Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay
lượt xem 12
download
Đề tài nghiên cứu hân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CHÍ LINH KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CHÍ LINH KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Thị Thương Huyền HÀ NỘI, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Chí Linh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT ........................... 6 1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu ...................... 6 1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ......................................................................................... 10 1.3. Kinh nghiệm của hải quan một số nước trong kiểm soát phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và bài học cho Việt Nam ................................ 16 Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................................................................................................. 24 2.1. Thực trạng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất trong thời gian qua ở Việt Nam ......................................................................................... 24 2.2. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ...................................... 25 2.3. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất trong thời gian qua ở Việt Nam .................................................. 31 2.4. Đánh giá thực trạng công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam ................................. 42 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HẢI QUAN THEO PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM ........................................................ 56 3.1. Quan điểm và định hướng kiểm soát hải quan đối phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam trong thời gian tới ................................ 56 3.2. Những thuận lợi và thách thức của công tác kiểm soát Hải quan đối với mặt hàng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ............................. 58 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ............................................ 61 3.4. Một số đề xuất và kiến nghị ...................................................................... 72 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT EU: European Union - Liên minh châu Âu WTO: World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới GATT: General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
- DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢNG Hình 1.2: Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan với nhau .............................................21 Bảng 2.1. Số liệu nhập khẩu phế liệu năm 2017, 2018 và 2019. ..............................25 Biểu đồ 2.4. Kết quả xử lý hình sự Ngành hải quan .................................................41 Hình 3.1. Mô hình dữ liệu tập trung..........................................................................65 Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2015-2019..........84 Biểu đồ 2.2. Số lượng container phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam 2015-8/2018 ...84 Bảng 2.2. Số liệu nhập khẩu phế liệu nhựa năm 2017 và 2018. ...............................85 Bảng 2.4. Phối hợp với lực lượng công an qua các năm...........................................85
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Việc tái chế, sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được bắt đầu từ rất sớm ở trên thế giới, ngày nay với nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức cùng với xu hướng phát triển bền vững trên khắp toàn cầu, việc tái sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được khuyến khích và xem xét là một trong những chính sách bền vững trong phát triển. Do đó, nhiều nước trên thế giới cho phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những mục đích nêu trên một số hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay đang lợi dụng danh nghĩa xuất, nhập khẩu phế liệu để chuyển chất thải vào các quốc gia khác đặc biệt các quốc gia đang phát triển. Tại Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế nên vẫn cần một số loại phế liệu như nhựa, giấy...để tái chế, phục vụ hoạt động sản xuất trong khi nguồn nguyên liệu, phế liệu trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu của một số ngành sản xuất nên việc nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài về làm nguyên liệu sản xuất là một nhu cầu thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kiểm soát về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Ngày 25/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 448/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020. Đối với công tác kiểm soát hải quan, Thủ tướng nhấn mạnh cần hoàn thiện và đổi mới công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại hướng tới xây dựng lực lượng chống buôn lậu tinh nhuệ đáp ứng tình hình mới. Ngày 19/7/2016, Bộ Trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số 1614/QĐ-BTC về kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2016-2020. Kế hoạch đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm soát 1
- hải quan về công tác cán bộ, điều kiện bảo đảm và việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trong công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu. Trước tình hình trên, Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính (Cơ quan hải quan) cần đưa ra các giải pháp về chính sách quản lý mặt hàng này đó là tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện vào phục vụ sản xuất đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm các hành vi nhằm đưa rác thải, chất thải vào nước ta, gây ô nhiễm môi trường, không để Việt Nam trở thành “bãi rác” của nước khác và của thế giới. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu làm nguyên liệu sản xuất từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường công tác kiểm soát hải quan đối với mặt hàng này là vấn đề vừa có tính thời sự, khoa học và thực tiễn. Do vậy tôi đã chọn “Kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là một vấn đề khó và mang tính chất chuyên sâu, vì vậy có ít công trình khoa học nghiên cứu. Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu cho thấy trong thời gian qua chưa có luận văn, công trình nghiên cứu nào về công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như sau: - “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế của cục Hải quan Thanh Hóa đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu” của Đỗ Thị Hồng và Luận văn thạc sỹ 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý thuế của cơ quan hải quan đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với nguyên liệu này chủ yếu là linh kiện, phụ kiện, nguyên vật liệu (mới) cho hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu và chỉ một phần nhỏ là phế liệu. Luận văn có phạm vi nghiên cứu hẹp chỉ ở một đơn vị là Cục Hải quan tỉnh Thanh Hóa. - Nguyễn Thị Khánh Ly - Luận văn thạc sỹ 2015 “Quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu thép phế liệu ”. Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá về hoạt động quản lý nhà nước đối với mặt hàng thép phế liệu giai đoạn 2009-2014. Đối với cơ quan quản lý nhà nước Luận văn tập trung chủ yếu cơ quan đó là Bộ tài nguyên và Môi trường. Các văn bản pháp luật Luận văn nghiên cứu hiện nay cơ bản đã hết hiệu lực thi hành hoặc đã sửa đổi, bổ sung. 2
- - Nguyễn Xuân Tạo - Luận án thạc sỹ 2017 “Pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam”. Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu; thực trạng pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam và khái quá tình hình thực thi pháp luật môi trường giai đoạn 2015-2017. - Nguyễn Văn Cẩn - Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2017 “Hoàn thiện thể chế nâng cao hiệu qủa công tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan”. Đề tài tập trung vào công tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan, trong đó có phân tích một số thủ đoạn của đối tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép phế liệu nhập khẩu. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như Luận văn Tiến sỹ năm 2007 của Nguyễn Văn Phương “Pháp luật về môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu của Việt Nam”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2009 của TS. Nguyễn Anh Tuấn “Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn phế liệu và đề xuất các giải pháp kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất” ... và các bài báo, bài viết liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy các công trình đã được nghiên cứu tập chung nghiên cứu các khía cạnh như thuế, điều kiện nhập khẩu mà chưa nghiên cứu, đánh giá tổng thể về công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu phế liệu cơ bản đã có sự thay đổi. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam. Nhiệm vụ cụ thể: - Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu. - Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam. 3
- - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các quy định pháp luật điều chỉnh đối với phế liệu nhập khẩu và các quy định của pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kiểm soát của hải quan Việt Nam đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật và các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật, thu thập, nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Luận văn để làm rõ những khoảng trống cần nghiên cứu của luận văn; - Phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở chương 1 để làm rõ các vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu.; - Phương pháp thu thập, thống kê số liệu (từ các website về cơ sở dữ liệu luật như:http://www.luatvietnam.vn;http://moj.gov.vn;http://quochoi.vn; http://chinhphu.vn;http://congbao.chinhphu.vn; https://www.customs.gov.vn/default.aspx; Số liệu thống kê từ Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục giám sát quản lý về hải quan, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê thuộc Tổng cục Hải quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường….); - Phương pháp so sánh, đối chiếu, đánh giá được sử dụng chủ yếu ở chương 2 nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam; - Phương pháp phân tích, luận giải, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở chương 3 nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác 4
- kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Về mặt thực tiễn: Góp phần làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và thực tiễn kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam cho hải quan Việt Nam 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương, cụ thể: Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam. Chương 2. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát hải quan theo pháp luật đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam 5
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT 1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu 1.1.1. Sự cần thiết khách quan kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu Phế liệu là một trong những loại hàng hóa đặc biệt, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà Nhà nước có những chính sách ngoại thương đặc thù với loại hàng hóa này. Trong những năm qua, bên cạnh việc tái chế chất thải, tận dụng phế liệu phát sinh trong nước làm nguyên liệu sản xuất, để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của một số ngành sản xuất, Nhà nước đã cho phép nhập khẩu phế liệu với các điều kiện quy định cụ thể tại Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu nếu không được quản lý, kiểm soát chặt chẽ sẽ bị lợi dụng để đưa chất thải vào nước ta, gây ô nhiễm môi trường. Trước thực tế một số nước (là thị trường nhập khẩu phế liệu lớn của thế giới) đã hạn chế, cấm nhập khẩu một số loại phế liệu tạo nên sự dịch chuyển lượng lớn phế liệu nhập khẩu vào các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam và việc kiểm soát quy trình nhập khẩu, trung chuyển, quá cảnh hàng hóa là phế liệu chưa chặt chẽ dẫn đến tồn đọng lượng lớn lô hàng phế liệu nhập khẩu không xác định được chủ hàng tại các cảng biển nước ta, nhất là tại cảng Hải Phòng và Tân Cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu phế liệu, dây chuyền công nghệ sản xuất, tái chế nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ là kẽ hở để nước ta có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận chất thải và công nghệ sản xuất, tái chế lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường từ các nước khác trên thế giới. Do đó cần thiết phải tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu từ xa, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hải quan là một trong những vấn đề được các Nhà nước quan tâm và tiến hành cải cách thủ tục hành chính, xem đó như là một biện pháp để thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Thủ tục hải quan ngày 6
- càng đơn giản hoá, thông thoáng hơn nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Lợi dụng các thủ tục thông thoáng về Hải quan trong xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, những đối tượng buôn lậu luôn tìm mọi cách để buôn lậu, vận chuyển trái phép phế liệu qua biên giới, bằng nhiều phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi như làm giả giấy phép, thông báo phế liệu nhập khẩu, nhập khẩu phế liệu không đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn,... gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của Nhà nước và ảnh hưởng đến môi trường, đời sống nhân dân. Hải quan với nhiệm vụ là cơ quan “bảo vệ biên giới” thực hiện nhiệm vụ “gác cổng cho nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải. Theo quy định của pháp luật Việt Nam phế liệu là loại hàng hóa nhập khẩu có điều kiện, chịu sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan hải quan. Để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực đến nền kinh tế thì cần thiết phải kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. 1.1.2. Khái niệm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu Trước đây, khái niệm kiểm soát hải quan được hiểu thuần túy là hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại của lực lượng hải quan. Theo đó, trong một thời gian dài, khái niệm kiểm soát hải quan đồng nghĩa với công tác chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Theo từ điển tiếng Việt, kiểm soát hải quan có hai nghĩa: xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái quy định; đặt trong quyền hạn của mình. Theo Công ước của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) – Công ước về đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan có khái niệm: “Kiểm soát hải quan (Customs control) là các biện pháp được cơ quan hải quan tiến hành nhằm bảo đảm thực thi pháp luật hải quan.” Theo khái niệm này, công tác kiểm soát hải quan có phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có mục đích đảm bảo cho các đối tượng chịu sự quản lý về hải quan tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hải quan. Ở một số nước, trong một số trường hợp, thuật ngữ “customs control” còn được dùng trong ngôn ngữ thông thường với hàm nghĩa “việc Nhà nước tiến hành các thủ tục, biện pháp cần thiết để đảm bảo hàng hóa, phương tiện được xuất ra hay nhập vào một quốc gia theo đúng các quy định hiện hành”. 7
- Theo quy định tại khoản 11 Điều 4 Luật Hải quan năm 2014, “Kiểm soát hải quan là biện pháp tuần tra, điều tra, xác minh hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về hải quan.” Theo quan niệm trên thì kiểm soát hải quan là một hoạt động không phải chỉ là một biện pháp nghiệp vụ hải quan cụ thể mà nó là một số các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan hải quan để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi vi phạm pháp luật hải quan. So với Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999, khái niệm về kiểm soát hải quan của Hải quan Việt Nam cụ thể, rõ ràng hơn và chỉ tập trung vào hoạt động của ngành Hải quan nhằm phòng, chống buôn lậu và các hành vi vi phạm pháp luật hải quan mà không bao hàm các hoạt động mang tính quản lý nhà nước như kiểm tra hải quan, giám sát hải quan. Như vậy, kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là việc cơ quan hải quan áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu, tiến hành điều tra, xác minh và xử lý vi phạm (nếu có) đảm bảo chính sách quản lý nhà nước đối với mặt hàng này được thực thi trên thực tế. 1.1.3. Đặc điểm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu Hiện nay, mặt hàng phế liệu là một trong những mặt hàng trọng điểm chịu sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt trong quá trình làm thủ tục hải quan có một số đặc điểm chính sau: Thứ nhất, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu phế liệu được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan thực thi pháp luật, hoạt động kiểm soát hải quan đảm bảo chính sách quản lý của nhà nước đối với mặt hàng phế liệu khi nhập khẩu được thực thi trên thực tế, đảm bảo nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định, đúng mục đích và đúng tối tượng có nhu cầu. Thứ hai, tổ chức và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, bắt giữ và xử lý các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi vi phạm khác thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng kiểm soát hải quan trong đó có các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, pháp luật bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu. 8
- Nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đã được Luật Hải quan 2014 giao cho cơ quan hải quan các cấp tổ chức thực hiện và việc thực hiện nhiệm vụ này được giao cho lực lượng chuyên trách thực hiện đó là lực lượng kiểm soát hải quan. Để thực hiện thẩm quyền của cơ quan hải quan trong việc áp dụng các biện pháp phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, Điều 89 Luật Hải quan năm 2014 trao cho cơ quan hải quan những thẩm quyền như tổ chức lực lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan, thu thập thông tin trong nước và ngoài nước liên quan đến hoạt động hải quan để chủ động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phục vụ thông quan hàng hóa và kiểm tra sau thông quan; phối hợp với các cơ quan hữu quan bảo vệ bí mật về người cung cấp thông tin các vụ buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật; thực hiện kiểm soát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải; chủ trì, phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện các hoạt động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong địa bàn hoạt động hải quan; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để phục vụ việc kiểm tra, điều tra, xác minh hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.... Ngoài ra, cơ quan hải quan có quyền xử lý vi phạm pháp luật hải quan (xử lý vi phạm hành chính, xử lý hình sự) theo quy định pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Tất cả thẩm quyền nhà nước trao cho lực lượng kiểm soát hải quan nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan, đảm bảo được quyền “kiểm soát biên giới” giữ gìn trật tự quản lý kinh tế ngoại thương. Thứ ba, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu chỉ trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật hải quan năm 2014 “Lãnh thổ hải quan gồm những khu vực trong lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi Luật hải quan được áp dụng” Theo quy định tại Điều 7 Luật Hải quan năm 2014 địa bàn hoạt động hải quan được xác định bao gồm khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế; cảng biển... Trong địa bàn hoạt động 9
- hải quan, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với hàng hóa, phương tiện vận tải và xử lý vi phạm pháp luật về hải quan. Để xác định ranh giới, chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2015/NĐ-CP quy định chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; trách nhiệm phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 12/2018/NĐ-CP). Việc xác định địa bàn hoạt động hải quan của cơ quan hải quan có ý nghĩa rất lớn tạo cơ sở để cơ quan hải quan xác định ở đâu, khi nào cơ quan hải quan sẽ chủ trì trong hoạt động kiểm soát, đấu tranh và xử lý vi phạm trong lĩnh vực hải quan và khi nào cơ quan hải quan là cơ quan phối hợp. 1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất Theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014: “Phế liệu là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác”. Bên cạnh việc hiểu khái niệm phế liệu, chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm phế liệu với phế thải (hay chất thải) vì trên thực tế, sự không rõ ràng giữa 2 khái niệm này trở thành khe hở cho tình trạng nhập khẩu trái qui định, nhập khẩu chất thải vào Việt Nam. Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014: “Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Còn “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”. Mặc dù tại định nghĩa này, sự khác biệt giữa chất thải và phế liệu chưa được làm rõ, tuy nhiên, có thể thấy điểm khác nhau cơ bản nhất giữa phế liệu và phế thải là: phế liệu có giá trị sử dụng, có thể làm nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất, trong khi đó, chất thải thì không có giá trị sử dụng vì không thể sử dụng cho bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả mục đích làm nguyên liệu sản xuất. Có 2 nguồn cung cấp phế liệu là thu mua trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài. Ở Việt Nam, trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, đa số các phế liệu được nhập khẩu từ nước ngoài do việc thu gom trong nước không đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất tại các ngành. Ví dụ ngành thép, nếu 10
- trước đây việc thu mua trong nước cung ứng phần lớn cho các doanh nghiệp tái chế thì đến nay, nguồn cung ứng trong nước ngày càng chiếm tỷ lệ ít hơn do: Thứ nhất: nguồn sắt thép phế liệu chiến tranh đã dần dần bị khai thác hết; Thứ hai: do là một nước đang phát triển, đặc biệt là công nghiệp chưa phát triển, chính vì vậy, sắt thép phế liệu có nguồn gốc từ các vật liệu tận dụng là rất hạn chế. Chính bởi vậy, phế liệu có nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng lượng phế liệu cung cấp cho các nhà sản xuất. Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, phế liệu nhập khẩu là loại hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép, điều kiện, thuộc phạm vi quản lý chuyên ngành của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường thì phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định. Tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định về kho bãi, nhà máy, công nghệ… Thứ hai, phế liệu nhập khẩu bị áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn từ xa trước khi làm thủ tục hải quan Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn từ xa giúp cơ quan hải quan đánh giá sơ bộ và đưa ra các biện pháp cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu. Đối với các hàng hóa mà phải đáp ứng điều kiện nhập khẩu, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa nguy hiểm như phế liệu, hóa chất độc hại, hàng hóa nhiễm chất phóng xạ… nếu không thỏa mãn điều kiện thì sẽ không được xếp dỡ xuống cảng, để tránh việc “ùn tắc”, tồn đọng tại cảng biển hoặc có phương án trong việc kiểm soát hàng hóa để sự cố xảy ra. Thứ ba, Phế liệu nhập khẩu là mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành vì vậy thông thường phải kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan hoặc kiểm tra thực tế hàng hóa. Theo hệ thống VNACC/VCIS ở Việt Nam hiện nay khi làm thủ tục hải quan, phế liệu nhập khẩu được phân luồng vàng (kiểm tra hồ sơ) hoặc luồng đỏ (kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa). Việc phân luồng hàng hóa trong quá trình làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ, thủ tục và hình thức hữu hiệu giúp cơ quan Hải quan thực hiện việc giám sát, kiểm tra và quản lý hàng hóa ra và vào lãnh thổ Việt Nam. Có nhiều tiêu chí quản lý rủi ro tác động ảnh hưởng đến việc phân luồng như tiêu chí tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, chính sách quản lý mặt hàng đối 11
- với hàng hóa,... các tiêu chí này được tích hợp trên hệ thống và khi người khai hải quan khai thì hệ thống sẽ tự động phân luồng. Đối với phế liệu nhập khẩu tác động, ảnh hưởng đến môi trường thuộc danh mục hàng hóa nhập khẩu có điều kiện theo chính sách quản lý chuyên ngành. Do đó, việc phân luồng đối với các tờ khai nhập khẩu các loại hàng hóa này thì mức thấp nhất là mức 2 - luồng vàng và trong những thời điểm nhất định khi Chính phủ có các biện pháp siết chặt nhập khẩu thì các mặt hàng này cơ bản được phân luồng ở mức 3 - luồng đỏ, ví dụ trong giai đoạn từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2018 khi Chính phủ thực hiện các biện pháp siết chặt hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất thì tất cả các tờ khai nhập khẩu mặt hàng này đều được hệ thống phân luồng đỏ. Thứ tư, về hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Do đây là hàng hóa ảnh hưởng đến môi trường thuộc diện quản lý chuyên ngành của Bộ Tài nguyên và Môi trường nên trong hồ sơ nhập khẩu ngoài các giấy tờ thông thường như tờ khai hải quan, hóa đơn (invoice), C/O (chứng nhận xuất xứ hàng hóa)... theo quy định pháp luật chuyên ngành thì hồ sơ nhập khẩu phế liệu phải có Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, Giấy thông báo kết quả kiểm tra của cơ quan kiểm tra chuyên ngành…Các giấy tờ này có thể nộp bản giấy hoặc dưới dạng điện tử thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Đây được xem như cơ sở để cơ quan hải quan đánh giá hàng hóa nhập khẩu đủ điều kiện nhập khẩu và thông quan cho hàng hóa nhập khẩu. Thứ năm, phế liệu nhập khẩu phải làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu nhập. Cụ thể ở Việt Nam hiện nay, theo quy định tại Quyết định số 15/2017/QĐ-TTg ngày 12/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục hàng hóa nhập khẩu phải làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập cơ bản những hàng hóa ảnh hưởng xấu đến bảo vệ môi trường phải làm tại Chi cục hải quan cửa khẩu trong đó có phế liệu nhập khẩu. Ngoài ra, ngày 17/11/2015, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2026/QĐ-TTg phê duyệt đề án giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Như vậy, khác với các loại hàng hóa nhập khẩu thông thường khác, đối với phế liệu nhập khẩu pháp luật quy định địa điểm làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu nhập. 12
- Thứ sáu, phế liệu nhập khẩu được doanh nghiệp sử dụng trực tiếp làm nguyên liệu sản xuất mà không được phép chuyển giao, bán lại hoặc sơ chế đơn giản bán cho tổ chức, cá nhân khác. Khác với các loại hàng hóa khác, chỉ những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất mới được nhập khẩu. Pháp luật nghiêm cấm việc doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu về để bán lại hoặc chỉ sở chế đơn giả sau đó bán lại cho tổ chức, cá nhân khác. Điều này được quy định tại khoản 6 Điều 56 Nghị định số Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu (sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 40/2019/NĐ- CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường). 1.2.2. Nội dung của pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu Pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hải quan thực hiện kiểm soát việc nhập khẩu phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất của các doanh nghiệp. Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất khi nhập khẩu vào Việt Nam chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật như các văn bản pháp luật hải quan, môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật, xử lý vi phạm (hành chính, hình sự). Kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là quá trình tổ chức thực thi các văn bản này để đảm bảo phế liệu nhập khẩu hợp pháp, tránh tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái phép phế liệu qua biên giới. Theo đó, pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu gồm những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, quy định về điều kiện nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Xuất phát từ bản chất và công dụng của phế liệu, nhà nước ban hành chính sách, quy định loại phế liệu được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất thường là những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe của con người ở mức độ thấp), loại phế liệu không được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất (thường là những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe của con người ở mức độ cao). Đối với loại phế liệu được phép nhập khẩu thì cũng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường khi nhập khẩu trong đó nêu các hàm lượng tạp chất, tạp chất nguy hại, yêu cầu về phân loại, làm sạch... để đảm bảo giảm thiểu ở mức độ thấp nhất về môi trường khi phế liệu nhập khẩu được đưa vào sản xuất. 13
- Thứ hai, quy định về điều kiện tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu. Xuất phát từ ý nghĩa phế liệu được nhập khẩu về làm nguyên liệu sản xuất nên pháp luật đặt ra các quy định về chủ thể nhập khẩu pháp đáp ứng các điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu như các yêu cầu đối với nhà kho, bãi chứa, lưu giữ phế liệu về an toàn cháy nổ, an toàn vệ sinh; yêu cầu đối với nhà máy, cơ sở sản xuất phải đáp ứng về mặt công nghệ, công suất, năng lực tài chính khi nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục và hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu. Đây là thủ tục hành chính bắt buộc để phế liệu nhập khẩu hợp pháp trước khi đưa vào sản xuất. Theo đó, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải thực hiện các thủ tục hải quan, nộp các loại giấy tờ, tài liệu bắt buộc theo các quy định về hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu. Các giấy tờ này chứng minh loại phế liệu được nhập khẩu, chứng minh tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu theo quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và các tài liệu khác theo quy định chung của pháp luật hải quan. Thứ tư, quy định việc kiểm tra, giám sát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. Để kiểm soát tuân thủ pháp luật cơ quan hải quan sẽ thực hiện việc kiểm tra, giám sát hải quan bao gồm kiểm tra về hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế (có dấu hiệu vi phạm hoặc hệ thống phân luồng ngẫu nhiên). Pháp luật quy trình cụ thể những trường hợp phải kiểm tra, trình tự tiến hành kiểm tra, tỷ lệ kiểm tra ( 5%, 10% hoặc 100%) , phương pháp kiểm tra (trực tiếp, qua máy soi, qua phân tích, phân loại hoặc giám định), xử lý kết quả kiểm tra (giải phóng hàng, thông quan, tạm dừng, buộc tái xuất,...) và thực hiện giám sát hải quan trong suốt quá trình lô hàng làm thủ tục hải quan. Thứ năm, quy định các biện pháp kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. Bên cạnh các biện pháp nghiệp vụ về công tác kiểm soát hải quan như với các hàng hóa khác như điều tra nghiên cứu nắm tình hình, sưu tra, trinh sát, chuyên án thì phế liệu còn áp dụng các biện pháp kiểm soát ngăn chặn từ xa, trao đổi thông tin tình báo, xây dựng chuyên đề đấu tranh. Thứ sáu, quy định việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, cơ quan hải quan tiến hành xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động này. Đối với 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 339 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 111 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 107 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 220 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 124 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 79 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 96 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 32 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng cho thuê hàng hóa theo Luật Thương mại Việt Nam
88 p | 54 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 35 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 183 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 74 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 58 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, người điều hành ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam
79 p | 24 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 84 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn