intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

18
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN GIA PHONG KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN GIA PHONG KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN Ngành:Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO Hà Nội - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ......................................................................................................... 6 1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ...... 21 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ....... 28 Chương 2; QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN...... 31 2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự .......................................................... 31 2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên .......................... 41 Chương 3; ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN .................................................................................................. 56 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên ....................................................................................................... 56 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng .................................................................... 60 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự THADS Thi hành án dân sự CHV Chấp hành viên THA Thi hành án
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thi hành án dân sự (THADS) thì cưỡng chế thi hành án là một trong những biện pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế, tại Điều 106, Hiếp pháp năm 2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lựcpháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.” Thi hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã hội, do đó đòi hỏi các ngành, các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời để tìm ra giải pháp đúng đắn cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan trọng của hoạt động thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như sau: “xây dựng cơ chế đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì biện pháp kê biên tài sản là phức tạp và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân sự - Một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ cho thấy công tác thi hành án dân sự đã dần đi vào lề lối. Thể hiện tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các kết quả đạt được vấn đề áp dụng biện pháp kê biên tài sản từ thực tiễn thành phố Hưng Yên vẫn còn những khó khăn vướng mắc, bất cập nhất định, như nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi hành; việc áp dụng 1
  7. biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản còn tồn tại..., các nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp luật về kê biên tài sản. Hay công tác phối hợp kê biên tài sản còn chưa được chính quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự chưa được quan tâm tốt. Trong quá trình THADS, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định của Tòa án nhưng khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ, không tự nguyện thi hành thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế để thi hành án. Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành, các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước. Chính vì những lập luận trên, học viên quyết định chọn vấn đề: Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cần quan tâm chú trọng đến các công trình bài viết sau: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu năm 2011. “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm 2010; “Về kê kiên, xử lý tài sản” của TS Nguyễn Thanh Thủy và Th.S Lê Thị Kim Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012. 2
  8. - Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy. - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” tác giả Lại Anh Thắng. - Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam” tác giả Lê Anh Tuấn năm 2014. - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, “Áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành án dân sự. Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề liên quan về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành án dân sự hiện hành của Việt Nam đặc biệt với thực tiễn áp dụng tại một địa phương là thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. - Phân tích về pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. 3
  9. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tôi tập trung nguyên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng như khái niệm, đặc điểm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng, vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng; các quy định của Luật THADS về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng và thực tiễn thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự. Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trong chương 1 luận văn, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp logic. Trong chương 2 và chương 3, luận văn nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp sau: - Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận văn. - Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ thực trạng thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản, tìm hiểu các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 4
  10. - Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực tiễn sâu sắc về cưỡng chế kê biên tài sản. - Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng trong tiến trình thực hiện luận văn để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận về những nội dung nghiên cứu... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, góp phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án dân sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự. Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương chính sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên. 5
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng 1.1.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Quan hệ tín dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng vay. Thông thường, để được vay vốn tại các TCTD, khách hàng phải có tài sản hoặc có người bảo lãnh để đảm bảo, dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, và người bảo lãnh cũng phải có tài sản để cho nghĩa vụ bảo lãnh, tài sản đó được hiểu là tài sản bảo đảm. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp lý cơ bản như sau: (i) Tài sản phải trị giá được bằng tiền; (ii) Tài sản là những đối tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có cách thức để quản lý. Theo Từ điển Luật học, tài sản bảo đảm là “tài sản được bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc …” Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đề cập đến khái niệm tài sản bảo đảm, theo đó tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Cụ thể hóa quy định này, Khoản 7 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10 6
  12. tháng 4 năm 2012 đã quy định “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.” Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch. Như vậy có thể thấy phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm được mở rộng, không chỉ là những tài sản phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm rồi mà còn bao gồm cả những tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản có thể thu khác.… chính là những tài sản mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác lập, thì những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Tài sản bảo đảm tiền vay có những nét đặc trưng cơ bản. Thực chất của bảo đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của tài sản làm bảo đảm để trả nợ thay cho các khoản vay không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy, tài sản bảo đảm tiền vay phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hoá, có nghĩa là khi chuyển giao quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá trị để trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có tài sản làm bảo đảm nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị khoản vay, có thị trường tiêu thụ cho hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hay nói cách khác, để ngân hàng chấp thuận một loại bảo đảm tín dụng nào đó, nó phải thoả mãn các điều kiện sau: Phải dễ dàng xác định; Phải có giá trị và tuổi thọ tương đối dài; Ngân hàng phải có khả năng định giá phù hợp với giá trị của tài sản; Phải dễ bán; Phải có một thị trường hiện tại của nó. Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong quan hệ đó có được thế chủ động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay. 7
  13. Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)". Như vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015. Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việcầmột bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, bản chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng (bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm cố không phải là bên vay vốn mà là người khác. 8
  14. Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014, theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó. Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặcầnhà ở hình thành trong tương lai không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý. Tài sản hình thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời điểm giao dịch. Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc tổ chứcầnhất định trong giao dịch về tài sản đó. Có nghĩa là tài sản hình thành trong tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành. 1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà nước (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình, 9
  15. đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phụcầmà phải giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình; chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lựcầnhà nước bắt phải tuân theo". Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm hai từ pháp luật: "Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo pháp luật". Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì. Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định, theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộcầmọi người phải tuân theo luật, lệ... đã đặt ra. Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án. Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế hành chính đượcầuBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được 10
  16. quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản, khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức… Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định tại Điều 128 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp kê biên tài sản áp dụng đối với bị can, bị cáo... Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác.... Ngoài ra cơ quan THADS cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản …. Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án. Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế THADS là biện pháp sử dụng quyền lựcầnhà nước để buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lựcầnhà nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của 11
  17. pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại. Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án. Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá 10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc 12
  18. dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án. Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” “Biên viết lên trang giấy”... Hiện nay, kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên. Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có một số cơ quan Nhà nước được nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ. Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì kê biên được hiểu là một trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, khi Chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Ở đây yếu tố không tự nguyện thi hành án không đồng nghĩa với việc, người phải thi hành án vi phạm pháp luật thi hành án, bởi vì nhiều trường hợp người phải thi hành án rất muốn bán được tài sản để trả nợ nhưng không thể bán được vì yếu tố khách quan. 13
  19. Vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản, đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong hoạt động THADS kê biên được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính và toà án, quyết định của tòa án giải quyết pháp sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế chỉ đặt ra khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình. Khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê biên tài sản tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Cũng giống như cưỡng chế, kê biên tài sản Nhà nước cũng trao cho các cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp… trong đó có Chấp hành viên cơ quan THADS. Sự khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do Chấp hành viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự. Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ. 14
  20. 1.1.3. Đặc điểm của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Cũng như kê biên tài sản nói chung, kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi hành án phải có tài sản để thi hànhữnghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện, nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản. Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam có một số đặc điểm như sau: * Mang tính quyền lực của Nhà nước, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên là cá nhân, cơ quan được nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước. Ở bất cứ một Nhà nước nào trên thế giới đều có Bộ máy Nhà nước được phân chia thành ba phân nhánh quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan Nhà nước được lập ra để thực hiện quyền lực nhà nước. Hệ thống cơ quan THADS được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương bao gồm: Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư Pháp, cấp thành phố có Cục THADS tỉnh, cấp huyện có Chi cục THADS huyện. Ngoài ra còn có cơ quan THADS trong Quân đội đó là Cục thi hành án thuộc Bộ quốc phòng, Phòng thi hành án thuộc Quân khu. Hệ thống cơ quan THADS này thuộc phân nhánh các cơ quan hành pháp thực hiện quyền hành pháp. Nhà nước trao cho Hệ thống cơ quan THADS thi hành về phần dân sự của bản án, quyết định của Tòa án. Hệ thống cơ quan thi hành án này hoạt động thông qua đội ngũ các bộ, công chức và người lao động. Tuy nhiên không phải ai cũng được nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng nói riêng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung, Nhà nước chỉ trao cho người có chức danh, trong đó có chức danh Chấp hành viên. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0