VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KIM SA PHA
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH SÓC TRĂNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, NĂM 2020
Địa điểm, năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KIM SA PHA
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH SÓC TRĂNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Kim Sa Pha – Học viên lớp cao học Luật, Khóa 9 đợt 2 năm
2018 của Học viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, xin cam đoan
Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn chưa được công bố, các tài liệu trích dẫn và ví dụ trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, trung thực từ thực tiễn xét xử tại địa phương tỉnh Sóc
Trăng.
Vì vậy, đề nghị Học viện và Hội đồng xem xét, chấp thuận để tôi có thể
bảo vệ Luận văn của mình, kính trình trước Hội đồng.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Người cam đoan
Học viên Kim Sa Pha
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA
TÚY……………………………………………………………………07 – 38.
1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy……………...
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán trái
phép chất ma túy…………………………………………………………........
1.3. Định tội danh các tội mua bán trái phép chất ma túy……………………..
Kết luận chương 1……………………………………………………………..
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI TỈNH
SÓC TRĂNG…………………………………………………………39 – 74
2.1. Dấu hiệu pháp lý của định tội danh và trách nhiệm hình sự tội mua bán trái
phép chất ma túy
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy……………………………………………………………………………….
Kết luận chương 2……………………………………………………………….
CHƯƠNG 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY………………………………………………………75 – 87
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy………………………………………………..........................
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy ……………………………………………………….
Kết luận chương 3……………………………………………………………….
KẾT LUẬN……………………………………………………………………..
PHỤC LỤC……………………………………………………………………..
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy ngày nay đang là vấn đề mang tính toàn cầu và là mối lo ngại
chung của các quốc gia trên toàn thế giới. Vấn đề tệ nạn và tội phạm về ma túy
đã và đang trở thành hiểm họa lớn của nhân loại, để lại những hậu quả nghiêm
trọng về trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng và kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội không chỉ ở Việt Nam, mà khắp ở năm châu. Nghiện ma túy là
một trong những nguy cơ làm băng hoại đạo đức, xói mòn thuần phong, mỹ
tục đã được xây đắp, gìn giữ từ ngàn đời nay và nguy hại hơn là làm suy thoái
nòi giống dân tộc. Tuy nhiên, người nghiện ma túy chỉ là nạn nhân của những
kẻ gieo cái chết trắng, vì siêu lợi nhuận bất chính từ hoạt động mua bán ma túy
mà những tội phạm ma túy bất chấp pháp luật, bất chấp tội ác mà chúng đem
đến cho xã hội.
Từ công tác xét xử các vụ án hình sự về tội phạm ma túy cho thấy, hiện
nay Tòa án các cấp (Sơ thẩm, Phúc thẩm) còn gặp nhiều khó khăn, chưa có sự
thống nhất trong định tội danh và áp dụng hình phạt đối với các tội phạm về
ma túy. Trong giai đoạn qua, tình hình tội phạm về ma túy trên thế giới nói
chung và Việt Nam có sự biến đổi cả về số lượng và tính chất các vu ̣án, số đối
tượng và số lượng ma túy, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng đến
an ninh, trật tự chung của xã hội cũng như sức khỏe của cộng đồng, người dân
với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Trong quy định của
pháp luật hình sự hiện hành có khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu hiệu
thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thường dễ bị
lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu chính xác. Bên
canḥ đó, các quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đều có các ý kiến đề nghị sửa đổi các tội
phạm về ma túy, điều đó cho thấy xung quanh tội này còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tiếp tục trao đổi, nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn để hoàn
thiện hơn nữa các tội phạm về ma túy, tạo điều kiện cho việc định tội danh
được chính xác, cũng như trong vấn đề áp dụng hình phạt đối với loại tội phạm
này. Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn có
quan điểm nhận thức khác nhau trong định tội danh, áp dụng hình phạt đối với
loại tội phạm mua bán trái phép chất ma túy dẫn đến sai lầm trong đường lối
giải quyết vụ án. Trong thời gian 05 năm (2015 – 2019), Tòa án sơ thẩm các
huyện trong tỉnh Sóc Trăng đưa ra xét xử 119 vụ án hình sự về tội phạm ma
túy, trong đó có 42 vụ án là tội mua bán trái phép chất ma túy, có 14 vụ án bị
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm nhưng không có trường hợp nào được hưởng
án treo, cải tạo không giam giữ…. Đa phần, đối với loại tội phạm về ma túy thì
các Tòa án xử phạt nghiêm hoặc nặng. Đó cũng là vấn đề cần suy ngẫm trong
việc thực hiện chính sách hình sự, chính sách nhân đạo, công bằng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy nói riêng và đặc biệt là diễn
biến tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn 2015 đến
năm 2019 luôn gia tăng và phức tạp. Thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Sóc Trăng đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Bên cạnh những thành tích đạt được
còn những trở ngại, khó khăn, nhất là những khó khăn, vướng mắc vi phạm,
sai lầm dẫn đến tình trạng định tội danh không chính xác, gây bức xúc cho xã
hội cần được khắc phục.
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học: “Tội mua bán trái
phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm phổ biến và nguy hiểm
nhất trong các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, ngày càng
có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, trong số đó có thể kể đến,
như các luận văn “ Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Thành Tất; “Chứng
minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn
Văn Dũng” “Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng”
của tác giả Nguyễn Văn Huấn; Các luận văn đã được bảo vệ thành công tại
Học viện khoa học xã hội các năm 2018 – 2019.
Trong những năm gần đây, Tội phạm mua bán trái phép chất ma túy có
tính chất phạm tội ngày càng nguy hiểm, phức tạp, phương thức, thủ đoạn
phạm tội ngày càng tinh vi, tổ chức chặt chẽ hơn, số lượng ma túy tội phạm
mua bán ngày càng tăng so với gia đoạn trước, có nhiều loại ma túy mới xuất
hiện trên thị trường mà văn bản pháp luật của Nhà nước chưa kịp thời điều
chỉnh bổ sung, xác định những chất ma túy mới. Vì vậy, khi chọn đề tài “ Tội
mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng (trên cơ sở số liệu
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Sóc Trăng)” để làm luận văn
tốt nghiệp, học viên đã chọn các giáo trình, tài liệu, bài viết tham khảo như:
- Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Các Giáo trình, bày viết chuyên sâu của tác giả Võ Khánh Vinh chủ
biên như: “Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm)” “ Lý luận chung về
định tội danh”; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung);
- Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung và phần các
tội phạm) của tác giả Đinh Văn Quế;
- Giáo trình “ Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần
Nhâm chủ biên.
- Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử
(Tài liệu tham khảo cho các Thẩm phán, thư ký Tòa án) – Tác giả Phạm Minh
Tuyên – Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
- Các Tạp chí Tòa án án qua các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 có
các bài viết có liên quan về tội phạm ma túy.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đều có phạm vi nghiên
cứu rộng hoặc nghiên cứu chuyên sâu theo từng gốc độ, phương diện nhất định
của mỗi tác giả. Trong đó Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất
ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
và hiện nay theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 được
tách ra riêng từng tội, trong đó Tội mua bán trái phép chất ma túy thành một
tội độc lập chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu, các bài viết của các
tác giải nêu trên. Cũng cần lưu ý rằng, các tài liệu khoa học, bài viết trên của
các tác giải đã nghiên cứu các vấn đề về định tội danh, chứng minh tội phạm,
áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung, trách nhiệm
hình sự hoặc áp dụng hình phạt đối với các tội phạm ma túy trong luật hình sự
nói riêng. Hơn thế chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu tội mua bán trái
phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng. Vì vậy, đây có thể xem là một đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về xét xử các vụ án hình sự về tội mua bán trái phép ma
túy tại Sóc Trăng trong các vấn đề cơ bản về định tội danh, áp dụng hình phạt
đối với loại tội phạm này (Từ năm 2015 đến 2019) của Học viên đang công tác
trong ngành Tòa án nhân dân tại Sóc Trăng, cũng làm cơ sở tiền đề cho việc
nghiên cứu về lý luận và áp dụng vào thực tiễn công tác trong phòng chống tội
phạm ma túy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt nam về
tội mua bán trái phép chất ma túy, thực trạng định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội này tại tỉnh Sóc Trăng, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm
định tội danh và quyết định đúng hình phạt đúng đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép
chất ma túy; phân biệt tội này với một số tội khác.
- Phân tích Tội danh của Điều 251 Bộ luật hình sự “Tội mua bán trái
phép chất ma túy”.
- Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng.
- Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh
và quyết định đúng hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm khoa học, các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam, thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng
hình sự.
Áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy là quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự và nhiều nội dung
khác nhau gắn với mỗi giai đoạn trong quá trình tố tụng đối với tội đó. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học, về thực tiễn, luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy ở giai đoạn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
các cấp tại tỉnh Sóc Trăng.
Các số liệu thống kê về vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua
bán trái phép chất ma túy được tác giả luận văn thu thập từ thực tiễn xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân các cấp tại tỉnh Sóc Trăng trong thời gian từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí
Minh; Chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước
về tội phạm, hình phạt, phòng ngừa tội phạm, cải cách tư pháp, công lý, quyền
con người, quyền công dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tài luận văn còn được thực hiện trên cơ sở sử dụng trong một tổng thể
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,
nghiên cứu án điển hình…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống
nhất những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng vào công tác xét
xử tội mua bán trái phép chất ma túy; giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, giảng dạy
tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật
hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1 Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy.
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép
chất ma túy.
1.1.1.1 Khái niệm về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Theo tổ chức y tế thế giới: “Ma túy là mọi thực thể hóa học hoặc là
những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi ỏ để duy trì một
sức khỏe bình thường, việc sử dụng những chất đó sẽ làm biến đổi chức năng
sinh học và có thể cả cấu trúc của vật.
Theo tổ chức y tế Việt Nam xác định: “Ma túy là những chất có tính gây
nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Khi đưa vào cơ thể người dưới
bất kỳ hình thức nào, ma túy làm thay đổi tâm trạng, ý thức và hành vi của
người sử dụng nó. Nếu lạm dụng ma túy con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó
gây tổn thương, nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng”.
Hoặc theo một số chuyên gia đưa ra những định nghĩa về ma túy: “Ma
túy là chất tự nhiên hoặc hóa học hợp thành, khi hấp thụ vào con người thì gây
nguy hại cho con người, làm cho người sử dụng sẽ bị nghiện”.
Khi nghiện ma túy thì người sử dụng bị lệ thuộc vào ma túy cả về mặt
thể chất lẫn tinh thần, luôn có biểu hiện bức xúc bị về tâm lý, muốn sử dụng lại
chất ma túy, ma túy sẽ điều khiển toàn bộ suy nghĩ, tình cảm và hành động của
mình. Khi ngừng sử dụng người nghiện sẽ cảm thấy thèm nhớ ma túy, đau đầu
vật vã, khó chịu. Sau một thời gian nghiện, cơ thể đòi hỏi liều lượng ma túy
tăng dần lên. Khi đã nghiện thì tìm kiếm và sử dụng ma túy để thoát khỏi cơn
vật vã là vấn đề mà người nghiện ma túy quan tâm nhất, hơn cả gia đình, bạn
bè, học hành, công việc và sức khỏe. Họ không còn khả năng kiểm soát bản
thân đối với việc sử dụng ma túy.
Theo Luật phòng chống ma túy của Việt Nam quy định: Chất ma túy là
các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do
chính phủ ban hành.
Căn cứ Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy
định hiện có 515 loại ma tuý và 44 tiền chất dùng để sản xuất ma tuý, chia làm
4 nhóm sau:
+ Nhóm các chất ma tuý an thần: Thuốc phiện, Morphine, Heroine, Các
chất ma tuý tổng hợp toàn phần trong nhóm có thể thay thế Morphine, Heroine
và các opiat khác (methadon, pethidine, phenazocine, diazepam, dolagan...)
+ Nhóm các chất ma tuý gây kích thích: Methamphetamin, ecstacy,
amphetamin.
+ Nhóm các chất ma tuý gây ảo giác: Cần sa và các sản phẩm của nó:
thảo mộc cần sa, nhựa cần tinh dầu cần sa lysergide (LSD)
+ Các chất ma tuý có thuộc tính gây nghiện: Các loại thuốc tân dược có
thành phần là chất gây nghiện: thuốc giảm đau, thuốc an thần, một số loại
thuốc ho, thuốc cảm cúm,…
Các tội phạm về ma túy là những tội phạm xâm phạm đến chế độ độc
quyền của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng các ma túy nói trên. Bởi
vậy, trong khoa học luật hình sự, giáo sư Võ Khánh Vinh có quan điểm cho
rằng:
“Các tội phạm ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong chương XVIII của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm chế độ độc quyền quản lý
Khánh Vinh chủ biên].
các chất ma túy của Nhà nước”[ trích trang 350, Luật hình sự Việt Nam của GS. TS Võ
Theo quan điểm của tiến sỹ Phạm Minh Tuyên:
“Các tội phạm ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện,
có lỗi, xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà nước,
từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân, gây
mất trật tự an toàn xã hội”. ”[ Trích giáo trình của TS. Phạm Minh Tuyên biên soạn].
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy theo Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007
của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm
về ma túy” của BLHS năm 1999 được hiểu là một trong các trường hợp sau:
+ Hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc
vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy
cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
+ Hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
+ Hành vi xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
+ Hành vi dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép khác
(không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
+ Hành vi dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán…lấy
chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
+ Hành vi tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
+ Hành vi vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ tách hành vi mua bán trái phép chất ma
túy thành tội danh riêng nhưng không mô tả cụ thể hành vi đó. Tương tự như
các tội phạm về ma túy khác, trong Tội mua bán trái phép chất ma túy, thuật
ngữ “trọng lượng” cũng được thay đổi thành “khối lượng” cho phù phợp. Đồng
thời, bổ sung thêm một số chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy đã
được Chính phủ quy định bao gồm: Methamphetamine, Amphetamine,
MDMA hoặc XLR-11.
Như vậy, qua các quan điểm của các nhà khoa học, nhà làm luật và các
văn bản quy phạm pháp luật quy định và hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với
Tội mua bán trái phép chất ma túy, Học viên có thể đưa ra khái niệm và hiểu
về Tội mua bán trái phép chất ma túy như sau:
“Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi do người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện với hình thức mua, bán hoặc vận chuyển, tàng
trữ, trao đổi ma túy nhằm mục đích mua, bán để thu lợi làm xâm phạm đến chế
độ quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ra
hành vi nguy hiểm cho xã hội được điều chỉnh bởi Bộ luật hình sự”.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Khách thể của tội phạm
Cũng giống như khách thể của từng tội cụ thể trong nhóm tội phạm về
ma túy, khác thể của tội mu bán trái phép chất ma túy là chế độ độc quyền
quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Chế độ độc quyền quản lý đó bao gồm
các khâu khác nhau và được Nhà nước ta thống nhất quản lý theo một chế độ
nghiêm ngặt, nếu không thống nhất và độc quyền quản lý các chất đó sẽ dẫn
đến nguy cơ đe dọa nghiêm trọng an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự
phát triển lành mạnh của nồi giống, gây tác hại về nhiều mặt đối với đời sống
xã hội. Do vậy, mọi hành vi vi phạm các quy định về chế độ độc quyền quản lý
chất ma túy đều bị coi là tội phạm và bị xử lý nghiêm khắc.
Cũng giống như đối tượng tác động của các tội phạm về ma túy, đối
tượng tác động của tội mua bán trái phép chất ma túy là các chất ma túy và các
dụng cụ, phương tiện phục vụ sản xuất và sử dụng chất ma túy.
Các chất ma túy ở đây bao gồm các chất ma túy theo nghĩa hẹp; các chất
hướng thần; các tiền chất ma túy và các tiền chất hướng thần; các cây trồng
hoặc nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy.
Chất ma túy là chất gây nghiện ở dạng tự nhiên hoặc tổng hợp. Các chất
ma túy có đặc tính nguy hiểm thể hiện ở khả năng gây nghiện cho người sử
dụng. Khi chất ma túy được đưa vào cơ thể con người, nó có tác hại làm thay
đổi trạng thái ý thức và sinh lý của con người. Nếu lạm dụng ma túy, con
người sẽ lệ thuộc vào chất đó, gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng
và cộng đồng. Người nghiện ma túy, khi không được đáp ứng nhu cầu sử dụng
sẽ lên cơn vật vã, đau đớn về thể xác, tinh thần, mất trí và có thể làm bất cứ
điều gì kể cả thực hiện tội phạm.
Theo Luật phòng chống ma túy năm 2013, tại khoản 1 Điều 2 quy định
về chất ma túy: Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy
định trong các danh mục do chính phủ ban hành.
Cụ thể theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ
quy định hiện có 515 loại ma tuý và 44 tiền chất dùng để sản xuất ma tuý, chia
làm 4 nhóm sau:
+ Nhóm các chất ma tuý an thần: Thuốc phiện, Morphine, Heroine, Các
chất ma tuý tổng hợp toàn phần trong nhóm có thể thay thế Morphine, Heroine
và các opiat khác (methadon, pethidine, phenazocine, diazepam, dolagan...)
+ Nhóm các chất ma tuý gây kích thích: Methamphetamin, ecstacy,
amphetamin.
+ Nhóm các chất ma tuý gây ảo giác: Cần sa và các sản phẩm của nó:
thảo mộc cần sa, nhựa cần tinh dầu cần sa lysergide (LSD)
+ Các chất ma tuý có thuộc tính gây nghiện: Các loại thuốc tân dược có
thành phần là chất gây nghiện: thuốc giảm đau, thuốc an thần, một số loại
thuốc ho,thuốc cảm cúm,…
Kèm theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ là
04 Danh mục Các chất ma túy và tiền chất ma túy.
+ Danh mục I: Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dùng trong y học, đời
sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong nghiên cứu khoa học, điều tra tội
phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền. Có 46 chất ma túy.
Ví dụ: Acetorphine, Alphacetymethadol, Desomorphine, Heroine,
Morphine, Pepap, MPPP, cần sa, lá khat…
+ Danh mục II: Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích,
kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của
cơ quan có thẩm quyền. Có 398 chất ma túy.
Ví dụ: Lá Coca, Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, Zipeprol,
URB 447, 597, 602…, Methaquatamine, Methaqualone, Methylone,
Ethylmorphine, Norcodeine….
- Danh mục III: Các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm
nghiệm, nghiên cứu khoa học hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ
quan có thẩm quyền. Có 71 chất ma túy.
Ví dụ: Alprazolam, Butalbital, Clobazam, Estazolam, Ketamine,
Pinazepam, Zolpidem….
Danh mục IV: “Các tiền chất”. Có 44 tiền chất ma túy.
Ví dụ : Methylamine, Toluene, Sarfole, Benzaldehyde, Lysergic acid,
Piperonal, Acetic acid….
Tóm lại, khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là xâm phạm
chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về mua bán chất ma túy. Đối
tượng của tội phạm này là các chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có chứa
chất ma túy.
- Mặt khách quan tội phạm
Cấu thành cơ bản của tội phạm này là cấu thành tội phạm hình thức. Do
vậy, mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy thể hiện ở dấu hiệu
hành vi phạm tội khách quan. Tuy có sự khác nhau về hình thức thể hiện, về
tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng các dạng hành vi khách quan
của tội mua bán trái phép chất ma túy là những hành vi vi phạm các quy định
của Nhà nước về chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy.
Tất cả các hành vi của tội mua bán trái phép chất ma túy đều được thực
hiện bằng hành động, thể hiện ở hành vi là bán hay mua ma túy để bán lại; vận
chuyển hoặc tàng trữ ma túy nhằm mục đích bán cho người khác hoặc dùng
ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa đổi lấy ma túy. Khi xác định
hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác cần chú ý, chỉ khi
nào xác định rõ mục đích của người phạm tội mua chất ma túy đó là nhằm bán
lại thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Chủ thể tội phạm
Chủ thể của tội danh này người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự về Tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì chủ thể của tội này thì từ đủ 16 tuổi trở lên mới có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự. Còn theo khoản 2, 3, 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm
2015 thì chủ thể từ đủ 14 tuổi trở lên thì đủ năng lực trách nhiệm hình sự về tội
này, trừ một số trường hợp luật định (Bệnh tâm thần, mất năng lực hành vi…)
- Mặt chủ quan tội phạm
Tội mua bán trái phép chất ma túy có lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện hành vi
mua bán trái phép chất ma túy, người phạm tội nhận thức được hành vi của
mình có tính nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự ngăn cấm bởi nguy cơ
áp dụng hình phạt trong vấn đề thực hiện và mong muốn thực hiện đến cùng.
Động cơ, mục đích của người phạm tội là vì lợi nhuận, thu lợi bất chính.
1.1.2. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với một số tội
khác
Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành, quy định tội mua bán trái phép chất
ma túy thành một tội danh cụ thể, được tách riêng từng hành vi tàng trữ, vận
chuyển, mua bán, chiếm đoạt…của tội kép được quy định tại Điều 194 của Bộ
luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, do có sự sai sót về cấu trúc, thuật ngữ pháp
lý… của Bộ luật hình sự nên Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung nên đến ngày
01/01/2018 Bộ luật hình sự năm 2015 mới chính thức có hiệu lực thi hành.
Riêng đối với tội ‘‘Tội mua bán trái phép chất ma túy’’ tại Điều 251 của Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có nhiều điểm mới so với Điều 194
của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, như:
- Các nhà lập pháp đã tách tội ghép tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 về Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm
đoạt chất ma túy thành 04 tội danh riêng biệt.
+ Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
+ Tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.
+ Tội Mua bán trái phép chất ma túy.
+ Tội Chiếm đoạt trái phép chất ma túy.
Do vậy, để bảo đảm định tội danh và áp dụng hình phạt nhằm giải quyết
đúng đắn vụ án mua bán trái phép chất ma túy, về mặt lý luận, cần phân biệt
tội mua bán trái phép chất ma túy với các tội phạm khác được nêu trên đây mà
trong Bộ luật hình sự năm 1999 trước đây chúng cùng nằm trong tội ghép
chung.
1.1.2.1 Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với tội tàng trữ trái
phép chất ma túy.
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 Bộ luật
hình sự. Tàng trữ trái phép chất ma túy là người phạm tội thực hiện hành vi cất
giữ bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào như trong nhà ở, phòng làm
việc, trụ sở cơ quan, phương tiện giao thông, trong túi quần áo, túi xách, va
li… mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy
khác hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác.
+ Khách thể của tội này cũng giống như tội mua bán trái phép chất ma
túy, cũng xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất
ma túy.
+ Mặt khách quan của tội tàng trữ khác với tội mua bán trái phép chất
ma túy thể hiện ở hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như như cất, giữ ma
túy không vì mục đích mua bán. Đây cũng là yếu tố phân biệt trong định tội
danh giữa hai tội này.
+ Về chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy cũng giống như tội
mua bán trái phép chất ma túy là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi do luật định.
+ Mặt chủ quan của tội phạm này cũng giống như tội mua bán trái phép
chất ma túy đều thực hiện do cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, động cơ phạm tội có
thể giống nhau hoặc khác nhau tùy thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể.
Như, có thể tàng trữ ma túy để sử dụng hoặc cất giữ dùm cho các đối tượng
khác, cất giữ ma túy thuê. Còn đối với hành vi mua bán ma túy thông thường
vì động cơ, mục đích lợi nhuận, mua bán để thu lợi bất chính.
Qua các tình tiết định khung, mức hình phạt về mức định lượng ma túy
của hai tội danh có thể bằng nhau nhưng mức hình phạt khác nhau, tội mua bán
trái phép chất ma túy có mức xử phạt cao hơn tội tàng trữ trái phép chất ma
túy. Có thể thấy, tính chất, mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội của hai tội
khác nhau, hành vi mua bán ma túy nguy hiểm hơn hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy.
1.1.2.2 Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với tội vận chuyển
trái phép chất ma túy
Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi đưa ma túy từ nơi này đến
nơi khác trái quy định của Nhà nước. Vận chuyển có thể bằng các hình thức,
phương tiện khác nhau. Hình thức vận chuyển có thể để trong người, trong
hành lý, trong các phương tiện vận chuyển…đoạn đường vận chuyển có thể
khác nhau, tùy thuộc vào mục đích thực hiện hành vi của tội phạm.
+ Khách thể của tội này cũng giống như tội mua bán trái phép chất ma
túy, cũng xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất
ma túy.
+ Mặt khách quan của tội vận chuyển trái phép chất ma túy khác với tội
mua bán trái phép chất ma túy thể hiện ở hành vi vận chuyển trái phép chất ma
túy từ địa điểm này đến địa điểm khác không vì mục đích mua bán nhưng có
thể vì mục đích khác như vận chuyển thuê, được trả lợi ích vật chất, tinh
thần…. Đây cũng là yếu tố phân biệt trong định tội danh giữa các tội danh tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy.
+ Về chủ thể của tội vận chuyển trái phép chất ma túy cũng giống như
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định.
+ Mặt chủ quan của tội phạm này cũng giống như tội mua bán trái phép
chất ma túy đều thực hiện do cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, động cơ phạm tội có
thể giống nhau hoặc khác nhau tùy thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể.
Như, có thể vận chuyển ma túy thuê hoặc vì lợi ích vật chất khác. Còn đối với
hành vi mua bán ma túy thông thường vì động cơ, mục đích lợi nhuận, mua
bán để thu lợi bất chính.
Qua các tình tiết định khung, mức hình phạt về mức định lượng ma túy,
mức hình phạt của hai tội danh này là bằng nhau. Có thể thấy, tính chất, mức
độ nguy hiểm gây ra cho xã hội của hai tội ngang nhau.
1.1.2.3 Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với tội chiếm đoạt
trái phép chất ma túy.
Tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 252 Bộ luật
hình sự. Chiếm đoạt trái phép chất ma túy được hiểu là hành vi chuyển dịch
chất ma túy của người khác thành của mình dưới bất kỳ hình thức và thủ đoạn
nào.
+ Khách thể của tội này cũng giống như tội mua bán trái phép chất ma
túy, cũng xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất
ma túy.
+ Mặt khách quan của tội chiếm đoạt khác với tội mua bán trái phép
chất ma túy thể hiện ở hành vi chiếm đoạt trái phép chất ma túy với bất kỳ hình
thức, thủ đoạn nào. Đây cũng là yếu tố phân biệt trong định tội danh giữa hai
tội này.
+ Về chủ thể của tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy cũng giống như
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định.
+ Mặt chủ quan của tội phạm này cũng giống như tội mua bán trái phép
chất ma túy đều thực hiện do cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, động cơ phạm tội có
thể giống nhau hoặc khác nhau tùy thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể.
Như, chiếm đoạt ma túy để có ma túy sử dụng, để bán hoặc trao đổi hàng
hóa…. Còn đối với hành vi mua bán ma túy thông thường vì động cơ, mục
đích lợi nhuận, mua bán để thu lợi bất chính. Tuy nhiên, đối với hành vi chiếm
đoạt ma túy đã thực hiện, người phạm tội có thể phạm thêm tội danh khác.
Qua các khung, mức hình phạt về mức định lượng ma túy của hai tội
danh có thể bằng nhau nhưng mức hình phạt khác nhau, tội mua bán trái phép
chất ma túy có mức xử phạt cao hơn tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy. Có
thể thấy, tính chất, mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội của hai tội khác nhau,
hành vi mua bán ma túy nguy hiểm hơn hành vi chiếm đoạt trái phép chất ma
túy.
1.2 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái
phép chất ma túy.
1.2.1. Quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 2015
Vào đầu năm 1952 Chính phủ chỉ quy định việc xử lý đối với hành vi vi
phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, quy định khoanh vùng trồng thuốc phiện,
người trồng thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng 1/3 số thuốc phiện nhựa,
phần còn lại phải bán cho mậu dịch quốc doanh, nghiêm cấm việc tàng trữ, vận
chuyển nhựa thuốc phiện. Đến cuối năm 1952, Chính phủ quy định người có
hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, bị tịch thu thuốc phiện, bị phạt tiền
đến năm lần trị giá thuốc phiện hoặc bị truy tố trước Tòa án.
Ngày 15/9/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580/TTg quy
định cụ thể những trường hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa án như : buôn lậu
thuốc phiện có nhiều người tham gia, có thủ đoạn gian dối, trị giá hàng phạm
pháp trên 1.000.000 đồng ; người buôn bán thuốc phiện nhỏ hoặc làm mô giới
có tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp sau khi đã bị phạt tiền nhiều lần mà
còn vi phạm, hành vi vi phạm có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ
đội…
Ngày 25/3/1977 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 76/CP về
chống buôn lậu thuốc phiện ; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an) cũng đã ban hành các thông tư hướng
dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội
phạm về buôn lậu thuốc phiện nói riêng.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự năm
1985. Tuy nhiên, theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì chỉ quy định một điều về
tội phạm ma túy (Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy – Điều 203) và hai
điều có liên quan đến hành vi mua bán, vận chuyển ma túy là Điều 97 Tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và Điều 166
Tội buôn bán hàng cấm). Còn các hành vi như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất,
sử dụng, vận chuyển ma túy trong nước thì chưa bị coi là tội phạm.
Đến ngày 10/5/1997 Quốc hội tiếp tục sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự
một cách tổng thể, toàn diện để đáp ứng tình hình thực tế trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, phù hợp với sự phát triển của xã hội,
cũng như đối với loại tội phạm về ma túy. Đến Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định một chương riêng (chương XVIII) định tương đối đầy đủ các hành vi
phạm tội về ma túy mà thực tiễn đấu tranh đặt ra, có tên gọi là Các tội phạm về
ma túy. Cụ thể, đối với hành vi mua bán ma túy được Bộ luật hình sự năm
1999 quy định tại Điều 194 với tên gọi là Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Bộ luật hình sự đã gộp 04 hành vi (Tội
danh) độc lập quy định trong một điều luật.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng, chống ma
túy, có hiệu lực ngày 01/6/2001, là cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh,
phòng chống tệ nạn ma túy. Để áp dụng thống nhất trong công tác điều tra,
truy tố và xét xử đối với tội phạm ma túy nên ngày 24/12/2007 Thông tư liên
tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC quy định hướng dẫn
cụ thể việc áp dụng một số quy định tại chương XVII về Các tội phạm ma túy
của Bộ luật hình sự năm 1999 và ngày 14/11/2015 Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC sửa đổi bổ sung một số điểm
của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC
quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng chương XVII về Các tội phạm ma túy
của Bộ luật hình sự, cụ thể là việc áp dụng Điều 194 của Bộ luật hình sự năm
1999. Các Thông tư này được xem là văn bản hướng dẫn cụ thể một cách chi
tiết và toàn diện các quy định về tội phạm ma túy góp phần tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm ma túy.
Bên cạnh đó, tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phứt tạp, tính chất, mức độ,
hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này ngày càng biến đổi không
lường, các chất ma túy mới được pha chế ra, việc mua bán diễn ra xuyên quốc
gia, các văn bản quy phạm pháp luật trong công tác đấu tranh phòng ngừa về
ma túy phải sửa đổi để phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc
sửa đổi bổ sung bộ luật hình sự năm 2015 là vấn đề cấp bách và được cơ quan
lập pháp thực hiện ngay.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán trái
phép chất ma túy
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội biểu quyết thông qua Bộ
luật hình sự năm 2015. Trong đó, Bộ luật hình sự quy định tội mua bán trái
phép chất ma túy thành một điều luật riêng biệt. Tuy nhiên, do có sự sai sót về
cấu trúc, thuật ngữ pháp lý… của Bộ luật hình sự nên Quốc hội cần sửa đổi, bổ
sung nên đến ngày 01/01/2018 Bộ luật hình sự năm 2015 mới chính thức có
hiệu lực thi hành. Cụ thể:
Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định cụ thể, như sau:
1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm.
2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Mua bán với 02 người trở lên;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho
người dưới 16 tuổi;
g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500
gam đến dưới 01 kilôgam;
h) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối
lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;
i) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng
từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
k) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200
kilôgam;
l) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50
kilôgam;
m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới
100 gam;
n) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới
250 mililít;
o) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến
điểm n khoản này;
p) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15
năm đến 20 năm:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01
kilôgam đến dưới 05 kilôgam;
b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối
lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;
c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng
từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600
kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150
kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới
300 gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới
750 mililít;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến
điểm g khoản này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05
kilôgam trở lên;
b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối
lượng 100 gam trở lên;
c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng
75 kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến
điểm g khoản này.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản.
Riêng đối với tội ‘‘Tội mua bán trái phép chất ma túy’’ tại Điều 251 của
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có nhiều điểm mới so với Điều
194 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, như:
- Các nhà lập pháp đã tách tội ghép tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 về Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm
đoạt chất ma túy thành 04 tội danh riêng biệt.
+ Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
+ Tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.
+ Tội Mua bán trái phép chất ma túy.
+ Tội Chiếm đoạt trái phép chất ma túy.
Việc sửa đổi tội danh Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 nêu trên
thành 04 tội danh độc lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc
gộp chung các tội danh trong cùng một điều luật gây ra không ít khó khăn cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc định tội danh, áp dụng hình phạt, đánh
giá vai trò của người phạm tội đối với từng hành vi cụ thể.
- Về định lượng các chất ma túy, Điều 251 Bộ luật hình sự đã được quy
định cụ thể, rõ ràng mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng ma túy để làm căn
cứ truy cứu trách nhiệm hình sự so với Điều 194 của Bộ luật hình sự năm
1999.
- Một số tình tiết định khung tăng nặng cũng được ghi cụ thể vào nội
dung điều luật và có sự thay đổi về đơn vị tính từ ‘‘Trọng lượng’’ thành ‘‘khối
lượng’’ trong các điều luật để đảm bảo tính chính xác của đơn vị tính.
1.3. Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy.
Để nhận diện, đánh giá thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất
ma túy tại tỉnh Sóc Trăng, trước hết cần khái quát lý luận về định tội danh. Lý
luận định tội danh rất phong phú. Tuy nhiên, để phục vụ nghiên cứu thực tiễn
định tội danh và trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học, học viên chỉ đề
cập phân tích khái niệm định tội danh, cơ sở pháp lý của định tội danh, cơ sở
khoa học của định tội danh và các trường hợp định tội danh.
1.3.1. Khái quát lý luận về định tội danh
Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp
chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp
luật hình sự.
Có quan điểm cho rằng, định tội danh là một trong những giai đoạn hoạt
động áp dụng pháp luật do các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tiến hành. Các
cơ quan này căn cứ vào các tình tiết đã được xác định về các tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể nào đó mà quyết định xem
hành vi đó có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đã được pháp luật quy định.
Tóm lại, có thể khái quát: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời ba quá trình:
+ Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án;
+ Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong Bộ luật hình sự.
+ Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự tương ứng để đối chiếu
chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy
phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế.
1.3.2 Cơ sở khoa học của định tội danh
- Mối quan hệ cái đơn nhất và cái chung – cơ sở triết học của định tội
danh.
+ Cái chung và cái đơn nhất là những phạm trù phản ánh hiện thực thực
tế. Cái đơn nhất thể hiện với tư cách là cái xác định về chất của sự vật hoặc
hiện tượng, tính cá thể, tính đa dạng, tính xác định về không gian, thời gian của
sự vật hoặc hiện tượng. Hiện tượng đơn nhất có vô số các thuộc tính đa dạng.
Mọi tội phạm cụ thể có thể được đặc trưng bởi một loạt các dấu hiệu thuộc về
người thực hiện tội phạm. Có nhiều dấu hiệu của tội phạm cụ thể nằm ở ngoài
hành vi của vụ án cụ thể.
Đối với tội phạm cụ thể chúng ta có thể tách ra ít nhất bốn phạm trù dấu
hiệu:
1) “Tất cả” các dấu hiệu của hành vi.
2) Các dấu hiệu có ý nghĩa đối với việc điều tra và giải quyết vụ án hình
sự.
3) Các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý hình sự.
4) Các dấu hiệu có ý nghĩa với định tội danh.
++ Để định tội danh tội phạm đã thực hiện thì việc xác định các dấu hiệu
của nó vẫn chưa đủ mà còn phải xác định hành vi đã thực hiện do điều luật nào
của Bộ luật hình sự quy định hay không, được quy phạm nào của phần chung
của Bộ luật hình sự quy định hay không?. Để xác định điều đó cần phải so
sánh các dấu hiệu của tội phạm đã được thực hiện với các dấu hiệu được mô tả
trong quy phạm pháp luật hình sự tương ứng.
++ Trong triết học, cái chung được hiểu là phạm trù chung được dùng để
chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ lặp lại, giống nhau của
nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình của hiện thực khách quan được phản ánh.
++ Triết học xác định một cách rõ ràng mối tương quan của cái đơn nhất
và cái chung. Cái chung tồn tại một cách thực tế, nhưng không phải tự nhiên,
không phải độc lập mà thông qua các hiện tượng cụ thể, đơn nhất.
++ Tính độc lập tương đối của phạm trù cái chung tạo ra khả năng xây
dựng các quy phạm, trong đó có các quy phạm pháp luật, mối liên hệ lẫn nhau
giữa cái chung và cái đơn nhất là cơ sở của triết học của việc áp dụng các quy
phạm đó.
- Các hình thức lôgic của đinh tội danh.
Lôgic và luật học có mối quan hệ bên trong sâu sắc, có những mặt mạnh
và yếu giống nhau. Lĩnh vực áp dụng các quy luật của lôgic hình thức là rất
rộng, nó được áp dụng trong tất cả các khoa học. Nhưng chính cả quy phạm
pháp lý, cũng giống như phạm trù lôgic không có khả năng phản ánh trực tiếp
sự vận động, sự phát triển. Thông thường trong phần quy định của phần các tội
phạm chỉ phản ánh “yếu tố cơ bản” của sự phát triển của tội phạm mà phần lớn
là tội phạm đã hoàn thành. Do đó, có thể phản ánh toàn bộ quá trình thực tế
của sự phát triển các sự kiện trong định tội danh chỉ mang tính chất tương đối
ở một thời điểm thời gian nhất định, trong đó có lẽ không phải ở tính đầy đủ
hiện thực của nó mà chỉ ở dạng sơ đồ lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
Định tội danh, đó là kết quả của quá trình nhận thức phức tạp. Sự thành
công của quá trình đó cũng phụ thuộc trực tiếp vào sự hiểu biết và việc tuân
thủ các quy luật của lôgic. Trong định tội danh cũng như trong mọi lĩnh vực
khác của hoạt động tư duy, các quy tắc, phạm trù và phương pháp lôgic khác
nhau được sử dụng. Các phạm trù như khái niệm và sự phán đoán đóng vai trò
quan trọng. Sự phán đoán thứ nhất trong hai phán đoán đó là sự phán đoán do
nhà làm luật đưa ra và được ghi nhận trong nội dung của quy phạm pháp luật
hình sự, còn sự phán đoán thứ hai được chúng ta nói ra về vụ án cụ thể, do đó
có việc phân tích tất cả các tình tiết của hành vi. Để quy phạm pháp luật có thể
được sử dụng trong định tội danh thì quy phạm đó cần phải được diễn đạt về
mặt tư tưởng dưới hình thức sự phán đoán mang tính chất khẳng định chung.
- Tam đoạn luận trong định tội danh
Trong định tội danh các hình thức kết luận khác cũng được áp dụng như
phương thức phủ định của tam đoạn luận khẳng định được áp dụng, ở đó các
dấu hiệu của tội phạm này hay của tội phạm khác bị bác bỏ. Những tam đoạn
luận phức tạp với sự thu hẹ đáng kể của chúng thường được áp dụng trong hoạt
động tư duy của quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc tuân thủ các quy tắc
xây dựng các kết luận trong quá trình định tội danh có ý nghĩa thực tiễn quan
trọng, kết luận tam đoạn luận sẽ đúng đắn, nếu như hai tiền đề của nó là đúng
đắn (tiền đề lớn và tiền đề nhỏ).
Qua thực tiễn cho thấy, phần lớn những vụ án sai lầm xảy ra trong định
tội danh là phân tích hời hợt các tình tiết của vụ án hoặc là hiểu không đúng
nội dung của quy phạm pháp luật hình sự tương ứng. Những khó khăn trong
định tội danh thể hiện cơ bản ở chỗ xác định chính xác điều luật nào được áp
dụng, từ là từ quan điểm lôgic là tìm kiếm tiền đề lớn của kết luận.
1.3.2 Các trường hợp định tội danh
- Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản
Định tội danh được tiến hành theo các nhóm yếu tố đặc trưng của cấu
thành tội phạm. Đó là định tội danh được tiến hành theo các nhóm yếu tố
khách quan của tội phạm (khách thể và mặt khách quan) và định tội danh theo
các nhóm yếu tố chủ quan của tội phạm (chủ thể và mặt chủ quan). Quá trình
này cần được bắt đầu lần lượt từ khách thể, mặt khách quan, chủ thể, đến mặt
chủ quan của tội phạm. Để thực hiện quá trình này của định tội danh cần phải
hiểu rằng sự phân chia các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm theo bốn yếu tố
trên là tương đối, các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tồn tại trong một thể
thống nhất tạo nên các cấu thành tội phạm riêng biệt.
- Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Trong pháp luật hình sự, do tính chất đa dạng của tội phạm, có thể có
nhiều cấu thành tội phạm khác nhau cho một loại tội phạm. Như cấu thành tội
phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng và cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm ngoài dấu hiệu định tội
còn có thêm dấu hiệu định khung tăng nặng, tức là dấu hiệu phản ánh tội phạm
có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (đa số là các khoản
2, 3,4 của các điều luật của các phần tội phạm Bộ luật hình sự, trừ một số tội
danh có kết cấu định khung tăng nặng ngược lại).
- Định tội danh trong một số trường hợp đặc biệt.
+ Định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt
Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành vi chuẩn
bị cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan
là
- Về mặt khách quan của tội phạm: Trong trường hợp phạm tội chưa đạt,
người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi liền
trước đó được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khác với tội phạm
hoàn thành, người phạm tội đã dừng lại khi chưa thoả mãn hết các dấu hiệu
trong mặt khách quan, khi chưa hoàn thành việc phạm tội của mình.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: Có thể thấy rằng nguyên nhân khiến
cho việc dừng hành vi phạm tội lại khi chưa hoàn thành được tội phạm là do
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Về mặt ý chí, họ vẫn
muốn thực hiện đến cùng các hành vi để hoàn thành tội phạm. Đây cũng là một
điểm để phân biệt giữa trường hợp phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS) và tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS).
- Về hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại
khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự 2015.
- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
+ Hành vi phạm tội đồng phạm phải xâm hại cùng khách thể của tội
phạm đó.
+ Trong trường hợp có sự tham gia của nhiều dạng người thì hành vi
phạm tội của người thực hành là căn cứ để định tội, người thực hành thực hiện
tội phạm đến giai đoạn nào thì những người đồng phạm khác sẽ phải chịu trách
nhiệm hình sự đến giai đoạn đó.
+ Những người tham gia trong đồng phạm bao giờ cũng thực hiện tội
phạm với lỗi cố ý.
- Định tội danh trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội
Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại
các điều luật khác nhau, mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau, nếu
các tội phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về hành vi phạm tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn.
1.4. Quyết định hình phạt đối với Tội mua bán trái phép chất ma
túy.
1.4.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt.
Để có thể nhận diện thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán
trái phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng, trước hết cần khái quát lý luận về
quyết định hình phạt. Cũng như lý luận về định tội danh, lý luận về quyết định
hình phạt rất phong phú. Tuy nhiên, trong một phạm vi luận văn thạc sĩ, học
viên cũng chỉ tập trung phân tích khái niện, các nguyên tắc và các căn cứ quyết
định hình phạt, các trướng hợp quyết định hình phạt.
1.4.1.1 Khái niệm quyết định hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,lợi ích
của người, pháp nhân thương mại đó.
- Các loại hình phạt đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại
phạm tội ( Điều 32 và 33 của Bộ luật hình sự), như:
Điều 32 Bộ luật hình sự:
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
f) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Truc xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
- Quyết đinh hình phạt: là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể
(bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội.
+ Quyết định hình phạt và việc nâng cao hiệu quả của hình phạt có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình phạt có được hiệu quả hay không, điều đó phụ
thuộc về việc xây dựng hệ thống pháp luật, những yếu tố thuộc về áp dụng
pháp luật và những yếu tố chấp hành hình phạt… Trong đó yếu tố quyết định
hình phạt giữ vai trò quan trọng và hàng đầu.
+ Theo Điều 31 Bộ luật hình sự năm 2015, Hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tông trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm.
1.4.1.2 Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt.
- Các nguyên tắc quyết định hình phạt: Các nguyên tắc luật hình sự là
những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng luật
hình sự.
Trong Bộ luật hình sự hiện nay, các nhà làm luật không ghi nhận một
cách cụ thể những nguyên tắc phải được tuân thủ khi quyết định hình phạt.
Nhưng qua nội dung các điều luật có thể rút ra được những nguyên tắc phải
tuân thủ khi quyết định hình phạt là:
1) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
2) Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
3) Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Trong các nguyên tắc nêu
trên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Các quy định của luật hình sự luôn luôn đã thể hiện các nguyên tắc của luật
hình sự, định hướng cho việc áp dụng luật hình sự thực hiện được các nguyên
tắc này.
+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc này được thể hiện
rõ trong các quy định về nguyên tắc xử lý, về mục đích hình phạt, về hệ thống
hình phạt, về quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt, cũng như trác nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội….Nguyên tắc này thể hiện sự
khoa hồng, đặt mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội lên hàng đầu, xem
xét một cách toàn diện, khách quan về nhân thân, hoàn cảnh, mục đích của
người phạm tội nhằm đảm bảo được mục đích phòng tội phạm riêng và chung.
+ Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Là một nguyên tắc của luật hình sự,
được thể hiện rõ trong các quy định của Bộ luật hình sự, kể cả trong những quy
định về tội phạm và trong những quy định về hình phạt.
- Căn cứ quyết định hình phạt: Để cụ thể hóa những nguyên tắc cơ bản
của Luật hình sự vào trong quyết định hình phạt nhằm đảo bảo cho hình phạt
đã tuyên có thể đạt được mục đích đã đặt ra, Bộ luật hình sự đã quy định
những căn cứ cụ thể buộ Tòa án phải xét đến khi quyết định hình phạt. Những
căn cứ đó, theo Điều 50 của Bộ luật hình sự là:
+ Các quy định của Bộ luật hình sự.
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
1.4.1.3 Các trường hợp quyết định hình phạt:
- Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 của
Điều luật). Khi quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản đối với
người phạm tội thì Tòa án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình
phạt tại Chương VIII của Bộ luật hình sự (Từ Điều 50 đến Điều 59). Nếu
người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định
tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, thì Tòa án có
thể áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (theo quy định của Điều 54
của Bộ luật hình sự). Ngoài ra, Tòa án có thể quyết định hình phạt cho người
phạm tội được hưởng án treo nếu đủ điều kiện theoo quy định tại Điều 65 của
Bộ luật hình sự.
- Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm định khung tăng nặng
(Theo các khoản 2, 3, 4... của Điều luật): Cũng giống như khi quyết định hình
phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản đối với người phạm tội thì khi quyết định
hình phạt theo cấu thành tội phạm định khung tăng nặng Tòa án cũng phải căn
cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII của Bộ luật hình
sự (Từ Điều 50 đến Điều 59). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và
không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1
Điều 52 Bộ luật hình sự, thì Tòa án có thể áp dụng mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng hoặc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng liền kề (theo quy định của Điều 54 của Bộ luật
hình sự).
- Quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt:
+ Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng (Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015)
Ví dụ: Khoản 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền
kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự.
+ Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 55 của
Bộ luật hình sự năm 2015).
Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án có thể quyết
định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định.
Ví dụ: Người phạm tội bị tuyên là hình phạt tù có thời hạn của mỗi tội
thì tổng hợp hình phạt lại không quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn.
+ Người phạm tội bị tuyên là hình phạt tù có thời hạn của một tội và
hình phạt chung thân của tội danh khác thì tổng hợp hình phạt lại là tù chung
thân.
+ Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt (Điều 57 của Bộ luật hình sự).
++ Theo Điều 14 Bộ luật hình sự quy định. Chuẩn bị phạm tội là tìm
kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực
hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành
lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều
113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật hình sự.
++ Theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự quy định. Phạm tội chưa
đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình
phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật hình sự về tội phạm tương ứng
tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện
ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện
được đến cùng. Nhưng khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội này
thì áp dụng theo quy định tại khoản 3 của Điều luật này.
Ví dụ: Trong trường hợp này, nếu điều luật áp dụng có quy định mức
hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không
quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức
phạt tù mà điều luật quy định.
+ Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 58 Bộ luật
hình sự)
Theo Điều 17 Bộ luật hình sự thì Đồng phạm là trường hợp có hai người
trở lên cố ý cùng thực hiện một loại tội phạm. Người tổ chức, người thực hành,
người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm. Khi quyết định
hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phả xét đến tính chất của
đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc
người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận văn, học viên đã nêu khái quát về khái niệm, những
vấn đề lý luận và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy. Từ đó, có cách nhìn toàn diện hơn về chính sách hình sự của
Đảng, Nhà nước ta đối với loại tội phạm này và thể hiện sự quyết tâm của cả
hệ thống chính trị, các cơ quan tố tụng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định khái niệm chung về tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, cũng như nội hàm tội mua bán trái
phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự và một số
quan điểm của các nhà nghiên cứu về tội phạm, luật học…học viên cũng đưa
ra quan điểm riêng của mình về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy và
phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản của định tội danh về tội mua bán trái
phép chất ma túy, như : Khách thể của tội phạm, mặt khác quan, mặt chủ quan,
chủ thể của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Bên cạnh đó, chương 1 của luận văn còn nêu khái quát lịch sử lập pháp
đối với tội danh này và phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với một số
tội phạm về ma túy khác được quy định trong Bộ luật hình sự. Đồng thời, phân
tích các tình tiết định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng và mức hình phạt đối
với tội mua bán trái phép chất ma túy.
Việc nghiên cứu, làm rõ những cơ sở lý luận và pháp lý của tội mua bán
trái phép chất ma túy có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở và tiền đề để
nghiên cứu áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất
ma túy nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
CHƯƠNG 2:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI TỈNH SÓC TRĂNG.
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy,
như đã nhận mạnh gồm nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi một luận
văn thạc sĩ luật học, học viên chỉ tập trung nghiên cứu hai nội dung chính,
trong số đó là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội nói trên.
2.1. Dấu hiệu pháp lý của định tội danh và trách nhiệm hình sự tội
mua bán trái phép chất ma túy
2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của định tội danh tội mua bán trái phép chất ma
túy
- Khách thể của các tội về ma túy:
Khách thể của các tội phạm về ma túy là chế độ độc quyền quản lý các
chất ma túy của Nhà nước. Chế độ độc quyền quản lý đó bao gồm các khâu
khác nhau, như trồng cây thuốc phiện, các loại cây có chứa chất ma túy, hoạt
động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm giữ, sử dụng các chất ma
túy, các tiền chất ma túy…các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất
hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. Nhà nước ta độc quyền và thống nhất quản
lý chất ma túy theo một chế độ nghiêm ngặt. Bởi vì, nếu không thống nhất và
độc quyền quản lý các chất ma túy sẽ dẫn đến nguy cơ đe dọa nghiêm tọng an
toàn, trật tự công cộng và gây ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Do vậy, mọi hành vi vi phạm các quy định về chế độ độc quyền quản lý ma túy
đều bị coi là tội phạm và bị xử lý nghiêm khắc.
- Khách thể của tội mua bán trái phép ma túy cũng giống như khách thể
của các tội phạm về ma túy khác. Cũng xâm phạm chế độc quyền quản lý của
Nhà nước về mua bán các chất ma túy.
- Mặt khách quan của tội phạm
Tội mua bán trái phép chất ma túy thể hiện ở hành vi mua bán trái phép
chất ma túy. Mua bán trái phép chất ma túy được hiểu là hành vi trao đổi trái
phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào vì mục đích vụ lợi.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là bất kỳ người nào có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Thực hiện do cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội có thể do vụ lợi hoặc
động cơ cá nhân khác tùy thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể.
2.1.2. Trách nhiệm hình sự tội mua bán trái phép chất ma túy (Hình
phạt)
Các tội phạm về ma túy nói chung, trong đó có tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy là những tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội, do vậy
nhà làm luật quy định các hình phạt rất nghiêm khắc đối với những tội phạm
này. Là tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo
từng khung hình phạt cụ thể trong điều luật. Hình phạt chính của tội phạm này
gồm có hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình, còn hình phạt bổ
sung gồm có phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản.
- Khung cơ bản ở khoản 1 có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm
- Khung tăng nặng ở khoản 2 có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm.
- Khung tăng nặng ở khoản 3 có mức phạt tù từ mười lăm năm đến hai
mươi năm.
- Khung tăng nặng ở khoản 4 có mức phạt tù từ hai mươi năm đến chung
thân, tử hình
- Theo khoản 5, đối với người phạm tội còn có thể bị có phạt tiền từ
5.000.000 đống đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy tại
Sóc Trăng.
2.2.1.1. Khái quát tình hình định tội danh tội mua bán trái phép chất ma
túy tại Sóc Trăng.
Trong thời gian 05 năm (Ngày 01/10/2014 đến 30/9/2019) các cơ quan
tiến hành tố tụng tại Sóc Trăng đã điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm 120 vụ án
hình sự có liên quan đến tội phạm ma túy đối với 162 bị can, bị cáo. Trong đó,
có 43 vụ án hình sự là tội mua bán trái phép chất ma túy và 67 bị can, bị cáo,
số vụ án còn lại là tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy. Trong số
120 vụ án nêu trên, có nhiều vụ án trọng điểm, được đưa ra xét xử lưu động.
Trong 43 vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy có 14 vụ án có kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm, kết quả xét xử phúc thẩm giữ y án sơ thẩm 13 vụ, có 01
vụ sửa án. Các đối tượng phạm tội chủ yếu là các đối tượng nghiện ma túy
(63/162), có nhiều tiền án, tiền sự, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (5/162).
Cụ thể, các bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù dưới 03 năm là 74 bị cáo, từ 03
năm đến 07 năm là 47 bị cáo, từ 07 năm đến 15 năm là 29 bị cáo, trên 15 năm
đến dưới 30 năm là 7 bị cáo, 05 có án chung thân, không có án tử hình, không
có trường hợp nào cho hưởng án treo. Nhìn chung, tội phạm mua bán trái phép
ma túy trên địa bàn Sóc Trăng hoạt động giản đơn, không có tổ chức hoặc quy
mô mua bán số lượng ma túy lớn như các tỉnh giáp biên giới hoặc các trung
tâm thành phố lớn, chủ yếu bọn tội phạm buôn bán nhỏ lẽ cho các đối tượng
nghiện hoặc các con nghiện mua ma túy để sử dụng và bán lại kiếm lời để lấy
tiền phục vụ cho việc sử dụng ma túy.
2.2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo
cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự).
Thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2014 đến 2019) của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Sóc Trăng đối với tội phạm ma túy nói chung và tội mua
bán trái phép chất ma túy nói riêng. Cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm các thành
phố, thị xã, huyện đều định tội danh đúng, áp dụng đúng pháp luật. Trong 14
vụ án xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, chỉ có 01 vụ án bị sửa do áp dụng không
đúng tình tiết định khung tăng nặng, còn lại 13 vụ án đều y án sơ thẩm.
Một số vụ án hình sự cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Sóc Trăng được định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản.
* Như các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng đã xét xử:
Vụ án bị cáo Ngô Văn D: Vào 11 giờ 25 phút, ngày 04/11/2018, Đội
Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng kết hợp với Công an phường 2
phát hiện bắt quả tang Ngô Văn D đang có hành vi tàng trữ tái phép chất ma
túy tại số nhà 110A, đường Trần Bình Trong, khóm 2, phường 2, thành phố
Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện thu giữ
01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng, nghi vấn
là chất ma túy, nên tiến hành thu giữ. Tại kết luận giám định số 75/GĐ ngày
06/11/2018 của Phòng kỷ thuật hình sự, Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận: mẫu
gửi giám định là ma túy, có trọng lượng là 0,141gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điêu tra, Ngô Văn D khai: Do bản thân làm nghề xe ôm,
vào khoảng 10 giờ ngày 04/11/2018, khi D đang đậu xe đợi khách thì có 02
người thanh niên lạ mặt, không biết họ tên, địa chỉ hỏi D biết chỗ mua ma túy
đá để sử dụng không, thì D nói biết….nên 02 người này đưa cho D 400.000
đồng để mua 01 gói ma túy đá (tiền ma túy 300.000 đồng, còn lại 100.000
đồng trả tiền công cho D mua ma túy) thì D đồng ý. Sau đó, D điều khiển xe đi
đến điểm nhà không số, trên đường T (chỗ D biết có bán ma túy) để mua ma
túy, khi mua được ma túy D điều khiển xe đem về để giao cho 02 người thanh
niên thì bị Công an đến bắt quả tang đang tàng trữ ma túy.
Tại Cáo trạng số 09/QĐ – KSĐT ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố bị cáo Ngô Văn D về “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại Bản án sơ thẩm số 09/2019/HSSST ngày 26/02/2019 của Tòa án
nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Ngô Văn D phạm “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Văn D 02 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua xem xét nội dung vụ án, cũng như về
khía cạnh định tội danh của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét xử đối
với hành vi phạm tội của Ngô Văn D, thì thấy: Tuy D khai nhận và bị bắt quả
tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có trọng lượng 0,141g nhưng căn
cứ vào các tài liệu, chứng cứ Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập được đã chứng
minh hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo D nhằm mục đích mua bán để kiếm
lời, nên đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng xác định bị cáo phạm “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
* Vụ án bị cáo Trần Kim Xuyến: Vào khoảng 19 giờ ngày 07/8/2014,
nhận được tin báo Công an thành phố Sóc Trăng tiến hành kiểm tra tại khu vực
ngã tư đường Lê Duẫn – Lê Hồng Phong, Phường 3, thành phố Sóc Trăng phát
hiện và bắt giữ Trần Kim Xuyến, sinh năm 1967; nơi cư trú: Số 213B khu vực
Thạnh Hòa, phường Thường Thạnh, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ đang
cầm trên tay 02 (hai) gói nylon hàn kín hai đầu bên trong có chứa 02 (hai) cục
chất bột màu trắng được gói trong mảnh giấy lịch. Xuyến khai nhận là ma túy,
nên công an tiến hành niêm phong thu giữ và gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 1629/C54B ngày 20/8/2014 của Phân viện
khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất màu
trắng đựng trong 02 (hai) gói nylon được niêm phong gửi đến giám định có
chứa thành phần Heroin, trọng lượng 3,5996gam.
Trong quá trình điều tra, Trần Kim Xuyến khai nhận bắt đầu mua bán
ma túy từ giữa năm 2011 cho đến ngày bị bắt, nhưng không thường xuyên mua
bán. Nguồn ma túy có để bán cho người nghiện là do Xuyến đi đến khu vực
quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ mua của người phụ nữ không rõ họ tên và
địa chỉ cụ thể. Xuyến đã bán ma túy cho người có tên là Sa nhà ở thành phố
Sóc Trăng, nhưng không rõ họ tên và địa chỉ được 03 lần.
+ Lần thứ nhất và lần thứ hai trong năm 2011, nhưng không nhớ ngày
tháng, mỗi lần 01 cục ma túy giá 250.000 đồng.
+ Lần thứ ba, vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06/8/2014, Sa điện thoại
vào số máy di động của Xuyến số 01208340897 hỏi mua 05 phân ma túy,
Xuyến đồng ý bán với giá 3.000.000đồng, Sa kêu Xuyến đem ma túy đến Sóc
Trăng bán cho Sa, Xuyến đồng ý nhưng với giá là 3.500.000đồng, Sa đồng ý
nên đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/8/2014, Xuyến giấu ma túy và kêu ông
Nguyễn Hoàng Ca là chồng của Xuyến chở đến Sóc Trăng. Đến khoảng 19 giờ
cùng ngày, tại khu vực ngã tư đường Lê Duẫn – Lê Hồng Phong, Phường 3,
thành phố Sóc Trăng, Xuyến đang cầm ma túy trên tay thì bị Công an thành
phố Sóc Trăng kiểm tra bắt quả tang.
Tại Cáo trạng số 111/QĐ-KSĐT ngày 04/11/2014 của Viện Kiểm sát
nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Trần Kim Xuyến về tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 102/2014/HSST ngày 27/11/2014 của Tòa
án nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận: Bị cáo Trần Kim Xuyến phạm tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự và xử
phạt bị cáo Xuyến 04 năm tù.
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng cho rằng, ngoài lời khai của bị
cáo đã bán ma túy nhiều lần, cho nhiều người từ năm 2011 đến khi bị bắt quả
tang thì Cơ quan điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo
đã thực hiện như không thu giữ được số lượng ma túy đã bán, không chứng
minh được bị cáo bán cho ai, số lượng ma túy đã bán. Từ đó, kết luận bị cáo
phạm “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình
sự.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung cho thấy, việc Tòa án nhân dân
thành phố kết luận bị cáo Trần Kim Xuyến phạm tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi
phạm tội, có quan điểm sai lầm trong định tội danh đối với bị cáo Xuyến. Đáng
lẽ ra, trường hợp này bị cáo Xuyến phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”
theo điểm đ Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự như quan điểm truy tố của
Viện kiểm sát, phạm tội thuộc trường hợp định khung tăng nặng, “Phạm tội
nhiều lần”. Bởi vì, đối với các loại án về tội phạm ma túy nói chung thường là
các loại án truy xét, số lượng ma túy bị cáo đã bán hoặc vận chuyển thì không
thể thu hồi được, ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, người làm chứng hoặc các
tài liệu khác để chứng minh hành vi tội phạm mà bị cáo đã thực hiện thì có thể
kết luận bị cáo phạm tội theo tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Mặt
khác, khi định tội danh với tội phạm về ma túy nói chung thì tội phạm ma túy
được xác định dấu hiệu cấu thành tội phạm về hình thức, không phải cấu thành
vật chất, trong một số trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng thì không cần
thiết phải định lượng số lượng ma túy thu giữ được. Vì vậy, cần phải có Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán hoặc Thông tư liên tịch của các cơ quan tư pháp
trung ương hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật như trường hợp của vụ án
nêu trên.
2.2.1.3. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo
cấu thành tội cơ bản (khoản 2, 3, 4 Điều 251 Bộ luật hình sự).
Trong thời gian 05 năm (2014 đến 2019) Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Sóc Trăng đã đưa ra xét xử 43 vụ án hình sự về tội mua bán trái phép chất ma
túy, trong đó, có 30 vụ án các bị cáo bị định tội danh theo khoản 2 Điều 251
của Bộ luật hình sự (hoặc khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999), có 14
vụ án có kháng cáo phúc thẩm nhưng chủ yếu là xin giảm nhẹ hình phạt, không
có vụ án nào kháng cáo kêu oan hoặc kháng cáo về tội danh, kết quả xét xử
phúc thẩm chỉ có 01 vụ án bị sửa do áp dụng không đúng tình tiết định khung
hình phạt, bị cáo bị bắt phạm tội quả tang bán ma túy cho 02 người cùng thời
điểm nhưng Viện kiểm sát bị truy tố bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma
túy theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và được Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận theo truy tố của Viện kiểm sát là không chính
xác, nên bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng giảm hình phạt, còn lại 13
vụ án đều y án sơ thẩm.
Một số vụ án hình sự cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Sóc Trăng được định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng
nặng.
* Như vụ án bị cáo Ngô Hiệp Dũ, bị Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị
xét xử:
Vào khoảng 09 giờ, ngày 01/4/2019 bị cáo Ngô Hiệp D gọi điện thoại
cho đối tượng tên Trường Em hỏi mua ma túy sử dụng không, thì Em đồng ý.
Bị cáo lấy 02 gói ma túy đã chiết sẵn bỏ vào gói thuốc lá hiệu 555, bỏ vào túi
áo chạy xe đi giao ma túy cho Em, khi đi được một đoạn thì bị lực lượng Công
an huyện Thạnh Trị yêu cầu dừng xe kiểm tra và bắt quả tang 02 gói ma túy
trong người. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo D thì phát hiện và
thu giữ trong phòng ngủ của nhà bị cáo 01 hộp đựng 41 gói ma túy và một số
dụng cụ để sử dụng ma túy, tiền 4.000.000 đồng....
Tại kết luận giám định số 28/GĐ – PC 09 ngày 03/4/2019, kết luận: Mẫu
tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 4,636
gam, loại Methamphetamine.
Trong quá trình điều tra bị cáo D khai nhận: Bị cáo bắt đầu bán ma túy
từ tháng 7 năm 2018, bị cáo mua ma túy của người tên Phương trên đường
Vành Đai ở thành phố Sóc Trăng, bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể
người này, bị cáo mua tổng cộng 05 lần, mỗi lầm từ 1.500.000 đồng đến
3.000.000 đồng rồi đem về nhà phân nhỏ lại bán con các con nghiện trên địa
bàn huyện Thạnh Trị, với giá là 100.000 đồng/gói, bị cáo bán cho khoảng 10
con nghiện thường xuyên mua ma túy của bị cáo.
Cáo trạng số 08/CT- VKS ngày 25/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Ngô Hiệp D về “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình
sự.
Tại Bản án số 09/2019/HSST ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân
huyện Thạnh Trị; kết luận: bị cáo Ngô Hiệp D về “Tội mua bán trái phép chất
ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và xử phạt
bị cáo D 07 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị xác định bị cáo Ngô Hiệp D phạm “Tội mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự là có cơ sở, đúng tội danh. Tuy nhiên, diễn biến nội dung vụ án, lời
khai của bị cáo, người làm chứng, số ma túy thu giữ được và các chứng cứ Cơ
quan điều tra thu thập được thì Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị xét xử có
dấu hiệu bỏ lọt hành vi tội phạm về tình tiết định khung hình phạt theo điểm c
khoản 2 Điều 251 “ Đối với 02 người trở lên”, bị cáo đã khai nhận có hành vi
bán ma túy trong thời gian dài từ tháng 7 năm 2018 cho đến khi bị bắt và bán
cho nhiều con nghiện trên địa bàn (có ngày bán cho hơn 10 con nghiện ma túy)
đây thuộc tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo nhưng trong quá trình
xét xử Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị đã không xem xét tình tiết này, là có
sai sót trong định tội danh cấu thành tội phạm tăng nặng.
* Vụ án bị cáo Kim N bị Tòa án nhân dân huyện Trần Đề xét xử:
Vào khoảng 14 giờ 00 ngày 04/12//2018, nhận được tin báo của quần
chúng nhân dân có nhiều đối tượng tụ tập sử dụng ma túy tại chòi lá bỏ hoang
tại ấp Giồng Chùa B, xã Trung Bình, huyện Trần Đề nên Công an huyện Trần
Đề kết hợp với Công an xã đến hiện trường kiểm tra thì phát hiện bị cáo Kim
N đang chạy xe đến và xuống xe, tiến hành kiểm tra N thì phát hiện trên người
của N có giấu 02 gói ma túy, loại tinh thể màu trắng trong bọc nylon được hàn
kín nên tiến hành bắt giữ N.
Qua quá trình điều tra và làm việc với các đối tượng đang sử dụng ma
túy bị tạm giữ thì các con nghiện khai nhận (04 đối tượng) là mua ma túy của
bị cáo Kim N và đang đợi N đến giao ma túy thì bị bắt. Ngoài ra, trước đó
nhiều ngày các đối tượng nghiện này còn mua ma túy của N nhiều lần, mỗi con
nghiện mua ma túy của N từ 03 đến 04 lần, mua mỗi lần từ 01 đến 03 gói ma
túy, mỗi gói ma túy có giá từ 100.000 đồng (qua đối chất giữa bị cáo và các
đối tượng nghiện bị cáo thừa nhận có bán ma túy nhiều lần cho các con
nghiện).
Tại bản kết luận giám định số 80/GĐ – PC09 ngày 06/12/2018, kết luận:
Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng
0,272 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cáo trạng số 07/CT- VKS ngày 25/4/2019 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Kim N về “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự số 07/2019/HSST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân
dân huyện Trần Đề, kết luận bị cáo Kim N phạm “Tội mua bán trái phép chất
ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và xử phạt
bị cáo 07 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân huyện Trần Đề xác định bị cáo Kim N phạm “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình
sự là có cơ sở, đúng tội danh với hành vi phạm tội mà bị cáo N đã thực hiện.
* Vụ án bị cáo Kim Hạnh bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét
xử:
Vào khoảng 15 giờ 20 phút, ngày 22/3/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy – Công an thành phố Sóc Trăng bắt quả tang Kim H có hành
vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Cao Vũ Linh tại nhà của H số
448/1/18, khóm 5, phường 2, thành phố Sóc Trăng và thu giữ 01 gói ma túy.
Tiếp tục khám xét nhà của Kim H thì phát hiện thêm 10 bịch nylon bên trong
có chứa tinh thể mà trắng, nghi là ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 23/GĐ – PC09 ngày 24/3/2019, kết luận:
02 Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, Mẫu 1 có khối
lượng là 0,125g, loại Methamphetamine; Mẫu 2 có khối lượng là 1,408g, loại
Methamphetamine.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra bị cáo Kim H còn khai nhận, bản thân
H đã hoạt động bán ma túy từ tháng 02 năm 2019 cho đến khi bị bắt, nguồn ma
túy bị cáo mua để bán là từ một người lạ không biết họ, tên và địa chỉ, khi nào
bị cáo hết ma túy bán thì có người đem đến đầu hẻm nhà của bị cáo giao cho bị
cáo, mỗi lần bị cáo mua từ 1.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo
về phân nhỏ ra để bán cho các con nghiện, trước khi bị bắt thì ngày 22/3/3019
bị cáo có bán cho Cao Vũ Linh 03 lần, mỗi lần 01 bịch, giá 150.000 đồng/bịch
và trước đó bị cáo bán cho khoảng 07 đến 08 con nghiện, bị cáo không biết họ
tên, địa chỉ cụ thể của những người mua ma túy ở đấu, đến nhà bị cáo mua ma
túy là bị cáo bán.
Tại Cáo trạng số 52/CT- VKS ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Kim H về “Tội mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa kiểm sát viên rút một phần truy tố đối với
bị cáo Kim H đối với tình tiết định khung tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều
251 của Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự số 49/2019/HSST ngày 23/7/2019 của Tòa án nhân
dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Kim H phạm “Tội mua bán trái phép
chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và xử
phạt bị cáo 07 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xác định bị cáo Kim H phạm “Tội mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự là có cơ sở, đúng tội danh. Tuy nhiên, diễn biến nội dung vụ án, lời
khai của bị cáo, số ma túy thu giữ được và các chứng cứ Cơ quan điều tra thu
thập được. Tại phiên tòa, sau phần xét hỏi công khai Kiểm sát viên rút một
phần truy tố đối với bị cáo do không chứng minh được các đối tượng nghiện
mua ma túy của bị cáo nên Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét xử bị cáo
Kim H chỉ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự là bỏ lọt hành vi tội phạm về tình tiết định khung hình phạt
theo điểm c khoản 2 Điều 251 “ Đối với 02 người trở lên”, bị cáo đã khai nhận
có hành vi bán ma túy trong thời gian dài từ tháng 02 năm 2019 cho đến khi bị
bắt và bán cho nhiều con nghiện trên địa bàn (bán 07 - 08 con nghiện ma túy)
đây thuộc tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo nhưng do có sự đánh
giá, nhận định các tình tiết vụ án chưa toàn diện, khách quan. Nên theo quan
điểm của học viên là Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét xử vụ án này
có thiếu sót trong định tội danh cấu thành tội phạm tăng nặng đối với hành vi
phạm tội của bị cáo Kim H.
* Vụ án bị cáo Trần Lê Tuấn Tú bị Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu
xét xử:
Vào khoảng 13 giờ 40 phút, ngày 03/7/2017, Công an thị xã Vĩnh Châu,
kết hợp với Công an phường 1 tiến hành bắt quả tang Trần Lê Tuấn T đang có
hành tàng trữ trái phép chất ma túy bên trong túi quần phải tại quán cà phê Anh
Thu thuộc khu vực 1, phường 1, thị xã Vĩnh Châu và thu giữa được một bịch
nylon có chứa ma túy đá. Trong quá trình điều tra Tuấn T khai số ma túy bị bắt
là của T mua của một đối tượng lạ mặt tại bến xe Vĩnh Châu với số tiền
1.000.000 đồng để bán lại kiếm lời.
Vào khoảng 12 giờ cùng ngày, thì Trần Văn C điện thoại cho bị cáo để
mua ma túy sử dụng và hẹn gặp nhau tại quán Ánh Thu để giao ma túy, khi
gặp C tại quán do C không đủ tiền mua ma túy nên C quay về lấy tiền nên bị
cáo đợi C quya lại lấy ma túy thì bị bắt. Ngoài ra, vào các ngày 21, 25 và
30/6/2016 bị cáo bán cho C mỗi ngày từ 300.000 đồng đến 800.000 đồng (bán
từ 01 đến 02 bịch ma túy).
Tại bản kết luận giám định số 34/GĐ – PC54 ngày 06/7/2017, kết luận:
Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có trọng lượng là
0,152g, loại Methamphetamine.
Tại Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 23/11/2017 của Viện kiểm sát nhân
dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Trần Lê Tuấn T về “Tội
mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tại Bản án hình sự số 04/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân
dân thị xã Vĩnh Châu, kết luận bị cáo Trần Lê Tuấn T phạm “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và xử phạt bị cáo 07 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định bị cáo Trần Lê Tuấn T phạm “Tội
mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có cơ sở, đúng tội danh
với hành vi phạm tội mà bị cáo T đã thực hiện. Cơ quan điều tra đã chứng
minh được T đã có hành vi bán ma túy trái phép cho Trần Văn C là đối tượng
nghiện ma túy 04 lần, nên thuộc tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
* Vụ án bị cáo Lê Thanh Phương bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng xét xử sơ thẩm và Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm
Vào khoảng 18 giờ 10 phút, ngày 02/10/2018, Công an thành phố Sóc
Trăng tiến hành kiểm tra đối với bị cáo Lê Thanh Phương đang điều khiển xe
mô tô biển kiểm soát 83P1 – XXX đang đậu xe tại khu vực cổng chào trên
đường Tôn Đức Thắng, khóm 4, phường 5, thành phố Sóc Trăng thì lực lượng
Công an phát hiện Phương dùng chân đá bọc nylon xuống đường nơi Phương
đang đậu xe, kiểm tra bọc nylon phát hiện bên trong có 02 gói nylon, có chứa
tinh thể rắn màu trắng, nghi là ma túy nên lực lượng Công an tiến hành niêm
phong thu giữ. Qua quá đấu tranh, điều tra thì Phương khai nhận: Phương đã
nhận của một người tên Hoàng (không rõ lai lịch, địa chỉ) 02 hộp ma túy đá, có
trọng lượng 20 gam với giá là 16.000.000 đồng để giao lại cho người người
mau để bị cáo lấy tiền chênh lệch là 800.000 đồng. Sau đó, Phương đã liên hệ
với người mua (không rõ lai lịch) để giao nhận ma túy tại tại khu vực cổng
chào trên đường Tôn Đức Thắng, khóm 4, phường 5, thành phố Sóc Trăng.
Tuy nhiên, bị cáo đã bị lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ ma túy khi
chưa kịp giao ma túy cho người mua.
Tại bản kết luận giám định số 4099/GĐ – PC09 ngày 04/10/2018, kết
luận: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có (khối lượng)
trọng lượng là 19,522g, loại Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự số 10/2019/HSST ngày 19/02/2019 của Tòa án nhân
dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Lê Thanh Phương phạm “Tội mua
bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 10 năm tù.
Tại Bản án hình sự số 27/2019/HSPT ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng, kết luận bị cáo Lê Thanh Phương phạm “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự
năm 2015 và xử phạt bị cáo 10 năm tù ( Giữ y án sơ thẩm).
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì
thấy, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định bị cáo Lê Thanh Phương
phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2
Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 là có cơ sở. Tuy nhiên, học viên còn chút bân
khuân về dấu hiệu định tội (mặt ý thức chủ quan của tội phạm). Bởi lẽ, căn cứ
vào lời khai của bị cáo, số ma túy được thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác
của vụ án thì xác định bị cáo lấy 02 bịch ma túy (20g ma túy đá) của người tên
Hoàng để đi giao lại cho người mua để được hưởng khoảng tiền chênh lệch là
800.000 đồng nhưng chưa giao được ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả
tang. Tuy lời khai của bị cáo là lấy ma túy đem giao cho người mua để hưởng
tiền chênh lệch (là có sự mua đi – bán lại) nhưng Cơ quan điều tra không
chứng minh được có người mua (đang đợi giao ma túy thì bị bắt). Theo hướng
dẫn của các văn bản quy phạm pháp luật về xét xử các tội mua bán trái phép
chất ma túy thì xét về ý thức chủ quan, mục đích của tội phạm, nếu việc tàng
trữ, vận chuyển ma túy nhằm để mua bán thì phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy. Nhưng đối với vụ án nêu trên, về mặt ý thức chủ quan của bị cáo là
nhận số ma túy của người tên Hoàng để giao cho người mua lấy tiền chênh
lệch 800.000 đồng thì chúng ta cũng có thể suy đoán số tiền 800.000 đồng
chênh lệch là tiền công của người tên Hoàng trả cho bị cáo vận chuyển ma túy
giao cho người mua, vì người tên Hoàng không có lai lịch cụ thể, CQĐT
không tiến hành chứng minh, đối chất được có việc mua bán ma túy giữa bị
cáo với người tên Hoàng hay không?. Nên cũng có thể kết luận bị cáo phạm tội
mua bán trái phép chất ma túy, mà theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.
Vì vậy, quan điểm của học viên trong vụ án này Lê Thanh Phương phạm
tội Vận chuyển trái phép ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 250 hay
tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 250
của Bộ luật hình sự năm 2015. Vấn đề này, cần có Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán hướng dẫn cụ thể, rõ ràng trong các vụ án về ma túy trong thời
gian tới.
Tóm lại, khi định tội danh đối với các loại tội phạm về ma túy, ngoài các
dấu hiệu định tội cấu thành tội phạm cơ bản thì cũng cần xem xét về mặt ý
thức chủ quan của người phạm tội, cũng như bản chất nội dung sự việc xảy ra
để xem xét, đánh giá một khách quan, toàn diện dựa trên các nguyên tắc của
Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự quy định.
* Vụ án bị cáo Trần Thanh Lợi, Lê Thanh Bình:
Vào khoảng 09 giờ 35 phút, ngày 23/3/2018, Đội cảnh sát điều tra về ma
túy Công an thành phố Sóc Trăng bắt quả tang Trần Thanh Lợi có hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy tại trước nhà số 2, đường Trần Quang Diệu, phường
2, thành phố Sóc Trăng. Qua kiểm tra, phát hiện Lợi đang tàng trữ 02 bịch
nylon, có chứa bên trong nhiều cục tinh thể màu trắng, nghi là ma túy đá, để
trong gói thuốc JET, bỏ vào bọc nylon đen treo trên xe biển kiểm soát 83P1 –
712.38 mà Lợi đang điều khiển. Công an tiến hành thu giữ, niêm phong vật
chứng của vụ án.
Tại bản kết luận giám định số 12/GĐ – PC54 ngày 23/3/2018, kết luận:
Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có (khối lượng) trọng
lượng là 0,381g, loại Methamphetamine.
Trong quá trình điều tra, Trần Thanh Lợi khai nhận, bản thân Lợi là
người nghiện ma túy, số ma túy bị bắt quả tang là của bị cáo mua của Lê
Thanh Bình để sử dụng và chia nhỏ ra bán lại cho các đối tượng nghiện khác
kiếm lời, cũng như lấy ma túy sử dụng. Tại thời điểm bị bắt, bị cáo đang đợi
giao ma túy cho con nghiện hẹn mua ma túy, bị cáo Lợi đã bán ma túy cho các
con nghiện như Hồng Đại Phát (02 lần), mỗi lần từ 01 đến 02 bịch, mỗi bịch
300.000 đồng, bán cho Thạch Hoàng Khương 02 lần, mỗi lần bán 02 bịch, mỗi
bịch 300.000 đồng.
Qua lời khai của Trần Thanh Lợi, Cơ quan điều tra đã bắt giữa và khám
xét nhà của Lê Thanh Bình. Tại Cơ quan điều Tra Bình khai nhận, bị cáo cũng
là người nghiện ma túy, bị cáo mua ma túy của người tên “Cướp Biển” không
biết họ tên, địa chỉ cụ thể, tại khu vực đường Vành Đai, phường 6, thành phố
Sóc Trăng, bị cáo mua mỗi lần 02 bịch, 01 bịch 500.000 đồng. Sau đó, bị cáo
đem về nhà chia 01 bịch ma túy mua được thành 02 bịch nhỏ và dư ra ít ma túy
để sử dụng, bán lại cho Lợi mỗi bịch 300.000 đồng, tính đến thời điểm bị bắt
bị cáo đã bán cho Lợi 02 lần ma túy, tổng cộng 04 bịch.
Tại Cáo trạng số 49/CT - VKS ngày 25/7/2018 của Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Trần Thanh Lợi về
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 và bị cáo Lê Thanh Bình về “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự
năm 2015.
Tại Bản án hình sự số 60/2019/HSST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân
dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Trần Thanh Lợi phạm “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 07 năm tù. Bị cáo Lê Thanh Bình phạm
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 06 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì
thấy, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xác định bị cáo Trần Thanh Lợi
phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2
Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng tội danh với hành vi
phạm tội mà bị cáo Lợi đã thực hiện. Cơ quan điều tra đã chứng minh được
Lợi đã có hành vi bán ma túy trái phép cho 02 đối tượng nghiện 04 lần, trong
một ngày bị cáo bán ma túy cho nhiều người nên thuộc 02 tình tiết định khung
tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với Lê Thanh Bình, kết luận bị cáo phạm
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng tội danh với hành vi phạm tội
mà bị cáo Bình đã thực hiện, Cơ quan điều tra đã chứng minh được bị cáo đã
có hành vi 02 lần bán ma túy cho bị cáo Lợi nên thuộc tình tiết định khung
tăng nặng hình phạt là phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, trong vụ án này có 02 bị
cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, nhưng
hành vi của hai bị cáo là hoàn toàn độc lập với nhau, không có vai trò đồng
phạm nên Tòa án xác định các bị cáo phạm tội không có đồng phạm là đúng
với các tình tiết, nội dung của vụ án. Nhưng trong việc áp dụng hình phạt của
từng bị cáo còn chưa chính xác, chưa đúng tính chất, mức độ, hậu quả về hành
vi nguy hiểm của từng bị cáo, sẽ được phân tích trong phần áp dụng hình phạt
đối với các bị cáo của vụ án này.
2.2.2.4. Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trong trường
hợp đặc biệt.
Qua thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2014 đến 2019) của Tòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Sóc Trăng đã đưa ra xét xử 43 vụ án hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy. Trong đó, có 30 vụ án các bị cáo bị định tội
danh theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự (hoặc khoản 2 Điều 194 Bộ
luật hình sự năm 1999). Trong số 30 vụ án có các bị cáo bị định tội danh theo
cấu thành tội phạm tăng nặng thì có 05 vụ án phạm tội có đồng phạm, 01 vụ
phạm 02 tội (01 bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, còn 01 bị cáo
phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy).
* Một số vụ án hình sự cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng được định tội danh theo cấu thành tội phạm
tăng nặng nhưng có đồng phạm và phạm nhiều tội.
* Vụ án bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn và đồng bọn bị Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng xét xử.
Vào khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 06/9/2017, Đội cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy, Công an thành phố Sóc Trăng kết hợp với Công an phường 5,
thành phố Sóc Trăng phát hiện bắt quả tang Thái Hoàng Anh Tuấn đang có
hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong khu vực Chùa Sam Rông ở đường
Tôn Đức Thắng, khóm 3, phường 5, thành phố Sóc Trăng. Qua kiểm tra, phát
hiện 01 bịch nylon màu trắng có chứa chất tinh thể màu trắng gần vị trí xe mô
tô biển kiểm soát 54L1 – 9443 của Tuấn đang điều khiển. Cơ quan điều tra tiến
hành khám xét nhà của Tuấn tại số 571, đường Tôn Đức Thắng, khóm 3,
phường 5, thành phố Sóc Trăng tiếp tục thu giữ them 01 bịch nylon màu trắng
có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, được cất giấu tại khu vực bếp
ăn trong nhà của Tuấn.
Tại bản kết luận giám định số 42/GĐ – PC54 ngày 05/8/2018, kết luận:
02 Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, 01 gói có (khối
lượng) trọng lượng là 0,181 gam, loại Methamphetamine; 01 gói có (khối
lượng) trọng lượng là 2,180 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, Tuấn khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy,
để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng. Tuấn đã mua ma túy của người thanh
niên tên Lập (không biết họ tên, địa chỉ cụ thể) tại bến xe Sóc Trăng để bán
cho các con nghiện kiếm lời và lấy ma túy sử dụng. Bị cáo đã bán ma túy từ
tháng 6 năm 2018 đến ngày 06/9/2018 thì bị bắt, việc bán ma túy có vợ của
Tuấn là Châu Thị Hồng Hoa, và Thạch Khởi cùng tham gia mua bán ma túy
cho các con nghiện. Tuấn khai đã bán ma túy cho các con nghiện vào các ngày
( A, B, C, D... có họ tên, địa chỉ cụ thể trong đó có đối tượng nghiện dưới 16
tuổi và một số con nghiện không biết họ tên, địa chỉ), bán mỗi lần từ 150.000
đồng đến 300.000 đồng, với hình thức các con nghiện gọi điện cho Tuấn hẹn
giao ma túy hoặc đến nhà mua ma túy.
Tại Cơ quan điều tra, Hoa và Khởi cũng khai nhận: Bản thân cũng là
người nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng thì Hoa ở nhà giúp
cho Tuấn nghe điện thoại của người mua ma túy hoặc lấy ma túy bán và thu
tiền của con nghiện đến nhà mua ma túy, hoặc đem ma túy giao khi có người
điện thoại mua (Hoa khai cũng bán nhiều lần cho các con nghiện A, B, C, D...
có đối tượng nghiện dưới 16 tuổi). Còn đối với Khởi, khi các con nghiện điện
thoại mua ma túy thì Tuấn hoặc Hoa đưa ma túy cho Khởi đi giao và thu tiền
hoặc con nghiên điện thoại cho Khởi, Khởi báo lại Tuấn lấy ma túy đem bán
cho người mua, mỗi lần giao ma túy thì Khởi được Tuấn hoặc Hoa cho tiền,
lấy chênh lệch của các con nghiện hoặc ma túy để sử dụng (Từ khi bị bắt thì
Khởi khai nhận đã đi giao ma túy cho các con nghiện A, B, C, D.... có đối
tượng nghiện dưới 16 tuổi).
Tại Cáo trạng số 102/CT - VKS ngày 13/11/2018 của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Thái Hoàng Anh
Tuấn, Châu Thị Hồng Hoa và Thạch Khởi về “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm b, c, e khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm
2015.
Tại Bản án hình sự số 111/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án
nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận các bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn,
Châu Thị Hồng Hoa và Thạch Khởi về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”
theo quy định tại điểm b, c, e khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và
xử phạt bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn 10 năm tù, Châu Thị Hồng Hoa 08 năm
tù và Thạch Khởi 04 năm 06 tháng tù (Khởi là người chưa thành niên).
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xác định bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn,
Châu Thị Hồng Hoa và Thạch Khởi về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”
theo quy định tại điểm b, c, e khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có
cơ sở, định tội đúng tội danh với hành vi phạm tội mà từng bị cáo đã thực hiện.
Cơ quan điều tra đã chứng minh được các bị cáo đã có hành vi bán ma túy trái
phép nhiều lần cho các đối tượng nghiện, trong một cùng 01 ngày các bị cáo
bán ma túy cho nhiều người, trong đó có cả người dưới 16 tuổi mua ma túy của
các bị cáo để sử dụng nên thuộc 03 tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Qua nhận định nội dung của vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng đánh giá vai trò đồng phạm của từng bị cáo, để kết luận hành vi phạm
tội của từng bị cáo, cũng như xác định tội danh chính xác, đúng pháp luật.
Trong vụ án này, các bị cáo thống nhất ý chí thực hiện hành vi mua bán trái
phép chất ma túy cho nhiều người nghiện, nhưng giữa các bị cáo không có sự
câu kết chặt chẽ, bàn bạc phân công vai trò cụ thể cho từng bị cáo nên, Tòa án
kết luận các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn.
Trong đó, bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn là người giữ vai trò chính, bị
cáo là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo Hoa, Khởi cùng bán ma túy cho
nhiều người. Bị cáo cũng là người giữ vai trò thực hành tích cực, trực tiếp mua
ma túy về phân ra thành nhiều bịch nhỏ rồi bán cho người nghiện, cũng như
giao ma túy cho Hoa và Khởi đem bán cho người nghiện. Ngoài 03 tình tiết
định khung tăng nặng hình phạt, bị cáo Tuấn còn phải chịu thêm tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự là “Xúi giục người chưa đủ 18 tuổi phạm tội” (giao
ma túy cho Thạch Khởi bán, Khởi là người chưa đủ 18 tuổi).
Bị cáo Châu Thị Hồng Hoa là người thực hiện hành vi phạm tội với vai
trò đồng phạm thực hành tích cực, trực tiếp nhận ma túy từ bị cáo Tuấn để bán
ma túy cho các con nghiện, cũng như bị cáo giao ma túy cho bị cáo Thạch
Khởi (là người chưa thành niên) đem bán cho các con nghiện nên phải chịu
thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Xúi giục người chưa đủ 18
tuổi phạm tội”.
Bị cáo Thạch Khởi cũng là người thực hiện hành vi phạm tội với vai trò
đồng phạm thực hành tích cực, trực tiếp nhận ma túy từ bị cáo Tuấn và Hoa để
bán ma túy cho các con nghiện, để được hưởng tiền chênh lệc, được cho ma
túy để sử dụng.
Tóm lại, trong vụ án này các bị cáo phạm tội “ Mua bán trái phép chất
ma túy” với nhiều tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, được
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng kết luận, định tội danh chính xác, đầy
đủ, toàn diện về các tình tiết định tội danh cấu thành tội phạm định khung tăng
nặng, cũng như định tội danh cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để áp dụng hình phạt tương xứng với từng hành vi tội phạm của
từng bị cáo đã thực hiện.
* Bị cáo Vũ P và đồng bọn bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên xét xử:
Vào khoảng 19 giờ 50 phút, ngày 25/01/2019, Đội cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy, Công an huyện Mỹ Xuyên kết hợp với Phòng cảnh sát điều
tra tội về ma túy Công an tỉnh Sóc Trăng phát hiện, bắt quả tang Nguyễn N bán
trái phép chất ma túy cho đối tượng Trần Hào tại nhà của Vũ P thuộc ấp
Dương Kiển, xã Hòa Tú 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Thu giữ trên
người Trần Hào 01 bịch nylon, bên trong có chứa các chất tinh thể màu trắng,
nghi là ma túy nên niêm phong, thu giữ.Tiếp tục khám xét nhà của Vũ P thì
phát hiện và thu giữ thêm 09 bịch nylon có chứa các chất tinh thể màu trắng,
nghi là ma túy nên tiến hành niêm, phong.
Tại bản kết luận giám định số 09/GĐ – PC09 ngày 28/01/2019, kết luận:
02 Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, 01 gói có (khối
lượng) trọng lượng là 0,28 gam, loại Methamphetamine; 01 gói có (khối
lượng) trọng lượng là 1,89 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ P khai nhận: Số ma túy thu giữ tại nhà Vũ P là
của bị cáo mua về và phân ra từng bịch nylon để bán cho các con nghiện tại địa
phương. Còn Nguyễn N là bạn của P, đến nhà của P ở để bán ma túy tiếp cho
P, P cho tiền và ma túy sử dụng. Trước khi bị bắt thì P và N mỗi ngày bán ma
túy cho từ 03 đến 05 con nghiện, mỗi bịch ma túy từ 300.000 đồng đến
500.000 đồng, bán được hơn 01 tháng thì bị bắt.
Tại Cáo trạng số 11/CT - VKS ngày 04/5/2019 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Vũ P và Nguyễn N về
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự số 10/2019/HSST ngày 12/6/2019 của Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Xuyên, kết luận các bị cáo Vũ P và Nguyễn N về “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo Vũ P 08 năm 06 tháng tù, Nguyễn N 08
năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên xác định bị cáo Vũ P và Nguyễn N về “Tội
mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251
Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, định tội đúng tội danh với hành vi phạm
tội mà từng bị cáo đã thực hiện. Cơ quan điều tra đã chứng minh được các bị
cáo đã có hành vi bán ma túy trái phép nhiều lần cho các đối tượng nghiện,
trong một cùng 01 ngày các bị cáo bán ma túy cho nhiều người sử dụng nên
thuộc 02 tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nêu trên (điểm b, c
khoản 2 Điêu 251 Bộ luật hình sự năm 2015).
Qua nhận định nội dung của vụ án, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên
đánh giá vai trò đồng phạm của từng bị cáo, để kết luận hành vi phạm tội của
từng bị cáo, cũng như xác định tội danh chính xác, đúng pháp luật. Trong vụ
án này, bị cáo Vũ P là người giữ vai trò chính, trực tiếp mua ma túy về phân
nhỏ để bán cho các con nghiện, dùng nhà của mình làm địa điểm để bán ma
túy cho các con nghiện. Còn Nguyễn N giữa vai trò đồng phạm giúp sức tích
cực, lấy ma túy từ P để bán cho các đối tượng nghiện, được P trả tiền công,
cũng như ma túy để sử dụng. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên
kết luận, định tội danh đối với Vũ P, Nguyễn N phạm “Tội mua bán trái phép
chất ma túy” là hoàn toàn chính xác, có đủ căn cứ như bắt quả tang Nguyễn N
bán ma túy cho đối tượng nghiện, thu giữ tại nhà Vũ P 09 bịch ma túy, P khai
số ma túy bị thu giữ là của P mua về để bán cho các đối tượng nghiện. Nhưng
căn cứ từ lời khai của Nguyễn N, Vũ P để kết luận và định tội danh Vũ P và
Nguyễn N phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng theo điểm c khoản 2
Điều 251 là chưa đủ cơ sở vững chắc. Bởi vì, trong quá trình điều tra vụ án Cơ
quan điều tra chỉ chứng minh được các bị cáo bán ma túy nhiều lần cho nhiều
đối tượng nghiện (vụ án có 02 người làm chứng là đối tượng nghiện, khai nhận
mua ma túy của P và N nhiều lần) trong thời gian dài khoảng hơn 01 tháng thì
bị bắt thì chỉ chứng minh được rằng bị cáo P và N phạm tội theo tình tiết định
khung tăng nặng của điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, qua lời khai
của các bị cáo không thể chứng minh các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội “
đối với 02 người trở lên”. Nên, việc Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên định tội
danh các bị cáo Vũ P và Nguyễn N phạm tội theo cấu thành tăng nặng theo
điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và thêm tình tiết định khung tăng
nặng theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là không chính xác, không
có lợi cho bị cáo.
Từ đó, việc định tội danh cấu thành tội phạm theo tình tiết định khung
tăng nặng của vụ án nêu trên không chính xác, dẫn đến việc áp dụng hình phạt
đối với bị cáo Vũ P và Nguyễn N không tương xứng với hành vi phạm tội của
các bị cáo đã thực hiện (xử phạt nặng hơn so với hành vi của các bị cáo), sẽ
được phân tích, đánh giá cụ thể trong phần áp dụng hình phạt của luận văn.
* Vụ án bị cáo Đặng Văn Lợi và đồng bọn bị Tòa án nhân dân huyện
Mỹ Tú xét xử:
Ngày 20/6/2018, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an
tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Công an huyện Mỹ Tú tiến hành xác minh và bắt
quả tang Đặng Văn Lợi đang bán trái phép chất ma túy cho Thái Văn Hoàng
tại nhà của Nguyễn Thị Mỹ Hằng. Ngoài Lợi, thì Cơ quan công an còn bắt giữ
Bùi Văn Sang và Trần Tiến Đạt.
Tại bản kết luận giám định số 30/GĐ – PC54 ngày 25/6/2018, kết luận:
Các mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có trọng lượng là
0,391 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, Đặng Văn Lợi khai nhận: Đầu tháng 6 năm 2018,
Lợi rủ Đạt và Sang lại nhà bạn gái của Lợi là Nguyễn Thị Mỹ Hằng chơi. Tại
đây Lợi, Sang, Đạt thường xuyên hùn tiền mua ma túy đá về sử dụng. Lợi gợi
ý với Sang, Đạt kiếm tiền mua ma túy về vừa sử dụng vừa bán lại cho các con
nghiện để kiếm lời để mua ma túy sử dụng, vừa có tiền tiêu xài hàng ngày thì
tất cả đồng ý. Sau đó, Sang và Đạt đi Sóc Trăng mua ma túy về giao cho Lợi
để Lợi chia nhỏ ra nhiều bịch để bán và sử dụng.
Đặng Văn Lợi còn khai nhận, trước khi bị bắt đã bán ma túy cho 07 con
nghiện, tổng cộng 17 lần (có lời khai, biên bản đối chất của 07 đối tượng
nghiện ma túy). Bùi Văn Sang khai cùng với Đạt đi mua ma túy về giao lại cho
Lợi chia nhỏ ra bán khoảng 02 lần, Sang đi mua ma túy 01 mình giao cho Lợi
03 lần và trực tiếp bán ma túy cho 02 đối tượng nghiện 02 lần. Còn Trần Tiến
Đạt khai nhận: Đạt đã cầm xe và điện thoại của mình để lấy tiền mua ma túy
giao cho Lợi để bán cho các con nghiện, Đạt trực tiếp mua ma túy 05 lần giao
cho Lợi bán, cùng với Sang đi mua ma túy giao cho Lợi 02 lần và cùng Lợi
trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng nghiện 03 lần (có lời khai của các đối
tượng nghiện ma túy mua ma túy của các bị cáo, biên bản đối chất của các bị
cáo Sang, Lợi, Đạt và các đối tượng nghiện ma túy với các bị cáo). Còn
Nguyễn Thị Mỹ Hằng khai nhận: Hằng với Lợi có quan hệ tình cảm với nhau,
cuối tháng 5 thì Lợi rủ Sang và Đạt đến nhà Hằng ở chung. Cả nhóm ở chung
được 04 – 05 ngày thì Hằng biết Lợi, Sang và Đạt bán ma túy nhưng do Hằng
với Lợi có tình cảm với nhau và Lợi đưa tiền cho Hằng tiêu xài nên đồng ý để
cho Lợi, Sang, Đạt bán ma túy tại nhà Hằng. Ngoài ra, Hằng còn trực tiếp bán
ma túy 02 lần cho 02 đối tượng nghiện ma túy do các đối tượng nghiện đến
nhà mua ma túy thì Lợi kêu Hằng đi lấy ma túy bán và nhận tiền.
Tại Bản án hình sự số 27/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, kết luận các bị cáo Đặng Văn Lợi, Trần
Tiến Đạt, Bùi Văn Sang và Nguyễn Thị Mỹ Hằng phạm “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình
sự năm 2015 và xử phạt bị cáo Đặng Văn Lợi 08 năm 06 tháng tù, Trần Tiến
Đạt 07 năm 06 tháng tù, Bùi Văn Sang 07 năm 06 tháng tù và Nguyễn Thị Mỹ
Hằng 07 năm tù.
Sau đó, bị cáo Trần Tiến Đạt, Bùi Văn Sang kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt.
Tại Bản án hình sự số 13/2018/HSPT ngày 19/02/2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng bác kháng cáo của Đạt và Sang; giữ y án sơ thẩm; Kết luận
các bị cáo Trần Tiến Đạt, Bùi Văn Sang phạm “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án cấp sơ thẩm huyện Mỹ Tú và Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh Sóc Trăng kết
luận các bị cáo Đặng Văn Lợi, Trần Tiến Đạt, Bùi Văn Sang và Nguyễn Thị
Mỹ Hàng phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b,
c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, định tội đúng tội
danh với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Cơ quan điều tra đã
chứng minh được các bị cáo đã có hành vi bán ma túy trái phép nhiều lần cho
các đối tượng nghiện, trong một cùng 01 ngày các bị cáo bán ma túy cho nhiều
người, nên thuộc 02 tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo
quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
Qua nhận định nội dung của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm huyện Mỹ Tú và
Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh Sóc Trăng đánh giá vai trò đồng phạm của từng bị
cáo, để kết luận hành vi phạm tội của từng bị cáo, cũng như xác định tội danh
chính xác, đúng pháp luật. Trong vụ án này, các bị cáo thống nhất ý chí thực
hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nghiện, nhưng
giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ, bàn bạc phân công vai trò cụ thể
cho từng bị cáo nên, Tòa án kết luận các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn.
Trong đó, bị cáo Đặng Văn Lợi, Trần Tiến Đạt, Bùi Văn Sang đều là
những người giữ vai trò chính, cùng thực hành, cùng bàn bạc, thỏa thuận việc
mua ma túy về chia nhỏ lại để bán cho các đối tượng nghiện ma túy, cũng như
trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng nghiện. Còn bị cáo Nguyễn Thị Mỹ
Hằng là người thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức tích
cực, biết các bị cáo dùng nhà của mình làm địa điểm bán ma múy nhưng vẫn
đồng ý, được hưởng lợi từ việc bán ma túy của các bị cáo khác, cũng như giúp
bị cáo Lợi lấy ma túy bán cho các con nghiện 02 lần. Nhưng do Đặng Văn Lợi
là người khởi xướng việc mua ma túy về sử dụng và phân nhỏ ra bán lại cho
các đối tượng nghiện ma túy nên hình mức hình phạt của bị cáo Lợi cao hơn
các bị cáo khác.
Tóm lại, trong vụ án này các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” với nhiều tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, được
Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm kết luận, định tội danh chính xác, đầy đủ, toàn
diện về các tình tiết định tội danh theo cấu thành tội phạm định khung tăng
nặng theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
* Vụ án Nguyễn Kiến Quốc và đồng bọn phạm nhiều tội bị Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Tú xét xử:
Vào khoảng 13 giờ, ngày 22/6/2018 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về
ma túy Công an tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Công an huyện Mỹ Tú kiểm tra
nhà số 206 của bà Nguyễn Thị Hồng Được, thuộc ấp Cầu Đồn, thị trấn Huỳnh
Hữu Nghĩa, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng phát hiện, thu giữ trong túi quần
Nguyễn Kiến Quốc 01 bịch nylon bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu
trắng bỏ trong vỏ gói thuốc lá hiệu JET và tiến hành kiểm tra nơi ở của Quốc
và Thạch Bình Phương, Cơ quan điều tra còn thu giữ nhiều dụng cụ để sử dụng
ma túy, cân điện tử hiệu Amput, 02 xe mô tô và số tiền 41.000.000 đồng và 05
bịch nylon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên tiến
hành niêm phong và trưng cầu giám định.
Tại bản kết luận giám định số 33/GĐ – PC54 ngày 25/6/2018, kết luận:
Các mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có trọng lượng là
1,867 gam, loại Methamphetamine.
Qua quá trình điều tra, bị cáo Quốc và Phương khai nhận: Vào khoảng
21 giờ ngày 20/6/2018, Quốc rủ Phương đi thành phố Cần Thơ mua ma túy để
đem về sử dụng, cả hai đồng ý nên Quốc chở Phương lên thành phố Cần Thơ
mua ma túy của một người tên Thanh (không rõ lai lịch) với số tiền 4.850.000
đồng. Sau đó, cả hai đem số ma túy vừa mua được đem về cất giấu và qua nhà
bà Được để ngủ thì bị bắt giữ. Ngoài ra, bị cáo Phương còn khai nhận trước đó
có bán ma túy cho 02 người khác 02 lần, vào khoảng 19 giờ ngày 21/6/2018
bán cho Trần Văn Đạt 01 bịch ma túy 300.000 đồng, vào 08 giờ ngày
22/6/2018 bán cho Trương Phước Hồng 01 bịch ma túy 500.000 đồng.
Tại Bản án hình sự số 23/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, kết luận các bị cáo Thạch Bình Phương
phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2
Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo Phương 09 năm tù. Kết
luận bị cáo Nguyễn Kiến Quốc Phương phạm “Tội Tàng trữ trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và
xử phạt bị cáo Quốc 02 năm 06 tháng tù.
Sau đó, bị cáo Thạch Bình Phương kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại Bản án hình sự số 18/2018/HSPT ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phương; Sữa án sơ thẩm;
Kết luận các bị cáo Thạch Bình Phương phạm “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử
phạt bị cáo Phương 07 năm tù.
* Quan điểm của học viên: Qua nội dung các tình tiết của vụ án thì thấy,
Tòa án cấp sơ thẩm huyện Mỹ Tú đã kết luận bị cáo Nguyễn Kiến Quốc phạm
“Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249
của Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, định tội đúng tội danh đối với hành
vi phạm tội mà bị cáo Quốc đã thực hiện, hành vi tàng trữ trái phép chất ma
túy của bị cáo Quốc nhằm để bị cáo sử dụng, không có mục đích mua bán. Còn
riêng đối với bị cáo Thạch Bình Phương kết luận bị cáo “Tội mua bán trái phép
chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm
2015 là đúng tội danh với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo ngoài mục đích để sử dụng bị cáo còn
để bán cho người khác 02 lần. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm huyện Mỹ Tú định
tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với bị cáo Phương theo tình tiết
định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên”
theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là không chính xác. Bởi vì, bị
cáo Phương phạm tội 02 lần nhưng mỗi lần phạm tội bị cáo Phương chỉ bán
ma túy cho 01 người nên chỉ chịu tình tiết định khung tăng nặng theo điểm
điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh Sóc Trăng đã sửa án sơ thẩm và giảm
hình phạt cho bị cáo Phương; Kết luận bị cáo Phương phạm “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự
năm 2015 là chính xác, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo Phương đã thực
hiện so với quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Qua nhận định nội dung của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm huyện Mỹ Tú và
Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh Sóc Trăng đã kết luận hành vi phạm tội của từng bị
cáo, cũng như xác định đúng tội danh. Nhưng riêng Tòa án cấp sơ thẩm huyện
Mỹ Tú định tội danh không chính xác trong cấu thành tình tiết định khung tăng
nặng đối với bị cáo Phương, dẫn đến việc áp dụng hình phạt không đúng nên bị
Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo Phương.
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy.
2.3.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy.
Trong thời gian 05 năm (Ngày 01/10/2014 đến 30/9/2019) các cơ quan
tiến hành tố tụng tại Sóc Trăng đã điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm 120 vụ án
hình sự có liên quan đến tội phạm ma túy đối với 162 bị can, bị cáo. Trong đó,
có 43 vụ án hình sự là tội mua bán trái phép chất ma túy và 67 bị can, bị cáo,
số vụ án còn lại là tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy, hoặc tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy. Trong số 120 vụ án nêu trên, có nhiều vụ
án trọng điểm, được đưa ra xét xử lưu động. Trong 43 vụ án về tội mua bán
trái phép chất ma túy có 14 vụ án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, kết quả
xét xử phúc thẩm giữ y án sơ thẩm 13 vụ, có 01 vụ sửa án. Các đối tượng
phạm tội chủ yếu là các đối tượng nghiện ma túy (63/162), có nhiều tiền án,
tiền sự, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (5/162). Cụ thể, các bị cáo bị áp
dụng mức hình phạt tù dưới 03 năm là 74 bị cáo, từ 03 năm đến 07 năm là 47
bị cáo, từ 07 năm đến 15 năm là 29 bị cáo, trên 15 năm đến dưới 20 năm là 7
bị cáo, 05 có án chung thân (án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh), không có án tử
hình, không có trường hợp nào cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.
Riêng đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn các huyện,
thị xã, thành phố có 43 vụ án/67 bị cáo đều bị áp dụng hình phạt tù, cụ thể có
15 bị cáo bị cáp dụng mức hình phạt dưới 03 năm, 30 bị cáo bị cáo bị áp dụng
hình phạt từ 03 năm đến 07 năm, 22 bị cáo bị áp dụng hình phạt từ 07 đến 15
năm, không có bị cáo bị áp dụng hình phạt từ 15 đến 20 năm hoặc chung thân,
tử hình.
2.3.2 Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
theo cấu thành tội phạm cơ bản.
Trong thời gian 05 năm (Từ ngày 01/10/2014 đến 30/9/2019), Tòa án
nhân dân các thành phố, thị xã, huyện (cấp sơ thẩm) đưa ra xét xử sơ thẩm và
xử phạt 15 bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm
cơ bản (khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015), có mức hình phạt dưới 03
năm, có 06 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không được Tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận, giữ y án sơ thẩm.
Đối với khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật
hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Nhìn chung, khi
quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành
tội phạm cơ bản, Tòa án cấp sơ thẩm của các thành phố, thị xã, huyện tỉnh Sóc
Trăng đều cân nhắc tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của tội phạm gây ra
cho xã hội, cũng như trọng lượng ma túy mà người bị kết án đã mua bán, nhân
thân của người bị kết án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự…. để quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo. Trong 15 bị cáo bị xét
xử về hành vi mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản
đều bị áp dụng mức hình phạt từ 02 năm trở lên, không có trường hợp nào
được hưởng án treo hoặc dưới mức thấp của khung hình phạt của điều luật áp
dụng (dưới 02 năm), đa phần các Tòa án sơ thẩm xử phạt đối với tội phạm mua
bán trái phép ma túy có phần nghiêm khắc nhưng đảm bảo đúng quy định của
pháp luật.
* Ví dụ 1:
Tại Bản án sơ thẩm số 09/2019/HSSST ngày 26/02/2019 của Tòa án
nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Ngô Văn D phạm “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Văn D 02 năm tù (Nội dung vụ án được ví dụ trong phần
định tội danh cấu thành tội phạm cơ bản nêu trên của luận văn).
* Ví dụ 2:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 102/2014/HSST ngày 27/11/2014 của Tòa
án nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận: Bị cáo Trần Kim Xuyến phạm tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự và xử
phạt bị cáo Xuyến 04 năm tù. (Nội dung vụ án được ví dụ trong phần định tội
danh cấu thành tội phạm cơ bản nêu trên của luận văn).
2.3.3. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
theo cấu thành tội phạm tăng nặng (Khoản 2, 3, 4 của Điều 251 Bộ luật hình
sự).
Trong thời gian 05 năm (Từ ngày 01/10/2014 đến 30/9/2019), Tòa án
nhân dân các thành phố, thị xã, huyện (cấp sơ thẩm) đưa ra xét xử sơ thẩm và
xử phạt 52 bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm
tăng nặng (khoản 2, 3, 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015), nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm cấp huyện chủ yếu xét xử tội phạm mua bán trái phép chất ma túy
theo khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, có 07 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt nhưng chỉ có 01 trường hợp được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận,
còn lại 07 trường hợp giữ y án sơ thẩm.
Đối với khung hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật
hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Nhìn chung, khi
quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành
tội phạm cơ bản, Tòa án cấp sơ thẩm của các thành phố, thị xã, huyện tỉnh Sóc
Trăng đều cân nhắc tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của tội phạm gây ra
cho xã hội, cũng như trọng lượng ma túy mà người bị kết án đã mua bán, nhân
thân của người bị kết án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự…. để quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo. Trong 52 bị cáo bị xét
xử về hành vi mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm tăng
nặng (khoản 2) đều bị áp dụng mức hình phạt từ 07 năm trở lên, chỉ có 01
trường hợp được áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
áp dụng ( bị xử phạt 06 năm tù) theo Điều 54 của Bộ luật hình sự, các trường
hợp còn lại Tòa án sơ thẩm xử phạt đối với tội phạm mua bán trái phép ma túy
có phần nghiêm khắc nhưng đảm bảo đúng quy định của pháp luật, xử phạt từ
07 năm tù trở lên.
* Ví dụ 01: Tại Bản án số 09/2019/HSST ngày 18/9/2019 của Tòa án
nhân dân huyện Thạnh Trị; kết luận: bị cáo Ngô Hiệp D về “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự
và xử phạt bị cáo D 07 năm tù.
* Ví dụ 02: Tại Bản án hình sự số 60/2019/HSST ngày 05/9/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Trần Thanh Lợi phạm
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 07 năm tù. Bị cáo Lê Thanh
Bình phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 06 năm tù (do
có 02 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 nên được áp dụng Điều 54 của
Bộ luật hình sự).
* Ví dụ 3: Tại Bản án hình sự số 10/2019/HSST ngày 19/02/2019 của
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận bị cáo Lê Thanh Phương phạm
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 10 năm tù.
Tại Bản án hình sự số 27/2019/HSPT ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng, kết luận bị cáo Lê Thanh Phương phạm “Tội mua bán trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự
năm 2015 và xử phạt bị cáo 10 năm tù ( Giữ y án sơ thẩm).
2.2.4 Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
trong trường hợp đặc biệt (Đồng phạm, người chưa thành niên phạm tội hoặc
phạm nhiều tội).
Trong thời gian 05 năm (Từ ngày 01/10/2014 đến 30/9/2019), Tòa án
nhân dân các thành phố, thị xã, huyện (cấp sơ thẩm) đưa ra xét xử sơ thẩm 43
vụ án hình sự sơ thẩm và xử phạt 52 bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma
túy theo cấu thành tội phạm tăng nặng (khoản 2, 3, 4 Điều 251 của Bộ luật
hình sự 2015 hoặc khoản 2, 3, 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009 thì có 05 vụ án phạm tội có đồng phạm, 01 vụ phạm 02 tội (01
bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, còn 01 bị cáo phạm tội tàng trữ
trái phép chất ma túy). Trong các vụ án này cũng được Tòa án cấp sơ thẩm áp
dụng hình phạt đối với các bị cáo cũng khá nghiêm khắc, có đánh giá vai trò
đồng phạm của từng bị cáo nhưng chưa cụ thể hóa vai trò đồng phạm của từng
bị cáo để có áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi của từng người, cụ
thể qua các ví dụ sau:
* Ví dụ 1: Tại Bản án hình sự số 10/2019/HSST ngày 12/6/2019 của
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, kết luận các bị cáo Vũ P và Nguyễn N về
“Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo Vũ P 08 năm 06 tháng tù,
Nguyễn N 08 năm tù.
Đối với vụ án này, đồng phạm giản đơn, không có tổ chức, câu kết chặt
chẽ, các bị cáo có cùng ý thức mua ma túy về bán lại kiếm lời, cùng trực tiếp
bán ma túy cho đối tượng nghiện nhưng Vũ P dùng nhà của mình làm địa điểm
bán ma túy, mua ma túy về phân nhỏ, còn Nguyễn N trực tiếp bán ma túy cho
các con nghiện nên mức hình phạt của Vũ P cao hơn Nguyễn N là đúng. Tuy
nhiên, mức hình phạt của P chỉ hơn N có 06 tháng là chưa tương xứng với vai
trò của P, việc phân hóa được tội phạm.
* Ví dụ 2: Tại Bản án hình sự số 111/2018/HSST ngày 30/11/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, kết luận các bị cáo Thái Hoàng Anh
Tuấn, Châu Thị Hồng Hoa và Thạch Khởi về “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm b, c, e khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015
và xử phạt bị cáo Thái Hoàng Anh Tuấn 10 năm tù, Châu Thị Hồng Hoa 08
năm tù và Thạch Khởi 04 năm 06 tháng tù (Khởi là người chưa thành niên).
Đối với vụ án này, đồng phạm giản đơn, không có tổ chức, câu kết chặt
chẽ, các bị cáo có cùng ý thức mua ma túy về bán lại kiếm lời, cùng trực tiếp
bán ma túy cho đối tượng nghiện. Nhưng Thái Hoàng Anh Tuấn là người giữ
vai trò chính, khởi xướng, rủ rê bị cáo Hoa và Khởi bán ma túy nên có hình
phạt cao hơn bị cáo Hoa và Khởi là đúng. Còn bị cáo Hoa là người phạm tội
đồng phạm với Tuấn, với vai trò thực hành tích cực, trực tiếp nhận ma túy từ
Tuấn để bán cho các con nghiện nên hình phạt nhẹ hơn Tuấn và cao hơn Khởi.
Riêng đối với Thạch Khởi cũng là đồng phạm tích cực, trực tiếp nhận ma túy
từ Tuấn và Hoa để bán cho cac con nghiện nên mức hình phạt thấp hơn Tuấn
và Hoa, cũng như là người chưa thành niên phạm tội.
* Ví dụ 3: Tại Bản án hình sự số 23/2018/HSST ngày 26/11/2018 của
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, kết luận các bị cáo Thạch Bình
Phương phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c
khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo Phương 09 năm
tù. Kết luận bị cáo Nguyễn Kiến Quốc Phương phạm “Tội Tàng trữ trái phép
chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm
2015 và xử phạt bị cáo Quốc 02 năm 06 tháng tù.
Sau đó, bị cáo Thạch Bình Phương kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại Bản án hình sự số 18/2018/HSPT ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phương; Sữa án sơ thẩm;
Kết luận các bị cáo Thạch Bình Phương phạm “Tội mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử
phạt bị cáo Phương 07 năm tù.
Đây là vụ án duy nhất trong thời gian xét xử 05 năm (Từ năm 2015 đến
năm 2019), Tòa án cấp sơ thẩm định tội danh chưa chính xác trong cấu thành
tội phạm thuộc tình tiết định khung tăng nặng nên bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa
án và giảm hình phạt cho bị cáo Phương từ 09 năm xuống 07 năm.
2.3.5. Đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng.
Trong thời gian 05 năm, Tòa án nhân dân các thành phố, thị xã, huyện
(cấp sơ thẩm) đưa ra xét xử sơ thẩm 43 vụ án hình sự sơ thẩm và xử phạt 67 bị
cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy. Cụ thể, trong 67 bị cáo đều bị xử
phạt tù, không có trường hợp nào được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam
giữ, chỉ có 01 trường hợp được áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt
dưới khung hình phạt của điều luật áp dụng (phạt 06 năm tù) và một trường
hợp định tội danh chưa chính xác trong việc xác định tình tiết định khung tăng
nặng, dẫn đến việc quyết định hình phạt nặng đối với bị cáo nên bị Tòa án cấp
phúc thẩm sửa án theo hướng giảm án (giảm từ 09 năm tù xuống 07 năm tù),
còn lại tất cả các bị cáo đều bị xử phạt nghiêm hoặc rất nghiêm.
Nhìn chung, đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng hoạt động khá giản đơn, không có tổ chức, cấu kết chặt chẽ, tội
phạm chủ yếu là các đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về để bán kiếm lời,
để lấy ma túy sử dụng, số lượng (trọng lượng) ma túy mua bán không lớn. Tuy
nhiên, trong quyết định hình phạt đối với tội phạm này của Tòa án hai cấp
trong tỉnh Sóc Trăng có phần nghiêm khắc, chưa thể hiện nguyên tắc nhân đạo
của Nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa nhưng đảm bảo đúng quy định của
pháp luật. Nguyên nhân, do quan điểm, nhận thức chung khi xử lý đối với loại
tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán), của cấp ủy, chính quyền địa phương Sóc Trăng vì thực trạng và
hậu quả của ma túy đang tác động tiêu cực, ngày càng trầm trọng hơn đến xã
hội, tội phạm ma túy cũng là nguồn của các tội phạm khác như giết người,
cướp, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản hoặc những vụ án thương tâm từ
người nghiện ma túy gây ra.
Trong quyết định hình phạt đối với tội phạm nói chung và tội phạm mua
bán trái phép chất ma túy nói riêng thì Tòa án nhân dân các thành phố, thị xã,
huyện (cấp sơ thẩm) của tỉnh Sóc Trăng khi xét xử luôn đảm bảo đúng pháp
luật, tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự khi quyết
định hình phạt. Tuy nhiên, vẫn còn sai sót trong định tội danh, áp dụng pháp
luật, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.... hoặc nhận thức khác
nhau đối với các văn bản quy phạm pháp luật nên dẫn đến quyết định hình phạt
có những vụ án quá nghiêm khắc hoặc quá nhẹ, không đảm bảo nguyên tắc
công bằng trong xét xử giữa các Tòa án. Ví dụ như: Một vụ án mua bán trái
phép chất ma túy giống nhau về nhân thân của bị cáo, trọng lượng ma túy, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì Tòa án thành phố Sóc
Trăng có thể xử phạt người phạm tội 07 năm tù nhưng Tòa án nhân dân huyện
Mỹ Xuyên phạt 08 năm tù hoặc 08 năm 06 tháng....Tóm lại, nguyên nhân, hạn
chế và sai lầm trong quyết định hình phạt có thể xuất phát từ yếu tố con người,
năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc những bất cập trong văn bản quy
phạm pháp luật, trong chính sách hình sự của nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ những nghiên cứu, phân tích trên có thể thấy rằng, vấn đề định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy có ý
nghĩa hết sức to lớn về mặt lý luận, cũng như trong thực tiễn. Để áp dụng đúng
pháp luật khi tiến hành định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy trong xét xử của Tòa án, yêu cầu cơ bản nhất của
người Thẩm phán phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về mặt lý luận của việc
định tội danh và quyết định hình phạt.
Chương 2 của luận văn, học viên đã làm rõ các vấn đề cơ bản về lý luận
định tội danh và quyết định hình phạt, từ đó làm cơ sở cho việc áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Sóc Trăng. Đồng thời, học viên đã phân tích, làm rõ thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự trong xét xử án hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
tại tỉnh Sóc Trăng. Như, phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề định tội danh đối với
tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản, theo cấu
thành tội phạm tăng nặng và định tội danh trong trường hợp đồng phạm, phạm
nhiều tội và đưa ra số liệu trong thời gian 05 năm (2015 – 2019), từng nội dung
vụ án xảy ra trên địa bàn Sóc Trăng để dẫn chứng, làm rõ những thuận lợi, khó
khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh, quyết định hình phạt
khi xét xử đối với tội mua bán trái phép chất ma túy.
Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng có thể thấy rằng, thực tiễn
hoạt động xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân
các huyện, thị xã, thành phố và Tòa án nhân dân đã đạt nhiều thành tích, xét xử
các vụ án về tội phạm ma túy nhanh chống, kịp thời, góp phần quan trọng giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền
lợi hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử các vụ án mua
bán trái phép chất ma túy của các Tòa án các huyện, thị xã, thành phố vẫn còn
sai sót, hạn chế nhất định về áp dụng pháp luật như định tội danh, quyết định
hình phạt (chưa thống nhất trong quan điểm giải quyết vụ án giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng hoặc xử phạt mức án khác nhau giữa các tòa án hoặc các
thẩm phán mặc dù tình tiết, tính chất, mức độ vụ án gần giống nhau). Vì vậy,
cần phải có sự thống nhất trong áp dụng pháp luật hình sự, hạn chế ở mức thấp
nhất những sai sót, tránh bỏ lọt tội phạm, kết án oan người vô tội, nhằm đáp
ứng được công tác đấu tranh đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Những phân tích, nhận xét, đánh giá qua các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy được xét xử của Tòa án hai cấp tại tỉnh Sóc Trăng được nêu trong
chương 2 là cơ sở quan trọng, đề ra các giải pháp áp dụng pháp luật thống
nhất, đúng quy định trong công tác xét xử loại tội phạm này trong thời gian tới
của học viên, cũng như Tòa án các huyện, thị xã, thành phố tại tỉnh Sóc Trăng
trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy.
Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp…Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Hoạt động xét xử của tòa án
được tiến hành theo trình tự thủ tục luật định là phương thức tốt nhất để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến các vi phạm các quy phạm pháp luật dân
sự, hình sự, hành chính và các ngành luật khác nhằm xác định sự thật, đi đến
chân lý khách quan của những vụ việc mang tính chất pháp lý nhằm bảo vệ
quyền con người. Cũng như trong lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự nói
chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy nói riêng, thuộc hoạt động thực tiễn pháp lý xét xử của Tòa án, phải
đáp ứng các yêu cầu có tính nguyên tắc sau:
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân
Ở nước ta việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân được
thể chế hóa cụ thể bằng Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật…thông qua
hoạt động của các cơ quan Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Được thể hiện rõ
nét, cụ thể nhất là Tòa án – cơ quan bảo vệ quyền công lý, quyền con người,
quyền công dân, thông qua hoạt động xét xử, phán quyết của Tòa án. Quyền
được bảo vệ bằng tòa án mà Hiến pháp ghi nhận và được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật chuyên ngành tồn tại dưới dạng quan hệ pháp luật giữa một
bên là chủ thể có quyền yêu cầu được bảo vệ và bên khác là tòa án – chủ thể
trên cơ sở pháp luật có nghĩa vụ xem xét và đồng thời ra quyền phán quyết đối
với yêu cầu đó. Xem xét và giải quyết yêu cầu của công dân nhằm bảo vệ
quyền con người của họ là nghĩa vụ của Tòa án nằm trong hệ thống tòa án
nước ta.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, lĩnh vực xét xử hình sự
nói riêng luôn phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ công lý, quyền con người, quyền
công dân. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động xét xử vẫn còn tồn tại, hạn chế
nhất định do chính sách pháp luật Nhà nước chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung so
với sự vận động, phát triển của các quan hệ xã hội, phần nào ảnh hưởng đến
quyền lợi hợp pháp của quyền con người, quyền công dân cần phải bảo vệ, để
hướng đến sự hoàn thiện về chính sách pháp luật, đáp ứng yêu cầu của sự vận
động, phát triển của xã hội.
Trong hoạt động xét xử tội phạm nói chung, tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy nói riêng thì cũng phải đảm bảo các yêu cầu bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng hình sự như bảo vệ quyền con
người bị tạm giữ, tạm giam, người bị buộc tội được cụ thể hóa trong quy phạm
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị
quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã
được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm
cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư
pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã
được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới
tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc
lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật
về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất
hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và
bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ
sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng
oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Cùng với những mặt
hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức.
Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng
nghiêm trọng. Đặc biệt là các vụ án hình sự về ma túy, tội phạm sản xuất, vận
chuyển, mua bán ngày càng tinh vi, có tổ chức, xuyên quốc gia, loại ma túy đa
dạng, trọng lượng ma túy đặc biệt lớn…. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối
với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh
có hiệu quả với các loại tội phạm.
Qua đó cho thấy, yêu cầu cải cách tư pháp là một trong những nội dung
đặc biệt quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể,
Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lượt cải
cách tư pháp đến năm 2020, hướng đến mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao”.
3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Đó cũng là một trong những nhiệm vụ đặt ra của Nghị quyết số 49/NQ –
TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lượt cải cách tư pháp đến năm
2020. Phải tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp.
- Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham
gia. Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là
với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ
truyền thống.
- Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức
INTERPOL, ASEANPOL,… với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với
cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học
tập.
- Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ
chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
và khu vực.
Quán triệt chủ trương, nhiệm vụ, mục tiêu của Nghị quyết, nước ta đã ký
kết, tham gia nhiều công ước quốc tế về đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng
như trong lĩnh vực tội phạm ma túy như: Công ước thống nhất các chất ma túy,
chất hướng thần và Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy
và các chất hướng thần. Đối với nhiệm vụ của nghị quyết về yêu cầu hội nhập
quốc tế cần phải được hiện thực hóa trong hoạt động xét xử của Tòa án. Vì
vậy, trong hoạt động xét xử của Tòa án cần phải quán triệt các yêu cầu về hợp
tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo đúng pháp luật
Việt Nam, vừa đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật quốc tế.
3.1.4. Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội mua bán trái phép chất ma
túy.
Dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
tình hình tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng đang diễn biến
hết sức phứt tạp, tính chất, mức độ, số lượng ma túy được tội phạm mua bán
ngày càng đặc biệt lớn, có tính tổ chức, xuyên quốc gia và có xu hướng gia
tăng về số vụ, số người phạm tội qua từng năm. Chính vì vậy, yêu cầu phòng
ngừa tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma túy hết sức khó khăn. Thực
trạng này đặt ra yêu cầu phải tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy của các cơ quan tố tụng, trong đó có Tòa án.
Để góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy có hiệu quả của Tòa án được thể hiện qua công tác xét xử, trước hết
phải bàn về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt. Định tội danh phải
đảm bảo tuyệt đối, không được sai lầm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, không để oan sai, đảm bảo mọi hành vi đều được phát
hiện xử lý kịp thời, nghiêm minh và công bằng. Hình phạt Tòa án quyết định
áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm mua bán trái phép ma túy phải đủ
sức răn đe, trừng trị đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm chung nhưng phải
đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
con người.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
mua bán trái phép chất ma túy.
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về Chiến lượt cải cách tư pháp đến năm 2020 và tổng kết thực tiễn
thực hiện Nghị quyết thì thấy cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự, đó
là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách cần đặc ra trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện
nay và hướng đến hoàn thiện pháp luật hình sự, cụ thể là tiếp tục sửa đổi, bổ
sung Bộ luật luật hình sự năm 2015 hiện nay.
Quan điểm của Học viên, xét thấy cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số
vấn đề về nội dung của Bộ luật hình sự năm 2015 nói chung và chương XX Bộ
luật hình sự về các tội phạm ma túy nói riêng để phù hợp với thực tiễn xét xử
của Tòa án, trong việc áp dụng chính sách hình sự, định tội danh và quyết định
hình phạt như sau:
Đối với phần thứ nhất những quy định chung của Bộ luật hình sự và các
chương VI và VII của Bộ luật hình sự cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung theo hướng
phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết
hướng đến xóa bỏ án tử hình và tăng cường các chế tài hình phạt đánh vào
kinh tế, tài chính của tội phạm, tịch thu toàn bộ tài sản của tội phạm, đặc biệt là
tội phạm liên quan đến mua bán ma túy.
Ví dụ: Điều 45 của Bộ luật hình sự quy định về Tịch thu tài sản, cần quy
định tịch thu toàn bộ tài sản đối với những tài sản không rõ nguồn gốc hoặc
không chứng minh được thu nhập hợp pháp của…tội phạm ma túy.
Đối với chương XX các tội phạm về ma túy của Bộ luật hình sự cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung một số dấu hiệu định tội, định khung hình phạt và mức
hình phạt, cụ thể tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 cần sửa đổi theo
hướng như sau:
Một là, bỏ dấu hiệu định lượng các chất ma túy để làm căn cứ xử lý
trách nhiệm hình sự. Nếu người nào có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
mua bán, chiếm đoạt….trái phép các chất ma túy là bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (không quy định trọng lượng/khối lượng hoặc mức tối thiểu ma túy để
làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự).
Hai là, sử dụng thuật ngữ “Trọng lượng hoặc khối lượng” trong điều luật
thống nhất, chỉ chọn một thuật ngữ “Trọng lượng hoặc hoặc khối lượng” trong
điều luật và có văn bản quy phạm hướng dẫn chi tiết trong công tác giám định
ma túy, như cách quy đổi chất ma túy này qua chất ma túy khác, cách tính
trọng lượng….để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về công tác giám định
ma túy theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA –
VKSNDTC - TANDTC và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT- BCA –
VKSNDTC – TANDTC
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung hoặc có Nghị quyết hướng dẫn chi tiết áp
dụng quy định Điều 251 Bộ luật hình sự về các tình tiết định tội, định khung
tăng nặng thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy, các nhà làm luật chưa mô tả hết nội hàm của hành vi mua
bán trái phép chất ma túy, dẫn đến việc định tội danh và áp dụng pháp luật
chưa thống nhất của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn. Ví dụ:
Trường hợp A tàng trữ 100 gam ma túy bị bắt quả tang, A khai mua ma túy để
sử dụng và cho các bạn sử dụng (đãi tiệc), không có mục đích mua bán nhưng
do trước đó được các bạn cho ma túy sử dụng hoặc tàng trữ ma túy nhằm mục
đích trao đổi lợi ích phi vật chất (tình cảm, tình dục….). Mặc khác, hành vi
mua bán trái phép chất ma túy được thể hiện trên thực tiễn rất đa dạng, dưới
nhiều hình thức khác nhau, dẫn đến việc định tội danh có thể không chính xác.
- Một số tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2, 3, 4
của Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 chưa phù hợp với thực tiễn áp dụng
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến quan điểm khác nhau
trong định tội danh, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc chưa thống
nhất trong định lượng, trọng lượng và hàm lượng ma túy. Vì vậy, vấn đề cấp
bách hiện nay là ban hành ngay 01 Nghị quyết hướng dẫn xét xử đối với
chương tội phạm này.
+ Ví dụ 1: Điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.
“Phạm tội 02 lần trở lên” hoặc “đối với 02 người trở lên”, chưa mô tả hết nội
hàm của hành vi mua bán ma túy về mặt từ ngữ, dẫn đến cách hiểu khác nhau
của người áp dụng pháp luật. Cụ thể, cùng thời điểm trong thời gian nhất định
(bán trước, bán sau) bán ma túy cho 02 người mua ma túy thì cũng có thể hiểu
phạm tội 02 lần hoặc đối với 02 người trở lên (tại 01 địa điểm bán cho nhiều
người trong thời gian ngắn). Theo quan điểm học viên cần quy định 02 tình tiết
định khung này thành 01, trách việc định tội danh sai, thiếu chính xác trong
hoạt động điều tra, truy tố xét xử.
+ Ví dụ 2: Điểm k, l, m, n khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cần có quy
định thống nhất về mặt khối lượng hoặc trọng lượng chất ma túy, trong cùng
một khoản 2 của Điều luật mà có cách xác định định lượng để định khung hình
phạt khác nhau, có mâu thuẫn, không bằng nhau dẫn đến việc áp dụng hình
phạt không chính xác:
l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200
kilôgam.
m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50
kilôgam.
Quy định định lượng về quả thuốc phiện khô và tươi như 02 điểm nêu
trên là không phù hợp về mặt khoa học trong xác định trọng lượng (Thuốc
phiện tươi phải quy định trọng lượng lớn hơn quả khô, trong khi đó nội dung
của điểm, khoản nêu trên quy định ngược lại.
+ Ví dụ 3: điểm d, đ khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cần quy định
hoặc hướng dẫn chi tiết, thế nào là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, danh nghĩa,
cơ quan tổ chức (thế nào là người có chức vụ quyền hạn?, thế nào là lợi dụng
danh nghĩa, cơ quan tổ chức là như thế nào?. Như người bán ma túy là cán bộ
thôn, ấp, khu phố có thỏa mãn tình tiết định khung của điều luật hay không
hoặc mượn trụ sở nhà văn hóa thôn, ấp, khu phố để giấu ma túy hoặc địa điểm
giao nhận ma túy thì có được xem là lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức hay
không…?).
Qua các ví dụ nêu trên, đó là những hạn chế, bất cập trong hoạt động
thực tiễn của định tội danh hoặc áp dụng hình phạt đối với tội phạm ma túy nói
chung và tội phạm mua bán ma túy nói riêng, nên cần sửa đổi hoặc có văn bản
hướng dẫn áp dụng Điều 251 Bộ luật hình sự ngay trong giai đoạn hiện nay, vì
tình hình tội phạm ma túy đang diễn biến hết sức phứt tạp và gia tăng, cũng
như bọn tội phạm đang lợi dụng những bất cặp, hạn chế của quy định pháp luật
hình sự để thực hiện hành vi mua bán ma túy ngày càng tinh vi hơn.
- Ngoài ra, tại các điểm, khoản Điều 251 Bộ luật hình sự quy định khá
cơ bản, đầy đủ, toàn diện các tình tiết định khung tăng nặng, mô tả khá đầy đủ
hành vi mua bán ma túy nhưng thực tế khách quan của hành vi tội phạm luôn
diễn biến phứt tạp, điều luật không quy định bao quát được hết các hành vi
mua bán ma túy trong thực tế. Nên, theo quan điểm học viên cần quy định bổ
sung thêm một số tình tiết định khung hình phạt và tình tiết định khung tăng
nặng hình phạt hoặc thay đổi theo chiều hướng về trọng lượng/khối lượng ma
túy để giảm khung hình phạt. Ví dụ: tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật
hình sự có mức hình phạt từ 20 năm đến chung thân, tử hình khi mua bán từ
100 gam heroin…trở lên nhưng thực tiễn hiện nay tội phạm mua bán từ vài
kilogam đến trăm kilogam. Hoặc hành vi mua bán ma túy không thanh toán
bằng tiền mà trao đổi bằng lợi ích vật chất khác như bất động sản, chức vụ,
tình dục…. nên cần quy định thêm điểm, khoản như “thu lợi bất chính lớn, rất
lớn, đặc biệt lớn”.
- Bên cạnh đó, đối với hình phạt bổ sung của tội phạm này theo khoản 5
Điều 251 Bộ luật hình sự là chưa phù hợp với thực tiễn so với lợi nhuận của tội
phạm ma túy thu được nên cần sửa khoản 5 điều này theo hướng phạt tiền theo
hướng tăng thêm hoặc tịch thu toàn bộ tài sản mà tội phạm không chứng minh
được tài sản hợp pháp, không rõ nguồn gốc.
3.2.2. Tăng cường tổng kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật, xây dựng án lệ hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Để đảm bảo hoạt động định tội danh và áp dụng hình phạt của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các vụ án
về tôi mua bán trái phép chất ma túy được chính xác, đúng pháp luật, không để
xảy ra oan, sai và bỏ lọt tội phạm thì phải tăng cường tổng kết thực tiễn, có văn
bản hướng dẫn áp dụng thống nhất đối với loại tội phạm này.
Hệ thống Tòa án các cấp tiếp tục tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử
đối với tội phạm ma túy, hoàn thiện xây dựng án lệ hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong toàn hệ
thống tòa án của cả nước.
3.2.3. Nâng cao khả năng, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp của người áp dụng và người tham gia áp dụng pháp luật
hình sự.
Trước hết cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế hoạt động của Tòa án các
cấp, đặc biệt là Tòa án sơ thẩm cấp quận, huyện, thị xã về thẩm quyền xét xử
và hoạt động khác của Tòa án, hạn chế chịu sự chi phối của cấp ủy, chính
quyền địa phương về lãnh chỉ đạo trong đường lối xét xử, về cơ sở vật chất
trên thực tiễn và con người, Tòa án phải thật sự hoạt động độc lập và xét xử
theo pháp luật.
Tập chung đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
công nghệ hóa vào hoạt động xét xử, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp
đội ngủ cán bộ Tòa án nói chung, thẩm phán, thư ký Tòa án là nói riêng là
những người trực tiếp xét xử, giải quyết án. Trong đó, đối với lĩnh vực xét xử
án hình sự, xét xử các loại tội phạm ma túy….cần phải không ngừng tập huấn,
đào tạo chuyên sâu những thẩm phán chuyên xét xử các loại án hình sự, án về
ma túy. Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục thực hiện đề án thành lập các Tòa
chuyên trách tại Tòa án cấp huyện như mô hình hoạt động của Tòa án cấp tỉnh
hiện nay.
Nhà nước phải tập chung hoàn thiện các cơ sở hạ tầng, trụ sở Tòa án cấp
huyện, nhà công vụ, trang bị các trang thiết bị công nghệ hiện đại cho Tòa án
để hoàn thiện các phòng xét xử đúng chuẩn quy định như thiết bị ghi âm, ghi
hình phòng xét xử, trong công tác lưu trữ dữ liệu hồ sơ vụ án, dữ liệu cá nhân
của tội phạm, của người tham gia tố tụng….
Cần phải có chế độ đãi ngộ đặc biệt cho đội ngủ Thẩm phán, Kiểm sát
viên, điều tra viên…và bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho những người trực tiếp
xét xử các loại án có liên quan đến tội phạm ma túy.
3.2.4. Các giải pháp khác
Ngoài công tác đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc cho
các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan hỗ trợ tư pháp, thì công tác đào tạo,
bồi dưỡng nâng cáo chuyên môn nghiệp vụ cho những người tiến hành tố tụng
(đặc biệt là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, giám định viên…) là yếu
tố quan trọng nhất, quyết định mọi vấn đề có hoàn thành tốt nhiệm vụ mà
Đảng, Nhà nước đã giao cho các cơ quan tư pháp trong công cuộc xây dựng,
đổi mới cải cách tư pháp và chống tội phạm, giữ vững tình hình an ninh, chính
trị, trật tự xã hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay hay không?. Ngoài
ra, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đặc biệt chú trọng quan tâm đến
công tác đào tạo phẩm chất, đạo đức công vụ, đạo đức cách mạng, bản lĩnh
chính trị của những người tiến hành tố tụng, hiện đã và đang có nhiều vấn đề
mà nhân dân, các đại biểu Quốc hội quan tâm, quan ngại. Nhưng Đảng và Nhà
nước cũng cần quan tâm đến đời sống về tinh thần, vật chất, tâm tư, nguyện
vọng của đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng, cần có những ưu đãi, đặc thù riêng
đối với các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Điều tra và có chế độ bảo vệ tính
mạng, tài sản, danh dự…của họ và người thân của những người làm công tác
xét xử các loại án về ma túy.
Cần thay đổi quan điểm, tư duy về “Chế định Hội thẩm nhân dân” trong
thực tiễn xét xử của các Tòa án nhân dân các cấp. Tòa án nhân dân tối cao cần
quan tâm đào tạo về chuyên môn, tăng cường tập huấn các nghiệp vụ tham gia
xét xử cho đội ngủ Hội thẩm nhân dân một cách thường xuyên, cũng như quan
tâm về chế độ, chính sách cho các Hội thẩm nhân dân.
Các cơ quan tư pháp trung ương thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên
sâu về công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm ma túy, mời những
chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực khoa học về phòng, chống tội phạm ma
túy, các chuyên gia, các nhà nhân quyền học tham gia hội thảo, tập huấn cho
các bộ.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan hữu quan trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án nói
chung và án về ma túy nói riêng theo hướng đa chiều, nhiều cấp (giữa cấp trên
và cấp dưới, giữa địa phương và trung ương) nhưng phải đảm bảo các nguyên
tắc của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự quy định.
Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính – tư pháp, đảm bảo công khai,
dân chủ, đảm bảo các quyền công dân, quyền con người trong hoạt động tố
tụng hình sự nói chung, đối với hoạt động tố tụng hình sự các tội phạm về ma
túy nói riêng, các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ma túy phải
được công khai, minh bạch, được sự giám sát của nhân dân, của cơ quan báo
chí, góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo không oan,
sai, không bỏ lọt tội phạm.
Ngoài công tác chuyên môn, nghiệp vụ các cơ quan tiến hành tố tụng
cần phải phối hợp tốt với các cơ quan chính quyền, đoàn thể, các cơ quan báo
chí làm tốt công tác tuyên truyền về phòng chống tội phạm ma túy, công tác
điều trị cai nghiện, bắt buộc và công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với những
người bị kết án về tội phạm ma túy đã chấp hành xong hình phạt, trở về xã hội,
phải tuyên truyền cho nhân dân được biết tác hại của ma túy thật sự khủng kiếp
như thế nào, thực trạng tội phạm về ma túy như hiện nay đang hoạt động công
khai, xâm phạm trầm trọng đến an ninh, trật tự xã hội, đến đạo đức lối sống
của con người, công tác phòng chống ma túy không phải là nhiệm vụ riêng lẽ
của cơ quan, đơn vị nào mà là của toàn đảng, toàn dân, mỗi gia đình, khóm, ấp,
phường, xã như là một mặt trận, đơn vị chống ma túy thì đất nước ta thì mới
đẩy lùi được tội phạm ma túy. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương phải
đặc biệt quan tâm trong công tác lãnh, chỉ đạo, giám sát đối với công tác đấu
tranh, phòng chống tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay, phải thay đổi
nhận thức, tư duy về tác hại của ma túy đem đến cho xã hội, cho đất nước.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội mua bán trái
phép chất ma túy qua công tác xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Sóc
Trăng giai đoạn 2015 – 2019, học viên đã đưa ra các yêu cầu giải pháp bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy tại
Sóc Trăng. Các yêu cầu và giải pháp bao gồm 03 nhóm chính: Yêu cầu bảo vệ
công lý, quyền con người, quyền công dân, yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn mới, yêu cầu phòng ngừa tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma
túy và các giải pháp như tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự, tăng cường tổng
kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xây dựng án lệ
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, nâng cao khả năng, năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người áp dụng pháp
luật, người tham gia áp dụng pháp luật và một số giải pháp khác.
Đó là những yêu cầu và giải pháp được xem cũng là cấp bách trong thời
gian tới nhằm nâng cao hiểu quả áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải
quyết các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của các cơ quan tiến hành tố
tụng tại Sóc Trăng, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, xã hội tại địa
phương.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận văn: “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ
thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng”, học viên có một số quan điểm kết luận chung về
nội dung của đề tài luận văn nghiên cứu như sau:
Một là, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy tại Việt Nam ngày càng
gia tăng về số vụ, số lượng ma túy, tính chất mức độ hoạt động của tội phạm
ngày càng phức tạp, quy mô hoạt động tội phạm có tổ chức ngày càng chặt
chẽ, tinh vi, khó phát hiện, có tính chất tội phạm xuyên quốc gia, nhiều vụ việc
được phát hiện, điều tra, bắt giữ và đưa ra xét xử có số lượng ma túy đặc biệt
lớn, có nhiều người phạm tội…Vì vậy, công tác đấu tranh và phòng ngừa đối
với loại tội phạm không chỉ riêng là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân…), mà là nhiệm vụ
của toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội vì tính chất nghiêm trọng của ma túy
đã tác động rất tiêu cực cho toàn xã hội. Đặc biệt, để làm tốt được công tác
phòng, chống tội phạm ma túy nói chung, các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết án ma túy cần có phương pháp định tội danh chính xác, áp dụng hình
phạt phải thật chính xác, không để lọt tội phạm, nhưng không được kết án oan
người vô tội.
Hai là, trong thực tiễn giải quyết vụ án ma tuý nói chung, xét xử của Tòa
án nói riêng, cho thấy việc định tội danh đối với tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy và áp dụng hình phạt còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại, hạn chế
phần nào, tác động ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
ma túy, chưa phân hóa được tội phạm, mức hình phạt áp dụng có nhiều lúc,
nhiều nơi tại địa phương Sóc Trăng chưa tương xứng với hành vi nguy hiểm
của tội phạm này gây ra cho xã hội, chưa đảm bảo nguyên tắc thống nhất, công
bằng trong áp dụng hình phạt. Do đó, học viên nghiên cứu về đề tài “Tội mua
bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng” là có ý nghĩa cả nhận
thức về lý luận định tội danh, áp dụng hình phạt đối với tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy tại tỉnh Sóc Trăng trong thời gian nhiều năm qua tại Sóc
Trăng và thực tiễn trong công tác xét xử của bản thân học viên, của đơn vị đối
với loại tội phạm này.
Ba là, trong nội dung luận văn, học viên đã bước đầu tiếp cận, khái quát,
đưa ra có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh và áp
dụng hình phạt trong quá trình giải quyết các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy. Khảo sát đánh giá tình hình diễn biến tội phạm mua bán trái phép chất ma
túy từ năm 2015 đến năm 2019 trong quá trình giải quyết án của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trên cơ sở đó, học viên đã đề cập đến những
thuận lợi, khó khăn, tồn tại và nguyên nhân trong việc định tội danh, áp dụng
hình phạt đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Đây chính là những
căn cứ quan trọng để xây dựng nội dung, giải pháp nhằm hoàn thiện nâng cao
chất lượng việc định tội danh, áp dụng hình phạt đối với tội phạm mua bán trái
phép ma túy.
Bốn là, trên cơ sở nghiên cứu khía cạnh pháp lí hình sự và thực tiễn giải
quyết vụ án mua bán trái phép chất ma tuý, luận văn đã đưa ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng việc định tội danh, áp dụng hình phạt đối với tội phạm này
như: Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự liên quan đến các tội
phạm mua bán trái phép chất ma tuý; Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng
pháp luật thống nhất; Đẩy mạnh, nâng cao công tác nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức công vụ đối với đội ngũ cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên
và Thẩm phán; Kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị trong cơ quan tiến hành tố
tụng; Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án; Có chế độ ưu đãi đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên
và Thẩm phán làm công tác đấu tranh chống tội phạm ma tuý và một số giải
pháp khác hỗ trợ, phòng ngừa tội phạm chung. Các giải pháp trên có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án ma tuý cũng như trong quá trình
đấu tranh và phòng, chống tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý có hiệu quả
hơn, đảm bảo được quyền công dân, quyền con người trong hoạt động tố tụng
điều tra, truy tố, xét xử.
Năm là, để nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Tội mua bán trái phép
chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng”, tác giả đã cố gắng thu tập tài liệu,
số liệu báo cáo của ngành, tìm tòi nghiên cứu, phân tích vận dụng lý luận và
thực tiễn. Những giải pháp được đề cập trong luận văn tương đối cụ thể, tuy
chưa được toàn diện nhưng là những vấn đề lý luận cơ bản về định tội danh, áp
dụng hình phạt đối với tội phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, giúp cho
các cơ quan giải quyết án ma túy giải quyết án một cách chính xác, đảm bảo
các nguyên tắc trong tố tụng hình sự quy định, các nguyên tắc thống nhất trong
áp dụng pháp luật, áp dụng hình phạt và các chính sách hình sự. Vì điều kiện
và khả năng nhận thức cá nhân có hạn nên chắc chắn rằng đề tài còn những
khiếm khuyết, chưa bao quát, toàn diện đối với tội danh mua bán trái phép chất
ma túy, mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy trong Hội đồng
và các đồng nghiệp để tôi có điều kiện hoàn thiện đề tài luận văn tốt hơn.
PHỤ LỤC
* Bản thống kê thụ lý vụ án hình sự sơ thẩm về tội phạm ma túy của các Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong thời gian 05 năm (năm 2015 đến 2019).
STT TAND cấp huyện, tỉnh Số thụ lý Số bị cáo KC – KN
01 TAND thành phố Sóc Trăng 51 65
02 TAND thị xã Vĩnh Châu 18 28
03 TAND thị xã Ngã Năm 2 2
04 TAND huyện Mỹ Xuyên 13 14
05 TAND huyện Trần Đề 9 10
06 TAND huyện Kế Sách 8 11
07 TAND huyện Châu Thành 4 11
08 TAND huyện Mỹ Tú 6 12
09 TAND huyện Long Phú 3 3
10 TAND huyện Cù Lao Dung 2 2
11 TAND huyện Thạnh Trị 4 4
12 Tổng số vụ án 120 162
* Bản thống kê thụ lý vụ án hình sự sơ về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy của các Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong thời gian 05 năm (năm 2015 đến 2019).
STT TAND cấp huyện, tỉnh Số Thụ lý Số bị cáo KC – KN
01 TAND thành phố Sóc Trăng 09 14 05
02 TAND thị xã Vĩnh Châu 12 21 05
03 TAND thị xã Ngã Năm 00 00 00
04 TAND huyện Mỹ Xuyên 05 05 01
05 TAND huyện Trần Đề 04 04 01
06 TAND huyện Kế Sách 04 05 01
07 TAND huyện Châu Thành 01 04 00
08 TAND huyện Mỹ Tú 05 11 01
09 TAND huyện Long Phú 01 01 00
10 TAND huyện Cù Lao Dung 00 00 00
11 TAND huyện Thạnh Trị 02 02 00
12 Tổng số vụ án 43 67 14
Nguồn số liệu: Báo cáo 05 năm của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
* Bản thống kê thụ lý vụ, giải quyết áp dụng các biện pháp xử lý hình chính tại Tòa án (bắt buộc cai nghiện ma túy) của các Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong thời gian 05 năm (năm 2015 đến 2019).
STT TAND cấp huyện, tỉnh
Hồ sơ thụ lý Số đối tượng nghiện ma túy
01 TAND thành phố Sóc Trăng 156 156
02 TAND thị xã Vĩnh Châu 26 26
03 TAND thị xã Ngã Năm 06 06
04 TAND huyện Mỹ Xuyên 39 39
05 TAND huyện Trần Đề 34 34
06 TAND huyện Kế Sách 16 16
07 TAND huyện Châu Thành 18 18
08 TAND huyện Mỹ Tú 07 07
09 TAND huyện Long Phú 16 16
10 TAND huyện Cù Lao Dung 22 22
11 TAND huyện Thạnh Trị 11 11
12 Tổng số hồ sơ 351 351
Nguồn số liệu: Báo cáo 05 năm của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
* Bản thống kê thụ lý và xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) vụ án hình sự về tội phạm ma túy của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng trong thời gian 05 năm (năm 2015 đến 2019).
Số Thụ lý
Từ chung thân/Tử hình
Bị cáo Mức hình phạt từ 03 năm trở xuống
Mức hình phạt từ trên 03 năm đến dưới 07 năm
Mức hình phạt từ trên 07 năm đến dưới 15 năm
Mức hình phạt từ trên 15 năm đến dưới 20 năm 16
55 103 24 25 33 5
Số Thụ lý
Từ chung thân/Tử hình
Bị cáo Mức hình phạt từ 03 năm trở xuống
Mức hình phạt từ trên 03 năm đến dưới 07 năm
Mức hình phạt từ trên 07 năm đến dưới 15 năm
* Bản thống kê thụ lý và xét xử vụ án hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng trong thời gian 05 năm (năm 2015 đến 2019).
Mức hình phạt từ trên 15 năm đến dưới 20 năm 02
01 02 00 00 00 00
* Bản thống kê số liệu số tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Sóc Trăng bị áp dụng mức hình phạt tù.
STT Tên Tòa án nhân Hình phạt Hình phạt Hình phạt Hình phạt Hình phạt
từ 03 đến
từ 15 đến
từ 20 đến
dân các huyện, thị xã, thành phố
tù dưới 03 năm
từ 07 đến 15
tù năm 07 năm
tù năm 20 năm
tử
tù năm dưới năm.
tù năm chung thân, hình
08 05 00 00 01 01
thành Sóc
TAND phố Trăng
02 02 13 02 00 00
TAND thị xã Vĩnh Châu
02 03 00 01 00 00
TAND thị xã Ngã Năm
01 04 02 03 00 00
TAND huyện Mỹ Xuyên
03 05 00 02 00 00
TAND huyện Trần Đề
03 06 02 01 00 00
TAND huyện Kế Sách
00 07 00 04 00 00
TAND huyện Châu Thành
01 08 04 04 00 00
TAND huyện Mỹ Tú
02 09 00 00 00 00
TAND huyện Long Phú
00 10 00 00 00 00
TAND huyện Cù Lao Dung
00 11 01 00 00 00
TAND huyện Thạnh Trị
30 22 00 00 12 Toàn tỉnh 15
Nguồn số liệu: Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
* Bản thống kê số liệu số tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Sóc Trăng bị áp dụng mức hình phạt tù hàng năm.
STT Thời gian 05
Hình phạt tù dưới 03 năm
(01/10/2014 đến 30/9/2019)
tử
Hình phạt từ 03 tù đến năm dưới 07 năm
Hình phạt từ 07 tù đến năm dưới 15 năm.
Hình phạt từ 15 tù đến năm dưới 20 năm
Hình phạt từ 20 tù đến năm chung thân, hình
01 Năm 2015 05 04 02 00 00
02 Năm 2016 04 04 03 00 00
03 Năm 2017 02 06 03 00 00
04 Năm 2018 02 07 05 00 00
05 Năm 2019 02 09 09 00 00
06 Tổng 15 30 22 00 00
Nguồn số liệu: Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 của Nhà sách
chính trị.
2. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 của Nhà sách
chính trị.
3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự cuốn I, V Phần tội phạm chung,
Phần tội phạm về ma túy của tác giả Đinh Văn Quế.
4. Báo cáo Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng các năm 2015, 2016, 2017,
2018 và 2019.
5. Chỉ dẫn tra cứu Bộ luật hình sự năm 2015 của tác giải Đỗ Đức Hồng
Hà.
6. Các Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng.
7. Các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu.
8. Các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên.
9. Các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú.
10. Các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị.
11. Các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề.
12. Các bản án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
13. Giáo trình của tác giả Võ Khánh Vinh chủ biên “Luật hình sự Việt
Nam (phần các tội phạm)”.
14. Giáo trình của tác giả Võ Khánh Vinh chủ biên “Quyền con người”.
15. Giáo trình của tác giả Võ Khánh Vinh chủ biên “Xã hội học pháp
luật (các vấn đề cơ bản)” .
16. Giáo trình “ Lý luận chung về định tội danh “ Hình phạt (trong luật
hình sự Việt Nam” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý do tác giả Trần
Nhâm chủ biên.
17. Tạp chí Tòa án qua các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 có các
bài viết có liên quan về tội phạm ma túy.
18. Luận văn thạc sĩ của tác giải Ngô Lê Tuấn Anh: “ Tội mua bán trái
phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Cẩm
Phả, tỉnh Quảng Ninh”, năm 2019.
19. Luận văn thạc sĩ của tác giải Đặng Duy Tùng: “ Tội mua bán trái
phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Quảng
Ninh”, năm 2019.
20. Luận văn thạc sĩ của tác giải Nguyễn Văn Dũng: “ Chứng minh
trong vụ án án mua bán trái phép chất ma túy tại quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh”, năm 2019.