VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HUYỀN TRANG
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY
TNHH MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN CƠ - HÓA CHẤT 15,
TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HUYỀN TRANG
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY
TNHH MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN CƠ - HÓA CHẤT 15,
TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
ĐỖ HUYỀN TRANG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG ................................ 8
1.1. Khái quát về hợp đồng lao động........................................................... 8
1.2. Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng lao động ........................... 18
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN CƠ
– HÓA CHẤT 15, TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG ............ 40
2.1. Giới thiệu về tình hình lao động trong Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. .................... 40
2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng lao động trong Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. ................ 45
2.3. Đánh giá về vấn về giao kết hợp đồng lao động trong Công ty TNHH
một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 ....................................................... 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG LAO ĐỘNG ........................................................................................ 61
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật về giao kết
hợp đồng lao động ..................................................................................... 61
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng
lao động ..................................................................................................... 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng
lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15, Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng .................................................................... 70
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. HĐLĐ: Hợp đồng lao động
2. HĐDS: Hợp đồng dân sự
3. NLĐ: Người lao động
4. NSDLĐ: Người sử dụng lao động
5. BLLĐ: Bộ luật Lao động
6. ILO: Tổ chức lao động quốc tế
7. BLĐ-TB&XH: Bộ Lao động thương binh và xã hội
8. CBCNV: Cán bộ công nhân viên
9. CNQP: Công nghiệp quốc phòng
10. BLDS: Bộ luật Dân sự
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng lao động chung của Công ty TNHH Một thành
viên Điện cơ- Hóa chất 15 giai đoạn 2017-2019 .............................. 42
Bảng 3.2. Cơ cấu lao động hợp đồng theo giới tính tại Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 tính từ năm 2017-2019................ 43
Bảng 3.3. Trình độ người lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện
cơ- Hóa chất 15 tính từ năm 2017-2019 ........................................... 44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là một hoạt động quan trọng trong quá trình sống của con
người, hoạt động này góp phần tạo ra của cải vật chất cũng như các giá trị tinh
thần cho con người và xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được
xem là một loại hàng hóa để mua bán, trao đổi. Cùng với sự phát triển và hội
nhập của nền kinh tế, nhà nước cho phép các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức,
hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân tuyển dụng lao động thông qua hợp đồng lao
động. Về bản chất, quan hệ lao động trong thị trường lao động là quan hệ được
hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận tự nguyện giữa người lao động và người sử
dụng lao động dựa trên việc giao kết hợp đồng lao động. Do đó, các quy định về
hợp đồng lao động được coi là những quy định then chốt, trọng tâm trong pháp
luật lao động của Việt Nam.
BLLĐ năm 2012 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012, gồm 17
chương, 242 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 5 năm 2013. Việc ban
hành BLLĐ năm 2012 cơ bản khắc phục được những hạn chế, vướng mắc, bất
cập trong Bộ luật Lao động ngày 23 tháng 6 năm 1994, Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Lao động số 35/2002/QH10, Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Lao động số 74/2006/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Lao động số 84/2007/QH11, đồng thời đảm bảo phù hợp
với các luật có liên quan và các luật chuyên ngành. Nhìn chung, các quy định
của BLLĐ năm 2012 về vấn đề giao kết hợp đồng lao động khá chặt chẽ, rõ
ràng, qua các quy định này ta có thể thấy quyền lợi của người lao động được
bảo vệ, đề cao và công bằng với người sử dụng lao động. Tuy nhiên vẫn còn
một số quy định của pháp luật về vấn đề này còn chưa thống nhất, mâu thuẫn,
chồng chéo dẫn đến việc các chủ thể khi tham gia quan hệ lao động lúng túng
1
khi thực hiện và cơ quan giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn trong việc
áp dụng pháp luật.
Đồng thời, từ thực tiễn thực hiện vấn đề giao kết hợp đồng lao động tại
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói chung cho thấy không phải
lúc nào các quy định của pháp luật cũng được các chủ thể chấp hành đầy đủ,
tình trạng vi phạm pháp luật về giao kết hợp đồng lao động vẫn còn xảy ra ở
một số doanh nghiệp, bên cạnh đó việc thực hiện đúng các quy định về giao kết
hợp đồng lao động vẫn còn rất nhiều bất cập, khó khăn đòi hỏi cần phải tiếp tục
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này. Tại Công ty Công
ty TNHH Một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng thì các bất cấp này vẫn còn tồn tại và có xu hướng gia tăng. Với đặc thù
là một Công ty của Nhà nước nên càng đòi hỏi hơn nữa sự chuẩn xác, công
bằng và tôn trọng các quy định của pháp luật để có thể bảo vệ quyền lợi của
người lao động.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật lao động về vấn đề giao kết
hợp đồng lao động, từ đó đưa ra những định hướng và đề xuất giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật lao động có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết. Từ lí
do trên, tôi lựa chọn đề tài “Giao kết hợp đồng lao động theo Pháp luật Việt Nam
từ thực tiễn Công ty TNHH một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15, Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong Luận văn này tác giả nghiên cứu những quy định của pháp luật về vấn
đề lao động ở Việt Nam – một vấn đề đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm, chú
ý của các chuyên gia, nhà nghiên cứu khoa học trong thời gian qua. Cụ thể tác giả
nghiên cứu về vấn đề giao kết hợp đồng lao động đã được đề cập trong rất nhiều
2
các khóa luận, luận văn, luận án, tài liệu, bài viết nghiên cứu ở những góc độ khác
nhau. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu khoa học như:
Luận án Tiến sĩ luật học “Hợp đồng lao động trong cơ chế thị trường ở
Việt Nam”, (2002) của PGS.TS Nguyễn Hữu Chí. Bên cạnh đó còn có các đề
tài như : “Thực trạng pháp luật về quan hệ lao động ở Việt Nam và phương
hướng hoàn thiện” (2012) của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật đại học
quốc gia Hà Nội; Đề tài cấp cơ sở “Hợp đồng lao động trong BLLĐ – Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Đặng Kim Chung. Luận văn thạc sỹ
“Thực tiễn áp dụng pháp luật HĐLĐ tại các DN trong KCN trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên” (2014) của tác giả Lê Thị Nga.. v.v…
Về hệ thống giáo trình: Giáo trình “Luật Lao động Việt Nam” của trường
Đại học Luật Hà Nội (2005, 2008, 2011), nhà xuất bản Công an nhân dân; hay
Giáo trình “Luật Lao động cơ bản” (2012), khoa luật Đại học Cần Thơ; hay
Giáo trình luật Lao động Việt Nam (1999), Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội,
nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
Về bài viết có: “Bàn về hiệu lực của hợp đồng lao động và việc xử lý
hợp đồng vô hiệu” số 8 (2000), Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Phạm Thị
Chính; hay “ Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 2012 từ
quy định đến nhận thức và thực tiễn” tạp chí Luật số 3/2013 của tác giả Nguyễn
Hữu Chí. Đây là các tài liệu tham khảo hết sức quý giá chủ yếu tập trung về
hợp đồng lao động nói chung và có đề cập về vấn đề giao kết hợp đồng lao
động trong các doanh nghiệp.
Đó đều là những công trình nghiên cứu chất lượng cao và có tính ứng
dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nhìn ra các công trình nghiên cứu của
các tác giả nói trên chủ yếu khai thác khía cạnh lí luận chung về chế định hợp
đồng lao động. Còn đề tài“Giao kết hợp đồng lao động theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn Công ty TNHH Một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15, Tổng
3
cục Công nghiệp quốc phòng” mang tính cụ thể và thực tiễn cao khi tập trung
phân tích việc áp dụng các quy định về giao kết hợp đồng lao động tại Công ty
TNHH Một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này không có sự trùng lặp với các công
trình nghiên cứu đã được công bố và mang tính cấp thiết cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm hiểu pháp luật về giao kết hợp
đồng lao động và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH một thành viên Điện
cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng có thể thấy được những
hạn chế tồn tại của pháp luật lao động hiện hành. Qua đó, tác giả đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề giao kết hợp đồng lao động và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ -
Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên thì luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
Thứ nhất, phân tích các quy định của BLLĐ năm 2012 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, đồng thời có so sánh biện chứng với BLLĐ năm 2019 (có
hiệu lực kể từ 01/01/2021) nhằm cung cấp vấn đề lý luận về hợp đồng lao động
và giao kết hợp đồng lao động để có được những nhận thức đúng đắn về vấn đề
này.
Thứ hai, làm sáng tỏ sự phù hợp và tầm quan trọng của các quy định về
giao kết hợp đồng lao động trong việc điều chỉnh các quan hệ lao động tại Công
ty TNHH một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng, đánh giá những điểm tích cực, hạn chế của một số quy định cơ bản về
giao kết hợp đồng lao động nói riêng và pháp luật lao động nói chung.
4
Thứ ba, đối chiếu vào thực tiễn áp dụng các quy định này trong mối quan
hệ hợp đồng lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15,
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng để thấy được mức độ tuân thủ hoặc vi phạm
pháp luật của các chủ thể nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần vào việc
hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật hợp đồng lao động và các quy định
có liên quan cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về giao
kết hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục công nghiệp quốc
phòng nói chung, tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 nói
riêng, từ đó hạn chế sự vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ
thể trong quan hệ lao động cũng như lợi ích chung của xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành về vấn đề giao kết hợp đồng lao động như chủ thể, nội dung, đại diện giao
kết hợp đồng.. và thực tiễn áp dụng các quy định này tại Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Luận văn nghiên cứu các quy định của Bộ luật Lao động Việt
Nam năm 2012 về vấn đề giao kết hợp đồng lao động.
- Không gian: Luận văn được nghiên cứu tại Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Địa chỉ: xã
Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Số liệu sử dụng trong luận văn được thu thập từ năm 2017
đến hết năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước và pháp luật.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác nhau bao gồm:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy
định của pháp luật, tổng hợp các số liệu…
- Phương pháp thống kê các số liệu thực tiễn trong quá trình áp dụng các
quy phạm có liên quan đến đề tài của luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác:
phương pháp diễn giải quy nạp trong các phần phân tích, trình bày các vấn đề
lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đưa ra một số khái niệm dựa trên quan điểm cá nhân; phân
tích các quy định của pháp luật giao kết hợp đồng lao động, từ đó tìm ra
những hạn chế, vướng mắc để xây dựng một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng lao động
tại cơ sở.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phần thực trạng của luận văn gắn liền với việc thực hiện pháp luật về
giao kết hợp đồng lao động của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ -
Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, giúp đánh giá sâu hơn thực
tiễn thực hiện pháp luật tại đơn vị này. Qua đó, đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật, trước hết là để áp dụng tại các doanh nghiệp
thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, sau đó nhân rộng trên địa bàn cả
nước.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát về hợp đồng lao động và pháp luật Việt Nam về giao
kết hợp đồng lao động.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng lao động
tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về giao kết hợp đồng lao động.
7
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về hợp đồng lao động
1.1.1. Khái niệm
Pháp luật lao động là một ngành luật rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật không chỉ của Việt Nam mà còn của các quốc gia trên thế giới. Ngay từ
khi có sự ra đời của pháp luật lao động có thể thấy quan hệ lao động giữa các
chủ thể được xác lập thông qua hợp đồng lao động, và đây cũng được coi là đối
tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật lao động. Tuy nhiên, so với các ngành
luật khác, pháp luật lao động ra đời muộn hơn, trước đó chịu sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự. Do đó quan điểm về khái niệm hợp đồng lao động có sự khác
nhau giữa pháp luật về lao động của các quốc gia trên thế giới.
Theo quan điểm của một số quốc gia trên thế giới theo hệ thống Luật tư
(hệ thống pháp luật Civil Law) như Pháp, Đức cho rằng hợp đồng lao động là
một loại hợp đồng dân sự, chịu sự điều chỉnh của chế định về hợp đồng dân sự.
Cụ thể như trong pháp luật lao động của nước Đức thì chưa có điều luật nào
quy định cụ thể riêng biệt về khái niệm hợp đồng lao động, mà chỉ coi nó là
một trong những loại hợp đồng dân sự. Quan niệm về hợp đồng lao động áp
dụng theo Điều 611 Bộ luật Dân sự Đức năm 1896 đó là: “thông qua hợp đồng,
bên đã cam kết thực hiện một hoạt động thì phải thực hiện hoạt động đó, còn
bên kia có nghĩa vụ trả thù lao theo thỏa thuận” [23, tr. 50]. Bản chất của hợp
đồng lao động đã được thể hiện qua một phần khái niệm của Điều 611 của Bộ
luật này, nhưng chưa chỉ rõ được chủ thể và nội dung của hợp đồng lao động.
Còn theo pháp luật của Pháp, khái niệm hợp đồng lao động được ghi nhận trong
án lệ, theo đó “hợp đồng lao động là sự thỏa thuận, theo đó một người cam kết
tiến hành một hoạt động theo sự chỉ đạo của người khác, lệ thuộc vào người
8
đó và được trả công” (theo Bản án ngày 02/7/1954) [22, tr. 5]. Còn trong Bộ
luật Dân sự năm 1804 của Pháp quy định về hợp đồng thuê dịch vụ và công
nghệ, tại Điều 1779 Khoản 1: "Hợp đồng thuê người lao động để phục vụ một
người nào đó" và Điều 1780 về hợp đồng thuê mướn gia nhân và công nhân:
"Chỉ được cam kết phục vụ theo thời gian hoặc cho một công việc nhất định".
“Nói chung, các quan niệm này đều coi hợp đồng lao động thuần túy tương tự
như một loại hợp đồng dịch vụ dân sự” [1, tr. 35]. Có thể thấy khái niệm này
đã đưa ra được một phần nội dung của hợp đồng lao động và mối quan hệ pháp
lý của các chủ thể lao động, tuy nhiên cũng chưa xác định được cụ thể vấn đề chủ
thể và nội dung hợp đồng. Như vậy, hệ thống pháp luật của Pháp, Đức và một số
quốc gia theo hệ thống luật tư chỉ ghi nhận HĐLĐ như là một dạng hợp đồng dân
sự, có bản chất của hợp đồng dân sự chứ không đưa ra được bất kỳ khái niệm nào
chỉ rõ quan hệ lao động, nội dung và chủ thể của quan hệ lao động.
Trong văn bản Luật các tiêu chuẩn lao động của Hàn Quốc năm 1953,
sau đó được sửa đổi bổ sung rất nhiều lần, gần đây là năm 2003 có quy định:
“Thuật ngữ HĐLĐ trong luật này có nghĩa là hợp đồng được ký kết để ghi nhận
rằng người lao động làm việc cho người sử dụng lao động và người sử dụng
lao động trả lương cho việc làm đó”. Có thể thấy khái niệm này chỉ có tính giải
thích nhằm phân biệt HĐLĐ với các loại hợp đồng khác, chưa chỉ ra được bản
chất, nội dung của quan hệ lao động.
Còn trong cuốn Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm liên
quan của Tổ chức quốc tế (ILO) năm 1996, đã đưa ra được khái niệm về hợp
đồng lao động tương đối rõ ràng: “Hợp đồng lao động là một thỏa thuận ràng
buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và một công nhân trong đó xác lập
các điều kiện và chế độ làm việc”[17, tr. 63]. Khái niệm này đã là chỉ ra được
chủ thể của hợp đồng lao động nhưng lại hạn chế một bên chủ thể chỉ là công
9
nhân, ngoài ra khái niệm này cũng chỉ ra được nội dung của hợp đồng lao động
là để xác lập các điều kiện và chế độ làm việc.
Tại Việt Nam, pháp luật lao động tuy sinh sau đẻ muộn nhưng khái niệm
về hợp đồng lao động được ghi nhận trong nhiều các văn bản pháp lý và trải
qua các thời kỳ khác nhau, phải đến năm 1994 mới được cụ thể hóa thành văn
bản luật đầu tiên về lao động. Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày
23 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995 (văn bản này sau đó
được sửa đổi, bổ sung ngày 2/4/2002, có hiệu lực ngày 01/01/2003) là cơ sở
pháp lý điều chỉnh các quan hệ lao động, cụ thể khái niệm về hợp đồng lao
động được quy định tại Điều 26 như sau: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều
kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động” .Có thể
thấy, khái niệm hợp đồng lao động được thể hiện trong văn bản này là tương
đối đầy đủ và rõ ràng.
Sau đó, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Lao động ngày 2/7/2012, có hiệu lực ngày
01/5/2013 bao gồm 17 chương và 242 điều.
BLLĐ năm 2012 đưa ra khái niệm về hợp đồng lao động được quy định
tại Điều 15 như sau: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động
và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động” . Có thể thấy điều luật này
đã nêu cụ thể chủ thể của hợp đồng lao động là người lao động và người sử
dụng lao động, đồng thời phản ánh được bản chất của hợp đồng lao động, cùng
với các nội dung cơ bản của hợp đồng lao động.
Có thể nhận thấy rằng, khái niệm hợp đồng lao động được nhiều nước
trên thế giới nhìn nhận chưa hoàn toàn giống nhau, nhưng cũng có điểm tương
đồng đó là đều chỉ ra được quan hệ có trả công giữa các chủ thể. Tuy nhiên nếu
10
theo khái niệm về hợp đồng lao động của BLLĐ năm 2012 của Việt Nam thì
có thể chỉ rõ được chủ thể, nội dung, bản chất của hợp đồng lao động, từ đó có
thể phân biệt được hợp đồng lao động so với hợp đồng dân sự, không có sự
chồng chéo, nhầm lẫn giữa các loại hợp đồng này.
Khái niệm về HĐLĐ này được BLLĐ số 45/2019/QH14 của Việt Nam
được thông qua ngày 20/11/2019, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021 quy định
tại Điều 13 thì không có sự thay đổi so với BLLĐ năm 2012, tuy nhiên tại Điều
13 BLLĐ năm 2019 lại bổ sung thêm “trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên
gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự
quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động”.
Như vậy kể từ BLLĐ năm 2019, khái niệm về HĐLĐ được mở rộng hơn, có
những loại hợp đồng không mang tên gọi cụ thể là HĐLĐ nhưng vẫn có những
nội dung thể hiện của HĐLĐ thì vẫn được công nhận là HĐLĐ.
1.1.2. Đặc điểm
Dưới góc độ là một loại khế ước, HĐLĐ mang những đặc điểm chung của
hợp đồng đó là sự tự do, tự nguyện và bình đẳng của các bên chủ thể. Còn dưới
góc độ là hình thức pháp lý của quá trình trao đổi mua bán hàng hóa đặc biệt – sức
lao động thì HĐLĐ có những đặc điểm riêng biệt, rõ ràng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối tượng của HĐLĐ là một việc làm có trả công
Quan hệ lao động mang bản chất của một quan hệ mua bán hàng hóa, tuy
nhiên loại hàng hóa được mang ra trao đổi, mua bán ở đây lại là loại hóa đặc
biệt nhất – sức lao động của người lao động.
Sức lao động là một loại hàng hóa trừu tượng không thể xác định được
cụ thể, rõ ràng và có căn cứ mà nó gắn liền với cơ thể mỗi người lao động qua
quá trình lao động của họ. Khi NSDLĐ mua sức lao động thì cái mà họ sở hữu
không phải là người lao động mà là quá trình lao động của NLĐ được biểu thị
qua thời gian làm việc, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, thái độ, chất
11
lượng công việc, hoặc kết quả của sản phẩm được tạo ra… do đó, sức lao động
của NLĐ phải được thể hiện thông qua một việc làm cụ thể và được NSDLĐ
trả công dựa trên việc đánh giá tất cả các yếu tố trên. Do đó, việc làm với ý
nghĩa là đối tượng của HĐLĐ phải là một việc làm có trả công.
Đặc điểm này giúp cho việc phân biệt giữa HĐLĐ với HĐDS, nếu như
trong HĐDS các bên chủ thể của hợp đồng này chỉ quan tâm đến kết quả cuối
cùng là có làm xong công việc không, hay kết quả công việc như thế nào, chứ
không quan tâm đến công việc đó được hoàn thành như thế nào, ý thức thái độ
của người làm ra sao. Vấn đề này trong HĐLĐ hoàn toàn khác biệt thì chủ thể
- đặc biệt là NSDLĐ quan tâm đến cả quá trình làm việc, ý thức thái độ của
NLĐ lẫn kết quả của công việc được thể hiện qua chất lượng công việc. Đồng
thời, khi NLĐ tham gia vào quan hệ lao động mà hoàn thành công việc như đã
thỏa thuận trong hợp đồng với NSDLĐ thì NSDLĐ có trách nhiệm trả công
cho NLĐ, bất kể việc kinh doanh của NSDLĐ đó có lãi hay không.
Thứ hai, HĐLĐ phải do chính NLĐ tự mình thực hiện
Xuất phát từ bản chất của quan hệ HĐLĐ, trong quá trình lao động, NLĐ
phải trực tiếp thực hiện công việc đã được chính mình giao kết trong hợp đồng,
không được tự ý chuyển giao cho người khác. Đây cũng là một đặc điểm cơ
bản giúp phân biệt HĐLĐ với các HĐDS hoặc hợp đồng thương mại. Vì trong
hợp đồng dân sự hay trong hợp đồng thương mại, người ký hợp đồng có thể uỷ
quyền hoặc thuê người khác thực hiện, đảm bảo đúng nghĩa vụ hai bên đã thoả
thuận. Còn trong “QHLĐ theo HĐLĐ, NSDLĐ không chỉ quan tâm đến lao
động quá khứ mà còn quan tâm đến lao động sống, tức lao động đang có, lao
động đang diễn ra” [21, tr.224]. NSDLĐ không chỉ quan tâm đến trình độ
chuyên môn của NLĐ mà còn quan tâm đến đạo đức, ý thức, phẩm chất… hay
nói cách khác là nhân thân của NLĐ. Mà những yếu tố này tồn tại ở mỗi NLĐ
lại không giống nhau. Chính vì vậy, NLĐ phải tự mình thực hiện công việc đã
12
giao kết mà không được tự ý chuyển giao cho người khác, cũng có nghĩa là
NLĐ đó phải trực tiếp sử dụng các nghĩa vụ đã cam kết, không được dịch
chuyển cho người khác. Ngoài ra, việc tự mình thực hiện công việc được giao
cũng chính là đảm bảo việc hưởng các quyền lợi của NLĐ đã được thỏa thuận
trong HĐLĐ và đó cũng là cơ sở để NLĐ được hưởng các chế độ khác như:
được trả lương, bảo hiểm, công tác phí, chế độ hưu trí, nghỉ phép hàng năm,
hưởng thâm niên công tác…
Thứ ba, HĐLĐ tạo ra sự phụ thuộc pháp lí của NLĐ vào NSDLĐ
Đây được coi là đặc trưng quan trọng, tiêu biểu nhất để thấy được sự
khác biệt giữa HĐLĐ với hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng thương mại. Nói
cách khác, trong quá trình thực hiện việc làm đã được thỏa thuận trong HĐLĐ
dường như yếu tố bình đẳng lẩn khuất ở đâu đó và biểu hiện ra bên ngoài là sự
không bình đẳng, cụ thể là trong quá trình thực hiện HĐLĐ, NSDLĐ có quyền
đưa ra các mệnh lệnh, sự chỉ đạo cho NLĐ, còn NLĐ phải có nghĩa vụ thực
hiện các mệnh lệnh hay sự chỉ đạo đó. Quyền năng này của NSDLĐ được pháp
luật công nhận thành một điều luật, đây được coi quyền đặc thù của NSDLĐ
trong quan hệ pháp luật lao động. NSDLĐ là người bỏ ra tài sản để kinh doanh
vì vậy họ có quyền quản lí, phân công sắp xếp NLĐ một cách khoa học, hợp lí
để khai thác triệt để năng lực của NLĐ mang lại nhiều giá trị vật chất cho mình
nhằm hướng tới tối đa hóa quyền sở hữu chủ đối với tài sản. Quyền quản lí của
NSDLĐ trong quan hệ HĐLĐ với NLĐ mang tính khách quan, tất yếu. Bởi lẽ,
cá nhân NLĐ cam kết thực hiện nghĩa vụ với NSDLĐ nhưng trong quá trình
lao động từng NLĐ phải có sự hợp tác, phối kết hợp với cả một tập thể để mang
lại hiệu quả kinh tế cho NSDLĐ. Vì vậy, NSDLĐ phải có quyền đưa ra các đòi
hỏi, mệnh lệnh, yêu cầu để điều phối quá trình lao động. Tuy nhiên, sự chỉ đạo
hay mệnh lệnh của NSDLĐ cũng chỉ được phép giới hạn trong phạm vi quan
13
hệ lao động, cụ thể là trong phạm vi thỏa thuận của hai bên đã được thể hiện
trong hợp đồng lao động.
Thứ tư, sự thoả thuận của các bên trong HĐLĐ thường bị khống chế bởi
những giới hạn pháp lí nhất định.
Trong thực tế các quan hệ hợp đồng nói chung thì sự thỏa thuận của các
bên phải luôn đảm bảo các nguyên tắc cơ bản đó là sự tự nguyện, tự do, bình
đẳng, không trái pháp luật…Trong HĐLĐ các bên tham gia cũng phải đảm bảo
và tuân thủ nguyên tắc chung này, bên cạnh đó, HĐLĐ còn luôn bị chi phối bởi
nguyên tắc thỏa thuận, cụ thể đó là: quyền lợi của NLĐ có thể thỏa thuận đến
mức tối đa còn những điều luật là nghĩa vụ chỉ cần đạt được đến mức tối thiểu.
Theo đó, sự thỏa thuận của các bên thường bị khống chế bởi các giới hạn tối đa
và tối thiểu đó. Có thể nhận thấy rõ nguyên tắc thỏa thuận này trong tất cả các
điều khoản của BLLĐ 1994 sửa đổi và hiện nay là BLLĐ năm 2012. Cụ thể để
đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong thời gian thử việc thì BLLĐ năm 1994 sửa
đổi năm 2003 đã quy định mức tiền lương trong thời gian thử việc ít nhất phải
bằng 70% mức lương cấp bậc của công việc đó, không đề cập đến thỏa thuận
của hai bên. Còn theo điểu 28 BLLĐ năm 2012 thì “Tiền lương của NLĐ trong
thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức
lương của công việc đó”. Tóm lại, trong quan hệ HĐLĐ, các bên có quyền tự
do thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận đó phải tuân thủ quy định pháp luật và phải
theo hướng có lợi cho NLĐ. Đặc trưng này xuất phát từ nhu cầu bảo vệ, duy trì
và phát triển sức lao động, bởi một bên của HĐLĐ là NLĐ luôn cần được bảo
vệ và tôn trọng, tránh các trường hợp NLĐ vì gặp khó khăn mà phải chấp nhận
các điều khoản bất lợi do NSDLĐ đưa ra.
Thứ năm, HĐLĐ được thực hiện liên tục trong thời gian nhất định hay
vô hạn định. Thời hạn của HĐLĐ có thể được xác định từ ngày có hiệu lực đến
một thời điểm nào đó song cũng có thể không xác định trước thời hạn kết thúc.
14
Theo quy định của hiện hành thì có ba loại HĐLĐ đó là HĐLĐ không xác định
thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn và HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Việc lựa chọn loại HĐLĐ để ký kết
phải dựa trên tính chất, đặc thù của từng loại công việc do NSDLĐ xác định
trước khi giao kết HĐLĐ, trong tình huống này NLĐ buộc phải thực hiện theo
thời gian đã được thỏa thuận trong HĐLĐ, nếu muốn chấm dứt HĐLĐ phải
thực hiện theo các trường hợp đã được quy định trong BLLĐ.
1.1.3. Phân loại hợp đồng lao động
1.1.3.1. Theo thời hạn của HĐLĐ
Theo thời hạn thì HĐLĐ được phân chia thành 3 loại đó là: HĐLĐ không
xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn,
thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng; HĐLĐ xác định thời hạn là hợp
đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của
hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; và HĐLĐ theo
mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng (Điều 22
BLLĐ năm 2012). Quy định này của BLLĐ năm 2012 không có sự thay đổi
nhiều so với BLLĐ năm 1994 sửa đổi, tuy nhiên có bổ sung thêm nội dung đó
là khi hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, nếu người lao động tiếp tục
làm việc thì trong thời hạn 30 ngày hai bên phải kí kết hợp đồng lao động mới,
trường hợp không kí kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng lao động đã giao
kết từ 12 tháng đến 36 tháng sẽ trở thành hợp đồng lao động không xác định
thời hạn và hợp đồng lao động đã giao kết theo mùa vụ hoặc theo công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng trở thành hợp đồng lao động có thời hạn là
24 tháng. Đây là một quy định tương đối rõ ràng, cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền
lợi của NLĐ trong trường hợp đã hết hạn HĐLĐ rồi nhưng NSDLĐ thì cứ “lờ”
đi, không tỏ rõ thái độ là có muốn tiếp tục giao kết HĐLĐ nữa hay không.
1.1.3.2. Theo hình thức
15
Theo hình thức thì HĐLĐ được chia thành 2 loại đó là: Hợp đồng bằng
văn bản và hợp đồng bằng lời nói. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng
văn bản và phải được lập thành 2 bản, người lao động giữ một bản, người sử
dụng lao động giữ một bản; còn hợp đồng bằng lời nói thì chỉ áp dụng đối với
công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng (Điều 16 BLLĐ năm 2012)
Nếu như trong BLLĐ năm 2012 chỉ ghi nhận 2 hình thức của HĐLĐ là
bằng văn bản và lời nói, thì trong BLLĐ năm 2019 có ghi nhận thêm hình thức
HĐLĐ bằng điện tử. Đây là một sự thay đổi rất phù hợp với sự phát triển của
xã hội, cũng xuất phát từ thực tiễn cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ thì việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ bằng văn bản,
lời nói hay hành vi. Chính vì vậy, Điều 14 Bộ luật Lao động 2019 mới đã ghi
nhận thêm hình thức giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử
có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản. Ngoài ra, BLLĐ năm 2019
cũng quy định với những trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác
nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều
hành, giám sát của một bên thì vẫn được coi là hợp đồng lao động.
1.1.4. Ý nghĩa
Hợp đồng lao động là một chế định quan trọng vào bậc nhất của luật lao
động, là xương sống của pháp luật lao động, là một chương không thể thiếu
trong Bộ luật lao động của bất kỳ nước nào trên thế giới, trong đó có nước ta,
vì vậy hợp đồng lao động có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý chủ yếu làm phát sinh,
thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật lao động trong nền kinh tế thị trường.
Trước đây trong cơ chế quản lý cũ (cơ chế quản lý hành chính tập trung) chưa
có sự tách biệt giữa lĩnh vực hành chính và lĩnh vực lao động, chế độ tuyển
dụng vào biên chế Nhà nước áp dụng cho các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước là
hình thức chủ yếu làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động.
16
Thứ hai, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý đáp ứng được nguyên
tắc tự do “ khế ước” của nền kinh tế thị trường, trong đó có thị trường sức lao
động. “Hợp đồng lao động luôn có tính chất của một khế ước do vậy việc thể
hiện ý chí và lý trí là điều căn bản của lao động” [20, tr. 126]. Các quan hệ hợp
đồng mang tính tự do, tự nguyện và bình đẳng. Trong đó các bên có quyền tự
nguyện thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ của mình. Hợp đồng lao
động là hình thức pháp lý linh hoạt phù hợp với cơ chế thị trường, trong đó
người lao động có quyền lựa chọn công việc, người sử dụng lao động có quyền
lựa chọn người làm việc cho mình. Quan hệ lao động được xác lập thông qua
công cụ pháp lý – đó chính là hợp đồng lao động.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng lao động liên quan đến hầu hết chế định của
Bộ luật Lao động và là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân. Hợp đồng lao động được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng, thiện chí, hợp tác. Tuy nhiên, do lợi ích giữa người lao động và người
sử dụng lao động thường đối lập nhau nên trong quá trình thực hiện hợp đồng đôi
khi vẫn xảy ra tranh chấp “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và
lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương thu nhập và các điều kiện lao động khác,
về thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể và trong quá trình học nghề”
[19, tr. 250]. Trong hợp đồng lao động bao giờ cũng có đầy đủ những nội dung
chủ yếu như: thời hạn, công việc, địa điểm làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ
nghĩ ngơi, tiền lương, điều kiện về an toàn vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, chế độ đào tạo và những thỏa thuận khác… (theo Điều 23 BLLĐ năm
2012). Chính vì vậy trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có tranh chấp lao
động cá nhân xảy ra thì những nội dung đã ký kết hợp đồng lao động là cơ sở pháp
lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động một cách
thỏa đáng phù hợp với lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ lao động.
17
Thứ tư, hợp đồng lao động là công cụ pháp lý hữu hiệu để Nhà nước quản
lý lao động. Việc ký kết một hợp đồng lao động cụ thể là một công việc của
từng người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, “lao động là một vấn
đề xã hội, Nhà nước không chỉ tạo điều kiện để các bên dễ dàng, thuận tiện trong
việc giao kết, thực hiện hợp đồng lao động mà còn phải đảm bảo để việc giao kết,
thực hiện hợp đồng đúng pháp luật” [15, tr. 2]. Thông qua hợp đồng lao động Nhà
nước nắm được nguồn nhân lực, phân bố và sử dụng lao động trong toàn xã hội
giúp cho Nhà nước quản lý về lao động dựa trên sự thừa nhận và tôn trọng quyền
tự do lao động, quyền thu nhập chính đáng của người lao động, quyền tự chủ sản
xuất kinh doanh, quyền tự do thuê mướn lao động của người sử dụng lao động tạo
lập một cơ cấu lao động làm việc có hiệu quả.
1.2. Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng lao động
1.2.1. Khái quát về giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm giao kết hợp đồng
Trước khi đi vào tìm hiểu vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng lao động,
cần tìm hiểu về giao kết hợp đồng nói chung, hay nói cụ thể hơn là các vấn đề
lý luận về giao kết hợp đồng theo pháp luật dân sự.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, vẫn chưa có điều khoản nào quy định
cụ thể về khái niệm giao kết hợp đồng, tuy nhiên, về bản chất của hoạt động
giao kết hợp đồng thì tác giả xin đưa ra khái niệm về giao kết hợp đồng: Giao
kết hợp đồng được hiểu là việc các bên bày tỏ sự thỏa thuận, thống nhất ý chí,
tìm hiểu nguyện vọng để qua đó xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau
theo hình thức, nguyên tắc, nội dung và trình tự nhất định được pháp luật thừa
nhận. Do vậy, việc tìm hiểu về trình tự giao kết hợp đồng, nội dung của hợp
đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở quan trọng để làm rõ các
vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng.
1.2.1.2. Trình tự giao kết hợp đồng
18
Về cơ bản, việc giao kết các hợp đồng được thực hiện theo trình tự sau:
đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng và thời điểm giao kết
hợp đồng
a. Đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác
định hoặc tới công chúng (gọi là bên được đề nghị). Hình thức của đề nghị giao
kết hợp đồng có thể bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải đáp ứng các yêu cầu như đề nghị phải
nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
của bên đề nghị; phải truyền đạt tới đối tượng cụ thể hoặc tới công chúng.
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định từ thời
điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị và chấm dứt khi hết hạn trả lời. Thời
điểm có hiệu lực của đề nghị được xác định cụ thể có thể dựa vào thời điểm do
bên đề nghị ấn định hoặc thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị đó,
nếu bên đề nghị không ấn định, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Các trường hợp sau cũng được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
(i) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; (ii) Đề nghị được đưa
vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii) Khi bên được đề
nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Khi đề nghị giao kết hợp đồng cần chú ý trách nhiệm của bên đề nghị
như bên đề nghị chịu sự ràng buộc về đề nghị đưa ra với bên được đề nghị;
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề
nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề
nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được
giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh; trường hợp bên đề nghị chết, mất
19
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau
khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết
hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân
bên đề nghị.
Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong
trường hợp: (i) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc
rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; (ii) Bên đề
nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện đó đã
đến. Tuy nhiên cần lưu ý khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đó
là đề nghị mới.
Có thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng nếu như thỏa mãn các điều kiện
đó là bên đề nghị giao kết hợp đồng nêu rõ quyền này trong đề nghị hoặc bên
được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước khi người này
gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp như bên được đề
nghị chấp nhận giao kết hợp đồng; bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;
hết thời hạn trả lời chấp nhận; khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị có hiệu lực; khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; theo thỏa
thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị
trả lời.
b. Chấp nhận giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Hình thức của chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng có thể thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi. Tuy
nhiên cần lưu ý sự im lặng của bên được đề nghị chỉ được coi là chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, nếu có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập
giữa các bên.
20
Việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng có hiệu lực trong trường hợp:
Trả lời trong thời hạn do bên đề nghị ấn định; Trả lời trong một thời hạn hợp
lý nếu bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời; Thông báo chấp nhận giao kết
hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về
lý do khách quan này, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện
thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp
nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thoả thuận về thời hạn
trả lời.
Việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có giá trị nếu
thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Trường hợp bên được đề nghị
đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết, mất năng lực hành vi dân
sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với
nhân thân bên được đề nghị.
Việc đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng mới trong các trường hợp sau:
Bên đề nghị nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng khi đã hết hạn trả
lời; Bên được đề nghị chỉ chấp nhận một phần nội dung đề nghị giao kết hợp
đồng; Bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều
kiện hoặc sửa đổi đề nghị; Bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị.
c. Thời điểm giao kết hợp đồng
Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận
giao kết. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao
kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm
cuối cùng của thời hạn đó.
21
Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói (hoặc giao kết bằng lời nói và
sau đó được xác lập bằng văn bản) là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội
dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm
bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện
trên văn bản.
1.2.1.3. Nội dung được giao kết trong hợp đồng
Các bên có thể thỏa thuận các nội dung được giao kết trong hợp đồng, cụ
thể có thể thỏa thuận các nội dung như: đối tượng, số lượng, chất lượng, giá,
phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng,
quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức
giải quyết tranh chấp. Lưu ý tùy thuộc vào loại hợp đồng khác nhau mà các bên
có thể thỏa thuận các nội dung được giao kết trong hợp đồng không giống nhau,
cũng không có quy định về việc không được thỏa thuận giao kết nội dung gì, trừ
trường hợp vi phạm quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
1.2.1.4. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thỏa thuận
với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.
Hợp đồng bằng văn bản có hiệu lực tại thời điểm khi các bên cùng ký
vào văn bản hợp đồng hoặc hình thức chấp nhận khác thể hiện trên văn bản.
Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng ký có hiệu lực
tại thời điểm văn bản hợp đồng được chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc
cho phép.
1.2.2. Pháp luật về giao kết hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là một loại hợp đồng, do vậy kế thừa các quy định
về vấn đề giao kết hợp đồng dân sự, vấn đề giao kết hợp đồng lao động cũng
22
mang những đặc trưng giống vấn đề giao kết hợp đồng đã được quy định trong
Bộ luật Dân sự năm 2015, nhưng vấn đề giao kết hợp đồng lao động được quy
định tại BLLĐ năm 2012 vẫn mang những đặc điểm riêng biệt, đặc thù của
pháp luật về lao động. Do vậy việc tìm hiểu khái niệm, trình tự xác lập HĐLĐ,
nguyên tắc giao kết, chủ thể giao kết HĐLĐ, nội dung giao kết HĐLĐ là những
nội dung cơ bản nhưng có ý nghĩa quan trọng để làm rõ vấn đề lý luận về giao
kết HĐLĐ.
1.2.2.1. Khái niệm giao kết hợp đồng lao động
Theo pháp luật lao động, giao kết hợp đồng lao động là hành vi pháp lí
làm phát sinh quan hệ lao động. Một mặt, giao kết hợp đồng lao động là tiền đề
ban đầu tạo điều kiện cho quyền, nghĩa vụ pháp lí của các bên được xác lập và
thực hiện trong tương lai; mặt khác đó là cơ sở cho sự ổn định, hài hoà, bền
vững của quan hệ lao động sẽ được thiết lập [15, tr. 3]. Trong BLLĐ năm 2012,
giao kết hợp đồng lao động được quy định tại Mục 1, từ Điều 15 đến Điều 29.
Giao kết hợp đồng lao động là quá trình để các bên tìm hiểu, đánh giá về
nhau một cách trực tiếp từ đó lựa chọn và ra quyết định chính thức. Pháp luật
cũng can thiệp để việc giao kết hợp đồng lao động nhằm đảm bảo quyền lợi căn
bản của các bên mà không cần sự nhượng bộ của bên kia. Hơn nữa, giao kết
hợp đồng lao động là giai đoạn đầu tiên thể hiện sự hợp tác của các bên để đi
đến sự thống nhất ý chí nhằm tạo lập quan hệ lao động.
Hành vi giao kết hợp đồng là điều kiện ràng buộc các chủ thể và vì vậy
sự giao kết bao giờ cũng có tính đích danh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy từ quy
định của pháp luật đến nhận thức và thực hiện có một khoảng cách nhất định.
Một trong những điều kiện để đạt được hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đó là
cần có sự thống nhất về nhận thức giữa các chủ thể khác nhau về cùng một quy
định của pháp luật.
23
Như vậy, giao kết hợp đồng lao động là quá trình người lao động và người
sử dụng lao động bày tỏ ý chí nhằm đi đến việc xác lập quan hệ lao động. Pháp
luật lao động không quy định về trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng lao động mà
chỉ đặt ra khung pháp lý buộc các bên phải tuân theo khi giao kết. Đó là các quy
định về nguyên tắc giao kết, điều kiện, chủ thể, hình thức, nội dung…
1.2.2.2 Chủ thể giao kết hợp đồng
Chủ thể giao kết hợp đồng lao động bao gồm người lao động và người sử
dụng lao động, cũng giống như các loại hợp đồng khác, chủ thể của HĐLĐ cũng
phải đáp ứng được các điều kiện nhất định khi giao kết HĐLĐ. Việc nghiên cứu
các quy định của pháp luật lao động về chủ thể giao kết hợp đồng có ý nghĩa rất
quan trọng để xem xét tính có hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định được các
vấn đề pháp lý có liên quan như đại diện giao kết hợp đồng.
a. Người lao động
Người lao động là chủ thể rất quan trọng trong quan hệ lao động, bởi đây là
chủ thể sử dụng sức lao động của mình để trở thành đối tượng giao kết của HĐLĐ.
Theo Khoản 1 Điều 3 BLLĐ năm 2012 quy định “người lao động là người
đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được
trả lương và chịu sự quản lý điều hành của người sử dụng lao động”. Khi tham gia
vào quan hệ lao động, người lao động phải đáp ứng được các điều kiện nhất định
đó là năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động.
Năng lực pháp luật lao động của người lao động là khả năng người đó có
quyền làm việc, quyền được trả công và có thể thực hiện những nghĩa vụ lao
động. Năng lực pháp luật lao động chỉ xuất hiện trên cơ sở quy định của pháp
luật. Ở Việt Nam căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội vào tâm sinh lý của con
người mà pháp luật quy định năng lực pháp luật khi họ từ đủ 15 tuổi trở lên, Bộ
luật lao động quy định: Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng
lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý, tuy
24
rằng có quyền lao động, nhưng người lao động chưa thành niên (dưới 18 tuổi)
không được phép thực hiện một số công việc nhất định theo quy định tại Thông
tư số 10/2013 ngày 10/6/2013 do Bộ LĐ-TBXH ban hành như: Mang, vác,
nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; Sản xuất, sử
dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị,
máy móc; Phá dỡ các công trình xây dựng; Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim
loại; Lặn biển, đánh bắt cá xa bờ; Công việc khác gây tổn hại cho sức khỏe, an
toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên. Do đó cần phải xem xét đến yếu
tố thứ hai đó là năng lực hành vi lao động.
Năng lực hành vi lao động của NLĐ là khả năng của NLĐ đó bằng chính
hành vi của mình tham gia trực tiếp vào một quan hệ pháp luật lao động để
gánh vác những nghĩa vụ và hưởng các quyền lợi theo thỏa thuận trong HĐLĐ.
“Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân, nhưng phải đến đủ 15 tuổi thì
cái quyền lao động ấy mới có khả năng thực hiện” [15, tr. 19]. Người lao động
trong nhiều trường hợp thuộc đối tượng có hành vi lao động không đầy đủ như
người chưa đủ 15 tuổi. Theo Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH (11/6/2013)
của Bộ LĐ-TB&XH quy định danh mục công việc được sử dụng lao động dưới
15 tuổi, loại quan hệ pháp luật này chỉ được thực hiện hạn chế trong một số
nghề và công việc theo quy định của pháp luật.
Cần phải lưu ý đối với NLĐ chưa thành niên, nếu như NLĐ từ đủ 15 đến
dưới 18 tuổi thì khi giao kết HĐLĐ cần phải có một điều kiện đó là có sự đồng
ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ (theo Điều 18 BLLĐ năm
2012), còn đối với người dưới 15 tuổi thì việc giao kết HĐLĐ sẽ cho cha mẹ
hoặc người giám hộ thực hiện nhưng phải được sự đồng ý của chính NLĐ chưa
thành niên đó (theo Điều 164 BLLĐ năm 2012). Các quy định này nhằm mục
đích bảo vệ cho quyền lợi của NLĐ chưa thành niên, khi ở độ tuổi mà thể lực
và trí lực chưa phát triển toàn diện thì việc NLĐ đó thực hiện bất kỳ công việc
25
nào cũng cần phải có sự giám sát, hỗ trợ và bảo vệ của cha mẹ hoặc người giám
hộ.
Như vậy, có thể thấy việc giao kết HĐLĐ của NLĐ từ đủ 15 tuổi trở lên
chủ yếu là do đích danh NLĐ đó thực hiện, trừ trường hợp NLĐ dưới 15 tuổi
là do cha mẹ hoặc người giám hộ ký kết HĐLĐ; còn trường hợp giao kết HĐLĐ
theo mùa vụ, công việc nhất định dưới 12 tháng thì nhóm NLĐ có thể ủy quyền
cho một NLĐ trong nhóm để giao kết HĐLĐ bằng văn bản (theo Điều 18 BLLĐ
năm 2012).
b. Người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã,
cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; nếu là cá
nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”
Nhìn chung người sử dụng lao động là người phải có tư cách pháp nhân.
Đối với tổ chức, cá nhân không có đủ tư cách pháp nhân thì phải có đủ các điều
kiện thuê mướn sử dụng lao động theo quy định của pháp luật như: phải có giấy
phép sản xuất kinh doanh, có trụ sở hoặc nơi cư trú hợp pháp, có khả năng trả
công cho người lao động, đảm bảo an toàn lao động vệ sinh lao động nơi làm
việc… NSDLĐ là cá nhân thì phải có Năng lực hành vi dân sự đầy đủ (từ đủ
18 tuổi trở lên, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc điều khiển hành vi). NSDLĐ là cá nhân hoặc pháp nhân được
phép sử dụng lao động (căn cứ vào các văn bản quy định chung hoặc riêng biệt)
và phải có điều kiện đảm bảo cho quá trình sử dụng lao động (quyền kinh
doanh, cung ứng dịch vụ có thể đảm bảo về tiền công, tiền lương…). Những
quy định chủ yếu về chủ thể người sử dụng lao động trong giao kết hợp đồng
lao động, nói chung về hình thức là tương đối rõ ràng.
1.2.2.3. Trình tự giao kết hợp đồng lao động
26
Quá trình xác lập HĐLĐ là giai đoạn rất quan trọng thể hiện sự hợp tác
của hai bên để đi đến sự thống nhất ý chí nhằm thiết lập nên quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, đây cũng là thời điểm các bên tiếp xúc trực tiếp, tìm hiểu, đánh
giá về nhau từ đó lựa chọn và đưa ra quyết định chính xác. Vì vậy để xác lập
được quan hệ lao động hay không các bên cần phải có ý thức pháp luật và thiện
chí khi giao kết. Trình tự xác lập HĐLĐ được chia thành 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Các bên thể hiện và đưa ra các đề nghị thiết lập quan hệ
lao động. Đây là quá trình các bên cụ thể hóa nguyên tắc tự do, ý chí khi giao
kết HĐLĐ, họ phải thể hiện nhu cầu đó ra bên ngoài dưới hình thức nhất định.
Về phía NSDLĐ có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nơi
công cộng hoặc trước cổng doanh nghiệp hoặc tại các trung tâm tư vấn để đưa
ra các yêu cầu sơ bộ về việc tuyển dụng. Còn NLĐ khi tiếp nhận các thông tin
đó, nếu thấy có nhu cầu làm việc và xét thấy phù hợp thì có thể bày tỏ nguyện
vọng làm việc bằng cách trực tiếp nộp hồ sơ đến doanh nghiệp hoặc qua các
trung tâm tư vấn việc làm. Giai đoạn này các bên chưa hề có sự chi phối lẫn
nhau và họ có thể chấm dứt quan hệ ngay lần đầu tiên tiếp xúc nếu cảm thấy
bên kia không phù hợp mà không có bất kỳ sự ràng buộc nào về mặt pháp lý.
Giai đoạn hai: Các bên thương lượng và đàm phán nội dung của HĐLĐ.
Ở giai đoạn này, về phương diện pháp lý chưa làm nảy sinh các quyền và nghĩa
vụ cụ thể, các bên chỉ cần tuân thủ các nguyên tắc giao kết HĐLĐ, nếu việc
thương lượng thỏa thuận không đạt được kết quả như ý muốn thì giữa họ cũng
không có sự ràng buộc pháp lý. Tức là nếu NLĐ không hài lòng với các chế độ
chính sách mà NSDLĐ đề ra, và không thể đạt được quyền lợi như mình mong
muốn, hoặc bên NSDLĐ sau khi thỏa thuận không chấp nhận đề nghị về mức
lương, hoặc các lợi ích mà NLĐ đề ra thì hai bên có thể chấm dứt việc thương
lượng tại đây mà không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý gì với bên kia.
Trong thực tế, đây là giai đoạn được đánh giá là rất quan trọng trong quá trình
27
tiền giao kết HĐLĐ của các bên, bởi nó có thể quyết định việc mối quan hệ lao
động này có hài hòa, thuận lợi và ổn định không trong tương lai. Có nghĩa là
khi cả hai bên đều đạt được những mong muốn của mình về bên kia thì quan
hệ lao động đó mới có thể lâu dài và ổn định được. Nếu vẫn còn một bên chưa
hài lòng mặc dù vẫn đồng ý giao kết HĐLĐ sau đó, nhưng về lâu dài đó sẽ là
mầm mống dẫn đến những mâu thuẫn xảy ra sau này trong quan hệ lao động.
Giai đoạn ba: Hoàn thiện và giao kết HĐLĐ. Giai đoạn này các bên
chấm dứt việc thương lượng và chuyển sang giao kết HĐLĐ. Cần chú ý đến
hình thức của HĐLĐ trong quá trình giao kết, ví dụ như đối với HĐLĐ bằng
lời nói chỉ áp dụng đối với loại HĐLĐ mùa vụ có thời hạn dưới 3 tháng thì khi
giao kết cần phải có người làm chứng. Còn đối với HĐLĐ bằng văn bản, các
bên thể hiện những thỏa thuận của mình vào các điều khoản trong hợp đồng và
sau đó tiến hành ký kết HĐLĐ. Về mặt thực tế hành vi giao kết HĐLĐ khi các
bên thống nhất được ý chí dường như là điều tất yếu, nhưng về mặt pháp lý thì
lại đặc biệt quan trọng vì hành vi giao kết HĐLĐ được coi là căn cứ pháp lý
phát sinh quan hệ lao động.
1.2.2.4. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng lao động là việc các bên bày tỏ ý chí theo những
nguyên tắc và cách thức nhất định nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ lao động
với nhau. Theo Điều 17, BLLĐ năm 2012 quy định “Quan hệ lao động giữa
người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương
lượng thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và
trung thực; tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật,
thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”. Nhà nước khuyến khích những
thỏa thuận đảm bảo cho người lao động có những điều kiện thuận lợi hơn so
với những quy định của pháp luật lao động”.
1.2.3.1. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.
28
Đây là nguyên tắc thể hiện một cách sinh động là sự cụ thể hóa một trong
những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật lao động. Nguyên tắc này biểu hiện mặt
chủ quan của người tham gia quan hệ lao động, khi giao kết hợp đồng lao động
sẽ đảm bảo cho người lao động cũng như người sử dụng lao động được quyền
tự nguyện bày tỏ ý chí của mình, mọi hành vi cưỡng bức dụ dỗ, lừa gạt… đều
không đúng với bản chất của hợp đồng. Như vậy, khi tham gia hợp đồng lao
động các bên phải thỏa thuận đúng và đầy đủ yếu tố ý chí, sự mong muốn đích
thực của mình. Cụ thể nguyên tắc này được hiểu như sau:
- Tự nguyện giao kết hợp đồng lao động là kết quả của sự thỏa thuận giữa
người sử dụng lao động và người lao động, không bên nào ép buộc bên nào
giao kết hợp đồng, sự tự nguyện chính là biểu hiện của yếu tố “tự do” của các
chủ thể phù hợp với pháp luật.
- Bình đẳng trong giao kết hợp đồng lao động là nguyên tắc khẳng định
vị thế ngang nhau của người sử dụng lao động và người lao động khi giao kết
hợp đồng lao động. Thực hiện nguyên tắc này giúp phòng tránh việc người sử
dụng lao động lợi dụng “sức mạnh” và vị thế của mình để áp đặt đối với người
lao động khi giao kết hợp đồng lao động. Tuy nhiên, bình đẳng giữa hai bên
khi giao kết hợp đồng lao động chỉ là sự bình đẳng tương đối, bởi vì người lao
động luôn ở vị thế yếu hơn trong quan hệ lao động.
- Thiện chí trong giao kết hợp đồng lao động được biểu hiện cách đối xử
tốt đẹp, chân thành giữa hai bên, còn hợp tác thể hiện sự phối hợp cùng nhau
trong thỏa thuận, bàn bạc để giao kết hợp đồng lao động. Khi không có thiện
chí hay không muốn hợp tác thì việc giao kết hợp đồng lao động không thể thực
hiện được.
- Trung thực trong giao kết hợp đồng lao động được hiểu là một bên
không được lừa dối bên kia, không được cố ý đưa ra các thông tin không đúng
để bên kia giao kết hợp đồng với mình.
29
Tuy nhiên, không phải bao giờ nguyên tắc này cũng được áp dụng một
cách tuyệt đối, có những trường hợp bị chi phối bởi người thứ ba như trường
hợp người lao động dưới 15 tuổi khi giao kết hợp đồng lao động đối với một số
công việc được pháp luật cho phép thì phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người
đại diện hợp pháp. Trong trường hợp này các chủ thể trong quan hệ hợp đồng
lao động còn bị chi phối bởi ý chí của người thứ ba. Do đó sự biểu hiện của
nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, thiện chí, hợp tác trong hợp đồng lao động
vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối của nguyên tắc này
bị chi phối bởi ý chí chủ quan của các chủ thể trong quan hệ lao động. Còn tính
tương đối của nguyên tắc này bị chi phối bởi sự không đồng đều về mặt năng
lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng lao động. Trên thực tế
trong quá trình thiết lập các quan hệ lao động thì nguyên tắc tự nguyện bình
đẳng, thiện chí, hợp tác trong nhiều trường hợp thể hiện không rõ ràng, quy
trình thương lượng đàm phán hợp đồng giữa hai bên hầu như không có. Thông
thường các đơn vị, doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng với người lao động
thường dựa trên mẫu hợp đồng lao động đã được người sử dụng lao động viết
trước, người lao động chỉ được xem xét, nếu đồng ý thì ký vào hợp đồng lao
động, cách làm này không phản ánh đúng bản chất của quan hệ lao động. Cách
ký hợp đồng lao động như trên về ưu điểm là nhanh chóng, không mất thời
gian, nhưng nó đã tạo ra khoảng cách, đánh mất thiện cảm và cơ hội hiểu biết
của người lao động. Ngược lại, người lao động không an tâm tin tưởng vào
người sử dụng lao động. Do đó, việc chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết,
giúp người lao động tham gia giao kết hợp đồng lao động từ các cơ quan quản
lý Nhà nước về lao động là rất cần thiết, có như vậy mới thực hiện đúng nguyên
tắc tự nguyện bình đẳng, thiện chí, hợp tác từ các bên khi tham gia vào quan hệ
pháp luật lao động này.
30
Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực là đảm
bảo cho vị thế của người lao động khi thỏa thuận với người sử dụng lao động.
Theo nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng lao động người lao động
và người sử dụng lao động có sự tương đồng về vị trí và tư cách pháp lý. Tuy
nhiên trong thực tế, nguyên tắc này vẫn chưa được áp dụng triệt để. Bởi lẽ, khi
tham gia giao kết hợp đồng lao động người sử dụng lao động luôn luôn ở vị thế
mạnh vì họ vừa là người quản lý, nắm vốn, khoa học công nghệ, có quyền tổ
chức điều hành quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như phân phối
lợi ích. Còn người lao động thường ở vị thế thứ yếu bởi họ chỉ có thứ tài sản
duy nhất để tham gia quan hệ này là sức lao động, và chịu sự lệ thuộc rất lớn
vào người sử dụng lao động như về việc làm, tiền lương, điều kiện lao động…
Trong mối tương quan như vậy có được sự bình đẳng giữa các bên trong quá
trình giao kết hợp đồng lao động là hết sức khó khăn. Chính vì vậy nguyên tắc
bình đẳng trong giao kết hợp đồng lao động được nhấn mạnh chủ yếu về khía
cạnh pháp lý của quan hệ lao động.
BLLĐ năm 2012 nhấn mạnh nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng lao
động và nguyên tắc thiện chí, hợp tác và trung thực. Việc quy định này không
chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh sự cần thiết và quan trọng của nguyên tắc này, mà
còn lưu ý các chủ thể về đặc trưng của quan hệ hợp đồng lao động (sự thiện
chí, hợp tác và trung thực) khi ký kết và thực hiện trong tương lai. Đây coi là
điểm đặc thù của quan hệ hợp đồng lao động. Khác với giao dịch dân sự, kinh
doanh, thương mại, hợp đồng lao động thường được thực hiện trong thời gian
dài, giữa hai chủ thể có mối quan hệ mật thiết gắn bó về quyền lợi với nhau,
như vậy yếu tố thiện chí, hợp tác là rất quan trọng, khác với sự mua đứt bán
đoạn trong giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại. Đây là nguyên tắc ban
đầu, là tiền đề có tính nguyên tắc pháp lý để giải quyết các vấn đề xảy ra trong
quan hệ lao động.
31
Ở nước ta hiện nay, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động luôn
là mục tiêu nhiệm vụ đặt ra trong quá trình thiết lập quan hệ pháp luật lao động,
đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích của người sử dụng lao động sao cho quyền
và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật này được hài hòa với nhau,
tạo ra sự bình đẳng thực sự khi họ tham gia vào thị trường lao động. Chính vì
vậy cần phải chú trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tế là hết sức quan
trọng.
1.2.3.2. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được
trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.
Nguyên tắc tự do giao kết HĐLĐ, không chấp nhận bất kì một sự cưỡng
ép, ép buộc nào từ bên còn lại trong quan hệ hợp đồng hay từ bên thứ ba ngoài
hợp đồng. Điều này thể hiện “ là sự tôn trọng cái riêng tư, cá nhân của các bên
trong quan hệ tức quyền có tham gia quan hệ hay không, tham gia trong bao
lâu, với ai và nội dung quan hệ bao gồm những quyền và nghĩa vụ gì do các
chủ thể hoàn toàn quyết định. Nhưng để được xã hội tôn trọng, để pháp luật
chấp thuận và bảo vệ thì cái riêng của các bên phải được đặt trong cái chung
của xã hội tức là tuân thủ nguyên tắc không trái pháp luật” [21, tr. 235].
Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật được hiểu là
các thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động không thấp hơn
những quy định tối thiểu và không được cao hơn những quy định tối đa được
quy định trong Bộ luật Lao động và những thỏa thuận đó không thuộc những
hành vi mà người sử dụng lao động không được làm hay bị cấm thực hiện khi
giao kết, thực hiện hợp đồng lao động.
+ Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái thỏa ước lao động tập
thể có nghĩa là những quyền lợi của người lao động trong hợp đồng lao động
không được thấp hơn mức thỏa thuận trong thỏa ước lao động tập thể. Khoản 1
Điều 73 BLLĐ năm 2012 quy định: “Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa
32
thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao
động mà hai bên đã đạt được thông qua thương lượng tập thể. Thỏa ước tập thể
gồm thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành
và hình thức thỏa ước lao động tập thể khác do chính phủ quy định” . Như vậy
thỏa ước lao động tập thể là những thỏa thuận về điều kiện lao động, sử dụng
lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên khi tham gia quan hệ lao động và
người sử dụng lao động thỏa thuận và ký kết theo nguyên tắc bình đẳng công
khai. “Thỏa ước tập thể khi đã có hiệu lực pháp luật trở thành căn cứ để các
bên thiết lập, điều chỉnh quan hệ quan hệ lao động” [1, tr. 53]. Vì vậy, khi tham
gia giao kết hợp đồng lao động nội dung của hợp đồng không được trái với
những quy định của thỏa ước lao động và đạo đức xã hội cụ thể. Nguyên tắc có
ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,
tập thể lao động trong quan hệ lao động.
+ Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái đạo đức xã hội có
nghĩa là người sử dụng lao động không được thỏa thuận với người lao động
làm những công việc hay thỏa thuận những nội dung khác trong hợp đồng lao
động trái với thuần phong mỹ tục, hay trái với những chuẩn mực ứng xử chung
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
1.2.2.5. Nội dung giao kết hợp đồng lao động
Trong HĐLĐ thì “Nội dung của hợp đồng lao động là toàn bộ những vấn
đề được phản ánh trong hợp đồng” [20, tr. 129], trong đó chứa đựng các quyền
và nghĩa vụ do các bên đã thỏa thuận với nhau. Về nguyên tắc, pháp luật hợp
đồng nói chung và HĐLĐ nói riêng thường quy định những nội dung chủ yếu
của hợp đồng mà các bên bắt buộc phải thỏa thuận đảm bảo quyền và lợi ích
cần thiết của các bên chủ thể. Theo Khoản 1, Điều 23 BLLĐ năm 2012 quy
định “Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây: Tên và địa
chỉ người sử dụng lao động hoặc của người đại diện hợp pháp; Họ tên, ngày
33
tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy
tờ hợp pháp khác của người lao động; Công việc và địa điểm làm việc; Thời
hạn của hợp đồng lao động; Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương,
phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác; Chế độ nâng bậc, nâng lương; Thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề.”. Như vậy, nội dung giao kết hợp đồng lao động được nêu trong
BLLĐ năm 2012 cũng được bổ sung nội dung mới. Mặt khác, từ quy định pháp
luật để đảm bảo giao kết hợp đồng lao động có chất lượng hiệu quả khi áp dụng
vào thực tiễn cũng cần thống nhất về nội dung giao kết hợp đồng pháp luật khi
thực hiện như:
Về hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản
bổ sung khác, chế độ nâng bậc, nâng lương, đào tạo.... Đây là một trong những
vấn đề quan trọng nhất của hợp đồng lao động. Tiền lương được hiểu là số
lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn
thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao hoặc hai bên đã thỏa thuận
trong hợp đồng. “Tuy nhiên, sẽ không hợp lý nếu như mọi đối tượng, mọi loại
hợp đồng lao động đều phải thỏa thuận nội dung nói trên trong hợp đồng lao
động” [2, tr. 6]. Cụ thể theo công việc nhất định hợp đồng lao động có thời hạn
dưới 12 tháng thì khó có điều khoản nâng lương hoặc đào tạo. Thực tế điều
khoản dù có ghi trong hợp đồng lao động thì nội dung đào tạo nâng cao trình
độ kỹ năng nghề, cũng khó thực hiện…buộc người lao động phải chấp nhận
mức tiền công thấp hơn bình thường hoặc phải chấp nhận điều kiện ít có lợi
hơn.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành còn có quy định riêng về nội dung hợp
đồng lao động trong một số trường hợp đặc biệt sau:
34
- Trường hợp người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật
kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng
lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung,
thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi
thường trong trường hợp người lao động vi phạm (theo Khoản 2, Điều 23
BLLĐ năm 2012). Nội dung này mới hoàn toàn được quy định trong BLLĐ
năm 2012 là nhu cầu đã phát sinh trong thực tiễn, trong nội dung có lúc đã được
thỏa thuận trong một số quan hệ hợp đồng lao động. Dù thống nhất với điều
khoản này khi ký kết hợp đồng lao động có nghĩa là người lao động tự bỏ quyền
tự do việc làm của mình bởi vì điều này liên quan đến thời gian bảo vệ bí mật
kinh doanh, công nghệ.
- Đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì tùy theo loại công việc mà hai bên có thể
giảm một số nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động và thỏa thuận bổ sung
nội dung về phương thức giải quyết trong trường hợp thực hiện hợp đồng chịu
ảnh hưởng của thiên tai, hoả hoạn, thời tiết (theo Khoản 3 Điều 23 BLLĐ năm
2012). Do đặc thù tính chất của một đối tượng lao động có thể giao kết hợp
đồng lao động không cần theo nội dung của hợp đồng lao động đã quy định
trong khoản 3, nên ngoài quy định của nội dung đã quy định trong pháp luật
lao động còn có thể áp dụng cả tập quán. Vì vậy, nên giảm bớt một số nội dung
chủ yếu của hợp đồng lao động và bổ sung thêm nội dung xuất phát từ đặc thù
quan hệ là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên cần quy định rõ việc giảm bớt nội
dung, nội dung nào hay không, hay đây là vấn đề do người sử dụng lao động
với người lao động tự quyết định.
Nội dung của hợp đồng lao động đối với người lao động được thuê làm
giám đốc trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước do Chính phủ quy định
(theo Khoản 3 Điều 23 BLLĐ năm 2012). Nội dung này không phải là vấn đề
35
mới ở nước ta vì tại khoản 1 Điều 25 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003
đã quy định “Người quyết định thành lập công ty quyết định việc tuyển chọn
để bổ nhiệm miễn nhiệm hoặc ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng với giám đốc
công ty nhà nước; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc ký hợp đồng với
giám đốc, kế toán trưởng công ty nhà nước trên cơ sở đề nghị của giám đốc”.
Do đó, giám đốc trong doanh nghiệp nhà nước có thể được lựa chọn thông qua
bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng. “Mặc dù luật Doanh nghiệp ghi nhận nhưng vấn
đề này đến nay mới được pháp luật lao động quy định” [, tr. 7]. Bên cạnh đó,
do tính chất đặt thù của đối tượng này nên việc hướng dẫn cần giải quyết rõ
hơn nữa nội dung trọng tâm sau: - Nội dung hợp đồng lao động mà một bên
chủ thể là giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải trên cơ sở quy định về nội
dung chủ yếu của hợp đồng lao động đã quy định tại Khoản 1 Điều 23 BLLĐ
năm 2012; - Mặc dù vậy, hợp đồng lao động mà một bên chủ thể là giám đốc
doanh nghiệp nhà nước cần chú ý một số điểm riêng như điều kiện chủ thể, thời
hạn hợp đồng lao động “chỉ áp dụng với loại hợp đồng lao động xác định thời
hạn, tối đa là 36 tháng”, quyền hạn và trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh,
quản lý và sử dụng lao động, trách nhiệm về tài sản…
1.2.2.6. Thử việc
Sở dĩ tác giả trình bày nội dung thử việc trong phần pháp luật về giao kết
HĐLĐ bởi vì trước khi giao kết HĐLĐ chính thức, các bên phải tiến hành thử
việc, đây cũng được coi là một giai đoạn pháp lý quan trọng để xác định các
bên có phù hợp với công việc mà họ giao kết với nhau không, cũng như phần
nào đó xác định được tính lâu bền, ổn định của quan hệ lao động sau này. Về
vấn đề thử việc, BLLĐ năm 2012 có quy định cụ thể về các vấn đề như thời
gian thử việc, mức lương thử việc, nội dung của hợp đồng thử việc, kết thúc
thời gian thử việc.
a. Thời gian thử việc
36
Người sử dụng lao động chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc.
Thời gian thử việc được nêu tại Điều 27, BLLĐ năm 2012 căn cứ vào tính chất
và mức độ phức tạp của công việc nhưng cần tuân thủ quy định sau: Không quá
60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật
từ cao đẳng trở lên; Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề
cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp,
công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ; Không quá 6 ngày làm việc đối với
công việc khác.
Về thời gian thử việc này, theo BLLĐ năm 2019 thì ngoài 3 mốc thời
gian thử việc trên còn bổ sung: “Không quá 180 ngày đối với công việc của
người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp”.
Đây được coi là một điểm mới tương đối phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, khi các chủ đầu tư có khuynh hướng thuê những người có trình
độ, năng lực, kinh nghiệm dầy dặn trong việc quản lý lĩnh vực của mình để thay
mình quản lý, giám sát, điều hành các hoạt động của doanh nghiệp.
Cần phải lưu ý đối với Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
mùa vụ thì không phải thử việc. Thêm nữa, trong thời gian thử việc, mỗi bên
có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải
bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận. Việc
làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận có thể là người sử dụng
lao động hủy bỏ quan hệ thử việc do người lao động thường xuyên vi phạm
thời giờ làm việc hoặc làm ra sản phẩm kém chất lượng… trong thời gian thử
việc; người lao động có thể hủy bỏ quan hệ thử việc vì người sử dụng lao động
không đảm bảo các điều kiện lao động tối thiểu cho mình hoặc có hành vi xúc
phạm đến danh dự, nhân phẩm của mình trong thời gian thử việc…
b. Tiền lương trong thời gian thử việc
37
Theo Điều 28, BLLĐ năm 2012 thì Tiền lương của người lao động trong
thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức
lương của công việc đó. BLLĐ năm 2012 tôn trọng sự thỏa thuận của hai bên
nhưng vẫn đảm bảo cho quyền lợi thiết thực của NLĐ trong thời gian thử việc
để đảm bảo cho cuộc sống của NLĐ, mức 85% được cho là mức lương phù hợp
cho NLĐ trong thời gian thử việc.
c. Kết thúc thời gian thử việc
Đối với các trường hợp quy định thời gian thử việc tối đa là 60 ngày và
30 ngày, trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời gian thử việc, người sử
dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao
động đã làm thử.
Đối với các trường hợp quy định thời gian thử việc tối đa là 06 ngày
làm việc, khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông
báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử.
Với những người lao động không đạt yêu cầu, người sử dụng lao động
có quyền không giao kết với người lao động đó. Đối với những người lao động
đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải giao
kết ngay hợp đồng lao động với người lao động.
Vấn đề thử việc được quy định trong BLLĐ năm 2012 thì trong trường
hợp hai bên thỏa thuân về vấn đề thử việc thì phải giao kết thành hợp đồng thử
việc. Tuy nhiên, trong BLLĐ năm 2019, nội dung thử việc có thể thỏa thuận và
ghi rõ trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết
hợp đồng thử việc. Đây cũng được coi là một điểm mới, tiến bộ của BLLĐ năm
2019.
Tiểu kết chương 1
Qua các nội dung của chương 1, chúng ta có thể thấy các quy định của
pháp luật về hợp đồng lao động, về vấn đề giao kết hợp đồng nói chung và hợp
38
đồng lao động nói riêng tương đối rõ ràng, cụ thể phù hợp các quan hệ pháp
luật lao động ở Việt Nam. Đồng thời, các quy định của BLLĐ năm 2012 của
Việt Nam về giao kết HĐLĐ như chủ thể giao kết HĐLĐ, trình tự xác lập
HĐLĐ, nguyên tắc giao kết, nội dung giao kết HĐLĐ và vấn đề thử việc đều
là các quy định tương đối chặt chẽ và cho ta thấy rất cụ thể các vấn đề lý luận
về giao kết HĐLĐ.
39
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH
MỘT THÀNH VIÊN ĐIỆN CƠ - HÓA CHẤT 15,
TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
2.1. Giới thiệu về tình hình lao động trong Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
2.1.1. Lịch sử hình thành của công ty
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hoá chất 15 là một doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Quốc phòng, được thành lập vào ngày
16/6/1965 theo số 742/QĐ của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, lúc đầu có tên là
Nhà máy Z115. Sự ra đời của Nhà máy Z115 là một đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ khi
được thành lập, Công ty đã bắt đầu được hình thành và hoạt động từ những lều
lán phân tán thuộc Hoà Mục - Thái Long -Yên Sơn- Tuyên Quang sau đó
chuyển về Khuôn Ngục - Quang Sơn- Võ Nhai- Thái Nguyên và Xã Quyết
Thắng - Thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên để tránh sự phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Đến năm 1993, theo nghị định số 388- HĐBT, ngày 20 tháng11 năm 1991
của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định thành lập lại doanh nghiệp.
Theo đề nghị của Bộ trưởng chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trong công
văn số 1293 -VB/KH, ngày 26 tháng 6 năm 1993, Nhà máy Z115 tên gọi: Công
ty TNHH một thành viên Điện - Cơ Hoá chất 15 ngành nghề kinh doanh chủ yếu
là “Công nghiệp sản xuất các sản phẩm bằng kim loại”.
2.1.2. Quá trình phát triển của công ty
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hoá Chất 15 là doanh nghiệp
Quốc phòng, an ninh do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, có tư cách pháp
40
nhân, hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng-
Bộ Quốc phòng.
Hiện nay, nhiệm vụ Quốc phòng của Công ty là sản xuất các loại vũ khí
bộ binh trang bị cho các sư đoàn bộ binh mang vác, các loại quân cụ và nghiên
cứu cải tiến các loại vũ khí hiện có, chế tạo các loại vũ khí mới theo mẫu của
nước ngoài trang bị cho Quân đội. Ngoài ra, Công ty còn sản xuất các mặt hàng
kinh tế: thuốc nổ công nghiệp, đúc và gia công các mặt hàng cơ khí, hoá chất,
các sản phẩm cơ khí chính xác, sản xuất các chi tiết máy, phụ tùng thay thế đại
tu cho các thiết bị ngành công nghiệp điện, xi măng, dầu khí… sản xuất và lắp
ráp các loại dây chuyền, thiết bị đồng bộ, thiết bị phụ tùng phục vụ cung cấp
cho các ngành công nghiệp của đất nước, đây đang là sản phẩm được đẩy mạnh
và mũi nhọn của Công ty.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của công ty
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 là một doanh
nghiệp thuộc Tổng cục công nghiệp Quốc phòng, có nhiệm vụ chính trị là sản
xuất một số mặt hàng Quốc phòng theo kế hoạch và chỉ định của cấp trên phụ
vụ cho nhiệm vụ an ninh Quốc phòng của đất nước. Hiện nay việc phân cấp
trong bộ máy quản lý của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất
15 được tổ chức, phân chia rõ ràng 3 cấp quản lý: cấp quản lý cao nhất, cấp
quản lý trung gian và cấp quản lý cơ sở.
Cấp quản lý cao nhất của Công ty là Giám đốc, bao quát toàn bộ tình
hình hoạt động của Công ty thông qua cán bộ quản lý cấp trung gian và cơ sở.
Cấp quản lý trung gian là người hướng dẫn hoạt động hàng ngày của
Công ty, hình thành và cụ thể hóa các quyết định quản lý cấp cao thành các
công việc cụ thể. Quản lý cấp trung gian ở Công ty là các Phó Giám đốc.
Quản lý cấp cơ sở là những người giám sát hoạt động của các nhân viên
trực tiếp sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm
41
vụ của cấp trên giao cho. Ở Công ty thì quản lý cấp cơ sở được thể hiện ở các
phòng ban, các phân xưởng.
2.1.4. Cơ cấu lao động của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ -
Hóa chất 15
Tuy là một doanh nghiệp của nhà nước, lại đặc thù trong khối CNQP
nhưng yếu tố lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất
15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng luôn luôn được chú trọng, vì lao động
quyết định đến năng suất, quy mô và hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Công ty TNHH Một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15 trong những năm
gần đây có tốc độ phát triển tương đối cao nên cần đến một lực lượng lao động
đáp ứng nhu cầu phát triển mạng lưới phân phối và điều hành các mặt hoạt động
của Công ty. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ phân tích và làm rõ
cơ cấu lao động hợp đồng của Công ty TNHH Một thành viên Điện cơ- Hóa
chất 15.
- Về cơ cấu sử dụng lao động chung của Công ty thể hiện qua bảng 3.1
dưới đây:
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng lao động chung của Công ty TNHH Một
thành viên Điện cơ- Hóa chất 15 giai đoạn 2017-2019
ĐVT: người
So sánh các năm (%) Chỉ tiêu 2017 2018 2019 18/17 19/18 BQ
840 965 987 114,9 102,3 108,6 Tổng số
1. Biên chế 339 354 362 104,4 102,2 103,3
2. Hợp đồng 501 611 625 121,9 102,3 112,1
Nguồn: Công ty TNHH Một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15
Qua bảng sổ liệu trên có thể thấy: Tổng số người lao động của Công ty
hàng năm có sự gia tăng, năm 2018 tăng hơn năm 2017 là 14,9% cụ thể tăng
42
lên 125 người, trong đó có 119 người lao động hợp đồng, có sự gia tăng đột
biến về số HĐLĐ được giao kết này là do năm 2018 Chi nhánh phía Nam của
Công ty tách ra hoạt động độc lập với Nhà máy Z114 (Tổng cục Công nghiệp
quốc phòng) do đó có nhu cầu tuyển dụng một số lượng lớn người lao động để
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty; Còn đến năm 2019, tổng số
người lao động so với năm 2018 tăng nhẹ 2,3 %, cụ thể tăng thêm 22 người lao
động, trong đó lao động hợp đồng tăng 14 người. Nhìn chung, về tổng số lao
động bình quân trong 03 năm kể từ 2017 – 2019 tăng 8,6 % điều này cho thấy
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Một thành viên Điện cơ-
Hóa chất 15 đạt được kết quả tốt, ổn định và ngày càng mở rộng quy mô lao
động hơn so với những năm trước.
- Xét về Cơ cấu lao động theo giới tính của Công ty, với đặc thù của
ngành cơ khí, hóa chất, với tính chất công việc đòi hỏi về kỹ thuật công việc
nặng nhọc được bố trí theo bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.2. Cơ cấu lao động hợp đồng theo giới tính tại Công ty TNHH
một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 tính từ năm 2017-2019
ĐVT: người
Nam Nữ
Năm Biên Hợp Tổng Biên Hợp Tổng
chế đồng số chế đồng số
247 340 587 92 161 253 2017
247 346 593 107 265 372 2018
253 350 603 109 275 384 2019
Nguồn: Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15
Qua bảng số liệu trên có thể thấy số lượng người lao động có giới tính
43
nam chiếm khoảng 70%, số lượng người lao động hợp đồng giới tình nam cụ
thể tính đến năm 2019 là 350 người, tăng thêm gần 3% so với năm 2017. Có sự
chênh lệch rất cao về cơ cấu người lao động theo giới tính như trên là do đặc
thù của ngành cơ khí, hóa chất đòi hỏi NLĐ phải có trình độ chuyên môn về cơ
khí, hóa chất, cùng với tính chất công việc đòi hỏi về kỹ thuật, công việc nặng
nhọc, vì thế cơ cấu lao động nam giới (khối lao động trực tiếp thực hiện các
công việc điện cơ, hóa chất) cao như vậy là phù hợp với đặc thù của Công ty
TNHH một thành viên Điện cơ- Hóa chất 15.
Còn số lượng lao động hợp đồng có giới tính nữ từ năm 2017 – 2019
tăng thêm 17%, tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 lao
động nữ chủ yếu được bố trí làm việc tại các phòng, ban hoặc các vị trí lao động
gián tiếp, hoặc vị trí lao động trực tiếp nhưng công việc có tính chất tương đối
nhẹ nhàng phụ trợ cho ngành điện cơ, hóa chất phù hợp với sức khỏe của lao
động nữ.
Bảng 3.3. Trình độ người lao động tại Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ- Hóa chất 15 tính từ năm 2017-2019
ĐVT: người
So sánh các năm (%) Trình độ 2017 2018 2019 18/17 19/18 BQ
Tổng số 840 965 987 114,9 102,3 108,6
- Trung cấp, cao đẳng 639 748 764 117,1 102,1 109,6
- Đại học 179 192 198 107,3 103,1 105,2
- Trên đại học 22 25 25 113,6 100 106,8
Nguồn: Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15
Xét về chất lượng và trình độ lao động: Số lượng lao động của Công ty
có trình độ tương đối cao, không có lao động nào là chưa qua đào tạo; số lượng
lao động có trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm đa số, năm 2017 chiếm gần
44
76%, lao động có trình độ đại học chiếm khoảng 21 %, lao động có trình độ
trên đại học chiếm khoảng hơn 3% tương ứng là 22 người chủ yếu là các lãnh
đạo quản lý. Trình độ NLĐ mỗi năm càng được cải thiện hơn năm trước. Nhìn
chung cơ cấu về trình độ qua các năm chưa có sự dịch chuyển nhiều. Với cơ
cấu này số lao động có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng nằm chủ yếu ở
bộ phận quản lý hoặc phụ trách chuyên môn công việc ở các bộ phận phòng
ban, còn số lao động còn lại ở bộ phận sản xuất, trực tiếp tham gia vào các hoạt
động sản xuất sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Thông qua việc phân tích về cơ cấu lao động của Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, chúng ta thấy điểm mạnh của Công ty là
nguồn nhân lực tinh gọn, phân bổ hợp lý, cùng với kinh nghiệm quản lý dầy
dặn, vững vàng. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của Công ty có trình độ chuyên môn
cao, được đào tạo rất bài bản và giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, 100% NLĐ
trong Công ty đều được cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ Vật liệu nổ trước
và sau khi giao kết HĐLĐ.
2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng lao động trong Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng.
2.2.1. Về chủ thể giao kết hợp đồng lao động
2.2.1.1. Người sử dụng lao động
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 có tư cách pháp
nhân, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về người sử dụng lao động.
Tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, Giám đốc Công ty
là người đại diện giao kết HĐLĐ với người lao động trong tất cả các trường
hợp. Trường hợp Giám đốc vắng mặt thì có thể ủy quyền lại cho người khác
đại diện ký kết HĐLĐ bên phía người sử dụng lao động. Tuy nhiên về quy định
này thì tại BLLĐ năm 2012 cũng chưa có quy định cụ thể về việc ủy quyền cho
người khác dưới hình thức bằng văn bản, bằng lời nói hay bằng hành vi, và
45
cũng không có quy định cụ thể về việc người được ủy quyền phải là các chức
danh nào (Phó Giám đốc hay Trưởng phòng Tổ chức lao động…) do vậy trong
thực tế có những trường hợp sự ủy quyền này chưa được thống nhất, rõ ràng,
từ đó có thể dẫn đến những cách hiểu chưa đúng, hoặc vi phạm quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, trong khi Bộ luật Lao động 2012 quy định người sử dụng
lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động với người lao động và hiện
nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể về vấn đề này. Qua đó dễ
dàng nhận thấy được quy định mới trong Bộ luật Lao động 2012 vẫn còn nhiều
vấn đề chưa thể coi là phù hợp với thực tiễn trong quá trình thực hiện. Vì người
sử dụng lao động không phải lúc nào cũng có thể trực tiếp giao kết hợp đồng
lao động với từng người lao động được.
Thực tế, tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 có chi
nhánh phía Nam (nằm ở tỉnh Đồng Nai) do đó trong mọi trường hợp việc Giám
đốc phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động với người lao động thuộc chi
nhánh phía Nam này là vấn đề khó thực hiện. Xét cho cùng, BLLĐ năm 2012
cần có văn bản hướng dẫn thi hành một cách chi tiết hơn vấn đề này để Công
ty có cách hiểu và làm đúng quy định trong giao kết hợp đồng lao động với
người lao động.
2.2.1.2. Người lao động
Tất cả người lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa
chất 15 đều từ đủ 18 tuổi trở lên, do vậy khi tham gia ký kết HĐLĐ họ được
đích danh ký tên vào trong HĐLĐ.
Bên cạnh đó, Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 cũng
có những quy định ưu tiên cho lao động nữ những nhóm công việc nhẹ nhàng,
phù hợp với sức lao động của họ. Đồng thời, tạo điều kiện cho lao động nữ
46
được hưởng các quyền ưu tiên đặc thù (thai sản, nuôi con nhỏ…) phù hợp với
các quy định được nêu trong BLLĐ.
Tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, do đặc thù
công việc liên quan đến ngành công nghiệp quốc phòng của nhà nước, do đó
tuy rằng có các vị trí công việc tương đồng với nhau, nhưng việc giao kết HĐLĐ
vẫn được NLĐ thực hiện một cách độc lập, không có trường hợp nào ủy quyền
giao kết HĐLĐ.
Bên cạnh đó, với đặc thù của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ -
Hóa chất 15với hai ngành nghề chính là Điện cơ và Hóa chất, nên đối với quy
định về NLĐ trong Công ty cũng mang những đặc trưng riêng.
Cụ thể đối với ngành nghề điện cơ, tức là điện máy và cơ khí thì đòi hỏi
NLĐ phải có tay nghề theo bậc, tay nghề càng cao thì trách nhiệm, vị trí cũng
như quyền lợi được hưởng càng nhiều. Do vậy đối với ngành điện cơ số lượng
NLĐ chủ yếu làm việc là NLĐ nam ví dụ như cơ khí, điện máy, sản xuất trụ
nước cứu hỏa, sản xuất còng số 8…, còn đối tượng NLĐ nữ thì chỉ làm những
công việc phụ trợ như vật liệu nhựa, may bao bì, in bao bì.. Cụ thể đối với
ngành điện cơ, số lượng NLĐ nam chiếm đến 72% còn NLĐ nữ chỉ chiếm
khoảng 28% (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ - Hóa chất 15 từ năm 2017-2019)
Còn đối với ngành hóa chất, Công ty TNHH một thành viên Điện cơ -
Hóa chất 15 có quy định đã được đưa vào nội quy của Công ty đó là tất cả người
lao động trước khi giao kết HĐLĐ với Công ty đòi hỏi phải có Chứng chỉ bồi
dưỡng Nghiệp vụ Vật liệu nổ Công nghiệp. Do đó, đối với ngành nghề này, tất
cả NLĐ tại Công ty đều phải được đào tạo nghiệp vụ này trước khi bắt đầu thực
hiện công việc chính được thỏa thuận trong HĐLĐ. Tuy nhiên cũng bởi đây là
một ngành nghề mà ẩn chứa nhiều rủi ro và tổn hại sức khỏe cho NLĐ hơn do
vậy số lượng NLĐ nam cũng chiếm áp đảo so với lao động nữ, cụ thể lao động
47
nam chiếm 76,5% còn lao động nữ chỉ chiếm 23,5% (Nguồn: Báo cáo tổng kết
hoạt động của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 từ năm
2017-2019). Đồng thời, tất cả NLĐ thuộc nhóm nghề này đều được hưởng chế
độ bồi dưỡng sức khỏe bằng hiện vật như đường, sữa.. và được hưởng chế độ
khám sức khỏe hàng năm.
Bên cạnh đó, với đặc thù ngành nghề của mình là một doanh nghiệp nhà
nước thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, chuyên sản xuất đạn dược, vũ
khí, thuốc nổ công nghiệp…phục vụ cho khối mặt hàng quốc phòng và công
nghiệp, do đó đòi hỏi tất cả NLĐ khi làm việc tại đây phải ký cam kết bảo đảm
giữ bí mật sản xuất cũng như bí mật về an ninh quốc phòng khi giao kết HĐLĐ,
điều này được đưa vào nội quy lao động của Công ty, cũng như được nêu rõ
thành một điều khoản trong HĐLĐ mà các bên ký kết với nhau.
2.2.2. Về trình tự xác lập hợp đồng lao động
Tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15, trình tự xác
lập HĐLĐ được thực hiện tương đối đầy đủ, cụ thể như sau:
Giai đoạn một: Các bên thể hiện và bày tỏ sự mong muốn thiết lập quan
hệ lao động. Ở giai đoạn này, Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa
chất 15 thường thông báo các thông tin tuyển dụng lao động tại các trang nội
bộ của doanh nghiệp hoặc của Tổng cục CNQP hoặc phát hành văn bản giao
cho phòng Tổ chức lao động thông báo cho các địa phương trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên hoặc các tỉnh lân cận về nhu cầu tuyển dụng lao động của Công
ty trong thời gian đó. Sau khi tiếp cận các thông tin này, NLĐ nếu như có nhu
cầu muốn làm việc tại Công ty thì nộp hồ sơ đến Phòng Tổ chức Lao động của
Công ty để đăng ký. Thông thường số lượng NLĐ nộp đơn ứng tuyển làm việc
tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 cao hơn rất nhiều so
với số lượng Công ty cần.
48
Giai đoạn hai: Các bên thương lượng và đàm phán nội dung trong
HĐLĐ. Thông thường tại các doanh nghiệp tư nhân thì vấn đề này các bên
trong quan hệ lao động được tự do thương lượng và đàm phán với nhau để tìm
ra được tiếng nói chung hay nó cách khác là xem có phù hợp với nhau không.
Nhưng với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước lại nằm trong khối sản xuất
ngành nghề tương đối đặc thù, do đó ở giai đoạn này, tại Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 thông thường đã có các điều kiện đặt ra đối
với những NLĐ nộp hồ sơ ứng tuyển, NLĐ thực sự phù hợp là NLĐ đáp ứng
được các điều kiện về sức khỏe, năng lực, phẩm chất, trình độ…và một số tiêu
chuẩn cứng như phải có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ vật liệu nổ công nghiệp
thì mới được nhận vào làm.
Tuy nhiên thực tế, có những giai đoạn do cần NLĐ làm việc ngay nên
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 chấp nhận tuyển dụng
những NLĐ chưa đạt được tiêu chuẩn cứng này, sau khi giao kết HĐLĐ thì tổ
chức đào tạo để đáp ứng được tiêu chuẩn mà Công ty đặt ra. Đấy chính là giai
đoạn năm 2018, khi chi nhánh phía Nam của Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ - Hóa chất 15 tách ra khỏi Nhà máy Z114 để hoạt động độc lập, do đó
cần tuyển dụng một số lượng lớn NLĐ làm việc tại chi nhánh này là việc cấp
thiết (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ - Hóa chất 15 năm 2018).
Ở giai đoạn hai này, thực tế tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ
- Hóa chất 15 thường là một bên (là Công ty) đưa ra điều kiện còn một bên
(NLĐ) được lựa chọn chấp nhận điều kiện, không phát sinh việc đàm phán,
thương lượng về điều kiện làm việc hay các điều khoản của HĐLĐ một cách
trực tiếp. Do đó với nhu cầu được làm việc mà NLĐ có thể chấp nhận giao kết
HĐLĐ dù biết rằng có thể các quyền lợi hoặc các điều kiện lao động chưa phản
ánh được đầy đủ như mong muốn và nguyện vọng của họ.
49
Giai đoạn ba: Hoàn thiện và giao kết HĐLĐ. Ở giai đoạn này, tại Công
ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 việc hoàn thiện HĐLĐ cũng
như tiến hành việc giao kết HĐLĐ với NLĐ do phòng Tổ chức lao động thực
hiện, chứ không phải do Giám đốc Công ty trực tiếp giao kết với NLĐ. Lý do
đưa ra ở đây là với số lượng lớn NLĐ được tuyển dụng tại Công ty thì việc
Giám đốc trực tiếp giao kết HĐLĐ với tất cả những NLĐ tại Công ty là công
việc mất rất nhiều thời gian, do đó thông thường Giám đốc giao cho phòng Tổ
chức lao động thay mặt mình soạn thảo các HĐLĐ với NLĐ và sau đó chỉ trình
để Giám đốc ký tên vào các HĐLĐ này. Các HĐLĐ này đều được soạn thảo
sẵn theo một phom mẫu nhất định và duy trì trong nhiều năm. Bên cạnh đó, tất
cả các HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 đều là
HĐLĐ bằng văn bản và thuộc loại HĐLĐ không xác định thời hạn.
2.2.3. Về nội dung, hình thức giao kết hợp đồng lao động
2.2.3.1. Về nội dung giao kết hợp đồng
Hợp đồng lao động được Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa
chất 15 giao kết với người lao động đáp ứng đầy đủ các nội dung được quy định
tại BLLĐ năm 2012, về cơ bản đáp ứng đủ và đúng các quy định này. Tuy
nhiên trong thực tế khi giao kết HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện
cơ – Hóa chất 15 còn những bất cập sau:
Khi giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản thường người sử dụng lao
động đã soạn thảo trước các nội dung của bản hợp đồng lao động, thậm chí
người sử dụng lao động đã ký trước, sau đó nếu người lao động không đồng ý
thì không thiết lập quan hệ lao động, còn nếu đồng ý ký tên vào bản hợp đồng
lao động thì coi như quan hệ lao động đã được thiết lập. Với các thức giao kết
như vậy, có thể người sử dụng lao động vẫn không bị xem là vi phạm các
nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động bởi vì, người sử dụng lao động không
buộc người lao động phải ký hợp đồng lao động. Bằng việc soạn thảo trước nội
50
dung hợp đồng lao động, người sử dụng lao động đã thể hiện ý chí của họ là cố
định và không thay đổi. Cách thức giao kết như vậy làm cho hợp đồng lao động
giống như là một loại “hợp đồng gia nhập”, điều đó không phản ánh đúng bản
chất của hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa hai bên. Thực tế có thể thấy,
sự can thiệp của pháp luật ở đây vẫn còn thiếu sót bởi chưa có quy định nào
cấm người sử dụng lao động làm như vậy.
2.2.3.2. Về hình thức giao kết hợp đồng
Qua thực tế nhu cầu sử dụng lao động tại Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ – Hóa chất 15 cho thấy: 100% các HĐLĐ được giao kết được áp dụng
dưới hình thức bằng văn bản (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của Công ty
TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15 năm 2018).
Qua khảo sát các giai đoạn khác nhau, thì việc thực hiện đúng quy định
này là khá cao, tuy chưa phải là tuyệt đối. Tất cả các hợp đồng lao động tại
Công ty đều được giao kết bằng loại hợp đồng không xác định thời hạn.
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn có ưu điểm rất lớn đó là giúp
cho các chủ thể thực hiện quan hệ lao động lâu dài, ổn định, tuy nhiên loại hợp
đồng này cũng bộc lộ nhược điểm rất lớn đó là thời điểm chấm dứt hợp đồng
không xác định rõ ràng do đó cũng có những trường hợp người lao động bị đặt
ở tình huống bị chấm dứt hợp đồng nếu như không đáp ứng được những điều
kiện lao động nhất định đã được nêu rõ trong nội quy lao động. Ngược lại, cũng
có những trường hợp người lao động tự ý bỏ việc không có lý do, họ cũng chỉ
cần đáp ứng được thời hạn thông báo trước là ít nhất 45 ngày để có thể đơn
phương chấm dứt hợp đồng, lúc đó người sử dụng lao động sẽ bị đặt ở thế bị
động khi vị trí của người lao động đó bị bỏ trống và không thể ngay lập tức
tuyển dụng được người lao động khác vào làm việc thay vị trí của người đó,
đặc biệt là những lao động đã qua đào tạo thì việc thay thế này càng khó khăn
hơn.
51
2.2.4. Về vấn đề thử việc
Khi giao kết HĐLĐ, BLLĐ năm 2012 không bắt buộc hai bên phải thử
việc nhưng nếu đã thực hiện thử việc thì phải có hợp đồng thử việc. Nội dung
của Hợp đồng thử việc phải có các nội dung theo quy định tại Điều 26 (dẫn
chiếu lại nội dung tại Điều 23 BLLĐ năm 2012). Thực tế tại Công ty TNHH
một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 là rất nhiều trường hợp Công ty không
chịu ký hợp đồng thử việc với người lao động. Người lao động vẫn chấp nhận
để làm theo diện thử việc. Thực tế này dẫn đến rủi ro rất lớn cho cả hai bên. Cụ
thể:
Về phía Công ty vì không có hợp đồng thử việc nên không xác định rõ
ràng thời gian thử việc là bao lâu, không xác định được mức lương làm thử.
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp mà có tình tiết nào đó xác định công việc
làm thử, thời gian thử việc và mức lương khác với thực tế Công ty đang áp
dụng đối với người lao động thì Công ty có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành
chính như quy định tại Điều 6 của Nghị định 95/2013 (được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định 88/2015).
Về phía người lao động vì không có hợp đồng thử việc nên khó có căn
cứ để yêu cầu Công ty trả lương mà các bên thỏa thuận khi làm thử, rồi dễ dàng
bị Công ty cho rằng không đạt yêu cầu công việc làm thử …
Bên cạnh đó, cần làm rõ mức lương người lao động nhận được trong thời
gian thử việc và lương chính thức. Thực tế có nhiều tranh chấp “âm ỉ” trong
mối quan hệ lao động mà Công ty chỉ được biết khi quan hệ hai bên “cơm không
lành, canh không ngọt”. Một trong các lý do đó xuất phát từ việc đàm phán, ghi
nhận và chi trả tiền lương cho người lao động. Theo Bộ luật lao động năm 2012,
tiền lương trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng
85% mức lương chính thức. Điều luật này cho phép Công ty và người lao động có
thể thỏa thuận trả luôn 100% lương ngay trong thời gian thử việc.
52
Tuy nhiên, trong kỹ thuật soạn thảo hợp đồng thử việc nếu không làm rõ
được Công ty sẽ trả lương thử việc bằng 100% lương chính thức hay bao nhiêu
phần của lương chính thức (ít nhất bằng 85% lương chính thức) mà để người
lao động nhận ngay từ đầu mức lương của mình thì sẽ dẫn đến nảy sinh mối
hoài nghi, ngờ vực và dễ dàng xảy ra tranh chấp.
Tóm lại, Công ty phải ghi rõ trong hợp đồng thử việc lương được trả
trong thời gian thử việc là bao nhiêu phần trăm của lương chính thức. Người
lao động cũng cần nhận thức rõ vấn đề này để thương lượng với Công ty.
Như vậy, về vấn đề thử việc, Công ty nên thực hiện và giao kết bằng hợp
đồng thử việc để đảm bảo được quyền lợi của cả hai bên trước khi thực hiện
công việc chính thức.
2.3. Đánh giá về vấn về giao kết hợp đồng lao động trong Công ty
TNHH một thành viên Điện cơ - Hóa chất 15
2.3.1. Kết quả đạt được
Tính từ năm 2017 đến hết năm 2019, Công ty TNHH một thành viên
Điện cơ – Hóa chất 15 đã giao kết 625 HĐLĐ với người lao động, mỗi năm
tăng bình quân 12,1% số HĐLĐ. Điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của
Công ty trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, do đó nhu cầu tuyển dụng
người lao động vẫn tăng lên hàng năm.
Trong lực lượng lao động trực tiếp thì số lượng lao động là thợ bậc cao
cũng ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng. Điều này chứng tỏ là sự quan
tâm của Bộ Quốc phòng đầu tư nguồn nhân lực cho phát triển các sản phẩm
phục vụ quốc phòng và kinh tế. Nó cũng chứng tỏ công ty không ngừng nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ và đội ngũ lao động, việc đào tạo tay nghề cho
người lao động để phục vụ chiến lược đa dạng hóa sản phẩm đã được công ty
quan tâm hàng đầu. Việc đầu tư đào tạo tay nghề cho người lao động luôn là
tiêu chí hàng đầu trong chính sách phát triển chung của Công ty.
53
Tuy rằng có những điều kiện cứng bắt buộc phải đạt được trước khi giao
kết HĐLĐ như phải có Chứng chỉ bồi dưỡng Nghiệp vụ Vật liệu nổ công
nghiệp, nhưng trong 3 năm kể từ năm 2017 đến năm 2019 Công ty đã tạo điều
kiện cho NLĐ sau khi giao kết HĐLĐ sẽ được đào tạo nghiệp vụ này, và tính
đến nay 100% số NLĐ theo HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ
– Hóa chất 15 đều đã được đào tạo và cấp chứng chỉ này ( Nguồn: Báo cáo tổng
kết hoạt động của Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 năm
2019). Thêm nữa, trong HĐLĐ có những điều khoản khuyến khích tất cả NLĐ
tham gia các lớp học bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành và đào tạo ngắn hạn,
chuyển đổi văn bằng nâng cao trình độ hoặc có chuyên ngành phù hợp với chiến
lược phát triển đa dạng hóa các sản phẩm của Công ty.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 cũng đem lại cho NLĐ đang làm việc tại
Công ty có được nguồn thu nhập ổn định, trung bình mức tiền lương của một
NLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 theo thống kê
3 năm gần đây từ 2017 – 2019 đạt trung bình hơn 7 triệu đồng/người. Thêm
nữa, ngoài nguồn lương, hàng năm Công ty còn chăm lo đến sức khỏe của NLĐ
bằng cách tổ chức khám sức khỏe cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công
ty định kỳ mỗi năm 1 lần. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao thường
xuyên được Công đoàn, Đoàn thanh niên của Công ty tổ chức hàng năm. Người
lao động được chăm lo sâu sát từ cả thể chất lẫn tinh thần nên hăng hái làm
việc, cống hiến cho Công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa, ngày càng
trở thành một trong những doanh nghiệp phát triển mạnh nhất trong Tổng cục
Công nghiệp Quốc phòng.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế
54
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện pháp luật về giao kết HĐLĐ tại Công
ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 cũng bộc lộ một số tồn tại trong
quá trình giao kết và thực hiện HĐLĐ, có thể kể ra một số tồn tại như:
Một là, trình tự xác lập HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ
– Hóa chất 15 chưa thực sự tuân theo các quy định của pháp luật về việc các
bên trong quan hệ lao động phải trực tiếp tiếp xúc để đàm phán, thương lượng
và giao kết các nội dung trong HĐLĐ, mà tại Công ty vấn đề này thường được
coi như hành vi pháp lý đơn phương của NLĐ, trên danh nghĩa họ được lựa
chọn có giao kết hay không giao kết HĐLĐ với những điều kiện, tiêu chuẩn đã
được soạn thảo sẵn, gần như là điều kiện cứng không thể thay đổi được, nhưng
thực tế vì nhu cầu cấp thiết về việc làm nên nhiều trường hợp NLĐ chưa hoàn
toàn thỏa mãn các nguyện vọng hoặc các mong muốn của mình vẫn “nhắm
mắt” đồng ý giao kết HĐLĐ. Việc làm này dường như là vi phạm nguyên tắc
bình đẳng trong việc xác lập HĐLĐ khi chỉ có một bên có quyền đưa ra điều
kiện, tiêu chuẩn còn một bên không được đưa ra điều kiện gì, nhưng về khía
cạnh tự do tự nguyện thì lại không hề vi phạm nguyên tắc này vì trong trường
hợp này NSDLĐ là Công ty không hề ép buộc NLĐ phải giao kết HĐLĐ với
họ, mà việc có giao kết HĐLĐ hay không lại là do chính NLĐ có quyền quyết
định nếu muốn làm việc và đáp ứng được các điều kiện NSDLĐ đặt ra. Do vậy,
vô hình chung làm hạn chế quyền được đàm phán, thương lượng của NLĐ, đặt
họ ở tình huống chấp nhận dù không hoàn toàn thỏa mãn hoặc tìm một công
việc khác.
Hai là, tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15, HĐLĐ
bằng văn bản thường đã soạn thảo trước tất cả các nội dung, thậm chí người sử
dụng lao động đã ký trước, sau đó nếu người lao động không đồng ý thì không
thiết lập quan hệ lao động, còn nếu đồng ý ký tên vào bản hợp đồng lao động
thì coi như quan hệ lao động đã được thiết lập. Bằng việc soạn thảo trước nội
55
dung hợp đồng lao động, người sử dụng lao động đã thể hiện ý chí của họ là cố
định và không thay đổi. Cách thức giao kết như vậy làm cho hợp đồng lao động
giống như là một loại giao dịch đơn phương, điều đó không phản ánh đúng bản
chất của hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa hai bên. Người lao động
không được lựa chọn thỏa thuận những điều khoản trong HĐLĐ, và vì muốn
được đi làm ngay nhiều trường hợp đành nhắm mắt ký tên vào hợp đồng, thậm
chí có nhiều trường hợp còn không quan tâm hoặc đọc các nội dung được giao
kết trong HĐLĐ mà thường chỉ quan tâm đến một điều khoản duy nhất là tiền
lương. Thực tế có thể thấy, sự can thiệp của pháp luật ở đây vẫn còn thiếu sót
bởi chưa có quy định nào cấm người sử dụng lao động làm như vậy, chính vì
vậy mà tồn tại này không chỉ xảy ra ở Công ty TNHH một thành viên Điện cơ
– Hóa chất 15 mà còn là một vấn nạn chung có thể thấy ở các doanh nghiệp nói
chung, đặc biệt là các doanh nghiệp của nhà nước.
Ba là, loại HĐLĐ mà Công ty ký kết với người lao động như đã trình
bày ở phần trên là HĐLĐ không xác định thời hạn. Loại HĐLĐ không xác định
thời hạn này có rất nhiều ưu điểm nhưng cũng tồn tại những hạn chế về phía cả
NSDLĐ và NLĐ khi mối quan hệ lao động giữa hai bên không còn thuận lợi,
lúc đó bên nào muốn chấm dứt HĐLĐ cũng sẽ gây ảnh hưởng cho bên kia, vì
bản chất của loại HĐLĐ không xác định thời hạn đó là không xác định thời
điểm chấm dứt hợp đồng, và đối với loại HĐLĐ này pháp luật lao động cũng
đưa ra những điều kiện rất dễ dàng cho NLĐ khi họ muốn chấm dứt HĐLĐ đó
là chỉ cần đáp ứng được thời hạn báo trước ít nhất 45 ngày là có thể nghỉ việc,
do đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến NSDLĐ khi họ lại phải mất thời gian, tiền bạc
để đào tạo một NLĐ mới thay thế cho người vừa nghỉ việc.
Bốn là, ở Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 khi thiết
lập quan hệ lao động, NSDLĐ không áp dụng chế độ thử việc cho NLĐ. Hạn
chế ở đây là nếu không áp dụng thử việc, có thể sẽ dẫn đến mối quan hệ lao
56
động sau này không được lâu dài. Bởi thời gian làm thử sẽ giúp cho NLĐ nhận
biết rõ ràng xem công việc này có phù hợp với chuyên môn, trình độ hoặc tay
nghề của NLĐ không, NLĐ không có sự lựa chọn cho một vị trí công việc phù
hợp nhất với mình. Về phía NSDLĐ, khi tuyển dụng một số lượng lớn NLĐ
cùng một lúc, NSDLĐ không áp dụng chế độ thử việc thì sẽ không có sự lựa
chọn về mặt nhân sự phù hợp nhất, không quan sát, thử thách, đánh giá NLĐ
đó một cách khách quan được, đồng thời trong trường hợp NLĐ đó không phù
hợp với công việc, không đáp ứng được yêu cầu NSDLĐ đưa ra thì sẽ không
dễ dàng kết thúc quan hệ lao động với NLĐ đó được. Bởi theo quy định của
BLLĐ thì khi NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì cần phải đáp
ứng các điều kiện đó là: lý do chấm dứt phải hợp pháp, thời hạn thông báo trước
và trường hợp chấm dứt HĐLĐ không thuộc trường hợp pháp luật cấm đơn
phương chấm dứt. Do đó, rất khó để NSDLĐ đáp ứng đủ các điều kiện để chấm
dứt quan hệ lao động với NLĐ đó. Nếu như tồn tại quan hệ thử việc dựa trên
việc ký kết hợp đồng thử việc thì việc chấm dứt này lại rất dễ dàng cho NLĐ
cũng như cả phía NSDLĐ.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Để dẫn đến những tồn tại, hạn chế đã nêu ở phần trên, cần phải tìm hiểu
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Có thể kể ra một số các nguyên
nhân sau đây:
Thứ nhất, do tác động của quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường,
nên thị trường lao động của nước ta nói chung và Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ – Hóa chất 15 nói riêng sẽ có những biến động lớn. Đặc biệt nếu
nguồn cung lao động lớn hơn cầu thì người lao động đương nhiên rơi vào thế
bất lợi, phải chấp nhận thiệt thòi, vi phạm để có việc làm; ngược lại các doanh
nghiệp lại có lợi thế hơn hẳn nên càng dễ vi phạm pháp luật, vi phạm giao kết
hợp đồng lao động. Quan hệ giao kết hợp đồng lao động để đạt được bình đẳng
57
thỏa thuận, thương lượng, tự do quá mờ nhạt. Thay vào đó là sự quyết định đơn
phương từ phía người sử dụng lao động khiến cho cán cân công bằng, nguyên
tắc tự nguyện, thỏa thuận bị vi phạm.
Thứ hai, một số quy định của pháp luật lao động nói chung trong đó có
vấn đề giao kết hợp đồng lao động nói riêng chưa hợp lý, chưa bắt kịp với nhu
cầu thực tế. Một số chế tài của pháp luật còn lỏng lẻo, thiếu hiệu quả cho nên
khi áp dụng không tránh khỏi sự vi phạm. Hơn nữa dù các văn bản pháp luật
liên quan đến các doanh nghiệp và lao động ngày càng được hoàn thiện, nhưng
việc tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền phổ biến kiến thức, ý
thức pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật cho các chủ thể còn thiếu và yếu,
khiến nhiều trường hợp vi phạm và chấp nhận vi phạm bởi không hiểu, không biết
cách áp dụng, hay không tôn trọng, coi thường pháp luật.
Thứ ba, các cơ quan chức năng, tổ chức, đoàn thể liên quan như: cơ quan
quản lý nhà nước về lao động các cấp, công đoàn các cấp…chủ quan, chưa làm
tốt nhiệm vụ của mình trong kiểm tra, giám sát, tham mưu, tham gia bảo vệ
quyền lợi các bên trong quan hệ hợp đồng lao động. Lực lượng thanh tra lao
động quá mỏng, mức xử phạt còn nhẹ, thiếu nghiêm minh không đủ sức răn đe.
Thứ tư, người sử dụng lao động thường tự áp đặt các chính sách, chế độ
quyền lợi của người lao động, khi có mâu thuẫn hoặc kiến nghị từ phía người
lao động thì doanh nghiệp không giải quyết kịp thời, thấu tình đạt lý, khiến
người lao động thiếu gắn bó với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một bộ phận nhỏ
cán bộ, quản lý của doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu quyền
quyết định nên dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật hoặc giải quyết không hiệu
quả các vấn đề phát sinh trong quan hệ hợp đồng lao động. Thêm nữa, tại Công
ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 còn thiếu các bộ phận, các vị
trí lao động có chuyên môn, được đào tạo bài bản trong ngành pháp luật, hầu
58
hết là người lao động kiêm nhiệm, tự nghiên cứu, tìm hiểu do vậy khả năng tiếp
cận cũng như phân tích các quy định của pháp luật còn hạn chế.
Thứ năm, một số người lao động, còn thiếu hiểu biết về pháp luật lao
động, bộ phận khác hiểu biết nhưng có nhu cầu cấp thiết về việc làm; hay không
tôn trọng pháp luật, suy nghĩ đơn giản, không muốn rườm rà, bó buộc dẫn đến
việc bị vi phạm quyền lợi mà không biết hoặc đành chấp nhận giao kết hợp
đồng lao động thiếu công bằng, bình đẳng hoặc tự mình hay cùng doanh nghiệp
chủ động vi phạm pháp luật. Mặt khác, một bộ phận người lao động, theo đánh
giá chủ quan từ phía doanh nghiệp cũng như đánh giá chung từ những người
“ngoài cuộc” có ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp chưa cao như:
đi muộn về sớm, trộm cắp tài sản, nghỉ không xin phép, bỏ việc không báo
trước, không gắn bó với doanh nghiệp; khi có bức xúc không tìm người đề đạt
giải quyết mà muốn tự giải quyết ngay; không phân biệt đâu là quyền và đâu là
lợi ích chính đáng cần thỏa thuận, thương lượng; thiếu sự thông cảm chia sẻ
với doanh nghiệp lúc khó khăn…
59
Tiểu kết chương 2
Từ thực tiễn vấn đề giao kết hợp đồng lao động tại Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 cho thấy với vai trò của một doanh nghiệp
nhà nước, trực thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Công ty đã cho thấy
tư tưởng tiến bộ khi thực sự coi người lao động là trung tâm của mọi sự phát
triển của mình, luôn tôn trọng, thông cảm và khuyến khích người lao động ngày
càng hoàn thiện về kiến thức, trình độ chuyên môn, tay nghề của mình. Đời
sống của người lao động càng ngày càng được cải thiện đáng kể, từ đó cũng tạo
cho người lao động niềm tin và sự gắn bó lâu dài với Công ty. Đặc biệt trong vấn
đề giao kết HĐLĐ tại Công ty đã có được những lợi thế đáng kể như số lượng
NLĐ có trình độ, chuyên môn năm sau đều tăng hơn năm trước, NLĐ được đào
tạo, hoặc tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ trước khi làm công việc
chính…Tuy nhiên, bên cạnh những điểm đã đạt được, có thể thấy quá trình giao
kết và thực hiện HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế đáng kể, đó là những tồn tại ngay từ phía Công ty
như không chủ động, trực tiếp đàm phán thương lượng với NLĐ trước khi giao
kết HĐLĐ, đó là sự rập khuôn máy móc, thụ động trong việc thay đổi các thói
quen sẵn có đặc biệt trong việc soạn thảo HĐLĐ, với lý do là Công ty chưa có
được bộ phận chuyên môn có trình độ, chuyên môn về pháp luật, chưa thực sự
chủ động tiếp cận các quy định của pháp luật lao động... Với những tồn tại, hạn
chế đó, rất cần thiết phải có những giải pháp và kiến nghị phù hợp để giúp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết HĐLĐ tại Công ty
TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15.
60
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật về
giao kết hợp đồng lao động
3.1.1. Đảm bảo quyền tự do thỏa thuận các bên trong giao kết hợp
đồng lao động
Có thể thấy rằng pháp luật lao động hiện hành quy định sự thỏa thuận
trong giao kết hợp đồng lao động cũng tương ứng với các thỏa thuận giao kết
của hợp đồng dân sự (đều quy định về điều kiện chủ thể, hình thức, nội dung
và cách giao kết hợp đồng). Tuy nhiên, do hợp đồng lao động có những đặc
trưng nhất định khác biệt so với hợp đồng dân sự nên pháp luật lao động cần
quy định về thỏa thuận khi giao kết hợp đồng lao động phải phù hợp với các
đặc trưng đó.
Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động với người sử
dụng lao động. Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận HĐLĐ của các bên trong
quan hệ lao động chỉ thực sự có ý nghĩa khi các quy định của pháp luật nói
chung và pháp luật về hợp đồng lao động nói riêng phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội của đất nước ta. Theo tác giả, quyền tự do hợp đồng lao động của các
bên chỉ được thực hiện nếu quy định theo hướng:
- Cần tôn trọng quyền tự do định đoạt của các bên trong quan hệ. Tất cả
các thoả thuận không trái pháp luật của các bên đều được ghi nhận và đảm bảo
thực hiện.
- Cần đảm bảo sự vận hành linh hoạt, thống nhất của thị trường lao động.
Hạn chế đến mức thấp nhất các quy định có tính chất hành chính để đảm bảo
61
công tác quản lý nhà nước về lao động nói chung và quản lý lao động tại Công
ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15.
- Tự nguyện giao kết HĐLĐ phải được đặt trong mối liên hệ, gắn bó chặt
chẽ với việc điều tiết, phân công, cân đối cung - cầu lao động trên phạm vi toàn
xã hội. Vì khi quyền tự do hợp đồng lao động được đảm bảo thì người lao động
thường lựa chọn nơi làm việc có thu nhập cao, môi trường lao động thuận lợi...và
như vậy, những công việc quá nặng nhọc, chế độ lao động hoặc các quy định quá
hà khắc...sẽ khó thu hút lao động dẫn đến sự mất cân đối không chỉ về lao động
mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Công ty.
3.1.2. Đảm bảo phù hợp với những đặc điểm của thị trường lao động
Hợp đồng lao động ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc tuyển
dụng lao động. Mặt khác, kiến thức pháp luật của tổ chức, cá nhân nói chung,
của người sử dụng lao động và người lao động nói riêng được nâng cao so với
trước đây. Vì thế, trong quá trình xác lập quan hệ, có thể xảy ra hiện tượng các
bên lợi dụng kẽ hở của pháp luật, “lách luật” để trục lợi.
Pháp luật về giao kết hợp đồng lao động là cơ sở bảo vệ quyền, lợi chính
đáng của các bên tham gia quan hệ lao động, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của
cộng đồng và xã hội nói chung. Nếu không bảo vệ tốt và đề cao vai trò của
người lao động thì không khai thác được nguồn lực cho sự phát triển vì họ sẽ
kém tích cực, ít đầu tư vào sức lao động, xã hội không ổn định… Nếu bảo vệ
người lao động đến mức không tính đến yêu cầu của sự phát triển chung, chấp
nhận cả thói quen vô kỷ luật của họ hoặc thủ tiêu động cơ cạnh tranh giữa những
người lao động thì lại có thể kìm hãm sự phát triển… Hoàn thiện pháp luật lao
động phải đồng thời hướng tới hai mục tiêu: bảo vệ người lao động để ổn định
xã hội và phát triển kinh tế làm cơ sở cho tiến bộ xã hội. Điều đó đòi hỏi quá
trình hoàn thiện pháp luật lao động phải có sự điều tiết hợp lý. Nhà nước bảo
vệ người lao động cũng phải trên cơ sở phù hợp với yêu cầu của thị trường, chú
62
ý đến nhu cầu chính đáng của cả hai bên. Cải thiện các quy định pháp lý, tăng
cường hiệu lực thực thi pháp luật, có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người lao động. Tạo động lực và kích thích tính tích cực lao
động nhằm nâng cao tính sáng tạo, năng suất và hiệu quả lao động. Bên cạnh
động lực vật chất, cần quan tâm đến việc tạo động lực về tinh thần như: lương
tâm, đạo đức nghề nghiệp, sự say mê, tính công bằng xã hội… nhằm nâng cao
chất lượng toàn diện của người lao động không chỉ tại Công ty TNHH một
thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 mà còn đối với người lao động tại Việt Nam
trong tương quan so sánh trên bình diện quốc tế.
Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu của quan hệ lao động trong tình hình mới,
cần thiết phải quy định cụ thể, chặt chẽ, đầy đủ và toàn diện nội dung về giao
kết HĐLĐ. Cũng không nên cứng nhắc tất cả nội dung bắt buộc giao kết trong
hợp đồng cụ thể trong hợp đồng lao động trong pháp luật lao động hiện hành,
quy định về giao kết hợp đồng lao động.
3.1.3. Đảm bảo hội nhập với nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực lao động
Là một nước thành viên của ILO, trong điều kiện hội nhập kinh tế và
toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực, hệ thống pháp luật lao động của Việt Nam
cần tiếp cận rộng rãi hơn nữa với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Việc tiếp cận
các tiêu chuẩn lao động quốc tế không chỉ bó hẹp trong các Công ước của ILO
mà Việt Nam đã phê chuẩn mà còn phải tính đến các nguyên tắc cơ bản của
ILO như loại bỏ lao động cưỡng bức, việc làm đầy đủ và nhân văn, tự do liên
kết và thương lượng tập thể, chống phân biệt đối xử, đảm bảo các quyền cơ bản
của người lao động tại nơi làm việc…. Khi đưa các tiêu chuẩn quốc tế vào pháp
luật quốc gia sẽ làm cho người sử dụng lao động buộc phải thực hiện chúng và
điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, Công ty
TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 nói riêng hội nhập tốt hơn trong
63
việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động, các quy tắc ứng xử liên quan đến tiêu
chuẩn lao động.
Có thể thấy rõ, hội nhập nền kinh tế thế giới là quá trình tất yếu khách
quan với nhiều cơ hội và thách thức, song đối với pháp luật lao động Việt Nam
là một thách thức không nhỏ. Do đó, hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam
trong xu thế toàn cầu hoá phải đạt được các yêu cầu: bảo vệ người lao động
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo
lập mối quan hệ lao động hài hoà, góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội,
vững vàng trong hội nhập và phát triển. Chính vì thế, các yêu cầu đối với pháp
luật lao động phải được đặt trong giải pháp hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp
luật khác có liên quan trên cơ sở nguyên tắc tương thích và công bằng.
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giao kết
hợp đồng lao động
Để hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật hợp đồng lao động, bên
cạnh việc sửa đổi các quy định hiện hành của pháp luật hợp đồng lao động thì
phải bổ sung một số quy định mới về hợp đồng lao động mà Bộ luật Lao động
năm 2012 chưa quy định hoặc quy định chưa rõ. Cần khắc phục những bất hợp
lý trong giao kết hợp đồng lao động của các quy định hiện hành, đảm bảo sự
hợp lý, tính thống nhất trong điều chỉnh và thực thi pháp luật, đảm bảo sự phù
hợp với điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Sau đây, tác giả đưa ra một số
giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng lao
động:
Thứ nhất, về điều kiện đối với chủ thể giao kết hợp đồng lao động.
Khi giao kết hợp đồng lao động, tại Điều 18 BLLĐ năm 2012 có quy
định rõ ràng về việc người sử dụng lao động phải trực tiếp giao kết HĐLĐ,
không có quy định về việc được ủy quyền giao kết HĐLĐ cho người khác.
Theo lí luận chung về hợp đồng thì một chủ thể có quyền uỷ quyền cho một
64
người khác giao kết hợp đồng lao động. Bộ luật Dân sự năm 2015 còn dành
hẳn một chương với 10 điều luật để quy định về chế định này. Có thể nói, đại
diện là một chế định rất quan trọng của luật dân sự. Luật thương mại cũng cho
phép các chủ thể của hợp đồng thương mại uỷ quyền giao kết hợp đồng. Thiết
nghĩ, Bộ luật Lao động cũng không có lí do để hạn chế quyền năng này của các
chủ thể.
Do đó, BLLĐ năm 2019 đã sửa đổi bổ sung quy định này tại Khoản 3
Điều 18 về trường hợp đại diện ký kết hợp đồng lao động bên phía người sử
dụng lao động bao gồm: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc
người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật hoặc người được ủy
quyền theo quy định của pháp luật; Người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người được ủy quyền theo quy
định của pháp luật; Cá nhân trực tiếp sử dụng lao động”. Như vậy, tại BLLĐ
năm 2019 đã nêu rõ việc được ủy quyền đại diện giao kết HĐLĐ của người sử
dụng lao động, không chỉ bó hẹp trong phạm vi chỉ người đại diện theo pháp
luật của tổ chức nữa mà còn có thể ủy quyền cho người khác giao kết HĐLĐ.
Đây là điểm rất tiến bộ của BLLĐ năm 2019, giúp cho việc giao kết HĐLĐ của
các chủ thể được dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều so với trước, thực sự phù
hợp cũng như thống nhất với các quy định khác về hợp đồng tại các văn bản
pháp luật khác của Việt Nam.
Thứ hai, về trình tự xác lập hợp đồng lao động.
Trong BLLĐ năm 2012 vẫn chưa có quy định cụ thể nào về trình tự xác
lập HĐLĐ mà theo thói quen, các bên khi giao kết HĐLĐ vẫn tuân thủ theo
các quy định về trình tự xác lập hợp đồng trong BLDS năm 2015, do đó tác giả
kiến nghị cần xây dựng điều khoản cụ thể trong BLLĐ về trình tự xác lập
HĐLĐ chứ không phải là việc tuân theo luật chung để áp dụng, bởi dù cũng là
65
một loại hợp đồng nhưng HĐLĐ có những điểm đặc thù hơn so với hợp đồng
nói chung, điểm khác biệt cơ bản giữa HĐLĐ với hợp đồng dân sự đó là trong
HĐLĐ các bên quy định rất chặt chẽ, cụ thể và quan tâm đến các yếu tố của
quá trình lao động như thời giờ làm việc, trình độ của NLĐ, các vấn đề liên
quan đến vi phạm kỷ luật lao động…còn trong hợp đồng dân sự thì chủ yếu
hướng đến kết quả công việc do đó các nội dung cũng đơn giản hơn.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý của các bên trong
quá trình tuyển dụng như: Việc hứa hẹn tuyển dụng có phải là lời đề nghị giao
kết hợp đồng lao động không, khi có đầy đủ những chứng cứ về vấn đề này
phải coi đó là sự ràng buộc quyền nghĩa vụ pháp lý hay không. Khi thị trường
lao động còn nhiều bất cập như ở nước ta, thì việc không quy định vấn đề này
rất dễ gây ra sự bất lợi cho người lao động trong quan hệ hợp đồng lao động.
Thêm nữa cần phải có quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc
giải quyết khi có sự vi phạm những vấn đề có tính nguyên tắc, hiến định về
quyền tự do việc làm, quyền bình đẳng nam nữ… Trong trường hợp này nếu
người lao động khởi kiện, vụ việc được coi là tranh chấp lao động (tranh chấp
tiền quan hệ lao động). Đây là vấn đề rất đáng tham khảo để chúng ta quy định
thẩm quyền của Toà án giải quyết những tranh chấp nói trên.
Thứ ba, về hình thức hợp đồng lao động.
Trong BLLĐ năm 2012, chưa có các quy định cụ thể về một số trường
hợp đặc biệt khi giao kết HĐLĐ. Ví dụ cần bổ sung thêm các trường hợp phải
ký HĐLĐ bằng văn bản như trường hợp giao kết với NLĐ dưới 15 tuổi, với
NLĐ khuyết tật hoặc NLĐ làm công việc nặng nhọc, độc hại, hoặc giao kết qua
người đại diện của NLĐ… Trong BLLĐ năm 2012 tại Điều 16 chỉ quy định
HĐLĐ phải lập thành văn bản, trường hợp HĐLĐ dưới 3 tháng thì có thể giao
kết bằng lời nói. Vậy trong trường hợp, NLĐ dưới 15 tuổi, NLĐ khuyết tật thì
trường hợp họ giao kết HĐLĐ dưới 3 tháng mà thực hiện bằng lời nói thì có
66
thể dẫn đến trường hợp vi phạm quyền lợi của họ, trong khi họ là đối tượng
NLĐ cần được bảo vệ đặc biệt. Thiết nghĩ, trong trường hợp này cần quy định
hợp đồng lao động phải ký bằng văn bản bởi dù thời hạn của hợp đồng lao động
chỉ là 03 tháng và công việc trong hợp đồng có tính chất tạm thời nhưng rủi ro,
tai nạn lao động vẫn có thể xảy ra với người lao động. Khi đó sẽ rất khó có căn
cứ để yêu cầu trách nhiệm của doanh nghiệp với người lao động.
Bên cạnh đó, tác giả kiến nghị ngoài hình thức bằng văn bản, bằng miệng
(lời nói), cần quy định hình thức hợp đồng lao động bằng hành vi. Trong thực
tế, có nhiều trường hợp, khi hết hạn hợp đồng lao động các bên không ký lại
hợp đồng lao động và người lao động vẫn làm việc, người sử dụng lao động
vẫn trả lương… do đó các bên có quyền chấm dứt hợp đồng bất kỳ lúc nào. Tuy
nhiên, khi hết hạn hợp đồng lao động, người lao động đã yêu cầu người sử dụng
lao động ký hợp đồng lao động mới, người sử dụng lao động tuy không ký hợp
đồng mới nhưng vẫn để người lao động làm việc và trả lương cho nên nếu người
sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và người lao động
khởi kiện thì cần buộc người sử dụng lao động ký lại hợp đồng lao động theo
đúng quy định của pháp luật. Như vậy, đó cũng là một trong những hình thức
giao kết HĐLĐ bằng hành vi. Các hình thức bằng văn bản của hợp đồng lao
động cũng cần phải được thừa nhận theo hướng đa dạng, phong phú miễn là có
căn cứ cho thấy các chủ thể đã thể hiện ý chí đích thực của họ trong quan hệ.
Không nên quá máy móc, cứng nhắc về hình thức văn bản, nhất là trong điều
kiện công nghệ thông tin hiện đại hiện nay.
Thứ tư, về thời hạn của hợp đồng lao động.
Về thời hạn hợp đồng lao động quy định ở Bộ luật Lao động 2012 (Khoản
1, Điều 22) là chưa thực sự hợp lí. Đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn
từ 12 tháng đến 36 tháng: Quy định về loại hợp đồng này chưa linh hoạt, không
thoả mãn được yêu cầu thực tế. Nếu công việc hoặc dự án có thời gian thi công
67
dài 4 năm, hoặc thậm chí 15 năm thì các bên không biết áp dụng loại hợp đồng
lao động nào cho phù hợp. Quy định về loại hợp đồng cần được sửa đổi theo
hướng linh hoạt hơn, cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống và phù hợp với các
quy định khác của pháp luật.
Tuy nhiên pháp luật quy định khi hợp đồng lao động xác định thời hạn hết
hạn, nếu người lao động tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày hai bên
phải ký kết hợp đồng lao động mới, trường hợp không ký kết hợp đồng lao
động mới thì hợp đồng lao động đã giao kết từ 12 tháng đến 36 tháng sẽ trở
thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động đã giao
kết theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng trở
thành hợp đồng lao động có thời hạn là 24 tháng.
Việc quy định 3 loại hợp đồng lao động như vậy đã bó hẹp quan hệ lao
động, không phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường khi mà các quan hệ lao
động ngày càng diễn ra sôi động như hiện nay. Thực tế cho thấy, chỉ có người
sử dụng lao động mới biết được nhu cầu công việc và biết được cần xác định
thời hạn, trong trường hợp này buộc người sử dụng lao động phải ký tiếp hợp
đồng lao động xác định thời hạn thêm một lần nữa.
Việc quy định thời gian của hợp đồng lao động có thời hạn là từ 12 tháng
đến 36 tháng như vậy là quá ngắn. Điều này làm hạn chế tính linh động trong
quan hệ lao động, buộc người sử dụng lao động và người lao động phải nhiều
lần ký kết hợp đồng lao động để thực hiện việc làm có thời hạn hoàn thành trên
36 tháng. Chỉ nên quy định hợp đồng xác định thời hạn là hợp đồng có thời hạn
từ 12 tháng.
Những hạn chế trong quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao
động nêu trên đã tác động không tốt tới hiệu quả của hợp đồng lao động cũng
như quan hệ lao động: hạn chế sự linh động trong việc lựa chọn loại lao động
phù hợp với yêu cầu công việc, thậm chí có thể khiến cho các bên “lách luật”,
68
cố tình vi phạm về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lao động để sau đó yêu
cầu tuyển hợp đồng lao động vô hiệu để tìm lợi ích cho mình. Tất cả những vấn
đề này cần nhanh chóng được khắc phục để tạo nên một chế định hợp đồng lao
động hoàn chỉnh trong pháp luật lao động.
Vì vậy, về thời hạn của hợp đồng lao động tác giả kiến nghị nên sửa đồi
thành các loại hợp đồng như sau:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn .
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn 12 tháng trở lên hoặc theo thỏa
thuận của hai bên.
- Hợp đồng lao động theo mùa, hoặc theo một công việc nhất định có
thời hạn dưới 12 tháng.
Sự thay đổi như trên sẽ đảm bảo tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của
hai bên trong quan hệ pháp luật. Theo đó, các bên có toàn quyền quyết định
thời hạn của hợp đồng lao động cho quan hệ mà mình tham gia. Như vậy, ngay
kể cả loại công việc thuộc loại không xác định thời hạn, nếu muốn các bên vẫn
có thể ký kết với các loại xác định thời hạn, tất nhiên phải thật sự là tự nguyện.
Thứ năm, về nội dung hợp đồng.
Khoản 1, Điều 23 Bộ luật lao động 2012 quy định hiện tại về nội dung
chủ yếu của hợp đồng lao động còn vướng khi thi hành trên thực tế. Khoản 1
Điều 23 liệt kê quá nhiều nội dung chủ yếu mà không phải ngành nào, công
việc nào cũng có những chế độ này. Hơn nữa, các quyền lợi của người lao động
như chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề thì không phải
chủ doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ,
mới bắt đầu công việc sản xuất kinh doanh và nguồn vốn của doanh nghiệp còn
eo hẹp, thì quy định này trong hợp đồng lao động liệu rằng có “quá sức” đối
với họ hay không?
69
Việc quy định “cứng” những nội dung cơ bản của hợp đồng lao động như
vậy vô tình làm “xơ cứng” hợp đồng lao động. Thực tế cho thấy, có nhiều hợp
đồng lao động có đối tượng là việc làm đơn giản không cần có tất cả các nội
dung được quy định tại Điều 23 Bộ luật lao động 2012 còn đối với hợp đồng
lao động có tính chất vụ việc lại rất cần nhiều nội dung khác mà khoản 1 Điều
23 lại không quy định. Chẳng hạn, đối với những công việc văn phòng thì việc
bắt buộc có nội dung “trang thiết bị bảo hộ lao động” là không phù hợp. Mặc
dù các nhà làm luật đã dự liệu trường hợp hai bên “có thể giảm một số nội dung
chủ yếu của hợp đồng lao động…” nhưng điều này chỉ giới hạn trong “lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp”. Hơn nữa, các quyền lợi
của người lao động như chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng
nghề thì không phải chủ doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được. Những doanh
nghiệp quy mô nhỏ, mới bắt đầu công việc sản xuất kinh doanh và nguồn vốn
của doanh nghiệp còn eo hẹp, thì quy định này trong hợp đồng lao động liệu
rằng có “quá sức” đối với họ hay không?
Thứ 6, về vấn đề thử việc
Vấn đề thử việc trước khi giao kết HĐLĐ chính thức trên thực tế được
đánh giá là bước rất quan trọng, nhưng trong BLLĐ năm 2012 không quy định
việc thử việc là bắt buộc, do đó các Công ty thường bỏ qua bước này tiến tới
giao kết HĐLĐ chính thức luôn. Do vậy tác giả kiến nghị nên sửa đổi BLLĐ
theo hướng bắt buộc phải tiến hành quá trình thử việc trước khi tiến hành công
việc chính thức dưới dạng một điều khoản chính thức trong HĐLĐ hoặc dưới
dạng Hợp đồng thử việc. Điều này sẽ giúp các bên có giai đoạn “chuẩn bị” để
xem xét việc có tiếp tục công việc chính thức hay không một cách kỹ càng hơn.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp
đồng lao động tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15,
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
70
Một là, nâng cao hiểu biết pháp luật của người lao động và người sử
dụng lao động về giao kết hợp đồng lao động
Tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15, bộ phận NLĐ
chưa có ý thức và hiểu biết pháp luật không nhỏ, đặc biệt là pháp luật về giao
kết HĐLĐ, do đó có nhiều trường hợp NLĐ vì việc làm mà bỏ qua những quyền
lợi của bản thân đáng lẽ được hưởng. Do vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác
tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật nói chung, và pháp luật
về hợp đồng lao động.. Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn
các quy định của Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản có liên quan cho các
bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng lao động. Các trung tâm giới thiệu việc
làm cần bổ túc kiến thức về pháp luật lao động và những đặc điểm cần biết về các
loại hình doanh nghiệp cho người lao động trước khi giới thiệu họ vào làm việc
tại đây. Chính ủy, Ban chấp hành Công đoàn cần đổi mới nội dung, tập trung
làm tốt công tác định hướng, tuyên truyền và giáo dục chính trị - tư tưởng cho
người lao động. Công việc này có nhiều nội dung, song chung quy lại là tập
trung vào học tập, quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước cho người lao động. Tuy nhiên, thực tế đối tượng người
lao động Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 khá đa dạng,
trình độ, nhận thức không đồng đều. Vì thế việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến
pháp luật phải căn cứ vào từng đối tượng, từng đơn vị, hoàn cảnh cụ thể mà có
nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp.
Bên cạnh đó, để quản lý, điều phối, giám sát hoạt động lao động của NLĐ
được hiệu quả, NSDLĐ cũng cần phải học tập Bộ luật Lao động, cam kết thực
hiện nghiêm chỉnh và tôn trọng các nguyên tắc giao kết HĐLĐ, đặc biệt trong việc
đàm phán thương lượng với NLĐ cần phải trực tiếp thực hiện, có thế mới thấu
hiểu và biết được NLĐ cần gì muốn gì để điều chỉnh sao cho phù hợp hơn.
Hai là, Bổ sung chức danh hoặc bộ phận pháp chế
71
Thực tế cho thấy, tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất
15 nói riêng và các Công ty khác thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng nói
chung hiện nay vẫn chưa có vị trí hay chức danh pháp chế nào. Các vấn đề pháp
lý của các Công ty này do các nhân viên “tay ngang” tự tìm hiểu, tự nghiên cứu
và đề xuất thực hiện, chưa thực sự có những bộ phận chuyên về pháp lý để xử
lý các mối quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ lao động nói riêng. Chính vì
vậy, tác giả kiến nghị nên bổ sung chức danh pháp chế, hoặc bộ phận pháp chế
tại các Công ty của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng để chuyên thực hiện,
tư vấn và giám sát không chỉ vấn đề giao kết HĐLĐ mà cả trong quá trình thực
hiện HĐLĐ sao cho đúng với các quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi
ích của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Bên cạnh đó các
chức danh pháp chế này còn giúp cho các Công ty thực hiện các quy định của
pháp luật, các loại hợp đồng khác được chính xác và đầy đủ hơn.
Ba là, thắt chặt mối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về lao
động ở địa phương
Hiện nay, mối quan hệ pháp luật giữa các cơ quan thuộc Tổng cục Công
nghiệp Quốc phòng với các cơ quan chức năng, tổ chức, đoàn thể liên quan
như: cơ quan quản lý nhà nước về lao động các cấp, công đoàn các cấp… còn
thiếu sự liên kết chặt chẽ, bên cạnh đó còn có sự chủ quan, chưa làm tốt nhiệm
vụ của mình trong kiểm tra, giám sát, tham mưu, tham gia bảo vệ quyền lợi các
bên trong quan hệ hợp đồng lao động của các cán bộ được giao nhiệm vụ. Do
vậy tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật hợp đồng lao động, đặc biệt là trong quá trình giao kết HĐLĐ. Nhằm
không chỉ để kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm trong việc thực hiện pháp
luật lao động mà việc kiểm tra, thanh tra còn có tác dụng phòng ngừa các hành
vi vi phạm xảy ra trong quá trình giao kết HĐLĐ. Để làm tốt công tác thanh
72
tra, kiểm tra thì yêu cầu trước hết phải có một đội ngũ thanh tra có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật vững chắc. Việc
nâng cao năng lực của thanh tra lao động càng trở nên cần thiết hơn khi lực
lượng lao động và số doanh nghiệp ngày càng tăng, trong khi số lượng thanh
tra lao động lại luôn hạn chế. Chính vì vậy, cần phải xây dựng đội ngũ này sao
cho họ có đủ năng lực thực hiện trách nhiệm của mình. Thứ hai, cần xây dựng mối đoàn kết, gắn bó giữa các cấp liên đoàn lao
động, sở Lao động – Thương binh và Xã hội, các cơ quan có thẩm quyền về
quản lý lao động với người lao động. Mặt khác, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp
chính quyền, đặc biệt là chủ sử dụng lao động để xây dựng các thiết chế văn
hóa, tạo điều kiện để người lao động nâng cao đời sống văn hóa tinh thần (như
đều có phòng đọc sách, báo, thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa- văn
nghệ, thể dục thể thao...).
Bốn là, gắn kết, cải thiện và nâng cao mối quan hệ giữa người động với
người sử dụng lao động
Công đoàn là tổ chức đại diện cho quyền lợi của NLĐ, tổ chức này cần
phải tham gia hơn nữa vào việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, đặc biệt trong giai
đoạn giao kết HĐLĐ, cần phải đứng ra đàm phán, thương lượng với NSDLĐ
khi thấy rằng quyền lợi của những NLĐ trong tổ chức mình chưa được đảm
bảo. Đồng thời Công đoàn cần phải giúp NLĐ nâng cao nhận thức để thực hiện
tốt quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Cần chú trọng nâng cao vai trò, chất lượng
hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp. Tổ chức công đoàn
phải thực sự làm tròn vai trò người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động, phối hợp với chủ sử dụng lao động làm tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức cho công nhân lao động; đẩy mạnh
73
thực hiện việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; định kỳ tổ chức
đối thoại tại doanh nghiệp theo quy định.
Tiểu kết chương 3
Qua những đề xuất và kiến nghị trên có thể thấy, việc hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả của pháp luật về giao kết HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành
viên Điện cơ – Hóa chất 15 cần phải tiếp cận từ đặc điểm, bản chất của các
quan hệ lao động tại Công ty này, do đó các giải pháp đến từ việc cải thiện,
nâng cao mối quan hệ pháp luật giữa NLĐ với NSDLĐ, nâng cao đời sống về
cả vật chất và tinh thần của người lao động làm cái gốc cho mọi sự phát triển
của Công ty. Bên cạnh đó, từ những bất cập của pháp luật về giao kết HĐLĐ
đề xuất các giải pháp như sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong BLLĐ năm
2012 sao cho phù hợp với quan hệ lao động thực tế hiện nay đồng thời góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Qua các kiến nghị, giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật lao động cũng như để nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về giao kết HĐLĐ tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ –
Hóa chất 15 tác giả mong muốn phần nào đó cải thiện được những hạn chế, tồn
tại về vấn đề giao kết HĐLĐ tại Công ty này, từ đó làm điển hình nhân rộng ra
các Công ty khác thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.
74
KẾT LUẬN
Vấn đề giao kết HĐLĐ hiện nay đã được các tổ chức, cá nhân thực hiện
nghiêm túc và tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Thực tế các quan hệ
lao động giữa NLĐ và NSDLĐ tại các doanh nghiệp nói chung ngày càng thân
thiện, gắn bó hơn nhờ các quy định tương đối chặt chẽ của pháp luật. Các quy
định này giúp cho hai bên một mặt hoàn toàn có thể tự thỏa thuận với nhau các
điều kiện sao cho cả hai bên cùng có lợi, mặt khác cũng có những quy định bắt
buộc hai bên phải tuân thủ theo như các quy định về lương, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi, chế độ nghỉ hàng năm, nghỉ không lương, vấn đề thử việc,
hay vấn đề giải quyết tranh chấp…để không làm tổn hại đến quyền lợi của nhau.
Tại Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 việc tuân thủ các
quy định của BLLĐ năm 2012 về vấn đề giao kết HĐLĐ được các bên thực
hiện tương đối chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những trường hợp
việc thực hiện này không được chính xác và đầy đủ khiến cho một trong hai
bên bị tổn hại. Việc hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật lao động về
vấn đề giao kết HĐLĐ, cũng như tăng cường các mối quan hệ giữa người lao
động, với người sử dụng lao động, đặc biệt cần có sự phối hợp quản lý của các
cơ quan nhà nước về lao động sẽ giúp cho mối quan hệ lao động tại không chỉ
Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 được cải thiện hơn nữa,
mà còn giúp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết HĐLĐ của cả
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng cũng như các doanh nghiệp khác trên cả
nước.
75
1. Nguyễn Hữu Chí (2002), Hợp đồng lao động trong cơ chế thị trường ở
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường đại học luật Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Chí (2013), “Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao
động năm 2012 từ quy định đến nhận thức và thực tiễn”, Tạp chí Luật học
số 3.
3. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị định
44/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động về hợp đồng lao động.
4. Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 (2017), Báo cáo
tổng kết hoạt động năm 2017
5. Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 (2018), Báo cáo
tổng kết hoạt động năm 2018
6. Công ty TNHH một thành viên Điện cơ – Hóa chất 15 (2019), Báo cáo
tổng kết hoạt động năm 2019
7. Đặc san tuyên truyền (2011), Thực tiễn 15 năm thi hành Bộ luật Lao động
kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra, hội đồng phối hợp công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (số 11), Hà Nội.
8. Nguyễn Thúy Hà (2011), Trung tâm Thông tin khoa học thuộc Viện nghiên
cứu Lập pháp (2011) đã chủ trì nghiên cứu đề tài cấp cơ sở “Hợp đồng
lao động trong Bộ luật lao động – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”,
Cổng thông tin điện tử Viện nghiên cứu Lập pháp.
9. Khoa luật Đại học Cần Thơ (2012), Giáo trình Luật Lao động cơ bản,
NXB Đại học Đại học Cần Thơ.
10. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình luật Lao động Việt
Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
76
11. Lưu Bình Nhưỡng (1997), “Quá trình duy trì và chấm dứt hợp đồng lao
động”̣, Tạp chí Luật học, số 3.
12. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động 2012, Hà Nội.
13. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự 2015, Hà Nội.
14. Quốc hội (2019), Bộ luật Lao động 2019, Hà Nội.
15. Lê Thị Hoài Thu (2012), Đề tài nhóm B-đại học quốc gia Hà Nội “Thực
trạng pháp luật về quan hệ lao động ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện”.
16. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), “Một số nét về lao động và sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Bản tin thị trường
lao động – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
17. Tổ chức lao động quốc tế (1996), Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các
khái niệm liên quan, văn phòng lao động quốc tế Đông Á
(ILO/EASMAT), Băng Cốc.
18. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1994), Chính sách xã
hội những vấn đề pháp lý, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Trường Đại học luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật lao động Việt Nam,
Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2005.
20. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật lao động Việt Nam,
nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2008.
21. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật lao động Việt Nam, Nhà xuất
bản Công an nhân dân năm 2011, Hà Nội.
22. Paul Pieschi Vi vet (1993), Contrat de Travail (Existence - Foramtion),
Dalloz, Paris.
23. Steckler (1996), Kompendium Arbeitsrecht und Sozialversicherung,
4.Auflage, Bielefeld.
77