ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
TỪ ĐỒNG ĐỒNG
(XU TONG TONG)
KHẢO SÁT CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC
TRONG TIẾNG TRUNG (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
TỪ ĐỒNG ĐỒNG
(XU TONG TONG)
KHẢO SÁT CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC
TRONG TIẾNG TRUNG (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Đỗ Hồng Dƣơng
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
XU TONG TONG
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Đỗ Hồng Dương, cô đã
trực tiếp hướng dẫn tôi rất tận tâm trong suốt quá trình thực hiện luận
văn. Cô tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn cũng như
hoàn thành các thủ tục liên quan. Tôi xin được gửi tới cô lời cảm ơn
chân thành nhất!
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngôn ngữ học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại khoa.
Xin cảm ơn Ban Giám hiệu và Phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện cho
tôi trong việc hoàn thành thủ tục để bảo vệ luận văn.
Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, đặc biệt là các bạn
bè người Việt Nam đã khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2019
Học viên
XU TONG TONG
DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1.Thống kê tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong các tác
phẩm văn học dịch Trung-Việt ..................................................................... 40
Bảng 2.2. Tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng
Việt (cả ngữ liệu tác phẩm văn học và ngữ liệu trực tiếp) ............................ 42
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng các mô hình câu có chủ ngữ hình thức ....... 46
Bảng 3.2 Tình hình sử dụng các mô hình câu có chủ ngữ hình thức ―nó‖
trong tiếng Việt .............................................................................................. 46
MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 3
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ................................................................................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................................. 7
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 10
7. Bố cục của luận văn ............................................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................... 12
1.1. Chủ ngữ trong tiếng Trung ............................................................................................ 12
1.1.1. Các quan niệm về chủ ngữ trong tiếng Trung .................................................... 12
1.1.2. Cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Trung ................................................................ 14
1.2. Chủ ngữ trong tiếng Việt................................................................................................ 16
1.2.1. Các quan niệm về chủ ngữ trong tiếng Việt ........................................................ 16
1.2.2. Cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Việt ................................................................... 18
1.3. Cấu trúc cú pháp của câu ............................................................................................... 19
1.3.1. Phân tích cấu trúc cú pháp của câu theo quan hệ chủ - vị ................................ 19
1.3.2. Phân tích cấu trúc cú pháp của câu theo quan hệ đề - thuyết ........................... 21
1.4. Lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu .......................................................................... 23
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................................. 27
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC TRONG TIẾNG TRUNG ........................................................................................................................................ 28
2.1. Khái quát về chủ ngữ hình thức ........................................................................................ 28
2.2. Các mô hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung .......................................... 30
2.2.1. Mô hình ―Khởi ngữ , 他 + Cụm động từ‖ ......................................................... 30
2.2.2. Mô hình ―他 + vị ngữ‖ ........................................................................................... 34
1
2.3. Khảo sát tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt ..... 36
CHƢƠNG 3: ĐỐI CHIẾU CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC TRONG TIẾNG TRUNG VÀ TIẾNG VIỆT .................................................................................................... 44
3.1. Đối chiếu các mô hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt ................. 44
3.1.1.Mô hình ―Khởi ngữ + Nó + Vị ngữ‖ ..................................................................... 45
3.1.2. Mô hình ―Nó + Vị ngữ‖ .......................................................................................... 50
3.1.3.Mô hình ―Nó + Vị ngữ + Chủ ngữ‖ ....................................................................... 52
3.2. Đối chiếu phương pháp dịch câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt ................................................................................................................................... 53
3.2. 1. Một số lý thuyết dịch thuật liên quan .................................................................. 53
3.2.2. Đối chiếu phương pháp dịch câu có mô hình ―Khởi ngữ + 他 + vị ngữ‖ ........... 58
3.2.3. Đối chiếu phương pháp dịch mô hình ―他 + Vị ngữ‖ ...................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 72
PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................................. 75
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Do có sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá, ngôn ngữ từ lâu đời nên ở nhiều
phương diện, hai nước Việt Nam và Trung Quốc có rất nhiều điểm giống nhau, nhất
là trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn hóa. Cùng với sự phát triển và thay đổi không
ngừng của lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội, việc nghiên cứu về những sự giống nhau
và khác nhau này trong ngôn ngữ của hai dân tộc luôn luôn là cần thiết.
Bất kỳ người học tiếng Trung hoặc tiếng Việt nào thì đều biết rằng, tiếng
Trung và tiếng Việt đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, từ ngữ âm, từ vựng
đến ngữ pháp đều có nhiều điểm giống nhau. Ví dụ như mỗi âm tiết đều có
thanh điệu, hệ thống từ vựng chia làm hai loại lớn là thực từ và hư từ, hoặc cấu
trúc cơ bản của một câu thông thường trong tiếng Trung và tiếng Việt đều phải
có chủ ngữ và vị ngữ,... Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt thì một câu thông
thường trong tiếng Trung và tiếng Việt đều có trật tự là chủ ngữ đứng trước vị
ngữ. Nghiên cứu về các thành phần chính trong câu luôn nhận được quan tâm
của giới nghiên cứu, nhất là các thành phần câu quan trọng như chủ ngữ, vị ngữ.
Chính vì vậy với cả người học tiếng Trung và tiếng Việt thì đều gặp thuận lơi
khi so sánh, đối chiếu hoặc khi chuyển dịch hai ngôn ngữ, hoặc ít nhất cũng gặp
thuận lợi khi muốn nhận biết các thành phần chính của câu.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số yếu tố khó khăn cho việc đối chiếu, so sánh
hoặc phiên dịch giữa hai ngôn ngữ. Nguyên nhân có thể là do chính bản thân
ngôn ngữ, cách dùng từ hàng ngày, cũng như do những yếu tố khác nhau tồn tại
trong nền văn hoá của hai nước, dẫn đến cách thức tư duy và thói quen sử dụng
ngôn ngữ cũng khác nhau. Và đặc biệt với bất cứ người học ngoại ngữ nào thì
nắm được các quy luật về dịch thuật, cách cấu tạo từ, cách hoạt động của các
thành phần, cấu trúc câu,... luôn là những nhân tố quan trọng quyết định ―trình
độ‖ của người học.
3
Ví dụ như là ―chủ ngữ hình thức‖ trong hai ngôn ngữ (trong tiếng Việt còn
có khái niệm tương tự là ―chủ ngữ giả‖, trong tiếng Trung còn có một số khái
niệm tương đương như ―chủ ngữ bù nhìn‖, ―chủ ngữ hư không‖ v.v.). Để tránh
nhầm lẫn, dưới đây luận văn thống nhất sử dụng thuật ngữ ―Chủ ngữ hình thức‖.
Trong cả tiếng Trung và tiếng Việt đều tồn tại những câu kiểu sử dụng chủ
ngữ hình thức như ―你说你吧,他哪儿都好,就是脾气太大。‖ (Chủ ngữ hình
thức 他 hoặc ―Anh đi sớm đi cho nó kịp giờ.‖ (Chủ ngữ hình thức ―nó‖). Có
thể thấy đây là một kiểu câu khá thú vị và độc đáo của cả tiếng Trung và tiếng
Việt. Các nghiên cứu về chủ ngữ hoặc thành phần cấu tạo câu trong tiếng Trung
và tiếng Việt có rất nhiều. Tuy nhiên lại không có nhiều nghiên cứu về chủ ngữ
hình thức, nhất là nghiên cứu từ góc độ đối chiếu, so sánh điểm tương đồng,
khác biệt hoặc từ góc độ phương pháp dịch thì lại càng ít.
Là một học viên người Trung Quốc đã học tiếng Việt gần 6 năm, người
viết luận văn hy vọng rằng đề tài “Khảo sát câu có chủ ngữ hình thức trong
tiếng Trung (đối chiếu với tiếng Việt)” sẽ mang lại những giá trị thực tiễn và lý
luận nhất định.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu cách sử dụng chủ ngữ hình thức
trong tiếng Trung và tiếng Việt. Qua việc đối chiếu những điểm giống và khác
nhau của các cấu trúc câu có sử dụng chủ ngữ hình thức, luận văn đã thể hiện
được tính linh hoạt trong việc sử dụng chủ ngữ hình thức nói riêng và chủ ngữ
nói chung trong hai ngôn ngữ.
Mặc dù việc sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt,
nhất là trong ngôn ngữ viết không phổ biến, tuy nhiên đây lại là một hiện tượng
ngôn ngữ đã tồn tại từ lâu, nhất là trong giao tiếp hang ngày, vì vậy mà nó có
những ảnh hưởng nhất định trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các
thành phần của câu như chủ ngữ, đề ngữ, khởi ngữ… Do đó, đi tìm hiểu và phân
4
tích về cách sử dụng, sự biến đổi (nếu có) của chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt, chỉ ra được sự tương đồng và khác biệt giữa chúng một mặt
sẽ cung cấp được cái nhìn tổng quan, khái quát về chủ ngữ hình thức trong hai
ngôn ngữ, mặt khác có thể trở thành một cơ sở quan trọng làm cứ liệu cho
những đề tài nghiên cứu tương tự sau này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung
và tiếng Việt, cụ thể là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba 他 trong tiếng Trung và nó
trong tiếng Việt khi đóng vai trò là chủ ngữ hình thức ở trong câu. Qua những ví
dụ phân tích cụ thể, người đọc có thể thấy được những điểm giống nhau và khác
nhau nhất định của việc sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng
Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do bản thân là người Trung Quốc, vì vậy người viết luận hiểu rõ thói quen
sử dụng chủ ngữ hình thức 他 của người Trung Quốc. Chính vì vậy, về mặt ngữ
liệu tiếng Trung, ngoài những ngữ liệu chúng tôi tổng hợp được trong hệ thống 33 tác phẩm văn học dịch Trung-Việt có chủ ngữ hình thức1, chúng tôi cũng sử
dụng thêm các nguồn ngữ liệu trực tiếp từ giao tiếp hàng ngày của người Trung
Quốc và người Việt Nam để kết quả phân tích đáng tin cậy hơn, do đây là một
kiểu câu đặc trưng của khẩu ngữ tiếng Trung và tiếng Việt.
Ở đây cần nhấn mạnh rằng, sau khi khảo sát, và thống kê, chúng tôi có thể
kết luận được rằng chủ ngữ hình thức 他không phổ biến, nhất là với ngôn ngữ
1 Những tác phẩm này đều là những tác phẩm nổi tiếng của Trung Quốc, được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới như Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, Thuỷ Hử của Thi Nại Am, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần,... Ở Việt Nam, các tác phẩm này cũng đã được chuyển dịch sang tiếng Việt bởi những dịch giả nổi tiếng của Việt Nam. Vì vậy những câu ví dụ trích dẫn của luận văn có độ chính xác cao cả về mặt cấu trúc lẫn ngữ nghĩa.
sách vở. Ví dụ như toàn bộ 120 chương của tác phẩm Hồng Lâu Mộng (Tào
5
Tuyết Cần) – một tác phẩm có hệ thống từ vựng vô cùng phong phú với rất
nhiều đoạn hội thoại, giao tiếp nhưng chúng tôi thống kê được tổng cộng chỉ có 3 câu trong bản gốc tiếng Trung có chủ ngữ hình thức 他 2 và có 40 câu có sử
dụng chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong bản dịch tiếng Việt.
Tổng số câu ví dụ chúng tôi sử dụng để nghiên cứu bao gồm cả tiếng
Trung và tiếng Việt và tiếng Việt là 600 câu (trong đó tính riêng từ 33 tác phẩm
văn học dịch Trung-Việt có 423 câu (chiếm 70,5%), gồm 67 câu (chiếm 15,8%)
có chủ ngữ hình thức 他 trong các bản gốc tiếng Trung và 356 câu (chiếm
84,2%) có chủ ngữ hình thức ―nó‖ thống kê được từ các bản dịch tiếng Việt), và
để cho những phân tích được phong phú, do ngữ liệu tiếng Trung trong các văn
bản văn học không có nhiều, chúng tôi cũng sử dụng một lượng lớn các ví dụ
lấy từ ngữ liệu thực tế gồm 177 câu (chiếm 29,5%), trong đó có 116 câu tiếng
Trung dùng 他 (chiếm 65,5%) và 61 câu tiếng Việt dùng ―nó‖ (chiếm 34,5%).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát các câu có chứa chủ ngữ hình
thức trong tiếng Trung, từ đó đối chiếu với tiếng Việt để thấy được những điểm
tương đồng và khác biệt trong hai ngôn ngữ khi sử dụng loại chủ ngữ này.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
Tổng kết, khái quát hoá các khái niệm liên quan đến chủ ngữ và chủ ngữ
2 Trong tiếng Trung hiện đại có 3 đại từ nhân xưng cùng có cách đọc là ―Ta‖ (他-Anh ấy, ông ấy và trong một số trường hợp chỉ chung cho cả nam, nữ; 她-Cô ấy và 它-nó (chỉ động vật chung, không phân biệt giống đực hay cái‖), tuy nhiên do đại từ 他 ngoài chức năng của đại từ thì còn được sử dụng như một chủ ngữ giả, là một khái niệm tương đương với chủ ngữ giả - đối tượng nghiên cứu của luận văn. Mặc khác từ 他 này có chức năng cú pháp tương tự như hai từ Ta còn lại. Vì vậy trong luận văn của mình, chúng tôi chỉ thực hiện thống kê, tìm kiếm mở rộng trong bản tiếng Trung những câu có sử dụng chủ ngữ hình thức 他..
hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt .
6
Khảo sát, thống kê về tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt.
Khảo sát các mô hình câu chứa chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và
tiếng Việt điển hình.
Đối chiếu các điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ khi sử dụng
chủ ngữ hình thức.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5.1. Nghiên cứu trong tiếng Trung
Nghiên cứu về thành phần câu cũng như các phương diện khác của cú pháp
học luôn là vấn đề nhận được nhiều quan tâm và coi trọng của giới nghiên cứu ngôn
ngữ Trung Quốc. Nhất là với những thành phần câu chính như ―chủ ngữ - vị ngữ‖.
Tuy nhiên do chủ ngữ hình thức chỉ có giá trị hình thức, không có giá trị nội dung, vì
vậy những nghiên cứu về chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung không có nhiều.
Người viết luận văn đã tìm tài liệu ở nhiều kho dữ liệu tin cậy như dữ liệu điện tử
trên https://www.cnki.net/; www.wanfangdata.com.cn,... hoặc dữ liệu giấy ở các
thư viện, nhưng không tìm được nhiều tài liệu liên quan. Phần lớn các nghiên
cứu đều tập trung vào các thành phần chính, nếu có nói đến chủ ngữ hình thức
thì cũng rất ít, chỉ giới thiệu ngắn, kể cả những nghiên cứu so sánh, đối chiếu
giữa tiếng Trung với các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên những kiến thức cơ bản này
cũng rất cần thiết và quan trọng để triển khai được đề tài nghiên cứu. Bởi vì chủ
ngữ hình thức thuộc phạm trù ―cú pháp học‖, là một thành phần câu. Nhiều
cuốn sách chuyên môn về lĩnh vực ngữ pháp, từ vựng của Trung Quốc đều ít
nhiều giới thiệu về chủ ngữ trong tiếng Hán, ví dụ cuốn《现代汉语语法学习与
研究入门》Nhập môn Học tập và nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán hiện đại của
Cui Ying Xian(Công ty trách nhiệm hữu hạn Nxb.Đại học Thanh Hoa, 2004).
7
Hoặc các giáo trình được sử dụng rộng rãi trong các trường ngoại ngữ như hai
cuốn 《现代汉语》(上、下册)Hán ngữ hiện đại (quyển thượng, hạ) của Hoang
Bo Rong, Liao Xu Dong(Nxb Giáo dục đại học, 1996),... Các cuốn này đều có
giới thiệu về chủ ngữ hình thức trong tiếng Hán, tuy rằng không nhiều.
Về vấn đề đối chiếu nghiên cứu chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng
Việt, nhìn chung, các nghiên cứu là rất ít, chỉ có một số ít nghiên cứu là các bài viết
ngắn như bài đăng tạp chí, phát biểu hội thảo,..., và thường lấy ví dụ so sánh, đối
chiếu giữa tiếng Trung và tiếng Anh.
Một số bài viết có giá trị tham khảo cho người viết luận khi làm luận văn
như: 董 秀 芳, 现代汉语口语中的傀儡主语―他 ‖,语言教学与研究 2005
年第 5 期 (Dong Xiu Fang, Chủ ngữ bù nhìn ―他‖ trong khẩu ngữ tiếng Hán
hiện đại, kỳ 5, tạp chí Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, 2005) Bài viết lấy
ngữ liệu từ các tác phẩm văn học và cả trong giao tiếp hàng ngày. Những phân
tích được đưa ra trong bài viết tuy chưa sâu (vì đây chỉ là bài đăng tạp chí), chỉ
dừng lại ở việc đưa ví dụ để minh hoạ, tuy nhiên lại giúp chúng tôi hiểu thêm về
hiện tượng ―chủ ngữ bù nhìn‖ (chủ ngữ hình thức) ―他/它/她(Ta)‖trong khẩu
ngữ tiếng Trung.
Các bài《理解 ―It 作形式主语‖的语法规则和例外——对英语语法中
―例外‖的思考》Lý giải nguyên tắc và ngoại lệ của ―It‖ khi làm chủ ngữ hình
thức – Suy nghĩ về trường hợp ngoại lệ trong ngữ pháp tiếng Anh của Wang Fan
(王帆), đăng trên tạp chí Exam Weekly năm 2005; hoặc bài《英语中的虚主语
―it‖和汉语中的虚主语―他‖异同之比较》So sánh chủ ngữ hình thức ―it‖
trong tiếng Anh với chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Hán của Zheng Min
Fang, Yi Rui Xian (郑敏芳,弋睿仙), đăng trên Journal of Weinan Normal
University, kỳ 12, quyển 29, 2014. v..v.. đều đề cập đến chủ ngữ hình thức trong
8
tiếng Trung và tiếng Anh. Tuy nhiên hạn chế là đều chưa chỉ ra được những
điểm tương đồng và khác biệt mang tính nguyên tắc để người đọc có thể nắm
được một số nguyên tắc khi chuyển dịch.
Tóm lại, qua quá trình tổng hợp và tìm kiếm tài liệu tham khảo, có thể nói
tiềm năng nghiên cứu vấn đề chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt
từ góc độ đối chiếu là rất lớn, rất cần được khai thác hơn nữa.
5.2. Nghiên cứu trong tiếng Việt
Cũng giống như tình hình ở Trung Quốc, theo thống kê và nghiên cứu của
chúng tôi, nghiên cứu về hiện tượng chủ ngữ hình thức (chủ ngữ hình thức ―nó‖)
ở Việt Nam cho đến nay cũng tương đối ít. Trong đó, có lẽ nghiên cứu Về một
kiểu câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Việt (kiểu câu ―mùa hè mặc quần đùi
cho nó mát‖) của Hoàng Thị Thu Thủy (Luận văn cao học, 2006) là toàn diện và
đầy đủ, rõ ràng hơn cả, nhất là về mặt cấu trúc. Tác giả nêu ra ba mô hình những
trường hợp câu có chủ ngữ hình thức đó là ―Khởi ngữ + nó + vị ngữ‖ (Ví dụ: Nói vớ
vẩn nó quen đi) – ―Nó + vị ngữ‖ (Ví dụ: Nó có cái chìa khoá treo trên tường đấy) và
―Nó + Vị ngữ + Chủ ngữ‖ (Ví dụ: Nó (mà) đổ cái ghế thì mày chết! ). Cùng với hệ
thống ví dụ phong phú, đáng tin cậy, tác giả đã phân tích ba mô hình có sử dụng chủ
ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt này khá chi tiết, có tác dụng gợi ý và tham khảo
rất lớn cho chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
Ngoài Hoàng Thị Thu Thủy, tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong Cú pháp tiếng
Việt (NXB Giáo dục Việt Nam, 2011) đã giới thiệu rất kỹ về hệ thống cú pháp –
các thành phần trong câu của tiếng Việt. Đặc biệt trong phần ―Chủ ngữ‖, tác giả
có đề cập đến chủ ngữ hình thức trên nhiều phương diện, với nhiều quan điểm
của các nhà ngữ pháp học khác nhau như Nguyễn Minh Thuyết, Cao Xuân
Hạo,... Tuy nhiên nhìn chung thì đều công nhận có sự tồn tại của chủ ngữ hình
9
thức trong tiếng Việt.
Tóm lại, cũng giống như tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc, nghiên cứu
về chủ ngữ hình thức trong tiếng Việt, nhất là trong quan hệ đối chiếu, so sánh,
dịch thuật với tiếng Trung thì có thể nói vẫn rất cần các học giả và người nghiên
cứu khai thác hơn nữa.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
a/ Phƣơng pháp miêu tả
Dựa trên kết quả khảo sát thống kê, luận văn sử dụng phương pháp này để
miêu tả các câu có chứa chủ ngữ hình thức xuất hiện trong tiếng Trung và tiếng Việt.
b/ Phƣơng pháp phân tích cấu trúc
Luận văn sử dụng phương pháp này để phân tích các mô hình câu có chứa
chủ ngữ hình thức. Do chủ ngữ hình thức không có giá trị về mặt nội dung mà
chỉ có giá trị về mặt hình thức, bởi vậy ở đây chúng tôi chỉ sử dụng phương
pháp phân tích cấu trúc hình thức đơn thuần.
c/ Phƣơng pháp đối chiếu
Trên cơ sở thống kê các ví dụ, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu sự
giống và khác nhau trong mô hình câu chứa chủ ngữ hình thức của tiếng Trung
và tiếng Việt, vị trí, chức năng của chủ ngữ hình thức khi ở trong câu. Ngoài ra
chúng tôi còn sử dụng phương pháp đối chiếu dịch thuật để tìm ra các quy luật
chuyển dịch đối với một số văn bản dịch.
Ngoài 3 phương pháp chính trên, luận văn còn sử dụng thủ pháp thống kê,
phân loại, đối chiếu phương pháp dịch trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:
10
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Chương này giới thiệu một số lý luận quan trọng có liên quan đến đề tài như
chủ ngữ, chủ ngữ hình thức, vai trò, chức năng, đặc điểm cơ bản của chủ ngữ
hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt. Đồng thời, chúng tôi cũng giới thiệu
lý luận về đối chiếu ngôn ngữ học – một lý luận quan trọng để chúng tôi có thể
triển khai được đề tài.
Chƣơng 2: Khảo sát câu chứa chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung
Chương này dựa trên cơ sở thống kê tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức
trong tiếng Trung. Chúng tôi phân loại thành các mẫu câu (cấu trúc) cụ thể, phân
tích quy luật và chức năng của chúng trong câu. Tạo cơ sở để tiến hành so sánh,
đối chiếu sự giống và khác nhau trong cách sử dụng chủ ngữ hình thức trong
tiếng Trung và tiếng Việt cũng như nhận xét về cách thức chuyển dịch các mô
hình câu có chủ ngữ hình thức từ tiếng Trung sang tiếng Việt.
Chƣơng 3: Đối chiếu câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt
Trên cơ sở các kết quả thu được ở chương 2, chúng tôi sẽ đối chiếu các mô
hình câu có chứa chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt. Đồng thời,
chúng tôi đối chiếu cách chuyển dịch chủ ngữ hình thức từ tiếng Trung sang tiếng
Việt (trong các tác phẩm văn học có bản dịch tiếng Việt thuộc phạm vi khảo sát của
luận văn). Đồng thời đưa ra những phương pháp dịch khác bên cạnh bản dịch gốc
nếu có thể.
11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chủ ngữ, vị ngữ và các thành phần quan trọng khác của câu như định ngữ,
bổ ngữ, trạng ngữ… luôn nhận được rất nhiều quan tâm của giới nghiên cứu,
nhất là với những thành phần nòng cốt của câu như chủ ngữ, vị ngữ. Chính vì
vậy mà các trường phái nghiên cứu khác nhau, các quan điểm, góc độ tiếp cận
khác nhau thì sẽ dẫn đến định nghĩa về chủ ngữ khác nhau. Theo nghiên cứu của
chúng tôi, tình trạng này diễn ra ở cả ngữ pháp tiếng Trung và tiếng Việt. Có thể
giới thiệu qua một số trường phái phổ biến nhất như dưới đây:
1.1. Chủ ngữ trong tiếng Trung
1.1.1. Các quan niệm về chủ ngữ trong tiếng Trung
Trong các chương trình sách giáo khoa ngữ văn, trong các từ điển tiếng
Hán thì định nghĩa chủ ngữ trong tiếng Hán hiện đại khá đơn giản. Ví dụ, Hiện
đại Hán ngữ quy phạm Từ điển (Nxb. Đại học Cát Lâm, xuất bản lần đầu năm
2001, tái bản hai lần năm 2010, 2014) định nghĩa: ― Chủ ngữ (danh từ), là đối
tượng trần thuật của vị ngữ, là thành phần câu chỉ ra ―ai‖ hoặc ―cái gì‖ mà vị
ngữ muốn nói đến… Trong các câu thông thường của tiếng Trung, chủ ngữ
thường đứng trước vị ngữ, thường do danh từ, đại từ hoặc đoản ngữ (cụm từ)
đảm nhiệm.‖ (trang 1510).
Phát triển mở rộng hơn so với định nghĩa trong từ điển toàn dân, các nhà
ngôn ngữ ở Trung Quốc cũng có cách định nghĩa chủ ngữ của mình. Tuy nhiên
theo nghiên cứu của chúng tôi, đại đa số quan điểm đều đồng ý chủ ngữ thường
do danh từ, đại từ hoặc đoản ngữ đảm nhiệm và thường đứng trước vị ngữ (trừ
trường hợp cá biệt mà luận văn sẽ không đề cập đến do không có mối liên quan
đối với đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ ngữ hình thức).
3 Nxb.Giáo dục đại học, tái bản năm 2017, tr.72-73.
Ví dụ, Hoang Bo Rong, Liao Xu Dong trong Hiện đại Hán ngữ quyển thượng 3 tuy không đưa ra định nghĩa ―chủ ngữ‖ là gì nhưng lại trực tiếp nói
12
đến những từ loại có thể làm chủ ngữ như danh từ /cụm danh từ), đại từ,... Từ đó
chia chủ ngữ tiếng Hán thành hai loại chính là ―chủ ngữ mang tính danh từ‖ và
―Chủ ngữ mang tính vị từ‖. Cụ thể:
Chủ ngữ mang tính danh từ: Là đối tượng được trần thuật, nằm ở đầu câu,
thường trả lời cho câu hỏi ―ai‖ hoặc ―cái gì‖. Xem các ví dụ sau: 1) 兰英// 4 知到这件事后,心中未免悔恨。 (Lan Anh sau khi biết chuyện
này, trong lòng rất hối hận.) (Ngữ liệu trực tiếp)
Chủ ngữ ―兰英 (Lan Anh)‖, trả lời cho câu hỏi ―Ai biết chuyện này? Ai
trong lòng rất hối hận?
2) 他们//不觉得烦,便仍出来。 (Bọn họ không thấy phiền, vẫn đi ra ngoài).
(Ngữ liệu trực tiếp)
Chủ ngữ 他们 (bọn họ) trả lời cho câu hỏi ―Ai không phiền? Ai đi ra?
3) 林姑娘的行李东西//可搬进来了。(Toàn bộ hành lý của cô Lâm đều đã
được mang vào rồi)(Ngữ liệu trực tiếp)
Chủ ngữ ―林姑娘的行李东西‖ trả lời cho câu hỏi ―Cái gì đã mang vào chưa?
Chủ ngữ mang tính vị từ: Từ/cụm từ mang tính vị từ là chỉ những từ
thường làm vị ngữ trong câu như động từ/cụm động từ, tính từ (cụm tính từ),
cụm đại từ tính vị ngữ,... Mặc dù những trường hợp này không nhiều như
trường hợp từ/cụm từ mang tính danh từ làm chủ ngữ (do đặc trưng ngữ pháp
của danh từ là làm chủ ngữ trong câu), tuy nhiên chúng ta vẫn thường gặp
những câu như sau trong tiếng Trung:
4) 灯坏了还是人摔倒了//更值得一提?(Đèn hỏng hơn hay người ngã//
đáng kể hơn?)(Ngữ liệu trực tiếp)
Chủ ngữ do hai cụm động từ ―灯坏了(đèn hỏng) và 人摔倒了(người ngã)‖
đảm nhận, trả lời cho câu hỏi ―Cái gì đáng kể hơn?‖
4 ký hiệu // để phân chia thành phần chủ ngữ với vị ngữ của câu.
Cui Ying Xian trong Nhập môn Học tập và nghiên cứu ngữ pháp tiếng
13
Hán hiện đại” 《现代汉语语法学习与入门研究》 (Nxb.Đại học Thanh Hoa,
Bắc Kinh, tái bản năm 2011) khi phân tích về chủ ngữ và tân ngữ đã tổng kết, về
mặt cú pháp, chủ ngữ trong tiếng Hán hiện đại có ba đặc điểm chính là: (1) Từ
góc độ kết cấu, chủ ngữ phần lớn do danh từ, đại từ, cụm danh từ hoặc là từ đã
được danh vật hoá và có chức năng của danh từ… đảm nhiệm. (2) Từ đặc trưng
―chỉ thị và nhân xưng‖ của danh từ, chỉ những chủ ngữ mang tính ―chỉ xưng‖
như vậy mới có thể đứng trước động từ. Những danh từ vô định không thể đứng trước danh từ 5. (3)Từ góc độ quan hệ ngữ nghĩa giữa từ với từ, giữa chủ ngữ
và động từ thường có mối quan hệ ―lựa chọn‖ (trang 204, 205).
1.1.2. Cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Trung
Để thuận tiện cho việc triển khai đề tài, và do quá trình tham khảo, nghiên
cứu tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng về cơ bản, các nhà ngữ pháp học Trung
Quốc đều có quan điểm khá đồng nhất về các khái niệm cũng như định nghĩa
liên quan đến chủ ngữ. Dưới đây về cấu tạo của chủ ngữ tiếng Trung, chúng tôi
thống nhất áp dụng quan điểm phân loại của Hoang Bo Rong, Liao Xu Dong
(đã trình bày trong cuốn Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại quyển thượng, hạ), Cui Ying Xian v.v.v. 6.
Về cơ bản, chủ ngữ là những từ chỉ sự vật, hiện tượng làm chủ thể của
hành động. Chủ ngữ tiếng Trung thường do các từ loại sau đảm nhiệm:
Thường do danh từ hay đại từ đảm nhiệm. Ngoài ra các cụm từ, kết cấu
cụm từ mang tính danh từ (ngữ danh từ) cũng thường làm chủ ngữ. Đây là đặc
trưng cơ bản nhất về cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Trung. Ví dụ:
Đại từ làm chủ ngữ:
5) 我们//要努力学习。(Chúng ta//phải học tập chăm chỉ.) (Ngữ liệu trực tiếp)
5 Định nghĩa này giúp chúng tôi hiểu được chỉ có đại từ nhân xưng hoặc những danh từ mang tính ―chỉ xưng‖ như vậy mới có thể làm chủ ngữ hình thức mà không phải là động từ hoặc đoản ngữ. 6 Sách đã dẫn, trang 72-73.
6) 这//是我刚买的苹果。(Đây// là táo tôi mới mua.) (Ngữ liệu trực tiếp)
14
Danh từ (ngữ danh từ) làm chủ ngữ:
7) 秋天//来了,河内//很美。(Mùa thu //đến rồi, Hà Nội//rất đẹp.)(Ngữ liệu
trực tiếp)
8) 她这个人//做事就这么不靠谱。(Con người cô ta//làm việc gì cũng không
đáng tin.)(Ngữ liệu trực tiếp)
Một số trường hợp đặc biệt chủ ngữ trong tiếng Trung cũng có thể do động
từ (ngữ động từ) hoặc tính từ cấu tạo thành:
Do động từ (ngữ động từ) cấu tạo thành:
9) 讨论//开始了,你才来。((Buổi)Thảo luận// bắt đầu rồi, anh// bây giờ mới
đến.) (Ngữ liệu trực tiếp)
10) 再走下去//就迷路了。(Cứ đi tiếp// thì lạc đường đấy.)(Ngữ liệu trực tiếp)
11) 骑自行车到学校//要花很长时间。(Đi xe đạp đến trường//mất rất nhiều
thời gian). (Ngữ liệu trực tiếp)
12) 边吃饭边看电视//会得胃病的。(Vừa ăn vừa xem vô tuyến// sẽ bị đau dạ
dày đấy.)(Ngữ liệu trực tiếp)
Do tính từ/cụm tính từ cấu tạo thành:
13) 温柔体贴//是她的特点。(Hiền lành, chu đáo //là đặc điểm của cô ấy.)
(Ngữ liệu trực tiếp)
14) 冷静点儿//才能解决问题。(Bình tĩnh chút// mới có thể giải quyết vấn đề.)
(Ngữ liệu trực tiếp)
Đặc biệt, chủ ngữ trong tiếng Trung cũng có thể do một cụm chủ - vị cấu
tạo thành:
15) 我相信你说的话//都是真心话。(Tôi tin những lời anh nói// đều là thật
lòng.)(Ngữ liệu trực tiếp)
16) 颜色深一点//会好搭配衣服。(Màu sắc đậm một chút thì dễ phối đồ.)
(Ngữ liệu trực tiếp)
15
1.2. Chủ ngữ trong tiếng Việt
1.2.1. Các quan niệm về chủ ngữ trong tiếng Việt
Không chỉ trong tiếng Trung mà trong tiếng Việt, chủ ngữ cũng là một
trong những thành phần câu gây nhiều tranh cãi nhất vì mỗi một nhà nghiên cứu
lại quan niệm và cách thức nhận diện chủ ngữ khác nhau. Trong các nghiên cứu
tiếng Việt hiện nay chia ra hai luồng quan điểm về vấn đề chủ ngữ: có chủ ngữ
và không có chủ ngữ. Các khuynh hướng truyền thống và một số khuynh hướng
hiện đại (ngữ pháp ngữ nghĩa…) đều thừa nhận câu tiếng Việt có chủ ngữ. Các ý
kiến đều thống nhất rằng chủ ngữ là một trong những thành phần chính của câu
(bên cạnh vị ngữ), tuy nhiên vấn đề và cách thức nhận diện nó, phân biệt nó với
các thành phần khác đôi thi cũng khá phức tạp (nhất là khi từ loại làm chủ ngữ
không phải là danh từ, đại từ thông thường mà có thể là động từ, cụm đại từ…). Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học 7do Nguyễn Như Ý (Chủ biên)
đã trích dẫn khá đầy đủ định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về chủ
ngữ, chủ ngữ hình thức, chủ ngữ logic, chủ ngữ ngữ pháp… như:
―Chủ ngữ là một trong hai bộ phận tạo thành chủ yếu của câu: nó là sự việc
hay nhân vật mà vị ngữ chỉ ra hành động, tình trạng, tính chất hay chủng loại.‖
(Nguyễn Văn Tu, Khái luận ngôn ngữ học, Nxb.Giáo dục, 1960, trang 218).
―Chủ ngữ là một trong những thành phần chính của câu. Nó là một trong
hai vế của nòng cốt câu, cùng với vị ngữ, chủ ngữ khi đi vào cơ cấu của câu
mang theo những đặc trưng khu biệt với vị ngữ. Ý nghĩa của chủ ngữ là ý nghĩa
biểu thị đối tượng. Đối tượng này có quan hệ với vị ngữ về phương diện chủ thể
của hành động, chủ thể sở hữu, chủ thể tiếp nhận, chủ thể phẩm chất…‖ (Hoàng
Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.Đại học và THCN, 1980, trang 111).
―Chủ ngữ ngữ pháp: Chủ ngữ đúng với nghĩa của nó liên quan đến cấu trúc
7 Nxb.Giáo dục, 2001, trang 51-53.
cú pháp của câu (mặt biểu đạt).‖
16
Ngoài các từ điển chuyên ngành như trên, thì xét về tiêu chí nhận diện chủ
ngữ, theo tìm hiểu của chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay tồn tại những khái niệm,
quan điểm như sau:
Từ góc độ trật tự từ, cho rằng chủ ngữ là thành phần luôn đứng ở đầu câu
hoặc đứng trước vị ngữ. Đại diện cho quan điểm này có thể kể đến Phạm Tất
Đắc (1953), Nguyễn Kim Thản (1964); Diệp Quang Ban (1987). Theo chúng tôi,
quan điểm này chỉ có thể áp dụng với các câu thông thường (câu đơn hai thành
tố), còn với các dạng câu đặc biệt (như câu tỉnh lược chủ ngữ, câu cảm thán…)
thì quan điểm này sẽ hơi miễn cưỡng.
Từ góc độ về nội dung trần thuật cho vị ngữ đằng sau (cách đặt câu hỏi để
nhận diện chủ ngữ): chủ ngữ là thành tố cú pháp có thể trả lời cho các câu hỏi ai ?
cái gì ?, con gì ? Góc độ nhận diện này rất giống với các tiêu chí nhận diện chủ
ngữ trong tiếng Trung mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên.
Từ góc độ dựa theo mối quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ: Vị ngữ là bộ
phận của câu truyền đạt thông báo chính và bắt đầu (hoặc có thể bắt đầu) bằng
các động từ tình thái, phủ định từ hoặc hư từ chỉ phương thức tồn tại của hành
động hay tính chất (như đã, đang, sẽ, cũng, vẫn, đều,...), còn chủ ngữ là bộ phận
của câu chỉ sự vật có dấu hiệu được miêu tả ở vị ngữ . Cách nhận diện chủ ngữ
này cũng khá phù hợp với quan điểm của Cui Ying Xian (ở trên) khi tổng kết
các đặc điểm của chủ ngữ trong tiếng Trung. Từ đây chúng ta có thể thấy được
những điểm tương đồng lớn giữa chủ ngữ trong hai ngôn ngữ. Đây là một luận
cứ quan trọng để chúng tôi tiếp tục viết chương 2, phân tích sâu hơn và riêng
biệt về chủ ngữ hình thức trong phạm vi khảo sát cũng như trong giao tiếp hàng
ngày ở Trung Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra, có một số quan điểm cho rằng, câu tiếng Việt không có chủ ngữ
mà chỉ có chủ đề (hay còn được gọi là khởi ngữ hoặc đề ngữ). Đại diện của
quan điểm này là các tác giả như Thompson (1965), Lưu Vân Lăng (1968),
17
Cao Xuân Hạo (1991)... Chúng tôi sẽ không đi sâu vào những thảo luận này vì
đây không phải vấn đề trọng tâm của luận văn. Tuy nhiên, để có cơ sở lý thuyết
cho các khảo sát thực tế, chúng tôi đồng tình với quan điểm của Đỗ Hồng
Dương (2011), ―nếu xem ―đề ngữ‖ là nhãn hiệu cú pháp, tức xem cấu trúc đề-thuyết
là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu thay cho cấu trúc chủ-vị truyền thống thì cái gọi là
―đề ngữ‖ trong một số công trình ngữ pháp chức năng sẽ không khác mấy với ―chủ
ngữ‖. Bởi vậy, ―Nếu nhìn ―chủ ngữ‖ với một phạm vi rộng hơn và hướng tới sự đơn
giản hơn trong việc phân tích thành phần câu, chúng ta có thể thấy khái niệm chủ ngữ hoàn toàn có cơ sở tồn tại trong cấu trúc câu tiếng Việt.‖ 8
1.2.2. Cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Việt
Trong luận văn này, để thuận lợi cho việc nghiên cứu của một người nước
ngoài học tiếng Việt, tôi thống nhất áp dụng quan điểm phổ biến nhất về khái
niệm của chủ ngữ vẫn được giảng dạy trong nhà trường là ―Chủ ngữ là một
trong hai thành phần chính của câu có quan hệ qua lại với thành phần vị ngữ, nó
nêu lên đối tượng mà đặc trưng hay quan hệ của nó được nói đến ở vị ngữ‖.
Sau quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng về mặt cấu tạo, các từ,
ngữ có thể tạo thành chủ ngữ trong tiếng Việt có rất nhiều điểm giống như với
cấu tạo của chủ ngữ trong tiếng Trung. Bao gồm:
Trong câu tiếng Việt, chủ ngữ thường do danh từ (ngữ danh từ) hoặc đại từ
(nhân xưng, chỉ định,...) đảm nhiệm:
17) Chẳng bao lâu, tôi //đã trở thành một chàng dế thanh niên, cường tráng. (Tô
Hoài, Dế mèn phiêu lưu ký)
18) Lửa // thử vàng, gian nan thử sức.
19) Miếng trầu//là đầu câu chuyện.
20) Cái bánh này//đã bị mốc rồi, không ăn được.
8 Đỗ Hồng Dương, tài liệu đã dẫn.
Động từ, tính từ (hoặc ngữ động từ, ngữ tính từ), số từ cũng có thể làm chủ
18
ngữ nhưng ít được sử dụng, nhiều trường hợp cần phải danh từ hoá (thêm tiền tố
―sự/buổi/cuộc,... trước động từ/tính từ) đó. Ví dụ:
21) Lao động// là vinh quang.
22) Im lặng// là vàng.
23) Luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách,....// là thói quen
tốt. Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự //là thói quen xấu. (Băng Sơn,
Giao tiếp đời thường)
24) Tốt gỗ //hơn tốt nước sơn – Xấu người đẹp nết //còn hơn đẹp người (Tục
ngữ Việt Nam)
1.3. Cấu trúc cú pháp của câu
Khi nghiên cứu và tìm hiểu các tư liệu, chúng tôi nhận thấy một điểm rất
thú vị rằng có lẽ do ngữ pháp tiếng Trung và tiếng Việt có rất nhiều điểm giống
nhau do cả hai ngôn ngữ đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập điển hình, trong
tiếng Việt lại có gần 70% yếu tố vay mượn của từ gốc Hán (từ Hán-Việt), chính
vì vậy quá trình nhận biết, lý giải của người Trung Quốc và Việt Nam về các sự
vật, hiện tượng, hành động, lời nói trong cuộc sống hàng ngày… cũng có nhiều
điểm giống nhau. Thậm chí ngay cả các quan điểm của học giả hai nước về một
hiện tượng ngôn ngữ cũng rất giống nhau.
Điển hình nhất có thể kể đến các quan điểm về cách phân chia từ loại thành
phần câu, cấu trúc câu, thành phần chính của câu … đều có nhiều điểm giống
nhau. Cho đến nay các nhà ngữ pháp học Trung Quốc và Việt Nam đều vẫn
tranh luận về cách thức phân chia cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị hoặc quan
hệ đề - thuyết.
1.3.1. Phân tích cấu trúc cú pháp của câu theo quan hệ chủ vị
Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu phổ biến ở Trung Quốc và
Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong các chương trình sách giáo khoa ngữ
văn trong trường học. Các đại diện cho trường phái này ở Trung Quốc có thể kể
19
đến như Hoang Bo Rong, Liao Xu Dong (Hiện đại Hán ngữ quyển thượng,
trang 72) mà chúng tôi đã giới thiệu ở phần trước của luận văn.
Zhao Yuan Ren (1948) trong cuốn Nhập môn quốc ngữ 9cho rằng danh từ,
từ thời gian, từ địa điểm đứng trước câu đều là chủ ngữ; quan hệ giữa chủ ngữ
và vị ngữ đôi khi khá lỏng lẻo, một câu có thể có hai hoặc ba chủ ngữ. Quan
điểm này của Zhao Yuan Ren đã khiến cho phạm vi về chủ ngữ trong tiếng Hán
mở rộng ra rất nhiều. Nhưng về bản chất có thể thấy tác giả không chỉ đồng ý
với quan điểm chia cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị mà còn đồng nhất toàn bộ
phần đề ở đầu câu đều có thể làm chủ ngữ. Ông cũng định nghĩa rằng ―chủ ngữ
chính là phần đề‖, hay nói cách khác là đồng nhất khái niệm ―chủ ngữ‖ và ―đề
ngữ‖ (khởi ngữ). Do tính chất của luận văn, chúng tôi không sử dụng quan điểm
này của Zhao Yuan Ren vì sẽ rất khó phân tách cấu trúc câu cũng như rất khó
phân tích các mô hình câu sử dụng chủ ngữ hình thức trong các tác phẩm văn
học dịch.
Ở Việt Nam thì một số đại diện cho trường phái này có thể kể đến là Trần Trọng Kim (1936) 10, Bùi Đức Tịnh (1952) 11, Hoàng Trọng Phiến (1980) 12, Diệp Quang Ban (1984) 13; Nguyễn Văn Hiệp (2009) 14,...
Ví dụ như, Bùi Đức Tịnh (1952) trong Văn phạm Việt Nam (trang 409) cho
rằng câu có một mệnh đề (tức câu đơn) gồm có hai phần là Chủ ngữ: chỉ người
hay vật được nói đến và Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật ấy‖ . Tuy
cách nói ―tuyên ngữ‖ không phổ biến và không được nhiều người biết đến (nhất
là với đối tượng là nghiên cứu sinh người nước ngoài như chúng tôi), nhưng
9 Zhao Yuan Ren (1984), Nhập môn Quốc ngữ,,Đại học Harvard xuất bản, trang 46-4. 10 Trần Trọng Kim (1936), Việt Nam văn phạm, Nxb.Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội, tái bản 2007. 11 Bùi Đức Tịnh (1952), Văn phạm Việt Nam, Sài Gòn. 12 Hoàng Trọng Phiến (1990), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp. 13 Diệp Quang Ban (1984), Cấu tạo câu đơn tiếng Việt., Trường ĐHSP Hà Nội. 14 Nguyên Văn Hiệp(2009),Cú pháp tiếng Việt,Nxb. Giáo dục Việt Nam.
cách phân chia như vậy (cũng như của các nhà nghiên cứu khác thuộc trường
20
phái này) là khá rõ ràng, thể hiện được bản chất và vai trò, chức năng của các
thành phần chính trong câu.
1.3.2. Phân tích cấu trúc cú pháp của câu theo quan hệ đề - thuyết
Cũng giống như tình hình phân tích theo quan hệ chủ - vị, ở cả Trung Quốc
và Việt Nam đến giờ vẫn tồn tại nhiều quan điểm thiên về phân tích câu theo
quan hệ đề - thuyết do những tồn tại của các phân tích theo quan hệ chủ - vị.
Nghiên cứu sớm nhất về kết cấu Đề-Thuyết này ở Trung Quốc theo ghi
nhận là Zhao Yuan Ren (1968). Điều đáng nói là trong rất nhiều quan điểm nên
tách biệt đề ngữ với chủ ngữ ra thì ông Zhao không đề xướng phải phân biệt phần đề
ngữ (khởi ngữ) với chủ ngữ mà chủ trương ―Chủ ngữ của tiếng Hán chính là phần đề
ngữ‖. Ông Zhao cho rằng nếu xét từ góc độ ý nghĩa ngữ pháp thì ―đề ngữ‖ trong kết cấu ―Đề - Thuyết‖ hoàn toàn giống với ―Chủ ngữ‖ trong kết cấu ―Chủ - Vị‖ 15. Người viết
luận khá đồng tình với quan điểm này của Zhao Yuan Ren.
Một số đại diện khác nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Trung Quốc là Xu
Jie (2001), tác giả cho rằng ―Cái mà gọi là kết cấu đề - thuyết thực chất là kết cấu song chủ ngữ‖ 16.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Kim Phượng đã khái quát một
câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp: 17
(1) Theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống).
(2) Theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa).
(3) Theo cấu trúc đề - thuyết (ngữ pháp chức năng).
(4) Theo cấu trúc cái cho sẵn - cái mới (cấu trúc thông tin).
15Zhang Bo Jiang,Bản chất của kết cấu Đề-thuyết trong tiếng Hán. Nguồn: http://www.linguistics.org.cn/jufayuyi/uploads/pdf/zbj2013huatigenben.pdf. 16 Li Jin Man, Phần đề với Chủ ngữ và đề ngữ, đại học giao thông Thượng Hải/Đại học Nam Thông, tạp chí Hiện đại ngoại ngữ, tháng 8/2006, kỳ 3 tập 26. 17 Trần Kim Phượng, Bàn thêm về cấu trúc Đề - Thuyết của câu tiếng Việt, tạp chí Ngôn ngữ học và đời sống, số 3 (173)-2010.
Trong các phương pháp này thì phân tích câu theo cấu trúc đề-thuyết là
21
phương pháp ra đời tương đối muộn, hệ thống lý thuyết và cơ sở lý luận chưa nhiều.
Cũng tương tự với tình hình trong giới ngữ pháp học ở Trung Quốc, nhiều
nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng cho thấy những bất cập khi phân tích cấu
trúc câu theo quan hệ chủ - vị, ví dụ như trong bài Cấu trúc cú pháp của câu
tiếng Việt: Chủ - vị hay Đề - thuyết?, Nguyễn Hồng Cổn đã giới thiệu, khi phân
tích các kết cấu chủ - vị có chức năng biểu thị sự tình với các kết cấu có chức
năng truyền tải thông điệp, những nhà nghiên cứu theo quan điểm chủ - vị đã
thấy rằng bên cạnh các kết cấu chủ -vị có chủ ngữ trùng với chủ thể tâm lý thì
cũng có những trường hợp, chủ ngữ không trùng với chủ thể tâm lý. Vì vậy để
phân biệt các chủ thể tâm lý không trùng với chủ ngữ (chủ thể ngữ pháp), các
nhà nghiên cứu đã đề xuất thêm một thành phần câu mới là ―chủ đề‖ - ―khởi
ngữ‖ - ―đề ngữ‖. Tác giả Nguyễn Hồng Cổn cũng kết luận rằng, thực chất việc
đưa thêm các khái niệm ―chủ đề‖, ―đề ngữ‖ hay ―khởi ngữ‖…chỉ là một giải
pháp tình thế nhằm khắc phục sự chênh nhau giữa chủ ngữ (ngữ pháp) và chủ
thể tâm lý, và điều đó cũng cho thấy sự hạn chế của kết cấu chủ - vị nói chung
và khái niệm chủ ngữ nói riêng trong việc phân tích câu. Tuy nhiên, tác giả
Nguyễn Hồng Cổn thừa nhận cấu trúc chủ - vị trong tiếng Việt và đẩy xuống là cấu trúc của cú chứ không phải của câu. 18 Trong luận văn của mình, sau khi
tìm hiểu kỹ các cơ sở lý luận liên quan, chúng tôi nhận thấy không có sự khác
nhau giữa khái niệm ―đề ngữ‖ hay ―khởi ngữ‖, vì vậy chúng tôi sẽ sử dụng đồng
thời các thuật ngữ này với tính chất tương đương.
Một số đại diện tiêu biểu ở Việt Nam chủ trương phân tích cấu trúc câu
theo quan hệ Đề - Thuyết có thể kể như: Lưu Vân Lăng (1986), các tác giả cuốn
Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH 1983) cũng cho rằng nòng cốt cú pháp của câu
18 Nguồn: https://ngonnguhoc.org/index.php?Itemid=39&catid=29&id=243:cu-truc-cu-phap-ca-cau-ting-vit-ch-v- hay--thuyt&option=com_content&view=article. Truy cập ngày 21/7/2019.
đơn được xây dựng trên quan hệ đề- thuyết. Cao Xuân Hạo (1991), là người đầu tiên
22
áp dụng một cách triệt để quan hệ đề - thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt . Họ đưa ra khái niệm cơ bản của ―Đề‖ và ―Thuyết‖ như sau:19
Phần đề: chỉ ra cái được nói đến trong câu. Cái được nói đến thường là cái
đã biết trong quá trình diễn ra hoạt động giao tiếp giữa hai người. Nó là cơ sở, là
điểm xuất phát cho hoạt động thông báo ở trong câu. Theo định nghĩa này, có
thể thấy ―đề ngữ‖ trong tiếng Việt rất giống với khái niệm ―đề ngữ‖ (khởi ngữ)
trong tiếng Trung, đồng thời nếu xét từ góc độ ngữ nghĩa ngữ pháp thì cũng
không có quá nhiều khác biệt với chủ ngữ.
Phần thuyết: chứa đựng nội dung nói về phần đề. Do đó nó thường là
phần mang thông tin mới, là trọng tâm thông báo của câu. Cũng vì thế, một câu
không thể không có phần ―thuyết‖, trong khi có thể không có phần ―đề‖.
Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ ngữ hình thức –
thông thường chỉ giới hạn ở chủ ngữ ―nó‖ (hoặc biểu thị số nhiều như chúng nó),
vì vậy cách phân tích câu theo quan hệ đề - thuyết sẽ khiến chúng tôi gặp khó
khăn khi đối chiếu điểm giống và khác nhau cũng như đối chiếu phương pháp
dịch, cũng không phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Vì vậy để thống
nhất, kế thừa những tiêu chí nhận diện chủ ngữ trên đây, chúng tôi chủ trương
nhận diện chủ ngữ một cách đơn giản: chủ ngữ là thành tố thuộc nòng cốt câu,
có mối quan hệ chặt chẽ với vị ngữ, thường xuất hiện ngay trước vị ngữ. Đồng
thời cũng chủ trương áp dụng phương pháp phân tích câu theo quan hệ chủ - vị,
theo chúng tôi, như vậy sẽ dễ dàng phân biệt chủ ngữ với những thành tố nằm
ngoài thành phần chính của câu hơn (như trạng ngữ, khởi ngữ trong trường hợp
các thành tố ấy đứng đầu câu chẳng hạn.)
1.4. Lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu
Ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ học đối chiếu (còn
19 Cao Xuân Hạo (1991), Đào Thanh Lan (2002).
gọi là phân tích đối chiếu, nghiên cứu đối chiếu) nhanh chóng trở thành một bộ
23
môn có nhiều đóng góp nhất trong nghiên cứu ngôn ngữ học, trong ứng dụng
của ngôn ngữ vào đời sống xã hội, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ
cũng như trong lĩnh vực dịch thuật. Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học,
ngôn ngữ học đối chiếu chú trọng tới việc đối chiếu ngôn ngữ trong giao tiếp.
Chẳng hạn như đối chiếu việc sử dụng chủ ngữ hình thức 他 trong giao tiếp
tiếng Trung và tiếng Việt. Hoặc đối chiếu các hành vi ngôn ngữ và các biểu hiện
của chúng giữa các ngôn ngữ.
Như vậy, đối chiếu song ngữ Trung – Việt hoặc Việt - Trung cũng không
nằm ngoài những vấn đề của ngôn ngữ học đối chiếu nói chung. Khi tiến hành
so sánh, đối chiếu việc sử dụng chủ ngữ hình thức 他 trong crong gữ hình t,
cần phải nắm bắt được những đặc điểm tương đồng, nhất là những điểm khác biệt. 20 Nếu không nắm được những điểm riêng này thì sẽ dễ mắc lỗi trong quá
trình đối chiếu song ngữ.
Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ đẻ có thể có ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đối với người học. Ảnh hưởng tiêu cực là hiện tượng xảy ra khi có
sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu
trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác
biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm
lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi
nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa.
Chẳng hạn như trong quá trình học tập tiếng Việt Nam, người viết cũng
thường xuyên mắc lỗi về cấu trúc. Những lỗi về từ vựng thường do người viết
không hiểu ý nghĩa của từ (từ mới), nhưng lỗi về cấu trúc hầu hết là do không
nắm được cấu trúc tương đương trong tiếng Việt (và ngược lại). Vì thế khi đối
20 Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Hoàng Anh, Trần Thị Kim Loan, Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ Hán – Việt, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, trang 25-37.
chiếu, so sánh và nhất là khi chuyển dịch thì thường bị mắc lỗi như dịch thiếu,
24
dịch thừa hoặc không đối chiếu được cụ thể các thành phần câu. Lý do là trong
tiếng Trung và tiếng Việt nhiều khi các thành phần cấu tạo nên một câu bản thân
nó cũng có cấu tạo rất phức tạp. Điển hình như với việc đối chiếu các mô hình
câu có sử dụng chủ ngữ hình thức 他, giai đoạn đầu người viết khá khng tún
trong việc xác định khi nào ―nó‖ là đại từ, là chủ ngữ, là tân ngữ, khi nào thì
―nó‖ là chủ ngữ hình thức. Một ví dụ khác, trong mô hình câu ―Khởi ngữ +他+
Vị ngữ‖, nhiều khi thành phần khởi ngữ có cấu tạo rất phức tạp, nhất là trong
tiếng Việt. Vì vậy có nhiều câu dài, khởi ngữ không đơn giản chỉ do một loại từ
(danh từ, đại từ,...) tạo thành mà có thể do một cụm từ có nhiều tầng cấu trúc tạo
nên, việc chuyển dịch gặp rất nhiều khó khăn. Thông thường cách xử lý là phải
tách thành các câu nhỏ hơn.
Ví dụ, trong quá trình khảo sát tài liệu cũng như quan sát giao tiếp hàng
ngày, người viết nhận thấy rằng việc dịch một câu gốc tiếng Trung sang tiếng
Việt có sử dụng chủ ngữ hình thức ―nó‖ nhiều khi không hề đơn giản, nhất là
trong những câu có khả năng gây hiểu lầm như các ví dụ sau:
25)贾母想了一想: ―说的果然不错。若是等这几件事过去,他父亲又走了。
倘或这病一天重似一天,怎么好?
=>Dịch thẳng: Giả mẫu ngẫm nghĩ: ―Nói như thế quả đúng đấy. Nhưng nếu chờ
cho qua mấy việc kia, cha nó lại đi mất rồi, nhỡ ra bệnh này càng ngày càng
thêm nặng thì làm thế nào?
=>Dịch ý (bản dịch) Giả mẫu ngẫm nghĩ: ―Nói như thế quả đúng đấy. Nhưng
nếu chờ cho qua mấy việc kia, cha nó lại đi mất rồi, nhỡ ra bệnh nó càng ngày
càng thêm nặng thì làm thế nào.(Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần, Hồi thứ 96)
26)杜大娘愤怒地说:―不是我心疼,我是怕他吃坏了嗓子。‖
=>Dịch thẳng: Bà Đỗ giận dữ nói: ―Không phải tao tiếc của, tao là sợ nó / Bảo
Ngọc ăn bị sƣng cổ họng.”
=> Dịch ý (Bản dịch): Bà Đỗ giận dữ nói: Không phải tao tiếc của, chỉ sợ mặn
25
quá khiến cổ họng nó sưng tấy lên thôi! (Trâu thiến, Mạc Ngôn, chương 7).
Trong câu 25, câu gốc dùng cấu trúc phổ biến của tiếng Trung là ―Đại từ chỉ
định + danh từ‖ (这病, nghĩa là ―bệnh này‖). Tuy nhiên khi dịch sang tiếng Việt,
tác giả lại dùng cấu trúc câu có dùng chủ ngữ hình thức ―bệnh nó‖ làm cho câu
này có hai cách hiểu: hoặc là ―nó‖ trong ―bệnh nó‖ có quan hệ đồng quy chiếu
(chủ ngữ chính thức và chủ ngữ hình thức ―nó‖ cùng chỉ về một đối tượng) với
―bệnh‖ (mà trường hợp này thì lý giải theo hướng này có lẽ là phù hợp nếu so
sánh với câu gốc), tức là nó là chủ ngữ hình thức. Tuy nhiên nếu mở rộng ra ngữ
cảnh của cả đoạn văn thì cũng có thể hiểu ―bệnh nó‖ ở đây là ―bệnh của nó‖ –
cấu trúc sở hữu, thì khi ấy ―nó‖ sẽ không có quan hệ đồng quy chiếu với ―bệnh‖
mà sẽ chỉ đến một người hoặc vật nào đó mà người nói đang nhắc đến (nhân vật
trong tác phẩm – Giả Bảo Ngọc).
Tương tự, trong câu 26, nếu sử dụng phương pháp dịch thuận, tức là cố gắng
giữ nguyên cấu trúc dịch của câu gốc, thì ―tao là sợ nó/Bảo Ngọc ăn bị sưng cổ
họng‖ là cách dịch an toàn, khó gây hiểu lầm về nghĩa. Tuy nhiên rõ ràng rằng
nếu dịch như vậy thì chỉ bảo đảm được về mặt nội dung, nhưng lại không đạt
được hiệu quả về diễn đạt (không hay), đối chiếu với bản dịch chuẩn của Trần
Đình Hiến (cổ họng nó sưng tấy lên) thì chắn chắn bản dịch của Trần Đình Hiến
là phù hợp hơn cả với tư duy và thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Việt
Nam. Tuy nhiên khi dùng ―cổ họng nó‖ thì tương tự như câu 25, có thể hiểu
theo hai cách là: ―nó‖ đồng quy chiếu với ―cổ họng‖ thì là chủ ngữ hình thức,
―nó‖ không đồng quy chiếu với cổ họng mà thay thế cho một người nào đó đã
được nhắc đến trong các câu trên thì ―nó‖ ở đây không phải là chủ ngữ hình
thức, nó sẽ có mối quan hệ ―sở hữu‖ với ―cổ họng‖ (cổ họng của nó).
Những câu kiểu trên đây không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, tuy
nhiên chúng tôi cho rằng rất đáng để quan tâm nhằm hạn chế được việc mắc lỗi
khi sử dụng chủ ngữ hình thức. Ở đây chúng tôi chỉ đưa ra để nhằm cung cấp và
26
chia sẻ thêm một góc độ, một quan điểm nghiên cứu với người đọc.
Tiểu kết chƣơng 1
Ở chương 1, để chuẩn bị các cơ sở lý luận cho chương 2 và chương 3,
người viết đã cố gắng giới thiệu những lý thuyết liên quan và cơ bản nhất như
chủ ngữ trong tiếng Trung và tiếng Việt. Trên cơ sở chỉ ra những khác nhau và
giống nhau của chủ ngữ tiếng Trung với tiếng Việt từ mặt khái niệm, chức năng
đến vai trò cú pháp, kèm theo đó là các ví dụ chứng minh sinh động, chúng tôi
đã nắm được một số quy tắc khi tiến hành phân tích câu có sử dụng chủ ngữ
hình thức trong phạm vi khảo sát.
Tiếp đó, chúng tôi cũng giới thiệu khái quát nhất các quan niệm về cấu trúc
cú pháp của câu, trong đó nổi bật là quan niệm về phân tích cấu trúc cú pháp
theo quan hệ chủ - vị và theo quan hệ đề - thuyết. Để phù hợp với các vấn đề
luận văn muốn đề cập, chúng tôi áp dụng quan điểm phân chia câu theo kết cấu
―Chủ - Vị‖ mà không áp dụng theo quan niệm về ―Đề-Thuyết‖. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp, chúng tôi cũng sẽ sử dụng những thuật ngữ hoặc lý thuyết
này một cách linh hoạt.
Đồng thời, để những kết quả nghiên cứu của luận văn có tính thuyết phục
hơn, chúng tôi cũng giới thiệu khái quát lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu để
tạo cơ sở cho việc so sánh các điểm tương đồng và khác biệt của chủ ngữ hình
thức trong tiếng Trung và tiếng Việt ở các chương sau của luận văn.
27
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC
TRONG TIẾNG TRUNG
2.1. Khái quát về chủ ngữ hình thức
Từ những giới thiệu sơ bộ về chủ ngữ trong tiếng Việt và tiếng Trung ở
chương 1, có thể kết luận rằng chủ ngữ trong tiếng Việt và tiếng Trung có rất
nhiều điểm tương đồng. Không chỉ là về mặt khái niệm, định nghĩa, mà còn về
cả chức năng cú pháp trong câu, các từ loại có thể làm chủ ngữ… cũng rất giống
nhau. Có thể tổng kết một vài điểm như sau:
1. Chủ ngữ trong tiếng Trung và tiếng Việt đều thường do danh từ (ngữ
danh từ) hoặc đại từ đảm nhiệm. Tuy nhiên cũng có thể do động từ, tính từ (ngữ
động từ, ngữ tính từ đảm nhiệm).
2. Chủ ngữ thường trả lời cho câu hỏi ―ai , cái gì, con gì‖?
3. Chủ ngữ thường đứng ở đầu câu hoặc trước vị ngữ, ngoại trừ một số
kiểu câu đặc biệt (như câu tồn tại).
Sự giống nhau nhiều mặt (cả về khái niệm lẫn cấu tạo) của chủ ngữ trong
tiếng Trung và tiếng Việt là điều kiện thuận lợi để chúng tôi nghiên cứu về chủ
ngữ hình thức trong hai ngôn ngữ. Bởi vì chủ ngữ hình thức, trước hết nó chính
là một dạng ―chủ ngữ‖, tức là các khái niệm, định nghĩa, thành phần cấu tạo
(chủ ngữ hình thức do đại từ nhân xưng ngôi thứ ba 他đảm nhận), chức năng cú
pháp trong câu (chủ ngữ)… thì cũng đều có sự tương đồng trong tiếng Trung và
tiếng Việt do đây là hai ngôn ngữ đơn lập rất điển hình. Và hiện tượng chủ ngữ
hình thức (chủ ngữ giả) cũng không phải chỉ xuất hiện trong tiếng Trung và
tiếng Việt, nói đúng hơn, chúng phổ biến trong các ngôn ngữ biến hình, ngôn
ngữ thiên chủ ngữ như tiếng Anh (it). Nguyên nhân là vì chủ ngữ trong các ngôn
ngữ này đã chuyển sang một chủ ngữ hình thức nên chức năng quan trọng nhất
của chủ ngữ lại là gắn với động từ vị ngữ nhằm xác lập một quan hệ hợp dạng.
Trong các ngôn ngữ này, động từ là yếu tố bắt buộc phải xuất hiện trong câu.
28
Mặt khác, động từ luôn phải được chia ở một thời, một thức, một thể nhất định.
Cho nên có thể thấy rằng trong mô hình phân tích câu của người châu Âu, thay
vì một kết cấu chủ - vị (S-P) mượn của logic học, người ta thay bằng S-V, hay
S-O-V, ở đó, một yếu tố S (chủ ngữ) thuộc về bình diện phân tích cú pháp lại kết
hợp với một V (động từ) thuộc về bình diện từ vựng – ngữ pháp. Nghịch lý này
khẳng định một điều rằng tiêu chuẩn hình thức là tiêu chuẩn quan trọng hàng
đầu trong việc xác định chủ ngữ của các ngôn ngữ châu Âu. Có thể thấy rằng,
trong một cấu trúc đơn song phần bình thường của tiếng châu Âu, chủ ngữ cần phải có mặt dù rằng nó có thể không đảm nhiệm bất kỳ một vai nghĩa nào‖ 21.
Còn với những ngôn ngữ thiên chủ đề (thiên đề ngữ) như tiếng Trung và
tiếng Việt, chúng chỉ phổ biến trong văn nói chứ không phổ biến trong văn viết, và cũng không thực sự ―cần thiết‖ ở trong câu 22. Đây là lý do vì sao mặc dù
kiểu câu có chủ ngữ hình thức 他 rất thú vị nhưng lại không nhận được nhiều
sự quan tâm của giới nghiên cứu trong tiếng Trung và tiếng Việt, dẫn đến việc
khó tìm tài liệu tham khảo (cơ sở lý luận) cũng như khó tìm ngữ liệu để làm dẫn
chứng minh hoạ.
―Chủ ngữ hình thức‖ (còn được gọi là chủ ngữ giả, chủ ngữ rỗng, chủ ngữ
bù nhìn...) là một loại chủ ngữ chỉ đảm nhiệm chức năng hình thức thuần túy
chứ không biểu thị một sự vật thực nào... Trong tiếng Việt, chủ ngữ hình thức được thể hiện ra vỏ ngữ âm bởi từ ―nó‖ 23. Còn trong tiếng Trung, Dong Xiu Fang24 cũng đã giới thiệu khá cơ bản về các mô hình câu có chủ ngữ hình thức
他 và đưa ra định nghĩa khái quát như sau: ―Chủ ngữ hình thức là một loại chủ
ngữ chỉ đảm nhiệm chức năng hình thức thuần túy chứ không biểu thị một sự vật
21 Hoàng Thị Thu Thủy (2006), Về một kiểu câu có chủ ngữ giả trong tiếng Việt (kiểu câu ―Mùa hè mặc quần đùi cho nó mát‖, tư liệu đã dẫn. 22 Nguyên Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú Pháp, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.207. 23 Đỗ Hồng Dương (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lí thuyết điển mẫu, Luận án TS 24 Tài liệu đã dẫn.
thực nào... Trong tiếng Việt, chủ ngữ hình thức được thể hiện ra vỏ ngữ âm bởi
29
từ ―nó‖. Trong tiếng Trung, Dong Xiu Fang cũng đã giới thiệu khá cơ bản về
các mô hình câu có chủ ngữ hình thức 他, và đưa ra định nghĩa khái quát như
sau: ―Khi 他 không hồi chỉ thành phần mang tính danh từ chỉ người thì 他đã
vượt qua cách dùng cơ bản của một đại từ nhân xưng ngôi thứ 3, trở thành một
thành tố chiếm giữ một vị trí cú pháp đơn thuần trong câu. Sự xuất hiện và
chiếm giữ này của 他 không phải để thoả mãn yêu cầu về mặt ngữ nghĩa, ngữ
dụng mà là để thoả mãn yêu cầu về mặt cấu trúc, có thể so sánh với các thành
phần chiếm giữ vị trí chủ ngữ tương tự trong tiếng Anh là ―there, it‖. Trong giao
tiếp khẩu ngữ hàng ngày có thể gọi 他 này là Chủ ngữ bù nhìn‖ (傀儡主语 –
dummy subject), hay chính là chủ ngữ hình thức‖.
Như vậy, chủ ngữ hình thức xuất hiện trong cả hai ngôn ngữ. Tuy nhiên,
tiềm năng nghiên cứu về loại chủ ngữ này từ góc độ so sánh, đối chiếu hoặc
phương pháp dịch thì còn rất lớn vì hiện tại hầu như chưa có tác giả nào quan
tâm nghiên cứu chuyên sâu.
2.2. Các mô hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung
2.2.1. Mô hình “Khởi ngữ , 他 + Cụm động từ”
Trước hết chúng tôi có thể khẳng định rằng, mô hình này chiếm số lượng
phổ biến theo kết quả khảo sát của chúng tôi, chẳng hạn như trong 67 câu có sử
dụng chủ ngữ hình thức 他 thống kê được từ 33 tác phẩm văn học, đã có cới
63 câu theo mô hình này, chiếm 94,03%.
Kết luận này đúng với cả tình hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt. Chúng tôi sẽ lập bảng thống kê chi tiết ở phần dưới đây của
luận văn.
他 là đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 trong tiếng Hán hiện đại, nhưng cũng là
một đại từ rất đặc biệt. Ngoài cách dùng như một đại từ chỉ người thông thường
(tương đương với đại từ ―anh ấy‖ trong tiếng Việt, ―he‖ trong tiếng Anh,...) thì
他lại cũng được sử dụng như một đại từ phiếm chỉ (hư chỉ), tức là có thể thay
30
thế cho nhiều ngôi chủ ngữ mà không chỉ là ―anh ấy‖. Cách dùng đặc biệt này
của 他là đặc điểm riêng mà chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt không có.
Tức là 他xuất hiện trong vị trí của chủ ngữ trong cấu trúc đề thuyết, chỉ về
phần đề đằng trước nó mà không phải phần ―thuyết‖ đằng sau. Do trong tiếng
Trung cùng một phiên âm ―Ta‖ nhưng có nhiều cách viết (他-anh ấy, chỉ người,
ngôi thứ ba; 她-cô ấy, chỉ người, ngôi thứ ba và 它-nó, chỉ sự vật, hiện tượng),
khi làm chủ ngữ hình thức thì 他có thể thay cho cả 她/他và 它. Điểm này thì
giống chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt, cũng có thể chỉ người (cô ấy,
anh ấy, bọn chúng,..., cũng có thể chỉ vật, hiện tượng,...). Thậm chí còn có thể
chỉ số nhiều như ―họ, bọn nó, chúng nó, bọn họ,...‖. Cũng có thể chỉ sự vật, sự
việc cụ thể hoặc trừu tượng. Qua nghiên cứu, chúng tôi phát hiện rằng đặc điểm
này của chủ ngữ hình thức trong hai ngôn ngữ đều giống nhau.
Chức năng của chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung có thể khái quát
như sau. Bao gồm:
Đại từ 他khi làm chủ ngữ hình thức, có chức năng chỉ xưng thành tố mang
tính danh từ chỉ một người cụ thể nào đó thuộc phần khởi ngữ đã xuất hiện
đằng trước trong cuộc hội thoại. Ví dụ:
27) 你看,咱们家老头啊,他有时候很喜欢跟我开玩笑呢!(Ngữ liệu trực
tiếp)
=> Chị xem, ông nhà tôi nhiều khi rất thích trêu chọc tôi.
28) 徐伯伯他再有钱也不会雇保姆。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Ông Từ có nhiều tiền đến mấy cũng không thuê giúp việc.
29) 你看寺庙里的那些天天来烧香的人,他为什么,就是为了有个精神寄托。
(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Anh xem những người ngày nào cũng đến chùa thắp hương kia, là vì lý
do gì, chính là vì tìm sự bình yên cho tâm hồn.
Chủ ngữ hình thức 他 trong các ví dụ dưới đây khi hồi chỉ (chỉ xưng)
31
phần đề (khởi ngữ) đằng trước thì sẽ mang tính chất loại chỉ hoặc số nhiều:
30) Chỉ số nhiều: 这些人啊,他都不是好人。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Những người này à, đều không phải là người tốt.)
31) Chỉ vật: 这画啊,他可能是假的嘞。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Bức tranh này à (nó) có thể là giả đấy)
32) Loại chỉ (chỉ loại):你看,这满屋子的装饰,家具,他都别有一番风味。
(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Anh xem này, trang trí, nội thất của căn phòng này, (nó) rất độc đáo.)
Những cách dùng trên của chủ ngữ hình thức 他rất đồng nhất với chức
năng của đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Còn các cách dùng của 他 dưới đây thì
lại rất khác với chức năng của một đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, cụ thể:
Khi xuất hiện ở vị trí chủ ngữ hình thức, đại từ 他còn có thể chỉ sự vật, hiện
tượng. 他hồi chỉ thành tố mang tính danh từ mà không phải chỉ người.
Chức năng này rất giống với chủ ngữ hình thức ―nó‖ của tiếng Việt mà
chúng tôi sẽ giới thiệu kỹ hơn ở chương 3 dưới đây.
33) 这只狗,他成天叫唤。(Con chó này, (nó) kêu cả ngày.) (Ngữ liệu trực tiếp)
他 làm chủ ngữ hình thức, chỉ xưng cho phần đề đằng trước là danh từ chỉ
vật (con chó).
34) 这些书,他就是贵。(Những quyển sách này rất đắt.) (Ngữ liệu trực tiếp)
他làm chủ ngữ hình thức thay cho ―这些书‖(những quyển sách này) là danh
từ chỉ số nhiều).
Phần khởi ngữ mà 他 chỉ định hoặc thay thế khi làm chủ ngữ có thể là vật
vô tri, là sự vật mà thành tố mang tính danh từ biểu thị, cũng có thể là những
sự việc mang tính trừu tượng do những thành tố mang tính động từ biểu thị:
35) 今儿,他不是冬至嘛! ( Hôm nay, (nó) không phải là đông chí à!) (Ngữ
liệu trực tiếp)
他 làm chủ ngữ hình thức thay cho phần khởi ngữ 今儿(hôm nay)không
32
chỉ vật).
36) 打车,他不是贵嘛!( Gọi taxi đi thì nó đắt mà! ) (Ngữ liệu trực tiếp)
他làm chủ ngữ hình thức thay thế cho phần khởi ngữ đằng trước là cụm
động từ 打车(gọi taxi).
37) ―欠债还钱‖,这到哪儿他都是这么个理呀。 (―Có nợ phải trả‖, cái lý này
đi đâu cũng đúng.) (Ngữ liệu trực tiếp)
他làm chủ ngữ hình thức thay thế cho phần khởi ngữ đằng trước là cụm
động từ ―欠债还钱‖(Có nợ phải trả)
Trong những tình huống nhất định thì 他có thể được thay thế bằng đại từ
chỉ định 这 (này), chẳng hạn như trong các ví dụ trên, đều có thể thay thế
他bằng 这. Đặc điểm này có thể coi là một đặc điểm rất riêng của chủ ngữ
hình thức 他 trong tiếng Trung. Kết quả khảo sát các câu có chủ ngữ hình
thức 他 của chúng tôi đã cho thấy rằng, trong 356 câu dịch tiếng Việt có sử
dụng chủ ngữ hình thức ―nó‖ khi chuyển dịch, thì trong văn bản gốc tiếng
Trung đã có tới 176 câu (chiếm 49,4%) câu dùng đại từ chỉ định 这(này)
hoặc 那(kia). Nói cúng hơng thì người Trung Quốc sẽ có thói quen dùng cấu
trúc 这/那 (này/kia)+ Chủ ngữ chính (tính danh từ) hơn. Nhưng trong
hầu hết các câu này, cũng như các câu ví dụ bên trên, thì đều có thể thay 这/
那 (này/kia)bằng chủ ngữ hình thức 他 (他khi làm chủ ngữ hình thức thì
sẽ chuyển vị trí từ trước chủ ngữ chính ra sau chủ ngữ chính để bảo đảm
chức năng thuyết minh cho phần khởi ngữ), mà vẫn bảo đảm 他 hoạt động
giống như một chủ ngữ hình thức ở trong câu.
Ví dụ các câu sau:
38) 老君大惊道:―这//孽畜几时走了?‖
=>Bản dịch: Lão Quân ngó lại, kinh hãi nói rằng: - Không biết súc sinh nó trốn
hồi nào, thiệt ta vô ý quá! (Tây du ký, hồi 52)
39) 今日不知这//妇人用的是甚么兵器,把老孙头弄伤也!‖
33
=>Bản dịch: Chẳng biết con tinh cái nó dùng vật chi độc quá, nên mới nhức
đầu như vầy. (Tây du ký, hồi 55)
40) 这//小贼是要逼我知难而退,自行认输。
=>Bản dịch: Té ra thằng tiểu tặc nó đưa ta vào tình thế không sao được mà
phải rút lui để tự nhận lấy phần thất bại. (Tiếu ngạo giang hồ, chương 157)
Ba ví dụ trên, trong câu gốc tiếng Trung, chủ ngữ đều do―这/那+danh từ‖
tạo thành, trong đó đại từ chỉ định ―这/那‖(này/đó)về mặt ý nghĩa ngữ pháp thì
cũng giống như vai trò của chủ ngữ hình thức ―nó‖, chỉ nhằm mục đích nhấn
mạnh và nếu bỏ đi thì cũng không ảnh hưởng đến ý nghĩa của cả câu. Vì vậy,
nếu thay cấu trúc ‖这/那+danh từ‖ bằng ―Danh từ ngữ + 他‖, sử dụng chủ ngữ
hình thức 他thì vẫn hoàn toàn phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp hàng ngày của người Trung Quốc.
Trong các ví dụ có sử dụng 他như một chủ ngữ hình thức ở trên, có thể
khái quát mô hình của các câu này là: “Khởi ngữ , 他 + Cụm động từ”. Về
hình thức biểu hiện, có thể thấy rằng nếu trong giao tiếp thì giữa phần khởi ngữ
(đề ngữ) và 他 thường sẽ ngừng lại, còn trong ngôn ngữ viết (văn bản) thì
thường dùng dấu ―,‖ để ngắt câu, tuy nhiên dấu ―,‖ này có hay không cũng
không làm ảnh hưởng đến ý nghĩa của câu, vì vậy chúng tôi để trong ( ) để biểu
thị có thể có hoặc không cần.
2.2.2. Mô hình “他 + vị ngữ”
Ngoài mô hình phổ biến trong kết quả khảo sát ở trên, chúng tôi cũng thống
kê được một số câu có sử dụng chủ ngữ hình thức 他nhưng theo mô hình ―他 +
vị ngữ‖ . Tuy nhiên kết quả thống kê được rất ít, chứng minh rằng mô hình câu
này không phổ biến (chỉ có 4/67 câu có chủ ngữ hình thức mà chúng tôi thống
kê được từ 33 tác phẩm văn học, chiếm 5,97%). Ví dụ:
41) 燕顺亲耳听得―宋江‖两字,便喝住小喽罗道:―且不要泼水。‖燕顺问
道:―他//那厮说甚么‗宋江‘?
34
Bản dịch: Yên Thuận nghe nói hai chữ Tống Giang thì lật đật kêu lâu la ngưng
lại mà rằng: Khoan khoan đã, thằng đó// nó nói cái gì mà Tống Giang đó vậy?
(Thuỷ Hử, hồi thứ 31)
42) 庄之蝶勃然大怒,骂道:×他娘的洪江! //他也敢这么作践我了?
Bản dịch: Trang Chi Điệp nổi giận đùng đùng mắng: Cha cái thằng Hồng Giang,
nó cũng dám bôi xấu tôi à? (Phế Đô, Giả Bình Ao, Chương 92)
43) 他//这件官司并无难断之处,皆因都碍着情分面上,所以如此。
=> Cái án này thực ra chẳng có gì là khó xử. Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt
họ mà không xử đấy thôi.(Hồng Lâu Mộng, hồi 4)
44) 他无论是诗还是大写意画,都需要人能欣赏和了解,它们都各有所长。
=> Nhưng theo bác nghĩ thì dù là một bài thơ hay một bức họa đều có những ưu
điểm riêng của nó. (Hãy ngủ yên tình yêu, Quỳnh Dao, chương 12)
Mô hình câu này đằng trước chủ ngữ hình thức他 không có khởi ngữ. Tuy
nhiên thông thường sẽ phải căn cứ vào ngữ cảnh của các câu đằng trước (trong
đoạn văn) để có thể hiểu được toàn bộ nội dung của câu. Nhất là trong quá trình
dịch thuật, việc này sẽ rất quan trọng vì nó sẽ giúp người phiên dịch phân tích
được các cấu trúc, thành phần câu cụ thể. Qua khảo sát, tuy số lượng câu như
vậy không nhiều nhưng chúng tôi nhận thấy rằng, những câu theo mô hình này
thường không được dịch riêng như các kiểu câu khác mà thường được dịch kết
hợp với các câu trước và sau câu sử dụng chủ ngữ hình thức. Đây là một điểm
rất khó trong quá trình dịch thuật, nhất là dịch tác phẩm văn học. Như các câu
trên là ví dụ, cần phải đặt câu có chủ ngữ 他vào toàn bộ đoạn văn (các câu đằng
trước và câu đằng sau) thì chúng ta mới hiểu hết được ý nghĩa mà tác giả muốn
biểu đạt.
Tuy vậy, ở đây chúng tôi cũng cần nhấn mạnh rằng, tuy không xuất hiện
nhiều trong ngôn ngữ viết, nhưng các kiểu câu có sử dụng chủ ngữ hình thức 他
bên trên có thể bắt gặp dễ dàng trong giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày của người
35
Trung Quốc. Bản thân người viết luận là người Trung Quốc, cũng rất hay sử
dụng những cách nói có chủ ngữ hình thức như vậy. Tuy nhiên trong những văn
bản viết chính quy thì 他sẽ không được dùng. Ví dụ người Trung Quốc trong
giao tiếp có thể nói là ―这个办法他不管用‖ (Biện pháp này nó không hiệu quả),
nhưng khi đưa vào văn bản viết thì phải viết là ―这个办法不管用‖ (Biện pháp
này không hiệu quả). Không chỉ thế, ngay cả khi sử dụng 他với chức năng là
một chủ ngữ hình thức trong câu, thì câu đó cũng phải xuất hiện trong đoạn hội
thoại giữa các nhân vật mà không thể đứng riêng thành câu miêu tả, trần thuật,...
Chứng minh rằng chủ ngữ hình thức chỉ có thể dùng trong ngữ cảnh khẩu ngữ.
Ví dụ:
45) 他//这猫啊,每天晚上都叫唤。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Con mèo này đêm nào cũng kêu.)
46) 他//这事啊,咱有理,政府也得考虑我们的实际情况呀。(Ngữ liệu trực
tiếp)
=> Về vấn đề này, chúng ta có lý, chính phủ cũng phải xem xét hoàn cảnh cụ thể
của chúng ta.)
47) 他//这些老鼠呀,讨厌的很,老是吃桌上的面包。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Lũ chuột đáng ghét lúc nào cũng ăn vụng bánh mì trên bàn.)
2.3. Khảo sát tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và
tiếng Việt
Bởi vì người viết luận văn là người Trung Quốc học tiếng Việt nên không
thể tổng hợp nguồn tư liệu từ giao tiếp hàng ngày của người Việt Nam do sẽ gặp
khó khăn trong việc lý giải cũng như khi phân tích sẽ thiếu thuyết phục. Vì vậy
chúng tôi đã chọn lọc các câu có chủ ngữ hình thức từ rất nhiều tác phẩm văn
học Trung Quốc đã được dịch sang tiếng Việt bởi các dịch giả nổi tiếng, có uy
tín người Việt Nam. Bên cạnh đó chúng tôi cũng xin được tham khảo một số
ngữ liệu từ luận văn của Hoàng Thị Thu Thuỷ (tài liệu đã dẫn) khi cần thiết. Kết
36
quả tổng hợp và thống kê của chúng tôi cũng rất khả quan. Tuy số lượng các câu
trong từng tác phẩm không có nhiều, có nhiều tác phẩm trong phạm vi khảo sát,
từ nhiều thể loại văn học khác nhau hoàn toàn không có câu dùng chủ ngữ hình
thức. Chưa kể các ví dụ chọn lọc từ giao tiếp hàng ngày của người Trung Quốc
Câu có 他
và Việt Nam, chỉ tính riêng trong phạm vi hệ thống các tác phẩm văn học dịch Trung – Việt, tình hình chi tiết như bảng dưới đây:25 STT
Tên tác phẩm
Câu có “nó”
trong bản
trong bản
tiếng Việt
tiếng
Trung
18
01)
Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân)
62
Dịch giả: Bùi Hạnh Cẩn và Nghiêm Việt
Ân (2003, Văn Hóa Thông Tin)
02)
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)
3
42
Dịch giả: Nguyễn Hoàng, Nguyễn Đức Vân,
Nguyễn Thọ, Nguyễn Doãn Địch
03)
Linh Sơn (Cao Hành Kiện)
1
35
Dịch giả:Trần Đĩnh ( 2003, Nxb Phụ Nữ )
04)
Hư Ảo Một Cuộc Tình (Quỳnh Dao)
2
33
Dịch giả: Liêu Quốc Nhĩ (2004, Nxb Phụ Nữ)
05)
Thủy Hử (Thi Nại Am)
4
18
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải (1999, Nxb
Văn Học Hà Nội)
25 Để có cơ sở ngữ liệu phong phú, chính xác và để những kết luận của luận văn không mang tính chủ quan, chúng tôi đã lựa chọn nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung Quốc, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới trong đó có Việt Nam, với nhiều thể loại, từ văn học cổ điển đến hiện đại, từ thể loại kiếm hiệp, cổ trang đến ngôn tình,... Những tác phẩm văn học dịch luôn có hệ thống từ vựng, cấu trúc chuẩn xác nhất. Từ bản dịch (do các dịch giả Việt Nam nổi tiếng chuyển dịch), chúng ta cũng sẽ hiểu được ở một góc độ nhất định tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức của người Việt. Mặc dù nhiều tác phẩm trong phạm vi khảo sát của chúng tôi không có câu nào sử dụng chủ ngữ hình thức (ở cả bản gốc tiếng Trung và bản dịch tiếng Việt), nhưng cũng đều mang lại cho người viết luận những kết luận quý báu trong quá trình nghiên cứu.
37
06)
Liêu Trai Chí Dị (Bồ Tùng Linh)
1
1
Dịch giả: Nguyễn Đức Lân (2006, Nxb Văn Học)
07)
Báu Vật Của Đời (Mạc Ngôn)
2
12
Dịch giả: Trần Đình Hiến (2007, Nxb Văn Nghệ)
08)
Cao Lương Đỏ (Mạc Ngôn)
0
3
Dịch giả: Lê Huy Tiêu (2004, Nxb Văn Học)
09)
Cây Tỏi Nổi Giận (Mạc Ngôn)
0
5
Dịch giả:Trần Đình Hiển (2003, Nxb Văn Học)
10)
Trâu Thiến (Mạc Ngôn)
2
1
Dịch giả: Trần Trung Hỷ (2008, Nxb Văn Học)
11)
AQ Chính Truyện (Lỗ Tấn)
5
4
(Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, 2004, Nxb Văn
Học)
12)
Cố Hương (Lỗ Tấn)
1
1
(Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, 2004, Nxb Văn
Học)
13)
Ly Hôn (Lỗ Tấn)
0
4
(Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, 2004, Nxb Văn
Học)
14)
Không Kịp Nói Yêu Em (Phỉ Ngã Tư Tồn)
0
2
Dịch giả:Huyền Trang (2012, Nxb Văn Học)
15)
Tĩnh Mịch Không Đình Xuân Dục Vãn (Phỉ Ngã
0
1
Tư Tồn)
Dịch giả: Nghiêm Thanh Ngọc (2014, Nxb Lao
Động)
16)
Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
0
1
Dịch giả:Phương Sang (2013, Nxb Văn Học)
17)
Totem Sói (Khương Nhung)
0
3
Dịch giả: Trần Đình Hiến (2007, Nxb Công An
38
nhân dân)
18)
Phế Đô (Giả Bình Ao)
15
8
Dịch giả:Vũ Công Hoan (2005, Nxb Văn Học)
19)
Hoài Niệm Sói (Giả Bình Ao)
2
1
Dịch giả: Vũ Công Hoan (2003, Nxb Văn Học)
20)
Chuyện Hứa Tam Quan Bán Máu (Dư Hoa)
2
5
Dịch giả:Vũ Công Hoan ( 2006, Nxb Công An
Nhân Dân)
21)
Sống (Dư Hoa)
6
2
Dịch giả:Vũ Công Hoan ( 2005, Nxb Văn Học )
22)
Huynh Đệ (Dư Hoa)
4
2
Dịch giả: Vũ Công Hoan (2006, Nxb Công An
nhân dân)
23)
Kinh Thánh Của Một Người (Cao Hành Kiện)
0
2
Dịch giả: Thái Nguyễn Bạch Liên (2007, Nxb
Công An nhân dân)
24)
Tiếu Ngạo Giang Hồ (Kim Dung)
0
5
Dịch giả: Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh, Lê
Thị Anh Đào (2010, Nxb Văn học)
25)
Sam Sam Đến Đây Ăn Nào (Cố Mạn)
2
6
Dịch giả:Mai Quyên (2011, Nxb Văn Học)
26)
Yêu Em Từ Cái Nhìn Đầu Tiên (Cố Mạn)
1
2
Dịch giả: Nguyễn Trang, Thúy Thúy (2010, Nxb
Văn Học)
27)
Bên Nhau Trọn Đời (Cố Mạn)
1
3
Dịch giả: Nguyễn Thành Phước (2007, Nxb Văn
Học)
0
28)
Dòng Sông Ly Biệt (Quỳnh Dao)
10
Dịch giả: Liêu Quốc Nhĩ (2010, Nxb Hội Nhà
39
Văn)
29)
Hãy Ngủ Yên Tình Yêu (Quỳnh Dao)
0
28
Dịch giả: Liêu Quốc Nhĩ (2010, Nxb Hội Nhà
Văn)
30)
Hải Âu Phi Xứ (Quỳnh Dao)
0
16
Dịch giả: Liêu Quốc Nhĩ (2010, Nxb Hội Nhà
Văn)
31)
Khói Lam Cuộc Tình (Quỳnh Dao)
0
15
Dịch giả:Liêu Quốc Nhĩ (2010, Nxb Hội Nhà
Văn)
32)
Bến Bờ Quạnh Hiu (Quỳnh Dao)
0
11
Dịch giả:Liêu Quốc Nhĩ (2003, Nxb Hội Nhà
Văn)
33)
Sống Đẹp (Lâm Ngữ Đường)
0
5
Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê (1999, Nxb Văn
Hóa)
Tổng 423
67
356
Tỷ lệ % (100%)
15,8%
84,2%
Bảng 2.1.Thống kê tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong các tác phẩm
văn học dịch Trung-Việt
Bảng thống kê ở trên cho thấy một số kết luận về tình hình sử dụng chủ ngữ
hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt như sau:
1. Chủ ngữ hình thức không được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ viết, đặc
biệt là ngôn ngữ văn học. Cụ thể hơn, trong các bản gốc tiếng Trung thì hầu hết
đều không sử dụng chủ ngữ hình thức 他,một số ít tác phẩm có xuất hiện câu có
chủ ngữ hình thức như Tây Du Ký chiếm số lượng lớn nhất (18 câu), nhưng
phần lớn lại là các câu trùng lặp về nội dung, Phế Đô (8 câu), Thuỷ hử (3 câu),...
Đồng thời, thực hiện khảo sát tương tự với các bản dịch tiếng Việt thì chúng tôi
40
đã thu được một số lượng nhất định, chẳng hạn như trong 33 tác phẩm thuộc
phạm vi khảo sát thì có một số ít tác phẩm tiếng Việt có số lượng hơn 30 câu sử
dụng chủ ngữ hình thức. Lần lượt là Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân (62 câu);
Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần (42 câu); Linh Sơn của Cao Hành Kiện (35
câu); Hư ảo một cuộc tình của Quỳnh Dao (33 câu). Còn lại thì hầu hết các tác
phẩm đều có rất ít, mặc dù chúng tôi đã mở rộng tìm kiếm nhiều thể loại văn
học, từ văn học cổ đại, đến văn học kiếm hiệp, ngôn tình lãng mạn hiện đại…
Rất nhiều tác phẩm trong số đó dù số lượng chương hồi rất nhiều, rất nhiều đoạn
văn giao tiếp nhưng cũng không hề sử dụng chủ ngữ hình thức. Cho thấy một
kết luận rằng chủ ngữ hình thức thực sự không phổ biến trong ngôn ngữ sách vở
ở cả trong tiếng Trung và tiếng Việt (kể cả trong các đoạn hội thoại trong truyện).
Kết quả khảo sát cho thấy, cùng trong hệ thống 33 tác phẩm văn học thì tình
hình sử dụng chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung ít hơn rất nhiều so với
tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt. Cụ thể, trong tổng số
423 câu có chủ ngữ hình thức (tính chung cả số liệu tiếng Trung và tiếng Việt),
câu dùng 他 ở bản gốc chỉ chiếm 15,8%, còn câu có chủ ngữ hình thức ―nó‖ chiếm tới 84,2%. 26
2. Cũng qua bảng khảo sát và đối chiếu trên, Đặc biệt, chúng tôi cũng kết luận
rằng chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung được sử dụng ít hơn chủ ngữ ―nó‖ của
tiếng Việt rất nhiều. Điển hình là trong 365 câu có chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong bản
dịch tiếng Việt, khi đối chiếu với bản gốc tiếng Trung, thì chỉ có 2 câu là sử dụng chủ
26 Mặc dù đề tài của chúng tôi lấy đối tượng nghiên cứu chính là chủ ngữ hình thức 他trong tiếng Trung, tuy nhiên sau khi tiến hành khảo sát, thông kê tư liệu, cũng như sau khi nghiên cứu các lý luận liên quan, chúng tôi nhận thấy rằng về cơ bản, các mô hình câu có sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt về cơ bản là giống nhau. Tuy nhiên sự chênh lệch của kết quả khảo sát trong bảng 2.1 đã cho thấy rằng, chủ ngữ hình thức được sử dụng phổ biến hơn trong tiếng Việt. Chính vì vậy chúng tôi cho rằng, việc nghiên cứu và phân tich đồng thời tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong cả các văn bản tiếng Việt cũng là rất cần thiết. Vì điều này sẽ giúp người đọc nắm được tổng thể các vấn đề liên quan đến chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt.
ngữ hình thức 他, còn lại (363 câu) hoàn toàn không sử dụng. Tỷ lệ chênh lệch rất
41
lớn này đã chứng minh cho kết luận của chúng tôi.27
Không chỉ trong phạm vi các tác phẩm văn học, khi mở rộng tìm kiếm và thống
kê từ các nguồn ngữ liệu khác, trong đó có ngữ liệu trực tiếp trong giao tiếp hàng
ngày, tỷ lệ chênh lệch này cũng rất rõ rệt. Xin xem bảng sau:
Số lƣợng Tổng Ghi chú
(tỷ lệ %)
Câu tiếng Trung có 他 197 (33%) 600 (100%) Tính cả trong 33 tác
phẩm văn học và ngữ Câu tiếng Việt có ―Nó‖ 403 (67%)
liệu trực tiếp
Bảng 2.2. Tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt (cả ngữ liệu tác phẩm văn học và ngữ liệu trực tiếp) 28
Tuy nhiên, chính nhờ vậy mà những tư liệu luận văn thống kê được lại rất
quý giá. Bởi vì, ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản dịch thuật cũng không chỉ
chính xác về mặt nội dung mà còn chính xác cả về mặt hình thức, ngữ pháp,
ngôn từ sử dụng. Vì vậy những tư liệu chúng tôi thống kê được trong 33 tác
phẩm văn học trên là nguồn ngữ liệu vô cùng quý giá để triển khai đề tài. Thêm
vào đó khi cần thiết, chúng tôi cũng sẽ sử dụng thêm cả tư liệu từ giao tiếp hàng
ngày. Như vậy có thể thấy được tổng thể các vấn đề và cách dùng chủ ngữ hình
thức trong tiếng Việt và tiếng Trung. Quan trọng nhất là rút ra được điểm giống
và khác nhau cũng như rút ra được phương pháp dịch câu có sử dụng chủ ngữ
hình thức.
Tiểu kết chƣơng 2
27 Xem thêm Phụ lục 1. Ví dụ câu có chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong bản dịch tiếng Việt, đối chiếu với bản gốc tiếng Trung. 28 Riêng với ngữ liệu trực tiếp, người viết luận đã trực tiếp lấy ngữ liệu từ hội thoại giữa các bạn bè, người thân là người Trung Quốc, hiểu rõ về thói quen sử dung chủ ngữ hình thức trong giao tiếp hàng ngày của người Trung Quốc. Tương tự với ngữ liệu tiếng Việt, người viết ngoài tham khảo luận văn của Hoàng Thị Thu Thuỷ thì cũng phỏng vấn trực tiếp các bạn bè Việt Nam để có đủ tư liệu nghiên cứu.
Trong chương 2, để tạo điều kiện cho việc so sánh, đối chiếu cách dịch
42
Trung-Việt các mô hình câu có chủ ngữ hình thức, chúng tôi đã cố gắng khái
quát và cho ví dụ cụ thể về những mô hình câu có sử dụng chủ ngữ hình thức
phổ biến nhất trong tiếng Trung. Chúng tôi đã chọn lọc được một số lượng nhất
định các câu có sử dụng chủ ngữ hình thức từ 33 tác phẩm văn học dịch
Trung-Việt và cả từ ngữ liệu trực tiếp trong giao tiếp hàng ngày, tổng số ví dụ
chúng tôi thống kê được là 600 câu.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, có thể khái quát lại thành hai mô
hình phổ biến nhất đó là ―Khởi ngữ + 他+ vị ngữ‖ và ―他 + vị ngữ‖. Đồng thời,
sau khi lập bảng khảo sát, thống kê, chúng tôi đã rút ra được kết luận là chủ ngữ
hình thức trong tiếng Trung không được dùng phổ biến như trong tiếng Việt.
Những kết quả thu được qua quá trình khảo sát, thống kê, đặc biệt là sự
chênh lệch về tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung với
chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt (kết quả thống kê, khảo sát cho thấy chủ
ngữ hình thức trong tiếng Việt được sử dụng phổ biến hơn trong tiếng Trung rất
nhiều) đã tạo cơ sở cho chúng tôi triển khai chương 3: So sánh, đối chiếu các
mô hình câu có chủ ngữ hình thức và từ đó có thể đưa ra những kết luận cơ bản
nhất khi đối chiếu phương pháp dịch câu có chủ ngữ hình thức ở hai ngôn ngữ.
43
CHƢƠNG 3: ĐỐI CHIẾU CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC TRONG
TIẾNG TRUNG VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Đối chiếu các mô hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và
tiếng Việt
Sau quá trình nghiên cứu, chúng tôi có thể rút ra kết luận rằng, về cơ bản,
các mô hình câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt là giống
nhau. Trong đó nổi bật lên là hai mô hình ―Khởi ngữ + 他 + Vị ngữ‖ và ―他+
Vị ngữ‖.
Để tiện cho việc so sánh, đối chiếu cũng như rút ra một số kết luận về
phương pháp dịch câu có chủ ngữ hình thức từ tiếng Trung sang tiếng Việt,
trước hết chúng tôi sẽ tiến hành so sánh các mô hình này trong tiếng Trung và
tiếng Việt trên cơ sở phân tích các mô hình câu có chủ ngữ hình thức điển hình
nhất trong tiếng Việt (đối chiếu với các mô hình trong tiếng Trung đã giới thiệu
ở chương 2).
Tuy chủ ngữ hình thức ―nó‖ chưa nhận được sự quan tâm rộng rãi của
những người nghiên cứu Việt Nam, nhưng cũng đã có một số bài viết, công
trình nghiên cứu riêng về đề tài này và được ứng dụng làm cơ sở lý thuyết rộng
rãi. Điển hình nhất phải kể đến luận văn của Hoàng Thị Thu Thuỷ, trong luận
văn của mình, tuy tác giả đã kết luận, ―nó‖ với tư cách là chủ ngữ hình thức có
thể nằm trong tất cả các thành phần của câu. Về đại thể, có thể phân chia các câu
có chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt theo ba mô hình dưới đây:
1. Khởi ngữ + Nó + Vị ngữ
2. Nó+ Vị ngữ
3. Nó + Vị ngữ + Chủ ngữ
Kết quả khảo sát tư liệu của chúng tôi cho thấy kết quả nghiên cứu của
Hoàng Thị Thu Thuỷ là chính xác, ngoại trừ cấu trúc ―Nó + Vị ngữ + Chủ ngữ‖
có tỷ lệ sử dụng không cao, bản thân tác giả cũng chỉ rõ cấu trúc này chỉ xuất
44
hiện trong một số ngữ cảnh nhất định (chúng tôi sẽ nói rõ dưới đây). Khi đối
chiếu từ góc độ cấu trúc cú pháp và cả từ góc độ dịch thuật thì chúng cũng chính
xác với cả chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung (như chúng tôi đã giới thiệu
và lấy ví dụ ở phần 2.1, chương 2). Vì vậy luận văn sẽ áp dụng các mô hình này
để tiến hành so sánh, đối chiếu tình hình sử dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt.
Về quan điểm phân chia thành phần chính của câu (chủ ngữ-vị ngữ), chúng
tôi áp dụng lý thuyết của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (2009).
Chẳng hạn, Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn Cú pháp tiếng Việt quan niệm
rằng:‖Trong nghiên cứu cú pháp, có một thông lệ bất thành văn là khi miêu tả cấu
trúc cú pháp của câu, người ta chỉ trình bày cấu trúc cú pháp của kiểu câu đơn song
phần, là kiểu câu có cấu trúc ứng với cấu trúc cơ bản được chọn làm công cụ để
miêu tả. Các kiểu câu còn lại (câu ghép, câu phức, câu đặc biệt) sẽ được hình dung
chẳng qua chỉ là dạng phát triển hay khiếm khuyết của kiểu câu đơn song phần này.
Do sự liên hệ sâu xa với ngữ pháp nhà trường, chúng tôi chọn cấu trúc chủ-vị làm cấu trúc cơ bản để miêu tả câu tiếng Việt.‖ 29,
3.1.1.Mô hình ―Khởi ngữ + Nó + Vị ngữ‖
Sau khảo sát và thống kê tư liệu, có thể khẳng định mô hình ―Khởi ngữ +
nó + vị ngữ‖ chiếm phần lớn trong các mô hình có sử dụng chủ ngữ hình thức
―nó‖ trong tiếng Việt. Điều này đúng với cả tình hình trong tiếng Trung mà
chúng tôi đã đề cập đến ở chương 2.
29 Chương 5 – Các thành phần chính của câu, Nxb.Giáo dục, 2009.
Các bảng thống kê dưới đây chứng minh cho kết luận này:
45
Chủ ngữ hình thức 他 Số lƣợng Tỷ lệ % Ghi chú
Mô hình ―Khởi ngữ +他+Vị 162 82,2%
ngữ
Mô hình ―他+Vị ngữ‖ 35 17,8% Trong các tác phẩm văn học
chỉ có 4 câu theo mô hình
này
Mô hình ―他 + Vị ngữ + 0 0 Chứng tỏ người Trung Quốc
Chủ ngữ không có cách nói này
Tổng 197 100%
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng các mô hình câu có chủ ngữ hình thức
“他”trong tiếng Trung
Chủ ngữ hình thức “nó” Số lƣợng Tỷ lệ % Ghi chú
Mô hình ―Khởi ngữ +nó+Vị 355 88%
ngữ
Mô hình ―Nó+Vị ngữ‖ 36 8.9% Trong các tác phẩm văn học
chỉ có 6 câu theo mô hình
này
Mô hình ―Nó + Vị ngữ + 12 3.1% Trong các tác phẩm văn học
không có câu nào theo mô Chủ ngữ
hình này
Tổng 403 100%
Bảng 3.2 Tình hình sử dụng các mô hình câu có chủ ngữ hình thức “nó”
Tương tự với tình hình chủ ngữ hình thức 他 trong mô hình câu ―Khởi ngữ +他
trong tiếng Việt
+Vị ngữ‖, phần ―khởi ngữ‖ (đề ngữ) trong mô hình câu tiếng Việt cũng đóng vai trò
hết sức quan trọng. Bên cạnh các thành phần chính của câu như chủ ngữ, vị ngữ,
46
chúng tôi cho rằng cũng rất cần thiết phải tìm hiểu sơ qua về thành phần ―khởi ngữ‖
(đề ngữ) này trong mô hình câu có sử dụng chủ ngữ hình thức. Tại sao nó lại xuất
hiện trong mô hình câu này với tỷ lệ cao như vậy? Trước hết chúng ta cần tìm hiểu
qua về khái niệm khởi ngữ trong tiếng Việt.
Chẳng hạn, trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9, tập 2 (Nxb Giáo dục,
2012) có mục về ―Khởi ngữ‖ như sau:
Khái niệm: Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài
được nói đến trong câu.
48) Nếu Hồng //nó chịu lấy chồng sớm thì chúng ta đã là ông bà ngoại rồi.
(Khói lam cuộc tình, Quỳnh Dao, chương 2).
49) Cái văn học, văn chƣơng mà cậu nói// nó xa vời quá, mình chẳng biết nó
ở đâu. (Kinh thánh của một người, Cao Hành Kiện, chương 15)
Trong hai ví dụ trên, các bộ phận ―Nếu Hồng; Cái văn học, văn chương mà
cậu nói‖ được gọi là thành phần khởi ngữ của câu, nêu lên đề tài được nói đến
trong câu.
50) Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh
(1), anh (2) không ghìm nổi xúc động. (Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang
Sáng).
Anh (1) đứng trước chủ ngữ anh (2), có vai trò nêu lên đối tượng được nói
đến trong câu. Anh (2) đóng vai trò là chủ ngữ trong câu, là chủ thể của hành
động ―không ghìm nổi xúc động‖.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp, khởi ngữ đứng sau chủ ngữ và đứng trước vị
ngữ. Như các từ ―thuốc‖ và ―rượu‖ (làm khởi ngữ thuyết minh cho chủ ngữ
―Ông giáo ấy‖) trong câu dưới đây:
51) Ông giáo ấy, thuốc không hút, rƣợu không uống.
Trường hợp khởi ngữ đứng sau chủ ngữ và vị ngữ này không nằm trong
phạm vi đề tài chúng tôi nghiên cứu (chủ ngữ hình thức), vì vậy trường hợp này
47
chúng tôi sẽ không đề cập đến ở các phần sau nữa.
Tiêu chí quan trọng để chúng tôi có thể thuận lợi thống kê và phân loại các
mô hình câu có sử dụng chủ ngữ hình thức trong luận văn chính là nắm được
một số tiêu chí, dấu hiệu nhận biết khởi ngữ trong câu. Bao gồm:
Trước từ ngữ làm khởi ngữ thường có thêm các quan hệ từ về, đối với, …
(có thể thêm vào mà không làm thay đổi nội dung câu chứa nó). Đây cũng là
dấu hiệu phân biệt khỏi ngữ với chủ ngữ của câu.
52) Đối với các loài chim, chúng ta không nên bắn giết.
Hoặc có thể thêm trợ từ ―thì‖ vào sau khởi ngữ.
53) Người xem hát thì cứ trông thấy anh ấy là họ củng đủ cười rồi. (Nguyễn
Công Hoan, Kép Tư Bền)
Bộ phận khởi ngữ có thể do một danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhiệm như
trong các ví dụ trên. Tuy nhiên nhiều khi cũng có thể do một cụm động từ
đảm nhiệm như trong các ví dụ dưới đây:
54) Học Toán thì nó khó.
55) Nói thế thì nó phải tội đấy.
Có thể thấy, đặc điểm này rất giống với phần đề (khởi ngữ) trong tiếng Trung
đã giới thiệu ở phần 2.1. Người Trung Quốc cũng có cách nói tương tự:
56)别再吃了,再吃//他就吐啦。(Ngữ liệu trực tiếp)
=>Đừng ăn nữa, còn ăn nữa thì nó nôn đấy!)
57) 喝酒,他//不是伤身嘛!(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Uống rượu thì nó hại thân đấy!
58) 这茶头一次要少喝一点,喝多了他苦的很。(Ngữ liệu trực tiếp)
=> Loại trà này lần đầu uống thì uống ít thôi, uống nhiều nó đắng lắm đấy.
Kết hợp với các ví dụ về chủ ngữ hình thức ―nó‖ ở trên, có thể thấy, mô
hình ―Khởi ngữ + nó + Vị ngữ‖này của tiếng Việt rất giống với mô hình phổ
biến ―Khởi ngữ , 他 + Cụm động từ‖ trong tiếng Trung mà chúng tôi đã giới
48
thiệu trong mục 2.1 chương 2 của luận văn.Thậm chí ngay cả tiêu chí về việc
ngăn cách âm tiết trong khẩu ngữ (dừng lại) hoặc trong văn viết (dùng dấu ―,‖)
cũng hoàn toàn giống.
Dễ nhận thấy rằng, đây là mô hình câu mà chủ ngữ hình thức ―nó‖ (hoặc
他(nó)) không đứng ở vị trí đầu câu mà trước ―nó‖ còn có các từ ngữ khác
đóng vai trò khởi ngữ. Nếu dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận khởi ngữ này với
chủ ngữ hình thức ―nó‖, ta có thể chia mô hình câu này thành hai loại nhỏ là:
Loại 1: Chủ ngữ hình thức ―nó‖ và bộ phận khởi ngữ đằng trước có quan hệ về nghĩa, tác giả Hoàng Thị Thu Thuỷ 30 sử dụng thuật ngữ ―đồng quy
chiếu‖, theo lý giải của người viết thì nghĩa là đối tượng mà khởi ngữ với đối
tượng mà ―nó‖ muốn nói đến là cùng một đối tượng (cùng một sự vật, sự
việc, hiện tượng cần nêu ra). Hay nói cách khác, ―nó‖ ở đây hoạt động giống
như một đại từ hồi chỉ, có chức năng thay thế cho bộ phận danh ngữ (cụm
danh từ) đằng trước.
Như trong các ví dụ dưới đây, chủ ngữ ―con bò này‖ và ―con cáo ngứa
nghề ấy‖ với chủ ngữ hình thức ―nó‖ đằng sau đều có mối quan hệ đồng quy
chiếu, cùng nói đến một đối tượng, một vấn đề.
59) Ái chà, chị nhìn con bò này, //nó// cứ thong dong không sốt ruột, chẳng
khác gì một triết gia. (Phế Đô-Giả Bình Ao, chương 14)
60) Con cáo ngứa nghề ấy,// nó// còn có hôm nay ư, nó đã hại người ta đủ rồi.
(Phế Đô-Giả Bình Ao, Chương 86).
61) Cái thứ dế cụ //nó// bạo nước lắm. (Dế mèn phiêu lưu ký, Tô Hoài).
Loại 2: trước chủ ngữ ―nó‖ cũng có những từ hoặc ngữ (khởi ngữ) nhưng
giữa chúng không có quan hệ gì với nhau. Tuy nhiên những từ hoặc ngữ
này vẫn được coi là khởi ngữ do chúng mang đầy đủ đặc điểm và chức
30 Tài liệu đã dẫn, trang 28.
năng của khởi ngữ (cả trong tiếng Việt và tiếng Trung đều như nhau) đó
49
là: xuất hiện trước thành phần chính của câu và giữ chức năng nêu chủ đề
của câu nói. Chẳng hạn ví dụ dưới đây:
62) Bây giờ thì anh biết rồi chứ! Sói thành tinh đáng sợ biết chừng nào. Tay
tôi// bị tinh sói //nó đớp đấy! (Hoài niệm sói, Giả Bình Ao, chương 23)
Trong câu này, phần khởi ngữ nêu ra vấn đề ―tay tôi‖ và bộ phận chủ ngữ hình
thức ―tinh sói//nó không có quan hệ đồng quy chiếu với nhau.
Một điều thú vị sau khi tiến hành khảo sát và phân tích ví dụ mà luận văn
thu được đó là cũng giống với trường hợp mô hình ―Khởi ngữ + 他+vị ngữ ‖
trong tiếng Trung, khởi ngữ trong mô hình câu này của tiếng Việt cũng có thể do
các ngữ danh từ (danh ngữ) hoặc ngữ động từ (động ngữ) cấu tạo thành, cũng có
thể khởi ngữ là một cụm từ chỉ thời gian + danh từ. Ví dụ:
63) Khởi ngữ do cụm động từ cấu tạo thành: Liễu Nguyệt hỏi: Bây giờ trên
phố có những ai hả bà? Có ma// nó xem phải không ạ? (Phế đô, Giả Bình Ao,
chương 32) .
64) Khởi ngữ do cụm danh từ (lũ lâm tặc) tạo thành: Đường rừng chỗ nhà anh
nghe đồn nguy hiểm lắm đúng không? Lũ lâm tặc// nó thỉnh thoảng vẫn cướp
của à?
Ngoài ra, ví dụ trên còn cho thấy rằng, nếu căn cứ vào cấp bậc của kết cấu
trong câu, có thể chia mô hình này thành hai tiểu loại: ―Khởi ngữ + nó + vị ngữ‖
là một câu độc lập và ―Khởi ngữ + nó + vị ngữ‖ là một cú nằm trong câu.
3.1.2. Mô hình “Nó + Vị ngữ”
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ câu có chủ
ngữ hình thức ―nó‖ theo mô hình này trong các tác phẩm văn học dịch
Trung-Việt. Trong 403 câu thuộc phạm vi khảo sát, chỉ có 12 câu theo mô hình
này, chiếm 3.1%..
Mô hình ―Nó + Vị ngữ‖ là mô hình hoàn toàn không có sự xuất hiện của
chủ ngữ câu (chúng tôi tạm gọi là chủ ngữ chính) hay khởi ngữ đứng đằng trước.
50
Vì vậy mà chủ ngữ hình thức ―Nó‖ có chức năng như một chủ ngữ trong câu.
Tuy nhiên nó chỉ có chức năng về mặt ngữ pháp, hoàn toàn không có chức năng
về mặt ngữ nghĩa vì nó không thể hồi chỉ (thay thế cho phần khởi ngữ đằng
trước) hoặc khứ chỉ (thay thế cho phần từ ngữ đứng đằng sau) cho bất cứ thành
phần nào trong câu. Nếu như ở mô hình ―Khởi ngữ + nó + vị ngữ‖, chủ ngữ
hình thức ―nó‖ còn có mối quan hệ đồng quy chiếu hoặc không đồng quy chiếu
với các bộ phận trước và sau nó thì ở mô hình này, nó chỉ có thể kết hợp trực
tiếp với bộ phận vị ngữ đằng sau để tạo thành một kết cấu chủ-vị hoàn chỉnh.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng kết cấu chủ-vị hoàn chỉnh này chỉ có chức năng ngữ
pháp, trong đó chủ ngữ ―nó‖ không thể được định nghĩa cụ thể là một sự vật, sự
việc hoặc hiện tường nào cả vì bản chất nó vẫn chỉ là một chủ ngữ hình thức. Sự
tồn tại của nó để bảo đảm về mặt chức năng ngữ pháp của câu. Nếu không có nó
thì nhiều khi không thể thành câu hoặc sẽ trở thành loại câu vô chủ hoặc một
dạng câu đặc biệt nào đó.
Đặc biệt, từ kết quả thống kê thu được và từ việc thu thập các câu trong
giao tiếp hàng ngày của người Trung Quốc và Việt Nam, chúng tôi có thể khẳng
định rằng mô hình câu này không phổ biến trong tiếng Trung, còn trong tiếng
Việt thì thường chủ ngữ hình thức ―nó‖ sẽ thay thế cho những danh từ chỉ thời
tiết (cách dùng này rất giống với chủ ngữ hình thức ―It‖ trong tiếng Anh). Ví dụ
như người Việt Nam thường nói:
65) Mai nó lại mưa to thì không đi chơi được.
66) Nó sắp mưa đấy, về nhà nhanh lên.
67) Nó đang nắng to thế này, ra đường làm gì.
Nhưng người Trung Quốc sẽ không thể dùng đại từ 他 để đặt câu tương
tự như trong ba ví dụ trên. Thông thường trong những tình huống giao tiếp như
vậy, người Trung Quốc sẽ dùng chủ ngữ chính, tức là danh từ chỉ thời tiết như
―天‖(Trời).
51
Trong mô hình này, chúng tôi cần đặc biệt nhấn mạnh rằng, vị ngữ trong kết
cấu này thường sẽ là một tính từ hoặc một số các động từ chỉ trạng thái như
buồn, vui,... Kết quả khảo sát của chúng tôi không cho nhiều kết quả trong các
tác phẩm văn học dịch, tuy nhiên trong giao tiếp hàng ngày người viết lại rất
thường bắt gặp. Cho thấy nó rất phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người
Việt Nam. Như các ví dụ sau, ―Nó + vị ngữ‖ không làm một cú riêng mà lại
xuất hiện trong một cú khác có đơn vị lớn hơn, người nói thường đặt chủ ngữ
hình thức ―nó‖ sau từ ―cho‖ để thể hiện mối quan hệ giữa ―Nó+vị ngữ‖ với tổng
thể cả câu.
68) Anh ăn nhiều vào cho nó khoẻ, chứ trông anh gầy quá đấy! (Nó khoẻ)
69) Con đi nhanh rồi về cho nó an toàn nhé. (Nó an toàn)
70) Cứ cho nó mƣa đi, mưa rõ to nữa đi, ngập cho bằng hết nhà cửa vùng này,
dân chúng chết ráo cả, thì chủ tịch thành phố ông ta phải đến chứ? (Phế đô,
chương 42)
3.1.3.Mô hình “Nó + Vị ngữ + Chủ ngữ”
Đây là một mô hình khá đặc biệt và cũng dễ gây nhầm lẫn. Nếu đối chiếu
theo đúng lý thuyết về chủ ngữ hình thức mà chúng tôi đã đề cập ở trên thì có
thể khẳng định trước hết, trong tiếng Trung không có mô hình sử dụng chủ ngữ
hình thức 他 theo kiểu này. Trong nghiên cứu này của Dong Xiu Fang (tài liệu
đã dẫn), tác giả cũng giới thiệu chỉ có hai mô hình phổ biến sử dụng chủ ngữ
hình thức 他 trong tiếng Trung(như chúng tôi đã đề cập đến ở trên. Và trong
phạm vi khảo sát (từ các câu dịch tiếng Việt), chúng tôi cũng không tìm được
câu nào có chứa chủ ngữ hình thức ―nó‖ theo mô hình này. Cho thấy nó thực sự
cũng không phổ biến trong cả tiếng Việt.
Quá trình nghiên cứu các tài liệu tham khảo của giới ngôn ngữ Việt Nam
cho thấy, kiểu câu này thường chỉ xuất hiện trong một câu ghép chính phụ, trong
đó―Nó+vị ngữ+chủ ngữ‖ tuy có kết cấu hoàn chỉnh như một câu thông thường
52
nhưng sẽ chỉ là một vế của câu ghép.
Ví dụ:
71) Nó// mà nắng to lên thì chúng tôi vui lắm vì có thể đi chơi.
72) Nó//tuy mưa to nhưng nhờ vậy mà không khí mới đỡ ô nhiễm.
3.2. Đối chiếu phƣơng pháp dịch câu có chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt
3.2. 1. Một số lý thuyết dịch thuật liên quan 31
Về khái niệm dịch thuật: Dịch thuật hiểu theo nghĩa rộng, là chuyển những
điều được viết hay nói từ một ngôn ngữ này (ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ nguồn)
sang một ngôn ngữ khác (ngôn ngữ đích, ngôn ngữ dịch) mà phải bảo đảm giữ
được ý nghĩa biểu đạt của văn bản nguồn (nguyên tác). Từ điển Hán Việt do Nhà
xuất bản Khoa học xã hội xuất bản, Phan Văn Các chủ biên, định nghĩa về thuật
ngữ ―翻译(Phiên dịch)‖như sau: 1. Phiên dịch/dịch (từ ngôn ngữ văn tự này
sang ngôn ngữ văn tự khác, hoặc giữa phương ngữ với ngôn ngữ cộng đồng dân
tộc, giữa phương ngữ với phương ngữ, giữa ngôn ngữ cổ với ngôn ngữ hiện đại;
từ ký hiệu mật mã sang ngôn ngữ văn tự…); 2. (Người) Phiên dịch.
Về loại hình dịch thuật: Có rất nhiều cách phân chia loại hình dịch thuật
tuỳ theo góc độ tiếp cận. Thông thường bao gồm một số cách phân loại như: 1.
Căn cứ theo phương thức biểu đạt thì có ―dịch nói‖ và ―dịch viết‖; 2. Căn cứ
theo dạng thức của tài liệu cần dịch thuật (phong cách ngôn ngữ của văn bản),
có thể chia thành các loại hình dịch thuật như dịch phong cách nghệ thuật,
31 Do phạm vi nghiên cứu của luận văn là về so sánh, đối chiếu, vì vậy các lý thuyết dịch thuật được giới thiệu
ở đây chỉ mang tính khái quát nhất, tạo cơ sở để người đọc nắm được tổng quan về vấn đề chúng tôi đang trình
bày. Để tránh nhầm lẫn và sai lệch với đề tài, phương pháp nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sẽ không đi sâu
vào giới thiệu các bình diện liên quan đến lĩnh vực dịch thuật.
phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách hành chính, công
53
vụ,...; 3. Căn cứ theo việc lựa chọn độ dài ngắn của ngữ liệu cần dịch, có thể
chia thành ―dịch toàn bộ‖ hoặc ―dịch bộ phận‖ (dịch tóm tắt). 4. Hoặc căn cứ
theo phương pháp dịch thì thường có ―dịch thẳng‖(直译) và ―dịch ý‖(意译).
Trong đó cách phân chia loại hình phiên dịch theo cách dịch thường được biết đến nhiều hơn cả. 32
Ở đây cần nói thêm rằng do sự khác nhau giữa các ngôn ngữ nên thông
thường không thể chỉ áp dụng được một phương pháp dịch cụ thể. Phần lớn đối
với các văn bản văn học thì người dịch thường kết hợp nhiều phương pháp dịch
linh hoạt. Việc dịch thẳng những văn bản này nhiều khi là không thể, nhất là khi
giữa hai ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích không có cấu trúc tương đương.
Như câu có chủ ngữ hình thức là một ví dụ. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho
thấy rằng, tuyệt đại đa số các bản dịch trong phạm vi tư liệu thống kê được đều
sử dụng phương pháp ―dịch ý‖, và hầu hết đều phải kết hợp nhiều phương pháp
―dịch ý‖ cùng lúc. Bao gồm:
a) Dịch đảo:
Dịch đảo là thay đổi thứ tự các từ trong nguyên tác khi tiến hành chuyển dịch
sang văn bản đích. Nếu xét theo đề tài luận văn thì những câu thuộc phạm vi khảo sát
thường là các câu ghép, có nhiều thành phần. Vì vậy việc thay đổi thứ tự này còn có
thể phân thành sự thay đổi bên trong cả bên ngoài văn bản cần dịch.
Việc thay đổi trật tự thể hiện ở cách hành văn, một đặc điểm rõ ràng đó là
việc đảo ngược trật tự phía trước và phía sau của văn bản gốc. Ví dụ:
73) 你少为孩子操心吧,现在的年轻人他自己有自己的主张。‖ (Ngữ liệu
trực tiếp)
=> Dịch thẳng: Em đừng bận tâm vì con, bọn trẻ bây giờ nó có nhận xét riêng
của chúng.
32 Zhao Yu Lan (2007), Giáo trình dịch Việt – Hán, Nxb. Đại học Bắc Kinh, trang 2.
=> Dịch đảo: Bọn trẻ bây giờ nó có nhận xét riêng của chúng. Em đừng bận
54
tâm nhiều phí công.
b) Dịch tách:
Dịch tách chính là từ 1 câu trong văn bản gốc chia tách ra thành 2 hoặc 3
câu. Thông thường dịch tách hay được áp dụng cho những câu quá dài hoặc có
cấu trúc quá phức tạp. Ví dụ:
74) ―我觉得,小李//他不是自己去投水的,而是咱们一人一把将她推下
去的!(Quỳnh Dao, Hư ảo một cuộc tình, chương 13).
=> Dịch thẳng: Con cảm thấy, tiểu Lý nó không phải tự mình đi nhảy xuống
suối, mà là chúng ta từng người từng người đẩy cô ấy xuống.
=> Dịch tách (bản dịch): Con cảm thấy,... Con linh cảm chuyện tiểu Lý nó nhảy
xuống suối định tự sát lần này,... Như là không phải tự nó,... Mà là do chúng ta.
c) Dịch ghép
Ngược lại với dịch tách, dịch ghép được sử dụng khi muốn ghép 2 hoặc 3 phân
câu (hoặc câu) thành một câu. Thường được dùng khi các phân câu (câu) cùng chỉ về
một đối tượng (cùng chủ ngữ) hoặc có tính trùng lặp mà có thể tỉnh lược được. Ví dụ:
75) 同样的一本书,不同的人看了,常会有不同的反应,他有好的,也
有坏的。‖
=> Dịch thẳng: Cùng một quyển sách, người xem khác nhau, thường có phản
ứng khác nhau, nó có tốt, mà cũng có xấu.
=> Dịch ghép: Cùng một quyển sách nó cũng có tốt mà cũng xấu tùy người đọc
cảm nhận.
76) 娘子不听得是老鼠他叫?因厮打,这般响。‖ (Thuỷ Hử, hồi 55)
=> Dịch thẳng: Mẹ không nghe thấy tiếng chuột nó kêu à? Bởi vì chạy đuổi
nhau, nên ồn ào.
=> Dịch ghép (bản dịch): Chắc là chuột nó đang đùa nhau trên ấy hẳn?
d) Dịch thêm (dịch bổ sung)
Dịch thêm là khi do thói quen tư duy và thói quen sử dụng ngôn ngữ nên
55
văn bản gốc sẽ tỉnh lược bớt đi một bộ phận nào đó mà văn bản dịch bắt buộc
phải ―khôi phục‖ nó thì mới có thể chuyển dịch được, hoặc việc thêm vào yếu tố
này sẽ có tác dụng bổ sung, thuyết minh, giải thích làm câu dễ hiểu hơn, văn bản
dịch chính xác hơn. Ví dụ:
77) 这就是社会,我算是看透了。看透了也就甭说了。- 我来气!
=> Dịch thẳng: - Đây chính là xã hội, tôi coi như là nhìn thấu rồi.
Nhìn thấu rồi thì đừng nói nữa.
- Tôi tức!
=> Bản dịch: - Xã hội là thế, tớ bây giờ nhìn thấu rồi.
Đã nhìn thấu thì chẳng phải bàn.
- Nhƣng cái đầu tớ nó khó chịu. (Linh Sơn, Cao Hành Kiện, Chương 79)
e) Dịch lƣợc (dịch bớt)
Ngược lại với dịch thêm là dịch bớt. Trong quá trình dịch, người dịch có
thể lược bỏ những từ ngữ, câu văn có yếu tố trùng lặp hoặc tương tự mà không
ảnh hưởng đến nội dung của văn bản gốc. Ví dụ:
78) ―哇!这大狗他发狂了!快跑呀,当心它咬人……‖
=> Dịch thẳng: Ôi! Con chó dữ này nó lên cơn dại rồi! Chạy nhanh đi, cẩn thận
không nó cắn đấy!
=> Dịch bớt: Coi chừng, con chó to đó nó bị dại, nó cắn thì chết!
Các giai đoạn của dịch thuật: Về cơ bản khi tiến hành biên dịch một văn
bản nguồn sang một văn bản đích thì người dịch cần thực hiện các bước sau:
- Phân tích nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (nguyên tác) để hiểu rõ ý mà
tác giả muốn biểu đạt.
- Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản
như đặc trưng về cấu trúc ngữ pháp, phong cách văn học,...
- Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương
với nguyên tác (chuyển dịch).
56
Tất nhiên, chúng tôi cho rằng, việc chia thành các giai đoạn dịch thuật như
trên chỉ mang tính tương đối. Bởi vì mỗi người dịch tuỳ theo thói quen, góc độ
tiếp cận, khả năng lý giải,... có thể dịch theo một phương thức khác nhau, phù
hợp với ngữ cảnh của văn bản, và còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực của
người dịch.
Trong ba giai đoạn để tạo ra một bản dịch thì giai đoạn cuối cùng ―tái ngôn
từ hoá‖ chính là mục đích cao nhất của công việc dịch thuật. Đối với một văn
bản văn học, thậm chí còn có thể gọi là ―tái sáng tạo‖. Trong đó tính tương
đương của bản dịch so với nguyên tác sẽ quyết định ―giá trị‖ của bản dịch đó.
Tính tương đương này nhiều khi lại bị chi phối bởi tính tương đương về nhận
thức và tính tương đương về cảm xúc.
Tính tương đương về mặt nhận thức, tức là kết quả của việc sử dụng
những yếu tố hỗ trợ (như khái niệm, cấu trúc, từ ngữ,...) mà người dịch áp dụng
vào bản dịch để bổ sung hoặc thuyết minh, giải thích cho ngữ nghĩa của nguyên
tác. Mức độ khác nhau giữa nguyên bản và bản dịch tùy thuộc vào sự khác nhau
về loại hình giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Lấy ví dụ như tiếng Trung
và tiếng Việt, đây là hai ngôn ngữ có cùng loại hình (đơn lập), đều dựa vào trật
tự từ để xác định ý nghĩa của câu, bản thân tiếng Việt lại có đến 60-70% sử dụng
yếu tố gốc Hán (từ Hán Việt), vì vậy mà có thể tìm thấy khá nhiểu sự tương ứng
về ngữ pháp và từ vựng trong cách biểu đạt. Người viết trong khi đối chiếu bản
dịch và bản gốc cũng có thể cảm nhận rất rõ được tính tương đương về mặt nhận
thức này. Đây là điều kiện thuận lợi rất lớn để người Trung Quốc học tiếng Việt
Nam và ngược lại.
Tính tương đương về mặt cảm xúc, nói cách khác là chỉ tình cảm của
người dịch khi tiến hành chuyển dịch văn bản nguồn. Không có cơ sở lý thuyết
nào để xác định được mức độ tương đương về cảm xúc giữa một bản dịch với
nguyên tác. Bởi vì một bản dịch hay hoặc không hay còn phụ thuộc vào rất
57
nhiều yếu tố, nó phải được kết hợp khoa học giữa sự tương đương về nhận thức
và sự tương đương về cảm xúc.
Những cơ sở lý luận trên đây sẽ tạo điều kiện để chúng tôi đối chiếu phương pháp dịch câu có chủ ngữ hình thức trong phạm vi khảo sát của đề tài.33
3.2.2. Đối chiếu phương pháp dịch câu có mô hình “Khởi ngữ + 他 + vị ngữ”
Câu tiếng Việt và tiếng Trung rất giống nhau khi phân chia theo cấp bậc
của kết cấu trong câu. Thậm chí ngay cả cách sử dụng các thuật ngữ khi phân
chia các loại câu cũng giống nhau. Ví dụ như những khái niệm ―Câu đơn, câu
ghép, câu phức, câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu đặc biệt,...‖ thì
người Trung Quốc cũng có cách nói tương tự.
Một câu tiếng Việt và tiếng Trung có thể bao gồm một cú hoặc nhiều cú
(cú hay còn gọi là phân câu). Trong những câu chỉ chứa một cú, chủ ngữ hình
thức ―nó‖ vừa làm chủ ngữ của phân câu, đồng thời cũng là chủ ngữ của câu.
Trong những câu chứa nhiều cú, nhiều cấp bậc (nhiều phân câu) thì chủ ngữ
hình thức ―nó‖ có lúc chỉ là chủ ngữ của phân câu đó mà không phải là chủ ngữ
của cả câu, cũng có trường hợp là chủ ngữ của cả câu nếu phân câu chứa ―nó‖ là
phân câu chính, chứa đối tượng chính mà văn bản muốn biểu đạt..
a) Khi “Khởi ngữ + 他+ vị ngữ” là một câu
Trường hợp này là chỉ ―Khởi ngữ +他+ Vị ngữ‖ đứng thành một câu riêng
biệt, như vậy nó có chức năng như một câu đơn (Chủ - Vị) thông thường.
Khi đối chiếu bản dịch và bản gốc, chúng tôi rút ra được một số nhận xét
như sau:
Nhiều câu có chủ ngữ hình thức 他 trong tiếng Trung thì trong tiếng Việt
lại không dùng, hoặc dùng ―nó‖ nhưng không phải là chủ ngữ hình thức mà là
33 Zhao Yu Lan, sách đã dẫn, trang 5..
một đại từ nhân xưng thay thế cho chủ ngữ chính thức đã xuất hiện đằng trước,
58
ví dụ:
79) 大凡天上星宿,山中老僧,洞里的精灵,他自有一种性情.
=> Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong
động, đều có một tính tình riêng.(Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 120)
80) 他这件官司并无难断之处,皆因都碍着情分面上,所以如此。
=> Cái án này thực ra chẳng có gì là khó xử. Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt
họ mà không xử đấy thôi.(Hồi thứ 4)
81) 市长说:这你们不要写,他牵涉到个人的事。
=> Thị trưởng nói: Chuyện ấy các anh không nên viết, nó dính dáng tới việc của
cá nhân. (Phế đô, Giả Bình Ao, chương 26).
Câu tiếng Trung dùng chủ ngữ hình thức 他,nhưng khi dịch sang tiếng Việt
thì hoặc không dịch chủ ngữ hinh thức ―nó‖, hoặc không dịch cả câu, việc hiểu
ý nghĩa của câu gốc dựa vào văn bản trên và dưới. Ví dụ:
82) 哦,都是那个奇怪的人不好!他为什么会知道这么多与她有关的事?
又为什么要那么神 秘?他究竟是怎么回事?
=> Dịch thẳng: Ồ, đều là tại cái con người kỳ lạ đó không tốt! Anh ta tại sao lại
biết nhiều chuyện liên quan đến cô như vậy? Lại còn rất thần bí? Chuyện này nó
rốt cục là thế nào?
=> Bản dịch (không dịch): Gã có vẻ quan tâm đến Lạc Mai thật, Lạc Mai sợ
nhưng vẫn chưa hết thắc mắc. – Nhưng mà,...anh là ai mới được chứ? (Hư ảo
một cuộc tình, Quỳnh Dao, Chương 4)
Tương tự, khi tiến hành khảo sát với các bản dịch tiếng Việt thì chúng tôi
cũng nhận thấy rằng, hầu hết các câu trong nguyên tác đều không sử dụng chủ
ngữ hình thức ―nó‖, tuy nhiên trong bản dịch thì lại rất phổ biến, thậm chí việc
sử dụng chủ ngữ hình thức để dịch còn có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, nhấn mạnh
cho chủ ngữ chính (chính là phần khởi ngữ) đằng trước rất nhiều.
Xem các ví dụ sau:
59
82) 雪雁//这里等着呢,姑娘披上一件罢。
=> Em Tuyết //nó chờ mãi. Cô khoác lấy một cái áo đi thôi. (Hồng Lâu Mộng,
Tào Tuyết Cần, Hồi thứ 87)
83) 八戒//急回头看,不见水晶宫门,一把摸着那皇帝的尸首。
=> Bát Giới// nó ngoái lại không thấy đền đài, đụng nhằm thây ma lạnh ngắt.
(Tây du ký, Tào Tuyết Cần, Hồi 38)
84) 可是,水生//约我到他家玩去咧……
=> Nhưng mà thằng Thủy Sinh// nó hẹn cháu đến nhà nó chơi cơ mà. (Cố
hương, Lỗ Tấn)
85) 如萍//笨得很,将来一定要让你伤透脑筋!
=> Nhƣ Bình// nó học dốt lắm, nhận lời rồi mày sẽ hối hận đấy. (Dòng sông
ly biệt, Quỳnh Dao, Chương 6)
86) 袁乐梅//已经死了,不存在了!
=> Cái con Viên Lạc Mai// nó đã chết! Không hề tồn tại,... (Hư ảo một cuộc
tình, Quỳnh Dao,Chương 8)
Các chủ ngữ chính trong cả câu tiếng Việt và tiếng Trung có thể là các đại từ
nhân xưng, chỉ người như ―Em Tuyết, Bát Giới, Thuỷ Sinh, Như Bình, Lạc
Mai,...‖, cũng có thể là các danh từ chỉ vật hoặc là các cụm từ (thường là cụm
danh từ‖, như ―Chuyện cậu nói ra, thú vật, cái hình dạng âm dương, cái loại
kinh nghiệm này,... như trong các ví dụ dưới đây:
87) 你讲的//是小说,我讲的是人生。
=> Chuyện cậu nói ra// nó là tiểu thuyết, chuyện tớ nói ra là cuộc đời. (Linh Sơn,
Cao Hành Kiện, Chương 61)
88) 连禽兽//尚懂得照顾它们的孩子!
=> Thú vật// nó còn biết chăm sóc con nó! (Dòng sông ly biệt, Chương 3)
89)这阴阳//是怎么个样儿?
=> Cái hình dạng âm dương// nó ra thế nào?(Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần,
60
Hồi thứ 31 )
90) 这种体验//又有什么意义?
=> Cái loại kinh nghiệm này// nó có nghĩa gì chứ? (Linh Sơn, Cao Hành Kiện,
Chương 8)
91) 那世澈//到底怎么欺侮你了?你说!告诉妈!妈一定帮你出气!
=> Triệt// nó đã làm gì con? Con cứ nói đi, mẹ sẽ tìm cách giải quyết. Chương
17)
92) 那妖女//见你生得俊,喜欢了你啦。
=> Con yêu nữ// nó mê tít vì công tử xinh đẹp. (Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung,
Chương 92)
Trong mô hình câu này, cả nguyên tác và bản dịch thường sẽ là câu đơn gồm
hai thành phần chính cấu tạo thành là Chủ ngữ - vị ngữ (chúng tôi ngăn cách
bằng dấu //). Phương pháp dịch phổ biến nhất mà người dịch áp dụng là dịch
thẳng. Có lẽ vì sự đơn giản của mô hình câu này nên dịch giả hoàn toàn không
cần phải áp dụng các cách dịch khác để ―tái sáng tạo‖ nguyên tác.
Ngoài ra, các ví dụ 87-92 còn chứng minh được kết luận của chúng tôi ở
chương 2 đó là: Người Trung Quốc thường sử dụng các đại từ chỉ định ―Này(这)
/kia(那)‖thay vì dùng chủ ngữ hình thức 他. Tuy nhiên điểm khác nhau lớn
nhất giữa nguyên tác với bản dịch đó là trong nguyên tác, khi sử dụng cấu trúc
―这/那(Này/kia)+danh từ‖ để tạo thành chủ ngữ (chủ ngữ do cụm từ cấu tạo
thành), thì trong trường hợp này nếu lược bỏ đại từ 这/那(Này/kia) đi thì sẽ
giảm ý nghĩa của câu, thậm chí không thể tạo thành câu. Còn trong bản dịch
tiếng Việt thì do phần khởi ngữ thông thường chính là chủ ngữ của câu, vì vậy
hoàn toàn có thể tỉnh lược chủ ngữ hình thức ―nó‖ mà không làm ảnh hưởng
đến ý nghĩa tổng thể của câu. Các ví dụ trên đã cho thấy rõ kết luận này.
b) Khi “Khởi ngữ +他 + Vị ngữ” là một cú nằm trong câu
Trường hợp này có nghĩa là cấu trúc ―Khởi ngữ +他+ Vị ngữ‖ không phải
61
là một câu riêng biệt, phần khởi ngữ do đó cũng không phải là chủ ngữ của câu
(tuỳ từng trường hợp) mà nó sẽ là một cú (phân câu) nằm trong một câu ghép
(câu phức). Có khi quan hệ của ―nó‖ với khởi ngữ là đồng quy chiếu, có khi
không. Do tính chất của dạng câu này khá phức tạp, vì vậy việc chuyển dịch từ
nguyên tác sang tiếng Việt cũng không hề đơn giản. Bởi vì người dịch ngoài
việc phải xem xét việc sử dụng chủ ngữ hình thức ―nó‖ một cách hợp lý thì còn
phải chú ý xử lý các phần khởi ngữ và vị ngữ. Đặc biệt việc chuyển dịch sẽ rất
phức tạp khi khởi ngữ không phải là một từ mà nó có thể là một cụm từ có nhiều
tầng cấu tạo nên. Các vị ngữ thì có thể cùng chỉ hành động của khởi ngữ làm
chủ ngữ, nhưng lại có thể chỉ hành động của một đối tượng khác. Xem các ví dụ
về đối chiếu chuyển dịch Trung-Việt câu có chủ ngữ hình thức 他 và câu
không có chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung (nhưng trong bản dịch lại sử
dụng rất phổ biến) như bảng dưới đây:
Câu tiếng Trung Câu tiếng Việt
Có dùng 他
93)小姐,可扭了腰了不曾?叫丫头 - Tiểu thư bị sái lưng rồi ạ? Bảo bọn a hoàn
们他捶一捶。 nó đấm lưng cho! (Ngữ liệu trực tiếp)
94)二喜吞了吞口水说:―我问他,他 Nhị Hỷ ấp úng: ―Tớ hỏi anh ấy, sao vẫn
怎么还不请我们吃饭。‖ chưa mời bọn mình đi ăn.‖ (Yêu em từ cái
nhìn đầu tiên, Cố Mạn, phần 33).
95)又是两声枪响,猎人击毙了一只 Lại hai tiếng súng nữa, lại một con vịt trời
水鸭子,那可怜的鸟儿是飞起数 bị bắn chết. Con chim đáng thương bay
米高时中弹的,铅丸把他的身体 khỏi mặt nước mấy thước mới trúng đạn,
打碎了,绿色的羽毛在沼泽地翻 nó rơi thẳng xuống như một cục gạch.
飞,他跌落在水汪里,像块垂直 (Báu vật của đời, Mạc Ngôn)
下落的石头。
Không dùng 他
62
96) 我想了想,还是去找住在绸店隔 Suy nghĩ một lát, tôi quyết định vẫn nên
壁的林郎中,这个老头//他是我丈 đến tìm thầy lang Lâm ở cạnh cửa hàng lụa.
人的朋友,看在家珍的份上他也 Ông lang này là bạn của bố vợ tôi, thấy
会少收些钱。 người nhà của Gia Trân có lẽ ông ta cũng
không nỡ lấy quá đắt. (Dư Hoa, Sống, phần
1).
97)香菱红了脸,笑说:―多谢姐姐了, Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
谁知那起促狭鬼使的黑心。 - Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ
ấy// nó làm ác.(Hồng Lâu Mộng, Tào
Tuyết Cần, Hồi thứ 62)
98)―这厮们大弄,必要来薅恼村坊。‖ Bọn cƣớp nó lộng hành như vậy, thì tất
nhiên có phen quấy rối đến chỗ ta.(Thuỷ
Hử, Thi Nại Am, Hồi thứ 1)
99)史进听了,寻思道:―他们直恁义 Sử Tiến nghe nói, tự nghĩ một mình: - Ừ,
气!我若拿他去解官请赏时,反教 ba thằng này nó có nghĩa khí với nhau
天下好汉们耻笑我不英雄。 như thế, nay nếu ta đem bắt mà giải quan,
thì tất nhiên bọn hảo hán ở đời phải cười ta
là người hẹp lượng.(Thuỷ Hử, Thi Nại Am,
Hồi thứ 1)
100) 庄客李大救主,误打死人, Việc đó là tên Lý Đại// nó cứu chủ lỡ đánh
非干我事!‖ chứ việc gì đến tôi?(Thuỷ Hử, Thi Nại Am,
Hồi thứ 51)
101) 他一心想将来自己开个律师 Anh ưa giải thích rằng nghề của anh// nó
事务所,说这同作家一样,本是 cũng giống như nghề của nhà văn, một
个自由的职业。 nghề tự do. (Linh Sơn, Cao Hành Kiện,
Chương 67)
102) 你怕是钱烧得慌? Cậu sợ tiền// nó làm cho tay cậu bỏng à?
63
(Linh Sơn, Cao Hành Kiện, Chương 79)
103) 他说不是他扔的,皮球自己 Anh hứa không đâu, quả bóng nó tự rơi
掉下去了。 mà. (Kinh thánh của một người, Cao Hành
Kiện, Chương 5)
104) 你不觉得,这几个月来,她 Ông có thấy gần đây Hồng nó hay đến
到农庄去的次数是越来越勤了 nông trại hay không?(Khói lam cuộc tình,
吗? Chương 10)
105) 去问凌云要一顶,她有好多 Bảo Diễm Chi// nó cho mượn, nó có rất
顶,可是都不用,因为她从不在 nhiều nón, nhưng ít khi dùng đến vì nó có
大太阳下跑出来。 ra ngoài bao giờ đâu!( Khói lam cuộc tình,
Chương 3)
Trong bảng trên, có thể thấy rất rõ rằng mối quan hệ giữa ―khởi ngữ + nó + vị
ngữ‖ với cả câu là mối quan hệ bao hàm – trực thuộc, trong đó ―khởi ngữ + nó +
vị ngữ‖ chỉ là một phân câu, một cú nằm trong cả câu lớn. Và nó không có quan
hệ đồng quy chiếu với bộ phận làm chủ ngữ. Ví dụ trong câu 93, 94 phần ―khởi
ngữ + 他‖ không có quan hệ quy chiếu với các chủ ngữ chính của câu (việc bị
sái lưng; người hỏi anh ấy,...)
Một kết luận khác sau khi chúng tôi đối chiếu mô hình này, đó là khi kết cấu
―Khởi ngữ + 他 + vị ngữ‖ xuất hiện trong kiểu câu này, thông thường sẽ là
kiểu câu ghép chính phụ. Tiêu chí dễ nhận biết chính là việc sử dụng các cặp
từ nối như ―nhưng, tuy nhiên,...‖ hoặc các cặp quan hệ từ thường xuất hiện
trong câu ghép như ―nếu,... thì‖ để biểu thị các mối quan hệ về nguyên
nhân-kết quả hoặc điều kiện-giả thiết. Ví dụ:
106) 遇见蛇,他//咬一口也罢了。
=> Nếu gặp phải rắn// nó cắn cho một cái thì xong đời.
107) 如果心虹他//结婚得早,我们都是该做外祖父母的人了。
=> Nếu Hồng// nó chịu lấy chồng sớm thì chúng ta đã là ông bà ngoại rồi.
64
108) 倘或走出一个毒虫虎豹来时,他如何抵当?却不害了性命!‖
=> Chẳng may có cọp nó nhảy ra, chắc chắn tính mạng ta chẳng còn.
Ngay cả với những câu gốc không sử dụng chủ ngữ hình thức 他 (mà
thường dùng các đại từ chỉ định 这/那),thì khi dịch sang tiếng Việt, dịch giả
cũng thường xuyên áp dụng các cấu trúc câu ghép chính phụ này, ví dụ:
109) 哥哥,这妖精//想是怕我们,推出车子,往那厢搬哩。‖
=> Ðại ca, có khi yêu quái //nó sợ chúng ta, nên mở cửa kéo xe, chở đồ đi trốn
chăng? (Tây du ký, Tào Tuyết Cần, Hồi 41)
110) 要想知道梨子的滋味,就要亲口尝一尝梨子。
=> Muốn biết mùi vị quả lê //nó thế nào, tốt nhất là cắn ngay một miếng. (Tửu
Quốc, Mạc ngôn, Chương 2)
Các ví dụ trên cũng cho thấy khi chuyển dịch mô hình câu này, do tính
phức tạp của cấu trúc câu ghép nên thông thường không thể sử dụng phương
pháp dịch thẳng với cấu trúc tương đương như khi ―Khởi ngữ + 他+ vị ngữ‖
làm thành một câu riêng biệt. Đối chiếu bản tiếng Trung và tiếng Việt có thể dễ
dàng nhận thấy rằng các biện pháp dịch ý (dịch đảo, dịch ghép, dịch thêm,...)
được các dịch giả Việt Nam vận dụng rất linh hoạt và chính xác.
Nguyên nhân là do đặc điểm của văn bản văn học rất khó nên khi dịch
thông thường không thể dịch trực tiếp theo cấu trúc, từ vựng của nguyên tác.
Nếu không chỉnh lý, sắp xếp lại toàn bộ các đơn vị ngữ nghĩa, ngữ pháp của văn
bản gốc thì việc chuyển dịch sang văn bản đích là rất khó khăn. Nhiều trường
hợp văn bản dịch hoàn toàn khác với văn bản gốc về tổng thể, chỉ còn giữ được
ý nghĩa chung của tác giả mà có sự thay đổi lớn về cấu trúc và từ ngữ sử dụng.
Ví dụ câu dưới đây:
111) 金星道:―那众头目来!累你去报你大圣知之。吾乃上帝遣来天使有
圣旨在此请他。‖众妖即跑入报道:―外面有一老者//他说是上界天使有
旨意请你。‖
65
=> Dịch thẳng: Kim Tinh nói: ―Lũ khỉ kia, mau vào báo cho Đại Vương các
ngươi. Ta là thiên sứ trên trời xuống, mang theo chiếu chỉ của Ngọc Hoàng để
mời Đại vương lên triều đình làm quan.‖ Lũ tiểu yêu vội chạy vào báo: ―Bên
ngoài có một ông già nói là mang theo chiếu chỉ của Thiên đình đến cho Đại
vương.‖
=> Do đã có ngữ cảnh đằng trước, bản dịch đã thay đổi linh hoạt cấu trúc và bổ
sung thêm so với nguyên tác: Ðến nơi Thái Bạch Kim Tinh gọi bầy khỉ nhỏ đến
nói: - Ta là Thiên sứ, lãnh chiếu Ngọc Hoàng, đến đây mời Ðại vương các ngươi
lên trời lãnh chức. Mau vào báo gấp cho Ðại vương các ngươi ra hầu thiên chỉ. -
Lũ tiểu hầu vội vã chạy vào báo. (Tây Du ký, hồi 3)
112) 断是这畜生弄谊!他若哄我进去他便一口咬住。
=> Dịch thẳng: Chắc là con súc sinh này nó làm đây! Nó lừa ta chui vào để cắn.
=> Bản dịch (dịch ghép): Tề Thiên gạt ta chui vào để nó cắn. (Tây du ký, hồi 6)
Trong những câu kiểu như trên, dịch giả đã rất khéo léo sắp xếp lại các
phân câu trong văn bản gốc và tái sáng tạo hợp lý, sử dụng nhiều phương pháp
dịch cùng lúc để chuyển dịch. Nếu sử dụng phương pháp dịch thẳng và đầy đủ ở
những câu kiểu này thì rõ ràng chỉ có thể bảo đảm về mặt ý tổng thể của câu mà
không thể đạt tới tính tương đương về mặt nhận thức cũng như xúc cảm của văn
bản dịch và văn bản gốc.
Ví dụ sau, nếu dịch thẳng theo nguyên tác thì sẽ tạo ra một sản phẩm dịch
―thất bại‖:
111) 我 ―眼不见,心不烦‘,也就罢了。偏他娘的又不咽这口气!(第29 回)
=> Dịch thẳng: Tôi ―mắt không thấy, lòng không đau‖ thế là xong chuyện. Thế
nhưng mẹ nó lại không nuốt nổi cái hơi này!
=> Bản dịch: Khi đó mắt ta không trông thấy, lòng ta không biết buồn rầu, thế là
xong chuyện. Nhưng nào nó đã tắt hơi cho đâu!(Hồng Lâu Mộng, hồi 29).
66
3.2.3. Đối chiếu phương pháp dịch mô hình “他 + Vị ngữ”
Như chúng tôi đã kết luận, mô hình này chiếm số lượng không nhiều trong
kết quả khảo sát của luận văn, vì vậy mặc dù nếu phân tích kỹ theo quan hệ về
cấp bậc của kết cấu, cũng có thể phân chia mô hình câu này thành hai loại: khi
―他 + vị ngữ‖ là một câu và khi ―他+ vị ngữ‖ là một cú của câu (phân câu).
Tuy nhiên trên cơ sở tham khảo và đối chiếu các nguồn tư liệu khác, như các
câu trong luận văn của Hoàng Thị Thu Thuỷ (đã dẫn), chúng tôi nhận thấy rằng
nếu bàn về phương thức dịch của mô hình câu này thì cũng không có nhiều
khác biệt so với mô hình câu ―Nó + khởi ngữ + vị ngữ‖.
Để tránh việc phân tích bị trùng lặp, chúng tôi sẽ không phân chia mô hình
câu này thành các tiểu loại như mô hình ―Khởi ngữ + Nó + Vị ngữ‖ nữa. Cũng
như qua quá trình đối chiếu, có thể đưa ra những kết luận và nhận xét tương tự
như với trường hợp ―Khởi ngữ + Nó + Vị ngữ‖ ở trên.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh ở đây rằng, mô hình ―他 + Vị ngữ‖ thông thường
cũng ít khi đứng thành câu riêng biệt (tỷ lệ sử dụng còn thấp hơn khi mô hình
―Khởi ngữ +他+ Vị ngữ‖ làm một câu riêng rất nhiều), nếu có thì cũng thường
phải đặt trong một ngữ cảnh cụ thể, có mối quan hệ mật thiết với một vế câu ở
trên. Còn lại thì có thể khẳng định rằng mô hình này thường được sử dụng trong
một câu khác, tức là thông thường ―他+ vị ngữ‖ hay làm thành một cú (phân
câu) trong một câu ghép hoặc câu phức. Ví dụ:
112) 老娘一定把你们剁碎了让老鹰他吃个饱,看你们还敢不敢惹我。
=> Trêu vào bà, bà thì róc thịt các người cho diều hâu nó ăn no!
113) 看看老师这么做//他怎么就不行了呢,我觉得挺好的。
=> Giáo viên làm như vậy sao lại không được? Tôi thấy rất tốt.
Tương tự với trường hợp của mô hình câu ―Khởi ngữ + 他+ Vị ngữ‖, đối
chiếu các ví dụ của mô hình này cũng cho thấy, người Trung Quốc ưa thích
dùng đại từ chỉ định ―这(này)/那(kia, đó) hơn là dùng chủ ngữ hình thức 他
67
như trong tiếng Việt và ngược lại. Ví dụ như:
114) 这//孽畜几时走了?
=>Dịch thẳng: Con súc sinh này trốn hồi nào?
=> Bản dịch: Không biết súc sinh// nó trốn hồi nào? (Tây du ký, hồi 52)
115) 这小贼是要逼我知难而退,自行认输。
=> Dịch thẳng: Thằng tiểu tặc này là muốn đưa ta vào tình thế không sao được
mà phải rút lui, tự nhận thất bại.
=> Bản dịch: Té ra thằng tiểu tặc //nó đưa ta vào tình thế không sao được mà
phải rút lui để tự nhận lấy phần thất bại. (Tiếu ngạo giang hồ, chương 157)
Việc nắm được các kết luận này sẽ cung cấp thêm cho người học và người
dịch nhiều cách dịch khi xử lý văn bản gốc.
Đặc biệt, trong khi thống kê tư liệu, chúng tôi cũng phát hiện trường hợp
tương tự với văn bản tiếng Trung, tức là trong nguyên tác hoàn toàn có thể thêm
hoặc không thêm chủ ngữ hình thức 他, và việc thêm này cũng khiến cho câu
văn trở nên hay hơn rất nhiều. Đáng chú ý là những câu này có thể sử dụng chủ
ngữ hình thức nhưng trong bản dịch thì lại không dùng, cũng rất khó để thêm
chủ ngữ hình thức ―nó‖ vào bản dịch. Nếu thêm vào sẽ khiến câu văn mất đi
tính tương đương về mặt ―cảm xúc‖. Xem các ví dụ sau:
116) 你这个姐姐,他//极孝顺,不象我们那大太太,一味怕老爷,婆婆跟
前不过应景儿。
=> Chị bà// là người rất hiếu thuận, không như chị dâu cả của tôi, một tí gì cũng
sợ chồng, trước mặt mẹ chồng chẳng qua cũng chỉ dựa dẫm cho xuôi chuyện
thôi.(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 46)
117) 大凡天上星宿,山中老僧,洞里的精灵,他//自有一种性情.
=> Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong
động, đều có một tính tình riêng.(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 120)
118) 他//这件官司并无难断之处,皆因都碍着情分面上,所以如此。
68
=>Cái án này// thực ra chẳng có gì là khó xử. Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt
họ mà không xử đấy thôi.(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 4)
Mặc dù đây chỉ là những phát hiện nhỏ của người viết luận trong quá trình
thực hiện đề tài. Đồng thời do giới hạn của một luận văn thạc sỹ không cho phép
chúng tôi phân tích quá sâu về những vấn đề phi trọng tâm. Tuy nhiên chúng tôi
cho rằng, những giới thiệu mang tính khái quát trên đây cũng phần nào đã góp
phần khẳng định thêm sự phong phú trong cách sử dụng của chủ ngữ hình thức
他mà từ lâu nay không được chú ý nhiều ở trong cả giới nghiên cứu Trung
Quốc và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng những phát hiện nhỏ này sẽ mang tính
gợi mở cho người nghiên cứu sau này.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương 3, chúng tôi đã giới thiệu khá toàn diện các vấn đề liên quan
đến đối chiếu tình hình dịch Trung – Việt các mô hình câu có sử dụng chủ ngữ
hình thức ―nó‖. Để có thể nắm được cơ sở lý luận, trước hết chúng tôi đã giới
thiệu một số kiến thức cơ bản liên quan đến lý thuyết về dịch thuật và lý thuyết
về ngôn ngữ học đối chiếu, có kèm theo các ví dụ để làm rõ nghĩa.
Tiếp đó chúng tôi đã đối chiếu hai bản gốc và bản dịch các câu có chủ ngữ
hình thức trong phạm vi khảo sát và thu được một số kết luận quan trọng như
chủ ngữ hình thức 他không được sử dụng trong văn bản gốc nhưng lại thường
được dùng phổ biến trong bản dịch tiếng Việt. Cho thấy sự ưa thích của người
Việt Nam đối với việc sử dụng chủ ngữ hình thức để biểu đạt, nhấn mạnh ý
nghĩa của câu. Hoặc chủ ngữ hình thức ―nó‖ trong tiếng Việt nhiều khi có thể
được thay thế bởi ―thì/là…‖, còn trong tiếng Trung thì không, khi các kết cấu
dùng chủ ngữ hình thức nằm trong một câu khác (làm cú) thì thường câu đó sẽ
là các câu ghép, hay xuất hiện các cặp quan hệ từ, từ nối,... Hiểu được điều này
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dịch khi tiến hành xử lý văn bản gốc.
69
KẾT LUẬN
1. Các kết quả luận văn đã đạt đƣợc
- Khái quát được một số lý luận quan trọng có liên quan đến đề tài như chủ
ngữ, chủ ngữ hình thức, vai trò, chức năng, đặc điểm cơ bản của chủ ngữ hình
thức trong tiếng Trung và tiếng Việt.
- Giới thiệu và chỉ ra được các kiểu câu có sử dụng chủ ngữ hình thức trong
tiếng Trung trên cơ sở ngữ liệu phong phú (33 tác phẩm văn học dịch
Trung-Việt và các nguồn ngữ liệu trực tiếp trong giao tiếp hàng ngày), giúp
người đọc hiểu được sơ bộ về tình hình sử dụng kiểu câu này trong tiếng Trung,
tạo điều kiện để tiến hành đối chiếu với tiếng Việt, rút ra được những điểm
giống và khác nhau.
- Đối chiếu được các mô hình câu có chứa chủ ngữ hình thức trong tiếng
Trung và tiếng Việt là mô hình ―Khởi ngữ + 他+ Vị ngữ‖ và mô hình ―他+ Vị
ngữ‖. Từ đó rút ra được một số điểm tương đồng và khác biệt về tình hình sử
dụng chủ ngữ hình thức trong tiếng Trung và tiếng Việt như sau:
1. Cả tiếng Trung và tiếng Việt đều có hai mô hình câu sử dụng chủ ngữ hình
thức giống nhau về mặt cấu trúc đó là : Mô hình ―Khởi ngữ +他/Nó + Vị ngữ‖
chiếm đa số và mô hình ―他/Nó + Vị ngữ‖ tuy phổ biến trong giao tiếp hằng
ngày nhưng lại rất ít khi gặp trong ngôn ngữ viết.
2. Điểm khác nhau lớn nhất là trong tiếng Việt có mô hình ―Nó + Vị ngữ + Chủ
ngữ‖ còn trong tiếng Trung thì hoàn toàn không có cách nói này.
3. Kết quả khảo sát chứng minh rằng chủ ngữ hình thức trong tiếng Việt được sử
dụng phổ biến và linh hoạt hơn trong tiếng Trung rất nhiều.
- Đồng thời, chúng tôi đã đối chiếu được cách chuyển dịch chủ ngữ hình thức
từ tiếng Trung sang tiếng Việt (trong một một số tác phẩm văn học có bản dịch
tiếng Việt). Kết quả đối chiếu cho thấy, khi chuyển dịch một câu có chủ ngữ
hình thức từ tiếng Trung sang tiếng Việt, thông thường sẽ phải sử dụng phương
70
pháp dịch ý hoặc kết hợp nhiều phương pháp dịch cùng lúc.
2. Hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai
- Trong những nghiên cứu sau này, chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi
thống kê, tìm kiếm hơn nữa để chỉ ra những hiện tượng đặc biệt về chủ ngữ hình
thức trong tiếng Trung và tiếng Việt. Đặc biệt là tìm được cơ sở ngữ liệu đáng
tin cậy cho đầy đủ các mô hình, sau khi tiến hành đối chiếu, so sánh điểm giống
và khác nhau thì rút ra được phương pháp dịch những kiểu câu đặc biệt này.
- Để kết quả thu được phong phú hơn, chúng tôi sẽ mở rộng đối tượng so sánh,
đối chiếu với chủ ngữ hình thức trong tiếng Anh – loại hình ngôn ngữ có tần
suất sử dụng chủ ngữ hình thức rất lớn.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (1981), Bàn về vấn đề khởi ngữ (hay chủ đề) trong tiếng
Việt, trong ―Một số vấn đề về ngôn ngữ Việt Nam‖, NXB Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông (tập 2), NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Hồng Cổn, Cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt: Chủ-Vị hay
Đề-Thuyết
https://ngonnguhoc.org/index.php?Itemid=39&catid=29&id=243:cu-truc-cu
-phap-ca-cau-ting-vit-ch-v-hay--thuyt&option=com_content&view=artice
6. Đỗ Hồng Dương (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lí
thuyết điển mẫu, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, ĐH Khoa học XH và NV.
7. Đỗ Hồng Dương, Bước đầu áp dụng lý thuyết điển mẫu vào nghiên cứu
thành phần chủ ngữ trong câu tiếng Việt
https://voer.edu.vn/m/buoc-dau-ap-dung-ly-thuyet-dien-mau-vao-nghien-cuu-tha
nh-phan-chu-ngu-trong-cau-tieng-viet/17afd465
8. Đỗ Hồng Dương, Một cách tiếp cận ―chủ ngữ‖ từ góc độ loại hình học
https://voer.edu.vn/m/mot-cach-tiep-can-chu-ngu-tu-goc-do-loai-hinh-hoc/be5b0
9. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội.
10. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu nước
ngoài, Nghiên cứu Nguyên tắc hợp thành trong nghĩa học cú pháp tiếng Việt,
Tập 30 (số 1), tr.1-6.
11. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Giáo
72
dục, Hà Nội.
12. Cao Xuân Hạo (2002), Câu và kết cấu chủ-vị, Tạp chí ngôn ngữ số 13, tr.
1-20.
13. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb.Giáo
dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Hiệp, Vài nét về lịch sử nghiên cứu cú pháp tiếng Việt:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7324&rb=06
16. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc đề-thuyết,
Nxb.Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17. Lưu Vân Lăng (1986), Ngữ pháp tiếng Việt, Uỷ ban KHXH.
18. Trần Kim Phượng (2010), Bàn thêm về cấu trúc đề-thuyết của câu tiếng Việt,
Ngôn ngữ và đời sống, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, số 3, tr.173.
19. Trần Kim Phượng, Các phương pháp phân tích câu tiếng Việt:
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/102/Default.aspx
20. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.Đại học và THCN,
trang 111.
21. Bùi Đức Tịnh (1952) , Văn phạm Việt Nam, Nxb.P.Văn Tươi, tr. 409.
22. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Lý thuyết thành phần câu
và thành phần câu tiếng Việt, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Hoàng Thị Thu Thuỷ (2006), Về một kiểu câu có chủ ngữ hình thức trong
tiếng Việt (kiểu câu ―Mùa hè mặc quần đùi cho nó mát‖), Luận văn cao học,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Hà Nội.
24. Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán (2002), Đại cương ngôn ngữ học (tập 1),
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Tu (1960), Khái luận ngôn ngữ học, Nxb.Giáo dục, trang218.
26. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 tập 2 (2012) , Nxb Giáo dục.
73
B. Tiếng Trung:
27. 崔英贤(2004),现代汉语语法学习与研究入门,清华大学出版社。
28. 董秀芳(2005), 语言教学与研究,现代汉语口语中的傀儡主语―他 ‖ ,
第 5 期 。
29. 黄伯荣、廖序东(2017),现代汉语语法上下册、高等教育出版社。
30. 梁桂霞(2014), 英语语法探索与运用,航空工业出版社。
31. 吕叔湘(1979),汉语语法分析问题,商务印书馆,北京。
32. 张伯江、方梅(1996),汉语功能语法研究,江西教育出版社。
33. 黎锦熙(1924),新著国语文法,商务印书馆,北京。
34. 李金满(2006),现代外语季刊,话题跟主语和题语,第 29 卷第 3 期,
上海交通大学/南通大学。
35. 徐烈烔,刘丹青(2003),当代语言学,话题的结构与功能评述,第五
卷,第一期,pg.42-63。
36. 王帆(2015), 考试周刊,理解―It 作形式主语‖的语法规则和例外——
对英语语法中―例外‖的思考, 87 期。
37. 赵元任,国语入门,哈弗尔大学出版, 1948。
38. 赵玉兰,汉越互译教程,北京大学,2007。
39. 郑敏芳,弋睿仙,《英语中的虚主语―it‖和汉语中的虚主语―他‖异同之比
较》,西藏民族学院外语学院,2014 年 12 期。
40. 现代汉语规范词典,吉林大学出版社,2014。
41. 金立鑫:对现代汉语主语的再认识
https://www.academia.edu/35722026/%E5%AF%B9%E7%8E%B0%E4%BB
%A3%E6%B1%89%E8%AF%AD%E4%B8%BB%E8%AF%AD%E7%9
A%84%E5%86%8D%E8%AE%A4%E8%AF%86
74
PHỤ LỤC 1
CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC 他 TRONG TIẾNG TRUNG
TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. 凌风需要休息,我们出去讨论吧! Phong nó cần nghỉ ngơi, để nó ngủ cho
让凌风他睡一下。 lại sức!(Bhongờ quạnh hiu, Quỳnh Dao,
Chương 20)
2. 你何必固执的持地域的偏见,绿 Cố chấp và kì thị làm gì. Em thấy Sao
绿那孩子他纯朴美丽,我倒很喜 Ly nó cũng đẹp đấy chứ. (Bên bờ quạnh
欢她。 hiu, Quỳnh Dao, Chương 21)
3. 延芳见乐梅若有所思,暗忖自己 Bà Diên Phương vẫn không ngừng nhìn
方才的编的那番话或许过度了 Lạc Mai thăm dò. Bà nghĩ con dâu nó
些,便挽住媳妇儿,体贴又歉疚 mới đến cũng không nên hù dọa quá
的问:―跟你说这些,他是不是吓 đáng.(Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh Dao,
着你了?‖ Chương 13)
4. 燕顺亲耳听得―宋江‖两字,便喝住 Yên Thuận nghe nói hai chữ Tống
小喽罗道:―且不要泼水。‖燕顺问 Giang thì lật đật kêu lâu la ngưng lại mà
道:―他那厮说甚么‗宋江‘? rằng: Khoan khoan đã, thằng đó nó nói
cái gì mà Tống Giang đó vậy?(Thuỷ
Hử, hồi thứ 31)
5. 庄之蝶勃然大怒,骂道:×他娘的 Trang Chi Điệp nổi giận đùng đùng
洪江! //他也敢这么作践我了? mắng: Cha cái thằng Hồng Giang, nó
cũng dám bôi xấu tôi à? (Phế Đô, Giả
Bình Ao, Chương 92)
6. 赵京五最得意的也正是这些砚 Triệu Kinh Ngũ đắc ý hơn cả chính là
台,他不仅是端砚,兆砚、徽砚, 泥 những nghiên mực này. Nó không chỉ là
砚,且所产年代古久,每一砚上 Nghiên Đoan, Nghiên Triệu, Nghiên
都刻有使砚人的名姓。 Huy, Nghiên Nê, mà trên mỗi cái nghiên
75
mài mực còn khắc tên họ của người
dùng nghiên. (Phế Đô, Chương 11)
7. 牛月清听了,好久没有言语,待 Ngưu Nguyệt Thanh nghe xong, im lặng
听到黄厂长还在那里唠唠叨叨, một lúc lâu, nghe giám đốc Hoàng còn
说这是一场什么事呀,农药要它 đang càu nhàu tại chỗ, anh ta bảo chẳng
有毒的时候它没个毒劲,不让它 hiểu ra sao cả, cái lô thuốc sâu này, thì
有毒时它却真把人毒死了! mình muốn nó có độc, thì nó không độc,
khi không để nó có độc, thì nó lại làm
chết người thật. (Phế đô,Chương 84)
8. 他无论是诗还是大写意画,都需 Nhưng theo bác nghĩ thì dù là một bài
要人能欣赏和了解,它们都各有 thơ hay một bức họa đều có những ưu
điểm riêng của nó. (Hãy ngủ yên tình 所长。
yêu, Quỳnh Dao, chương 12)
9. 这是北京产的生发灵,它还真管 Đây là thuốc mọc tóc do Bắc Kinh sản
xuất, nó có tác dụng đáo để. (Phế đô, 用的!
Chương 86)
10. 这就是社会,我算是看透了。看 - Xã hội là thế, tớ bây giờ nhìn thấu rồi.
透了也就甭说了。 Đã nhìn thấu thì chẳng phải bàn.
- 我来气! - Nhưng cái đầu tớ nó khó chịu. (Linh
Sơn, Cao Hành Kiện, Chương 79)
11. 大凡天上星宿,山中老僧,洞里 Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng
的精灵,他自有一种性情. trên núi, hay những tinh linh trong động,
đều có một tính tình riêng.(Hồng Lâu
Mộng, hồi thứ 120)
12. 他这件官司并无难断之处,皆因 Cái án này thực ra chẳng có gì là khó xử.
都碍着情分面上,所以如此。 Các quan phủ trước chỉ vì nể mặt họ mà
không xử đấy thôi.(Hồng Lâu Mộng,
76
hồi 4)
13. 你这个姐姐,他极孝顺,不象我 Chị bà là người rất hiếu thuận, không
们那大太太,一味怕老爷,婆婆 như chị dâu cả của tôi, một tí gì cũng sợ
跟 前不过应景儿。 chồng, trước mặt mẹ chồng chẳng qua
cũng chỉ dựa dẫm cho xuôi chuyện thôi.
(Hồng Lâu Mộng, Hồi thứ 46)
14. 市长说:这你们不要写,他牵涉 Thị trưởng nói: Chuyện ấy các anh
到个人的事。 không nên viết, nó dính dáng tới việc
của cá nhân. (Phế đô, Giả Bình Ao,
chương 26).
15. 哦,都是那个奇怪的人不好!他为 Gã có vẻ quan tâm đến Lạc Mai thật,
什么会知道这么多与她有关的 Lạc Mai sợ nhưng vẫn chưa hết thắc
事?又为什么要那么神 秘?他 mắc. – Nhưng mà,...anh là ai mới
究竟是怎么回事? đượcchứ? (Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh
Dao, Chương 4)
16. 二喜吞了吞口水说:―我问他,他 Nhị Hỷ ấp úng: ―Tớ hỏi anh ấy, sao vẫn
怎么还不请我们吃饭。‖问 chưa mời bọn mình đi ăn.‖ (Yêu em từ
cái nhìn đầu tiên, Cố Mạn, phần 33).
17. 又是两声枪响,猎人击毙了一只 Lại hai tiếng súng nữa, lại một con vịt
水鸭子,那可怜的鸟儿是飞起数 trời bị bắn chết. Con chim đáng thương
米高时中弹的,铅丸把他的身体 bay khỏi mặt nước mấy thước mới trúng
打碎了,绿色的羽毛在沼泽地翻 đạn, nó rơi thẳng xuống như một cục
飞,他跌落在水汪里,像块垂直 gạch. (Báu vật của đời, Mạc Ngôn)
下落的石头。
18. 除了这群狼,这条山谷,还有一 Ngoài bầy sói, ở hẻm núi này còn có
只神经质的公熊,他什么都吃, một con gấu đực mắc bệnh tâm thần, nó
草根、树叶、野果子、小动物, ăn tất cả mọi thứ, rễ cây, lá cây, quả dại,
77
它还能极其灵巧地从山溪捕捉到 động vật nhỏ. Nó bắt được những con cá
银光闪闪的大鱼。 vẩy bạc rất to dưới suối, nhai rau ráu, ăn
cả vây như ăn củ cải. (Báu vật của đời ,
Chương 39)
19. 金星道:―众头目来!累你去报你 Ðến nơi Thái Bạch Kim Tinh gọi bầy
大圣知之。吾乃上帝遣来天使有 khỉ nhỏ đến nói: - Ta là Thiên sứ, lãnh
圣旨在此请他。‖众妖即跑入报道: chiếu Ngọc Hoàng, đến đây mời Ðại
―外面有一老者他说是上界天使有 vương các ngươi lên trời lãnh chức. Mau
旨意请你。‖ vào báo gấp cho Ðại vương các ngươi ra
hầu thiên chỉ. - Lũ tiểu hầu vội vã chạy
vào báo. (Tây Du ký, hồi 3)
20. 断是这畜生弄谊!他若哄我进去他 Tề Thiên gạt ta chui vào để nó cắn. (Tây
便一口咬住。 du ký, hồi 6)
21. 还不如捉个行人肥腻腻的吃他家 Thà bắt chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo
娘!管他甚么二罪三罪千罪万罪! lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn
tội nà. (Tây du ký, Hồi 8)
Thượng Ðế phán rằng: - Kỳ hội nào cũng
22. 朕即施教育贤宣他上界封为御马监
弼马温官。那厮嫌恶官小反了天宫。
vui, kỳ nầy bị yêu hầu quấy rối? Nên trẫm
giận sai mười muôn thiên binh đi bắt nó,
chưa thấy trở về, không biết thắng hay là
bại. (Tây du ký, Hồi 6)
―这才是福无双降祸不单行。我才脱
23. (Không dịch,)
了天条死难不上一年在此随缘度日
又撞着这般个泼魔他来害我!
24. 还有闰土,他每到我家来时,总 Có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng
问起你,很想见你一回面。 nhắc nhở đến con và rất mong có ngày
được gặp con. (Cố Hương, Lỗ Tấn)
78
25. 小孩他兴地点点头,我就扣住铜 Cậu bé vui vẻ gật đầu, tôi liền móc tay
环使劲敲了几下。 cầm vòng đồng gõ thật mạnh mấy cái.
(Dư Hoa, Sống, Phần 1)
26. 我们连里有十来个都是十五六岁 Đại đội của tôi có đến mười đứa con trai
的孩子,有一个叫春生的娃娃兵, mới mười lăm mười sáu tuổi, trong đó
是江苏人,他老向我打听往北去 có một cậu lính choai choai là Xuân
是不是打仗,我就说是的。 Sinh, người Giang Tô, hắn cứ dò hỏi tôi
đi lên phía Bắc có phải đánh nhau
không, tôi bảo phải. (Dư Hoa, Sống,
Phần 1)
27. 其实等待与时间无关,他是一种 Thực ra chờ đợi và thời gian chẳng có gì
习惯,它自由生长,而他无力抵 liên quan đến nhau, đó là một thói quen,
抗。 nó tự nảy sinh, còn anh không thể cưỡng
lại. (Cố Mạn, Bên nhau trọn đời, chương
12)
28. 她这几天把听人说的、网上看见 Mấy hôm nay Hiểu Linh nói chuyện
的、报上登载的网恋被骗的事件 nghe được, truyện đọc trên mạng và
说了 N 个了,就是为了给微微他 chuyện trên đài báo có liên quan đến
提个醒,别给网上的坏男人骗了, việc bị lừa tình qua mạng nói đi nói lại
结果前几天她一点反应都没。 hàng N lần rồi, cốt yếu để Vy Vy, đừng
để cho đàn ông xấu xa trên mạng nó lừa,
mấy hôm trước Vy Vy không có phản
ứng gì cả. (Cố Mạn, Yêu em từ cái nhìn
đầu tiên, phần 18)
29. 大厅璀璨的灯光下,封腾不疾不 Dướiánh đèn lung linh trong đạisảnh,
徐地步入会场,他, 一身讲究的西 Phong Đằng khoan thai tiến vào hội
装,外面随意披了件黑色大衣, trường, anh mặc một bộ vest rất đẹp, bên
79
显得分外耀眼挺拔。 ngoài khoác một chiếc áo khoác đen,
trông vô cùng mạnh mẽ, chói mắt. (Cố
mạn, Sam Sam đến đây ăn).
30. 臭乌鸦乱叫乱噪,咱们只当他是 Con quạ đen thối tha nó có kêu réo thì
chúng ta để xuống dưới quần. 放屁!
(KimDung,Tiếu Ngạo giang hồ,
Chương 65)
31. ―啊哟,不好!这小贼他不愿负那 Thằng tiểu tặc này nó không muốn
忘恩负义的恶名,却如此跟我缠 mang tiếng ác là kẻ vong ân phụ nghĩa,
nên gã mới chiến đấu một cách dằng dai 斗。
với ta hết giờ này qua giờ khác.
(KimDung,Tiếu Ngạo giang hồ,
Chương 157)
NGỮ LIỆU TRỰC TIẾP
32. 你看,咱们家老头啊,他有时候 Chị xem, ông nhà tôi nhiều khi rất thích
很喜欢跟我开玩笑呢! trêu chọc tôi.
33. 徐伯伯他再有钱也不会雇保姆。 Ông Từ có nhiều tiền đến mấy cũng
không thuê giúp việc.
34. 你看寺庙里的那些天天来烧香的 Anh xem những người ngày nào cũng
人,他为什么,就是为了有个精 đến chùa thắp hương kia, là vì lý do gì,
神寄托。 chính là vì tìm sự bình yên cho tâm hồn.
35. 这些人啊,他都不是好人。 Những người này à, đều không phải là
người tốt.)
36. 这画啊,他可能是假的嘞。 Bức tranh này à (nó) có thể là giả đấy.
37. 你看,这满屋子的装饰,家具, Anh xem này, trang trí, nội thất của căn
他都别有一番风味。 phòng này, (nó) rất độc đáo.
38. 这只狗,他成天叫唤。 Con chó này, (nó) kêu cả ngày.
80
39. 这些书,他就是贵。 Những quyển sách này rất đắt.
40. 今儿,他不是冬至嘛! Hôm nay, (nó) không phải là đông chí à!
41. 打车,他不是贵嘛! Gọi taxi đi thì nó đắt mà!
42. ―欠债还钱‖,这到哪儿他都是这么 ―Có nợ phải trả‖, cái lý này đi đâu cũng
个理呀。 đúng.
43. 他这猫啊,每天晚上都叫唤。 Con mèo này đêm nào cũng kêu.
44. 他这事啊,咱有理,政府也得考 Về vấn đề này, chúng ta có lý, chính phủ
虑我们的实际情况呀。 cũng phải xem xét hoàn cảnh cụ thể của
chúng ta.
45. 他这些老鼠呀,讨厌的很,老是 Lũ chuột đáng ghét lúc nào cũng ăn
吃桌上的面包。 vụng bánh mì trên bàn.
46. 别再吃了,再吃他就吐啦。 Đừng ăn nữa, còn ăn nữa thì nó nôn
đấy!
47. 喝酒,他不是伤身嘛! Uống rượu thì nó hại thân đấy!
48. 这茶头一次要少喝一点,喝多了 Loại trà này lần đầu uống thì uống ít
他苦的很。 thôi, uống nhiều nó đắng lắm đấy.
49. 你少为孩子操心吧,现在的年轻 Em đừng bận tâm vì con, bọn trẻ bây
人他自己有自己的主张。‖ giờ nó có nhận xét riêng của chúng.
50. ―我觉得,小李他不是自己去投水 Con cảm thấy, tiểu Lý nó không phải tự
的,而是咱们一人一把将她推下 mình đi nhảy xuống suối, mà là chúng ta
去的! từng người từng người đẩy cô ấy xuống.
51. 同样的一本书,不同的人看了, Cùng một quyển sách, người xem khác
常会有不同的反应,他有好的, nhau, thường có phản ứng khác nhau, nó
也有坏的。‖ có tốt, mà cũng có xấu.
52. ―哇!这大狗他发狂了!快跑呀, Ôi! Con chó dữ này nó lên cơn dại rồi!
当心它咬人……‖ Chạy nhanh đi, cẩn thận không nó cắn
đấy!
81
53. 小姐,可扭了腰了不曾?叫丫头 - Tiểu thư bị sái lưng rồi ạ? Bảo bọn a
们他捶一捶。 hoàn nó đấm lưng cho!
54. 遇见蛇,他咬一口也罢了。 Nếu gặp phải rắn nó cắn cho một cái thì
xong đời.
55. 如果心虹他结婚得早,我们都是 Nếu Hồng nó chịu lấy chồng sớm thì
该做外祖父母的人了。 chúng ta đã là ông bà ngoại rồi.
‖
56. 倘或走出一个毒虫虎豹来时,他 Chẳng may có cọp nó nhảy ra, chắc
如何抵当?却不害了性命!‖ chắn tính mạng ta chẳng còn.
57. 老娘一定把你们剁碎了让老鹰他 Trêu vào bà, bà thì róc thịt các người cho
吃个饱,看你们还敢不敢惹我。 diều hâu nó ăn no!
58. 看看老师这么做他怎么就不行了 Giáo viên làm như vậy sao lại không
呢,我觉得挺好的。 được? Tôi thấy rất tốt.
82
PHỤ LỤC 2
CÂU CÓ CHỦ NGỮ HÌNH THỨC “NÓ” TRONG TIẾNG VIỆT
STT Câu dịch tiếng Việt Câu gốc tiếng Trung
鲁团座,您是大知识分子,你 1) Lỗ Đoàn Tọa, anh là một tri thức có cỡ,
kiểu thân thích mà anh nói nó thiêng 说这亲戚,听起来怪神圣的
liêng lắm. (Báu vật của đời, Mạc
Ngôn, chương 24)
说出来就感到平淡,索性就闭 2) Nói ra thì thấy nó thường quá, chẳng
thà không nói là hơn. (Báu vật của 嘴不说。
đời, Mạc Ngôn, chương 28)
3) Chị Cả nhìn chúng tôi, thở dài: - Số tôi 大姐看看我们,叹道:―这就
nó như thế? (Báu vật của đời, Mạc 是我的命。
Ngôn, chương 38)
4) Phúc Lộc nói:- Con nó nói đúng đấy, 上官福禄帮腔道:―儿子说得
nên khao chúng tôi một bữa. (Báu vật 对,是该犒劳犒劳我们了。
của đời, Mạc Ngôn, chương 57)
5) Cô em ơi, chớ để cho thằng Đơn Biển "小娘子,你可不能让单扁郎
Lang nó mó vào người, nó mà mó vào, 沾身啊,沾了身你也烂啦!"
người em cũng thối rữa ra đấy !(Cao
lương đỏ, Mạc Ngôn, Chương 5)
四叔说,我坐在车上,走什么 6) Chú Tư nói – Tôi ngồi trên xe, đi bộ
đâu mà đi bộ? Cho con trâu nó uống! 路?你弄点水把牛饮饮吧!
(Cây tỏi nổi giận, Mạc Ngôn, Chương
9)
黄眼犯人说:快点吧,他妈的, 7) Phạm mắt vàng nói: ―Mau lên, hết mẹ
nó giờ rồi!‖ (Cây tỏi nổi giận, Mạc 马上又要收风啦!
Ngôn, Chương 12)
83
老大又说:娘,回家去歇了吧, 8) Cả Phương lại nói: ―Mẹ. Mẹ về nghỉ đi để
我跟老二守着就行了,说一千 con và thằng Hai trông. Số kiếp bố con nó
道一万,是俺爹命该如此,你 như thế, mẹ đừng buồn nữa.‖ (Cây tỏi nổi
giận, Mạc Ngôn, Chương 15) 也别难过啦!
9) Bà Đỗ giận dữ nói: - Không phải tao 杜大娘愤怒地说:―不是我心
tiếc của, chỉ sợ mặn quá khiến cổ họng 疼,我是怕他吃坏了嗓子。‖
nó sưng tấy lên thôi! (Trâu thiến, Mạc
Ngôn, Chương 7)
要想知道梨子的滋味,就要亲 10) Muốn biết mùi vị quả lê nó thế nào, tốt
nhất là cắn ngay một miếng. (Tửu 口尝一尝梨子。
Quốc, Mạc ngôn, Chương 2)
11) Nhưng mà thằng Thủy Sinh nó hẹn "可是,水生约我到他家玩去
cháu đến nhà nó chơi cơ mà. (Cố 咧……"
hương, Lỗ Tấn)
12) Chuyện đến tai chú Tư, chú chau mày 四叔一知道,就皱一皱眉,道:
bảo:- Hỏng! Có lẽ của này nó trốn nhà. ―这不好。恐怕她是逃出来
(Lễ cầu phúc, Lỗ Tấn) 的。‖
那年的黄鼠狼咬死了那匹大 13) Năm ấy, cáo nó bắt mất con gà sống to,
có phải là tại cháu không đóng chuồng 公鸡,那里是我没有关好吗?
gà đâu! (Ly hôn, Lỗ Tấn)
14) Cô Ái quay mặt lại nói to: "那个娘滥十十万人生的叫你
- Cái con Lạm nó gọi mày bằng đứa 逃生子?"爱姑回转脸去大声
"con hoang" đấy chứ? (Ly hôn, Lỗ Tấn) 说。
15) Không phải là tôi đã nói rồi sao? Đó là "我不是已经说过了?那是
cái thằng đểu giả ấy nó,... (Miếng Xà 一个光棍……"
phòng, Lỗ Tấn)
16) Này, ba đứa chúng mày, lương tâm 你们三个人啊,你们的良心被
84
chúng mày bị chó nó tha đi rồi hả? 狗叼走啦?
(Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, Dư
Hoa, Chương 29)
你们三个儿子啊,你们的良心 17) Này, ba thằng con trai kia, mẹ nói cho
chúng mày biết, lương tâm của chúng 彼狗叼走啦……‖
mày đã bị chó nó tha mất rồi….
(Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, Dư
Hoa, Chương 29)
- Chính là vì cái hiện thực con mẹ nó ấy 18) "我就是为这他妈的什么真实
mà tớ gặp sự phiền phức và bây giờ 不真实倒的霉,才奔你这里
đang ở đây đấy, ta bảo anh. (Linh Sơn, 来,"我说。
Cao Hành Kiện, Chương 61)
19) Anh phá lên cười: 他哈哈大笑,说:"这荒江女
- Cũng con mẹ nó nốt cả cái chuyện về 侠的故事也就算了。"
"Hoang giang nữ hiệp" kia nữa đấy. (Linh
Sơn, Cao Hành Kiện, Chương 61)
那我管不着,她自己会知道该 20) Cái ấy tớ không quản, tự nó nó biết làm
như thế nào. (Linh Sơn, Cao Hành 怎么办。
Kiện, Chương 79)
他说不是他扔的,皮球自己掉 21) Chú út vẫn khăng khăng, nhặt lên cho
mày rồi mày lại ném xuống. Anh hứa 下去了。
không đâu, quả bóng nó tự rơi mà.
(Kinh thánh của một người, Cao Hành
Kiện, Chương 5)
- Cái văn học, văn chương mà cậu nói 22) 你说的这文学太遥远了,‖罗
nó xa vời quá, mình chẳng biết nó ở 说二我不知道文学在哪里?
đâu. (Kinh thánh của một người, Cao
Hành Kiện, Chương 15)
85
我也觉得这些鸭子很可爱,而 23) Tôi cũng thấy mấy con vịt này rất dễ
且还会唱歌,每个鸭子唱的歌 thương, nó còn biết hát, mỗi con hát
một bài khác nhau. (Sam sam đến đây 都不一样哦。
ăn nào ,Cố Mạn , Chương 4)
这个名字本身没什么问题,甚 24) Tên này bản thân nó chẳng có vấn đề
至在某段时期,为杉杉的身心 gì, thậm chí ở mỗi thời kỳ còn giúp
cả thể chất lẫn tinh thần của Sam Sam 健康做出
khỏe ra rất nhiều.( Sam sam đến đây ăn 了巨大的贡献。
nào ,Cố Mạn , Chương 46)
25) Tôi cười, quay mặt lại tỉnh bơ: ―哦!‖我笑了,转开头,不在
- Phương Du nó nhờ em, chiếc xe đó là 乎的说:―是方瑜想知道。那
车子里是个流氓,曾经用车子 của một tên lưu manh đã cản đường nó,
nên nó muốn biết tên chủ nhân chiếc xe 拦她,方瑜想知道了去告他!‖
thế thôi. (Dòng sông ly biệt, Quỳnh
Dao,Chương 19)
26) Còn con Như Bình nó giống cha chút 如萍——她哪里有一分地方
像我?一点小事就只会掉眼 nào đâu. Đụng tí là chảy nước mắt.
(Dòng sông ly biệt, Quỳnh 泪。
Dao,Chương 21)
依萍,你是小瑜的好朋友,你 27) Y Bình, cháu là bạn của Phương Du,
能告诉我她为什么要这样做 cháu làm ơn cho bác biết tại sao
Phương Du nó phải đến thế này. (Dòng 吗?
sông ly biệt, Quỳnh Dao, Chương 30)
那倒不是,世澈坦白说,他是 28) Nó mượn tiền anh, chớ chẳng dám
瞒着羽裳的,他除了跟我借, mượn của ai khác, sợ con Thường nó
biết nó buồn. (Hãy ngủ yên tình yêu – 没有其他的办法。
Quỳnh Dao, Chương 17)
86
我只怕羽裳知都不知道这些 29) Em chỉ sợ Vũ Thường nó chẳng biết tí
gì về chuyện này cả. (Hãy ngủ yên tình 事呢!
yêu – Quỳnh Dao, Chương 17)
那世澈到底怎么欺侮你了? 30) Vũ Thường, Triệt nó đã làm gì con?
你说!告诉妈!妈一定帮你出 Con cứ nói đi, mẹ sẽ tìm cách giải
quyết. (Hãy ngủ yên tình yêu – Quỳnh 气!
Dao, Chương 17)
31) Giả sử như Vũ Thường nó cũng bỏ theo 如果羽裳也追去了,怎么办?
thì sao? (Hãy ngủ yên tình yêu – Quỳnh
Dao, Chương 18)
32) Anh đừng phụ lòng nó. Thường nó bảo ―别辜负她吧!‖慕枫低语。―她
叫我转告你,你是她唯一的爱 với em anh là người yêu duy nhất của
nó. (Hãy ngủ yên tình yêu – Quỳnh 人!‖
Dao, Chương 19)
33) - Lạc Mai nó bị trúng tên cũng vì muốn ―被箭射伤,为的就是救一
cứu cái con chồn lông trắng kia. (Hư ảo 只白狐嘛!
một cuộc tình, Quỳnh Dao, Chương 2)
说不定乐梅救的那只白狐是 34) Biết đâu là vì Lạc Mai nó cứu cái con
有灵性的,才安排了这么一段 chồn đó, nên sự hiển linh đã sắp để nó
mua được vật báu rẻ gọi là đền ơn cứu 儿,好答谢救命之恩哩。‖
mạng.( Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh
Dao, Chương 2)
乐梅既没缺块肉,也没少层 35) Lạc Mai nó bình an vô sự, chứ chưa sao
皮,只要你不再招惹她,她就 cả.( Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh Dao,
Chương 4) 好端端的没事儿!‖
我的女儿拿了一把刀,让仇家 36) Bà ÁnhTuyết hổn hển nói :
- Con tôi nó đã đứng về phía bên kẻ 去握刀柄,却逼自己的母亲握
87
thù, nó đã cầm đao kề cổ uy hiếp tôi,... 刀刃。
(Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh Dao,
Chương 6)
37) Trong tình hình này em để Lạc Mai nó ―乐梅也在气头上,这一去要
chạy ra ngoài, rủi có chuyện gì không 是出了什么意外……‖
hay xảy ra thì sao?( Hư ảo một cuộc
tình, Quỳnh Dao, Chương 8)
但是,过没两天,小佩也见鬼 38) Vậy mà chỉ hai hôm sau. Cái con Tiểu
Bội nó cũng cho biết là,... Nó trông 了。
thấy ma.( Hư ảo một cuộc tình, Quỳnh
Dao, Chương 13)
39) Cái thằng Khởi Hiên nó cũng ưa món ―起轩也爱吃蜜汁火腿哩!‖
thịt quay lắm đấy!( Hư ảo một cuộc
tình, Quỳnh Dao, Chương 15)
那个人几乎是与世隔绝了,因 40) Sống như cách biệt với thế giới bên
ngoài,... vì nghe nói mặt mày của ông 为他的脸据说有某种缺陷,所
ta nó có khuyết tật gì đó, nên không 以他才会戴着面具……‖
dám để mọi người trông thấy. (Hư ảo
một cuộc tình, Quỳnh Dao, Chương 15)
- Con cảm thấy,... Con linh cảm chuyện 41) ―我觉得,她不是自己去投水
Lạc Mai nó nhảy xuống suối định tự sát 的,而是咱们一人一把将她推
lần này,... Như là không phải tự nó,... 下去的!
Mà là do chúng ta. (Hư ảo một cuộc
tình, Quỳnh Dao, Chương 18)
42) Khi Lạc Mai nó không còn thiết sống ―乐梅都已经不想活了,你还
thì mi còn thiết tha cái gì? Không lẽ mi 有什么做不到?难道你仍不
chưa ngộ ra? (Hư ảo một cuộc tình, 能觉悟?
Quỳnh Dao, Chương 18)
88
到了这种地步,映雪是再也撑 43) Đến nước này, bà chịu thua, bà vội
nói :- Đừng con! Mẹ van con! Con 不下去了。―起轩没死!起轩
nghe này, Khởi Hiên nó chưa chết! Nó 还活着!‖
hãy còn sống.( Hư ảo một cuộc tình,
Quỳnh Dao, Chương 19)
44) Rồi Phục lắc đầu: -Nói là vậy, nhưng 他摇摇头:―但是,书本里的
世界却是另一番天下,一旦走 thế giới bên trong quyển sách nó cũng
进去,酸甜苦辣,你可以经历 có đủ mùi chua cay của nó, đọc nó anh
như bước qua được bao nhiêu cuộc 各种人生了。‖
đời.(Khói lam cuộc tình, Quỳnh Dao,
Chương 8)
45) - Vì thế tôi muốn cảnh giác anh một ―所以,我必须提醒你,心虹
điều là Tâm Hồng,... nó là đứa con gái 不是一个很正常的女孩子
thật bình thường.( Khói lam cuộc tình,
Quỳnh Dao,Chương 12)