VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG TẤN CẢM

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN

VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG TẤN CẢM

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN

VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm

Mã số : 8 38 01 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính

xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công

bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2020

Tác giả

Hoàng Tấn Cảm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH, NGUYÊN

NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM

ĐOẠT TÀI SẢN ................................................................................................... 6

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam.................................................................................... 6

1.2. Khái niệm, đặc điểm của tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng

ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...................................................................... 10

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA

TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN 2015 - 2019 .................... 26

2.1. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....................................................... 26

2.2. Nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................................................... 37

CHƯƠNG 3. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG

NGỪA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ............................................................................... 51

3.1. Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế trong thời gian tới ............................................................................... 51

3.2. Giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế ................................................................................................... 55

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 CAND Công an nhân dân

LĐCĐTS Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 3

4 Nxb Nhà xuất bản

5 PNTH Phòng ngừa tình hình

6 TAND Tòa án nhân dân

7 THTP Tình hình tội phạm

8 UBND Ủy ban nhân dân

9 XPSH Xâm phạm sở hữu

10 XXST Xét xử sơ thẩm

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Trang Tên bảng bảng

Thống kê số vụ, bị cáo phạm tội LĐCĐTS trên địa bàn PL 2.1: tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 – 2019.

Thực trạng của tình hình tội LĐCĐTS trong mối quan hệ PL

2.2: với tổng số vụ XXST trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ

năm 2015 – 2019.

Thực trạng của tình hình tội LĐCĐTS trong quan hệ với PL

2.3: nhóm các tội XPSH trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ

năm 2015 – 2019 theo loại tội danh

Diễn biến của tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên PL 2.4: Huế giai đoạn từ 2015 – 2019

Diễn biến của tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên PL 2.5: Huế giai đoạn từ năm 2015-2019

Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với PL

2.6: tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn

2015-2019

Cơ cấu xét theo từng năm về hình phạt ở cấp sơ thẩm áp PL

2.7: dụng đối với tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế giai đoạn 2015-2019

Cơ cấu xét đơn vị hành chính, lãnh thổ số vụ XXST đối PL

2.8: với tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

đoạn 2015-2019

Cơ cấu xét đơn vị hành chính, lãnh thổ số vụ XXST trên PL 2.8.1: địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Cơ cấu xét theo giới tính của tội LĐCĐTS trên địa bàn PL 2.9: tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2015-2019

Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội LĐCĐTS trên địa PL 2.10: bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

Cơ cấu xét theo trình độ học vấn của người phạm tội PL 2.11: LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

So sánh các chỉ số kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm PL 2.12: 2015 đến năm 2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 26/3/1975, Thừa Thiên Huế được giải phóng hoàn toàn, góp phần

quan trọng vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng cả

nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, Năm 1976 cả

nước có 38 đơn vị hành chính trong đó có tỉnh Bình Trị Thiên. Sau này vào năm

1989 thì chia làm 3 tỉnh Thừa Thiên Huế ,Quảng Bình, Quảng Trị. Thừa Thiên

Huế là một tỉnh ven biển Bắc Trung bộ thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền

trung, có một số lợi thế về vị trí địa lý, về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn lực

khoa học và công nghệ, về văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư.

Hiện tỉnh có 9 đơn vị hành chính, gồm thành phố Huế, 6 huyện đồng bằng là

Hương Thuỷ, Hương Trà, Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc và 2

huyện miền núi là Nam Đông, A Lưới với 98 xã và 47 phường, thị trấn.

Vượt qua những khó khăn sau chiến tranh, Thừa Thiên Huế đã không

ngừng nổ lực để bắt kịp nhịp độ phát triển của cả nước, nổ lực vượt qua khó

khăn, thử thách, đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng, đưa

Thừa Thiên Huế ra khỏi tỉnh nghèo, kém phát triển; Bên cạnh đó, dưới tác động

của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự du nhập của những yếu tố văn hóa, tinh

thần không phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội khiến cho tình hình

an ninh trật tự trên địa bàn diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng đến sự ổn

định về an ninh, kinh tế - xã hội của tỉnh. Đặc biệt là tội phạm xâm phạm sở hữu

nhất là tội LĐCĐTS. Theo số liệu thống kê xét xử từ năm 2015 đến năm 2019

của Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy trung bình mỗi năm ngành

Tòa án thụ lý bình quân 39,8 vụ án với 48,6 bị cáo bị xét xử về tội LĐCĐTS.

Mặc dù số vụ án, số bị can chiếm tỷ lệ không cao so với các địa bàn khác trong

cả nước nhưng gây hậu quả nghiêm trọng đến tình hình an ninh, kinh tế và trật tự

an toàn xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng

nhân dân.

1

Nhận thầy tầm quan trọng về vị trí, vai trò của công tác phòng ngừa tội

phạm. Hội đồng nhân dân, Ủy Ban nhân dân, các ban ngành, đoàn thể trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện

pháp phòng ngừa THTP nói chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu cũng

như tội LĐCĐTS tài sản nói riêng. Từ đó đã góp phần ổn định tình hình, bảo

đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa

phương. Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác phòng ngừa, đấu tranh

ngăn chặn các tội xâm phạm sở hữu đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn

còn một số hạn chế, thiếu sót: Công tác tuyên truyền, công tác phòng ngừa xã

hội, phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chức năng; công tác thông tin, trao

đổi tình hình, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm vẩn còn

bị động, chưa có chiều sâu … Từ thực tế trên cho thấy, việc nghiên cứu làm sáng

tỏ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm LĐCĐTS để rút ra những tồn tại hạn

chế và từ đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa đối với tội

LĐCĐTS là vô cùng quan trọng. Chình vì vậy, đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều

kiện, phòng ngừa” đã được lựa chọn nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

* Các công trình về tội phạm học

Để làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng nội dung luận văn, một số giáo

trình, tài liệu sau đây đã được tham khảo, nghiên cứu:

- Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề về tội phạm học Việt

Nam, (tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau đại học);

- Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam,

Nxb CAND, Hà Nội;

- Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam,

một số vần đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;

- GS. TS. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ

bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2

Các công trình đã nêu không thể thiếu trong việc thực hiện đề tài luận văn.

Bởi vì trong đó không chỉ chứa đựng lý luận tội phạm học về các vấn đề cơ bản

phải giải quyết của đề tài luận văn mà còn có những chỉ dẫn cho việc xác định

phương pháp nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết.

* Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến Tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản, tình hình, nguyên nhân và điều kiện phòng ngừa

- Về luận án tiến sĩ luật học có các công trình nghiên cứu sau:

+ Bùi Thị Lan Hương (2018), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

miền đông nam bộ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án

tiến sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội;

- Về luận văn thạc sĩ, có các công trình nghiên cứu sau:

+ Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật

hình sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định,

Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội .

+ Nguyễn Thị Hồng Phượng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,

Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;

Các luận văn, luận án, công trình khoa học trên đều có giá trị kế thừa và

liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc triển khai nghiên cứu luận văn:

“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình,

nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá những vấn đề lý luận cũng như

thực tiễn về tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản ở tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn đưa ra dự bào và đóng góp một số giải pháp

phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về tình hình, nguyên nhân và điều

3

kiện, phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;

Thứ hai, căn cứ các số liệu thống kê hình sự, đánh giá tình hình, nguyên

nhân và điều kiện phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019;

Thứ ba, dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở tỉnh Thừa Thiên

Huế và đề xuất các giải pháp phòng ngừa.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình, nguyên nhân, điều kiện và

phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận tội phạm học và phòng

ngừa tội phạm.

- Không gian nghiên cứu là địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Thời gian nghiên cứu: Luận văn sử dụng số liệu thống kê xét xử sơ thẩm

hình sự của TAND cấp huyện và TAND tỉnh Thừa Thiên Huế đối với các tội

xâm phạm sở hữu từ năm 2015 đến 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng các vấn đề của tội phạm học,

vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để giải quyết về tình hình,

nguyên nhân và điều kiện, đưa ra giải pháp phòng ngừa phù hợp với đặc thù của

tỉnh Thừa Thiên Huế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích và

tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu chọn lọc một số vụ

án điển hình, phương pháp dự báo, hệ thống hóa, so sánh tổng kết thực tiễn dựa

4

trên chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn là công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh thừa Thiên Huế dưới góc độ tội phạm học góp phần làm rõ hơn các đặc

điểm tội phạm học của loại tội này trong thực tiễn, từ đó tìm ra các giải pháp

phòng ngừa nguyên nhân và điều kiện phạm tội .

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần phòng ngừa tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đồng thời có thể được sử dụng

làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo liên quan đến chuyên ngành tội

phạm học và phòng ngừa tội phạm.

7. Cơ cấu của luận văn

Bố cục luận văn được chia thành 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tình hình, nguyên nhân, điều kiện và

phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản.

Chương 3: Dự báo tình hình và các giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm

5

đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN

VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT

TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội phạm là hành vi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nhất định

cho một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ. Những

quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được

xác định trong BLHS như quyền nhân thân, quyền sở hữu.

Về nhóm các tội phạm xâm phạm đến quan hệ sở hữu. BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) không đưa ra khái niệm hay điều luật cụ thể thế nào

là các tội xâm phạm sở hữu. Khái niệm này chỉ có thể hiện trong một số tài liệu,

giáo trình của một số trường luật và của các tài liệu khoa học. Theo một số nhà

nghiên cứu có thể hiểu “các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi do người có

đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ

chức và công dân”.

Thông qua quan hệ sở hữu xác lập ba quyền năng: Quyền chiếm hữu,

quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Hành vi gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt

hại cho các quan hệ sở hữu đó là những hành vi xâm phạm đến các quyền năng:

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội thuộc nhóm tội xâm

phạm sở hữu do vậy khái niệm của nó phải thỏa mãn các đặc điểm của các tội

xâm phạm sở hữu đồng thời phải mang trong mình những đặc điểm riêng có,

khác biệt để phân biệt với các tội phạm khác thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu.

6

Tại Điều 174 BLHS năm 2015 quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác

trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam

giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

Trên cơ sở các nội dung, khái niệm, cách hiều thì có thể tổng hợp khái

niệm tội LĐCĐTS như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy

hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng thủ

đoạn gian dối xâm phạm vào quan hệ sở hữu tài sản của người khác nhằm chiếm

đoạt tài sản”.

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo

vệ và bị hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại tới, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây

thiệt hại trong chừng mực nhất định.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản có thể được hiểu

dưới các dạng cụ thể sau: vật (vàng, trang sức, xe ôtô…), tiền, giấy tờ có giá (cổ

phiếu, trái phiếu…) và quyền tài sản (bất động sản, …).

Tội LĐCĐTS trực tiếp xâm hại đến quan hệ sở hữu đối với tài sản. Đối

tượng tác động của nó là tài sản của người khác có thể là cá nhân, của tổ chức

cũng như của nhà nước. Những quan hệ sở hữu đối với tài sản này đều được

pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Tuy nhiên, quan hệ sở hữu tài sản này phải

là quan hệ hợp pháp. Một số có quan hệ sở hữu không hợp pháp thì không được

nhà nước bảo vệ nên nó không là khách thể trong tội phạm này.

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm

mà con người có thể nhận thấy được.

Mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi khách quan của tội phạm; hậu

quả; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; thời gian, địa điểm, phương

7

pháp, phương tiện, hoàn cảnh… thực hiện tội phạm.

- Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi khác nhau. Đó

là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hai hành vi này có mối quan hệ mật

thiết với nhau. Lừa dối là hành vi có ý nghĩa là để thực hiện hành vi chiếm đoạt

tài sản.

+ Hành vi gian dối là việc đưa ra những thông tin không đúng với sự thật

bằng các hình thức thủ đoạn khác nhau (đưa ra các thông tin giả như bằng lời

nói, các giấy tờ giả mạo, giả danh...) làm cho người chủ tài sản tin đó là sự thật,

sau đó người chủ tài sản tự nguyện giao tài sản của mình cho người có hành vi

gian dối. Như vậy hành vi gian dối có trước, sau đó mới nhận và chiếm đoạt

được tài sản của nạn nhân giao cho.

+ Thông thường tội LĐCĐTS thực hiện hai hành vi gian dối và chiếm

đoạt tài sản kế tiếp nhau, nhưng cũng có trường hợp hai hành vi được thực hiện

đan xen hoặc lại có khoảng cách về mặt thời gian. Tuy nhiên, trong trường hợp

này tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành từ lúc chiếm đoạt được

tài sản. Chiếm đoạt được tài sản được xem là chuyển dịch tài sản của người khác

một cách bất hợp pháp thành tài sản của mình. Hoăc có thể xem là hành vi tước

đoạt quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) của

người khác thành của mình.

- Về hậu quả BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2 triệu

đồng trở lên. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng phải thuộc một

trong các trường hợp sau đây thì mới bị coi là tội phạm.

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn

vi phạm.

+ Đã bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu hoặc tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

8

Việc định tội LĐCĐTS ngoài việc xác định hậu quả còn đòi hỏi phải làm

rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, hành vi gian dối là nguyên

nhân chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt của người phạm tội.

- Thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện, điều kiện, hoàn cảnh…

thực hiện tội phạm. Các dấu hiệu này nói chung không phải là dấu hiệu bắt buộc

trong mặt khách quan của tội LĐCĐTS nhưng chúng có ý nghĩa quan trọng

trong việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm.

1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội LĐCĐTS được thực hiện dưới lỗi cố ý trực tiếp. Đối với tội phạm này

người phạm tội luôn luôn nảy sinh ý định từ trước (ý định chiếm đoạt tài sản) khi

thực hiện hành vi gian dối và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Xem xét yếu tố lỗi cố ý trực tiếp và ý định chiếm đoạt trước hay sau khi

thực hiện hành vi có ý nghĩa trong việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác

định đúng loại tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội từ đó xác định đúng

nguyên nhân, điều kiện phòng ngừa có hiệu quả.

1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà

theo quy định của luật hình sự thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi

đó.

Chủ thể của tội LĐCĐTS theo quy định tại các Điều 174, BLHS năm

2015 được xác định như sau:

Người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc người

từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại Khoản 3,

Khoản 4 Điều 174 BLHS.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình

9

một cách đúng đắn theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội, của pháp luật.

1.2. Khái niệm, đặc điểm của tình hình, nguyên nhân và điều kiện,

phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố của tình hình tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản

1.2.1.1. Khái niệm

Tội phạm học là một ngành khoa học pháp lý – xã hội nghiên cứu nguồn

gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện và các loại tình hình tội phạm, các quy

luật xuất hiện, tồn tại và thay đổi của tình hình tội phạm; các nguyên nhân, điều

kiện và cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện đó đến tình hình tội

phạm; nhân thân người phạm tội; các biện pháp phòng ngừa và khắc phục tình

hình tội phạm xảy ra trong xã hội và những vấn đề khác có liên quan đến công

tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm [49,tr 5]. Như vậy để làm rõ nội

dung của luận văn thì ngoài yêu cầu nhận diện được tội LĐCĐTS thì ta cần phải

nhận thức được, giải thích thế nào về tình hình tội LĐCĐTS; nguyên nhân và

điều kiện của tội LĐCĐTS; phòng ngừa tội LĐCĐTS?

Tình hình tội phạm là một khái niệm cơ bản của tội phạm học, có ý nghĩa

nhận thức phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng. Hiện nay các nhà

lý luận còn có những quan điểm khác nhau về THTP.

Có quan điểm cho rằng. THTP là hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự có sự

thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp, gồm tổng thể thống nhất hữu cơ các

tội phạm đã xảy ra và những người đã thực hiện chúng trên phạm vi địa bàn

(lãnh thổ) nhất định trong khoảng thời gia nhất định. [30, tr 01]

Trong cuốn “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” GS.TS

Nguyễn Xuân Yêm lại đưa ra định nghĩa như sau: “THTP là toàn bộ tình hình,

cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong

một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm

vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định”

10

[53].

Theo quan điểm của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì “THTP là một khách thể

nghiên cứu cơ bản của tội phạm học và là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng tâm

– sinh lý – xã hội tiêu cực, có tính lịch sử và lịch sử cụ thể, pháp lý hình sự và

giai cấp, được biểu hiện bằng tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ

thể thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định và

trong một thời gian nhất định.[34, tr 80]

Các quan điểm, định nghĩa trên dù còn khác nhau tuy nhiên đều thừa nhận

tình hình tội phạm với tư cách là một hiện tượng xã hội được biểu hiện thông

qua các đặc điểm và thông số về lượng và chất của nó. Trên cơ sở kế thừa các

quan điểm về THTP, có thể đưa ra khái niệm về tình hình tội phạm LĐCĐTS

như sau: “Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hiện tượng pháp luật –

xã hội, có thể thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực phổ biến bao gồm tổng thể các tội

phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên một địa phương nhất định trong

một giai đoạn nhất định”.

1.2.1.2. Đặc điểm của tình hình các tội LĐCĐTS

- Tình hình tội phạm LĐCĐTS là một hiện tượng xã hội. Trước hết đó là

một hiện tượng xã hội, chứ không phải là một hiện tượng sinh vật học, vật lý,

hóa học, vũ trụ học v.v[49, tr 55]. Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội bởi vì

nó tồn tại, có nguyên nhân xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện xã hội và phản

ảnh thực trạng xã hội: Tình hình tội phạm sẽ thay đổi và mất đi cùng với sự thay

đổi hiện tượng xã hội (kinh tế, chính trị, tâm lý, tư tưởng…). Nó được hình thành

từ các hành vi phạm tội của những con người cụ thể chống lại nhà nước và xã

hội, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, phá

vỡ những giá trị xã hội. Đó là hệ quả tất yếu của các tác động tiêu cực, biểu hiện

ở việc gây ra thiệt hại vật chất và tinh thần cho xã hội.

- Tình hình tội LĐCĐTS là một hiện tượng pháp lý hình sự: BLHS năm

2015 quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ

luật hình sự. Tình hình tội LĐCĐTS là các hành vi tiêu cực, gây nguy hiểm cho

11

xã hội, gây thiệt hại cho các quan hệ tồn tại trong xã hội, xâm phạm đến các giá

trị vật chất và tinh thần mà xã hội đã có được. Hậu quả ở đây là những tác hại về

mọi mặt do chúng gây ra. Tình hình tội LĐCĐTS là một mặt tất yếu của hiện

tượng, chứ không phải là một sự kiện riêng biệt và cũng không chỉ đơn thuần là

tổng cộng các thiệt hại do từng tội phạm cụ thể gây ra [48, tr57].

- Tình hình tội LĐCĐTS là hiện tượng pháp lý hình sự mang tính lịch sử.

Theo quan điểm Mác – Lênin thì mọi hiện tượng trong xã hội và tự nhiên không

phải ở trạng thái tĩnh tại, bất biến, mà thường xuyên biến đổi và thay đổi [49,

tr55]. Do vậy, tình hình các tội XPSH như là một hiện tượng xã hội có sự thay

đổi về mặt lịch sử. Kéo theo đó nên dấu hiệu, đặc điểm của tình hình các tội

XPSH cũng thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội.

Tình hình phạm tội LĐCĐTS cũng không phải là trường hợp ngẫu nhiên, không

phải là một tổn số cơ học các tội phạm đã thực hiện mà là một tổng thể thống

nhất. Do đó, nếu có sự thay đổi của dấu hiệu, đặc điểm nào đó thì tất yếu sẽ kéo

theo sự thay đổi của các dấu hiệu, đặc điểm khác của hiện tượng nói chung.

1.2.1.3. Các yếu tố của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Các yếu tố của THTP đó chính là các thông số (chỉ số) về chất và lượng của

THTP. Chỉ số về chất của THTP là làm sáng tỏ cơ cấu và tính chất của các tội

phạm đã thực hiện. Chỉ số về lượng của THTP là thực trạng và diễn biến của

THTP. Các thông số này có mối quan hệ, tác động lẫn nhau thành một thể thống

nhất biện chứng. Đó là các yếu tố chung của tình hình tội phạm và để hiểu được

THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thì ta cũng

phải xuất phát, tìm hiểu, đánh giá dựa trên sự phân tích các chỉ số về lượng (thực

trạng, diễn biến), về chất (cơ cấu, tính chất) của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài

sản. Nội dung của các yếu tố này bao gồm:

- Thực trạng (mức độ):

Thực trạng của THTP là chỉ số về lượng đầu tiên và tổng hợp của THTP.

Thực trạng của THTP là khái niệm tổng hợp. Tính tổng hợp của các chỉ số này

dựa trên nhiều tiểu chỉ số (các chỉ số cấu thành). Dựa trên cách tiếp cận tổng thể

12

mới có thể đánh giá một cách khách quan thực trạng hiện thực của THTP trong

đất nước, trong vùng, trong đơn vị lãnh thổ hành chính nhất định hoặc một điểm

dân cư cụ thể và trong một thời gian nhất định. THTP có THTP rõ và THTP ẩn.

Thực tế rất khó để xem xét các chỉ số ẩn của THTP, thường chúng ta căn cứ vào

số liệu tội phạm rõ, đó là số liệu thống kê được.

Do đó để đánh giá mức độ THTP LLĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế ta cần đánh giá định lượng dựa vào các con số thống kê đã được đăng ký và

xác định chính xác những người thực hiện tội phạm trong một số nội dung cần so

sánh sau:

+ Tỷ trọng các loại tội phạm: Cần quan tâm đến các tiểu chỉ số cụ thể như

theo mức độ nghiêm trọng (các tội ít nghiêm trọng, các tội nghiêm trọng, các tội

rất nghiêm trọng…); theo chủ thể của tội phạm (nam giới, nữ giới, người dưới 18

tuổi, người không có việc làm, người nước ngoài, …); theo nhóm tội phạm xâm

phạm sở hữu (lừa đảo, trộm cắp, cướp, …); theo hình phạt đã tuyên (tù chung

thân, tử hình, dưới 15 năm…); theo thời gian; theo đồng phạm hay riêng lẻ.

+ Sự phân bố của tình hình tội phạm: Xác định các số liệu thống kê theo

lãnh thổ hành chính, thành phố, huyện, thị.

- Diễn biến:

Diễn biến của tình hình tội phạm là chỉ số về lượng – chất của tình hình tội

phạm. Theo thời gian cả thực trạng của THTP (chỉ số về lượng) lẫn cơ cấu của

THTP (chỉ số về chất) đều được thay đổi. Khoảng thời gian tiếp nhận thường là

một năm. Để đánh giá những thay đổi của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thì có thể được tính trong vòng 05 năm để thấy

được diễn biến của THTP. Số lượng số vụ án, số bị cáo thực hiện tội LĐCĐTS

trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019 trên địa bàn toàn tỉnh cũng như

từng ranh giới hành chính địa phương cụ thể. Việc so sánh số vụ/số bị can đã

được thống kê chỉ ra rằng diễn biến của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế tăng hay giảm; thấy được diễn biến của THTP lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên từng huyện, thị xã với cường độ khác nhau như thế nào,

13

nhịp độ tăng hay giảm của từng huyện, thị xã.

Ngoài ra cũng cần xem xét diễn biến của THTP thuộc nhóm tội xâm phạm

sở hữu để có cái nhìn tổng quát rõ hơn về sự thay đổi cơ cấu của từng loại tội

phạm khác nhau.

Để tránh sự cồng kềnh, sự so sánh các chỉ số theo các năm đòi hỏi phải có

sự tính toán tương ứng. Do đó, để đơn giản, dễ thấy, dễ hiểu diễn biến của tình

hình tội phạm thông thường được thể hiện bằng các chỉ số tương đối, trong các

phần trăm được tính toán theo năm đầu tiên, thường được gọi là năm định gốc

(cơ sở không thay đổi) hoặc theo năm trước đó (phương thức dây xích, cơ sở

thay đổi).

Qua xem xét thực trạng và diễn biến của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giúp ta chứng minh không chỉ những thay đổi

tính tích cực hoặc tiêu cực, mà còn về những xu hướng phát triển của THTP và

ngay cả những quy luật thay đổi của THTP, mà dựa vào các xu hướng và các

quy luật có thể dự báo về sự phát triển của nó trong tương lai gần.

- Cơ cấu:

Cơ cấu của THTP được đo lường trong/bằng tỷ trọng hoặc các phần của các

nhóm và các loại tội phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trong một

khoảng thời gian nhất định và ở một lãnh thổ nhất định.

Theo đó để xác định cơ cấu của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần

nghiên cứu làm rõ các thông số sau: Thông số phản ánh tỷ trọng giữa số vụ và số

người phạm tội LĐCĐTS với tổng số vụ và số người phạm tội nói chung; Tỷ

trọng giữa số vụ LĐCĐTS với các tội khác trong nhóm tội xâm phạm sở hữu; tỷ

trọng về mức độ xử lý (hình phạt) đối với tội LĐCĐTS trong năm năm qua; Cơ

cấu theo độ tuổi người phạm tội; Cơ cấu theo giới tính, học vấn, tái phạm hay

không tái phạm…

Việc nghiên cứu, phân tích các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội LĐCĐTS

chỉ rõ đặc điểm lượng – chất, tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình các tội

14

xâm phạm sở hữu. Điều này có ý nghĩa lớn đối với việc xây dựng biện pháp

phòng ngừa và tổ chức phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu, đồng

thời định hướng cho công tác đấu tranh với các tội phạm này.

- Tính chất:

Tính chất của tình hình tội LĐCĐTS được làm sáng tỏ thông qua mức độ,

diễn biến và cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu. Trên cơ sở nghiên

cứu làm rõ mức độ, diễn biến, cơ cấu cho thấy số lượng của các tội phạm nguy

hiểm nhất cho xã hội, đặc điểm nhân thân của những người thực hiện... và tỷ

trọng của chúng trong tổng số các tội xâm phạm sở hữu.

Tính chất của THTP được thể hiện trong các đánh giá về chất như: Tính

nguy hiểm cho xã hội; phương thức, thủ đoạn phạm tội; tính nghiêm trọng/ mức

độ nghiêm trọng của tội phạm; tính tái phạm; hậu quả của hành vi mức độ thiệt

hại)…

1.2.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản

1.2.2.1. Khái niệm

THTP nói chung và tình hình tội LĐCĐTS nói riêng là một hiện tượng xã

hội, nó nảy sinh và tồn tại trong xã hội, do đó nó không thể không chịu sự tác

động, chi phối của môi trường xã hội. Đó là môi trường sống, môi trường hình

thành nhân cách cá nhân, môi trường làm nảy sinh, tồn tại các loại hành vi của

con người trong đó có hành vi phạm tội.

Vì vậy nguyên nhân và điều kiện và điều kiện THTP có những đặc điểm

chung sau: Thứ nhất, nguyên nhân và điều kiện THTP là những hiện tượng và

quá trình xã hội. Thứ hai, đây là những hiện tượng mang tính tiêu cực luôn thể

hiện ở xu thế chống đối, đi ngược lại quá trình vận động phát triển của xã hội.

Thứ ba, đây là những hiện tượng phổ biến và tồn tại tương đối ổn định.

Ngoài các đặc điểm chung thì nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm tội LĐCĐTS có những đặc điểm khác biệt sau: Đặc điểm cá nhân của

người phạm tội và những tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài, trong sự

15

tác động lẫn nhau dẫn đến việc thực hiện hành vi.

Đặc điểm cá nhân người phạm tội đến từ những nguyên nhân và điều kiện

từ phía người phạm tội: Đặc điểm sinh học, giới tính; đặc điểm xã hội, học vấn,

nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình; đặc điểm tâm lý như nhu cầu bản thân, hệ

thống các giá trị, quan điểm sống, lối sống, sở thích v.v. Ngoài ra còn nhiều yếu

tố như tình huống, hoàn cảnh cụ thể cũng làm phát sinh nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm.

Hiện nay các nhà nghiên cứu có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để tìm

hiểu nguyên nhân và điều kiện của THTP như là. Một số xuất phát từ cách tiếp

cận xã hội học lý giải nguyên nhân và điều kiện của THTP như là sản phẩm của

sự tác động qua lại của các hiện tượng xã hội tiêu cực, như là mặt trái của quá

trình phát triển xã hội và qua đó lý giải nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.

Cách lý giải nguyên nhân và điều kiện của tội phạm dựa vào quan điểm thần học

thì cho rằng tội phạm là hành vi của những cá nhân con người làm sai, làm

không đúng xâm hại đến các chuẩn mực giáo lý thần quyền và nguyên nhân của

việc đó là do quỹ dữ ám nhập họ, cho nên họ phạm tội và để đấu tranh xử lý nó

thì phải trừng trị quỷ dữ để làm cho con người trở về với con người (cái thiện)…

Trong các cách nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của THTP thì hiện nay

cách nhận thức trên quan điểm triết học Mác – Lênin, dựa vào việc sử dụng các

cặp phạm trù triết học, đặc biệt cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả là cách

nhận thức khoa học nhất. Việc sử dụng cách tiếp cận triết học cho phép nhà

nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của nguyên nhân và điều kiện, không sử dụng

cách tiếp cận triết học thì người nghiên cứu không thể lý giải, giải phẩu nguyên

nhân và điều kiện với tư cách là một hiện tượng xã hội (đây là yếu tố động), kết

quả (hệ quả) của mâu thuẩn xã hội, xung đột xã hội. Đây chính là lý luận triết

học nhưng cũng chính là phương pháp luận nghiên cứu nguyên nhân và điều

kiện của tội phạm.

- Khi đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói

chung, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm

16

là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ

sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình.

Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình

không sinh ra tình hình tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho

sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân” [49, tr 75].

Đây là những khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung

từ đó có thể vận dụng để mà nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của từng

nhóm tội phạm cũng như nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể.

Tội phạm học thường phân chi nguyên nhân và điều kiện tội phạm làm ba

loại: Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, nguyên nhân và điều

kiện của một nhóm tội phạm; nguyên nhân và điều kiện của một tội phạm cụ

thể. Là môt hiện tượng xã hội, tình hình tội phạm bao giờ cũng có có nguyên

nhân và điều kiện xã hội riêng của mình. Điều kiện phạm tội là những hiện

tượng xã hội tiêu cực nhưng không sinh ra tội phạm mà chỉ là yếu tố xúc tác hỗ

trợ, thúc đẩy tình hình tội phạm. Tuy nhiên trên thực tế, phân định rõ đâu là

nguyên nhân, đâu là điều kiện của tình hình tội LĐCĐTS là việc rất khó. Trong

một số trường hợp phạm tội, một yếu tố nào đó có thể là nguyên nhân, nhưng

trong các trường hợp khác, yếu tố đó chỉ là điều kiện phạm tội phạm này là

nguyên nhân. Vì vậy sự phân biệt trên lý thuyết giữa nguyên nhân và điều kiện

của tội phạm chỉ là tương đối. Yêu cầu đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi phải

loại trừ cả cả nguyên nhân và điều kiện tội phạm. Từ những phân tích ở trên, có

thể đưa ra khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội LĐCĐTS như sau:

“Nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tổng hợp những

hiện tượng xã hội tiêu cực mà từ đó trực tiếp hoặc góp phần làm phát sinh tình

hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.2.2.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện phạm tội

- Căn cứ vào mức độ tác động: Có thể phân chia thành nguyên nhân, điều

kiện chủ yếu và nguyên nhân, điều kiện thứ yếu. Nguyên nhân, điều kiện chủ

yếu làm phát sinh tình hình tội LĐCĐTS là những yếu tố có vai trò chủ đạo,

17

chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số các yếu tố phát sinh tình hình tội phạm này.

Còn nguyên nhân và điều kiện thứ yếu là những yếu tố có vai trò hạn chế, chiếm

tỷ lệ không đáng kể trong tổng số các yếu tố phát sinh tình hình tội LĐCĐTS.

- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tội phạm: Có thể phân chia thành nguyên

nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống; nguyên nhân và điều kiện xuất

phát từ phía người phạm tội .

Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các

hiện tượng xã hội tiêu cực hình thành, tồn tại trong môi trường sống của cá nhân

có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định từ đó làm phát sinh

tội LĐCĐTS. Ví dụ như các hành vi lệch chuẩn trong gia đình, ngoài xã hội, nhà

trường…Nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội là tổng hợp những

nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân của họ tác động đến việc phát sinh tội

LĐCĐTS.

- Căn cứ lĩnh vực hình thành nguyên nhân, điều kiện phạm tội:

+ Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế - xã hội như nạn thất nghiệp, tốc độ

đô thị hóa nhanh chóng, phân tầng xã hội...

+ Nguyên nhân về văn hóa giáo dục như: Trình độ quản lý nhà nước về văn

hóa, giáo dục, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo

dục, chính sách hỗ trợ giáo dục, hiện tượng tái mù chữ...

+ Nguyên nhân về chính sách pháp luật như chậm giải quyết những bức

xúc xã hội hoặc xử lý chưa nghiêm, chưa kiên quyết triệt để trong đấu tranh với

tội phạm có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tình hình tội LĐCĐTS nói

riêng, các tội xâm phạm sở hữu nói chung.

1.2.3. Khái niệm, một số nội dung liên quan đến phòng ngừa tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản

1.2.3.1. Khái niệm phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

THTP là một hiện tượng tiêu cực nguy hiểm lớn nhất cho xã hội; gây ra cho

xã hội thiệt hại lớn trên nhiều mặt kể cả về giá trị vật chất và tinh thần. Chính vì

vậy, một trong những yêu cầu cấp bách là phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn hay

18

nói cách khác phải làm tốt công tác phòng ngừa THTP. Phòng ngừa THTP là hệ

thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước

– xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô

hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng bằng cách đó là làm giảm và dần dần loại bỏ

THTP. [49, tr155].

Liên quan đến khái niệm PNTP, các nhà nghiên cứu nhìn chung đều thống

nhất, không có sự khác biệt đáng kể về khái niệm phòng ngừa THTP đó là việc

sử dụng những biện pháp nhà nước và xã hội tác động vào nguyên nhân và điều

kiện của THTP nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ THTP ra khỏi đời sống xã hội.

Qua tham khảo các khái niệm trên kết hợp với khái niệm về LĐCĐTS được

trình bày ở phần 1.1.1, tác giả đưa ra khái niệm như sau: “Phòng ngừa tình hình

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động sử dụng các biện pháp mang tính

chất nhà nước và xã hội nhằm tác động vào nguyên nhân và điều kiện của THTP

lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm hạn chế, giảm dần và từng bước tiến tới loại

trừ THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.2.3.2. Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm

- Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động: Các biện pháp phòng ngừa tình

hình tội phạm chung (ví dụ: Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế); Các biện pháp phòng ngừa các nhóm tội phạm (ví dụ: Phòng

ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế); Các biện

pháp phòng ngừa các tội phạm cụ thể (ví dụ: Phòng ngừa tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế).

- Căn cứ vào nội dung và tính chất của các biện pháp phòng ngừa tội phạm:

Các biện pháp về kinh tế xã hội; Các biện pháp về chính trị tư tưởng (Ví dụ :

bình đẳng giới tính, tôn giáo ); Các biện pháp về văn hóa tâm lý; Các biện pháp

về tổ chức, quản lý xã hội; Các biện pháp về pháp luật và phát hiện xử lý tội

phạm.

- Căn cứ vào đối tượng tác động của các biện pháp phòng ngừa: Các biện

pháp phòng ngừa áp dụng chung cho mọi đối tượng trong xã hội: Tuyên truyền

19

giúp đỡ (nâng cao dân trí, dạy nghề …); Các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho

đối tượng có nhân thân xấu dễ phạm tội (biện pháp trách nhiệm hình sự); Các

biện pháp phòng ngừa áp dụng cho người đã phạm tội; Các biện pháp phòng

ngừa áp dụng cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Các biện pháp phòng

ngừa áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội.

- Căn cứ vào địa bàn và lĩnh vực cần phòng ngừa tội phạm: Các biện pháp

phòng ngừa áp dụng chung trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia; Các biện

pháp phòng ngừa áp dụng riêng cho từng địa phương và vùng miền; Các biện

pháp phòng ngừa áp dụng riêng cho từng ngành và từng lĩnh vực họat động.

1.2.3.3. Các nguyên tắc phòng ngừa tội phạm

- Nguyên tắc pháp chế: Mọi hoạt động PNTP của các cơ quan nhà nước, tổ

chức và của công dân phải dựa trên cơ sở pháp luật. Phải tôn trọng hiến pháp và

pháp luật.

- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để

tất cả các chủ thể có điều kiện tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm. Từ đó

mới huy động tổng hợp mọi nguồn lực xã hội, tạo ra sức mạnh nhằm đẩy lùi tội

phạm và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

- Nguyên tắc nhân đạo: Đảm bảo quyền con người, coi trọng cả mục đích

trừng trị và giáo dục, đề cao tính hướng thiện, tạo điều kiện để con người phát

triển.

- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ: Khi xây dựng các biện pháp phòng ngừa

thì phải được nghiên cứu, đánh giá trên cơ sở cơ sở khoa học. Vận dụng, ứng

dụng các thành tựu khoa học trong đời sống vào phòng ngừa tội phạm.

- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong công tác PNTP: Mỗi

chủ thể khi tham gia PNTP phải làm tốt công tác phòng ngừa trong phạm vi từng

địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực mà mình quản lý. Cần tăng cường mối

quan hệ phối kết hợp để thực hiện hoạt động PNTP một cách đồng bộ, mang lại

hiệu quả cao nhất.

- Nguyên tắc cụ thể hóa trong PNTP: Mỗi địa phương, mỗi ngành, mỗi lĩnh

20

vực trong PNTP phải đưa ra giải pháp phòng ngừa phù hợp, rõ ràng, chứa đựng

tính khả thi trên cơ sở xem xét mối liên hệ với điều kiện đặc thù về PNTP ở từng

địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực.

- Nguyên tắc quốc tế: Trong PNTP thì các nguyên tắc, định hướng, chính

sách hình sự, chính sách về PNTP phải phù hợp với xu hướng và điều ước khu

vực và thế giới. Không ngừng hợp tác để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, khoa

học kỹ thuật trên thế giới và khu vực để PNTP.

1.2.3.4. Các chủ thể phòng ngừa tội phạm

- Đảng Cộng sản Việt Nam: Cần thực hiện một cách nghiêm túc các hoạt

động phổ biến, quán triệt các chủ trường, đường lối, chính sách của Đảng đối với

công tác phòng, chống tội phạm đặc biệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội

phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 (ban hành theo quyết

định số 623/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 14/4/2016).

- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp: Với tư cách là cơ quan đại biểu

của nhân dân, do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của

nhân dân cả nước cũng như từng địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân

về việc thực hiện quyền lực do nhân dân ủy quyền. Do đó vai trò của Quốc hội

và Hội đồng nhân dân cực kỳ quan trọng trong PNTP. Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tội phạm trên các phương diện sau: Chủ

động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về phòng

chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà

nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống tội phạm;

Thành lập các uỷ ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các

văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung

(Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, Uỷ ban quốc phòng an ninh); Giám sát

chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm

nói riêng của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội; Hội đồng nhân dân địa

phương ra các Nghị quyết về phòng chống tội phạm ở địa phương mình.

- Chính phủ và UBND các cấp: Chức năng chính của Chính phủ và UBND

21

các cấp trong PNTP là quản lý, điều hành, phối hợp đảm bảo các điều kiện cần

thiết thể hiện trên các mặt. Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng

ngừa tội phạm. Tổ chức thanh, kiểm tra, giám sát chặt chẽ đồng thời đề ra kế

hoạch, biện pháp phối hợp đồng bộ các hoạt động giữa các chủ thể khác nhau

thuộc cấp quản lý của chính phủ và UBND theo một kế hoạch thống nhất vì một

mục đích chung PNTP. Đề ra các biện pháp động viên huy động sức mạnh tổng

thể của xã hội tham gia phòng ngừa tội phạm. Đồng thời Chính phủ và UBND

phải xây dựng các hình thức khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến để

kịp thời động viên, khích lệ cá nhân, tổ chức tham gia PNTP.

- Các cơ quan tư pháp, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Bằng các biện pháp

theo luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn các cơ quan này theo

chức năng nhiệm vụ, trực tiếp tiến hành các hoạt động PNTP. Qua đó nghiên

cứu, phân tích tình trạng phạm tội, xác định chính xác những nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm từ đó soạn thảo, đề xuất, ban hành các biện pháp PNTP

thích hợp. Đối với lực lượng Công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt

động phòng ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng

ngừa chung) và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ,

điều tra tội phạm. Viện kiểm sát thì kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các

hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân,

giữ quyền công tố. Toà án các cấp, thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm

bảo công minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội

phạm để Chính Phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại

trừ.

- Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch: Trong

phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn kịp thời phát hiện những nguyên nhân,

điều kiện làm phát sinh phát triển tội phạm thuộc lĩnh vực mình quản lý. Tham

mưu cho Nhà nước ban hành các quy định, chủ trương, chính sách phù hợp,

đúng đắn nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.

Làm tốt công tác xây dựng, phối hợp, tổ chức các biện pháp phòng ngừa tội

22

phạm trong phạm vi đơn vị, cơ quan.

- Các tổ chức đoàn thể và mọi công dân: Các tổ chức đoàn thể, công dân

giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, cụ

thể: Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn

thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm, tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh

giác phòng, chống tội phạm. Tham gia, thực hiện tốt các phong trào: "Toàn dân

tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục người phạm

tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hoà nhập cộng đồng

cho người phạm tội khi trở về địa phương.

Toàn bộ hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa các tội

xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần tuân thủ sự lãnh

đạo của các cấp ủy và tổ chức đảng về chủ trương, định hướng và biện pháp

phòng chống tội phạm.

1.2.3.5. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả PNTP

Tội phạm học nói chung hay tội phạm Mác – xít nói riêng đều có chung

quan điểm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm: Đó là mối quan

hệ nhân – quả. PNTP có hai bộ phận: Một là các biện pháp tác động vào Nhân,

được gọi là những biện pháp loại trừ tội phạm; một bộ phận khác được gọi là

biện pháp tác động vào Quả, tức là phản ứng trực diện với hiện trạng của THTP,

được gọi là biện pháp ngăn chặn. Hai thành phần này của PNTP không thể tách

rời nhau, có quan hệ biện chứng với nhau, cùng tạo thành một hệ thống tổng thể

phòng ngừa tội phạm. Xác định hiệu quả phòng ngừa tội phạm dựa vào hai yếu

tố sau: Tiêu chí đánh giá và phương pháp đánh giá.

Các tiêu chí đánh giá hiệu quả PNTP. Chỉ khi so sánh tình hình tội phạm ở

thời điểm trước và sau khi tiến hành hoạt động PNTP, mục tiêu đã đặt ra thì mới

có căn cứ để khẳng định được hiệu quả của phòng ngừa tội phạm.

Các tiêu chí về lượng: Số vụ phạm tội giảm, có nghĩa là sau khi tiến hành

hoạt động PNTP thì tổng số vụ phạm tội của các loại tội phạm xảy ra trên thực tế

giảm. Nếu tổng số vụ phạm tội xảy ra trên thực tế giảm thì rõ ràng là PNTP đã

23

đạt được hiệu quả nhất định. Số người phạm tội giảm: Số người phạm tội bao giờ

cũng lớn hơn số vụ phạm tội. Một vụ phạm tội có thể có nhiều người tham gia

(đồng phạm). Nếu số người phạm tội giảm (tiệm tiến đến số vụ phạm tội), chứng

tỏ THTP không quá phức tạp, thì có thể khẳng định PNTP có hiệu quả. Nếu số

vụ phạm tội giảm nhưng số người phạm tội tăng gấp nhiều lần thì chưa thể

khẳng định hiệu quả của hoạt động PNTP. Do đó, trong chính sách hình sự và

thực tiễn phòng chống tội phạm thường quan tâm đấu tranh với những tội phạm

có nhiều đồng phạm phức tạp, tội phạm có tổ chức.

Các tiêu chí về chất: Có sự giảm bớt tính chất nguy hiểm của THTP. Tính

chất của THTP tội phạm được đánh giá ở nhiều khía cạnh, cụ thể cần xem xét

các tiêu chí sau: Giảm dần tỷ trọng các loại tội phạm (hoặc tội phạm) nguy hiểm

và phổ biến. Những tội phạm nguy hiểm cho xã hội được hiểu là những tội phạm

có khả năng gây ra những thiệt hại lớn cho xã hội, như các tội phạm tham nhũng,

các tội phạm về ma túy, các tội phạm xâm phạm sở hữu... mà pháp luật hình sự

thường quy định áp dụng các loại hình phạt nghiêm khắc. Nếu sau khi tiến hành

hoạt động PNTP, tỷ trọng những loại tội phạm nguy hiểm và phổ biến giảm dần

trong cơ cấu THTP, điều đó cho phép hiểu tính chất của THTP giảm bớt tính

chất nguy hiểm và khẳng định PNTP đạt được hiệu quả. PNTP phải hướng đến

hạn chế sự phát triển tội phạm mới, hạn chế tỷ lệ tái phạm tội nhằm thu hẹp dần

đối tượng PNTP. Kết quả PNTP cũng không chấp nhận sự gia tăng tình trạng

phạm tội của người chưa thành niên. Nếu tỷ trọng người chưa thành niên phạm

tội chiếm tỷ trọng cao, rõ ràng PNTP tội phạm chưa đạt được hiệu quả. Giảm

dần chỉ số về sự thiệt hại của THTP. Nếu sau khi tiến hành các hoạt động PNTP,

số vụ phạm tội giảm nhưng chỉ số thiệt hại tăng thì vẫn chưa thể kết luận PNTP

có hiệu quả. Do đó hiệu quả PNTP phải được thể hiện ở sự giảm bớt những thiệt

hại do THTP gây ra.

Tiểu kết Chương 1

THTP là một hiện tượng xã hội, tiêu cực, đa dạng, phức tạp nhiều mặt,

24

nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ, nó tồn tại trong xã hội dưới những điều kiện cụ

thể và mang tích khách quan. Vì lý do đó nên cái phát sinh ra nó cũng là một

hiện tượng xã hội. Cho nên phòng chống THTP được coi là một hoạt động dựa

trên cơ sở khoa học để tìm ra những quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của

THTP có thể giải quyết nó một cách triệt để và hiệu quả. Nhận thức một cách

đầy đủ các quy luật phát sinh, tồn tại và thay đổi của THTP sẽ tạo cơ sở cho việc

chủ động đề xuất các giải pháp đấu tranh chống và phòng ngừa THTP. Thực tế

chỉ ra rằng không thể đấu tranh loại trừ THTP trong xã hội khi không có được sự

hiểu biết đầy đủ về THTP phát sinh từ đâu, trong những điều kiện nào nó có thể

tồn tại và phát triển? Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP chính là

việc chúng ta giải quyết một cách toàn diện, đầy đủ để trả lời cho câu hỏi trên.

Qua chương 1 giúp nhận thức rõ và phân biệt được tội LĐCĐTS, dấu hiệu

để nhận biết được tội LĐCĐTS là cơ sở cho quá trình phân tích tìm ra sự khác

nhau của từng nhóm tội phạm cũng như phân biệt từng loại tội phạm. Tuy nhiên,

mục đích của luận văn là đánh giá được tình hình tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh

Thiên Thiên Huế, qua đó xác định nguyên nhân và điều kiện của THTP lừa đảo

chiếm đoạt tài sản dựa trên những đặc điểm riêng có, khác biệt của địa phương

từ đó đưa ra các giải pháp hiệu quả, có cơ sở thực tiễn và nếu được thì ứng dụng

ngay vào thực tiễn nhằm tiến tới làm giảm tình hình tội phạm LĐCĐTS trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đó việc đi sâu phân tích, làm rõ những lý luận

chung, cơ bản (đặc điểm) nhất thế nào là tình hình, nguyên nhân và điều kiện,

PNTH tội LĐCĐTS là cơ sở lý luận cần thiết để tiếp tục phát triển xây dựng

25

thành một luận văn hoàn chỉnh.

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN 2015 - 2019

2.1. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

2.1.1. Phần tội phạm rõ

2.1.1.1. Thực trạng của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 – 2019

Thực trạng của THTP là một trong các chỉ số về lượng của THTP. Nếu

nhận thức một cách đơn giản thì thực trạng của THTP là số lượng thống kê

chung về các tội phạm và những người thực hiện các tội phạm đó trong một giai

đoạn thời gian nhất định và ở một lãnh thổ nhất định.

Như vậy, thực trạng của tình hình tội phạm LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế là số lượng thống kê chung về số vụ án và số lượng người phạm

tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong khoảng thời gian nhất định.

Qua phân tích bảng số liệu (Bảng 2.1 – Phụ lục). Theo thống kê số liệu

TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, từ năm 2015 đến năm 2019 có tổng cộng 199 vụ

LĐCĐTS với 243 bị cáo được TAND đưa ra xét xử sơ thẩm. Theo bảng số liệu

thì năm 2018 có số vụ LĐCĐTS đưa ra xét xử nhiều nhất với 43 vụ và 57 bị cáo;

năm 2015 có số vụ LĐCĐTS xảy ra ít nhất với 35 vụ và 45 bị cáo. Trung bình

mỗi năm toàn tỉnh XXST 39,8 vụ với trung bình 48,6 bị cáo, và cứ 1 vụ XXST

có 1,22 bị can. Để đánh giá được mức độ của tình hình tội phạm LĐCĐTS trên

địa bàn cần so sánh, đối chiếu với mức độ tội phạm và số người phạm tội nói

chung trên cùng địa bàn trong cùng khoảng thời gian.

Qua phân tích số liệu (Bảng 2.2 – Phụ lục) cho thấy, trong 5 năm qua trên

26

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã đưa ra xét xử sơ thẩm 199 vụ với 243 bị cáo

phạm tội LĐCĐTS; chiếm 15,79 về số vụ và 13,46% số bị cáo; bình quân mỗi

năm có khoảng 39, 8 vụ với 48,6 bị cáo bị xét xử về tội LĐCĐTS; đây chính là

tỷ lệ tội LĐCĐTS trong tình hình tội phạm ở tỉnh Thừa Thiên Huế, cái giữ vai

trò chỉ số khái quát của THTP.

Qua phân tích số liệu tại (Bảng 2.3 – Phụ lục) ta nhận thấy: Các tội phạm

XPSH trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế xảy ra 7/13 tội danh. Một số tội danh

quy định trong BLHS gồm các Điều 169, Điều 176, Điều 177, Điều 179 và Điều

180 không xảy ra trong 5 năm từ 2015 đến 2019 trên địa bàn. Tội trộm cắp tài

sản theo Điều 174 xảy ra nhiều nhất chiếm 48,13% số vụ và 54,94% số bị cáo so

với các tội phạm XPSH; tiếp đến là tội LĐCĐTS với 19,63% số vụ và 16,56 %

bị cáo so với các tội phạm XPSH khác. Số còn lại là các tội danh khác. Như vậy

thấy rằng Tội LĐCĐTS chiếm tỷ lệ khá cao so với các tội danh khác trong nhóm

tội XPSH. Điều đó cho thấy để giảm tình hình tội phạm XPSH thì cần phải quan

tâm xem xét nguyên nhân và điều kiện từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu để

làm giảm tội LĐCĐTS.

2.1.1.2. Diễn biến của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 – 2019

Diễn biến của THTP là chỉ số lượng - chất tổng hợp của tình hình tội phạm.

Chỉ số này phản ánh sự thay đổi của THTP theo thời gian.

Việc đánh giá diễn biến THTP giúp ta xác định được quy luật vận động của

tội phạm, là cơ sở cho việc dự báo THTP trong thời gian tương lai, cơ sở đưa ra

các giải pháp phòng chống tội phạm. Tuy nhiên việc đánh giá diễn biến của

THTP không chỉ dựa vào số liệu số vụ, số bị can hằng năm mà phải dựa vào số

vụ, số bị cáo XXST hằng năm để đánh giá mức tăng giảm của THTP. Để làm rõ

diễn biến của tình hình tội phạm tội LĐCĐTS giai đoạn từ năm 2015 – 2019 trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ta cần phải dựa vào phương pháp so sánh định gốc

và so sánh liên kế.

- So sánh định gốc là theo thời gian từng năm và theo giai đoạn ba năm

27

(tính theo việc sửa đổi BLHS, thay đổi điều áp dụng). (Bảng 2.4 – Phụ lục)

Qua việc phân tích bảng số liệu 2.4 ta thấy rằng tội LĐCĐTS này biến động

trong biên độ hẹp, về số vụ biên độ tối đa là 22,6%, số bị cáo biên độ tối đa

26,67%. Qua 5 năm số vụ và đối tượng phạm tội đã tăng lần lược là 1,17 và 1,11

lần so với thời điểm năm 2015. Ta thấy rằng mặc dù số vụ án luôn ít hơn so với

số bị cáo, xét thấy vụ án LĐCĐTS đa phần do cá nhân đơn lẻ thực hiện, tuy

nhiên thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều vụ án có dấu hiệu đồng phạm.

- So sánh liên kế (Bảng 2.5 - Phụ lục):

Phương pháp này lấy năm sau so với năm trước liền kề để làm rõ tỷ lệ tăng,

giảm hằng năm của tình hình tội LĐCĐTS. Kết quả phương pháp so sánh này

thể hiện ở bảng 2.5 – Phụ lục.

Qua kết quả so sánh bằng phương pháp liên kế năm cho thấy tuy có tăng

giảm nhưng xu hướng tình hình tội LĐCĐTS gia tăng về số vụ, số bị cáo; ta thấy

số vụ, số bị cáo biến động trong biên độ hẹp, có năm tăng, năm giảm, mức độ

giảm tối đa 9,52 % tuy nhiên mức độ tăng tối đa 23,91%.

Từ các kết quả phân tích cho phép kết hợp giữa so sánh định gốc (Bảng 2.4

– Phụ lục) và so sánh liên kế (Bảng 2.5 – Phụ lục) ta có thể khẳng định có xu

hướng gia tăng của tình hình tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

trong những năm qua.

+ Nguyên nhân gia tăng cả về số vụ do THTP nói chung tiếp tục gia tăng và

diễn biến phức tạp nên tác động tiêu cực đến tất cả các tội phạm trong đó có tội

LĐCĐTS.

+ Qua phân tích thấy mặc dù số vụ án XXST luôn ít hơn số bị cáo XXST

về tội LĐCĐTS chứng tỏ trong các vụ án có đồng phạm từ từ 02 người trở lên có

xu hướng gia tăng. Xét cho cùng nó phù hợp với sự gia tăng của tội phạm nói

chung, trước hết về sự câu kết của các đối tượng, về gia tăng tội phạm băng, ổ,

nhóm hay tội phạm có tổ chức. Cho thấy rằng mức độ, thủ đoạn ngày càng tinh

vi, xảo quyệt và phức tạp hơn trong thủ đoạn thực hiện cũng như che dấu tội

phạm.

28

+ Năm 2019 số vụ và số bị cáo XXST có chiều hướng giảm hơn so với năm

2018 tuy không nhiều nhưng phần nào cho thấy quyết tâm của chính quyền của

tỉnh Thừa Thiên Huế trong đấu tranh trấn áp tội phạm. đặc biệt là của lực lượng

Công an, nó cho thấy hiệu quả phần nào từ mô hình chính quy hóa lực lượng

Công an xã của Bộ Công an.

2.1.1.3. Cơ cấu của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019

Cơ cấu THTP là một chỉ số về chất của tình hình tội phạm. Cơ cấu của

THTP được đo lường trong các chỉ số tuyệt đối (các số lượng chung) và các chỉ

số tương đối (các phần trăm, các phần, các hệ số, các bộ chỉ số) các tội phạm.

Các chỉ số này không chỉ đặc trưng cho THTP về mặt chất mà còn cả về mặt

lượng, điều này đã được phân tích ở mục trước.

Nghiên cứu cơ cấu tình hình tội phạm có ý nghĩa:

Một là, cơ cấu của THTP đặc trưng cho tính chất của tình hình tội phạm,

mức độ nguy hiểm của THTP đối với các khách thể khác nhau của sự xâm hại,

các mối liên hệ nhân quả của tình hình tội phạm với các hiện tượng và quá trình

khác nhau.

Hai là, việc nghiên cứu các chỉ số về cơ cấu theo thời gian đưa đến khả

năng làm sáng tỏ các xu hướng khác nhau của các bộ phận cấu thành của THTP

mà dựa vào các xu hướng đó có thể dự báo có cơ sở hơn về THTP, về các nhóm

và loại THTP cụ thể nào đó.

Cơ cấu THTP được xem xét trên nhiều chỉ số khác nhau. Tuy nhiên để làm

rõ tình hình tội phạm tội LĐCĐTS thì tác giả lựa chọn một số chỉ số để phân tích

dựa trên đặc điểm của địa phương và điều kiện thống kê.

- Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm:

Qua phân tích, lựa chọn nghiên cứu, thống kê 100 bản án hình sự sơ thẩm

trong thời gian từ 2015 – 2019. Từ đó rút ra tổng kết tùy theo từng lĩnh vực khác

nhau mà đối tượng sử dụng các phương thức, thủ đoạn khác nhau để thực hiện

hành vi phạm tội. Qua nghiên cứu 100 bản án cho thấy các đối tượng thực hiện

29

tội LĐCĐTS chủ yếu dưới hình thức đơn lẻ là 89%, còn thực hiện theo hình thức

đồng phạm là 11% nhóm từ 2 hoặc 3 đối tượng.

Trong thời gian từ năm 2015 – 2019 toàn tỉnh đã xét xử với tội LĐCĐTS

tổng cộng 199 vụ với 243 bị cáo với các hình phạt được mô tả tại (Bảng 2.6 –

Phụ lục và 2.7 – Phụ lục).

Nhìn từ bảng thống kê (Bảng 2.6 – Phụ lục) cho thấy, trong 05 năm qua,

Tòa án cấp sơ thẩm của Tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử chủ yếu áp dụng các hình

phạt tù từ 03 năm trở xuống với mức 59,26%; tiếp theo là tù từ 7 đến 15 năm với

mức 16,87%; Án treo là 10,29%; tù từ 3 đến 7 năm là 8,23%; tù chung thân thì

mức 0,41%; tử hình chưa có hình phạt nào; các loại chế tài hình sự còn lại chỉ ở

mức 0,82% đến 2,88%.

Qua kết hợp cả hai (Bảng 2.6 – phụ lục và Bảng 2.7 – Phụ lục) nhận thấy

rằng: Trách nhiệm hình sự chủ yếu tập trung ở tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên xét

thấy tỷ lệ tội rất nghiêm trọng cũng chiếm tỷ lệ cao so với tội nghiêm trọng và

đặc biệt nghiêm trọng. Nếu xét theo từng năm thì thấy những năm trở lại đây tòa

án áp dụng mức hình phạt tăng dần của tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng

và đặc biệt nghiêm trọng. Điều đó cho thấy tình hình tội LĐCĐTS ngày càng

phức tạp, hậu quả cũng như mức độ thiệt hại, tính chất vụ việc có chiều hướng

gia tăng.

- Cơ cấu theo đơn vị hành chính lãnh thổ:

Theo bảng xét cơ cấu theo đơn vị hành chính lãnh thổ (Bảng 2.8 – Phụ lục

và Bảng 2.8.1 – Phụ lục) thì tội LĐCĐTS xảy ra hầu hết ở các địa bàn trong tỉnh

Thừa Thiên Huế. Trong đó tập trung chủ yếu ở Thành phố Huế với tỷ lệ 53,27%;

Thị xã Hương Thủy với tỷ lệ 16,58 %; Huyện Phú Vang với tỷ lệ 9,05%; Thị xã

Hương Trà với tỷ lệ 6,53%. Nếu đối chiếu với điều kiện kinh tế, đặc điểm tự

nhiên, mật độ dân cư thì tình hình tội LĐCĐTS luôn ở mức cao và có chiều

hướng gia tăng với các đơn vị hành chính có điều kiện kinh tế, hạ tầng phát triển,

có nhiều hình thức kinh doanh cũng như sở hữu cá nhân. Còn các vùng có điều

kiện kinh tế, địa hình, điều kiện đi lại khó khăn thì chiếm tỷ lệ tội LĐCĐTS xảy

30

ra ít như các huyện Quảng Điền, Nam Đông, A Lưới. Do vậy trong hoạt động

đấu tranh cũng như phòng ngừa cần tập trung lực lượng ở các địa bàn trọng điểm

như Thành phố Huế, Thị xã Hương Thủy, Phú Vang và Thị xã Hương Trà.

- Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội:

+ Cơ cấu về giới tính.

Theo số liệu thống kê (Bảng 2.9 – Phụ lục) trong 05 năm, thì tổng số 243 bị

cáo xét xử về tội LĐCĐTS thì có đến 86,01% bị cáo là nam giới trong khi đó nữ

giới phạm tội này chỉ 13,99%. Kết quả trên cho thấy tỷ lệ phạm tội LĐCĐTS

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu là nam giới, chiếm tỷ lệ áp đảo so với

nữ giới. Đây là một đặc điểm cần nghiên cứu kỹ để xác định đối tượng đấu tranh

cũng như tập trung phòng ngừa vào số đối tượng nam.

+ Cơ cấu vào độ tuổi:

Qua nghiên cứu 243 người bị xét xử về tội LĐCĐTS (Theo Bảng 2.10 –

Phụ lục) thì thấy số người từ 14 đến 18 tuổi chiếm tỷ lệ thấp 3,70%; Tỷ lệ người

phạm tội từ 17 đến 30 chiếm tỉ lệ 29,22%. Xét như vậy thấy rằng đa số người

phạm tội chủ yếu trên 30 tuổi, đây là số đối tượng có kinh nghiệm sống nhất

định và có nhận thức và suy nghĩ chính chắn trong cuộc sống. Do đó đây là số

đối tượng có nhiều mánh khóe, thủ đoạn; đặc biệt khả năng tạo ra niềm tin, vỏ

bọc, khả năng ăn nói, diễn đạt để thực hiện hành vi gian đối, dễ lừa dối để chiếm

đoạt tài sản. Còn xét thấy đối tượng từ 14 đến 18 tuồi khả năng thực hiện tội này

có khó khăn, do kinh nghiệm, vốn sống, sự trải nghiệm chưa nhiều, kinh tế chưa

có nên khó để đánh lừa nạn nhân. Tuy nhiên để xem xét kỹ tính chất mức độ

THTP cần phải liên hệ giữa độ tuổi và cơ cấu trình độ học vấn.

+ Cơ cấu trình độ học vấn:

Trình độ học vấn là phương thức giúp con người phát triển hình thành nhân

cách lựa chọn hành vi và có điều kiện nắm bắt các sự kiện chính trị, tình hình

văn hóa và cũng như mặt trái của xã hội. Theo thống kê (tại Bảng 2.11 – Phụ

lục) cho thấy trình độ của các bị cáo thực hiện hành vi LĐCĐTS có trình độ học

vấn ở mức trung bình. Nếu xét về tỉ lệ trình độ từ trung học phổ thông đến đại

31

học chiếm 33,33% chứng tỏ các đối tượng phạm tội có trình độ nhận thức cơ bản

là cao. Tỉ lệ đối tượng phạm tội không biết chữ chiếm 15,23 % tỷ lệ chỉ cao hơn

đối tượng có trình độ đại học và cao đẳng. Như vậy khi xem xét xây dựng các

giải pháp phòng ngừa tội phạm này cần hướng tới đối tượng có nhận thức, kỹ

năng đọc viết tốt.

- Cơ cấu nghề nghiệp của đối tượng phạm tội:

Các đối tượng dù không nghề nghiệp hay có nghề nghiệp ổn định thì đều

tham gia hoạt động phạm tội LĐCĐTS; chủ yếu các đối tượng hoạt động riêng lẻ

hoặc có từ 2 đến 3 đối tượng tham gia với vai trò chủ yếu tổ chức hoặc tham gia;

cụ thể không nghề nghiệp và nghề nghiệp không ổn định chiếm tới 78,37%, còn

nghề nghiệp ổn định chiếm 21,63%.

2.1.1.4. Tính chất của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019

Tính chất của THTP là một chỉ số về chất đặc biệt của tình hình tội phạm,

gắn liền chặt chẽ với cơ cấu của tình hình tội phạm, với sự phân bố về lượng của

các tội phạm theo các loại, với nội dung cơ bản của các loại hành vi phạm tội,

chiếm ưu thế của các hành vi phạm tội đó trong cơ cấu của THTP được thống kê

và tình hình tội phạm được hiện thực, ở sự phân bố tội phạm theo các nhóm dân

cư, theo các lĩnh vực kinh tế xã hội. Tính chất của THTP được thể hiện trong các

đánh giá về chất như: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính nghiêm trọng, mức độ

nghiêm trọng; diễn biến, phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội, tỷ lệ tái

phạm…

Qua phân tích đánh giá các số liệu thống kê và qua việc nghiên cứu chọn

mẫu ngẫu nhiên 100 bản kết luận điều tra và bản án của tòa án thì có thể rút ra

một số tính chất đặc trưng cơ bản của tình hình tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế từ năm 2015-2019 như sau:

- Về tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Trong 05 năm qua tội

phạm LĐCĐTS diễn ra khắp các địa phương trên địa bàn tỉnh gây thiệt hại lớn

về tài sản. Phần lớn tập trung ở tội phạm ít nghiêm trọng, những năm 2018, năm

32

2019 tỷ lệ tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có chiều hướng tăng theo như

bảng 2.7;

Tuy nhiên theo đánh giá của các cán bộ trực tiếp làm công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm thì thấy mức án áp dụng các bị cáo còn chưa tương xứng

với thực tế, và chưa phản ánh được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Vì một số lý do:

Nạn nhân của tội phạm nhiều lúc không dám khai báo, che dấu số tiền thực

tế bị chiếm đoạt vì lo sợ trả thù; lo sợ gia đình, người thân biết được; sợ dư luận

xã hội đàm tiếu; sợ làm việc với cơ quan pháp luật…

Hành vi phạm tội có thể chưa bị phát hiện, rơi vào tội phạm ẩn. Việc phát

hiện tội phạm này thường do nạn nhân tố cáo. Hoặc khi bị phát hiện thì có thể

gia đình, người thân tìm cách khắc phục hậu quả.

Hành vi phạm tội xảy ra nhưng quá trình điều tra, truy tố khó khăn, chưa

phát hiện hết hậu quả của hành vi lừa đảo…

Đó là một vài nguyên nhân cho thấy mức độ nguy hiểm của tội phạm

LĐCĐTS, nó gây mất ổn định trật tự an toàn xã hội, làm bất ổn về chính trị và

ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.

- Về phương thức, thủ đoạn phạm tội:

+ Hoạt động chuẩn bị phạm tội: Qua nghiên cứu phần lớn các đối tượng

chủ yếu làm giả các loại giấy tờ như: Giấy chứng minh nhân dân, bằng lái xe;

giấy tờ chứng nhận sở hữu xe oto, xe máy; giấy tờ chứng chỉ nghề nghiệp giả

mạo và các loại giấy tờ giả khác để thực hiện hành vi lừa dối chiếm đoạt tài sản.

Đối với các đối tượng làm kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ lợi dụng mối quan hệ

trong kinh doanh, bạn hàng, người mua hàng để vẽ ra các kế hoạch, các hình

thức, thương vụ kinh doanh có lãi lớn, chiết khấu, khuyến mãi cao để lừa đảo.

Ngoài ra các đối tượng còn đóng giả vai doanh nhân thành đạt, có nhiều tiền,

nhiều tài sản, nhiều mối quan hệ có nhiều bất động sản, cửa hàng … để kêu gọi

góp vốn đầu tư, vay mượn tiền với lãi suất cao rồi chiếm đoạt. Một số dưới vỏ

bọc cán bộ nhà nước, tầng lớp trí thức có nhiều mối quan hệ đặc biệt là các quan

33

chức lớn, có tiếng tăm, người có thẩm quyền có thể ra một số quyết định có lợi

cho người khác như tuyển việc làm, xuất khẩu lao động. Các đối tượng tìm hiểu

thăm dò nhu cầu nạn nhân, hoàn cảnh kinh tế, nghề nghiệp, thói quen, sở thích

đặc biệt nhu cầu cận thân như cần việc làm; chạy chọt các hợp đồng…, có khi

chạy án.

+ Phương thức phạm tội: Đa phần các đối tượng phạm tội đơn lẻ. Ít có sự

bàn bạc chuẩn bị mà chủ yếu đồng thuận làm theo hoặc tham gia thực hiện hành

vi phạm tội vì nể nang, được chia lợi nhuận. Một số đối tượng sử dụng công

nghệ cao, mạng xã hội… để lừa đảo.

+ Thủ đoạn phạm tội: Các đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau, đa

dạng và phong phú, thời gian kéo dài chủ yếu dùng thủ đoạn gian dối sau khi nạn

nhân giao tài sản thì chiếm đoạt. Khi chiếm đoạt được thì dùng tài sản để ăn

chơi, mua sắm rồi chuyển hóa cho người thân, bạn bè hoặc cất dấu. Khi bị phát

hiện thì bỏ trốn hoặc kêu làm ăn phá sản, vỡ nợ…

- Đặc điểm nạn nhân: Đa phần nạn nhân có nhận thức, trình độ thấp. Một số

làm công việc kinh doanh, buôn bán, nhẹ dạ, cả tin cộng với lòng tham nên dễ bị

các đối tượng lợi dụng. Nạn nhân đa phần tập trung ở các vùng có điều kiện kinh

tế phát triển như thành phố Huế, thị xã Hương Thủy, thị xã Hương Trà.

- Thời gian, địa điêm gây án: Thời gian địa điểm gây án thì đa dạng với

nhiều phương thức thủ đoạn khác nhau. Tuy nhiên thường diễn ra trong thời gian

dài. Việc phát hiện chủ yếu do nạn nhân tố cáo vì một thời gian dài khi giao tài

sản thì đối tượng phạm tội không thực hiện các nghĩa vụ cam kết nên phần lớn

do nạn nhân tố cáo cơ quan có thẩm quyền mới phát hiện, xử lý.

Các số liệu thực tế trên chỉ là phần nổi của tảng băng về tình hình tội phạm

tội LĐCĐTS, phần số liệu có thể thống kê trên chỉ là phần nổi còn thực tế chúng

ta chưa nhìn thấy rõ phần ẩn của tảng băng mà chỉ qua các số liệu thực tế, qua

phân tích nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì mới phần

nào dự đoán được phần ẩn của tội LĐCĐTS.

2.1.2. Phần tội phạm ẩn

34

Tình hình tội phạm ẩn – tiềm ẩn, không thấy được là một bộ phận hiện

thực, nhưng tiềm ẩn hoặc không được thống kê của các tội phạm đã thực hiện

trên thực tế.

THTP thực thế thông thường cao hơn nhiều lần THTP được hệ thống tư

pháp hình sự biết đến, còn tình hình tội phạm được hệ thống tư pháp hình sự biết

đến là một bộ phận của THTP đã được đăng ký (thống kê) và xét xử. Các tội

phạm ẩn hình thành theo cơ chế như sau: Các tội phạm không trình báo; Các tội

phạm không được thống kê; Các tội phạm không được xác minh (chứng minh).

Khả năng ẩn của tội phạm phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Khả

năng phát hiện, xử lý của các cơ quan bảo vệ pháp luật; khả năng che dấu tội

phạm, hợp thức hóa hành vi của đối tượng phạm tội; khả năng tố giác, khai báo

của nạn nhân; những yếu tố phát sinh trong quá trình xử lý hành vi phạm tội…

Căn cứ vào đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa; tình hình,

đặc điểm, chức năng và kết quả phát hiện, điều tra, xử lý về hình sự của các cơ

quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua

cho thấy: Số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội LĐCĐTS trong thực tế mới

chỉ phản ánh phần nào tình hình thực tế của tội LĐCĐTS. Số còn lại vẫn chưa

được phát hiện, xử lý về hình sự, tức là vẫn còn ẩn, chiếm tỷ lệ từ 30% đến 35%.

Cũng như cơ chế hình thành tội phạm ẩn thì tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế phần ẩn cũng xuất hiện theo các cơ chế sau:

Một là, tội phạm ẩn khách quan: Gồm tất cả những tội LĐCĐTS đã xảy ra

trong thực tế, song các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có

thông tin về chúng. Hai là, tội phạm ẩn chủ quan: tội phạm ẩn là do các chủ thể

mà pháp luật quy định cho nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh chống tội phạm, từ khâu

trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm hoặc tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến

nghị khởi tố tội phạm cho đến khâu xét xử vụ án hình sự. Ba là, tội phạm ẩn

thống kê: Là loại tội phạm ẩn tồn tại trong phạm vi công tác thống kê, không

phải ở chủ thể tiến hành công việc thống kê, không phải ở phương tiện thống kê,

mà nó nằm ở những quy định có tính chất pháp lý đối với công tác thống kê tội

35

phạm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ẩn đối với tội LĐCĐTS nhưng

chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân sau:

+ Thứ nhất: Xuất phát từ phía nạn nhân. Nạn nhân không thông báo với cơ

quan chức năng về hành vi, sự việc phạm tội. Có thể có nhiều lý do như đã phân

tích ở phần tình hình tội phạm như tài sản bị chiếm đoạt không lớn; nạn nhân

ngại tiếp xúc với cơ quan pháp luật; nạn nhân không có đầy đủ thông tin về đối

tượng phạm tội; hay sợ gia đình, xã hội đàm tiếu, dị nghị, sợ bị trả thù hoặc cố

tình che dấu vì hành vi vi phạm, phạm tội khác; hành vi phạm tội xảy ra quá lâu

trước khi nạn nhân trình báo…

+ Thứ hai: Về phía người phạm tội: Họ luôn tìm cách che dấu, trốn tránh sự

phát hiện của pháp luật; thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt khó để phát hiện, đấu tranh;

người phạm tội bỏ trốn, tiêu hủy tài liệu, chứng cứ, tẩu tán tài sản chiếm đoạt.

+ Thứ ba: Cơ quan chức năng do sơ hở, yếu kém trong việc phát hiện, điều

tra. Có thể do nhiều nguyên nhân như: Năng lực, trình độ của cán bộ hạn chế;

khoa học, kỹ thuật, phương tiện còn thiếu hiện đại do việc chứng minh tội

LĐCĐTS không phải là vấn đề đơn giản đặc biệt đối với các vụ việc đối tượng

có thủ đoạn tinh vi trong việc che dấu, xóa dấu vết, không để lại đặc điểm nhận

dạng, cá nhân. Hầu hết LĐCĐTS thường do nạn nhân trình báo, tố giác chứ rất ít

khi được cơ quan chức năng phát hiện, xử lý. Tội phạm đã xảy ra những cơ quan

chức năng không chứng minh được hoặc đã khởi tố nhưng không tìm được

người phạm tội, hay chưa đủ chứng cứ để khởi tố bị can. Có thể do năng lực yếu

kém, thời gian nhận được tin báo, tố giác tội phạm. Đối tượng phạm tội có thời

gian hợp thức hóa hồ sơ.

+ Thứ tư: Trong công tác thống kê có thể do năng lực, thời gian thống kê;

đặc điểm biểu mẫu thống kê của từng cơ quan, ban ngành, thời điểm thống kê,

các chỉ số thống kê của các cơ quan, ban ngành nhiều lúc còn tự tiện, chưa thống

nhất.

Tóm lại, khó để đưa ra một con số cụ thể về THTP ẩn, mức độ ẩn của tội

LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 đến năm 2019. Qua

36

đánh giá các số liệu phản ánh thì số liệu ghi nhận được chính là phần nổi, là số

liệu cơ bản. Bời vì số liệu đã phản ánh phần nào mức độ, cơ cấu, diễn biến, tính

chất của tội phạm LĐCĐTS xảy ra, vừa là cơ sở xác định phần ẩn (phần suy

luận).

Để nhận thức đầy đủ THTP cần hiểu đúng bản chất của nó bao gồm nhận

thức cả phần hiện và phần ẩn của nó. Đây là cơ sở để tìm hiểu, đi sâu cùng với

các điều kiện đặc thù khác từ đó tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh

tình hình tội phạm nói trên.

2.2. Nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội, trật tự an ninh của Thừa

Thiên Huế

2.2.1.2. Bối cảnh trong nước và quốc tế

Nền kinh tế thế giới hiện nay đang trải qua những chuyển biến tích cực đan

xen với những rủi ro tiềm ẩn. Tăng trưởng kinh tế thế giới đã phục hồi sau cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, toàn cầu hóa tiếp tục gia tăng nhưng

vẫn đứng trước nguy cơ bảo hộ và tỷ lệ lạm phát, hệ thống tài chính – tiền tệ ổn

định nhưng ẩn chứa nguy cơ bất ổn. Kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương

đang phát triển năng động nhưng sự tham gia, vừa hợp tác vừa cạnh tranh ảnh

hưởng giữa các nước lớn làm cho tình hình khu vực diễn biến phức tạp, rất khó

đoán định. Đối mặt với những thách thức như vậy nhưng cùng với sự quyết tâm

của Đảng và Nhà nước tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của

chính phủ; sự nổ lực của các ngành các cấp thì nền kinh tế Việt Nam phát triển

ổn định theo đánh giá năm 2019 thì Tốc độ tăng GDP ước đạt 6,8%, lạm phát

dưới 3% GDP; thị trường ngoại tệ, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng gấp hai

lần so với đầu nhiệm kỳ. Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán, cân đối ngân

sách được bảo đảm, tỷ lệ bội chi và nợ công so GDP giảm. Cán cân thương mại

giữ được nhịp tăng trưởng cao, xuất siêu năm thứ tư liên tiếp.

Về tình hình trật tự an toàn xã hội: Báo cáo về công tác phòng, chống tội

37

phạm và vi phạm pháp luật năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết,

công tác đấu tranh trấn áp tội phạm đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ điều tra,

khám phá án hình sự đạt 84,2% (vượt chỉ tiêu Quốc hội giao); kiềm chế và đẩy

lùi tội phạm liên quan đến “tín dụng đen”, làm giảm nhiều loại tội phạm nghiêm

trọng, khẩn trương điều tra, làm rõ các vụ án gây bức xúc dư luận.

2.2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội, trật tự an ninh của Thừa Thiên Huế

Trước bối cảnh quốc tế khu vực và trong cả nước. Đảng Bộ và nhân dân

tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhận thấy tầm quan trọng của việc thực hiện ba đột phá

chiến lược mà Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 với ba khâu đột phá, gồm: Hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi

trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn

nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn

bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát

triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng

bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng

đô thị lớn.

Tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo các cấp, các ngành bám sát Kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội năm năm (2015 -2020) và định hướng chỉ đạo của Trung

ương để nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, tập trung xây dựng đồng bộ kết cấu hạ

tầng theo hướng hiện đại, đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa - du lịch, giáo

dục - đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ xứng tầm là trung tâm của

khu vực miền Trung và cả nước. Xem xét qua bảng số liệu (Bảng 2.12 – Phụ

lục).

- Về kinh tế: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh GDP luôn được duy trì

ổn định trên mức 7,11% (cao nhất vào năm 2015 với mức 9,03%, ở mức khá so

với các tỉnh miền Trung); Về nông – lâm - ngư nghiệp cơ bản duy trì mức ổn

định, tăng mạnh vào năm 2015 và có giảm đi vào năm 2016 và 2019 (việc tăng,

giảm phù hợp với cơ cấu ngành nghề hiện nay ở địa phương tăng sản xuất công

38

nghiệp dịch vụ) ở Thừa Thiên Huế ít có thế mạnh về nông – lâm – ngư nghiệp so

với các địa phương khác và còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết. Về Công

nghiệp - Xây dựng luôn có bước tăng trưởng; Tổng sản phẩm bình quân đầu

người và giá trị xuất khẩu trong tỉnh luôn duy trì đà tăng trưởng ổn định theo

từng năm kéo theo đó là vốn đầu tư xã hội và thu ngân sách ngày càng tăng

trưởng vượt bậc, tăng 2,19%. Công nghiệp - xây dựng tăng 9,29%, dịch vụ

6,37%...; giá trị xuất khẩu 543 triệu USD; tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9.950 tỷ

đồng; thu ngân sách nhà nước 3.822 tỷ đồng; tạo việc làm mới cho 8.680 người.

- Về xã hội: Giảm tỷ xuất sinh luôn ở mức thấp 0,2‰; Tỉ lệ tăng dân số

giảm từ 1,1% đến 1,08%; Tỉ lệ lao động được đào tạo ngày càng cao từ mức

56% lên đến mức 64%; Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng luôn có xu hướng giảm dần.

Duy trì ổn định tỉ lệ tạo việc làm mới.

- Về môi trường: Độ che phủ rừng tuy có giảm so với năm 2016 nhưng đến

năm 2019 đã tăng dần lên. Tỉ lệ hộ nông thôn sử dụng nước sạch lên đến 85%.

Tỉ lệ chất thải rắn được thu gom đến 95%.

Như vậy, Đánh giá tổng thể Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển Bắc

Trung bộ thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền trung, có một số lợi thế về vị trí

địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực khoa học và công nghệ, văn hóa trong

phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư. Đặc biệt đây là địa phương được ghi

nhận là thành phố Festival của Việt Nam, thành phố văn hóa, du lịch ASEAN; có

quần thể di tích Cố đô Huế và các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng

hằng năm thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước. Trong thời gian

qua thấy rằng cùng với sự phát triển của cả nước, Tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt

được nhiều thành tựu vượt bậc về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Quốc phòng, an ninh được giữ vững; đời sống nhân dân không ngừng được cải

thiện; lòng tin của quần chúng đối với Đảng, nhà nước ngày càng được củng cố.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trên cả nước nói chung và tỉnh

Thừa Thiên Huế nói riêng cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực đó là tình

trạng tham nhũng, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức

39

tạp, xảy ra nhiều vụ việc xâm hại tính mạng, sức khỏe tài sản của nhân dân gây

lo lắng trong nhân dân, bức xúc trong xã hội; Đặc biệt tình hình tội phạm lừa đảo

chiếm đoạt tài sản đang có chiều hướng gia tăng số vụ việc đã giải quyết cũng

như số vụ việc ẩn có chiều hướng ngày càng tăng, mức độ thiệt hại về tài sản

ngày càng lớn. Ngoài ra thành phần phạm tội còn liên quan đến những người thi

hành pháp luật.

Cùng với sự phát triển chung của thế giới, Việt Nam nói chung và Thừa

Thiên Huế nói riêng với xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay thì việc du nhập cả

cái tốt lẫn cái xấu là điều không thể tránh khỏi; tình hình tội phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản gia tăng một cách đáng kể về số lượng, giá trị chiếm đoạt và

thủ đoạn lừa đảo ngày càng tình vi hơn dẫn đến THTP diễn biến hết sức phức

tạp.

Nguyên nhân của tình hình trên một phần do các yếu tố khách quan như tác

động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội

nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội; lối sống thực dụng chạy theo

đồng tiền, làm ăn chụp giật. Những nguyên nhân yếu tố chủ quan do những hạn

chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng

ngừa xã hội; nhiều cấp nhiều ngành còn xem nhẹ, nhiều lúc đứng ngoài cuộc

hoặc chỉ tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó.

Để làm tốt công tác phòng ngừa thì phải làm rõ các nội dung về nguyên

nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan để có cái nhìn tổng thể, toàn diện về

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế từ đó làm cơ sở cho việc dự báo và đặt ra các giải pháp phòng

ngừa.

2.2.2. Các nguyên nhân khách quan

2.2.2.1. Các yếu tố tiêu cực ở môi trường sống

- Môi trường gia đình:

Gia đình được hiểu một cách cơ bản bao gồm những người sống chung

dưới một mái nhà, ăn chung một bếp, có lợi ích kinh tế chung và có trách nhiệm

40

với nhau trong cuộc sống. Gia đình vừa là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực

hiện chức năng phát triển nòi giống và là trường học đầu tiên hình thành, phát

triển nhân cách con người. Qua nghiên cứu, phân tích làm rõ thì đa phần người

phạm tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế rơi vào các dạng gia đình

có một số đặc điểm sau:

+ Gia đình thiếu quan tâm đến việc giáo dục con cái, người lớn đối xử với

nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động thiếu văn hóa…, những hành động xấu đó

đã phản chiếu vào tâm hồn cá nhân hưởng thụ trở lên cộc cằn, thô lỗ.

+ Gia đình có bố mẹ hoặc người lớn khác có hành vi thiếu văn hóa, đạo đức

thậm chí có cả những hành vi phạm tội, như bố mẹ bất hòa hay đánh chửi nhau,

nghiện rượu, nghiện ma túy, trộm cắp, lừa đảo, tham ô…thì những ảnh hưởng

xấu này làm cho cá nhân bị ảnh hưởng sẽ dần dần coi thường pháp luật, nhiễm

các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo rồi dần dần vi phạm pháp luật.

+ Gia đình bố mẹ ly hôn, có con ngoài giá thú, mất bố hoặc mẹ dẫn đến

việc con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không được

dạy dỗ và chăm sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất

cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo… Có những gia đình bố mẹ

thiếu hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên đã coi việc đánh đập hoặc dùng

nhục hình với trẻ như là quyền của họ.

+ Ngoài ra một số gia đình có sự nuông chiều, cha mẹ bao bọc mọi việc

khiến cá nhân hình thành tính ỷ lại, dực dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý

thức về trách nhiệm, quen được phục vụ, hưởng thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia

đình không thỏa mãn, xã hội không đáp ứng được nhu cầu cá nhân thì họ trở

nên bất mãn, xung đột với lợi ích của xã hội. Do đó chúng ta cần đặc biệt chú

trọng giải quyết vấn đề gốc rễ vấn đề môi trường gia đình cũng là một trong

những nguyên nhân tác động đến tình hình tội phạm LĐCĐTS.

- Môi trường nhà trường:

“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở

bản sắc và giá trị xã hội của người ấy”.( Nguyễn Quan Uẩn, “Tâm lí học đại

41

cương”, nxb. Đại học Quốc gia).

Các nhà nghiên cứu đều cho rằng quá trình hình thành nhân cách như là

một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của

giáo dục. Giai đoạn phát triển nhân cách có thể được xác định trong khoảng thời

gian trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách. Từ sự xác định trên, chúng

ta có thể đưa ra 5 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình

thành nhân cách, đó là: nhân tố di truyền, nhân tố hoàn cảnh sống (gồm hoàn

cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động, nhân tố

giao tiếp.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Với nghĩa rộng,

giáo dục bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục gia đình.

Nhưng hiện nay giáo dục cũng còn có không ít thiếu sót, những yếu tố tiêu cực

từ môi trường giáo dục ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách đối

với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua nghiên cứu trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế vẫn còn tồn tài một số yếu tố hạn chế trong môi trường giáo đó

là:

+ Giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc

phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn

chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt;

chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.

+ Đạo đức, năng lực của đội ngũ làm công tác giáo dục nhiều lúc còn thấp.

Cá biệt có một số giáo viên, học sinh có hành vi ứng xử thiếu văn hóa gây mất

niềm tin của cha mẹ học sinh, bức xúc trong xã hội.

+ Việc quản lý đối với học sinh cá biệt, học sinh hư: Nhà trường thiếu liên

lạc với phụ huynh, với gia đình, với cơ quan chức năng; Việc quản lý còn mang

nặng tình hình thức chỉ quản lý việc các em có đến trường hay không mà chưa

quan tâm đến thời gian ở gia đình. Thầy cô chủ yếu dùng mệnh lệnh, xử phạt kỷ

luật, đe dọa xử phạt chứ chưa quan tâm tìm hiểu, giao tiếp, nắm bắt tâm tư của

các em. Lâu dần sẽ đưa số học sinh này dễ tham gia vào các nhóm bạn, nhóm

42

anh chị có hành vi lệch chuẩn dễ xa vào con đường phạm tội.

Như vậy, giáo dục giữa vai trò chủ đạo quyết định xu hướng hình thành và

phát triển nhân cách. Những vết sạn, những lỗ hổng, yếu kém từ môi trường giáo

dục ảnh hưởng đến nhân cách cá nhân. Chưa hình thành ở cá nhân cơ chế tự vệ,

tự phản ứng với những kích thích của môi trường xã hội, dễ bị nhu cầu lêch lạc,

chống lại xã hội ảnh hưởng thôi thúc hình thành hành vi phạm tội. Đây là một

trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản. Ngoài môi trường gia đình, giáo dục thì cá nhân hằng ngày sống, giao

tiếp trong môii trường xã hội bao quanh. Chính các yếu tố môi trường xã hội bao

quanh này tác động không nhỏ vào nguyên nhân và điều kiện của THTP.

- Các yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường xã hội với nhà nước là chủ thể

quản lý:

Hiện nay nhà nước đặc biệt Đảng Bộ, Ủy Ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên

Huế với tư cách là chủ thể quản lý xã hội đã có nhiều cải cách bổ sung hoàn

thiện tuy nhiễn vẫn còn nhiều bât cập hạn chế, chậm khắc phục trên nhiều

phương diện: Đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến dẫn đến hoạt

động làm ăn thiếu chân chính của cá nhân, tổ chức. Việc phát triển không đồng

đều giữa các địa phương, các vùng miền trong tỉnh dẫn đến tỉ lệ phân hóa giàu

nghèo, tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm cũng là nguyên nhân và điều kiện

gia tăng tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn.

+ Việc quản lý các hình thức kinh doanh, quản lý về tài chính ngân hàng,

quản lý về cơ sở hạ tầng, thông tin viễn thông, sự yếu kém, chậm đổi mới của

các văn bản pháp luật trong khi điều kiện kinh tế ngày càng mở cửa dẫn đến việc

thiều vốn đầu tư kinh doanh, thiếu vốn làm ăn; cơ chế nghĩa vụ tài chính ràng

buộc giữa các bên dưới quy định của Luật còn chậm; tình trạng tội phạm sử dụng

công nghệ cao để lừa đảo; lợi dụng chính sách nhà nước chưa quản lý hết trong

việc khuyến mãi, tặng quà dẫn đến lợi dụng để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm

đoạt tài sản;

+ Hiện nay với việc tập trung phát triển du lịch, thu hút đầu tư số lượng

43

khách nước ngoài đến Huế du lịch và đầu tư cũng tăng cao. Đó cũng là môi

trường thuận lợi cho tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài,

tội phạm có tổ chức lợi dụng câu kết để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài

sản với số lượng lớn nạn nhân, số tài sản thiệt hại, bị chiếm đoạt ngày càng cao.

2.2.2.2. Những yếu tố thuộc tình huống phạm tội

Tình huống là cơ hội hoặc hoàn cảnh cụ thể đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc

phát sinh tội phạm của người phạm tội vào thời điểm nhất định. Trong một số

trường hợp phạm tội nhất định, tình huống cụ thể đóng vai trò là nguyên nhân

phát sinh tội phạm. Qua phân tích nghiên cứu hành vi phạm tội LĐCĐTS trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế xuất hiện một số tình huống, hoàn cảnh kích thích

người phạm tội thực hiện hành vi LĐCĐTS.

+ Trong quá trình kinh doanh lợi dụng sự thiếu quản lý của nhà nước đặc

biệt trong lĩnh vực cầm đồ. Nhu cầu kinh tế, sự phát triển xã hội dịch vụ cho thuê

xe oto ngày càng nhiều vì lợi nhuận họ sẵn sàng bỏ qua một số quy cách cầm cố,

xem xét giấy tờ. Từ đó đối tượng lợi dụng thuê xe oto đi cầm cố lấy tiền tiêu sài

cá nhân, trả nợ.

Điển hình như: Vụ đối tượng Võ Văn Dũng từng làm hồ sơ xin vay số tiền

700 triệu đồng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn công thương chi

nhánh Huế (số 50-Hùng Vương, TP Huế) với thời hạn 12 tháng, tài sản thế chấp

là ô-tô BKS 75A-07448, nhãn hiệu Toyota, loại Camry. Theo quy định của Hợp

đồng tín dụng về nghĩa vụ đối với Dũng (tức là bên B, bên vay vốn): “Bên B

không được dùng tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay của bên A-tức bên ngân

hàng-để bảo đảm nợ vay cho các tổ chức, cá nhân khác khi chưa trả hết nợ gốc

và lãi cho bên A”. Tuy nhiên, do số tiền vừa vay ngân hàng, Dũng đã cá độ bóng

đá qua mạng thua sạch nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn

Nữ Minh Châu (trú TP Huế). Dũng điện thoại cho bà Châu nói dối cho mượn

500 triệu đồng và sẽ thế chấp ôtô BKS 75A-07448 của vợ chồng Dũng. Bà Châu

không biết chiếc xe này Dũng đã làm thủ tục thế chấp ngân hàng nên đồng ý cho

cầm 500 triệu đồng. Khi Dũng lái ôtô 75A-07448 đến nhà giao cho bà Châu thì

44

bà Châu yêu cầu đưa giấy chứng nhận ôtô cho bà giữ. Dũng nói dối là vợ đang

cất giữ và hẹn vài ngày sau sẽ lấy đưa cho bà Châu (nhưng thực tế giấy chứng

nhận ngân hàng đang cất giữ). Tin tưởng lời Dũng nói là thật, bà Châu giao đủ

500 triệu đồng. Toàn bộ số tiền này Dũng sử dụng để đánh bạc và trả nợ tiền

đánh bạc trước đó. Cũng với thủ đoạn trên Dũng tiếp tục thuê nhiều xe ôtô rồi

nói dối của người nhà đem đi cầm cố, nói dối là kẹt tiền để cầm cố tại nhiều tiệm

cầm đồ khác nhau với số tiền lớn. Qua thời gian tất cả số tiền trên đều được

Dũng nướng vào đánh bạc và tiêu sài cá nhân.

Trong khoảng thời gian từ tháng 9-2016 đến 5-2017, Võ Văn Dũng đã nảy

sinh ý định chiếm đoạt tiền bằng các thủ đoạn gian dối. Với nhiều thủ đoạn khác

nhau, Dũng đã thực hiện liên tục 5 vụ, trực tiếp chiếm đoạt tổng cộng giá trị tài

sản và tiền hơn 1,7 tỷ đồng. Như vậy, Võ Văn Dũng là người có đầy đủ năng lực

trách nhiệm hình sự, nhận thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ,

nếu xâm phạm sẽ bị pháp luật xử lý nghiêm, nhưng do muốn có tiền để đánh bạc

và trả nợ tiền đánh bạc nên đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo chiếm đoạt tài

sản có giá trị lớn, phạm tội nhiều lần. Hành vi của bị cáo thể hiện sự táo bạo, liều

lĩnh, xem thường pháp luật. Xét toàn bộ tính chất vụ án, TAND tỉnh TT-Huế đã

tuyên phạt Võ Văn Dũng 9 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

+ Ngoài ra lợi dụng tình trạng thất nghiệp, khó khăn trong tìm kiếm việc

làm, nhu cầu việc làm mà một số phụ huynh mà các đối tượng đã lợi dụng lừa

đảo chiếm đoạt tài sản.

Điển hình như vụ án "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" đối với bị cáo Nguyễn

Thị Thanh Hoa (57 tuổi, trú tại 9B Ngô Thời Nhậm, P.Thuận Hòa, TP.Huế,

Thừa Thiên Huế), tuyên phạt bị cáo 17 năm tù. Theo cáo trạng, do cần tiền để trả

nợ và chi tiêu cá nhân, từ tháng 12-2012 đến tháng 5-2015, Nguyễn Thị Thanh

Hoa tự nhận mình có mối quen biết với nhiều lãnh đạo cơ quan, đơn vị, có khả

năng xin được việc làm ở nhiều cơ quan khác nhau trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế. Bị cáo Hoa đã nhận tiền “chạy việc” của 97 người có nhu cầu xin việc với

số tiền hơn 7,6 tỉ đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền của người xin việc (thông

45

qua 5 người làm trung gian gom tiền và hồ sơ), bị cáo Hoa không xin việc được

cho bất cứ ai và không trả lại tiền nên đã bị những người xin việc tố cáo. Được

biết trước đó, năm 2015, bị cáo Hoa đã bị TAND tỉnh Thừa Thiên Huế tuyên

phạt 7 năm tù giam về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Qua nghiên cứu thì tình huống LĐCĐTS trong thực tế xảy ra rất đa dạng.

Việc tìm hiểu tình huống có vai trò quan trọng trong PNTP, nhất là để cảnh báo

người dân về những nguy cơ xảy ra tội phạm. Tuy nhiên đa phần các tình huống

xuất hiện tội LĐCĐTS một phần đến từ các nguyên nhân chủ quan trong đó đến

cả từ phía nạn nhân.

2.2.3. Các nguyên nhân chủ quan

2.2.3.1. Các yếu tố thuộc về người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài

sản.

Tội phạm, như mọi hành vi khác của con người suy cho cùng là kết quả của

sự tác động lẫn nhau của cá nhân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài. Trong sự

tác động đó quyết định thực hiện tội phạm được thông qua và được thể hiện

trong thực tế. Do vậy, một mặt các nguyên nhân trực tiếp của việc thực hiện tội

phạm cụ thể thể hiện các đặc điểm về các nhu cầu, lợi ích, quan điểm, quan hệ,

hệ thống các định hướng và tính động cơ của cá nhân đó và mặt khác thể hiện ở

tổng thể các hoàn cảnh bên ngoài quyết định sự hình thành động cơ và sự quyết

tâm thực hiện tội phạm. [48, tr 110].

Như vậy xét cho cùng nguyên nhân và điều kiện của việc thực hiện tội

phạm chịu sự tác động khác nhau của cá nhân người thực hiện hành vi phạm tội

về các đặc điểm tâm lý – đặc điểm cá nhân quyết định động cơ và sự quyết tâm

thực hiện tội phạm, cũng như quyết định các tình huống trong đó cá nhân thực

hiện hành vi phạm tội.

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn thì việc nghiên cứu các yếu tố thuộc về

người thực hiện hành vi phạm tội cụ thể nói chung và hành vi phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng đều phải xem xét đến các điều kiện tác động đến sự

hình thành những sai lệch trong nhân cách của cá nhân và vai trò của chúng

46

trong cơ chế của hành vi phạm tội cụ thể như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Kết quả nghiên cứu trên 100 bản án và 125 bị cáo phạm tội LĐCĐTS trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015-2019 cho thấy đó là sự tương tác của

môi trường bên ngoài đến sự hình thành nhân cách cá nhân. Nhưng nói như vậy

thì tất cả mọi người đều có chung sự tác động thì đều có nhân cách như vậy hay

sao? Xét trên tổng thể đa số người thực hiện hành vi phạm tội có sự biến dạng về

các nhu cầu và lợi ích của cá nhân; liên quan tới mâu thuẩn giữa các nhu cầu, lợi

ích của cá nhân và khả năng của người đó, của xã hội đáp ứng nhu cầu đó; sự

biến dạng về các quan niệm về đạo đức, về pháp luật, về các định hướng giá trị

và mục đích xã hội của cá nhân; và nó cũng liên quan đến một số khuyết tật, sai

sót trong quá trình ra vào thực hiện các quyết định của cá nhân. Những yếu tố đó

bao gồm:

- Trình độ, mức độ được giáo dục, việc làm, nghề nghiệp, gia đình: Qua

phân tích đa số người thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều

có trình độ thấp dưới Đại học, cao đẳng, một số ít có trình độ trên. Mức độ giáo

dục đa số đều học hành không đến nơi đến chốn, tâm lý ngại học, bỏ học sớm;

việc làm không có hoặc không ổn định; nghề nghiệp chủ yếu không nghề nghiệp

hoặc trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ, một số ít làm việc trong các cơ

quan nhà nước.

- Đặc điểm nhân thân: Đa phần qua nghiên cứu người thực hiện hành vi lừa

đảo chiếm đoạt tài sản phần lớn có nhân thân xấu (gia đình, anh chị em, bạn bè

thường là người đã có tiền án, tiền sự) hoặc đặc điểm nhân thân tiêu cực: Do quá

trình tác động của môi trường sống đa phần chịu ảnh hưởng và có nhu cầu tiếp

nhận nhiều, thường xuyên các thông tin mang tích tiêu cực và dần dần hình

thành độ lệch chuẩn, độ tiêu cực, độ tiền năng phạm tội trong nhân thân của họ

ngày càng lớn hơn và độ lệch chuẩn trong việc lựa chọn phương thức thỏa mãn

nhu cầu, lợi ích cũng ngày càng lớn hơn so với những con người khác đó là:

+ Sai lệch trong nhận thức cả hành vi về nhu cầu: Theo cách hiểu thông

thường thì nhu cầu như là hiện tượng tâm lý của con người, là đòi hỏi, mong

47

muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát

triển. Đa phần qua nghiên cứu thì người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài

sản đa phần có nhu cầu sai lệch, lệch chuẩn xã hội: Nhu cầu hám lợi; nhu cầu vật

chất muốn có tiền, muốn hưởng thụ nhưng lại lười lao động; đôi khi họ có cả

nhu cầu cần vốn, cần tiền để làm ăn mà thực hiện hành vi lừa đảo…Tâm lý

hưởng thụ, nhu cầu thái quá, đặc biệt ý thức sai méo mó về con đường thỏa mãn

nhu cầu.

+ Sai lệch về cách thỏa mãn nhu cầu: Khi chủ thể đã hình thành nhu cầu thì

nhu cầu sẽ chi phối mạnh mẽ đến hành vi, đến động cơ của mình. Từ đó thôi

thúc người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội và mong muốn đạt được mục

đích của mình. Nghiên cứu đặc điểm tâm lý các đối tượng phạm tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản đều có nhận thức sai lệch về phương pháp, cách thỏa mãn nhu

cầu mục đích của mình, nhiều đối tượng để thỏa mãn nhu cầu vật chất mà dẫn

đến hành vi gian dối, lừa gạt những người khác để họ tin mình giao tài sản sau

đó chiếm đoạt, để thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình bằng phương pháp trái

pháp luật và đạo đức xã hội.

- Lối sống, nhận thức cá nhân về các giá trị sống của người thực hiện hành

vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Thường những kẻ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có lối sống vụ lợi, ích kỷ, thích hưởng lạc, lười lao động, sống bằng đồng

tiền không phải do mình làm ra mà dựa dẫm, được nuông chiều… tất cả các yếu

tố đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi tiêu cực của tội phạm này.

- Thiếu hiểu biết, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, coi thường các nghĩa

vụ. Hiện nay đa số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn nhận thức

chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về pháp luật. Nhiều trường hợp cho rằng hành vi

của mình không lừa đảo (như ngân hàng muốn có vốn nên đưa ra các dự án ảo để

kêu gọi đầu tư mục đích lừa đảo) nhưng cứ cho rằng hành vi của mình không

phạm tội. Từ việc nhận thức chưa đầy đủ hoặc do bản chất cá nhân mà họ coi

thường pháp luật coi thường các nghĩa vụ tài chính đối với người chủ tài sản .

2.2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót tổ chức công tác đấu tranh, phòng ngừa

48

tội phạm

Trong thời gian vừa qua, việc nắm tình hình hoạt động của các đối tượng

LĐCĐTS của cơ quan chức năng còn nhiều thiếu sót, hạn chế, nắm tình hình

chưa chắc, chưa thường xuyên, kịp thời trên lĩnh vực đấu tranh với hành vi này.

Nguyên nhân đến chính từ sự yếu kém, hạn chế của cơ quan chức năng về cả

nhân lực và chuyên môn; Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng như

Công an, Hải quan, Thuế…; Công tác phát hiện xử lý tội phạm còn chậm, nhiều

vụ khởi tố thì đối tượng đã bỏ trốn, tài sản bị phân tán, khi khám phá vụ án thì tài

sản thu hồi không được bao nhiêu gây tâm lý e ngại ngay cho cả người bị hại khi

khai báo với cơ quan chức năng.

2.2.3.3. Nguyên nhân từ phía người bị hại

Qua nghiên cứu nạn nhân của tội LĐCĐTS thường có một số đặc điểm:

Nhận thức, hiểu biết pháp luật còn hạn chế; Nạn nhân thường là người có thu

nhập thấp, nghề nghiệp không ổn định nhưng nhu cầu bản thân lại lớn so với khả

năng tự thân dể trở thành nạn nhân khi tham gia vào các hợp đồng bất hợp pháp

như cho vay nóng, vay lãi suất cao, chơi hụi … từ đó trở thành nạn nhân của tội

phạm. Nhiều bị hại sơ hở, tự tin trong việc quản lý tài sản, tin vào mối quan hệ

với đối tượng lừa đảo mà bản thân thiếu sự phòng ngừa trong quản lý tài sản như

hợp đồng cho thuê xe, hợp đồng cầm cố tài sản… Ngoài ra điểm chung nhất

trong tâm lý của nạn nhân đó là tâm lý hám lợi, lười lao động.

Tiểu kết Chương 2

Thông qua việc phân tích, đánh giá một cách đầy đủ các khía cạnh chất và

lượng của tình hình tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ta thấy mặt

dù số vụ phạm tội, số bị can tính trung bình trong 5 năm còn ít so với các địa

phương khác. Tuy nhiên qua phân tích thấy rằng tính chất, mức độ, diễn biến tài

sản thiệt hại không ngừng gia tăng; thủ đoạn phạm tội, che dấu tội phạm ngày

càng mới, tinh vi hơn. Đó là một trong những nguyên nhân làm bất ổn xã hội,

gây lo lắng trong toàn bộ nhân dân; nguyên nhân tác động đến sự phát triển kinh

49

tế, xã hội, văn hóa của địa phương.

Tác giả đã đi từ quá trình nhìn nhận tổng thể, đánh giá những đặc thù về

tình hình kinh tế, xã hội an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm

2015 đến 2019. THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế như đã phân tích bắt nguồn từ những nguyên nhân và điều kiện khác nhau.

Nhưng chung quy lại nó đều bắt nguồn từ sự tác động của những hiện tượng xã

hội tiêu cực và cá nhân con người đã hình thành ở họ những phẩm chất tiêu cực,

hình thành động cơ lệch lạc, làm biến dạng nhân cách của người phạm tội để rồi

khi những cá nhân này rơi vào môi trường không thuận lợi, đặt trong sự tác động

với các hiện tượng, tình huống xã hội tiêu cực khác vốn tồn tại khách quan trong

đời sống xã hội là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm lừa đảo chiếm đoạt

tài sản. Từ đó phải xác định rằng để kiềm chế tình hình tội phạm phải có hệ

thống các giải pháp nhằm khắc phục, hạn chế, dần loại bỏ các hiện tượng và quá

trình xã hội tiêu cực trong các lĩnh vực đời sống trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên

Huế. Việc xác định đúng nguyên nhân và điều kiện là cơ sở quan trọng để có thể

dự báo tình hình tội phạm này đồng thời cũng là tiền đề chủ động đề xuất các

50

giải pháp phòng ngừa hiệu quả trong chương tiếp theo của luận văn.

CHƯƠNG 3

DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI

LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

3.1. Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế trong thời gian tới

3.1.1. Cơ sở dự báo

Dự báo tội phạm là hoạt động dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để

đưa ra những nhận định mang tính phán đoán về THTP trong tương lai, những

thay đổi về nhân thân người phạm tội, những yếu tố tiêu cực tác động đến tình

hình tội phạm và khả năng phòng chống tội phạm của chủ thể có liên quan, từ đó

đưa ra những cơ chế, biện pháp phòng ngừa tội phạm trong tương lai.

Để đưa ra dự báo về tình hình tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế phải căn cứ vào:

+ Tội LĐCĐTS tình hình, nguyên nhân và điều. Qua việc phân tích, đánh

giá các tác động từ môi trường gia đình, giáo dục, môi trường sống trên địa bàn

và tham khảo các công trình; kết quả nghiên cứu về thay đổi hình thành nhân

cách người phạm tội, hoàn cảnh sống của nhân thân người phạm tội; đặc biệt

cũng nghiên cứu một số đặc điểm nạn nhân của tội LĐCĐTS.

+ Phân tích, đánh giá, nhìn nhận, dự báo được phương hướng, điều kiện

phát triển chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế cũng như những mặt trái của quả trình phát triển dựa trên các văn bản

định hướng phát triển của Đảng, Chính phủ và đặc biệt của HĐND và UBND,

các ban ngành, đoàn thể trong Bộ máy chính trị tỉnh Thừa Thiên Huế.

+ Cuối cùng cũng phải dựa trên cơ sở những đánh giá, báo cáo về các mặt

51

công tác đấu tranh, phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế của các cơ quan chức năng làm công tác phòng ngừa, đấu tranh

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

3.1.2. Nội dung dự báo

Thực hiện Nghị quyết Số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 10/12/2019 về

xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2045. Phấn đấu đến năm 2025, Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc

Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn

hóa Huế, với đặc trưng văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi

trường và thông minh. Đến năm 2030, Thừa Thiên Huế là một trong những trung

tâm lớn, đặc sắc của khu vực Đông Nam Á về văn hóa, du lịch và y tế chuyên

sâu; một trong những trung tâm lớn của cả nước về khoa học và công nghệ, giáo

dục và đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; quốc phòng, an ninh được

bảo đảm vững chắc; Đảng bộ, chính quyền và toàn hệ thống chính trị vững

mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân đạt mức cao. Tầm nhìn đến

năm 2045, Thừa Thiên Huế là thành phố Festival, trung tâm văn hóa, giáo dục,

du lịch và y tế chuyên sâu đặc sắc của châu Á.

Quán triệt các quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

tại Nghị Quyết 54 của Bộ Chính trị. Thì Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã tổ chức Hội

nghị phiên bất thường mở rộng ngày 13/01/2020 với mục tiêu, yêu cầu thực hiện

cho được thắng lợi Nghị quyết 54 của Bộ Chính trị, lấy năm 2020 làm năm bản

lề thực hiện các mục tiêu của tỉnh Thừa Thiên Huế. Như vậy trong những năm

tiếp theo Thừa Thiên Huế sẽ thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế; xây dựng

nhiều cơ sở hạ tầng, mở rộng các hoạt động dịch vụ, du lịch; kêu gọi đầu tư

trong và ngoài nước; quy hoạch lại thành phố và các địa phương theo kế hoạch

tổng thể.

- Dự báo về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế:

+ Trong thời gian tới, mức độ, tính chất của tình hình tội phạm LĐCĐTS

52

trên địa bàn Thừa Thiên Huế còn diễn biến phức tạp, tăng về quy mô và tính

chất, về số vụ phạm tội, số lượng người phạm tội và nạn nhân cũng gia tăng. Đặc

biệt sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản có liên quan

đến yếu tố nước ngoài. Các vụ việc lừa đảo liên quan đến bất động sản, lĩnh vực

nhà đất, cho thuê mặt bằng kinh doanh có chiều hướng gia tăng. Trong lĩnh vực

ngân hàng, dịch vụ thuê xe… sẽ cũng là nơi tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản

lợi dụng để gia tăng hoạt động. Đặc biệt tình hình các đối tượng sử dụng công

nghệ cao, tội phạm mạng; xu hướng các đối tượng liên kết thành những băng, ổ

nhóm tội phạm; tội phạm có tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ trở nên phổ

biến, tính chất nguy hiểm với phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó phát

hiện, mức độ thiệt hại, giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng lớn.

Về địa điểm thực hiện tội phạm hiện nay đa số hành vi LĐCĐTS tập trung

chủ yếu ở Thành phố Huế, nhưng trong thời gian tới với sự phát triển, chia tách,

xác nhập ranh giới hành chính thì dự báo địa điểm vẫn tập trung chủ yếu ở thành

phố Huế nhưng ở các địa bàn có nhiều khu công nghiệp như thị xã Hương Trà,

thị xã Hương Thủy, huyện Phú Vang cũng là một trong những địa phương sẽ gia

tăng số tình hình tội LĐCĐTS.

+ Dự báo về nhân thân người phạm tội:

Xuất hiện ngày càng nhiều đối tượng phạm tội thất nghiệp, gia đình có cấu

trúc không hoàn hảo thiếu cha hoặc mẹ; gia đình có yếu tố bạo lực, có hành vi vi

phạm đạo đức, lối sống, đặc biệt gia đình có người là tội phạm sẽ gia tăng, chiếm

tỷ lệ cao. Tỷ trọng nam giới phạm tội vẫn chiếm đa số nhưng số người phạm tội

là nữ sẽ gia tăng đặc biệt trong các lĩnh vực ngân hàng, góp hụi, lĩnh vực đất đai.

Xuất hiện cũng ngày càng nhiều tội phạm có trình độ đặc biệt trong lĩnh vực

công nghệ cao, tài chính. Số đối tượng đã có tiền án tiền sự thực hiện hành vi lừa

đảo chiếm đoạt tài sản cũng gia tăng, với hiểu biết của chúng về cách thức tổ

chức phát hiện, điều tra của cơ quan chức năng nên sẽ có những thủ đoạn đối

phó gây khó khăn cho việc phát hiện, ngăn chặn tội phạm.

+ Dự báo điều kiện tác động đến tình hình tội phạm (nguyên nhân và điều

53

kiện):

Cùng với sự phát triển kinh tế thì đi cùng với nó là sự xuống cấp của các

giá trị đạo đức văn hóa truyền thống, văn hóa gia đình, môi trường làng xã cũng

bị phá vỡ, phát sinh chiều hướng tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình

thành nhân cách tiêu cực. Tác động của các văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy; tư

tưởng kiểu phương tây, thích hưởng thụ, lối sống khoe khoang, ích kỷ, bốc đồng

trong giới trẻ. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường sẽ làm cho tính gia đình bị

phá vỡ, bố mẹ chạy theo đồng tiền, bỏ bê con cái. Tình trạng ly hôn đã trở nên

phổ biến làm phá vỡ cấu trúc gia đình tạo nên ngày càng nhiều gia đình khuyết

bố hoặc mẹ.

Việc phân hóa giàu nghèo sẽ gia tăng, xã hội chịu ảnh hưởng nhiều của các

tác động tiêu cực. Một số lớn thích thú, phấn khích với các hành vi lệch chuẩn

tạo nên nhìn nhận thiếu tốt đẹp, công bằng về xã hội. Vô tình ảnh hưởng đến

nhân cách cá nhân, đặc biệt đối với tầng lớp thanh thiếu niên. Cùng với sự phát

triển Thừa Thiên Huế sẽ trở thành trung tâm giáo dục đào tạo tập trung ngày

càng nhiều học sinh, sinh viên trong cả nước. Tuy nhiên hiện nay nhà trường

cũng chỉ quản lý giờ học ở trường mà còn chưa chú trọng quản lý ngoài giờ, việc

giáo dục đạo đức cho các em. Đây cũng là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến các

em gia nhập các hội, nhóm có hành vi lệch chuẩn. Lúc đầu có thể do tò mò, phấn

khích dần dẫn đến bị ảnh hưởng tiêu cực. Đặc biệt gia tăng tình trạng sử dụng

chất lích thích, ma túy trong giới trẻ, ma túy học đường cũng là một trong những

yếu tố gia tăng hành vi xâm phạm sở hữu trong đó có hành vi lừa đảo chiếm đoạt

tài sản.

+ Dự báo điều kiện, khả năng đấu tranh phòng chống tội phạm của lực

lượng trên địa bàn tỉnh (chủ thể):

Ngay từ đầu Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế luôn tổ chức thực

hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước “kết hợp quốc phòng, an

ninh kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh” trong phát

triển. Chủ động nắm chắc và xử lý tốt các vụ việc về an ninh, trật tự từ khi phát

54

sinh, không để xảy ra tình huống phức tạp, không để bị động, bất ngờ. Phát huy

sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm, nhất là tội phạm về môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao, “tín

dụng đen”, tội phạm lừa đảo. Những yếu tố đó tác động tích cực đến người dân,

đến công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

nói riêng. Làm cho hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện tội phạm tăng lên.

Cùng với đó là việc tổ chức xây dựng các cơ quan chuyên trách về phòng chống

tội phạm ngày càng được xem trọng về cả cơ sở vật chất, trình độ, đội ngũ cán

bộ ngày càng được nâng cao. Đặc biệt là chủ trương việc thực hiện Nghị quyết

của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp bộ máy Bộ Công an hoạt động hiệu lực, hiệu

quả, theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”, Công an

Thừa Thiên Huế sớm chủ động tham mưu, triển khai thực hiện Đề án “Điều

động Công an chính quy đảm nhiệm chức danh Công an xã trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế”. Đến nay toàn bộ các xã trên địa bàn đều có công an chính

quy. Đây là một điểm lớn, khâu đột phá để giảm tình hình tội phạm nói chung và

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.

3.2. Giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế

Về cơ bản, có thể hiểu một cách hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội

LĐCĐTS đó là tổng hợp các biện pháp loại trừ và ngăn chặn tội phạm (tình hình

tội phạm) LĐCĐTS như sau: Nếu như các biện pháp loại trừ tội phạm là các

biện pháp mà Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các

tổ chức, các đoàn thể và mọi công dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt của đời

sống xã hội, loại trừ những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng

đồng, đến quá trình hình thành nhân cách con người và là những biện pháp mang

tính chiến lược, cơ bản, lâu dài để khắc phục tận gốc các yếu tố làm phát sinh

tình hình tội phạm, từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Thì biện

pháp ngăn chặn tội phạm lại có mục đích tác động trực tiếp đến những khía cạnh

có khả năng phát sinh tội phạm, cũng như những đối tượng có khả năng sẽ phạm

55

tội, các đối tượng đã phạm tội và đã được thống kê để quản lý, tránh cho họ tiếp

tục thực hiện hành vi tiêu cực và phạm tội.

3.2.1. Những biện pháp ngăn chặn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.2.1.1. Ngăn chặn không cho tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra

Với tính cách là một bộ phận không tách rời của việc pḥòng ngừa các tội

phạm LĐCĐTS, các biện pháp ngăn chặn tội phạm có cơ sở thực tế là tình hình

tội phạm tiềm năng (tiềm tàng), cái được xác định trên cơ sở thực trạng của tình

hình tội phạm LĐCĐTS và nó có ba trạng thái thể hiện:

Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm chưa xảy ra;

Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đang xảy ra;

Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đã được xử lý theo pháp luật hình sự và

người phạm tội đã thi hành xong hình phạt đối với mình.

Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra đó là biện pháp

kiểm soát xã hội và quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội

tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm

làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn

không cho tội phạm xảy ra được xây dựng trên cơ sở của trạng thái chưa xảy ra

của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng nó sắp xảy ra và đang tiềm tàng.

Do đó, cần thiết phải có những biện pháp thích ứng để ngăn chặn, không để nó

xảy ra (những yếu tố tiêu cực thuộc về nguyên nhân của tội phạm này thì vẫn

còn tồn tại); các biện pháp này gồm có 3 đối tượng tác động:

- Tác động vào phương thức thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Qua nghiên cứu tình hình LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thấy

rằng thời gian qua các đối tượng chủ yếu sử dụng một số phương thức thủ đoạn

hoạt động phạm tội như sau:

+ Thông qua các mối quan hệ thân thiết từ trước, các đối tượng phạm tội

tạo lòng tin cho người bị hại là mình đang kinh doanh ở một số lĩnh vực đem lại

lợi nhuận rất cao như đầu tư mua bán vé máy bay, đầu tư vào các dự án đất đai

v.v...để huy động vốn; sau khi chiếm đoạt được tài sản thì đối tượng tuyên bố

56

mất khả năng chi trả, đồng thời trốn khỏi nơi cư trú.

+ Một số bị hại có nhu cầu mua bất động sản hoặc chung cư nhưng không

tìm hiểu kỹ các thông tin liên quan đến bất động sản hoặc chung cư mà mình có

nhu cầu mua như chủ sở hữu thật sự là ai, họ có nhu cầu bán hay không hoặc các

dự án bất động sản đó trên thực tế đã được rao bán chưa mà tin tưởng tuyệt đối

vào người trung gian nên chuyển tiền cho bọn tội phạm và sau khi người bị hại

chuyển tiền thì các đối tượng đưa ra nhiều lý do không thể toàn tất các thủ tục

chuyển nhượng sang tên rồi chiếm đoạt tài sản.

+ Thông qua nhu cầu xin việc làm của một số bị hại, các đối tượng tự tạo

cho mình một vỏ bọc là quen biết với một số cán bộ lãnh đạo có khả năng xin

được việc làm nên các đối tượng đã chuyển tiền cho bọn tội phạm, sau khi

chuyển tiền thì bọn tội phạm không thực hiện được cam kết và chiếm đoạt tiền

của bị hại.

+ Bọn tội phạm thông qua mạng xã hội như Facebook, Zalo... làm quen kết

bạn, sau một thời gian làm quen trên mạng xã hội thì các đối tượng đề nghị gửi

quà có giá trị từ nước ngoài về hoặc gợi ý có một số tiền mong muốn đầu tư, làm

từ thiện ở Việt Nam, nhưng trong quá trình gửi quà (tiền) về thì đối tượng thông

báo quà tặng đến cửa khẩu Việt Nam thì phải nộp thuế, lệ phí hoặc bị Hải quan

tạm giữ nên muốn nhận được quà thì cần phải nộp một số tiền vào tài khoản do

họ cung cấp, vì mong muốn nhận được quà từ nước ngoài nên không ít người đã

sa bẫy nộp tiền vào tài khoản theo hướng dẫn của bọn tội phạm.

+ Thông qua các trang mạng xã hội, bọn tội phạm đưa ra thông tin trúng

thưởng như bạn là người may mắn trúng thưởng chương trình....của công ty hay

một tập đoàn nào đó gồm xe máy SH, tiền, phiếu mua quà v.v... và để nhận được

quà phải nộp tiền phí vận chuyển bằng hình thức nạp card điện thoại hoặc

chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng để được nhận quà.

+ Một thủ đoạn phổ biến nữa là các đối tượng giả mạo là cán bộ ngân hàng

gọi điện hoặc nhắn tin cho người bị hại thông báo khách hàng có giao dịch

chuyển tiền vào tài khoản nhưng giao dịch bị treo và yêu cầu người bị hại cung

57

cấp thông tin đăng nhập, mật khẩu dịch vụ Internet banking và mã OTP để nhận

tiền. Sau đó sử dụng chính các thông tin của người bị hại cung cấp để thực hiện

hành vi rút tiền có trong tài khoản của bị hại thông qua giao dịch Internet

banking.

Như vậy để ngăn không cho tội phạm xảy ra thì lực lượng chức năng, cơ

quan nhà nước cần tuyên truyền cho nhân dân nhận dạng được các phương thức,

thủ đoạn hoạt động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đồng thời nâng cao nhận

thức của chủ tài sản để họ chủ động phát hiện và báo cho cơ quan chức năng.

- Tác động vào đối tượng đang có ý định, biểu hiện, điều kiện thực hiện

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Các lực lượng chức năng có nhiệm vụ nắm vững tình hình tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản ở những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn có nguy cơ cao mà các

đối tượng lợi dụng để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản (những người

có điều kiện, khả năng phạm tội).

Đưa các đối tượng vào diện quản lý nghiệp vụ, thường xuyên gọi hỏi, răn

đe các đối tượng; Đồng thời truyên truyền giáo dục, cảm hóa đối tượng để đối

tượng từ bỏ ý định phạm tội. Cần chú trọng việc lập hồ sơ theo dõi, quản lý theo

dõi, cập nhật tình hình đối tượng thường xuyên đặc biệt chú ý về các yếu tố bất

minh về kinh tế, bất minh về thời gian, bất minh về quan hệ để chủ động kịp thời

phát hiện, đấu tranh với các đối tượng.

- Tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Nạn nhân tiềm tàng của tội LĐCĐTS được xác định là chủ sở hữu tài sản.

Do vậy tác động vào nạn nhân tiềm tàng chính là tác động vào chủ tài sản. Như

vậy, cần nâng cao nhận thức của chủ tài sản. Giáo dục, tuyên truyền để họ từ bỏ

thói quen tiêu cực, suy nghĩ tiêu cực như hám lợi, nhác làm, nhu cầu hưởng thụ

cao … dễ bị các đối tượng nhắm vào tâm lý hám lợi để thực hiện hành vi lừa

đảo.

Cần nâng cao công tác giáo dục, tuyên tuyền, phổ biến pháp luật. Chú trọng

phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, đặc biệt các sản phẩm tuyên truyền cần

58

ngắn gọn, sức tích, dễ hiểu về phương thức thủ đoạn của tội phạm. Cần thông

qua nhiều hình thức tuyên truyền cổ động trực quan, miệng, diễn đàn, hội nghị

học tập, tập huấn, hội thi, cuộc thi; qua phương tiện thông tin đại chúng như báo,

đài, các kênh thông tin của địa phương, làng, xã, hệ thống loa phát thanh địa

phương để chuyển tải và nâng cao nhận thức về pháp luật cho chủ tài sản.

3.2.1.2. Ngăn chặn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện đến cùng

(ngăn chặn tội phạm đang xảy ra)

Đây là những biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn động cơ hoá hành vi phạm

tội; ngăn chặn ở giai đoạn kế hoạch hoá; ngăn chặn ở giai đoạn hiện thực hoá

hành vi phạm tội. Qua nghiên cứu thực tế, thấy rằng mục tiêu cơ bản của việc

ngăn chặn tội phạm là không để cho tội phạm được thực hiện đến cùng. Biện

pháp này được hiểu là: Kịp thời phát hiện nhằm chặn đứng hành vi phạm tội

LĐCĐTS đang diễn ra, không để cho nó gây thêm thiệt hại thông qua các chủ

thể chức năng hoặc được phát hiện bởi các chủ thể khác như các tổ chức, đoàn

thể, cơ quan quản lý hành chính nhà nước,… và nhân dân; Chặn đứng quá trình

lặp lại của hành vi phạm tội LĐCĐTS, không để cho tội phạm được thực hiện

nhiều lần. Các biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp này phải được phát hiện

sớm bởi lực lượng chức năng hoặc các các chủ thể khác để kịp thời tố giác, tin

báo nhằm xác minh, xử lý kịp thời.

Yêu cầu đặt ra cho công tác phòng ngừa tội phạm đối với biện pháp này là

mọi hành vi phạm tội về LĐCĐTS phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh

chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật. Nói cách khác, là ngăn chặn

không để người phạm tội LĐCĐTS che giấu hành vi phạm tội và tiếp tục lặp lại

hành vi phạm tội đã thực hiện (có thể rơi vào trường hợp phạm tội nhiều lần, tức

là có thể có từ hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có

đủ yếu tố cấu thành tội phạm, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm tội đó được xét xử

trong cùng một bản án). Trên thực tế, xử lý tội phạm về LĐCĐTS cho thấy nếu

không phát hiện kịp thời thì ở lần phạm tội sau, mức độ thường nghiêm trọng

59

hơn, thiệt hại tài sản lớn hơn và đối tượng có thời gian tẩu tán tài sản gây khó

khăn cho quá trình thu hồi tài sản, xử lý về sau. Các biện pháp ngăn chặn tội

phạm đang xảy ra cần chú trọng vào hai nội dung:

Ngăn chặn khi tội phạm đang được thực hiện;

Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được lặp

lại.

3.2.1.3. Biện pháp xử lý khi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra

Khi tội phạm LĐCĐTS đã xảy ra thì với thủ đoạn gian dối đòi hỏi cơ quan

chức năng khi xử lý cần lưu ý những vấn đề sau:

Quá trình điều tra cần phải xác định đối tượng chính, những đối tượng giữ

vai trò đầu mối, cầm đầu, có tài liệu và biết rõ hoạt động của các đối tượng. Cần

nghiên cứu rõ từng đối tượng, vai trò để có biện pháp, chiến thuật đấu tranh phù

hợp. Đồng thời cần phát hiện mối quan hệ mà đối tượng phạm tội lợi dụng để

tìm cách chạy chọt đặc biệt việc lừa đảo liên quan đến các danh nghiệp, trong

lĩnh vực ngân hàng … để có biện pháp ngăn chặn, hạn chế sự can thiệt tiêu cực.

Tổ chức thu thập tài liệu cần xác định tài liệu mấu chốt đối với từng vấn đề.

Vì khi thực hiện thủ đoạn lừa dối đối tượng thường làm giả giấy tờ, tài liệu do đó

cần xác định các loại tài liệu cần thu thập tránh để đối tượng hợp thức hóa giấy

tờ. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, góp hụi, lừa đảo trên mạng… thường liên

quan đến nhiều giấy tờ, sổ sách, nhiều dữ liệu điện tử cần thu giữ kịp thời tránh

để đối tượng tiêu hủy chứng cứ.

Đối với các vụ án lừa đảo cần chú ý các biện pháp phong tỏa, ngăn chặn tài

sản. Giám sát chặt chẽ các đối tượng tránh đối tượng bỏ trốn. Vì quá trình đấu

tranh với tội LĐCĐTS không phải nhanh chóng mà có thể được, nó đòi hỏi thời

gian để xác định thủ đoạn, phương thức, số tài sản nên đối tượng khi bị phát hiện

sẽ lợi dụng để bỏ trốn, đặc biệt là các đối tượng người nước ngoài.

Đối với các vụ án mà lực lượng Chức năng trực tiếp phát hiện hành vi

LĐCĐTS bằng thủ đoạn Công nghệ cao thì trước khi phá án phải có phương án

thu thập dữ liệu điện tử trước. Đặc biệt là các giao dịch mà đối tượng sử dụng

60

các phần mềm bảo mật cao, các phần mềm nước ngoài... Nếu không kịp thời mà

quyết định phá án thì rất có thể sau thời gian ngắn đối tượng phạm tội sẽ xóa hết

dữ liệu rất khó để phục hồi cũng như thu thập lại dữ liệu ban đầu.

3.2.1.4. Ngăn chặn tái phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo Điều 53 Bộ Luật Hình sự 2015 thì: Tái phạm là trường hợp đã bị kết

án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực

hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng do vô ý.

Như vậy, theo quy định này những trường hợp phạm tội bị coi là tái phạm

bao gồm:

Thứ nhất, Người phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện tội phạm bất kỳ với lỗi cố ý.

Thứ hai, Người phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Còn dưới góc nhìn của một chuyên gia tư vấn tâm lý về tình trạng tái phạm

tội đối với những người từng bị kết án tù, Tiến sĩ Nguyễn Công Thoại, chuyên

gia tâm lý hội Tâm lý - Giáo dục Việt Nam chia sẻ: "Những người từng bị kết án

tù lại tái phạm tội là một trong những diễn biến tâm lý bình thường của các đối

tượng đã qua cải tạo một lần. Sau khi cải tạo họ khó hòa nhập vào cộng đồng từ

đó dễ hình thành suy nghĩ tiêu cực, chán nản vào bản thân, thiếu tin tưởng xã

hội. Cũng có khi họ không thay đổi bản chất, vẫn “chứng nào tật nấy’ tiếp thục

thực hiện hành vi phạm tội và lần phạm tội sau với tính chất, mức độ còn nguy

hiểm hơn lần phạm tội trước.

Để ngăn chặn tái phạm tội LĐCĐTS cần phải tiến hành một số giải pháp

đồng bộ sau:

- Quản lý việc tái hòa nhập cộng đồng cần phải phù hợp với thực tế, tính

toán tính hiệu quả và thực hiện một cách thống nhất đồng bộ. Rõ ràng nếu tội

phạm xảy ra mà được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh, nghiêm, các cơ quan tiến

hành tố tụng phải đánh giá, phân tích, làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm để

61

người phạm tội biết, hiểu được, nhận thức rõ hành vi của mình. Từ đó, bản thân

người phạm tội nhận thức tốt, tin tưởng vào sự nghiêm minh của công lý và

không tái phạm nữa.

- Phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,

chính trị, đời sống xã hội. Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải xác định đúng

nguyên tắc phòng ngừa tội phạm. Thường xuyên thay đổi phương pháp, cách

thức, tổ chức, phải đưa ra những chiến lược phòng ngừa tội phạm có tính khả thi,

hiệu quả. Tham mưu đề xuất xây dựng, ban hành văn bản pháp luật có tính phổ

biến, toàn diện. Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực, nhưng trong năm qua công

tác này vẫn bị bỏ quên ở các địa phương. Chính quyền cấp xã cần tập trung thực

hiện tốt công tác này.

- Trong giáo dục, cải tạo phạm nhân cần nâng cao vai trò, vị trí của các tổ

chức xã hội. Phạm nhân là người thiếu hiểu biết, nhận thức kém, không tôn trọng

pháp luật hoặc phạm nhân bị cách ly xã hội không biết sự thay đổi, sự vận động

xã hội như thế nào nên hoạt động giáo dục trong trại giam còn phải khắc phục

những hạn chế và hụt hẩng so với xã hội bị cách li. Do đó, hình thức giáo dục

phạm nhân-người phạm tội cũng phải được quan tâm, tổ chức dạy văn hóa cho

phạm nhân, tổ chức cho phạm nhân đọc sách, tổ chức cho phạm nhân xem ti vi,

nghe đài phát thanh, nhân các sự kiện lớn, văn hóa của đất nước phải tổ chức

pano, áp phích, tranh ảnh trong trại giam để phạm nhân có thể xem, tổ chức các

hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo

đức, giáo dục biết giá trị lao động như thế nào, tổ chức sinh hoạt tổ, nhóm để

trao đổi thông tin, học hỏi,...đặc biệt các chế độ đối với phạm nhân phải đảm bảo

đầy đủ, đúng đối tượng và chế độ khen thưởng hợp lý. Có chế độ giảm thuế để

khuyến khích các cơ sở, các doanh nghiệp tiếp nhận người chấp hành án xong

vào làm nhân công, làm thuê.

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm. Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương binh và

Xã hội các cấp phối hợp với cơ quan chức năng như Công an tỉnh, Bộ chỉ huy

62

quân sự tỉnh tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tiếp tục thực hiện có hiệu quả

chính sách đào tạo nghề nghiệp, tạo việc làm cho người chấp hành xong án phạt

tù; triển khai các hoạt động tư vấn, định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng

tìm kiếm việc làm cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù, người sắp chấp

hành xong quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục bắt buộc, Trường giáo dưỡng trên

địa bàn.

- Nhân rộng các mô hình, cá nhân điển hình. Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện,

thị xã, thành phố đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức,

trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội và nhân dân trong công tác

tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Chú trọng quan

tâm công tác tư vấn, đào tạo nghề nghiệp, giải quyết việc làm, xây dựng, nhân

rộng các mô hình, cá nhân điển hình, các loại hình Quỹ xã hội để quản lý, giáo

dục, hỗ trợ, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.

- Quan trọng nhất cuối cùng là các ban, ngành đoàn thể cần tuyên truyền

vận động để người dân “tránh Kỳ thị, xa lánh người phạm tội”. Nhiều địa

phương chưa thực sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện để người được đặc xá,

miễn chấp hành hình phạt tù sớm ổn định cuộc sống. Nhiều nơi vẫn còn tâm lý

coi giáo dục người sau chấp hành án tù là việc của Công an, của Viện Kiểm sát,

Tòa án và chính gia đình họ. Trên thực tế, vai trò của chính quyền, các đoàn thể

ở địa phương có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người sau khi đặc xá, tha tù

sớm ổn định tâm lý. Kỳ thị, ác cảm, xa lánh với người từng chấp hành hình phạt

tù vẫn là tâm lý mang tính định kiến trong không ít người. Đáng nói, ngay trong

gia đình của người được đặc xá, tâm lý đó vẫn tồn tại, tiếp đó là sự kỳ thị của

một số người nơi cư trú. Sự kỳ thị dễ gây tâm lý mặc cảm, bị cô độc và đây là

nguyên nhân tâm lý khiến họ dễ sa vào con đường cũ

3.2.2. Những biện pháp loại trừ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.2.2.1. Biện pháp chính trị, tư tưởng

Tăng cường xây dựng Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế trong sạch, vững

mạnh; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân; huy

63

động và sử sụng có hiệu quả các nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và

bền vững; phấn đấu xây dựng Thừa Thiên Huế thành thành phố trực thuộc trung

ương theo hướng “di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi

trường”; đến năm 2020, xứng tầm là một trong những trung tâm văn hóa – du

lịch, ý tế chuyên sâu; giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ của cả nước và

khu vực; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định, vững

chắc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 28 của Bộ

Chính trị (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị

quyết 28 (Khóa X) về “Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Nghị quyết

Tỉnh ủy về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Tập trung làm tốt

công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức; đấu tranh phòng, chống có

hiệu quả âm mưu “ diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch

và “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân

dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện tốt nhiệm

vụ quốc phòng, an ninh; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân

chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, lấy

yên dân và ổn định chính trị làm trọng tâm.

Thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát huy sức mạnh

đại đoàn kết toàn dân, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo và thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

3.2.2.2. Biện pháp kinh tế, xã hội

Để phòng ngừa tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói

riêng, Thừa Thiên Huế cần có những giải pháp sâu rộng, đồng bộ để phát triển

kinh tế và xã hội góp phần ngăn chặn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế; tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ

cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh đổi mới sáng

64

tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu quả cuộc Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp,

tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt

phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nâng cao hiệu

quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Để xây dựng Thừa Thiên Huế thành một tỉnh giàu về kinh tế, đẹp về văn

hoá, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng, an ninh, thì thời gian tới địa

phương cần quan tâm thực hiện tốt 7 nhiệm vụ: Tiếp tục khai thác, phát huy tiềm

năng, lợi thế so sánh để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, cơ cấu lại nền kinh

tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các ngành

kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức;

Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, quan tâm phát triển kinh tế tư nhân thực

sự trở thành một động lực quan trọng để tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có

lợi thế; Tiếp tục xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành “đô thị di sản” với định

hướng “di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường” theo

Kết luận 48-KL/TW và Thông báo 175-TB/TW của Bộ Chính trị; đồng thời làm

tốt hơn nữa công tác bảo tồn, tôn tạo, bảo vệ, phát huy di sản cố đô Huế mà

nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là thực hiện tốt việc di dời các hộ dân tại khu vực

1, Kinh thành Huế; Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công cuộc xây dựng

nông thôn mới; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung xây dựng và

phát triển Trung tâm Văn hóa, Du lịch đặc sắc của khu vực và cả nước; Trung

tâm Giáo dục - Đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; Trung tâm Y tế

chuyên sâu; Trung tâm Khoa học và Công nghệ của khu vực miền Trung và cả

nước; Gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; bảo đảm

an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác đối ngoại; Tập

trung chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý của các cấp chính quyền; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng

65

khối đại đoàn kết dân tộc. Chuẩn bị và chỉ đạo tốt Đại hội Đảng bộ các cấp tiến

đến Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

3.2.2.3. Biện pháp văn hóa, giáo dục

Giáo dục thời nào cũng vậy, chức năng là 'tải đạo', hình thành nên nhân

cách con người và các phẩm chất tri thức và kỹ năng đáp ứng yêu cầu của thời

đại và xã hội đó. Vì thế, nội hàm của giáo dục đã là văn hóa, ví dụ, những kiến

thức truyền dạy cùng với tư cách ông thầy phải là "khuôn vàng, thước ngọc",

được chọn lọc và tiếp thu từ tri thức nhân loại và truyền thống dân tộc, giáo dục

cũng chính là bảo tồn văn hóa và bồi đắp văn hóa, tạo nên nền văn hóa của đất

nước, dân tộc. Xét như vậy để thấy biện pháp văn hóa, giáo dục là một giải pháp

rất quan trọng trong việc đẩy lùi tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản nói riêng. Để ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật thì

thời gian tới tỉnh Thừa Thiên Huế cần phải thực hiện một số biện pháp văn hóa,

giáo dục sau:

- Xây dựng lối sống văn hóa, có ý thức tự trọng, tự chủ, trách nhiệm với

bản thân, gia đình và xã hội; có kiến thức và ý thức chấp hành pháp luật; kịp thời

phát hiện, ngăn chặn, lên án các biểu hiện lối sống thực dụng, hành vi thiếu văn

hóa, vi phạm pháp luật.

- Tăng cường quản lý chặt chẽ nội dung, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm

văn hóa độc hại, thông tin sai trái tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của

thế hệ trẻ. Phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa, thể thao hiện có; quan tâm

đầu tư, xã hội hóa nguồn lực xây dựng các thiết chế văn hóa mới, nhất là đối với

vùng dân tộc thiểu số, nông thôn, miền núi.

- Tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc về

học tập, đào tạo nghề, lao động việc làm. Tạo chuyển biến trong phòng, chống

tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan, an toàn giao

thông, bảo vệ môi trường sống, bảo đảm cho thế hệ trẻ được an toàn trong cuộc

sống, học tập vui chơi.

- Tăng cường trách nhiệm, phát huy hiệu quả mối quan hệ chặt chẽ giữa gia

66

đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

- Xây dựng và phát triển để môi trường trường học, cơ sở giáo dục thực sự

là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên; đổi mới hình

thức, phương pháp, giáo trình giảng dạy kết hợp giữa học tập các môn đạo đức,

giáo dục công dân, lý luận chính trị, nội dung pháp luật, bảo đảm thực chất, giúp

các thế hệ nhận thức sâu sắc, toàn diện về tính khoa học chủ nghĩa Mác - Lenin,

tư tưởng Hồ Chí Minh; qua đó góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo

đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Tạo điều kiện nhằm phát huy vai trò của tổ

chức Đoàn, Hội, Đội trong giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa” và các phong trào thi đua yêu nước; xây dựng nhân

rộng mô hình gia đình văn hóa, ông bà, cha mẹ, anh chị mẫu mực, con cháu hiếu

thảo, vợ chồng hòa thuận, gia đình đoàn kết, thương yêu nhau, từ đó, vừa góp

phần bảo vệ, chăm sóc, vừa tạo môi trường giáo dục lối sống văn hóa lành mạnh.

- Quan trọng hơn tất cả là xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế cần dựa trên những yếu tố đặc thù, lợi thế so sánh riêng có

của Thừa Thiên Huế so với những địa phương khác, đó là di sản văn hóa và con

người Huế. Giáo dục cho nhân dân và thế hệ trẻ trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên

Huế phải biết gìn giữ, phát huy một “gia tài” văn hóa tiêu biểu cho văn hóa Việt

Nam, bao gồm cả hệ thống di sản văn hóa vật thể với gần 1.000 di tích, địa điểm

di tích lịch sử, cách mạng, di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, di tích tôn

giáo. Trong đó tiêu biểu và nổi bật nhất là Quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc

Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới; mới

đây, Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn và Thơ văn trên kiến trúc

cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu. Điều cốt lõi là xây

dựng Thừa Thiên Huế trở thành "Thành phố di sản quốc gia", là người dân Huế

có đời sống khá giả, chất lượng cuộc sống được nâng lên, văn hóa cao có như

vậy mới giữ gìn di sản văn hóa cho cả nước, cho thế giới. Đây chính là hiện thực

hóa quan điểm của Đảng về phát triển "Văn hóa vừa là nền tảng, vừa là động lực

67

phát triển". Chính là điều kiện thuận lợi nhằm đẩy lùi tội phạm.

3.2.2.4. Biện pháp pháp luật

Pháp luật có vai trò rất quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội. Nó là

phương tiện không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của

xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công

cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển

của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên

những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường

vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ

nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn

hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo

đức. Một trong những biện pháp đẩy lùi tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản nói riêng thì Thừa Thiên Huế cần thực hiện đồng bộ các giải pháp,

biện pháp pháp luật sau:

- Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, xã hội hóa pháp luật:

làm cho mọi người tự giác để duy trì bảo vệ lấy trật tự xã hội và lợi ích tập thể

của mình. Đạt tới mức độ đó thì mọi quan hệ xã hội giữa Nhà nước với nhân

dân, giữa cán bộ và nhân dân, giữa nhân dân với nhau sẽ không còn có sích

mích, va chạm, cuộc sống trong xã hội sẽ ngày càng lành mạnh, thoải mái tươi

vui và đầy hạnh phúc.

- Cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng của cán bộ trong các cơ quan lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán

bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý

thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Trong một số trường

hợp đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ vi phạm pháp luật ở mức độ này hay

mức độ khác. Vì vậy, cần thiết nâng cao chất lượng cán bộ trong các cơ quan này

thì mới đáp ứng tốc độ phát triển của đất nước.

- Chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã

68

hội. Coi trọng phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia đình và ở cơ sở. Rà

soát, đánh giá ảnh hưởng của các chính sách phát triển và quá trình thực hiện các

chính sách phát triển đến tình hình tội phạm và hoạt động phòng, chống tội

phạm, đề xuất khắc phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập.

- Mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm. Trước hết, ưu tiên

hợp tác với các cơ quan an ninh, cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng, các nước

lớn, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh

sát, tư pháp hình sự quốc tế để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm

xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ yêu cầu hiện đại hóa, tăng cường năng

lực của các lực lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững

môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước.

- Việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp

luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Mọi hành vi vi phạm

pháp luật đều phải bị xử lý kịp thời, nghiêm khắc. Trong thực thi pháp luật, về

phía nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ

ràng; về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách

nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.

- Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con

người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất

nước. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát

triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, cụ thể là:

“… tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các

cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường

hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đó là cơ sở

xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới trong

điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng là cơ sở quan trọng tiến

69

tới đẩy lùi tội phạm.

3.2.2.5. Biện pháp tổ chức, quản lý

- Cần đổi mới tư duy, phương pháp quản lý kinh tế. Hoàn thiện đồng bộ các

hệ thống đảm bảo quản lý nhà nước về kinh tế có hiệu quả. Tập trung hoàn thiện

hệ thống các thị trường riêng đầy đủ, đồng bộ và công khai, bao gồm: thị trường

hàng hoá dịch vụ, thị trường đất đai bất động sản; thị trường vốn, tài chính; thị

trường khoa học và công nghệ; thị trường lao động, tạo “sân chơi” bình đẳng cho

các thành phần kinh tế tham gia, xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức

sở hữu. Xác định rõ “vai trò chủ đạo” đối với các chủ thể kinh tế nhà nước, cụ

thể là: Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo về kinh tế trong các ngành, lĩnh vực

then chốt nào, quy mô và phạm vi đến đâu; bảo đảm tính chi phối thị trường ở

mức độ nào; hiệu quả kinh tế và xã hội do các chủ thể kinh tế nhà nước đem lại

được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu nào; Đổi mới phương thức quản lý

nền kinh tế thông qua việc giảm tối đa các can thiệp hành chính vào hoạt động

của thị trường và doanh nghiệp. Tăng cường quản lý nền kinh tế, điều tiết bằng

chiến lược. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển nền kinh tế gắn với việc

tuần thủ các nguyên tắc của thị trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực.

Có như vậy mới tránh được mặt trái của cơ chế thị trường nhằm xóa bỏ nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước đặc biệt về trật tự an toàn

xã hội. Chú trọng phòng ngừa tội phạm, nhất là công tác phòng ngừa xã hội, tổ

chức tuyên truyền, tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng về công tác phòng, chống tội

phạm tại cộng đồng dân cư. Tăng cường quản lý, giáo dục cải tạo các đối tượng

bị kết án đang ở ngoài xã hội, các đối tượng được áp dụng biện pháp giáo dục tại

xã, phường, thị trấn. Đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ

quan chức năng.

- Tấn công trấn áp các loại tội phạm, tập trung đấu tranh những loại tội

phạm nổi lên hiện nay, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm

70

hình sự, ma túy, tội phạm kinh tế, tham nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng

công nghệ cao, tội phạm mua bán người và các vi phạm về an toàn thực phẩm.

Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm bảo đảm

kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; tập trung chuyển

hóa các địa bàn trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội.

- Mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, nhất là các nước

có chung đường biên giới, các nước trong Cộng đồng ASEAN, các nước có đông

người Việt Nam sinh sống hoặc có đông người nước ngoài sinh sống tại Việt

Nam; thực hiện tốt các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là

thành viên; tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế cho công tác phòng, chống tội

phạm.

- Hoàn thiện tổ chức, tăng cường đào tạo nâng cao năng lực cho các lực

lượng tham gia phòng, chống tội phạm. Đầu tư kinh phí, phương tiện, nghiên

cứu, áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào công tác phòng ngừa và đấu

tranh chống tội phạm.

- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các chương trình, kế

hoạch, quy chế phối hợp với các cơ quan, lực lượng chức năng trong phòng,

chống tội phạm. Nâng cao trách nhiệm, xử lý nghiêm người đứng đầu cơ quan,

đơn vị để xảy ra tình hình tội phạm phức tạp, kéo dài, hoạt động lộng hành hoặc

bao che cho tội phạm ở địa bàn quản lý.

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở kết quả phân tích đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện

phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Dựa trên các căn cứ, cơ sở lý luận của hoạt động Dự báo. Tác giả đã dưa ra một

số nội dung dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế. Từ đó cũng mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm

đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội, trước mắt kéo giảm tội lừa đảo chiếm đoạt tài

71

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm tiếp theo.

KẾT LUẬN

Trong những năm qua công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đã được

Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đặc biệt chú trọng. Nhiều chương trình, kế

hoạch phòng chống tội phạm đã được ban hành với mục tiêu tập trung lực lượng,

triển khai đồng bộ các biện pháp chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh, kiềm

chế tiến tới đẩy lùi sự gia tăng của tội phạm.

Những năm tiếp theo với tinh thần quyết tâm của Đảng bộ, nhân dân tỉnh

Thừa Thiên Huế thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW về xây dựng Thừa Thiên

Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu và tầm nhìn đến năm

2025, Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng

bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hóa Huế, với đặc trưng văn

hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường và thông minh. Với

tinh thần quyết tâm và mong muốn đóng góp cho quê hương, bản thân tác giả đã

lựa chọn luận văn “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện phòng ngừa” để mong đóng góp một

số kiến thức về mặt lý luận cũng như một số giải pháp phòng ngừa tội phạm lừa

đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế.

Toàn bộ nội dung luận văn tác giả đã tập trung làm rõ về mặt lý luận tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản, dấu hiệu nhận biết tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; khái

niệm, đặc điểm của tình hình, nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản; tập trung vào phân tích làm rõ tình hình tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản về phần tội phạm rõ và tội phạn ẩn trên cơ sở điều kiện kinh tế xã

hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, xem xét tìm ra các nguyên nhân khách

quan và nguyên nhân chủ quan của tình hình tội phạm nói trên. Từ đó tác giả

mạnh dạn đưa ra dự báo cũng như xin đóng góp một số giải pháp nhằm phòng

ngừa tình hình tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những năm tiếp

72

theo.

Tuy nhiên trong quá trình phân tích, đánh giá với một đề tài rộng và nhiều

lý luận, kiến thức người viết còn hạn chế cho nên không thể tránh khỏi những sai

sót. Kính mong sự thông cảm, sẻ chia và đóng góp của quý hội đồng và anh chị

73

học viên để luận văn được hoàn thiện hơn.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm (1998), Đề án

II: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm; tăng

cường tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ

an ninh trật tự”.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Bộ Chính trị (2009), Kết luận số 48-KL/TƯ ngày 25/5/2009 về xây dựng,

phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế .

4. Bộ Chính trị (2010), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 22/10/2010 về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới.

5. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 01/12/2011 về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

trong tình hình mới.

6. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

7. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 54-NQ/TƯ ngày 10/12/2019 về xây

dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2045.

8. Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc

gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm

2030.

9. Chính phủ (2017), Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm (ban hành

kèm theo Quyết định số 1199/QĐ- TTg ngày 14 tháng 2 năm 2017 của Thủ

tướng Chính phủ).

10. Công an tỉnh Thừa Thiên Huế (2019), 100 bản kết luận điều tra về các vụ

án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2015-2019.

11. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình

sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định,

Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

12. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

13. Bùi Khắc Hanh (2015), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành

phố Hà Nội: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn

thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

15. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề về tội phạm học Việt

Nam (tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau đại học).

16. Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2016), Nghị quyết số

09/2016/NQ-HĐND ngày 31/8/2016 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

5 năm 2016-2020.

17. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

18. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm

trong tội phạm học, Tạp chí Luật học, (số 7), tr. 47-53.

19. Bùi Thị Lan Hương (2018), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,

Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb

Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Hồng Phượng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,

Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Trịnh Hồng Phương (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ luật học,

Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ Luật hình

sự năm 1999.

24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Bộ Luật Hình sự.

25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ Luật hình

sự năm 2015.

27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật số

12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật

Hình sự số 100/2015/QH13.

28. Hồ Sỹ Sơn (2010), Bảo vệ quyền con người trong trong tố tụng hình sự và

một số đề xuất hoàn thiện pháp luật, Tạp chí luật học, (số 1), tr. 41-47.

29. Hồ Sỹ Sơn (2010), Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội

phạm trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm

2009, Tạp chí luật học, (số 1), tr. 35-41.

30. Hồ Sỹ Sơn (2011), Tập bài giảng về tình hình tội phạm, nguyên nhân và

phòng ngừa tội phạm ở nước ta hiện nay.

31. Hồ Sỹ Sơn (2013), Các giai đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so

sánh pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (số 7), tr. 76-83.

32. Nguyễn Xuân Tuấn (2017),Tình hình các tội xâm phạm sở hữu tại các khu

công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện

khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm học và tình hình tội phạm dưới

góc độ tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6), tr. 4.

34. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

35. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4), tr. 28-39.

36. Phạm Văn Tỉnh (2014), Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội

phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr. 74-84.

37. Phạm Văn Tỉnh, Nguyễn Văn Cảnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học

Việt Nam, Nxb Bộ Công an, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2019), 100 bản án về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản đã sưu tầm, nghiên cứu từ năm 2015-2019.

39. Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2019), thống kê xét xử các vụ án

hình sự sơ thẩm từ năm 2015-2019.

40. Trần Hữu Tráng (2011), Nạn nhân của tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

41. Trần Hữu Tráng (2011), Nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm, Tạp chí

Luật học, (số 10), tr. 55-63.

42. Trần Hữu Tráng (2011), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội

phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 42-

45.

43. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm, Tạp chí Luật học, (số

4), tr. 46-53.

44. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam,

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận –

thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (2002), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của

việc đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội ở nước ta, Nxb Công an

nhân

dân, Hà Nội

47. Võ Khánh Vinh (2004), Về những xu hướng và nội dung cơ bản của chiến

lược đấu tranh với tình hình tội phạm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số

10), tr. 3-7.

48. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

49. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

50. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Võ Khánh Vinh (2014), Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Võ Khánh Vinh (2017), Tập bài giảng tình hình tội phạm, những vấn đề lý

luận và thực tiễn.

53. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội

phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1: Thống kê số vụ, bị cáo phạm tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế từ năm 2015 – 2019.

Số vụ án XXST

Điều luật áp

Số bị cáo

Năm

LĐCĐTS

dụng

35

45

Điều 139

2015

42

45

Điều 139

2016

38

46

Điều 139

2017

43

57

174

2018

41

50

174

2019

199

243

Tổng

Trung bình/1

39,8

48,6

năm

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.2: Thực trạng của tình hình tội LĐCĐTS trong mối quan hệ với

tổng số vụ XXST trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 – 2019.

Số vụ

Bị cáo

Tỷ lệ

Tỷ lệ

XXST

XXST

Năm

(%)

(%)

XXST

XXST

nói

nói

(2)/(3)

(5)/(6)

LĐCĐTS

LĐCĐTS

chung

chung

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

2015

35

246

14.23

388

11.60

45

2016

42

236

17.80

341

13.20

45

2017

38

242

15.70

364

12.64

46

2018

43

261

16.48

335

17.01

57

2019

41

275

14.91

378

13.23

50

Tổng

199

1260

15.79

243

1806

13.46

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.3: Thực trạng của tình hình tội LĐCĐTS trong quan hệ với nhóm

các tội XPSH trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015 – 2019 theo

loại tội danh

Tỷ lệ/

Tỷ lệ/

STT

Tội danh

Vụ án

tổng

Bị cáo

tổng

số

số

1 Tội cướp tài sản (Điều 168)

21

2.07

35

2.39

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

2

0

0.00

0

0.00

sản (Điều 169)

3 Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)

19

1.87

35

2.39

4 Tội cướp giật tài sản (Điều 171)

90

8.88

125

8.52

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

5

1

0.10

1

0.07

(Điều 172)

6 Tội trộm cắp tài sản (Điều 173)

488

48.13

806

54.94

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

7

199

19.63

243

16.56

(Điều 174)

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

8

153

15.09

172

11.72

đoạt tài sản (Điều 175)

Tội chiếm giữ trái phép tài sản

9

0

0.00

0

0.00

(Điều 176)

Tỷ lệ/

Tỷ lệ/

STT

Tội danh

Vụ án

tổng

Bị cáo

tổng

số

số

Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều

0

0.00

0

0.00

10

177)

Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư

43

4.24

50

3.41

11

hỏng tài sản (Điều 178)

Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại

12

đến tài sản của Nhà nước, cơ quan,

0

0.00

0

0.00

tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179)

Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm

0

0.00

0

0.00

13

trọng đến tài sản (Điều 180)

1014

100

1467

100

Tổng số

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.4: Diễn biến của tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

giai đoạn từ 2015 – 2019

Mức độ tăng, giảm

Số bị

Mức độ tăng, giảm

Năm

Số vụ

hằng năm

cáo

hằng năm

2015

35

100%

45

100%

100.00% (giữ

2016

42

120,00% (tăng 20%)

45

nguyên)

108,57% (tăng

2017

38

46

102,22 (tăng 2,22%)

8,57%)

126,67% (tăng

122,86% (tăng

57

2018

43

26,67%)

22,86%)

111,11% (tăng

117,14% (tăng

50

2019

41

11,11%)

17,14%)

136

100

2015-2017

115

100

112,5% (tăng

106,09% (tăng

153

2017-2019

122

12,5%)

6,09%)

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.5: Diễn biến của tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

giai đoạn từ năm 2015-2019

Mức độ tăng, giảm

Số bị

Mức độ tăng, giảm

Năm

Số vụ

cáo

hằng năm

hằng năm

45

2015

35

100%

100%

100.00% (giữ

2016

42

120,00% (tăng 20%)

45

nguyên)

2017

38

90,48% (giảm 9,52%)

46

102,22 (tăng 2,22%)

113,16% (tăng

123,91% (tăng

2018

43

57

13,16%)

23,91%)

87,72% (giảm

2019

41

95,35% (giảm 4,65%)

50

12,28%)

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.6: Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với tội

LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

TT

Chế tài hình sự

Số bị cáo

Tỉ lệ

Cải tạo không giam giữ

1

3

1.23

Cảnh cáo

2

2

0.82

Án treo

3

25

10.29

Tù từ 3 năm trở xuồng

4

144

59.26

Tù từ 3 năm đến 07 năm

5

20

8.23

Tù từ 7 năm đến 15 năm

6

41

16.87

Tù trên 15 năm

7

7

2.88

Tù chung thân

8

1

0.41

Tử hình

9

0

0.00

243

100.00

Tổng

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.7: Cơ cấu xét theo từng năm về hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng

đối với tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

TT

Chế tài hình sự

2015 2016

2017 2018

2019

Cải tạo không giam giữ

1

0

0

1

1

1

Cảnh cáo

2

0

0

2

0

0

Án treo

3

4

4

6

3

8

Tù từ 3 năm trở xuồng

27

30

27

34

26

4

Tù từ 3 năm đến 07 năm

5

0

8

5

6

1

Tù từ 7 năm đến 15 năm

6

10

7

7

12

5

Tù trên 15 năm

7

1

0

1

2

3

Tù chung thân

8

0

1

0

0

Tử hình

9

0

0

0

0

0

45

45

46

57

50

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.8: Cơ cấu xét đơn vị hành chính, lãnh thổ số vụ XXST đối với tội

LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

Năm

Tỷ lệ

TT

Địa bàn

Số vụ

%

2015 2016 2017 2018 2019

1

TP Huế

19

25

22

19

21

106

53.27

2

Hương Trà

3

6

2

1

13

6.53

1

3

Hương Thủy

7

5

7

3

33

16.58

11

4

Phú Vang

4

2

5

6

18

9.05

1

5

Phú Lộc

1

3

2

3

9

4.52

0

6

Phong Điền

1

0

2

0

6

3.02

3

7

Quảng Điền

0

1

1

3

5

2.51

0

8

Nam Đông

0

0

2

3

5

2.51

0

9

A lưới

0

0

1

3

4

2.01

0

35

42

38

41

43

199

100

Tổng số

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.8.1: Cơ cấu xét đơn vị hành chính, lãnh thổ số vụ XXST trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

Số vụ từng năm

Tổng

TT Địa bàn

Tỷ lệ %

Số vụ

2015

2016

2017 2018 2019

1

TP Huế

117

89

108

84

92

490

27.13

2 Hương Trà

48

38

37

35

43

201

11.13

3 Hương Thủy

39

40

49

33

31

192

10.63

4

Phú Vang

43

43

37

39

41

203

11.24

5

Phú Lộc

44

41

38

32

37

192

10.63

Phong Điền

6

23

29

28

25

33

138

7.64

7 Quảng Điền

29

25

30

27

34

145

8.03

8 Nam Đông

19

21

17

32

35

124

6.87

9

A lưới

26

15

20

28

32

121

6.70

388

341

364

335

378

1806

100.00

Tổng số

Bảng 2.9: Cơ cấu xét theo giới tính của tội LĐCĐTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2015-2019

Giới tính

Số bị cáo

Tỷ lệ

Nam

209

86.01

Nữ

34

13.99

Tổng số bị cáo

243

100.00

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.10: Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội LĐCĐTS trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015-2019

Tuổi bị cáo

Số bị cáo

Tỷ lệ (%)

Từ 14 đến dưới 18 tuổi

9

3.70

Từ 18 đến 30 tuổi

71

29.22

Trên 30 tuổi

163

67.08

243

100.00

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.11: Cơ cấu xét theo trình độ học vấn của người phạm tội LĐCĐTS

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Trình độ học vấn

Tổng số

bị cáo

Trung

Trung

Đại học

Năm

Không

đã bị xét

Tiểu học

học cơ

học phổ

và cao

biết chữ

xử

thông

đẳng

sở

2015

45

8

12

5

7

13

2016

45

15

7

8

6

9

2017

46

5

9

7

3

22

2018

57

6

21

15

8

7

2019

50

3

12

12

10

13

Tổng

243

37

61

47

34

64

Tỷ lệ

100%

15.23

26.34

25.10

19.34

13.99

Nguồn: TAND tỉnh Thừa Thiên Huế

Bảng 2.12: So sánh các chỉ số kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2015

đến năm 2019

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Ghi

STT CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

chú

2015

2016

2017

2018

2019

I Kinh tế

Tốc độ tăng trưởng kinh

1

9,03

7,11

7,76

7,15

7,18

tế (GDP) (%)

- Các ngành dịch vụ tăng

9,97

8,02

10,18

7,11

7,39

(%)

- Công nghiệp - xây

9,2

8,48

12,69

8,73

11,32

dựng tăng (%)

- Nông - lâm - ngư

4,22

-1,16

2,74

3,16

-4,13%

nghiệp tăng (%)

Năm

2017

tính

Tổng sản phẩm trong tỉnh

GDP

bình quân đầu người (GDP)

2

2

2.02

1.626

1.793

2.007

theo

(USD)

phương

pháp

mới

Giá trị xuất khẩu (triệu

USD)

3

680

717

800

920

950

(Giá trị xuất khẩu của

công ty Alcan)

Tổng vốn đầu tư toàn xã

4

16.32

17.6

19

20.5

22.7

hội (1000 tỷ đồng)

Thu ngân sách Nhà nước

5

5.01

5.896,5

6.772

7.236

7.787

tăng (%) (tỷ đồng)

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Ghi

STT CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

chú

2015

2016

2017

2018

2019

(không bao

gồm thu học

phí trường

công lập 114

tỷ đồng)

II Xã hội

6 Giảm tỷ suất sinh (%o)

0,2

0,2

0,2

0,2

0,2

Tỷ lệ tăng dân số tự

1,1

1,1

1,1

1,08

1,08

7

nhiên (%)

0,86

8

Tỷ lệ hộ nghèo giảm (%)

4,5

7,06

1,13

1,06

(còn

4,17%)

Tỷ lệ lao động được đào

9

56

58

60

62

64

tạo nghề (%)

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi

7,9

7,6

7,6

bị suy dinh dưỡng (%)

10

12

12

10,8

10,4

10,4

- Theo cân nặng (%)

- Theo chiều cao (%)

Tạo việc làm mới (nghìn

16

16

16

11

16

16

người)

Mới có chỉ

Tỉ lệ người dân tham gia

tiêu vào

-

-

98,5

12

-

-

BHYT (%)

năm 2019

III Môi trường

Độ che phủ rừng (%)

57

76

57

57,3

57,3

13

- Trồng mới (ha) rừng

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Ghi

STT CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

chú

2015

2016

2017

2018

2019

Tỷ lệ hộ nông thôn sử

75

57,0

57

80

85

14

dụng nước sạch (%)

- Tỷ lệ chất thải rắn ở đô

thị được thu gom(%)

15

97

96

96

96

96

- Tỷ lệ chất thải rắn y tế

được xử lý (%)

Theo Báo cáo số 242/BC-UBND ngày 07/12/2015

Theo Báo cáo số 197/BC-UBND ngày 06/12/2016

Theo Báo cáo số 264/BC-UBND ngày 06/12/2017

Theo Báo cáo số 330/BC-UBND ngày 03/12/2018

Theo Báo cáo số 330/BC-UBND ngày 06/12/2019