định hai
hành vi phạm tội của bị cáo A cấu thành một tội danh khác là tội "Cưỡng
đoạt tài sản" nhẹ hơn hai tội danh VKS truy tố thì Tòa án cũng có thể xét
xử bị cáo A về tội "Cưỡng đoạt tài sản" đối với cả hai hành vị phạm tội
của bị cáo A bị VKS truy tố.
Từ những phân tích trên mà trong quá trình xét xử, Tòa án cần chú
ý các thuật ngữ, so sánh giữa các điều luật quy định về các tội danh đó,
chứ không phải so sánh giữa các khoản về tội danh mà VKS truy tố với
các điều khoản về tội danh mà Tòa án định xét xử; bảo đảm các hành vi
của bị cáo đã bị VKS truy tố nhưng do VKS xác định tội danh không đúng
chứ không phải xét xử những hành vi chưa bị VKS truy tố; phân biệt khái
niệm "Tội nhẹ hơn hoặc tội nặng hơn" chứ không phải "Khoản nhẹ hơn
hay khoản nặng hơn", từ đó đảm bảo việc xét xử được đúng người, đúng
tội và đúng quy định.
2.2.3. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội
danh VKS đã truy tố
Sau gần 12 năm thi hành BLTTHS năm 2003 về giới hạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo quy định tại Điều 196 BLTTHS vẫn còn nhiều
bất cập trong vấn đề chưa cho Tòa án xét xử bị cáo theo tội danh khác
nặng hơn tội danh VKS truy tố. Xuất phát từ việc Tòa án không được xét
xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố cho nên để khắc
phục hạn chế này BLTTHS năm 2015 đã bổ sung mở rộng giới hạn xét xử
của Tòa án đảm bảo cho Thẩm phán và HTND thật sự độc lập khi tiến
hành xét xử mà không còn phụ thuộc vào tội danh mà VKS truy tố nữa và
38
đây cũng chính là điều góp phần vào việc Tòa án xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Cụ thể, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng hơn về giới hạn xét xử của
Tòa án, có nghĩa là Tòa án có thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh VKS đã truy tố nhưng với điều kiện khi xét thấy cần xử bị cao theo
tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, Tòa án phải trả hồ sơ
để VKS truy tố lại, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có
quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó. Việc BLTTHS năm 2015 bổ
sung quy định Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội nặng hơn là cần thiết,
không chỉ khắc phục được những vướng mắc, bất cập trong quy định của
BLTTHS năm 2003 mà còn bảo đảm nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa
án được Hiến pháp ghi nhận. Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS năm
2003 Toà án không được xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố là chưa thể hiện được việc đề cao kết quả tranh
tụng tại phiên toà như yêu cầu đã được xác định trong Nghị quyết số 08-
NQ/TWvà Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và cũng không phù
hợp với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật – một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Mặt khác, việc quy định Tòa án phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm
sát đã truy tố cũng không phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội; từ đó
có thể dẫn đến trường hợp vụ án không được xem xét một cách khách
quan, toàn diện vì khi xét xử, Hội đồng xét xử chỉ tập trung kiểm tra tài
liệu, chứng cứ xem bị cáo có phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố hay
không. Hơn nữa, theo quy định của BLTTHS khi thực hiện nhiệm vụ xét
xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu,
chứng cứ hoặc Tòa án tự mình kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ. Theo đó, Tòa án có thể thu thập được những tài liệu, chứng cứ
39
mới và với những tài liệu, chứng cứ thu thập được, căn cứ vào quy định
của Bộ luật hình sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án với tư cách
là cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp phải có đủ điều kiện để
phán quyết về việc bị cáo đã phạm một tội danh nặng hơn tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố.
Theo quy định tại khoản 3 điều 298 BLTTHS năm 2015 thì khi thực
hiện quyền xét xử theo tội danh khác nặng hơn tội danh VKS đã truy tố có
thể xảy ra hai trường hợp sau:
Thứ nhất, VKS thay đổi quyết định truy tố theo yêu cầu của tòa án.
Nếu việc Tòa án trả hồ sơ là có căn cứ, VKS có thể tự mình điều tra bổ
sung hoặc yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung. Nếu VKS không thể tự mình
điều tra bổ sung được thì ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung và
chuyển ngay hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra. Trường hợp kết quả
điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì
VKS phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét
xử theo tội danh nặng hơn đó. Điều này được hướng dẫn cụ thể tại TTLT
số 02/2017 về trả hồ sơ điều tra bổ sung như sau: “Trường hợp Tòa án trả
hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo phạm
tội khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì thực hiện như sau:
Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì VKS trả hồ sơ cho CQĐT để
điều tra bổ sung để thay đổi tội danh và kết luận điều tra về tội danh khác
nặng hơn. Trường hợp VKS đã yêu cầu mà CQĐT không thực hiện thì
VKS ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu CQĐT thực hiện theo
quy định tại Điều 156 và Điều 180 của BLTTHS.”
40
Thứ hai, VKS không thay đổi quyết định truy tố theo yêu cầu của
tòa án. Nếu VKS nhận thấy quyết định trả hồ sơ yêu cầu truy tố lại của
Tòa án là không có căn cứ thì VKS nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định
truy tố và chuyển hồ sơ lại cho Tòa án. Trường hợp này Tòa án có thể
kiến nghị lên VKS cấp trên để xem xét về việc truy tố theo tội danh nặng
hơn. Nếu VKS cấp trên vẫn giữ nguyên quan điểm thì Tòa án cấp sơ thẩm
có quyền xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn. Đây là một vướng mắc
trong thực tiễn cần có sự nghiên cứu, điều chỉnh của nhà làm luật. Bởi nếu
Tòa án có quyền xét xử về tội danh nặng hơn trong khi VKS không truy tố
bị cáo về tội danh nặng hơn đó sẽ vi phạm các nguyên tắc cơ bản của
TTHS, đó là nguyên tắc về đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo, nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, vô hình chung đã làm xấu đi
tình trạng của bị cáo trong tiến trình tố tụng, đi ngược lại với chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Tóm lại, nếu quyết định trả hồ sơ để truy tố lại theo tội danh khác
nặng hơn của Tòa án cần phải điều tra bổ sung mà VKS có thể tự bổ sung
được thì VKS tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
236, khoản 1 Điều 246 của BLTTHS; trường hợp không thể tự mình bổ
sung được thì VKS ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển
ngay hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra. Nếu quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ theo quy định tại các điều 3,
5 và 6 của Thông tư liên tịch này thì VKS có văn bản nêu rõ lý do giữ
nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra
xét xử theo quy định tại Điều 246 và khoản 3 Điều 280 của BLTTHS. Sau
khi có kết quả điều tra bổ sung, VKS xử lý như sau: Nếu kết quả điều tra
bổ sung không làm thay đổi nội dung cáo trạng trước đó thì VKS có văn
bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển hồ sơ đến Tòa
41
án; Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung cáo trạng
trước đó thì VKS ban hành cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến
Tòa án; Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì VKS ra
quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho CQĐT, Tòa án biết theo quy
định tại Điều 248 của BLTTHS.
Việc BLTTHS năm 2015 cho phép Tòa án xét xử bị cáo theo tội
danh nặng hơn so với tội danh mà VKS đã truy tố, theo khoản khác nặng
hơn với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật mà VKS là chưa
phù hợp, không bảo đảm nguyên tắc bào chữa của người bị buộc tội,
nguyên tắc nhân đạo, nhất là sẽ không bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong TTHS. Bởi lẽ: Về nguyên tắc thì bị cáo và người bào chữa chỉ thực
hiện việc bào chữa theo nội dung buộc tội của VKS. Giới hạn xét xử do
luật quy định là một trong những bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo, cho
nên khi Tòa án đưa ra phán quyết làm xấu đi tình trạng bị cáo tại phiên
tòa, thì các chủ thể bào chữa sẽ rơi vào thế bị động, không có cơ hội tranh
luận, cũng như không nên tranh luận về quan điểm buộc tội của Tòa án vì
việc này không phù hợp với mục đích bào chữa. Hơn nữa, khi bên buộc
tội và bên bào chữa không tranh tụng về tội danh nặng hơn thì Tòa án
cũng sẽ không có “kết quả tranh tụng tại phiên tòa” để quyết định về vấn
đề này. Việc làm xấu đi tình trạng của bị cáo là điều mà ngay cả VKS
cũng không được thực hiện tùy tiện.
Bên cạnh đó, quy định nêu trên mới chỉ giải quyết được trường hợp
vụ án thuộc thẩm quyền xét xử theo cấp của Toà án đã thụ lý hồ sơ vụ án
và có thể giải quyết được bất cập trong quy định tại Điều 196 BLTTHS
năm 2003, nếu Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là Tòa án cấp tỉnh. Bởi lẽ,
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền
xét xử những vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
42
nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy, trường hợp Viện kiểm
sát truy tố bị cáo về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng nhưng Tòa án cho rằng bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm t rọng nên
đã trả hồ sơ để viện kiểm sát truy tố lại. Theo quy định tại khoản 3 Điều
298 BLTTHS, nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu có quyền xét xử bị cáo về
tội danh đặc biệt nghiêm trọng đó. Trong trường hợp này, Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu chỉ cần thi hành đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử của Tòa án các
cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo.
Còn trường hợp này nếu xảy ra tại Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa
án quân sự khu vực thì không thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, nếu tội phạm mà Tòa án thấy cần xét
xử là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1
Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án
quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội ít
nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
Tại Công văn số 89/TANDTC-PC, ngày 30 tháng 6 năm 2020, Tòa
án nhân dân tối cao đã thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính và dân sự có giải thích
về quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS về giới hạn xét xử như sau:
Tuy nhiên, đối với các tội phạm khác nhau về khách thể thì có được
áp dụng quy định trên không?.
Ví dụ: Trong vụ án hình sự có 02 bị cáo, bị cáo A bị Viện kiểm sát
truy tố về tội: “Che dấu tội phạm”, bị cáo B bị truy tố về tội: “Giết người”.
Tòa án nhận thấy bị cáo A có dấu hiệu phạm tội: “Giết người” với vai trò
43
đồng phạm. Tòa án tiến hành trả hồ sơ để viện kiểm sát truy tố lại nhưng
Viện kiểm sát không thực hiện. Vậy, Tòa án xét xử bị cáo A về tội gì?
Khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Tòa án có quyền
xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn, quy định này được hiểu là bất kể tội
danh gì mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm nếu hành vi phạm tội của
bị cáo có đủ căn cứ kết tội họ. Do đó, trường hợp này Tòa án có thể xét xử
tội danh nặng hơn đối với các tội phạm khác nhau về khách thể như nêu
trên. Tuy nhiên, các Tòa án cần lưu ý bảo đảm quyền bào chữa, thành phần
Hội đồng xét xử và các quy định khác theo đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Có thể thấy, những quy định mới của BLTTHS năm 2015 phù hợp
với Hiến pháp năm 2013 và tinh thần cải cách tư pháp được thể hiện trong
các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng thời cũng tháo gỡ không ít khó
khăn trong thực tiễn xét xử của Tòa án, bảo đảm sự độc lập của Tòa án
trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét
hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên
tòa. Theo đó, không những Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác
mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, Tòa án còn có thể xét
xử bị cáo về tội danh nặng hơn sau khi Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát
truy tố lại nhưng không được chấp nhận. Quy định về giới hạn xét xử của
BLTHS năm 2015 mặc dù vẫn còn có điểm chưa nhận được sự đồng tình
của dư luận, của người nghiên cứu pháp luật, người hoạt động thực tiễn
(sẽ phân tích trong phần sau) nhưng về cơ bản đã giải quyết được những
vướng mắc trong thực tiễn tố tụng góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
44
người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đội phá của hoạt động tư pháp”.
45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương II của luận văn đã nghiên cứu thực trạng quy định pháp
luật về giới hạn xét xử theo quy định của BLTHS năm 2015 trong mối
quan hệ so sánh với quy định tương ứng trong các văn bản pháp luật trước
đây, nhất là quy định tại BLTTHS năm 2003. Qua nghiên cứu tác giả đã
đưa ra nhận xét và đánh giá thực trạng quy định của BLTHS năm 2015 về
giới hạn xét xử sơ thẩm nhận thấy vẫn còn những bất cập, những điểm
chưa phù hợp, chưa đầy đủ dẫn tới việc hiểu và áp dụng các quy định
pháp luật không rõ ràng, chưa thật sự hiệu quả. Việc nghiên cứu quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành (BLTTHS năm 2015) về giới hạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cơ sở để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp
dụng chế định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, kiến
nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS
cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả quy định về giới hạn xét xử của
Tòa án.
46
Chương 3
THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thi hành quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự
về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân Quận Hoàng Mai
3.1.1. Những kết quả đạt được
Quận Hoàng Mai là một quận thuộc Thành phố Hà Nội được thành
lập từ ngày 01/01/2004. Diện tích của quận Hoàng Mai là 4.104,1 ha.
Quận Hoàng Mai nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội. Phía đông
giáp huyện Gia Lâm. Phía tây và nam giáp huyện Thanh Trì. Phía bắc
giáp quận Thanh Xuân và quận Hai Bà Trưng. Trước đây Hoàng Mai vốn
là vùng đất thuộc huyện Thanh Trì. Quận Hoàng Mai hiện nay là một
quận có tốc độ đô thị hoá rất nhanh, với nhiều công trình nhà chung cư
cao tầng và các khu đô thị mới như: Linh Đàm, Định Công, Đền Lừ.
Trong những năm qua, TAND quận Hoàng Mai đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác của TAND hai cấp trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong bối cảnh tình hình tội phạm còn tiềm ẩn
những diễn biến phức tạp, các tranh chấp kinh doanh thương mại, khiếu
kiện hành chính có chiều hướng gia tăng; công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng được đẩy mạnh với việc khởi tố, điều tra, truy tố và
đưa ra xét xử nhiều vụ án kinh tế và tham nhũng.
Theo Báo cáo kết quả công tác năm 2020 và phương hướng, nhiệm
vụ công tác năm 2021 của TAND hai cấp thành phố Hà Nội (số liệu từ
ngày 01/10/2019 đến ngày 30/9/2020) thì ngoài nhiệm vụ xét xử, TAND
hai cấp thành phố Hà Nội trong đó có Tòa án Quận Hoàng Mai còn triển
47
khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước. Công tác xét xử của TAND quận Hoàng Mai đã được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật, chất lượng xét xử ngày càng nâng cao, có sự
tiến bộ rõ nét và luôn đạt được các chỉ tiêu công tác giải quyết các vụ án
hình sự đề ra của các năm. Việc giải quyết các vụ án trong thời hạn luật
định mà cụ thể trong công tác xét xử tòa án hai cấp luôn chú trọng việc
tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp nên đảm bảo việc
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, và chưa phát hiện trường
hợp nào Tòa án hai cấp kết án oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm,
hình phạt mà tòa án quận Hoàng Mai áp dụng đối với bị cáo đảm bảo
đúng pháp luật, đúng tội, đồng thời đáp ứng được yêu cầu trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm trên địa bàn quận. Để đạt được những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác xét xử theo tinh thần Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/11/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, TAND quận Hoàng Mai luôn quan
tâm đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh mà đặc biệt là nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp. Khi xét xử, Tòa án luôn cố gắng đảm bảo mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật một cách thật sự dân chủ, khách quan, thẩm
phán và HTND độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Việc phán quyết
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên
cơ sở đó HĐXX xem xét một cách đầy đủ toàn diện, khách quan vụ án
dựa trên các chứng cứ đã được thu thập và ý kiến của KSV, của người bào
48
chữa, của bị cáo, của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, của bị đơn dân
sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án để từ đó đưa ra
bản án, quyết định đúng pháp luật có tính thuyết phục, tạo sự đồng thuận
trong quần chúng nhân dân và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, TAND quận Hoàng Mai đã phối hợp chặt chẽ với cơ
quan Công an, VKSND tổ chức xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không kết án oan người không phạm tội
và bỏ lọt tội phạm; các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều có căn
cứ pháp luật: Hình phạt Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo
nghiêm minh, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đồng thời, TAND quận Hoàng Mai cũng tích cực tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật thông qua công tác xét xử lưu động và án điểm phối
hợp với các cơ quan tố tụng và chính quyền các địa phương.
Mặc dù quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn còn nhiều ý kiến
tranh luận và tồn tại những vấn đề cần nghiên cứu để hoàn thiện nhưng
trong suốt thời gian 5 năm qua quy định này đã được TAND quận Hoàng
Mai nhận thức và áp dụng tương đối thống nhất theo đúng quy định của
pháp luật và tinh thần cải cách tư pháp.
Theo số liệu thống kê của TAND quận Hoàng Mai, từ năm 2016
đến năm 2020, số lượng bị cáo/vụ án mà TAND quận Hoàng Mai đã xét
xử trên số lượng bị cáo/vụ án đã thụ lý là rất lớn nhưng có sự tăng giảm
không đều qua các năm.
Bảng 3.1. Tổng số bị cáo/vụ án TAND quận Hoàng Mai
thụ lý và xét xử từ năm 2016 đến năm 2020
Tổng số bị cáo/vụ án thụ lý Tổng số bị cáo/vụ án đã xét
xử
847/806 815/758 2016
49
998/964 916/897 2017
1.165/1.106 1.059/1.021 2018
1.148/1.087 1.011/995 2019
1.102/1.098 1.045/1.004 2020
5.260/5.061 4.846/4.675 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND quận Hoàng
Mai từ năm 2016 đến năm 2020)
Dưới đây là một số bảng thống kê tình hình thụ lý giải quyết các bị
cáo/vụ án hình sự của Tòa án quận Hoàng Mai liên quan đến việc thực
hiện quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử.
Bảng 3.2. Số vụ khi xét xử Tòa án thay đổi khung hình phạt nhẹ
hơn so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020
Năm Tổng số vụ án Số vụ tòa án xét xử áp dụng Tỉ lệ
đã xét xử khung hình phạt nhẹ so với VKS (%)
truy tố
758 2 0,26 2016
897 4 0,45 2017
1021 3 0,29 2018
995 5 0,5 2019
1004 2 0,2 2020
4.675 16 1,7 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND quận Hoàng
Mai từ năm 2016 đến năm 2020)
Đơn cử như vụ việc VKSND quận Hoàng Mai truy tố bị cáo Trần
Văn Sơn về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 BLHS. Tại
phiên tòa, KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử giữ nguyên
quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức phạt tù từ 4 đến 5 năm tù.
50
Tuy nhiên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HSST ngày 4/10/2018
của TAND quận Hoàng Mai sau khi xem xét một cách toàn diện, khách
quan vụ án và trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ, hồ sơ có trong vụ án và
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX đã quyết định chuyển khung hình
phạt từ khoản 3 Điều 134 BLHS sang khoản 2 Điều 134 BLHS để xử bị
cáo Trần Văn Sơn về tội “Cố ý gây thương tích” và xử phạt bị cáo 2 năm
tù.
Bảng 3.3. Số vụ khi xét xử Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng
hơn so với khung hình phạt VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020
Năm Tổng số vụ án Tỉ lệ (%)
đã xét xử
758 897 1021 995 1004 4.675 Áp dụng khung hình phạt nặng so với khung hình phạt mà VKS truy tố 0 2 3 1 0 6 0 0,22 0,29 0,1 0 0,61 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND quận Hoàng
Mai từ năm 2016 đến năm 2020)
Trên cơ sở các bảng số liệu nêu trên có thể thấy, tỉ lệ số vụ án Tòa
án xét xử theo tội danh khác, hoặc theo khoản khác với khoản mà VKS
quận Hoàng Mai đã truy tố chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng số vụ án đã xét
xử. Số vụ án Tòa án xét xử thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn, khung hình
phạt nặng hơn và thay đổi tội danh so với quan điểm truy tố của VKS luôn
dưới 1%, điều này cho thấy chất lượng truy tố của VKS khá cao, mối
quan hệ phối hợp giữa VKS và Tòa án chặt chẽ nên số vụ Tòa án quận
Hoàng Mai quyết định thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn so với VKS truy
tố chiếm tỉ lệ rất thấp. Đây là kết quả đáng ghi nhận trong việc áp dụng
chế định giới hạn xét xử sơ thẩm của TAND quận Hoàng Mai.
51
Bảng 3.4. Số vụ khi xét xử tòa án thay đổi tội danh
so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020
Năm Tổng số vụ án đã xét xử Thay đổi tội danh Tỉ lệ (%)
758 0 0 2016
897 1 0,11 2017
1021 1 0,1 2018
995 0 0 2019
1004 0 0 2020
4.675 2 0,21 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND quận Hoàng
Mai từ năm 2016 đến năm 2020)
Đơn cử như vụ án Phạm Văn Tài bị VKS truy tố về tội Cướp tài sản
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 168 BBLH. Tại phiên tòa xét xử bị
cáo Phạm Văn Tài, KSV giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức
hình phạt đối với bị cáo từ 7 đến 8 năm tù. Tuy nhiên tại bản án hình sự
sơ thẩm, TAND quận Hoàng Mai căn cứ vào quy định về giới hạn xét xử
tuyên chuyển tội danh cho bị cáo Phạm Văn Tài từ Cướp tài sản sang tội
Cướp giật tài sản và xử phạt bị cáo mức án là 5 năm tù. Sau khi xét xử sơ
thẩm, VKS kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên tội danh VKS
truy tố đồng thời tăng hình phạt tù đối với bị cáo. Bản án phúc thẩm sau
đó lại xét xử bác kháng nghị của VKS và giữ nguyên quyết định bản án sơ
thẩm đối với bị cáo Phạm Văn Tài.
Bên cạnh đó, khi các văn bản pháp luật được ban hành các cơ quan
có thẩm quyền đã có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho các cán bộ
tư pháp của TAND quận Hoàng Mai... để nắm bắt kịp thời và áp dụng
thống nhất pháp luật. Trình độ của các cán bộ làm công tác xét xử ngày
càng được chuẩn hóa. Quá trình bổ nhiệm các chức danh tố tụng có sự
52
quan tâm lựa chọn những người vừa có chuyên môn nghiệp vụ vừa có
phẩm chất đạo đức chính trị vững vàng kiên định đáp ứng được sự đòi
hỏi về trình độ dân trí ngày càng cao, do đó các cán bộ làm công tác tư
pháp phải triệt để tuân thủ đúng pháp luật, hạn chế thấp nhất tình trạng
oan sai xảy ra trong hoạt động xét xử.
Trong 05 năm từ 2016-2020, TAND quận Hoàng Mai thụ lý 5061
vụ án hình sự và đưa ra xét xử 4675 vụ án hình sự về các loại tội khác
nhau, đạt tỉ lệ 92,4%. Số vụ TAND quận Hoàng Mai quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung chiếm tỉ lệ không lớn và có xu hướng tăng giảm không
đều qua các năm, cụ thể: Năm 2016, có 12 vụ chiếm tỷ lệ 1,58%; Năm
2017 có 16 vụ chiếm tỉ lệ 1,78%; Năm 2018 có 20 vụ chiếm tỉ lệ 1,96%;
Năm 2019 có 8 vụ chiếm tỉ lệ 0,8%; Năm 2020 có 14 vụ chiếm tỉ lệ
1,39%. Số lượng vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án quận Hoàng
Mai trên tổng số vụ án đã được đưa ra xét xử chiếm tỉ lệ rất thấp, điều này
thể hiện hoạt động của CQĐT, VKS trên địa bàn quận Hoàng Mai đạt
hiệu quả cao, do đó tỉ lệ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là không lớn.
Bảng 3.5. Số liệu trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND
quận Hoàng Mai từ 2016-2020
Năm Tổng số bị cáo/vụ án thụ lý Tổng số bị cáo/vụ án đã xét xử
Tổng số trả hồ sơ tra điều bổ sung
Trả hồ sơ điều tra bổ do sung VKS đề nghị
847/806 998/964
815/758 916/897 1059/1021 1011/995 1045/1004 4846/4675 Trả hồ sơ điều tra bổ do sung Tòa án quyết định 12 16 20 8 14 70 2 1 1 2 3 9 14 17 21 10 17 79 2016 2017 2018 1165/1106 2019 1148/1087 2020 1102/1098 Tổng 5260/5061
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND quận Hoàng
Mai từ năm 2016 đến năm 2020)
53
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự từ năm 2016 đến năm
2020 Tòa án quận Hoàng Mai đã quyết định trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ
sung tổng số 70 vụ. Thực tế số vụ Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ
sung là 79 vụ, bao gồm cả trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung theo đề
nghị của VKS. Năm 2018 có số vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung cao nhất với
21 vụ. Năm 2020 có số vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung thấp nhất với 10 vụ.
Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thấy cần xét xử hành vi của bị cáo
theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố là 30 vụ, Trả hồ sơ điều
tra bổ sung 34 lần, kết quả điều tra bổ sung VKS thay đổi cáo trạng truy
tố lại theo tội danh mà Tòa án thấy cần xét xử đối với hành vi của bị cáo
là 21 vụ, VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố ban đầu nên Tòa án
Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tuyên án bị cáo phạm tội theo tội danh
VKS truy tố, đồng thời kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét lại bản án 9
vụ.
Ngoài ra, Tòa án quận Hoàng Mai còn xét xử theo tội danh mà VKS
rút một phần quyết định truy tố: Chẳng hạn, tại bản cáo trạng số
31/2017/VKS-CT-P1 ngày 29/10/2017 của VKSND quận Hoàng Mai đã
truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Bích về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 4 Điều 175 BLHS và tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” theo điểm c, khoản 2 Điều 174 BLHS. Căn cứ vào các tài
liệu chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa,
trên cơ sở tranh tụng tại phiên tòa KSV thực hành quyền công tố đã rút
một phần Quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo điểm e, khoản 2 Điều 174 BLHS và giữ nguyên Quyết định
quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Bích về tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 4 Điều 175 BLHS. Trên
cơ sở đó, tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 30/12/2017
54
của TAND quận Hoàng Mai xét xử chấp nhận việc rút truy tố của VKS
đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc Bích về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
đình chỉ vụ án đối với bị cáo về tội danh này và tuyên bố bị cáo Nguyễn
Thị Ngọc Bích phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” áp
dụng điểm a, khoản 4 Điều 175 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc
Bích 7 năm tù. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án không bị kháng cáo, kháng
nghị theo trình tự phúc thẩm và có hiệu lực thi hành.
Trên cơ sở tổng hợp các số liệu như đã nêu trên, từ thực tiễn xét xử
của TAND quận Hoàng Mai trong từng vụ án cụ thể có thể thấy phần lớn
TAND quận Hoàng Mai thống nhất với việc định tội danh của VKS. Tuy
nhiên vẫn còn một số vụ án việc định tội danh cũng như đánh giá tính
chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo của Tòa án khác so với cáo
trạng mà VKS truy tố liên quan đến giới hạn xét xử của Tòa án, thể hiện
mối quan hệ vừa phối hợp vừa chế ước hết sức chặt chẽ của Tòa án quận
Hoàng Mai với VKS.
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
3.1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc
Việc áp dụng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm theo quy định tại
Điều 196 BLTTHS năm 2003 và Điều 298 BLTTHS năm 2015 trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND quận Hoàng Mai trong
5 năm qua tuy đã đạt được những kết quả nhất định, tạo ra sự công bằng
cũng như việc nâng cao vị thế của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa
bàn quận Hoàng Mai, trong đó khẳng định được vị trí, vai trò của Tòa án
mà nổi bật nhất là Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng cũng như
những người tham gia tố tụng trong công cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm. Việc Tòa án xét xử những bị cáo và hành vi của những bị cáo
theo tội danh mà VKS truy tố dẫn đến tình trạng Tòa án thấy còn có đồng
55
phạm hay hành vi phạm tội khác hoặc tòa án thấy cần phải xét xử bị cáo
theo những tội danh khác nặng hơn, nhưng sau khi Tòa án trả hồ sơ cho
VKS để điều tra bổ sung nhiều lần (theo quy định của BLTTHS năm
2003) hoặc trả hồ sơ đề nghị truy tố lại (theo quy định của LTTHS năm
2015) nhưng VKS không chấp nhận cuối cùng Tòa án vẫn phải đưa vụ án
ra xét xử những bị cáo và những hành vi của bị cáo theo tội danh mà VKS
đã truy tố. Có những trường hợp chính HĐXX đã tự kiến nghị cấp có
thẩm quyền xem xét hủy bản án sơ thẩm do mình tuyên xử để điều tra lại
do vụ án trước đó tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần nhưng
VKS không chấp nhận thay đổi tội danh theo yêu cầu của Tòa án nên dẫn
đến bỏ lọt tội phạm, áp dụng luật hình sự không đúng. Như vậy, trong quá
trình tiến hành tố tụng áp dụng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm của
Tòa án cũng đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng dẫn đến tình trạng các Thẩm phán, Hội thẩm, KSV chưa thực hiện
tốt vai trò của mình, làm cho chất lượng xét xử của Tòa án còn những hạn
chế nhất định và nhiều vụ án bị kéo dài gây ra sự hoài nghi và bức xúc
trong xã hội.
Trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có những yếu tố tác động không
tích cực như: Nhiều thủ tục chưa được pháp luật tố tụng điều chỉnh hoặc
các quy định của pháp luật tố tụng mang tính chung chung, chồng chéo,
và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau trong thực tiễn áp dụng một thời
gian dài. Khi áp dụng pháp luật tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng quá
coi trọng các văn bản hướng dẫn, thậm chí cả công văn, ý kiến chỉ đạo
của cấp trên, mà thiếu quan tâm đến các quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật như các luật, bộ luật.
Bên cạnh đó, công tác phối hợp thực hiện quyết định trả hồ sơ để
truy tố lại trong trường hợp xét thấy cần đổi tội danh khác nặng hơn tội
56
mà VKS đã truy tố quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015
chưa thật sự được quan tâm đúng mức. Nhiều trường hợp Tòa án trả hồ sơ
cho VKS để truy tố lại khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo phạm tội
khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, nhưng khi thấy cần phải điều
tra bổ sung, VKS yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung để làm rõ thêm những
tình tiết của vụ án là cơ sở xem xét yêu cầu truy tố lại nhữngCQĐT không
thực hiện dẫn đến VKS phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ
án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu
cầu CQĐT thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 của
BLTTHS. Bên cạnh đó, việc VKS và CQĐT chưa phối hợp chặt chẽ ngay
từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình
điều tra vụ án đã gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình tố tụng và kéo
dài thời gian giải quyết vụ án.
Nếu có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định
tại các điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên tịch này hoặc phát sinh những
vấn đề mới, phức tạp mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa thì
HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của KSV quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung.
Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng
quy định về giới hạn xét xử vẫn tồn tại những hạn chế cần tìm ra nguyên
nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả xét xử trên thực tế.
3.1.2.2. Nguyên nhân
- Nguyên nhân trên phương diện lập pháp
Mặc dù BLTTHS năm 2015 ra đời có những bước tiến quan trọng,
tuy nhiên quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn chưa thật sự hoàn thiện
để Tòa án có thể độc lập xem xét vụ án để ra bản án theo đúng sự thật
khách quan và phù hợp với những tình tiết mà HĐXX đã xác định được
57
sau khi thẩm vấn công khai và tranh tụng tại phiên tòa. Mặt khác các quy
định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm cho phù hợp với tình hình, cụ
thể:
Thứ nhất, trong các văn bản pháp luật TTHS (BLTTHS) ở nước ta
đều không đưa ra khái niệm “giới hạn xét xử” mà chỉ liệt kê những việc
mà Tòa án được làm trong từng giai đoạn tố tụng và được thể hiện dưới
các thuật ngữ như “giới hạn xét xử sơ thẩm”, “phạm vi xét xử phúc
thẩm”, “phạm vi giám đốc thẩm”. Điều này tạo ra khó khăn nhất định
trong việc hiểu và áp dụng thống nhất pháp luật.
Thứ hai, việc luật cho phép Tòa án xét xử theo tội danh nặng hơn so
với tội danh mà VKS đã truy tố ngay cả khi VKS không chấp nhận đề
nghị truy tố lại về tội danh nặng hơn đó hoặc được xét xử theo khoản khác
nặng hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng điều luật mà
không có điều kiện cụ thể kèm theo là chưa thật sự phù hợp, không bảo
đảm đúng yêu cầu của nguyên tắc bào chữa của người bị buộc tội, nguyên
tắc nhân đạo, nhất là sẽ không bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
TTHS.
Thứ ba, vấn đề phân định chức năng buộc tội của VKS và chức
năng xét xử của Tòa án theo pháp luật TTHS hiện nay chưa thật sự rạch
ròi, cụ thể tại khoản 1 Điều 104 BLTTHS năm 2003 có quy định "HĐXX
ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua
việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội
mới cần phải điều tra" [43], hay tại khoản 1 Điều 167 BLTTHS 2003 có
quy định "Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản
của BLHS được áp dụng" [43]. Theo đó, Tòa án ôm đồm cả chức năng
buộc tội của VKS, còn VKS thực hiện một phần chức năng xét xử của Tòa
án. Đây là điều trái với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án và
58
VKS đã được Hiến pháp và các văn bản tố tụng khác ghi nhận. Chính vì
vậy, sự phân định rạch ròi và rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ giữa VKS
và Tòa án là một yếu tố rất quan trọng, làm căn cứ để quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phù hợp với mối quan hệ chế ước giữa
VKS và Tòa án trong hệ thống pháp luật TTHS.
Thứ tư, việc quy định Tòa án phải xét xử theo tội danh VKS truy tố
có thể hiểu là thừa nhận bị cáo có tội khi Tòa án chưa xét xử. Trong khi
đó, tại thời điểm VKS truy tố và kể cả khi HĐXX đã tuyên án tuyên bố bị
cáo phạm tội nhưng bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật thì bị cáo vẫn
được suy đoán vô tội.
- Nguyên nhân khác
Tinh thần đấu tranh phê phán cái sai, bảo vệ cái đúng của một số bộ
phận cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng chưa cao, bị giảm sút dẫn
đến thiên vị, làm sai lệch, bao che, vi phạm phẩm chất đạo đức lối sống có
biểu hiện tham nhũng tiêu cực nên đã ra những bản án quyết định chưa
phù hợp pháp luật, không được dư luận xã hội đồng tình, làm mất lòng tin
đối với các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa thực sự làm
đúng vai trò, trách nhiệm của mình tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, hoạt
động xét xử chưa đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp. Trong nhiều năm
qua việc xét xử của Tòa án nói chung và của Tòa án nhân dân Quận
Hoàng Mai nói riêng gần như ít có sự thay đổi, vẫn đi theo lối mòn cũ. Cụ
thể, tại phiên tòa xét xử, việc thẩm vấn làm rõ các hành vi phạm tội chủ
yếu là do Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thực hiện, việc xét hỏi của đại
diện VKS, người bào chữa còn hạn chế. Việc tranh tụng của bên buộc tội
là KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa chưa được chú trọng, vai
trò của luật sư, bào chữa viên nhân dân chưa được đề cao cho nên nhiều
59
vụ án đưa ra xét xử nhưng mọi vấn đề của vụ án đã được quyết định từ
trước nên dễ dẫn đến oan sai.
Thứ ba, về số lượng Thẩm phán và đội ngũ cán bộ chuyên trách còn
thiếu và yếu tố về trình độ năng lực, kỹ năng điều khiển phiên tòa của một
số Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa chưa thật hoàn thiện. Đa số cán bộ làm
công tác tư pháp trưởng thành từ thực tiễn, tuy có kinh nghiệm nhưng am
hiểu chung về các lĩnh vực của xã hội còn hạn chế cho nên khi nhận định
còn chủ quan và đưa ra phán quyết của mình về vụ án thiếu tính thuyết
phục. Trong những năm gần đây, lượng án mà TAND Quận Hoàng Mai
phải giải quyết ngày càng tăng, trung bình từ 8% - 10%/ năm trong khi đó
biên chế cán bộ của Tòa án Quận không được tăng, mà còn phải giảm.
Bên cạnh đó, với tính đặc thù là cơ quan xét xử trên địa bàn thủ đô,
TAND Quận thường phải giải quyết nhiều vụ án phức tạp, nhạy cảm,
được dư luận quan tâm, đòi hỏi phải có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng, chu
đáo cả về cơ sở vật chất và cán bộ nghiên cứu, giải quyết... dẫn đến tình
trạng quá tải đối với các Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị, mặc dù lãnh
đạo TAND Quận cũng đã thực hiện rất nhiều giải pháp để khắc phục.
Thứ tư, Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế
Cơ sở vật chất còn yếu kém chưa phục vụ đắc lực cho yêu cầu chức
năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ năm, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng
còn nhiều hạn chế, cụ thể: tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác còn thấp
so với nhu cầu cuộc sống sinh hoạt của đội ngũ cán bộ làm công tác tư
pháp đồng thời điểu kiện và phương tiện làm việc của các cơ quan bảo vệ
pháp luật cũng chưa theo kịp yêu cầu.
60
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt quy định về giới hạn
xét xử sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai
3.2.1. Giải pháp lập pháp
Trên cơ sở yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật tổ chức TAND 2014,
Luật tổ chức VKSND 2014 về chức năng, nhiệm vụ của TAND và
VKSND, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, sửa đổi Điều 298 BLTTHS 2015 về giới hạn của việc xét
xử. Cụ thể như sau:
Một là, sửa đổi về tên gọi của điều luật. Hiện nay quy định của pháp
luật Việt Nam ghi nhận hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc
thẩm. Đây là hai giai đoạn riêng biệt trong các giai đoạn của tố tụng hình
sự và được quy định ở hai chương khác nhau của BLTTHS. Tuy nhiên,
Điều 298 lại nằm ở chương XXI của BLTTHS quy định về xét xử sơ thẩm
nên nếu nhà làm luật muốn dùng một điều luật để điều chỉnh giới hạn xét
xử sơ thẩm và phúc thẩm thì đặt ở vị trí này là không hợp lý, vô hình
chung thu hẹp phạm vi áp dụng và dễ gâp hiểu lầm cho người áp dụng
pháp luật. Mặt khác, nội dung của Điều 298 BLTTHS 2015 đang điều
chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm. Bởi vì, theo Điều 345 BLTTHS thì Tòa
án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và chỉ
trong một số trường hợp mới xem xét phần khác của bản án. Hơn nữa, tại
khoản 3 Điều 298 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội
danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện
kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện
của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã
truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Quy
định việc cho phép Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát (VKS) để truy tố
61
lại chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm. Vì tại Điều 355 BLTTHS 2015 về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm thì không quy định quyền này. Như
vậy, có thể thấy, nội dung của Điều 298 chỉ điều chỉnh về giới hạn xét xử
sơ thẩm mà nhà làm luật lại đặt tên điều luật là giới hạn xét xử là chưa
phù hợp với nội dung điều chỉnh và vị trí của điều luật. Do đó, tác giả đề
xuất đổi tên Điều 298 từ “Giới hạn của việc xét xử” thành“Giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm”
Hai là, sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 298 cho thống nhất với
quy định tại các khoản còn lại của điều này. Có thể thấy sự chưa thống
nhất trong quy định giữa hai khoản trong cùng một điều luật. Khoản 1 của
điều luật quy định Tòa án xét xử những bị cáo và hành những hành vi
theo tội danh mà VKS đã truy tố. Còn khoản 2 lại cho phép Tòa án xét xử
về tội danh nhẹ hơn VKS truy tố là chưa thống nhất. Theo quy định của
pháp luật hình sự, Tòa án đóng vai trò là trọng tài chỉ xem xét những hành
vi mà VKS đã truy tố. Trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ, quá trình xét hỏi và
tranh luận thì mới định tội danh cho hành vi đó. Như vậy mới đảm bảo
được sự độc lập của Tòa án trong xét xử. Vì thế, tác giả đề xuất bỏ cụm từ
“tội danh” tại khoản 1 Điều 298 cho phù hợp với nguyên tắc độc lập xét
xử cũng như quyền được xét xử bị cáo theo tội danh khác tội danh mà
VKS truy tố tại Khoản 2 Điều 298. Chính vì những lý do đó, tác giả kiến
nghị sửa khoản 1 Điều 298 BLTTHS
Ba là, chỉnh sửa bổ sung khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015. Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015 thì việc Tòa án cấp sơ
thẩm được phép xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã
truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ
thẩm. Đó là trường hợp TAND cấp huyện hoặc TAQS khu vực đang là
Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị VKS truy tố về tội phạm ít
62
nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng hay tội phạm rất nghiêm trọng mà
xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội
nặng hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt
nghiêm trọng thì sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện
và Tòa án quân sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS
2015. Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự
thay đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội
đồng xét xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào
chữa. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo
quy định tại Điều 274 BLTTHS 2015. Tuy nhiên Điều 298 quy định về
giới hạn xét xử lại chưa quy định cách giải quyết cụ thể đối với vấn đề
này.
Bên cạnh đó, việc sử dụng thuật ngữ “cần” tại khoản 3 Điều 298
BLTTHS năm 2015 là chưa phù hợp. theo Từ điển Tiếng Việt, “cần” dưới
hình thức động từ được hiểu là “không thể không làm, không thể không
có, vì nếu không làm, không có thì sẽ có hại”. Còn theo quy định tại
khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 sử dụng từ “cần” theo hướng gây
bất lợi cho bị cáo (cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố) là chưa hợp lý về mặt từ ngữ tiếng Việt. Mặt khác,
cụm từ “cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn” trong quy định trên còn
cho thấy việc xét xử, định tội danh đối với bị cáo thể hiện ý chí chủ quan
của Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (khi chưa có quyết
định đưa vụ án ra xét xử) hoặc của Hội đồng xét xử (khi đã có quyết định
đưa vụ án ra xét xử) chứ không căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội. Việc
sửa đổi, bổ sung quy định này gíup khắc phục tính chủ quan của Thẩm
phán và Hội đồng xét xử trong quá trình xét xử mà còn phù hợp với thuật
ngữ khoa học pháp lý. Bởi vì, mỗi tội phạm đều khác các tội khác về đặc
63
điểm cấu trúc của bốn yếu tố của tội phạm (khách thể, chủ thể, mặt khách
quan, mặt chủ quan). Cấu thành tội phạm không chỉ là cơ sở pháp lý để
các CQTHTT truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn là căn cứ để xác định tội danh cũng như
khung hình phạt cần áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội
trong từng trường hợp cụ thể.
Từ phân tích trên, theo tác giả cần sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều
298 theo hướng đổi cụm từ “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội
danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố” thành cụm từ “
Trường hợp xét thấy hành vi của bị can, bị cáo phạm vào tội danh nặng
hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Sửa đổi bổ sung khoản 3 Điều
298 BLTTHS theo hướng nếu VKS nhất trí thì làm lại quyết định truy tố
chuyển lại hồ sơ cho tòa án và tòa án xét xử theo quyết định truy tố mới,
trường hợp VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì tòa án phải đưa vụ
án ra xét xử theo quyết định truy tố của VKS để bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng. Trường hợp tại phiên tòa xét xử, Hội đồng xét xử phát hiện có căn
cứ xác định hành vi của bị can, bị cáo phạm vào tội danh nặng hơn tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố hoặc khi KSV đề nghị HĐXX xét xử bị
cáo theo tội danh nặng hơn thì ra quyết định trả hồ sơ để VKS truy tố lại.
Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy tội danh nặng hơn đó vượt quá
thẩm quyền xét xử của mình thì phải trả hồ sơ vụ án cho VKS đã truy tố
để VKS chuyển vụ án cho VKS có thẩm quyền truy tố theo quy định tại
Điều 274 BLTTHS.
Bốn là, để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo cần bổ sung vào
Điều 298 một khoản (khoản 4) có nội dung quy định Tòa án phải thông
báo cho bị cáo biết về khoản khác (khung hình phạt khác) nặng hơn
khoản mà VKS đã truy tố hoặc tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS
64
đã viện dẫn trong quyết định truy tố mà bị cáo có thể xét xử để bị cáo
chuẩn bị việc bào chữa. Trường hợp khung hình phạt hoặc tội danh nặng
hơn bắt buộc phải có người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa mà bị cáo
không nhờ người bào chữa thì Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư, Trung tâm trợ
giúp pháp lý Nhà nước, UBMTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên
của mặt trận cử người bào chữa cho bị cáo theo đúng quy định của bộ luật
này. Trong trường hợp này cũng phải thực hiện theo đúng quy định khác
về thẩm quyền xét xử; cơ cấu số lượng thành viên HĐXX khi áp dụng
khung hình phạt khác nặng hơn và đảm bảo quyền bào chữa cho bị can,
bị cáo theo quy định.
Từ những lập luận trên đây, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều
298 BLTTHS năm 2015 như sau:
Điều 298. Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát
truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện
kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng
hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố
lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người
bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát truy tố lại theo đề nghị của tòa án thì
Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó nhưng trong quyết
định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố
lại. Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Sau
65
khi xét xử có thể kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên về việc Viện kiểm
sát cùng cấp truy tố không đúng tội danh.
4. Trước khi mở phiên tòa nếu xét thấy có thể xét xử bị cáo theo
khoản khác nặng hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng điều
luật tòa án phải thông báo trước cho bị cáo, người bào chữa của bị cáo.
Việc xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn hoặc tội danh nặng
hơn khoản hoặc tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố trước đó (trong
trường hợp viện kiểm sát truy tố lại theo đề nghị của tòa án) phải tuân
thủ các quy định về thẩm quyền xét xử, thành phần hội đồng xét xử và bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo theo quy định của Bộ luật này.
Thứ hai, sửa đổi các quy định có liên quan đến giới hạn xét xử của
Tòa án.
Một là, bổ sung quyền của KSV được đề nghị áp dụng khung hình
phạt khác nặng hơn khi luận tội cho phù hợp với quy định tại khoản 2
Điều 298 về giới hạn xét xử và bảo đảm giải quyết vụ án được khách
quan. Theo đó sửa đổi Điều 321 BLTTHS 2015 theo hướng bổ sung cho
KSV quyền đề nghị H ĐXX áp dụng khung hình phạt nặng hơn khung
hình phạt mà VKS đã truy tố nếu qua thẩm vấn công khai tại tòa thấy có
đủ căn cứ để áp dụng khung hình phạt nặng hơn.
Hai là, đề xuất phương hướng giải quyết việc KSV rút quyết định
truy tố tại phiên tòa theo hướng bảo đảm quyền công tố của Nhà nước
(công tố không buộc tội thì tòa án không xét xử), bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng bình đẳng giữa buộc tội và gỡ tội (Công tố không buộc tội thì
chấm dứt tranh tụng). Vì vậy, nếu KSV rút một phần quyết định truy tố,
tòa án chỉ xét xử phần còn lại của quyết định truy tố, rút toàn bộ quyết
định truy tố, tòa án phải đình chỉ việc xét xử. Theo đó, cần sửa đổi Điều
325 BLTTHS 2015 như sau:
66
Điều 325.
1. Khi KSV kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ
án.
2. Trường hợp KSV rút một phần quyết định truy tố thì HĐXX chỉ
xét xử phần không bị rút.
Ba là, cần bổ sung quy định về "Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm" tại điểm d khoản 1 Điều 255
Điều 255. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử ghi rõ
a) (giữ nguyên)
b) (giữ nguyên)
c) (giữ nguyên)
d. Tội danh và điểm, khoản, điều của BLHS mà VKS truy tố trước
đây và tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố lại cũng như khoản khác
nặng hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng điều luật.
...
Bốn là, bảo đảm sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án và VKS trong TTHS thật rạch ròi. Bởi mục đích và nhiệm vụ của
TAND và VKSND là thống nhất nhưng về chức năng của hai cơ quan
hoàn toàn độc lập và khác nhau: VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do
Nhà nước quy định, còn TAND thực hiện chức năng xét xử theo quy định
của pháp luật. Việc khởi tố VAHS là nhiệm vụ thuộc về chức năng buộc
tội, mặc dù nó chưa thể hiện việc buộc tội đối với một người cụ thể nào.
Nếu Tòa án vừa giữ chức năng xét xử, vừa có quyền khởi tố vụ án sẽ
không đảm bảo tính trung lập giữa hai chức năng xét xử và buộc tội. Do
đó, quy định hiện hành về trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ
67
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo Điều 15 và Tòa án có chức
năng khởi tố VAHS theo Điều 18, Điều 153 BLTTHS 2015 là chưa phù
hợp với chức năng của Tòa án trong TTHS là xét xử. Chính vì luật quy
định như vậy, nên hiện nay tại phiên tòa, HĐXX cũng tiến hành một số
hoạt động tố tụng để chứng minh tội phạm, ví dụ: HĐXX sẽ nhắc hoặc
công bố lời khai của bị cáo tại CQĐT nếu lời khai của họ tại phiên tòa có
mâu thuẫn với lời khai tại CQĐT, bị cáo không khai, vắng mặt hoặc đã
chết (Điều 308)... Để Tòa án trở về đúng vị trí là “cơ quan xét xử, cầm
cân nảy mực” và đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra bình
đẳng, khách quan thì cần sửa các điều luật dưới đây để phân định rõ ràng
các chức năng tố tụng, theo hướng loại trừ trách nhiệm của Tòa án trong
một số hoạt động có yếu tố buộc tội, cụ thể:
Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan có thẩm quyền
điều tra, VKS, người bị hại và người đại diện của người bị hại.
Điều 18. Trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, VKS có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các
biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội, pháp nhân phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định.
Điều 153. Thẩm quyền khởi tố VAHS
1. CQĐT quyết định khởi tố VAHS đối với tất cả vụ việc có dấu
hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
68
hành một số hoạt động điều tra, VKS, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải
quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
2. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
ra quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp quy định tại Điều 164 của
Bộ luật này.
3. VKS ra quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp:
a) VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố VAHS của CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
b) VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi
tố;
c) VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu
khởi tố của HĐXX.
4. HĐXX yêu cầu VKS khởi tố VAHS nếu qua việc xét xử tại phiên
tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
3.2.2. Giải pháp khác
Việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự phải đi đôi với việc đảm
bảo công tác cán bộ - tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,
bởi lẽ họ chính là những chủ thể tiến hành tố tụng. Nhân lực luôn là yếu
tố cốt lỗi đóng góp vào hiệu quả của việc xét xử, hay nói cách khác, điều
tất yếu để chất lượng xét xử, xác định thẩm quyền xét xử được nâng cao
thì đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân lực thật sự trong sạch, vững mạnh,
đủ về số lượng và giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Dưới góc độ cá
nhân, học viên xin đưa ra một số nội dung cụ thể nhằm thực tiện giải pháp
này như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyển chọn bổ sung lực lượng Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trên địa bàn quận Hoàng Mai, nhằm tranh
quá tải trong công việc. Khó khăn về nhân lực thiếu hụt là một trong
69
những vướng mắc hiện nay mà hệ thống Tòa án hai cấp quận Hoàng Mai
nói riêng và hệ thống Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra nói chung đang gặp
phải. Vì vậy vấn đề tuyển dụng công chức, cán bộ cần phải được đẩy
mạnh hơn nữa để đảm bảo số lượng biên chế của mỗi đơn vị trong thành
phố Hà Nội. Trong việc tuyển dụng phải tính tới việc tuyển dụng những
người tương lai sẽ trở thành những Thẩm phán thực hiện hoạt động tố
tụng mà chính vì vậy việc xem xét tổ chức xét tuyển dụng công chức với
các chính sách thu hút nhân tài trong cả nước, về tổ chức thi tuyển thì
phải đáp ứng được kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học,
có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng. Việc tuyển chọn
người dự tuyển cũng phải được thực hiện nghiêm túc, không lựa chọn
những người bị khiếm khuyết về thân thể, hạn chế nhận thức, không nói
lắp, nói ngọng. Hiện nay hệ thống các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa
án đều đã thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập là Trường Đại học/Học
viện để đào tạo chuyên sâu về từng ngành nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân
lực. Tuy nhiên, trên thực tế đang gặp phải một tình trạng khó giải quyết là
số lượng lớn cử nhân luật tốt nghiệp trường như Học viện Tòa án nhưng
chưa thể được tuyển dụng vào ngành Tòa án dẫn đến lãng phí một lượng
lớn nhân lực. Với những chính sách tinh giảm biên chế trong hệ thống các
cơ quan Nhà nước thời gian qua, bên cạnh những ưu điểm đạt được thì
cũng đang bắt đầu xảy ra bộc lột những nhược điểm đó là tạo ra khối
lượng công việc quá tải cho đội ngũ Thẩm phán tại Hà Nội nhưng các đơn
vị cũng không còn cách nào khác để tìm kiếm những lao động có thể giúp
đỡ họ trong việc giải quyết vụ án. Chính vì vậy, TAND tối cao nên xem
xét lại việc cho các đơn vị địa phương tự do trong việc tuyển dụng lao
động làm việc theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
17/11/2000 để phụ cho đội ngũ cán bộ tại các đơn vị trong thành phố Hà
70
Nội. Giải pháp này một mặt tạo cơ hội việc làm cho đội ngũ cử nhân luật
tốt nghiệp Học viện Tòa án nhưng chưa được tuyển dụng có cơ hội được
tiếp xúc dần dần với công việc tại các đơn vị, nâng cao được kinh nghiệm
chuyên môn cho bản thân một mặt cũng giúp cho đội ngũ Tòa án có thể
chuyên tâm hơn vào công việc của mình, từ đó làm tăng chất lượng xét
xử. Đồng thời kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội, TAND tối cao
khi phân bổ biên chế cho cho các đơn vị 2 cấp thành phố Hà Nội cần tính
tới đặc yếu tố đặc thù của Thủ đô Hà Nội thường rất nhiều án với tính
chất, mức độ phức tạp cao để phân bố chỉ tiêu biên chế phù hợp, góp phần
giúp Tòa án hai cấp thành phố Hà Nội hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ
được giao.
Riêng về đội ngũ Hội thẩm nhân dân hiện nay tại TAND quận
Hoàng Mai cũng cần phải chú trọng. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có
Hội thẩm nhân dân tham gia, đây là nội dung của nguyên tắc thực hiện
chế độ xét xử sơ thẩm có Hội thẩm tham gia được quy định trong
BLTTHS 2015. Trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thông thường,
Hội thẩm có quyền biểu quyết ngang với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vì
vậy, trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chính Hội
thẩm là chủ thể tham gia gián tiếp vào hoạt động xét xử. Vì vậy, TAND
quận Hoàng Mai cần lựa chọn những cá nhân am hiểu nhất định chuyên
sâu về pháp luật tố tụng hình sự, có kinh nghiệm thực tiễn trong việc xử
lý tội phạm, uy tín cao trong địa bàn thành phố sau đó mới đề nghị Hội
đồng nhân dân quận Hoàng Mai bổ nhiệm theo quy định của pháp luật.
Hai là, Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn là giải
pháp quan trọng trong việc cải thiện chất lượng hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán có phẩm chất đạo
đức tốt, trình độ chuyên môn cao là một yêu cầu cáp bách nhất trong giai
71
đoạn hiện nay của quận Hoàng Mai trước sự gia tăng nhanh chóng của tội
phạm.
Để thực hiện được điều đó hàng quý, hàng năm ngành Tòa án cần
có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, tập huấn thường xuyên cho đội ngũ công
nhân viên chức của các đơn vị trong thành phố, đặc biệt là TAND quận
Hoàng Mai. Nội dung tập huấn là việc đào tạo chuyên sâu về những quy
định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017, BLTTHS. Hiện nay mỗi
ngành đều đã có các đơn vị sự nghiệp công lập có chuyên môn giáo dục,
huấn luyện như đã kể trên, vì vậy để đảm bảo nội dung tập huấn thì các
ngành cần nâng cao hoạt động của các trường, học viện trong việc nghiên
cứu, xây dựng các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu về không chỉ là mà
còn là những kiến thức phục vụ cho công tác chuyên môn nói chung.
Đồng thời mỗi đơn vị phải thường xuyên tổ chức các cuộc họp
nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng
pháp luật trên thực tế từ đó tạo ra kinh nghiệm cho mọi người trong đơn
vị, là cơ hội để tổng hợp những khó khăn vướng mắc báo cáo với các Bộ,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, TAND tối cao về thực tiễn áp dụng pháp
luật.
Ngoài ra, công tác giáo dục tư tưởng chính trị cũng phải được chú
trọng. Như đã phân tích, các yêu cầu về chính trị xã hội có ảnh hưởng rất
lớn đến việc xác định giới hạn, thẩm quyền xét xử. Việc nhận thức những
chủ trương, đường lối của Đảng trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm không chỉ là trách nhiệm của các nhà làm luật trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật tiến bộ mà đó còn là trách nhiệm của chính những chủ
thể áp dụng những quy định pháp luật ấy. Vì vậy, hàng năm, các cơ quan
tiến hành tố tụng phải rà soát, lên danh sách cử các cán bộ đủ điều kiện
tham gia các lớp học bồi dưỡng chính trị trung cấp, cao cấp đảm bảo các
72
Nghị quyết, chỉ thị của Đảng có liên quan đến công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm được quán triệt kịp thời.
Tiếp tục tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm trong từng ngành và
liên ngành trên địa bàn Hoàng Mai. Đây được coi là giải pháp hữu hiệu để
mỗi Thẩm phán trên địa bàn có thể nhìn ra được những sai lầm của mình
trong việc giải quyết vụ án cũng như học tập thêm kinh nghiệm từ các
đồng nghiệp khác. Cần phải nhận thức rõ các phiên tòa rút kinh nghiệm
không phải chỉ mang tính hình thức, phong trào, thi đua chấm điểm trong
đội ngũ cán bộ mà phải hiểu rằng đó là hình thức quan trọng nhất để đánh
giá hoạt động thực tiễn của Thẩm phán tại phiên tòa cũng như tính chính
xác trong hoạt động tố tụng.
Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của cấp lãnh đạo trong công tác
tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành tại địa bàn quận Hoàng Mai. Cấp lãnh
đạo luôn giữ vai trò quan trọng trong bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào, họ
chính là trực tiếp quản lý và liên kết các thành viên trong đơn vị với nhau,
tạo ra sự vững mạnh của đơn vị cả về chuyên môn lẫn tổ chức. Cấp lãnh
đạo của mỗi đơn vị trong địa bàn quận Hoàng Mai cần phải thật sự gần
gữi và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ để bố trí sắp
xếp nhân lực vào từng công việc cụ thể một cách khoa học, tận dụng tối
đa ưu điểm và hạn chế nhược điểm của từng người, xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó,
chính cấp lãnh đạo là những người đi đầu trong việc trau dòi kiến thức,
đảm bảo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc kịp thời giải quyết
các khó khăn vướng mắc trong hoạt động xét xử nói riêng và hoạt động
điều tra, truy tố nói chung.
Ba là, giải pháp quan trọng nhất vẫn chính là sự nỗ lực cố gắng
ngày càng hoàn thiện bản thân của mỗi người tiến hành tố tụng tại TAND
73
quận Hoàng Mai. Mỗi chủ thể tố tụng phải nhận thức được tầm quan trọng
hoạt động mà mình đang thực hiện có ý nghĩa rất lớn đến các cá nhân
trong xã hội, chỉ cần việc giải quyết vụ án oan, sai có thể dẫn đến những
quyền, lợi ích của họ bị mất đi một cách đáng kể, đồng thời còn làm giảm
đi sự tin cậy của nhân dân, của cấp lãnh đạo dành cho họ. Vì vậy, mỗi cá
nhân phải tự mình tích cực rèn luyện, học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ trong việc giải quyết vụ án hình sự. Mỗi người phải cố
gắng nâng cao khả năng phân tích, tư duy logic để ứng biến được những
tình huống thực tế có thể xảy ra. Thường xuyên tự đánh giá kết quả định
tội danh sau mỗi vụ án, lắng nghe ý kiến đóng góp từ đồng nghiệp, từ dư
luận.
* Tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng cũng như quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trên địa bàn quận Hoàng Mai trong quá trình giải quyết vụ
án.
Để giới hạn xét xử sơ thẩm được đảm bảo thực thể theo đúng pháp
luật thì mối quan hệ phối hợp giữa TAND và VKSND quận Hoàng Mai
cần được củng cố và tăng cường một cách chặt chẽ bằng các giải pháp đó
là: Tăng cường phối hợp trong việc xây dựng các qui phạm pháp luật hình
sự và TTHS, phối hợp ban hành các thông tư liên ngành, liên tịch để kịp
thời hướng dẫn thi hảnh chi tiết các quy định của pháp luật trong hoạt
động TTHS. Tăng cường trao đổi thống nhất quan điểm về áp dụng pháp
luật trong các vụ án mà TAND và VKSND quận Hoàng Mai còn bất đồng
trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
* Tăng cường cơ sở vật chất – nâng cao điều kiện làm việc cho các
cơ quan tiến hành tố tụng
74
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của yêu cầu cải cách tư pháp
là việc xây dựng môi trường làm việc thoải mái, phù hợp, tạo điều kiện
cho các chủ thể tiến hành tố tụng có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình. Ngoài ra yêu cầu về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, từng bước hiện đại hóa trình tự, thủ tục tố tụng hình sự cũng
đang được quan tâm. Do đó, để nâng cao thẩm quyền, giới hạn xét xử thì
giải pháp pháp cải thiện cơ sở vật chất và phương tiện làm việc ở các cơ
quan tiến hành tố tụng của thành phố Hà Nội cũng phải được đầu tư thích
hợp.
Thứ nhất, tiếp tục kiến nghị với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội quan tâm sớm đẩy nhanh tiến độ thực hiện hỗ trợ
đầu tư, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, mở rộng trụ sở các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, TAND quận Hoàng Mai theo quy hoạch các cơ quan tư
pháp đã dược thành phố xem xét, phê duyệt.
Thứ hai, tiếp tục kiến nghị đầu tư trang thiết bị làm việc, hỗ trợ
kinh phí để thực hiện công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
nói chung, những vụ án lớn, phức tạp nói riêng, kinh phí để tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án quận Hoàng Mai. Đồng thời cần lên những kế hoạch
nhằm ứng phó với tình hình dịch bệnh Covid-19 như hiện nay, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ giải quyết vụ án, cần có những phương án
dự trù khi dịch bệnh quay trở lại, đảm bảo công tác khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vẫn đảm bảo đúng thời hạn, từ đó làm giảm khối lượng công
việc đang tồn động rất nhiều trong năm 2020.
Thứ ba, cùng với việc hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị
thì cũng cần phải quan tâm, chăm sóc đến chế độ lương bổng của Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đảm bảo thu nhập và điều kiện sống của
75
họ khi làm sinh sống và làm việc tại địa bàn quận Hoàng Mai. . Xây dựng
thêm nhiều cơ chế đặc thù trong từng ngành hoặc liên ngành nhằm khen
thưởng, phụ cấp thích đáng đối với cán bộ có nhiều thành tích tốt, đạt
hiệu quả cao trong công tác xét xử nói riêng và công cuộc phòng chống
tội phạm nói chung.
Trong năm 2021, TAND quận Hoàng Mai cần tiếp tục triển khai
thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư
pháp và cải cách tư pháp, đặc biệt chú trọng quán triệt Nghị quyết 10 Đại
hội Đảng các cấp và Nghị quyết của Ban Cán sự đảng TAND tối cao về
lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm công tác
năm 2021 của các Tòa án. Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, bảo
đảm xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt
tội phạm cũng như việc vi phạm thời hạn tạm giam trong quá trình chuẩn
bị xét xử; việc xử phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo, áp dụng hình
phạt khác không phải là hình phạt tù phải đảm bảo có căn cứ, đúng pháp
luật. Đẩy nhanh tiến độ, đưa ra xét kịp thời, nghiêm minh các vụ án tham
nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp và các vụ án dư luận xã hội quan
tâm; áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu,
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số
lượng lớn tài sản nhà nước.
76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 của luận văn đã làm rõ thực trạng thi hành quy định của
pháp luật TTHS về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND quận
Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng. Việc áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong hoạt động xét xử của TAND quận Hoàng Mai thời gian qua
tuy đã đạt những kết quả nhất định, tạo được sự công bằng cũng như nâng
cao vị thế của các cơ quan bảo vệ pháp luật khẳng định vai trò của Thẩm
phán trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến những hạn chế này là do hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật TTHS nói riêng của nước ta chưa thực sự đáp ứng các yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, bảo
đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Bên cạnh việc
chỉ ra những kết quả đạt được, đánh giá những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc trong việc áp dụng quy định
về giới hạn xét xử sơ thẩm luận văn đã kiến nghị hai nhóm giải pháp về
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định về giới hạn xét xử của Tòa án đó là: giải pháp lập pháp và các giải
pháp khác.
77
KẾT LUẬN
Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét xử sơ thẩm là
một yêu cầu cần thiết để thực hiện mục đích của TTHS là giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, đầy đủ. Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi cần có sự
phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng.
Luận văn đã giải quyết được ba vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về giới hạn xét
xử sơ thẩm hình sự trên cơ sở tham khảo các quan điểm khác nhau luận
văn đã đưa ra được khái niệm về “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự”; xác
định được các đặc điểm của giới hạn của việc xét xử; cơ sở của việc quy
định cũng như ý nghĩa của giới hạn xét xử hình sự;
Thứ hai, nêu và phân tích được quy định của pháp luật TTHS hiện
hành về giới hạn xét xử sơ thẩm trong sự so sánh với quy định về giới hạn
xét xử sơ thẩm trong các văn bản pháp luật TTHS trước đây để đưa ra
nhận xét đánh giá thực trạng pháp luật TTHS về giới hạn xét xử sơ thẩm;
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định về giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, luận văn đã
chỉ ra được những điểm hợp lý cũng như những điểm còn hạn chế, bất cập
trong quy định của điều luật quy định về giới hạn xét xử cũng như một số
quy định có liên quan khác khi áp dụng vào thực tiễn. Trên cơ sở đó luận
văn đề xuất thêm một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về giới hạn xét xử sơ thẩm, tổ chức cán bộ và một số giải pháp khác
nhằm góp phần hoàn thiện BLTTHS góp phần nâng cao hiệu quả xét xử
của Tòa án cũng như thực hiện công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và
Nhà nước đề ra.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thị Ánh (2007), Giới hạn xét xử trong TTHS, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội.
2. Trương Hòa Bình (2015), “Một số định hướng chung, cơ bản sửa đổi,
bổ sung BLTTHS..", Tạp chí TAND số 05/2015, tr 1-7,4.
3. Trương Hòa Bình (2015), “TAND - 70 năm vững bước dưới lá cờ vẻ
vang của Đảng cộng sản Việt Nam”, Tạp chí TAND số 17/2015,tr 3-
17
4. Hổ Quốc Bình (2016), Giới hạn xét xử theo pháp luật TTHS Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện KHXH.
5. Dương Thanh Biểu (2008), "Những định hướng cơ bản về việc sửa
đổi, hoàn thiện BLTTHS theo định hướng cải cách tư pháp", Tạp chí
Kiểm sát (số 3). 6. Mai Bộ (2008), “Lại bàn về giới hạn của việc xét
xử”, Tạp chí TAND, (số 21), tr. 11-15, 10.
6. Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa-Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (2010), “Những vấn đề cơ bản về tổ chức thực hiện
quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam”, Tạp chí TAND số 13/2010tr 2-8.
8. Mạc Giang Châu (2006), Giáo trình Luật TTHS, Trường Đại học Cần
Thơ, Cần Thơ
9. Nguyễn Ngọc Chí (2003), “Tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyển”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, (số11).
10. Nguyễn Đức Cường (2001), “Giới hạn xét xử của Tòa án theo Điều
170 Bộ luật tó tụng hình sự”, Tạp chí TAND số 12/2001.
79
11. Lê Nữ Ngọc Diệp (2016), “Về hoạt động xét xử ở Việt nam giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí TAND (số 20), tr.29-32, 12
12. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách đến năm 2020, Hà
Nội.
15. Trần Văn Độ (2000), “Hoàn thiện quy định của pháp luật về "Giới
hạn xét xử"", Tạp chí TAND, (số 3), tr. 1-3
16. Vũ Công Giao (2015), “Quyển được suy đoán vô tội theo Luật nhân
quyền quốc tế và những gởi mở cho việc sửa đổi BLTTHS Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 5), tr 70-79.
17. Phạm Hồng Hải (1998) "Bản thêm về giới hạn của việc xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Luật học, (số 4).
18. Phạm Hồng Hải (1998),"Hoàn thiện mối quan hệ tố tụng giữa VKS
và Tòa án cung cấp trước và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm", Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật (số 11).
19. Phạm Hồng Hải (2003), "Bảo đảm thực hiện nguyên tắc "Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật (số 5).
20. Hoàng Văn Hạnh (2003), "Giới hạn xét xử của Tòa án", "Kỷ yếu
khoa học giới hạn xét xử trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý
luận và thực tiễn", Trường Đại học Luật Hà Nội.
80
21. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Vấn đề giới hạn xét xử của TAND”, Tạp
chí TAND, (số 8), tr. 1-5
22. Nguyễn Văn Huyên (1999), "Những căn cứ để quy định giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Luật học, (số 2), tr. 45-
48, 52
23. Nguyễn Văn Huyên (2003), "Một số vấn đề về giới hạn xét xử", Tạp
chí Luật học (số 6), tr.47-51
24. Nguyễn Mạnh Kháng (2003), “Cải cách tư pháp và vấn để tranh
tụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 10)
25. Vũ Gia Lâm (1997), “Về giới hạn xét xử của Tòa án”, Tạp chí luật
học (số 10), tr. 46-51
26. Vũ Gia Lâm (2010), “Bản về tính chất xét xử sơ thẩm và thời điểm
bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật”, Tạp chí TAND (số
2), tr.34-38, 46 Nguyễn Đức Mai (1995), “Chức năng của VKS trong
TTHS”, Tạp chí Luật học (số 4)
27. Phan Thanh Mai (2003), “Bản về nguyên tắc không làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo”, Tạp chí Luật học (số 3)
28. Nguyễn Hoài Nam (2010), “Thực trạng và hướng hoàn thiện chức
năng xét xử của Tòa án trong BLTTHS 2003”, Tạp chí Luật học (số
16), tr. 18-22
29. Nguyễn Thái Phúc (2003), “Vấn đề giới hạn xét xử trong TTHS”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 11), tr. 40-59
30. Phạm vũ Ngọc Quang (2003), “Giới hạn của việc xét xử theo quy
định của BLTTHS 2003”, Tạp chí Kiểm sát (số 12), tr.30-31, 36
31. Đinh Văn Quế (1999), “Bản về giới hạn xét xử sơ thẩm”, Tạp chí
Luật học (số 11)
81
32. Đinh Văn Quế (2006), “Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử”,
Tạp chí Kiểm sát (số 4), tr. 26-30, 35
33. Đinh Văn Quế (2011), “Phương hướng hoàn thiện các quy định của
BLTTHS về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Tạp chí TAND (số
14), tr. 7- 18 36. Quốc hội (2009), BLHS nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Hà Nội
34. Quốc hội (1988), BLTTHS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Hà Nội
35. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội
36. Quốc hội (2001), Hiến pháp (Sửa đổi, bổ sung, Hà Nội
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Hà
Nội
38. Quốc hội (2002), Luật tổ chức TAND,
39. Quốc hội (2002), Luật tổ chức VKSND, Hà Nội
40. Quốc hội (2003), BLTTHS, Hà Nội
41. Quốc hội (2004), BLTTHS và những văn bản hướng dẫn thi hành,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
42. Quốc hội (2004), BLTTHS 2003 và những văn bản liên quan, Nxb
Tư pháp, Hà Nội
43. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội
44. Quốc hội (2014), Luật tổ chức VKSND, Hà Nội
45. Quốc hội (2015), BLHS, Hà Nội
46. Quốc hội (2015), BLTTHS, Hà Nội
47. Giang Sơn (1997), “Một số ký kiến về giới hạn xét xử của Tòa án”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 6)
48. Hồ Sỹ Sơn (2005), “Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và VKS
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật (số 2), tr. 63-68
82
49. Hoàng Minh Sơn và Vũ Quang Huy, “Kiến Nghị Sửa đổi Điều 196
BLTTHS 2003 về Giới hạn của việc xét xử”, Tạp chí TAND (số 14)
50. Hoàng Thị Minh Sơn (1996), “Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Luật
học (số 5)
51. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Bản về việc áp dụng điều 196
BLTTHS”, Tạp chí TAND (số 1), tr. 31-32, 47
52. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Những hạn chế trong quy định của
BLTTHS về giới hạn xét xử sơ thẩm”, Tạp chí TAND (số 20), tr. 12-
16
53. Vũ Mạnh Thông (2009), Bình luận khoa học BLTTHS, Nxb Lao
động - xã hội, Hà Nội
54. Trần Văn Tín (1997), Giới hạn xét xử trong tổ tụng hình sự, Luận
văn thạc sĩ Luật học trường Đại học luật Hà Nội
55. Nguyễn Thương Tín (2009), “Một số vấn đề về vai trò của Tòa án
trong trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện
cải cách tư ph. 208 Tạp chí TAND (số 1), tr. 10-21
56. Nguyễn Văn Tuân (1998), “Quyền bảo chữa và giới hạn xét xử”, Tạp
chí dân chủ và pháp luật (số 7)
57. TAND quận Hoàng Mai (2016-2020) Báo cáo thống kê tình hình thụ
lý và giải quyết các vụ án hình sự (Văn phòng).
58. TANDTC (1988), Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 8 tháng 12
năm 1988 Hướng dẫn thi hành BLTTHS 1988, Hà Nội
59. TANDTC (1974), Thông tư số 16-TATC ngày 27 tháng 7 năm 1974
của TANDTC hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
Hà Nội
60. TANDTC (1996), Hệ thống hóa về TTHS, Hà Nội
83
61. TANDTC (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5 tháng 11
năm 2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS
2003, Hà Nội
62. TANDTC (2009), Báo cáo tổng kết công tác TAND năm 2009, Hà
Nội 66. Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng
63. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
64. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa, Tư pháp, Hà Nội
65. Nguyễn Văn Tuân (2010), “Quyền hạn của Tòa án trong trường hợp
VKS nút quyết định truy tố”, Tạp chí TAND (số 8), tr. 19-24
66. VKSND tối cao (2015), Bảo cáo số 11/BC-VKSTC ngày 19 tháng 01
năm 2015 Tổng kết thực tiễn 10 thi hành BLTTHS 2003, Hà Nội
67. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý thuận chung về định tội danh,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
68. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Bình luận khoa học bộ luật tổ
tụng hình sự.
84