ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ VƯƠNG HỒNG HẠNH
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP-NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NÓI NĂNG TRONG TIẾNG ANH (LIÊN HỆ VỚI NHÓM ĐỘNG TỪ TƯƠNG ỨNG TRONG TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- VƯƠNG HỒNG HẠNH ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP-NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NÓI NĂNG TRONG TIẾNG ANH (LIÊN HỆ VỚI NHÓM ĐỘNG TỪ TƯƠNG ỨNG TRONG TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VŨ THỊ THANH HƯƠNG
Hà Nội, 2007
LỜI CẢM ƠN
Những dòng đầu tiên của cuốn luận văn này, tôi muốn dành để bày tỏ
sự cảm ơn đến tập thể các giáo sƣ, các nhà khoa học, các thầy cô giáo cùng
toàn thể cán bộ Khoa Ngôn ngữ học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa học.
Lời cảm ơn đặc biệt tôi xin gửi đến PGS.TS.Vũ Thị Thanh Hƣơng -
ngƣời đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn và hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn trong suốt thời gian dài vừa qua.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với gia đình đã ủng
hộ cả về vật chất cũng nhƣ tinh thần để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2007
Tác giả luận văn
Vƣơng Hồng Hạnh
1
LỜi cam Đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả đƣợc đƣa ra trong luận văn này là trung thực và chƣa từng đƣợc công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Vƣơng Hồng Hạnh
2
MôC LôC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 7
Lý do chọn đề tài ............................................................................. 7 1.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................. 7 2.
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài ........................................................ 8
Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................ 9 4.
Kết cấu của luận văn ........................................................................ 9 5.
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .. 10
1. Cơ sở lí thuyết……………………………………………………10
1.1. Phạm trù từ loại………………………………………………… 10
1.1.1. Khái niệm………………………………………………………...10
1.1.2. Tiêu chí phân loại……………………………………………… 11
1.1.3. Kết quả phân loại……………………………………………… 13
2. Động từ .......................................................................................... 15
2.1. Vấn đề động từ trong lý luận ngôn ngữ học .................................. 15
2.2. Động từ trong tiếng Anh hiện đại ................................................. 18
2.2.1. Khái niệm……………………………………………………….. 18
2.2.2. Tiêu chí nhận diện……………………………………………… 20
2.2.3. Kết quả phân loại……………………………………………….. 24
2.3. Động từ trong tiếng Việt hiện đại……………………………… 24
24 2.3.1. Khái niệm……………………………………………………
3
2.3.2. Tiêu chí nhận diện ……………………………………………… 26
2.3.3. Kết quả phân loại ……………………………………………… 30
2.4. Tình hình nghiên cứu động từ nói năng ……….……………… 31
2.4.1. Tình hình nghiên cứu động từ nói năng trong tiếng Anh .............. 31
2.4.2 Tình hình nghiên cứu động từ nói năng trong tiếng Việt .............. 34
CHƢƠNG II. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NÓI
NĂNG TRONG TIẾNG ANH (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) ...... 38
1. Nghĩa biểu hiện của các động từ nói năng ..................................... 38
1.1. Khái niệm nghĩa biểu hiện ............................................................. 38
1.2. Nghĩa biểu hiện của động từ nói năng ........................................... 45
1.3. Các tham tố của động từ nói năng… ………………………… 47
1.3.1. Phát ngôn thể ................................................................................. 48
1.3.2. Tiếp ngôn thể ................................................................................ 50
1.3.3. Ngôn thể………………………………………………………….51
1.3.4. Đích ngôn thể…………………………………………………….52
1.4. Cấu trúc tham tố của động từ nói năng………………………… 52
1.4.1. Cấu trúc đầy đủ………………………………………………… 53
1.4.2. Cấu trúc rút gọn………………………………………………….54
2. Nghĩa ngôn hành của các động từ nói năng ................................... 55
2.1. Khái niệm nghĩa ngôn hành ........................................................... 55
2.2. So sánh nghĩa trần thuật và nghĩa ngôn hành của động từ nói năng59
4
2.3. Vai trò trung tâm của động từ nói năng ......................................... 61
CHƢƠNG III. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ
NÓI NĂNG TRONG TIẾNG ANH (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) 65
1. Đặc điểm về chức vụ cú pháp của các động từ nói năng ............... 65
1.1. Vị ngữ-chức vụ cú pháp điển hình của động từ nói năng .............. 65
1.2. Các kiểu cấu trúc câu có vị ngữ là động từ nói năng ..................... 67
1.2.1. Cấu trúc nòng cốt ........................................................................... 69
1.2.2. Cấu trúc mở rộng ........................................................................... 71
1.2.3. Cấu trúc rút gọn ............................................................................. 74
2. Đặc điểm về khả năng kết hợp của các động từ nói năng ............. 76
2.1. Khả năng kết hợp với chủ ngữ ....................................................... 76
2.1.1. Chủ ngữ là danh từ/danh ngữ ......................................................... 76
2.1.2. Chủ ngữ là đại từ ........................................................................... 79
2.2. Khả năng kết hợp với tân ngữ ........................................................ 80
2.2.1. Tân ngữ là danh từ/danh ngữ ......................................................... 80
2.2.2. Tân ngữ là động từ ......................................................................... 81
2.2.3. Tân ngữ là giới ngữ ........................................................................ 82
2.3. Khả năng kết hợp với phó từ ......................................................... 84
KẾT LUẬN .............................................................................................. 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 94
NGUỒN TƢ LIỆU TRÍCH DẪN ............................................................ 98
5
Danh môc tõ viÕt t¾t
STT ViÕt t¾t NghÜa
1 CN Chñ ng÷
2 §TPN §éng tõ ph¸t ng«n
3 §NT §Ých ng«n thÓ
4 NT Ng«n thÓ
5 PNT Ph¸t ng«n thÓ
6 QTPN Qu¸ tr×nh ph¸t ng«n
7 TNT TiÕp ng«n thÓ
8 TP Thµnh phÇn
9 VN VÞ ng÷
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong qu¸ tr×nh ViÖt Nam héi nhËp kinh tÕ, giao l u v¨n hãa víi c¸c
n íc, sè ng êi ViÖt häc tiÕng Anh còng nh ng êi n íc ngoµi häc tiÕng
ViÖt ngµy cµng ph¸t triÓn. Theo thèng kª, tiÕng Anh lµ mét ng«n ng÷ cã sè
l îng ng êi sö dông nhiÒu thø hai trªn thÕ giíi sau tiÕng Trung Quèc. TiÕng
Anh kh«ng nh÷ng ® îc sö dông nh lµ mét ng«n ng÷ giao dÞch chÝnh thøc
trong nhiÒu lÜnh vùc trªn thÕ giíi mµ nã cßn ® îc coi lµ ng«n ng÷ thø hai
sau tiÕng mÑ ®Î ë nhiÒu quèc gia. Tuy nhiªn, trong qu¸ tr×nh häc tiÕng Anh,
mét sè ng êi gÆp kh«ng Ýt khã kh¨n. Mét trong nh÷ng khã kh¨n ®ã lµ c¸ch
hiÓu vµ sö dông ®óng, chÝnh x¸c c¸c ®éng tõ nãi chung vµ ®éng tõ nãi n¨ng
nãi riªng cña hai ng«n ng÷ Anh, ViÖt. Tuy nhiªn, cho ®Õn nay, vÉn ch a cã
mét c«ng tr×nh nghiªn cøu nµo ®i s©u ph©n tÝch vµ so s¸nh c¸c ®Æc ®iÓm ng÷
ph¸p, ng÷ nghÜa cña ®éng tõ nãi n¨ng trong tiÕng Anh, tiÕng ViÖt.
ViÖc nghiªn cøu, ®èi chiÕu ®Æc ®iÓm ng÷ ph¸p, ng÷ nghÜa cña nhãm
®éng tõ nãi n¨ng trong tiÕng Anh víi nhãm ®éng tõ t ¬ng øng trong tiÕng
ViÖt kh«ng nh÷ng lµ yªu cÇu cÊp thiÕt cña thùc tiÔn mµ con lµ yªu cÇu cÊp
thiÕt cña lý luËn ng«n ng÷ häc.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
§èi t îng nghiªn cøu cña luËn v¨n lµ nhãm ®éng tõ chØ ho¹t ®éng nãi
n¨ng trong tiÕng Anh vµ b íc ®Çu liªn hÖ víi nhãm ®éng tõ t ¬ng øng trong
tiÕng ViÖt. Tuy nhiªn, ®iÒu nµy kh«ng cã nghÜa lµ chóng t«i chØ xem xÐt c¸c
®Æc ®iÓm ng÷ ph¸p, ng÷ nghÜa trong ph¹m vi ®éng tõ mµ cßn xem xÐt chóng
ë cÊp ®é c©u vµ trªn c©u.
Trong khi nghiªn cøu vµ ®èi chiÕu c¸c ®éng tõ nãi n¨ng trong tiÕng
Anh vµ tiÕng ViÖt, chóng t«i chØ giíi h¹n sù ph©n tÝch vµ ®èi chiÕu ë hai
7
b×nh diÖn ng÷ ph¸p vµ ng÷ nghÜa. B×nh diÖn ng÷ dông häc còng ® îc ph©n
tÝch trong mét sè tr êng hîp khi cÇn thiÕt ®Ó lµm s¸ng tá thªm c¸c b×nh diÖn
cÊu tróc vµ ý nghÜa nh ng kh«ng ph¶i lµ mèi quan t©m chÝnh cña luËn v¨n.
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Chän tªn ®Ò tµi lµ “§Æc ®iÓm ng÷ ph¸p- ng÷ nghÜa cña nhãm ®éng tõ
chØ ho¹t ®éng nãi n¨ng trong tiÕng Anh (liªn hÖ víi nhãm ®éng tõ t ¬ng
øng trong tiÕng ViÖt)”, ng êi viÕt h íng ®Õn môc ®Ých cô thÓ sau:
Tæng kÕt c¸c quan niÖm vÒ ®éng tõ trong tiÕng Anh, tiÕng ViÖt vµ
®éng tõ nãi n¨ng trong tiÕng Anh, tiÕng ViÖt vµ c¸c kh¸i niÖm lÝ
thuyÕt cã liªn quan, x©y dùng mét c¬ së lÝ thuyÕt ®Ó xem xÐt, ®èi
chiÕu vÒ c¸ch sö dông vµ ý nghÜa cña c¸c ®éng tõ nãi n¨ng trong
tiÕng Anh vµ tiÕng ViÖt.
Trªn c¬ së miªu t¶ mét c¸ch cã hÖ thèng c¸c ®Æc ®iÓm cña ®éng tõ
nãi n¨ng ë tiÕng Anh vµ tiÕng ViÖt, x¸c ®Þnh ® îc chøc n¨ng cña
chóng trªn b×nh diÖn ng÷ ph¸p vµ ng÷ nghÜa.
Dùa vµo c¸c kÕt qu¶ miªu t¶, tiÕn hµnh nghiªn cøu ®èi chiÕu ®Ó lµm
s¸ng tá nh÷ng ®iÓm gièng vµ kh¸c nhau cña ®éng tõ nãi n¨ng trong
tiÕng ViÖt vµ tiÕng Anh, tõ ®ã rót ra nh÷ng ®iÓm t ¬ng ®ång vµ dÞ
biÖt trong hai ng«n ng÷ nµy vÒ mÆt ng÷ ph¸p vµ ng÷ nghÜa.
§¹t ® îc nh÷ng môc tiªu trªn ®©y, luËn v¨n cã nh÷ng ®ãng gãp vÒ mÆt
thùc tiÔn vµ lÝ luËn nh sau:
VÒ mÆt lÝ luËn: KÕt qu¶ nghiªn cøu cña luËn v¨n sÏ lµm s¸ng tá c¸c
®Æc ®iÓm t ¬ng øng vµ kh¸c biÖt trong ng÷ ph¸p vµ ng÷ nghÜa cña
®éng tõ nãi n¨ng trong tiÕng Anh vµ tiÕng ViÖt.
VÒ mÆt thùc tiÔn: Dùa trªn nh÷ng kÕt qu¶ thu ® îc, luËn v¨n cã thÓ
® îc øng dông trong viÖc gi¶ng d¹y, biªn so¹n c¸c gi¸o tr×nh tiÕng
8
Anh cho ng êi ViÖt vµ tiÕng ViÖt cho ng êi nãi tiÕng Anh; gióp
ng êi d¹y tiÕng Anh n©ng cao kh¶ n¨ng truyÒn thô, ng êi häc cã thÓ
n©ng cao hiÖu qu¶ tiÕp thu kiÕn thøc vÒ nhãm ®éng tõ nµy. Ngoµi ra,
kÕt qu¶ nghiªn cøu nµy cßn cã thÓ sö dông h÷u Ých trong c«ng t¸c
biªn dÞch vµ phiªn dÞch, gãp phÇn x©y dùng c¬ së lý thuyÕt dÞch Anh-
ViÖt, ViÖt-Anh.
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
VÒ t liÖu, chóng t«i sö dông c¸c nguån t liÖu trÝch dÉn tõ nguyªn b¶n
vµ b¶n dÞch c¸c t¸c phÈm v¨n häc, b¸o chÝ... tiÕng Anh vµ tiÕng ViÖt hiÖn
®¹i. Ngoµi ra, chóng t«i còng sö dông c¸c vÝ dô trong ng«n ng÷ hµng ngµy,
trong mét sè c«ng tr×nh nghiªn cøu vÒ ®éng tõ nãi n¨ng tõ tiÕng Anh sang
tiÕng ViÖt, mét sè tõ ®iÓn song ng÷ Anh-ViÖt, ViÖt-Anh, tõ ®iÓn t êng gi¶i
tiÕng Anh vµ tiÕng ViÖt, tõ ®iÓn thuËt ng÷ ng«n ng÷ häc, tõ ®iÓn ®ång nghÜa
Anh-Anh...
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các
phƣơng pháp nghiên cứu sau: quy n¹p, diÔn dÞch, phân tích mô tả, ph©n tÝch
cÊu tróc, ph©n tÝch chøc n¨ng, so s¸nh ®èi chiÕu...
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn bao gồm ba chƣơng với
các nội dung chính nhƣ sau:
- Chƣơng I: Cơ sở lí thuyết và tình hình nghiên cứu
- Chƣơng II: Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng trong tiếng Anh (có liên hệ với nhóm động từ tƣơng ứng trong tiếng Việt)
- Chƣơng III: Đặc điểm ngữ pháp của nhóm động từ nói năng trong tiếng Anh (có liên hệ với nhóm động từ tƣơng ứng trong tiếng Việt)
9
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí thuyết
1.1. Phạm trù từ loại
1.1.1. Khái niệm
Từ loại là một địa hạt quan trọng của ngữ pháp học nói chung và của
ngữ pháp tiếng Việt nói riêng. Chúng ta đều biết rằng, mỗi ngôn ngữ đều có
một vốn từ vựng rất lớn và dựa vào khối lượng, đặc điểm và chức năng mà
các nhà nghiên cứu tiến hành phân loại theo những mục đích khác nhau, ví
dụ nhà từ vựng học có thể phân loại từ thành những lớp từ về mặt ngữ
nghĩa; hoặc để làm từ điển người ta có thể phân loại từ theo vần chữ cái
hoặc theo bộ (Trung Quốc, Nhật); còn nhà ngữ pháp học không phân loại từ
theo cách đó mà lại theo bản chất ngữ pháp của từ để cho chúng ta các từ
loại như: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ, liên từ, giới từ…Vậy từ loại
là gì?
Thế kỷ IV trước công nguyên, Aristote (nhà triết học cổ Hy Lạp, 384-
322 trước CN) - dựa trên các cơ sở lôgic học, ngữ pháp học- đã phân định
từ thành các loại từ nối, danh từ, động từ, tính từ….
Theo Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán [5] thì “Từ loại là một hệ thống
có nhiều tầng bậc, hay là một phạm trù bao gồm các phạm trù nhỏ hơn”.
Tác giả Đinh Văn Đức [11] cho rằng “Từ loại là những lớp từ có cùng bản
chất ngữ pháp, được phân chia theo ý nghĩa, theo khả năng kết hợp với các
từ ngữ khác trong ngữ lưu và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất
định ở trong câu”.
10
Như vậy, sự phân định từ loại đã được nghiên cứu và đề cập từ rất
sớm. Các tác giả có thể dựa vào khả năng kết hợp, ý nghĩa hoặc đặc trưng
ngữ pháp để phân định thành các từ loại khác nhau. Các tiêu chí phân loại
này được thể hiện rõ trong phần dưới đây.
1.1.2. Tiêu chí phân loại
Vấn đề phân định từ loại tiếng Việt đã được đề cập trong nhiều công
trình nghiên cứu về Việt ngữ học. Một số học giả xuất phát từ quan điểm
hình thái học phủ nhận sự có mặt của phạm trù từ loại trong tiếng Việt
(Grammont & Lê Quang Trinh, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Hiến Lê), bởi theo
họ tiếng Việt cơ cấu theo một lối khác hẳn với các ngôn ngữ phương Tây-
từ không biến đổi hình thái, nên không có từ loại. Tuy nhiên, hầu hết các
nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng trong tiếng Việt có phạm trù từ loại,
mặc dù tiêu chí phân định từ loại của họ không hoàn toàn giống nhau.
Các tác giả Lê Văn Lý và Nguyễn Tài Cẩn phân định từ loại dựa vào
một tiêu chí đó là “khả năng kết hợp” của từ. Theo họ, khác với ý nghĩa,
khả năng kết hợp của từ là một biểu hiện của cú pháp biểu thị mối quan hệ
giữa từ với từ trong ngữ lưu. Khả năng kết hợp được hình thức hóa bằng
những phương thức ngữ pháp khác nhau ở những ngôn ngữ khác nhau; đối
với ngôn ngữ biến đổi hình thái, đó là các hình thái ngữ pháp của từ nhằm
diễn đạt các phạm trù ngữ pháp, với các ngôn ngữ đơn lập, trong đó có
tiếng Việt, là sự biến đổi trật tự từ và dùng các từ phụ, từ hư. Bởi vì, đối với
tiếng Việt- ngôn ngữ đơn lập, bản chất của khả năng kết hợp từ là sự phân
bố các vị trí trong những bối cảnh ngữ pháp. Do đó, mỗi từ loại, căn cứ vào
“khả năng kết hợp” với các từ chứng có thể chỉ ra các thuộc tính của nó.
Tuy nhiên, ở thời đó cách giải thích của Lê Văn Lý về “khả năng kết hợp”
của các từ loại còn hạn chế, sức khái quát hoá và việc lựa chọn danh sách từ
11
chứng của các từ loại, phần nào còn chưa thật khách quan. Hơn nữa, ông
mới chỉ liệt kê các khả năng kết hợp mà chưa chú ý phân biệt đâu là những
đặc điểm cơ bản, đâu là những nét tiêu biểu của các khả năng này. Trong
chuyên luận “Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại” (1960), Nguyễn Tài
Cẩn đã đề xuất một hướng đi mới trong việc phân định từ loại, đó là dựa
vào khái niệm “đoản ngữ” để mô tả, phân định từ loại và các tiểu loại.
Nhưng về sau này, khi mở rộng nhận định về đặc trưng phân bố của từ, ông
đã cho rằng: “Tiêu chuẩn dựa vào đoản ngữ, riêng một mình nó, thì chưa
đủ. Phải có cả tiêu chuẩn dựa vào mệnh đề bổ sung thì kết quả mới đáng tin
cậy (Nguyễn Tài Cẩn - ngữ pháp Tiếng Việt). Cách nhìn nhận về từ loại
tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn là rất mới và có ý nghĩa, quan điểm này
đánh dấu một bước tiến mới trong lí luận về từ loại tiếng Việt.
Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy nếu chỉ dùng một tiêu chuẩn ý nghĩa
khái quát (Nguyễn Lân), khả năng kết hợp của từ (Lê Văn Lý) và dựa vào
khái niệm “Đoản ngữ” (Nguyễn Tài Cẩn) như trên thì không thể bao quát
và lí giải được mọi hiện tượng ngữ pháp. Do đó, hiện nay các tác giả
(Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban, Đái Xuân Ninh…) có
chủ trương phân định từ loại tiếng Việt dựa vào một tập hợp tiêu chuẩn mà
thường nhắc tới ba tiêu chuẩn cơ bản:
1) Ý nghĩa khái quát của các lớp từ (ý nghĩa sự vật của danh từ, ý
nghĩa tính chất của tính từ, ý nghĩa hành dộng của động từ…): đây là ý
nghĩa chung cho một lớp từ, không có dấu hiệu âm thanh biểu hiện mà chỉ
tiềm ẩn trong từ và bộc lộ ra khi được kết hợp với các từ khác. Ví dụ:
- từ bàn sẽ được bộc lộ ý nghĩa chỉ vật khi kết hợp với từ này (ở
sau):bàn này.
12
- từ bàn sẽ bộc lộ ý nghĩa chỉ hành động khi kết hợp với từ hãy (ở
trước): hãy bàn (việc ấy)
2) Chức vụ của từ khi làm thành phần câu: là cái vị trí của từ trong mối
liên hệ ngữ pháp với các từ (hay cụm từ) khác nhau trong câu. Chú ý khi
định loại các từ cân nhớ:
- Các từ thực (động từ, danh từ, tính từ) thường có thể đảm nhiệm vài
ba chức vụ cú pháp trong câu,
- Có thể được thực hiện ở bậc khái quát cao hơn: phân biệt từ thực với
từ hư
3) Khả năng kết hợp của từ với các từ khác: đây chính là khả năng tiềm
ẩn của mỗi từ trong việc kết hợp với các từ khác để bộc lộ tính chất, chức
năng của mình. Có 3 cách thường dùng để xét khả năng kết hợp: dùng từ
chứng (từ làm chứng) và dùng cụm từ chính phụ, dùng bậc câu đơn.
Ngoài ra, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của nhiều nhà nghiên cứu đi
trước (Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức) và vận dụng các thành tựu của ngữ
pháp học hiện đại (Halliday, Dik, Cao Xuân Hạo…), với quan niệm coi
phân định từ loại là phân chia từ về mặt ngữ pháp, tác giả Nguyễn Hồng
Cổn đã đề xuất một hướng phân định từ loại mới dựa trên sự điều chỉnh hai
tiêu chuẩn dựa vào "chức vụ cú pháp" (tức là dựa vào khả năng làm các
thành phần đối tố và vị tố của mệnh đề) và dựa vào "khả năng kết hợp” (tức
là dựa vào khả năng làm thành tố trung tâm hay phụ tố cho các thành phần
của mệnh đề). Tuy nhiên, sau khi phân tích và kết hợp các tiêu chuẩn trên,
tác giả đưa ra các tiêu chí sau: 1. Khả năng làm (trung tâm của) đối tố hay
vị tố; 2. Khả năng làm thành tố phụ cho đối tố hay vị tố.
1.1.3. Kết quả phân loại.
13
Nhiều nhà Việt ngữ học (Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Đinh
Văn Đức…) đã tiến hành phân định từ loại tiếng Việt dựa trên sự kết hợp cả
ba loại tiêu chí. Các tác giả một mặt kế thừa quan niệm phân định từ loại
truyền thống- dựa vào ý nghĩa khái quát phân chia các từ loại thành hai
nhóm: thực từ và hư từ, nhưng mặt khác lại vận dụng các tiêu chuẩn ngữ
pháp (khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp) để làm cho hệ thống phân loại
khách quan và sáng rõ hơn. Tuy nhiên, trong khi vận dụng các tiêu chuẩn
này để phân định từ loại, các tác giả đã kết hợp chúng một cách tổng hợp
chứ không theo một trình tự ưu tiên nào như tác giả Lê Văn Lý (ưu tiên khả
năng kết hợp của từ) và Nguyễn Tài Cẩn (dựa vào đoản ngữ).
Nguyễn Hồng Cổn [8] dựa vào hai tiêu chí ngữ pháp đã nêu trên, ông
đã tiến hành phân định từ loại thành ba nhóm hay ba phạm trù cơ bản như
sau:
- Nhóm A: gồm các từ có khả năng làm (trung tâm của) đối tố và vị tố
trong cấu trúc của mệnh đề. Ví dụ: nhà, sinh viên, nói, chạy. đẹp, nhanh…
- Nhóm B: gồm các từ không có khả năng làm (trung tâm của) đối tố
và vị tố mà chỉ có khả năng làm thành tố phụ cho chúng. Ví dụ: đã, đang,
sẽ, này, ấy…
- Nhóm C: gồm các từ hoàn toàn không có khả năng làm (trung tâm
của) đối tố và vị tố, cũng như không có khả năng làm thành tố phụ cho
chúng. Ví dụ: và, nhưng, nếu, ôi, à, đi…
Dựa vào cách vận dụng các tiêu chuẩn về phân định từ loại và các kết
quả tương ứng của mỗi quan niệm trên, chúng tôi lựa chọn cách phân định
từ loại của Nguyễn Hồng Cổn làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu của luận
văn. Dưới đây là bảng phân loại của hệ thống từ loại tiếng Việt:
14
HỆ THỐNG TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT TỪ TIẾNG VIỆT
A Thể-Vị từ (có khả năng làm vị tố và đối tố) B Định-Phó từ (làm phụ tố của đối tố và vị tố) C Kết-Thái từ (không làm thành tố của đối tố và vị tố)
Thái từ (tình thái) Vị từ (làm vị tố) Kết từ (liên kết) Định từ (phụ cho đối tố) Phó từ (phụ cho vị tố)
Thể từ (làm đối tố)
Tính từ
Liên từ
Động từ
Lượng từ
Chỉ từ
Giới từ
Trợ từ
Tiểu từ
Hậu phó từ
Danh từ
Đại từ
Tiền phó từ
2. Động từ
2.1. Vấn đề động từ trong lý luận ngôn ngữ học
Trong ngôn ngữ học đại cương, vấn đề phân định từ loại động từ đã
được đề cập đến từ thời cổ đại Hy Lạp. Protagonas, một trong những nhà
ngụy biện thế kỷ V trước công nguyên, sớm nhất và có ảnh hưởng nhất,
được công nhận là người đầu tiên phân biệt từ loại trong tiếng Hi Lạp. Cùng
thời với Protagonas, Platon (khoảng 429-347 trước CN) cũng là một trong
những người đầu tiên phân biệt minh bạch từ loại trong ngôn ngữ học
15
nhưng ông mới chỉ phân từ loại thành hai lớp chính: động từ và danh từ.
Theo định nghĩa của Platon, các lớp ngữ pháp chủ yếu “danh từ” và “động
từ” được xác định như những thành tố của mệnh đề. Những từ loại mà bây
giờ ta gọi là động từ và tính từ đều được Platon đặt chung vào một lớp.
Ngay cả khi những nhà ngữ pháp Hy Lạp về sau bổ đi cách phân loại của
Platon, họ cũng không thay thế nó bằng một hệ thống tam phân gồm danh
từ, động từ và tính từ quen thuộc mà chỉ thay thế nó bằng một hệ thống
lưỡng phân khác, gộp chung những cái mà người ta gọi là danh từ và tính
từ.
Thế kỷ IV trước công nguyên, Aristote (nhà triết học cổ Hy Lạp, 384-
322 trước CN) - dựa trên các cơ sở lôgic học, ngữ pháp học- đã phân định
từ thành các loại từ nối, danh từ, động từ, tính từ…. Theo đó, động từ được
định nghĩa như sau: “từ loại không có biến cách nhưng lại biến đổi về thì,
ngôi và số, chỉ ra một hành động hay một quá trình được thực hiện hay
được trải qua [R.H.Robins, 37]. Aristote cũng đề cập đến hiện tượng những
từ “có nghĩa” và những từ “không có nghĩa” mà nội dung của chúng tương
đương với khái niệm thực từ- hư từ [Nguyễn Kim Thản, 41].
Một trường phái khác của triết học Hy Lạp là trường phái Stoic cũng
phân biệt bốn thành phần lời nói (danh từ, động từ, liên từ và mạo từ). Sau
đó, các học giả thuộc trường phái Alexandria, dựa trên các công trình của
các nhà ngữ pháp Stoic về từ loại, đã xếp các lớp từ thành tám từ loại khác
nhau, trong đó có động từ. Thành quả nghiên cứu về từ loại của Aristote,
Platon, trường phái Sotic và trường phái Alexandria về sau được các nhà
ngôn ngữ học La Mã tiếp tục phát triển.
Như chúng ta đều biết, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đã trải qua một
quá trình phát triển rất mạnh mẽ trong thế kỷ XX, và đặc biệt trong những
16
thập niên cuối thế kỷ này. Khi nghiên cứu về động từ, ở các nước nói tiếng
Anh như Hoa kỳ, Anh, Canada, Australia…đã có hàng loạt các công trình
khi nghiên cứu về lý thuyết ngôn ngữ đều có đề cập, ít hay nhiều, đến động
từ. Ngay cả ở các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và ở Việt Nam cũng đã
xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến động từ.
Việc phân định các từ loại nói chung và động từ nói riêng trong ngôn
ngữ học đã được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu từ rất sớm và đã có khá
nhiều công trình đề cập tới vấn đề này. Đối với các ngôn ngữ có biến hóa
hình thái như các ngôn ngữ Ấn-Âu (trong đó có tiếng Anh), động từ với tư
cách là một phạm trù từ loại, được xác định dựa trên hai tiêu chí: hình thức
và ý nghiã ngữ pháp. Trong các ngôn ngữ Ấn-Âu, phạm trù động từ là một
tập hợp bao gồm tất cả các từ mang ý nghĩa ngữ pháp khái quát, chỉ hoạt
động, quá trình, trạng thái, đồng thời có hình thức ngữ pháp biến đổi theo
các phạm trù ngôi, số, giống, thời, thức, thể… Còn phạm trù động từ tiếng
Việt- ngôn ngữ không biến hình- là một tập hợp mang ý nghĩa khái quát chỉ
hoạt động, quá trình, trạng thái; đồng thời có đặc điểm về hoạt động ngữ
pháp thể hiện ở khả năng kết hợp với các phó từ thời gian (đã, đang, sẽ…),
phó từ mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ…) hay các phó từ khác và có khả năng
làm vị ngữ trong câu mà không nhất thiết phải dùng tới từ là.
Trong các ngôn ngữ Ấn-Âu, phạm trù động từ ít có đặc điểm gần gũi
với các phạm trù: tính từ, danh từ. Ngược lại, phạm trù động từ trong tiếng
Việt có nhiều đặc điểm gần gũi với các phạm trù: tính từ, danh từ. Chẳng
hạn: động từ và tính từ trong tiếng Việt đều có khả năng kết hợp với các
phó từ để tạo nên các cụm từ, tuy rằng các động từ thì dễ dàng kết hợp với
các phó từ chỉ mệnh lệnh hơn, còn các tính từ thì lại dễ dàng kết hợp với
các phó từ chỉ mức độ hơn (rất, hơi, quá, lắm…); Cả động từ và tính từ đều
17
có thể trực tiếp làm vị ngữ trong câu, không nhất thiết phải dùng đến từ là.
Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ở tiếng Việt, động từ và tính từ
hợp thành một phạm trù chung là thuật từ hay vị từ.
Tóm lại, phạm trù động từ trong các ngôn ngữ khác nhau tuy có thể có
những nét chung mang tính phổ quát nhưng vẫn có những đặc điểm khác
nhau về cả số lượng và đặc trưng bản chất của chúng.
2.2. Động từ trong tiếng Anh hiện đại
2.2.1. Khái niệm
Khi nghiên cứu về động từ trong tiếng Anh, các nhà ngữ pháp học đều
xếp động từ vào loại thực từ (vocabulary words).
Các nhà ngôn ngữ học hiện đại có nhiều cách quan niệm về động từ
trong tiếng Anh hiện đại.
Theo các tác giả của “Longman dictionary of Language teaching and
applied linguistics” [J.C.Richards, J.Platt và H.Platt, 24] thì “động từ là một
từ: (a) đóng vai trò như một phần trong vị ngữ của câu hoặc (b) đánh dấu
phạm trù ngữ pháp như thì, thể, người, số và thức và (c) thể hiện hành động
hoặc trạng thái”.
“Webster’s school dictionary” đưa ra một định nghĩa khác rất ngắn
gọn nhưng hàm chứa đầy đủ ý nghĩa và chức năng của động từ trong tiếng
Anh: “Động từ là từ trung tâm ngữ pháp của vị ngữ và thể hiện một hành
động, sự kiện hoặc trạng thái và phản ánh theo nhiều ngôn ngữ khác nhau
(như sự phù hợp giữa chủ ngữ hoặc thì)” (12)
“Từ điển tiếng Anh hiện hành” (A.S.Hornby, E.V. Gatenby và
H.Wakefield, bản in lần thứ 6 của Oxford University University Press) định
18
nghĩa về động từ như sau: “Động từ là một từ hay nhóm từ thể hiện một
hành động, sự kiện hoặc trạng thái”.(3).
M.A.K Halliday là một trong những người đầu tiên đề xướng mô hình
chức năng hệ thống (functional-symetic model) và vận dung vào vịêc
nghiên cứu động từ trong câu và diễn ngôn. Xuất phát từ quan niệm coi một
hệ thống ký hiệu là một hệ thống tạo nghĩa mà các ký hiệu của hệ thống này
là các phương tiện truyền đạt nghĩa, Halliday cho rằng về mặt ngữ pháp
học, khả năng kết hợp và hoạt động của động từ sẽ tạo ra cụm động từ, cụm
động từ cùng các từ loại khác tạo ra một kiểu diễn ngôn (discourse type),
rồi từ đó, kiểu diễn ngôn lại được hiện thực hoá thành văn bản (text) thông
qua sự tổ chức từ vựng- ngữ pháp (lexi-grammar). Trong cuốn “An
introduction to Functional Grammar” [16], M.A.K Halliday nghiên cứu
động từ theo đường hướng ngữ pháp chức năng (functional grammar).
Những nét nổi bật và đặc sắc của phương pháp mà M.A.K Halliday sử dụng
trong công trình này là phát hiện ra những mối quan hệ của động từ và cấu
trúc nội tại của nó. Theo ông, động từ không tách rời khỏi các từ loại khác
mà luôn được xếp đặt, kết hợp, sử dụng trong tình huống (situation), ngữ
cảnh (context), trong mối quan hệ tầng bậc gồm ngữ cảnh (context), ngữ
nghĩa (semantics), từ vựng-ngữ pháp (lexico-grammar). Đây là một cách
nghiên cứu hoạt động của động từ dưới góc độ chức năng và dụng học
(pragmatics). So sánh các quan niệm trên về động từ ta thấy các tác giả đều
chú ý tới dặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của động từ tiếng Anh. Đặc điểm
ngữ pháp đề nhận dạng động từ: là thực từ, là trung tâm của vị ngữ, thể hiện
các phạm trù ngữ pháp như thì, thể, người, số và thức. Đặc điểm ngữ nghĩa
của động từ: thể hiện một hành động, sự kiện hoặc trạng thái.
19
Dựa trên các đặc điểm hình thức và ý nghĩa, động từ tiếng Anh được
chia thành các nhóm: động từ chỉ trạng thái, hành động...; động từ nội động,
động từ ngoại động, động từ nối. Ngoài ra, theo A.J. Thomson và A.V.
Martinet, phân loại động từ được chia thành hai loại: động từ thường
(ordinary verb) và trợ động từ (auxiliary verb) [42].
2.2.2. Tiêu chí nhận diện
Qua những điều đã trình bày, có thể rút ra những đặc điểm sau đây của
động từ tiếng Anh:
Về mặt hình thức:
- động từ chủ yếu đóng vai trò vị ngữ. Động từ thường đứng sau chủ
ngữ hoặc đứng trước tân ngữ, hoặc đứng đầu câu.
- động từ cần phù hợp với chủ ngữ khi làm vị ngữ trong câu
- căn cứ vào thời gian mà động từ được chia ở các thì khác nhau
- căn cứ vào đối tượng của hành động mà ta có các cấu trúc câu khác
nhau
Ví dụ: - John speaks English very well
(John nói tiếng Anh rất giỏi)
Speaks ở đây đóng vai trò vị ngữ, chủ ngữ John là ngôi thứ 3, số ít, thì
hiện tại, câu khẳng định nên động từ speak biến đổi hình thái phù hợp với
chủ ngữ bằng cách thêm -s ở cuối động từ, vị trí vị ngữ speaks đứng sau chủ
ngữ John. Ví dụ: - Please tell me the way to the nearest post- office.
(Làm ơn nói cho tôi đường tới bưu điện gần nhất)
Ở câu này, tell đóng vài trò chủ ngữ, đứng ở đầu câu. Động từ
nguyên thể dạng không có to. Ví dụ:
- All pupils were asked to complete exercises before going to school.
20
(Học sinh phải làm bài tập trước khi tới trường)
Đây là một câu bị động. Tân ngữ all pupils trở thành chủ ngữ của
câu. Động từ ask được phù hợp theo cấu trúc câu, thì và chủ ngữ (ngôi thứ
ba, số nhiều) là: were asked. Ví dụ:
- I’m reading an interesting book. I can’t remember what it’s called.
(Tôi đang đọc một quyển sách hay nhưng không thể nhớ tên quyển
sách đó)
Câu thứ nhất là câu khẳng định, Thì hiện tại tiếp diễn, chủ ngữ ngôi
thứ nhất, số ít nên động từ phù hợp sẽ là: am reading. Câu thứ hai là câu
phủ định, cấu trúc câu bị động, chủ ngữ ở ngôi thứ ba, số ít nên động từ phù
hợp được chia là is called.
Về mặt ý nghĩa: biểu thị quá trình, cũng tức là biểu thị hoạt động hay
trạng thái nhất định của sự vật trong quá trình (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa
khái quát). Ví dụ:
- They talk about their journey happily.
(Họ hạnh phúc kể về chuyến đi của mình)
Trạng thái: vui vẻ, hạnh phúc. Chủ thể hành động: ngôi thứ ba, số
nhiều (they). Câu ở thì hiện tại nên động từ giữ nguyên, không chia: talk.
Động từ “talk” biểu thị hoạt động kể chuyện. Ví dụ:
- He said that he would pass the exam.
(Anh ấy nói rằng anh ấy có thể thi đỗ)
Đây là một câu khẳng định, thì quá khứ nên động từ say được làm phù
hợp là said, đứng sau chủ ngữ he; thể hiện hoạt động nói.
a) Phân biệt động từ với danh từ
Về mặt ý nghĩa: Danh từ biểu đạt các khái niệm về sự vật (và thực thể nói
chung), động từ thì gắn với các khái niệm thuộc phạm trù vận động. Ví dụ:
- talk, speech, school…
21
(cuộc nói chuyện, bài diễn văn, trường học)
- talk, speak, sing, cry…
(nói chuyện, nói, hát, khóc…)
Như vậy, ta thấy talk vừa là danh từ vừa là động từ. Hình thái từ talk
không thay đổi, nhưng tùy theo vị trí trong câu, chúng ta sẽ xác định được
đó là danh từ hoặc động từ. Ví dụ:
- They talk happily.
(Họ nói chuyện vui vẻ)
Talk là động từ, đứng sau chủ ngữ they để chỉ hoạt động nói.
- Their talk is interesting.
(Buổi nói chuyện của họ rất thú vị)
Talk đứng đầu câu, đóng vai trò chủ ngữ, ngôi thứ 3 số ít, là danh từ
chỉ sự vật: buổi nói chuyện, tính từ sở hữu their bổ sung ý nghĩa cho danh
từ talk.
Về mặt ngữ pháp:
- Danh từ đóng vai trò chủ ngữ hoặc tân ngữ trong câu. Tuy nhiên,
không có dấu hiệu đặc biệt ở cuối từ để nhận diện danh từ. Ví dụ:
a). cup - chiếc chén, democracy - nền dân chủ
b). game - trò chơi, driver- lái xe, Chicago - Chicago
- Danh từ được chia thành hai loại: danh từ đếm được và danh từ
không đếm được. Danh từ đếm được sẽ có số ít và số nhiều, danh từ không
đếm được thì không có số ít và số nhiều. Ví dụ:
a). house(s) - nhà, telephone(s) - điện thoại,
b). problem(s) -vấn đề
c). music -nhạc, happiness -hạnh phúc
d). butter- bơ
22
- Một số danh từ có thể là danh từ số nhiều hoặc số ít, phụ thuộc vào
ngữ cảnh. Ví dụ:
- peel an onion - thái một củ hành
- a pizza with onion - bánh pizza có hành
b) Phân biệt động từ với tính từ
Về mặt ý nghĩa: Tính từ thể hiện tính chất hoặc các yếu tố định định tính
khác và quan điểm hoặc thái độ của người viết, hoặc phân loại sự vật, hiện
tượng. Các tính từ cũng thể hiện các nghĩa khác: nguồn gốc, nơi chốn, tần
xuất, mức độ, sự cần thiết hoặc mức độ chắc chắn. Ví dụ:
- large, silent, friendly…
(rộng, im lặng, thân thiện)
- excellent, beautiful
(tuyệt vời, xinh đẹp)
- an American writer, an inland waterway, a weekly newspaper
(nhà văn Mỹ, đường thuỷ nội địa, tuần báo)
- a complete failure, an essential safeguard, a probable result
(hoàn toàn thất bại, giấy thông hành an toàn thiết yếu, kết quả có thể)
Về mặt ngữ pháp:
- Hình thức của tính từ không thay đổi
- Không thay đổi giống hoặc số lượng. Ví dụ:
- an old man, an old woman, old people
(một người đàn ông già, một phụ nữ già, người già)
- Một số tính từ biến đổi khi so sánh hơn hoặc hơn nhất. Ví dụ:
- My wife is older than I am
(Vợ tôi già hơn tôi)
- This is the oldest building in the town
(Đây là toà nhà cổ nhất trong thị xã)
23
- Một số tính từ có hình thức giống trạng từ. Ví dụ:
- fast, hard
(Nhanh, chăm chỉ)
- Vị trí: Tính từ có thể đứng trước danh từ hoặc đứng sau động từ nối
để đảm nhiệm vai trò định ngữ (attribute) hoặc vị ngữ. Ví dụ:
- It is a large apartment
(Đó là một căn hộ rộng)
- Things are getting difficult
(Mọi thứ đang trở nên khó khăn)
Như vậy, sự giống nhau và khác nhau giữa các từ loại tính từ, động
từ và danh từ được thể hiện rõ theo vị trí của chúng ở trong câu. Tính từ,
động từ và danh từ là 3 trong 8 từ loại chính của tiếng Anh, thuộc thực từ.
2.2.3. Kết quả phân loại
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
- Dựa vào ý nghĩa: động từ chỉ hành động, trạng thái, tiến trình...
(active, processive, stative...)
- Dựa vào đặc điểm ngữ pháp động từ chia thành 3 loại:
a. Động từ nội động (intransitive verbs): những động từ không có tân
ngữ. Ví dụ: wait, speak, talk…
b. Động từ ngoại động (transitive verbs): những động từ có tân ngữ. Ví
dụ: speak, talk, tell, say, advice…
c. Linking verbs: Động từ nối. Ví dụ: be, become, get, look
2.3. Động từ trong tiếng Việt hiện đại
2.3.1. Khái niệm
Các nhà Việt ngữ học hiện đại có nhiều quan niệm khác nhau về động
từ, có thể chia thành 3 nhóm quan niệm chính sau:
24
Nhóm 1: Các tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh, Đinh Văn Đức, Mai Ngọc
Chừ, Hoàng Trọng Phiến, Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn
Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết Nguyễn Văn Thành Đinh Thanh Huệ…
đều cho rằng: động từ là từ có nghĩa khái quát về hoạt động, trạng thái.
Chẳng hạn:
Theo Nguyễn Hữu Quỳnh thì động từ là những từ có ý nghĩa từ vựng
khái quát chỉ hoạt động hay trạng thái nhất định của sự vật, ví dụ: động từ
đơn: đi, ăn, uống…, động từ ghép: ăn uống, đi lại, cày cấy…
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (NXB KHXH 1983) các tác giả chỉ
nêu: động từ là từ có nghĩa khái quát về hoạt động, trạng thái
Tác giả Đinh Văn Đức [11]: động từ là những từ chỉ hành động (chạy,
đọc, đi…), trạng thái (ngủ, thức…), các liên hệ dưới dạng tiến trình (yêu,
hiểu, nhớ…) có mối quan hệ với chủ thể và diễn ra trong thời gian. Chủ thể
không chỉ là sự vật mà bao hàm cả những khái niệm được thực thể hoá
(những đối tượng được tri nhận như thực thể).
Theo quan điểm của các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu,
Hoàng Trọng Phiến thì động từ có ý nghĩa khái quát chỉ hành động (vật lí-
tâm lí- sinh lí), có thể đứng sau từ hãy, thường giữ chức vụ ngữ pháp trong
câu [7].
Các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh
Thuyết trong tài liệu “Dẫn luận ngôn ngữ học” lại cho rằng động từ là
những từ biểu thị hành động, trạng thái của sự vật, ví dụ: đi, đứng, ăn, ngủ,
chơi…
Nguyễn Văn Thành [25] đã định nghĩa “động từ là những từ diễn đạt
các hành động, trạng thái hoặc quan hệ của người và vật, có ý nghĩa khái
quát chung, là ý nghĩa quá trình”
25
Trong cuốn “Tiếng Việt” (Ngữ âm, ngữ pháp), cuốn sách ngữ pháp
gần đây nhất (1985), tác giả Đinh Thanh Huệ đã định nghĩa: động từ là
những từ mang ý nghĩa ngữ pháp khái quát: “ý nghĩa vận động” (hành
động, trạng thái do tác nhân gây ra).
Nhóm 2: Động từ là từ thực có ý nghĩa vận động, có khả năng làm
trung tâm của đoản ngữ động từ. Chẳng hạn, theo Hữu Đạt, Trần Trí Dõi,
Đào Thanh Lan trong cuốn “Cơ sở tiếng Việt” thì động từ là từ thực có ý
nghĩa vận động (hoạt động, trạng thái) hiểu như là đặc trưng trực tiếp của
thực thể, có khả năng làm trung tâm của đoản ngữ động từ “động ngữ”
gồm: phần phụ trước + động từ + phần phụ sau.
Nhóm 3: Nhóm này chưa đi sâu vào đặc trưng của động từ. Chẳng hạn,
Nguyễn Kim Thản [41] cho rằng “động từ là một loại từ phức tạp nhất, sử
dụng rộng rãi nhất, chiếm địa vị quan trọng hàng đầu trong hệ thống các
loại từ của các ngôn ngữ… Trong tiếng Việt, số câu mà vị ngữ là động từ
vào khoảng 88%”.
Tóm lại, khái niệm về động từ trong tiếng Việt đã được các nhà ngôn
ngữ học đưa ra rất khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các tác giả, dù hiểu ở những
khía cạnh khác nhau, cũng đều thừa nhận động từ tiếng Việt chỉ hành động,
trạng thái và thường làm vị ngữ trong câu.
Từ các quan niệm trên, chúng tôi đưa ra quan niệm riêng của mình về
động từ: động từ là thực từ, dùng để biểu thị hành động trạng thái của sự
vật, thường làm vị ngữ trong câu.
2.3.2. Tiêu chí nhận diện
Chúng tôi sẽ căn cứ vào hai tiêu chí: hình thức và ý nghĩa để nhận diện
động từ
26
Về mặt hình thức: động từ có những đặc điểm chung của vị từ, có thể
đảm nhiệm nhiều chức vụ cú pháp khác nhau. Chức năng phổ biến, thường
trực và tiêu biểu là làm thành phần chủ ngữ và vị ngữ trong câu.
Về mặt ý nghĩa: biểu thị quá trình, cũng tức là biểu thị hoạt động hay
trạng thái nhất định của sự vật trong quá trình (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa
khái quát). Ví dụ: - Anh ta nói được, làm cũng được
Nói, làm đóng vai trò vị ngữ trong câu. Nói thể hiện hoạt động nói
năng. Làm biểu thị hành động của chủ thể anh ta.
- Nói thì dễ, làm thì khó
Nói, làm đóng vai trò chủ ngữ trong câu.
a) Phân biệt động từ với danh từ
Về mặt ý nghĩa: danh từ biểu đạt các khái niệm về sự vật (và thực thể
nói chung), động từ biểu thị hành động hoặc quá trình.
Về mặt ngữ pháp:
+ Khả năng kết hợp:
- Danh từ: kết hợp với các thành tố phụ đứng trước và sau nó như cái, con,
chiếc, các, những, này, kia, ấy...
-Động từ: kết hợp với đã, đang, sẽ, cũng, vẫn, cứ, xong, rồi, rất, hơi, quá,
chớ, đều, chớ, cần, nên...
Nhiều trường hợp, danh từ và động từ có chung vỏ ngữ âm và có mối
liên hệ về ý nghĩa. Tuy nhiên, phụ thuộc vào vị trí của chúng trong câu và
khả năng kết hợp của các từ này với các thành tố phụ trước và sau để xác
định từ loại đó.
Ví dụ:
27
danh từ động từ
cưa (cái cưa) cưa ( cưa gỗ)
bào (cái bào) bào (bào mòn)
cuốc (cái cuốc) cuốc ( cuốc đất)
muối (muối ăn) muối (muối dưa)
quạt (quạt điện) quạt (quạt lúa)
khoá (chìa khoá) khoá (khoá xe)
+Chức vụ cú pháp:
- Danh từ: chủ yếu đảm nhiệm chức vụ chủ ngữ và định ngữ. Ví dụ [11]:
- Mấy con chim đang bay
- Nhà gạch mới xây xong
- Bút bi này mới
Mấy con chim: cụm danh từ làm chủ ngữ
Gạch, bi: danh từ bổ sung nghĩa cho danh từ đứng trước
- Khác với danh từ, động từ chủ yếu được dùng trong chức năng vị ngữ. Ví
dụ:
- Anh ta nói được, làm cũng được
- Tôi sống xa nhà từ nhỏ
- Anh đã cơm nước gì chưa?
b)Phân biệt động từ và tính từ
Về mặt ý nghĩa: tính từ thể hiện tính chất, đặc trưng của sự vật, hiện
tượng. Động từ biểu thị hành động hoặc quá trình.
Về mặt ngữ pháp:
28
+ Khả năng kết hợp:
- Các từ chứng (hãy, đừng, chớ…) đều có khả năng kết hợp với tính từ,
động từ. Ví dụ:
Tính từ Động từ
Chớ nóng nẩy như thế! Anh chớ đi về nhà
Hãy nhanh lên! Chúng ta hãy làm nhanh lên
Đừng lì lợm như vậy! Lớn rồi, đừng đánh em.
- Tính từ cũng như động từ đều có khả năng kết hợp các chỉ tố thời- thể (đã,
đang, sẽ, chưa, từng, còn…), nhưng tần số xuất hiện thấp hơn so với động
từ.
- Tuy nhiên, tính từ thường dễ dàng kết hợp với các phó từ chỉ mức độ (rất,
hơi, quá, lắm) còn động từ thì lại dễ gàng kết hợp với các phó từ chỉ mệnh
lệnh hơn (hãy, đừng, chớ...). Ví dụ:
- Cô ấy rất thông minh
- Đừng nói nữa.
+ Chức vụ cú pháp:
- Tính từ cũng như động từ đều có khả năng làm vị ngữ trực tiếp trong
câu. Ví dụ:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
(Tố Hữu, 12)
Trong đầm gì đẹp bằng sen
29
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
(Ca dao)
Các tính từ xanh, đỏ tươi, trắng, vàng đóng vai trò vị ngữ.
- Ngoài ra, tính từ còn đóng vai trò định ngữ. Ví dụ:
- Học sinh thông minh
- Cuốn sách hay
Các tính từ hay, thông minh đóng vai trò định ngữ, bổ sung ý nghĩa
cho cuốn sách, học sinh.
2.3.3. Kết quả phân loại
Các nhà Việt ngữ học dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân loại
động từ. Dựa vào ý nghĩa và đặc trưng ngữ pháp, động từ tiếng Việt có thể
được chia thành các lớp con sau đây:
- Dựa vào đặc điểm ngữ pháp động từ chia thành 2 loại:
+Động từ nội động: chỉ những hoạt động không chi phối đến các sự
vật ở bên ngoài nó, ví dụ: ngủ, ngồi, nằm, chạy, bò, nói, cười, ăn, uống…
+Động từ ngoại động: chỉ những hoạt động chi phối đến các sự vật ở
bên ngoài nó, ví dụ: xây, làm, đẩy, đóng, đưa, nâng, đỡ…
Tuy nhiên, Lê Biên trong giáo trình “Từ loại tiếng Việt hiện đại” [3]
lại khẳng định “Nhưng khảo sát thực tế tiếng Việt, ranh giới nội động và
ngoại động ở động từ tiếng Việt không rõ ràng và rất khó xác định”, ví dụ:
- Nó ăn (nội động) - Nó ăn cơm ( ngoại động).
30
- Anh ấy khóc (nội động) - Anh ấy khóc bạn (ngoại động)
- Dựa theo đặc điểm ngữ nghĩa, động từ có thể chia thành:
+Động từ hành động: chỉ hoạt động tinh thần và hoạt động vật lý. Ví
dụ: toan, định, dám, đoán, đi, chạy, nói....
+Động từ chỉ trạng thái tâm lý: có đặc điểm, một mặt kết hợp được
với “hãy”, mặt khác lại kết hợp được với “rất”: yêu, nể, kính trọng, chán,
ghét…. Ví dụ:
- Tất cả người dân Việt Nam đều kính trọng và biết ơn công lao to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+Động từ chỉ trạng thái thụ động: bị, được, mắc, phải, chịu… Ví dụ:
- Tất cả chúng ta sinh ra đều có quyền bình đẳng, ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành.
+Động từ trạng thái: chỉ sự biến đổi về trạng thái, tâm trạng, màu
sắc…; không đòi hỏi bổ ngữ nên các động từ đi sau hệt như gắn chặt với
các từ đi trước. Ví dụ:
- Chưa bao giờ lòng tự tin của Linh sắt lại như vậy. (Chu Lai)
sắt lại: biến đổi tâm trạng từ dễ tính trở nên khó tính
- Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người (Nam Cao, 12)
Hoa lên, quặn lại: chỉ hướng tăng hoặc giảm.
+Động từ tình thái: chỉ sự cần thiết, khả năng, bản thân chúng đã
mang ý nghĩa mệnh lệnh nên không kết hợp rõ ràng với hãy, nhưng dễ dàng
kết hợp với rất: cần, nên, phải,…Ví dụ:
- Chúng ta cần phải sống và học tập theo gương Bác Hồ.
31
- Nơi nào cần thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên.
Dựa vào tiêu chí nhận diện và kết quả phân chia ở trên, chúng tôi xếp
động từ nói năng thuộc nhóm động từ hành động
2.4. Tình hình nghiên cứu động từ nói năng
2.4.1. Tình hình nghiên cứu động từ nói năng trong tiếng Anh
J.L. Austin [1] cho rằng hành vi ngôn ngữ gồm ba loại lớn: hành vi
tạo lời, hành vi ở lời và hành vi mượn lời. Tuy nhiên, trong số đó chỉ có
hành vi ở lời được ngữ dụng học quan tâm. Các hành vi ở lời bị chi phối bởi
những quy tắc được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một
cách tự giác và có những điều kiện dùng cho mỗi loại hành vi ở lời. Hành vi
ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. ví dụ: hỏi,
yêu cầu, ra lệnh,... Bên cạnh đó, Austin cho rằng động từ ngữ vi chỉ được
dùng theo hiệu lực ngữ vi khi nó ở ngôi thứ nhất thời hiện tại và thức thực
hiện, không có các yếu tố biến thái đi kèm. Và ông đã phân biệt biểu thức
ngữ vi nguyên cấp (biểu thức ngữ vi không có động từ ngữ vi) và biểu thức
ngữ vi tường minh (biểu thức ngữ vi nguyên cấp được tường minh hóa
bằng động từ ngữ vi với các điều kiện như đã nêu ở trên). Như vậy ông
khẳng định biểu thức ngữ vi nguyên cấp chính là biểu thức ngữ vi đánh dấu
một hành vi ở lời nào đó.
O.Ducrot [10] đã nói rõ hơn về hành vi ở lời. Theo ông, hành vi ở lời
khác với hành vi tạo lời và hành vi mượn lời ở chỗ chúng thay đổi tư cách
pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói và người nghe vào
những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực
hiện hành vi ở lời. Tác động hầu như buộc vai nghe phải hồi đáp lại đối với
một hành động ở lời trong câu nói ra, được gọi là hiệu lực ở lời. Với cách
hiểu về hành vi ở lời, hiệu lực ở lời như trên, có thể thu hẹp hơn nữa khái
32
niệm động từ nói năng. động từ nói năng là tên gọi của động từ biểu thị
hành vi ở lời.
Năm 1970, Ross chịu ảnh hưởng của Austin, cho rằng tất cả các câu
trần thuyết đều phát sinh từ một cấu trúc cú pháp sâu.
Ví dụ: Trời mưa sẽ có cấu trúc ngữ vi sâu là:
(Tôi) khẳng định (với anh) trời mưa.
Tiếp đó một số tác giả khái quát cao hơn, cho rằng tất cả các câu đều
có một cấu trúc ngữ vi tường minh ở chiều sâu. Hay nói cách khác tất cả
các biểu thức ngữ vi nguyên cấp thường gặp trong giao tiếp hàng ngày đều
là kết quả cải biến rút gọn từ cấu trúc ngữ vi sâu tường minh. Đây là giả
thuyết ngữ vi. Cấu trúc ngữ vi sâu tường minh được G.Yule [46] tóm lược
thành công thức:
I (hereby) Vp you (that) U.
I: ngôi thứ nhất; herely: bằng lời nói này; you: ngôi thứ hai, người
nghe và tiếp nhận hành vi ở lời do Vp (động từ ngữ vi) biểu thị; U: câu nghe
được/biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
Ví dụ: - Quét nhà đi là câu bề mặt ngoài được cải biến từ cấu trúc ngữ vi
sâu: Tôi (bằng lời nói này) lệnh cho anh quét nhà.
Tuy nhiên, hiện nay giả thuyết ngữ vi trên không được đứng vững
nữa do hai trong nhiều lí do là: Thứ nhất, như Austin ở trên đã thừa nhận có
rất nhiều biểu thức ngữ vi nguyên cấp không thể tường minh hóa bằng biểu
thức ngữ vi tường minh., tức cái hành vi ngôn ngữ tạo ra biểu thức ngữ vi
nguyên cấp đó không có động từ nói năng biểu thị hoặc động từ nói năng
biểu thị hành vi ngôn ngữ đó không thể dùng trong chức năng ngữ vi. Thứ
33
hai, việc tường minh hóa một biểu thức ngữ vi nguyên cấp bằng một động
từ ngữ vi có thể làm thay đổi ngữ nghĩa của phát ngôn.
Ví dụ: Vì sao em ghét tôi? (thái độ nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn)
Hải, tôi hỏi em vì sao em ghét tôi? (căng thẳng, nhấn mạnh,...)
Thông qua việc phân tích các quan niệm của các nhà ngôn ngữ học
về động từ nói năng, có thể khẳng định: không thể nhận diện động từ nói
năng dựa vào biểu thức ngữ vi tường minh, mà phải dựa vào biểu thức ngữ
vi nguyên cấp. Biểu thức ngữ vi tường minh chỉ có thể là chỗ dựa để nhận
diện động từ nói năng dùng theo chức năng ngữ vi. Như vậy có thể khái
quát cách hiểu về động từ nói năng: Một động từ được gọi là động từ nói
năng khi động từ đó có khả năng biểu hiện một hành vi ở lời nào đó. Nói
đến hành vi ở lời là nói đến hiệu lực ở lời được biểu thị bằng một biểu thức
ngữ vi nhất định.
2.4.2. Tình hình nghiên cứu động từ nói năng trong tiếng Việt
Trước đây, trong Việt ngữ học vì chưa thấy được đầy đủ vai trò của
các hành vi ngôn ngữ trong đời sống xã hội và cá nhân, ngữ pháp tiền dụng
học không ý thức được tầm quan trọng cũng như các đặc tính chức năng-
ngữ nghĩa- ngữ pháp của động từ nói năng trong ngôn ngữ. Do đó, động từ
nói năng chưa được nghiên cứu đầy đủ một cách có hệ thống.
Trong khi nghiên cứu, các nhà ngữ pháp học, từ vựng học tuy có xem
xét các động từ nói năng cụ thể, nhưng do không chý ý đến quan hệ của
chúng với các hành vi ngôn ngữ cho nên đã phân tán động từ nói năng
thành các nhóm nhỏ cùng với các loại động từ khác. Vì vậy động từ nói
năng không được tách thành một phạm trù độc lập với các động từ “phi nói
năng”, tức tách khỏi các động từ biểu thị các hoạt động, các vận động, quá
trình vật lí, sinh lí và tâm lí. Dựa vào những tiêu chí “truyền thống’ thiên về
34
hình thức- dù đã có tính đến ngữ nghĩa- các công trình về từ loại tiếng Việt
hoặc nhập chúng với các động từ cảm nghĩ thành tiểu loại động từ cảm
nghĩ- nói năng hoặc xé lẻ chúng ra, đưa vào từng tiểu loại hay tiểu nhóm
động từ tuỳ theo khả năng chi phối hai hoặc chi phối ba diễn tố, cũng tức là
tuỳ theo ngữ trị của động từ.
Chúng tôi cho rằng động từ nói năng có những đặc tính khác hẳn với
các động từ phi nói năng, cần được nghiên cứu riêng, sử dụng những tiêu
chí phân loại riêng (như Austin, Searle và nhiều nhà ngữ dụng khác đã
làm). Còn rất nhiều điều về các động từ nói năng mà cách xử lí truyền thống
do đã đánh đồng chúng với các động từ “phi nói năng” nên không phát hiện
ra được.
Có hai quan niệm khác nhau về động từ nói năng: động từ nói năng
(hiểu theo nghĩa rộng) bao gồm cả động từ ngôn hành và động từ nói năng
(hiểu theo nghĩa hẹp) chính là động từ ngôn hành (performative verbs).
Trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học” [4], GS.TS Đỗ Hữu Châu
hiểu động từ nói năng theo nghĩa rộng, tức bao gồm cả động từ ngôn hành.
Ông cho rằng động từ ngôn hành (động từ ngữ vi-performative verbs) là
động từ đặc biệt của động từ nói năng và chúng có thể được thực hiện trong
chức năng ngữ vi, tức thực hiện trong chức năng ở lời. động từ ngữ vi là
những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi- có khi
không cần biểu thức nghĩ vi đi kèm- là người nói thực hiện luôn cái hành vi
ở lời do chúng biểu thị.
Ở công trình nghiên cứu “Về nghĩa của các từ biểu thị sự nói năng
trong tiếng Việt” [17], Hoàng văn Hành có đề cập đến động từ nói năng
trong tiếng Việt. Ông cho rằng, nhóm từ ngữ biểu thị sự nói năng khá phong
phú và đa dạng. Xét về mặt hình thái, trong nhóm từ ngữ này, có những từ
35
đơn âm tiết, thuộc vốn từ cơ bản, như: nói, kể, hỏi, đáp, kêu, la, mắng,
nhiếc, khuyên, răn, bảo… Có những từ song âm tiết, trong đó có từ ghép
như: sai khiến, sai bảo, van xin, trả lời, trình bày…và có từ láy như: nài nỉ,
năn nỉ, bàn bạc, nói năng, lẩm nhẩm, cằn nhằn…Ngoài ra còn một số đáng
kể những đơn vị thành ngữ tính, như: bụng bảo dạ, cãi chày cãi cố, rát cổ
bỏng hang, câm miệng hến, giây cà ra giây muống, cà riềng cà tỏi… Xét về
nhiều mặt nói là từ trung tâm trong nhóm từ ngữ này và gồm hai nghĩa: nói
là hành vi phát ra thành tiếng, thành lời và nói là hành vi giao tiếp bằng lời.
Ví dụ:
- Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không (Hồ Chí Minh)
(nói là hành vi phát ra thành tiếng)
- Người ta hỏi, mà nó chẳng thèm nói
(nói là hành vi giao tiếp bằng lời)
Như vậy, Hoàng Văn Hành cũng hiểu động từ nói năng theo nghĩa
rộng bao gồm cả động từ ngôn hành chứ không phải là động từ ngôn hành
(performative verbs).
Phạm Thị Hoà [19] cũng có nói đến động từ nói năng, nhưng đã thu
hẹp khái niệm. Theo tác giả, động từ nói năng (hiểu theo nghĩa hẹp) là động
từ ngôn hành (performative verbs), hay gọi cách khác là động từ ngữ vi. Ví
dụ:
- Ngày mai anh có đi chơi không?
- Tôi hỏi anh ngày mai có đi chơi không?
(Động từ “hỏi” là động từ ngôn hành- được gọi tên một cách tường
minh hành vi ở lời được thực hiện như ở câu trên)
36
Khái quát từ những quan niệm đã phân tích ở trên về động từ nói
năng, chúng tôi xin đưa ra một cách hiểu về động từ nói năng: động từ nói
năng là một nhóm thuộc động từ hành động chỉ hoạt động nói năng của
con người, tức là bao gồm cả động từ ngôn hành (performative verbs).
Có thể hiểu động từ ngôn hành là động từ nói năng nhưng không phải
động từ nói năng nào cũng là động từ ngôn hành. Ví dụ:
1. Tôi đã bảo nó nhiều lần rồi.
2. Tôi sẽ bảo nó đến gặp anh.
3. Tôi bảo anh thôi đi ngay.
(Trong cả ba ví dụ trên thì động từ “bảo” đều là động từ nói năng,
nhưng chỉ có động từ “bảo” ở ví dụ (3) là động từ ngôn hành).
Bên cạnh đó, động từ nói năng được phân biệt dựa vào ý nghĩa (là
một loại hoạt động phân biệt với các hoạt động khác như: tác động, di
chuyển...). Động từ ngôn hành được phân biệt dựa vào chức năng (chức
năng ngôn hành phân biệt với chức năng mô tả hay tường thuật).
Tóm lại: ngôn hành chỉ là một chức năng của động từ nói năng và có
thể không phải tất cả các động từ nói năng đều có chức năng này. Ví dụ:
tán, kêu, lẩm nhẩm, thều thào, thì thầm...không có chức năng ngôn hành.
Nhìn chung cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu
đầy đủ và có hệ thống về động từ nói năng trong tiếng Việt, nếu có cũng chỉ
là nghiên cứu sơ bộ và chưa có một cách nhìn thấu đáo, toàn diện. Ở luận
văn này, do phạm vi nghiên cứu hạn hẹp, chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên
cứu một số động từ nói năng trong tiếng Anh và bước đầu đối chiếu với
động từ nói năng trong tiếng Việt.
37
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NÓI NĂNG
TRONG TIẾNG ANH (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT)
1. Nghĩa biểu hiện của các động từ nói năng
1.1. Khái niệm nghĩa biểu hiện
Trong ngôn ngữ học, bình diện nghĩa của câu được quan tâm đáng
kể, nhất là trong trào lưu ngữ pháp chức năng. Phần lớn các học giả
phương Tây đều quan niệm nội dung của bình diện nghĩa của câu (và của
ngôn ngữ) là cái phần phản ánh (biểu hiện, miêu tả) những mảng thế giới
hiện thực (hay một thế giới nào khác bên ngoài ngôn ngữ). Nghĩa của
câu thường được quan niệm gồm hai thành phần: nghĩa biểu hiện (hay
nghĩa mô tả, nghĩa sự vật) và nghĩa tình thái.
Theo M.A.K. Halliday (Dẫn luận ngữ pháp chức năng, 2004, 7):
ngôn ngữ giúp con người có thể xây dựng được bức tranh tinh thần về
thực tế, hiểu được những gì xảy ra xung quanh họ và trong thế giới nội
tâm của họ. Ở đây, một lần nữa cú có vai trò trọng tâm bởi vì nó chứa
đựng một nguyên tắc cơ bản để mô hình hóa kinh nghiệm- đó là, nguyên
tắc thực tế được hình thành nên từ các quá trình (process)”. Theo
Halliday, bình diện biểu hiện là phần nằm trong nội dung nghĩa được coi
là phản ánh một sự tình được rút ra từ cái thế giới được mô tả, bên cạnh
những bình diện nội dung khác của câu khi nó được xét như một thông
điệp (a message), như một bộ phận của văn bản, v.v. trong hệ thống ngữ
pháp chức năng của ông.
Xét trên bình diện biểu hiện, câu diễn đạt một 'quá trình' (process),
được con người cảm thụ như một thể trọn vẹn, nhưng khi biểu hiện nó
trong lời nói, ta lại phân tích nó thành một mô hình nghĩa (semamtic
38
configuration) gồm ba yếu tố: bản thân quá trình, các tham tố
(participants) trong quá trình và hoàn cảnh (circumstances) có liên hệ với
quá trình.
Trong mô hình kinh nghiệm của mình, Halliday đưa ra sáu kiểu quá
trình:
- Quá trình vật chất (material process), trong đó bao giờ cũng có
một người hành động (actor) làm một cái gì đó, và có thể có một đối thể
(goal).
- Quá trình tinh thần (mental process), trong đó bao giờ cũng có một
người thể nghiệm (sensor) và có thể có một hiện tượng (phenomenon)
gây cảm giác,
- Quá trình quan hệ (relational process), trong đó có một cái gì là
một cái gì, là ở chỗ nào, là của ai (hay có cái gì). Tham tố ở đây là một
vật mang (carrier) một thuộc tính (attribute) hay được đồng nhất
(identified) với một cái gì (identifier).
Đây là ba kiểu quá trình chính trong hệ thống chuyển tác tiếng
Anh.
Ngoài ra, còn có 3 kiểu quá trình trung gian được định vị trên
đường ranh giới của 3 kiểu quá trình này, đó là:
- Quá trình ứng xử (behavioral process): như nhìn, nghe, cười,
thường chỉ có một tham tố (behaver- người ứng xử), quá trình này nằm
trên đường ranh giới giữa quá trình vật chất và quá trình tinh thần.
- Quá trình phát ngôn (verbal process): trong đó có người nói
(sayer), điều được nói ra (target) và người nghe (recipient). Nếu xét cả
tác dụng của lời lẽ (thuyết phục, cắt nghĩa), thì có cả người chịu tác dụng
(receiver). Quá trình này thuộc ranh giới giữa quá trình tinh thần và quá
39
trình quan hệ.
- Quá trình hiện hữu (existential process): trong đó tham tố là vật
tồn tại (existent), thuộc ranh giới giữa quá trình quan hệ và quá trình vật
chất, khép kín vòng tròn mô hình kinh nghiệm.
Theo S.C.Dik [9], một cấu trúc chủ-vị hạt nhân (nuclear
predication) xét toàn bộ biểu thị một sự tình (state of affairs) được xác
định bởi cái thuộc tính hay mối quan hệ do vị ngữ biểu thị liên kết các
thực thể do các danh tố biểu thị. Vì vậy, phân loại câu theo nghĩa biểu
hiện của nó thực chất là sự phân loại các sự tình. S.C.Dik đã phân loại
các sự tình theo hai tiêu chí cơ bản: tính năng động (dynamism) và tính
chủ động (control). (cf.Dik 1975)
Dựa trên thông số tính năng động, có thể phân biệt các sự tình động
và sự tình không động hay tĩnh. Một sự tình động là một biến cố (event).
Ví dụ: [18]
- John opened the door (John mở cửa)
- The tree fell down. (Cây đổ xuống)
Một sự tình tĩnh là một tình thế (situation). Ví dụ:
- John remained in the hotel. (John ở lại khách sạn)
- The substance is red. (Chất ấy màu đỏ)
Cắt ngang sự phân biệt giữa các tình thế và các biến cố, có thể phân
biệt dọc theo thông số chủ động chia các sự tình thành hai loại: chủ động
(controlled). Ví dụ:
- John opened the door (John mở cửa)
- John remained in the hotel. (John ở lại khách sạn)
và không chủ động. Ví dụ:
- The tree fell down. (Cây đổ xuống)
40
- The tree fell down. (Cây đổ xuống)
Một biến cố (sự tình động) có sự chủ động thì gọi là một hành động
(action).
Một biến cố (sự tình động) không chủ động thì gọi là một quá trình
(process).
Một tình thế (sự tình tĩnh) có sự chủ động thì gọi là một tư thế
(position).
Một tình thế (sự tình tĩnh) không chủ động gọi là một trạng thái
(state).
Diễn đạt bằng biểu đồ, ta có:
Sự tình
+ động - động
BIẾN CỐ TÌNH THẾ
+Chủ động hành động tư thế
-Chủ động quá trình trạng thái
Như vậy, dựa vào hai tiêu chí là [+/- động] và [+/- chủ động],
S.C.Dik đã phân loại được 4 kiểu sự tình khác nhau: hành động, quá
trình, tư thế và trạng thái.
Theo L.Tesniere, cấu trúc cú pháp của câu xoay quanh động từ và
các diễn tố (actants) làm bổ ngữ cho nó. Ngoài ra, còn có các chu tố
(circumstants) chỉ các hoàn cảnh, không có số lượng nhất định như các
diễn tố, tương đương với các phó từ (adverbes): thời gian, nơi chốn,
41
phương thức. Như vậy, ông xem mỗi sự tình trong hiện thực diễn ra như
một màn kịch nhỏ mà động từ đóng vai trò trung tâm còn các tham tố là
các vai nghĩa.
Trong cuốn „Đại cương ngôn ngữ‟ tập I (2001), các tác giả Đỗ Hữu
Châu và Bùi Minh Toán định nghĩa: „Nghĩa biểu hiện của câu đó là
thành phần nghĩa của câu phản ánh một sự tình (hay một sự thể-state of
affairs) nào đó của hiện thực. Mỗi sự tình có một cấu trúc bao gồm một
cái lõi cùng với các yếu tố tham gia vào sự tình. Cái lõi của sự tình (hay
chính là nội dung của sự việc) được biểu hiện bằng một động từ, còn các
yếu tố tham dự vào sự tình là các tham tố (hay tham thể-participants) của
nó. Động từ và các tham tố tạo nên cấu trúc sự tình. Ví dụ:
- Lúc đó, tôi mở cửa bằng chiếc chìa khóa này
Nghĩa biểu hiện của câu trên là một sự tình bao gồm lõi của sự tình
được phản ánh bằng động từ mở và một số tham tố :
- Chủ thể của hành động : Tôi
- Đối thể của hành động: cửa
- Công cụ tiến hành hành động: chiếc chìa khóa này
- Thời gian hoạt động: lúc đó
Các sự tình trong hiện thực được đặc trưng bởi một cấu trúc động từ
-tham tố nhất định. Các loại hình sự tình (sự thể) khác nhau thì có cấu
trúc động từ - tham tố khác nhau. Mỗi loại hình sự tình khác nhau về loại
động từ, về số lượng các tham tố và kiểu loại các tham tố. Chẳng hạn, so
với sự tình mà câu trên đây phản ánh thì trong câu:
- Đứa bé ngủ trong nôi
động từ ngủ không thể có các tham tố đối thể, tham tố công cụ, tuy rằng
42
vẫn có các tham tố chủ thể, tham tố địa điểm và tham tố thời gian. Các
sự tình khác nhau được phản ánh trong câu tạo nên nghĩa biểu hiện khác
nhau của câu.
Các tham tố của động từ được phân biệt thành hai loại: diễn tố
(actants) và chu tố (circumstants).
- Các diễn tố là các vai nghĩa tất yếu do ý nghĩa của động từ quy
định. Chúng là các tham tố đặc trưng cho từng loại động từ (cho loại
hình sự tình) và có mặt chỉ ở từng loại động từ nhất định.
Ví dụ: với sự tình thể hiện bằng động từ cho thì các diễn tố của nó
là: người cho, người nhận và vật đem cho.
Trong thực tế ngôn ngữ, tùy thuộc vào tình huống giao tiếp và ngữ
cảnh mà các diễn tố có thể được biểu hiện hay không được biểu hiện.
Nhưng các diễn tố thì luôn được giả định trong ý nghĩa của động từ.
- Các chu tố: các chu tố không phải do bản thân ý nghĩa của động từ
quy định, không được giả định một cách tất yếu trong động từ. Chúng
không có tác dụng xác định đặc tính cho các loại động từ. Chúng chỉ là
các điều kiện về thời gian, về địa điểm, về nguyên nhân, về mục đích...
Chúng có mặt ở nhiều loại động từ khác nhau.
Do đó, sự phân biệt diễn tố và chu tố còn phụ thuộc vào loại động
từ, phụ thuộc vào loại hình sự tình. Một vai nghĩa như địa điểm (nơi
chốn) chỉ là một chu tố khi ở cạnh một động từ hành động (như ăn,
đọc…) biểu hiện một sự tình hành động, nhưng lại là một diễn tố ở một
động từ tồn tại (như có, còn, xuất hiện…) biểu hiện một sự tình tồn tại.
Ví dụ:
- Trên trời, có đám mây xanh
Trên trời: diễn tố
43
- Trong sân, trẻ em đang đá bóng
Trong sân: chu tố
Như vậy, nghĩa biểu hiện là một thành tố trong bình diện nghĩa của
câu. Nó chỉ có thể không có mặt trong các câu đơn thuần là dấu hiệu của
cảm xúc-những câu cảm thán, ở đó chỉ có từ tình thái mà thôi. Ví dụ:
những câu trong tiếng Việt: Ối!, Chao ôi! hoặc Ái chà! Ở những câu này
không có nghĩa biểu hiện mà chỉ có nghĩa tình thái.
Tác giả Diệp Quang Ban [2] đưa ra quan niệm về nghĩa biểu hiện
như sau: câu dùng để biểu hiện những kinh nghiệm mà con người trải
qua về các sự thể được nói đến hoặc nghĩ đến, tức là tạo nghĩa kinh
nghiệm, nghĩa biểu hiện cho câu; xem xét câu trong chức năng này là
xem xét câu với tư cách sự biểu hiện. Các sự thể có thể có tính chất động
hoặc tĩnh (không động), và có thể thuộc về các lĩnh vực khác nhau: lĩnh
vực vật chất, tinh thần, hay các mối quan hệ trừu tượng, và giữa chúng
là những miền trung giam khác nhau. Chẳng hạn, ba câu sau đây diễn đạt
những sự thể thuộc về ba lĩnh vực khác nhau:
- Con mèo vồ con chuột (thuộc về vật chất, động)
- Anh ấy buồn về việc lúc nãy (thuộc về tinh thần, tĩnh)
- Anh ấy là người tốt (thuộc về quan hệ, tĩnh)
Các yếu tố nghĩa có mặt trong một sự thể và từng yếu tố tham gia
với vai nghĩa gì (hay chức năng nghĩa gì, với tư cách gì về mặt nghĩa).
Ví dụ, hai câu sau đây đều nói về cùng một sự thể do kinh nghiệm đưa
lại, đó là việc "Huy tặng Lan quyển sách" và việc này diễn ra ngày hôm
qua. Hai câu này cùng diễn đạt một sự thể, nhưng cấu trúc nghĩa biểu
hiện lại khác nhau:
- Hôm qua Huy tặng Lan quyển sách rồi
44
- Hôm qua Lan được Huy tặng quyển sách rồi
Về các yếu tố tham gia sự thể, trong cả hai câu trên, Huy là thực thể
tạo ra hành động, được gọi là động thể; quyển sách là thực thể chịu tác
động của tặng, được gọi là đích thể; Lan là thực thể tiếp nhận vật trao
tặng, được gọi là tiếp thể; hôm qua là hoàn cảnh thời gian của việc tặng,
được gọi là cảnh huống (gồm các yếu tố chỉ hòan cảnh hay chỉ tình
huống).
Các yếu tố chỉ không gian, thời gian…mà giữ vai trò yếu tố cần
thiết trong sự thể như Hôm qua là chủ nhật, thì chúng hoạt động với tư
cách những tham thể. Các tham thể và cảnh huống được gọi chung là các
vai nghĩa.
Về cú pháp, sự thể do vị tố diễn đạt, các vai nghĩa do các bổ ngữ
đảm nhiệm.
Các vai nghĩa được xếp theo trật tự từ quan trọng nhất đến ít quan
trọng hơn trong nhiệm vụ cấu thành nghĩa sự thể của câu. Không phải
mọi vai nghĩa đều được dùng đều đặn như nhau. Theo Hoàng Văn Vân
[43], một số vai nghĩa thường gặp và trật tự có tính chất phổ biến của
chúng như sau:
Động thể-Đích thể-Tiếp thể-Đắc lợi thể-Công cụ-Vị trí-Thời gian
1.2. Nghiã biểu hiện của động từ nói năng
Nghĩa biểu hiện phản ánh sự tình của thế giới được nói đến trong
câu. Tuy nhiên, câu nói (câu văn) không thể phỏng y nguyên cái sự tình
ấy. Khi đã được sắp xếp lại theo cách tri giác của người nói, được tổ
chức lại thành một cấu trúc lô-gich ngôn từ, được tuyến tính hóa lại theo
những quy tắc ngữ pháp của câu, được tình thái hóa ở nhiều cấp tùy theo
thái độ của người nói, hình ảnh mà người nói dùng để truyền đạt sự tình
cho người nghe một mặt được giản lược đi và mặt khác lại được trang trí
45
thêm nhiều yếu tố chủ quan của người nói.
Dựa trên cách phân loại nghĩa biểu hiện của Dik theo hai tiêu chí
cơ bản nhất, đó là: +/- Động (động/tĩnh) và +/- Chủ ý (có chủ ý/không
chủ ý) và của Halliday dựa trên sự Tồn tại (hiện hữu) vào hàng sự tình
cơ bản, bậc một (ngang hàng với Biến cố và Tình hình) và Quan hệ; Cao
Xuân Hạo đã đưa ra 3 loại nghĩa biểu hiện cơ bản sau: các sự tình, được
biểu hiện trong ngôn ngữ bằng những câu mà hạt nhân là khung vị ngữ,
gồm lõi vị ngữ, (mà trung tâm là động từ) và các tham tố của nó trong đó
có một tham tố làm đề (hay tiểu đề nếu câu có nhiều bậc cấu trúc đề-
thuyết). động từ nói năng là một động từ [+Động] và [+Chủ ý], do vậy
nó sẽ sẽ thuộc câu chỉ sự tình động và thuộc tiểu loại câu chỉ hành động;
nghĩa biểu hiện của nó sẽ có đầy đủ tính chất, đặc điểm của loại câu này.
Điều này có nghĩa là nghĩa biểu hiện chính là nghĩa sự tình, mang tính
chất miêu tả hoặc trần thuật. Như vậy, xét về mặt giá trị, nghĩa biểu hiện
có giá trị đúng hoặc sai.
Tác giả Cao Xuân Hạo [18] đã đưa ra định nghĩa câu chỉ hành
động như sau: một biến cố trong đó có một chủ thể làm một việc có chủ
ý (chủ động, tự điều khiển) gọi là hành động. Chủ thể (diễn tố duy nhất
hoặc thứ nhất) của một hành động gọi là hành thể (actor). Một hành
động có thể không tác động gì đến một đối tượng nào: đó là hành động
vô tác hay không chuyển tác. Hành động này chỉ có một diễn tố, là hành
thể, tuy đó có thể là một diễn tố phức hợp, gồm nhiều nhân vật cùng
hành động. Ngoài ra, còn có những tham tố khác: các chu tố.
Ví dụ: - Tôi nói tiếng Anh trong lớp học
Tôi: diễn tố 1: hành thể
Nói: hành động
tiếng Anh: diễn tố 2: đối thể
46
trong lớp học: chu tố: vị trí
Nghĩa biểu hiện của động từ nói năng thể hiện hành động phát ngôn.
Như chúng ta đã biết, hành động phát ngôn thường gồm các tham thể
sau: Phát ngôn thể (PNT), ngôn thể (NT), đích ngôn thể (ĐNT) và tiếp
ngôn thể (TNT); trong đó động từ nói năng giữ vai trò trung tâm của
hành động nói năng. Ví dụ:
- He did not immediately speak when I had concluded. (1)
(Ông không đáp lại ngay khi nghe tôi kể xong)
- They spoke of books
(Hai người bàn về sách vở) (1)
- She talks of you continually (1)
(Cô ấy nhắc đến ông luôn)
PNT: she, he, they
TNT: you, books
động từ nói năng: speak, spoke
1.3. Các tham tố của động từ nói năng
Nhìn chung, các nhà ngôn ngữ học thế giới như Givon, Halliday
và những người khác đều xét động từ nói năng trong quá trình nói năng.
Givón [15] không đưa ra danh sách tham tố cụ thể của động từ nói
năng. Ông phân biệt các lớp động từ nói năng (verb clausses) theo đặc
trưng ngữ pháp thành các tiểu loại như sau: động từ không bổ ngữ, động
từ thông tin, động từ cầu khiến, động từ có bổ ngữ tặng cách-gián tiếp và
bổ ngữ trực tiếp. Nhóm động từ không bổ ngữ sẽ có duy nhất một tham
tố, do đó sẽ đóng vai trò chủ ngữ trong câu. Về ngữ nghĩa, nó biểu thị
một trạng thái vĩnh viễn hoặc tam thời, động từ loại này có thể xuất hiện
với một bổ ngữ đồng nguyên (bổ ngữ cùng gốc-cognate object). Ví dụ:
47
- She spoke a few words (Cô ta nói một vài lời)
- He sang a song (Hắn hát một bài hát).
Fillmore [12] phân biệt các tiểu loại thông điệp (message) khác
nhau (thực chất cũng là ngôn thể); thành phần có about dẫn nhập được
tách thành tham tố riêng là đề tài (topic). Lời dẫn được ông xem như một
kiểu thông điệp.
Theo Halliday [16], kết cấu vị ngữ của hoạt động nói năng gồm ba
vai: phát ngôn thể (sayer), tiếp ngôn thể (receiver) và ngôn thể
(verbiage), ngoài ra còn có vai đích ngôn thể (target) của nhóm nói năng-
tác động. Ông không đi sâu vào các biểu hiện cụ thể của Ngôn thể, vốn
là tham tố trọng yếu của hành động nói năng. Ngoài ra, với lời dẫn trực
tiếp và gián tiếp, Halliday cho rằng đây là một thành phần được chiếu xạ
và có quan hệ đồng đẳng với bộ phận dẫn nhập (cấu trúc chính của động
từ nói năng).
Ví dụ: [16] - What did you say?- I said it's noisy here
(Bạn nói gì?-Mình nói ở đây ồn ào)
- The notice tells you to keep quiet.
(Bảng thông báo đề nghị bạn im lặng)
- My watch says it‟s half past ten.
(Đồng hồ của tôi chỉ mười rưỡi)
- The mystery‟s never been eplained.
(Điều bí ẩn không bao giờ được giải thích)
- Tell me the whole truth
(Hãy nói cho tôi toàn bộ sự thật)
Phát ngôn thể (sayer): I, the notice hay my watch
48
Tiếp ngôn thể (receiver): you, me
Ngôn thể (verbiage): the mystery
1.3.1. Phát ngôn thể (PNT):
Cấu trúc ngữ nghĩa của một phát ngôn biểu thị quá trình nói năng
trong tiếng Anh, cũng như tiếng Việt, đòi hỏi một diễn tố đóng vai trò
Tác thể (agent) như ở các quá trình hành động khác, diễn tố đó chính là
PNT. Theo Halliday, khác với quá trình tinh thần, quá trình nói năng
không đòi hỏi PNT nhất thiết phải là một thực thể có ý thức (conscious
participant) như you (bạn) và I (tôi). Trái lại nó có thể là bất kỳ một cái
gì có tiềm năng phát ra tín hiệu như the notice hay my watch.
Ví dụ [16]: - What did you say?- I said it's noisy here
(Bạn nói gì?-Mình nói ở đây ồn ào)
- The notice tells you to keep quiet.
(Bảng thông báo đề nghị bạn im lặng)
- My watch says it‟s half past ten.
(Đồng hồ của tôi chỉ mười rưỡi)
Theo tác giả Nguyễn Văn Phổ, bình diện nghĩa của các tham tố
trong quá trình nói năng cần được chú ý nhiều hơn. Trong tiếng Anh và
tiếng Việt, danh ngữ đứng làm chủ ngữ cho động từ nói năng có thể là
tác thể hoặc phương tiện, khi là phương tiện thì không thể là người nói
(sayer). Đây là một đặc điểm mà tiếng Anh và tiếng Việt có sự tương
đồng gần như hoàn toàn. Ví dụ: the story tells of (câu chuyện kể về), tha
paper says (tờ báo nói), one sign proclaims (một tấm biển chỉ...). Như
vậy, khi chủ ngữ là phương tiện thì tiếng Anh vẫn sử dụng các động từ
nói năng như says, tells.. nhưng khi dịch sang tiếng Việt, nghĩa nói, bảo
ít được sử dụng, thay vào đó là sự chuyển dịch thành chỉ (đồng hồ chỉ
49
mười rưỡi, tấm biển chỉ...)
Ngoài ra, tính chất +/-chuyển tác của động từ tiếng Anh qui định
chặt chẽ khả năng hoạt động của khung vị ngữ đơn trị, Vì vậy các cấu
trúc đơn trị như she tells, he talked, they told... không được xem là chuẩn
tắc. Trong khi đó, tiếng Việt là một thứ tiếng 'ngữ pháp ngữ cảnh' nên số
lượng tham tố xuất hiện trên một cấu trúc mặt cụ thể dường như linh
động hơn-tùy vào ngữ cảnh, khả năng tỉnh lược được tận dụng tối đa
miễn là đảm bảo được ngữ nghĩa câu.
1.3.2. Tiếp ngôn thể (TNT): là tham thể mà lời nói hướng tới.
Ví dụ [17]: - Tell me the whole truth
(Hãy nói cho tôi toàn bộ sự thật)
- Did you repeat that to your parents?
(Bạn có nhắc lại điều đó cho cha mẹ bạn không)
-Describe to the court the scence of the accident
(Hãy mô tả cho tòa về hiện trường nơi tai nạn xảy ra)
Tiếp ngôn thể: me (tôi), your parents (cha mẹ), the court (tòa)
Tiếp ngôn thể có thể là chủ ngữ trong cú bị động; ví dụ: I, tôi trong
các phát ngôn:
- I wasn‟t told the whole truth [17]
(Tôi không được nghe toàn bộ sự thật).
- I was told many intersting stories (by my grandmother)
(Tôi được bà kể cho nghe nhiều câu chuyện thú vị)
Tiếp ngôn thể là một vai luôn tiềm tàng trong cấu trúc câu dù
không phải là tham tố bắt buộc. Vị trí của TNT thường đứng sau động từ
và trước Ngôn thể. Ví dụ [17]:
50
- He told me that he was a farmer
(Hắn nói với tôi hắn là một chủ trại)
- I told her what the doctor had said
(Tôi kể cho cô ấy biết bác sĩ đã nói gì)
Với đa số động từ tiếng Anh, tiếp ngôn thể thường được dẫn nhập
bằng một giới từ, và giới từ là bắt buộc. Ví dụ:
- I said to the old man
(Tôi nói với ông già)
-Describe to the court the scence of the accident
(Hãy mô tả cho tòa về hiện trường nơi tai nạn xảy ra) [17]
- She talks of you continually
(Cô ấy nhắc đến ông luôn) (10)
Các giới từ đi kèm động từ nói năng: of, to...
1.3.3. Ngôn thể:
Theo Halliday, ngôn thể là chức năng tương ứng với „cái được nói
ra‟. Nó có thể có một trong hai ý nghĩa sau:
a) Nó có thể là nội dung của cái được nói ra. Ví dụ: the apartment, the
mystery trong các phát ngôn sau: [16]
- Can you describe the apartment for me?
(Bạn có thể mô tả căn hộ ấy cho tôi được không?)
- The mystery‟s never been explained.
(Điều bí ẩn không bao giờ được giải thích)
Nếu QTPN là quá trình phóng chiếu ra hàng hóa-&-dịch vụ chứ
không phải là thông tin, như order (ra lệnh) hay promise (hứa) thì Ngôn
51
thể chỉ là những vật được ra lệnh hay được hứa; ví dụ: a steak (một
miếng bít tết), those earings (những chiếc khuyên tai) trong các phát
ngôn sau:
- I ordered a steak [42]
(Tôi gọi một miếng bít tết)
- Those earings were promised to another customer
(Những chiếc khuyên đeo tai ấy đã được hứa bán cho một người
khách hàng khác) (8)
b) Nó có thể là tên gọi của lời nói. Ví dụ: a question (một câu hỏi) hoặc
another word (nói một lời khác) trong các phát ngôn sau:
- Let me ask you a question.
(Hãy để tôi hỏi bạn một câu) (8)
- Now don‟t you say another word?
(Bây giờ mày không nói một lời khác đi sao?) (1)
Hai kiểu ngôn thể không tách biệt rõ ràng; giữa: (a) tell me your
experience (kể cho tôi biết về kinh nghiệm của bạn) và (b) tell me a story
(kể cho tôi nghe một câu chuyện) là một cái gì đó như tell me the truth
(nói cho tôi sự thật), nơi mà the truth có thể được giải thích hoặc như là
(a) „các sự kiện khi chúng xảy ra‟ hoặc như là (b) „một câu chuyện có
thực‟.
1.3.4. Đích ngôn thể: Là thực thể được nhắm tới bởi quá trình phát
ngôn.
Ví dụ (9): - She always praised him to her friends
(Cô ta thường ca ngợi anh ta với bạn của mình)
- Please don‟t insult my intelligence
52
(Xin đừng lăng mạ trí thông minh của tôi) (8)
Trong các ví dụ này, him và intelligence là các đích ngôn thể.
Ở đây, phát ngôn thể hành động bằng bằng lời vào một bên khác.
Các động từ tiếp nhận đích ngôn thể như praise (ca ngợi), insult (lăng
mạ)... không dễ dàng phóng chiếu một lời nói được thông báo lại; kiểu
cú này gần với cấu trúc hành thể + đích thể trong quá trình vật chất.
1.4. Cấu trúc tham tố của động từ nói năng
Như chúng ta đã biết, một hành động hữu ngôn thường bao gồm
một người nào đó hay một „nguồn tượng trưng‟ nào đó được gọi là phát
ngôn thể (PNT)-người nói ra một điều gì đó; cái được nói ra được gọi là
Ngôn thể (NT), tác động của lời nói-Đích ngôn thể (ĐNT) và đích để
phát ngôn đó hướng tới-Tiếp ngôn thể (TNT). Một quá trình phát ngôn
điển hình có thể được trình bày bằng cấu trúc dưới đây:
Phát ngôn thể +Quá trình: phát ngôn +/-tiếp ngôn thể+/- ngôn
thể +/-đích ngôn thể
Trên thực tế, một quá trình phát ngôn có thể bao gồm một hay
nhiều hơn một tham thể hàm chỉ rằng từ quan điểm chuyển tác nó có thể
là một quá trình nội hướng hoặc ngoại hướng và từ quan điểm khiến tác
nó có thể là quá trình trung tính hoặc quá trình tác động.
Theo mô hình cấu trúc của quá trình phát ngôn, các cấu trúc tham
tố có thể là:
1.4.1. Cấu trúc đầy đủ: PNT-ĐTPN-TNT (ĐNT)-NT
Đây là mô hình đầy đủ của một phát ngôn với các tham tố sắp xếp
theo trật tự như trên. Ví dụ [42]:
- My grandmother told me many intersting stories
53
(Bà kể tôi nghe nhiều câu chuyện thú vị)
- Can I ask you a question?
(Tôi có thể hỏi anh một câu được không?)
- She complained to me about his rudeness
(Cô ta than phiền với tôi về sự thô lỗ của hắn)
PNT: grandmother (bà), I (tôi), She(cô ta)
ĐTPN: told (kể), ask (hỏi), complained (than phiền)
TNT (ĐNT): me(tôi) , you(anh)
NT: intersting stories (câu chuyện thú vị), a question (câu hỏi), his
rudeness (sự thô lỗ)
1.4.2. Cấu trúc rút gọn: Có 4 kiểu cấu trúc rút gọn như sau
a) PNT-ĐTPN
Ví dụ:
I cannot tell (1) -
(Cháu cũng không biết)
I can not say more (1) -
(Tôi không biết nói gì hơn)
-He talked for two hours
(Ông ta nói suốt hai tiếng đồng hồ)
PNT: I, he
ĐTPN: talked, tell, say
b) PNT-ĐTPN-TNT (ĐNT)
Ví dụ (9):
- She always praised him to her friends
54
(Cô ta thường ca ngợi anh ta với bạn của mình)
- Please don‟t insult my intelligence
(Xin đừng lăng mạ trí thông minh của tôi)
- Tòa án kết tội tên giết người
PNT: she, tòa án
ĐTPN: praised, insult, kết tội
ĐNT (TNT): him, intelligence, tên giết người
c) PNT-ĐTPN-NT
Ví dụ (9):
- Every morning, he explained the lecture.
(Sáng nào ông ấy cũng giảng bài)
- We are discussing about that issue
(Chúng tôi đang thảo luận vấn đề)
- He asked for 2 glasses of wine
(Anh ấy gọi hai li rượu)
PNT: he (ông ấy), we (chúng tôi), he (anh ấy)
ĐTPN: explained (giảng bài), discuss (thảo luận), asked (gọi)
NT: lectures (bài), issue (vấn đề), glasses of wine (li rượu)
d) ĐTPN+/-TNT (ĐNT) +/-NT
Ví dụ:
- Tell him to be cautious, sir (1)
(Ông hãy dặn ông ta phải cẩn thận)
- Say, „what do you want, Master Reed?‟(1)
55
(Phải nói „thưa cậu Rít, cậu bảo gì ạ?‟)
- Say nothing about it! (1)
(Vậy cô chớ nói nhé)
ĐTPN: tell, say
TNT: him
Như vậy, trong quá trình phát ngôn, động từ phát ngôn luôn đóng
vai trò nòng cốt trong câu. Các cấu trúc tham tố đầy đủ hoặc rút gọn của
quá trình phát ngôn luôn cần có động từ phát ngôn.
2. Nghĩa ngôn hành của các động từ nói năng
2.1. Khái niệm nghĩa ngôn hành
Bên cạnh nghĩa biểu hiện, nghĩa ngôn hành cũng là một khía cạnh
quan trọng khi đề cập tới động từ nói năng.
Anna Wierzbicka [44] cho rằng, hành vi ngôn ngữ như là một
nhóm các thành tố. Mỗi thành tố biểu hiện một trạng thái nào đó của tư
duy. Như vậy, mỗi thành tố bắt đầu bằng một động từ ở ngôi thứ nhất
như: tôi thấy rằng, tôi cho rằng... Bà đưa ra hai loại thành tố:
thành tố trong khung: tôi nói... thành tố này được gọi là p (dictum) -
có nghĩa là cái được nói ra
thành tố ngoài khung: tôi nói điều này bởi vì... thành tố này được -
gọi là F (đích ở lời)
Theo đó, nghĩa ngôn hành của động từ nói năng được dựa trên hai
cơ sở: đích ở lời và đặc tính cú pháp của động từ nói năng của hành vi
ngôn ngữ, kết hợp với việc chủ thể hành vi ngôn ngữ ở ngôi thứ nhất.
Phát ngôn mang tính chất thông báo và xảy ra ở thì hiện tại.
Wierzbicka đã dùng ngôn ngữ ngữ nghĩa để giải nghĩa 270 động
56
từ nói năng tiếng Anh, 270 động từ này được quy về 37 nhóm như sau:
1. Nhóm ra lệnh (order) 2. Nhóm cầu xin (ask 1)
3. Nhóm hỏi (ask 2) 4. nhóm mời gọi (call)
5. Nhóm cấm (forbid) 6. nhóm (cho phép (permit)
7. Nhóm tranh cãi (argue) 8. Nhóm trách mắng (reprimand)
9. nhóm giễu (mock) 10. nhóm phê phán (blame)
11. nhóm buộc tội (acuse) 12. nhóm công kích (attack)
13. nhóm cảnh báo (warn) 14. nhóm khuyến cáo (advise)
15. nhóm cho tặng (offer) 16. nhóm khen ngợi (praise)
17. nhóm hứa hẹn (promise) 18. nhóm cám ơn (thank)
19. nhóm tha thức (forgive) 20. nhóm than phiền (complain)
21. Nhóm cảm thán (exclaim) 22. Nhóm đoán định (guess)
23. nhóm gợi ý (hint) 24. nhóm kết luận (conclude)
25. nhóm kể (tell) 26. nhóm thông tin (inform)
27. nhóm tóm tắt (sum up) 28. nhóm chấp nhận (admit)
29. nhóm xác tín (assert) 30 nhóm củng cố (Confirm)
31. nhóm nhấn mạnh (stress) 32. nhóm tuyên bố (declare)
33. nhóm đặt tên thánh (baptize) 34. nhóm ghi chú (remark)
35. nhóm trả lời (answer) 36. nhóm tranh luận (discuss)
57
37. nhóm trò chuyện (talk)
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu [4]: khi chúng ta nói năng là chúng ta
hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương
tiện là ngôn ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi người nói
(hoặc viết) Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc)
Sp2 trong ngữ cảnh C. Austin chia hành động ngôn ngữ thành 3 loại lớn:
Hành vi tạo lời-Hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Và mỗi loại hành vi
đều có những động từ biểu thị riêng biệt. Động từ chỉ hành vi ngôn ngữ
hay gọi tắt là động từ nói năng là những động từ biểu thị, gọi tên các
hành vi ngôn ngữ. Ví dụ:
- I ask you to stop working (14)
(Tôi yêu cầu anh nghỉ việc)
Yêu cầu (ask) là động từ nói năng đồng thời là dấu hiện của biểu
thức ngữ vi-đặc trưng cho hành vi ở lời yêu cầu. Phát ngôn này là một
biểu thức ngữ vi, hành vi ở lời yêu cầu là hành vi trực tiếp của chủ thể ở
ngôi thứ nhất (I).
Nghĩa ngôn hành được thể hiện trong câu ngôn hành đảm bảo hai
nội dung: nội dung mệnh đề và hiệu lực ở lời của phát ngôn. Ở ví dụ
trên, nội dung mệnh đề sẽ là anh nên nghỉ việc. Còn hiệu lực ở lời là
người nhận lời yêu cầu đã được đặt vào một nhiệm vụ mới là phải đáp
lại lời yêu cầu bằng một hành vi ở lời khác hoặc bằng việc thực hiện
hành động như lời yêu cầu.
Theo Cao Xuân Hạo [18], một hành động cũng có thể tác động
đến một đối tượng nào đó: đó là một hành động chuyển tác hay cập vật.
Loại hành động này có hai diễn tố, là chủ thể của hành động (hành thể)
và vật hay người chịu sự tác động của hành động (đối thể hay bị thể).
Ví dụ: - I ask you to close the windows.
58
(Tôi yêu cầu anh đóng cửa sổ lại)
Tôi: diễn tố 1: tác thể
yêu cầu: hành động
anh: diễn tố 2: đối thể
Như vậy, các phát ngôn trên chứa động từ nói năng, đó là câu
ngôn hành, không mang nghĩa miêu tả hay trần thuật một hành động.
Ví dụ [45]: a. I ask you to close the windows.
(Tôi yêu cầu anh đóng cửa sổ lại)
b. I want you to close the windows.
(Tôi muốn anh đóng cửa sổ lại)
c. I ordered him to go away
(Tôi đã ra lệnh cho hắn cút đi)
Trong câu ngôn hành, khi nói xong đoạn chứa động từ nói năng là
ta đã thực hiện xong hành vi ngôn ngữ và phần còn lại của phát ngôn là
nội dung của hành vi. Nói xong câu a) nghĩa là tôi đã yêu cầu xong, hành
động yêu cầu đã kết thúc. Còn ở câu b) thì không có nghĩa là đã muốn
xong. Đây mới chỉ là bày tỏ xong trạng thái tâm lý của mình để người
khác biết, hành động này chưa chấm dứt khi tôi nói xong. Câu c) chỉ là
câu trần thuật, hành động ra lệnh (ordered) được thực hiện ở thì quá
khứ. Ask trong ví dụ a) là một động từ nói năng, mang tính chất ngôn
hành; muốn trong ví dụ b) không phải là động từ nói năng; hành động
ordered (ra lệnh) không được thực hiện ở thời điểm nói nên không còn
tính chất ngôn hành.
Trong ví dụ a), người nói không kể lại hay thông báo một sự việc
gọi là ask (yêu cầu) nào đó, mà chính là đang làm cái việc yêu cầu ấy. Vì
hành động yêu cầu được thực hiện chính là bằng cách nói câu trên. Nội
59
dung của câu chỉ có mục đích thông báo, không có giá trị chân lý, nghĩa
là người ta không thể nói rằng nó đúng sự thật hay sai sự thật, như khi
nói về một câu trần thuật bình thường.
Những câu ngôn hành không thể sai được, mà chỉ có thể bất ổn
(unfelicitous), khi người nói nó ra không có tư cách để nói ra, nghĩa là
theo quy ước của xã hội, người đó không có quyền nói thế. Chẳng hạn
không phải bất kỳ ai đi dự hội nghị cũng có thể nói: “Tôi tuyên bố bế
mạc hội nghị”, không phải bất kỳ ai ngồi trong phòng xử án đều có thể
nói: “Tôi tuyên án xử tên Y.ba năm tù ngồi”... [12]
Như vậy, câu mang nghĩa ngôn hành khi phát ngôn thể phải là
ngôi thứ nhất, ở thì hiện tại. Câu ngôn hành không có giá trị đúng sai mà
chỉ gắn với mục đích thông báo.
2.2. So sánh nghĩa trần thuật và nghĩa ngôn hành của động từ nói
năng
Khi phân biệt các hành động ngôn từ, nhà triết học Anh J.L.Austin
chia các động từ thành hai loại lớn: 1. động từ trần thuật hay nhận định
(constative verbs) và 2. động từ ngôn hành (performative verbs).
Động từ trần thuật là những động từ chỉ những hành động hay quá
trình, v.v., được thực hiện không phải bằng ngôn từ. động từ nói năng là
những động từ chỉ hành động được thực hiện bằng ngôn từ như hứa, xin
lỗi, tuyên bố, cám ơn…
Những động từ này khi được dùng ở ngôi thứ nhất và ở thì hiện tại
sẽ làm hạt nhân cho những câu ngôn hành (hay phát ngôn ngôn hành).
Những câu (phát ngôn) này có một thuộc tính rất đặc biệt. Nó không
biểu hiện (trần thuật) một hành động, mà chính nó đã là hành động rồi.
Ví dụ:
60
- Tôi xin lỗi anh
Trong phát ngôn trên, người nói không kể lại hay thông báo sự
việc “xin lỗi”, mà chính là đang thực hiện hành động xin lỗi. Vì việc xin
lỗi được thực hiện chính là bằng cách nói câu trên. Nội dung của câu
không có giá trị chân lý, nghĩa là người ta không thể nói rằng nó đúng sự
thật hay sai sự thật, như khi nói về một câu trần thuật bình thường. Có
thể nói:
- Nó nói rằng nó thông cảm với tôi, nhưng thật ra nó chưa thông
cảm.
-Nó nói với tôi: “Con rất hối hận vì đã không nghe lời thầy”,
nhưng nó có hối hận chút nào đâu!
nhưng không thể nói:
- Nó nói với tôi rằng nó xin lỗi tôi, nhưng thật ra nó chưa chịu xin
lỗi
- Nó nói với với tôi: “Con xin phép thầy ra ngoài ạ!" nhưng thật
ra nó có thèm xin phép đâu! [12]
Những thuộc tính đặc biệt nói trên sẽ không có nữa nếu chủ thể của
động từ nói năng không phải là người nói hoặc thì của động từ không
phải là thì hiện tại.
Ví dụ :
- Nó hứa với anh là nó đến.
- Hôm qua tôi có hứa với nó là sẽ đến [12]
là những câu trần thuật, không phải là những câu ngôn hành.
Nhưng không phải tất cả những động từ chỉ hành động được thực
hiện bằng ngôn từ đều có thể là hạt nhân cho câu ngôn hành. Những
động từ như nịnh, tâng bốc, chửi, mắng, xui, dèm, tán, than phiền rõ
61
ràng là chỉ những hành động được thực hiện bằng ngôn từ và chỉ có thể
thực hiện bằng ngôn từ mà thôi, nhưng lại không thể dùng làm hạt nhân
cho những câu ngôn hành. Muốn mắng, nịnh... ai, không thể nói:
- Tôi xin nịnh anh (tâng bốc, tán... anh)
- Tao mắng mày ! (chửi mày...) [12]
mà thường là phải dùng câu nhận định bình thường hay một câu cảm
thán.
2.3. Vai trò trung tâm của động từ nói năng
Động từ nói năng đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình phát
ngôn, có thể có bổ ngữ hoặc không có bổ ngữ tùy theo động từ đó là nội
động từ hay ngoại động từ (xem chi tiết ở chương 3).
Theo Austin, Wierzbicka và Searle, một động từ nói năng chỉ có
tính chất ngôn hành trong những điều kiện nhất định, khá ngặt nghèo:
- Chủ ngữ của nó phải là ngôi thứ nhất (chủ ngữ ấy có thể ẩn); nếu
đó là ngôi thứ hai hay thứ ba, câu nói có được chỉ là trần thuật.
- Động từ ấy phải được dùng ở thì hiện tại của thức chỉ định trong
mệnh đề chính của câu, vì chỉ có như thế thì câu nói mới có thể đồng
thời là cái hành động được nó biểu hiện;
- Ý nghĩa ngôn hành chỉ thật minh bạch khi nào động từ hữu quan
có một bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận cái hành động ngôn hành được
biểu thị, và đối tượng đó thường phải là ngôi thứ hai.
So sánh: tôi hứa, tôi hứa với anh, tôi hứa với nó; câu thứ nhất có
được tính ngôn hành hay không là hoàn toàn tùy ở tình huống và ngữ
cảnh; câu thứ hai gần như chắc chắn là ngôn hành; câu thứ ba chỉ có thể
là trần thuật.
Mức độ ngặt nghèo của những điều kiện qui định tính ngôn hành
62
của các động từ nói năng có thể khác nhau tùy theo nghĩa của từng động
từ. Chẳng hạn, có những động từ chỉ có thể có tính ngôn hành trong một
bài văn đọc trước cử tọa, chứ không có chất đó trong một cuộc đối thoại
bình thường giữa ba người trong sinh hoạt hàng ngày, như tố cáo, loan
báo, công bố. Chẳng hạn, khi tôi nói với người có mặt duy nhất trong
phòng:
- Tôi tố cáo anh
thì tôi không hề làm hành động tố cáo, vì tố cáo là nói cho ít nhất một
người không phải người bị tố cáo biết. Còn đứng trước diễn đàn mà nói
với cử tọa rằng:
-Tôi tố cáo hành động dã man đó trước pháp luật
thì câu nói đó chính là hành động tố cáo.
Như vậy, phát ngôn chỉ có tính ngôn hành trong những điều kiện
nhất định nhờ nó phát huy được một khả năng đặc biệt của một số động
từ. Cần biết cảnh huống thực của phát ngôn hoặc dựa vào nội dung của
cuộc đối thoại do ngữ cảnh thích hợp thông báo, thông qua động từ để
phân biệt phát ngôn ngôn hành và phát ngôn bình thường.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu (Đại cương ngôn ngữ học, 2001) thì
Động từ nói năng
tiếng Việt có những loại động từ nói năng sau:
Động từ nói năng thuần khiết (duy nhất chỉ có hiệu lực ở lời) Ví dụ: hỏi
Động từ vừa chỉ cách thức, vừa chỉ hiệu quả mượn lời, vừa chỉ hiệu quả ở lời Ví dụ: hỏi vặn, vặn, gạn…
Động từ chỉ cách thức nói năng Ví dụ: làu bàu
Trong đó, chưa kể những động từ chỉ hành vi tạo lời thuần khiết
63
(ví dụ: đặt câu, nêu vấn đề), những động từ chỉ hành vi mượn lời thuần
khiết (ví dụ: nói chọc tức). Như vậy, theo tác giả, hiệu lực (đích) ở lời,
cách thức tạo lời (cách thức nói năng) và hiệu quả mượn lời trực tiếp là
ba tiêu chí lớn để miêu tả và phân loại các động từ nói năng.
Nếu xét theo khả năng có thể hay không có thể được dùng với
chức năng ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi các động từ nói năng tiếng
Việt có thể chia thành ba loại:
a. Thứ nhất, những động từ nói năng vừa có thể dùng với chức
năng ngữ vi, vừa có thể dùng với chức năng miêu tả, tức là dùng trong
chức năng thuật lại một hành vi, một sự tình nói năng nào đó. Ví dụ: các
động từ hỏi, hứa, mời, tuyên bố, tuyên án, phê bình, cảnh cáo...
-Tôi tuyên bố khai mạc hội nghị: là một biểu thức ngữ vi có động
từ ngữ vi.
- Ông chủ tịch đã tuyên bố khai mạc hội nghị rồi: là biểu thức mô
tả với động từ tuyên bố làm vị ngữ chính.
b. Thứ hai, động từ nói năng chỉ được dùng trong hiệu lực ngữ vi,
không thể dùng trong chức năng miêu tả. Đó là một số ít động từ như:
cảm tạ, đội ơn, đa tạ, phỉ thui...
Ví dụ : Không thể nói : được sự giúp đỡ tận tình, anh ta đa tạ đa
tạ thủ trưởng rối rít mà chỉ có thể nói xin đa tạ, hoặc đa tạ ngài khi cám
ơn ai đó một cách trang trọng.
c. Thứ ba, những động từ chỉ có thể dùng trong chức năng miêu tả
lại hành vi ở lời, không thể dùng trong chức năng ngữ vi. Đó là những
động từ như hỏi han, bảo ban, sai khiến, chửi, mắng, khoe...
Như vậy, xét theo khả năng dùng theo hiệu lực ngữ vi, có thể chia
64
động từ nói năng tiếng Việt như sau:
Động từ nói năng (chỉ hành vi ở lời)
Động từ miêu tả hành vi ở lời Ví dụ: khoe, chê, giễu
Động từ ngữ vi chỉ dùng trong chức năng ngữ vi Ví dụ: phỉ thui, đa tạ
Động từ vừa dùng trong chứcnăng ngữ vi vừa dùng trong chức năng miêu tả Ví dụ: hứa, hỏi
Như vậy, cách phân chia các nhóm động từ nói năng giữa tiếng Anh
và tiếng Việt có nhiều nét tương đồng. Tuy nhiên, về mặt ngữ pháp và
cấu tạo của động từ này lại không giống nhau do đặc điểm ngôn ngữ
khác nhau giữa hai thứ tiếng Anh và tiếng Việt. Phần này sẽ được làm rõ
ở chương 3 khi luận văn đề cập tới một số đặc điểm ngữ pháp của nhóm
động từ nói năng trong tiếng Anh (bước đầu so sánh với nhóm động từ
65
tương ứng trong tiếng Việt).
CHƯƠNG III
ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NÓI NĂNG
TRONG TIẾNG ANH (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT)
Đặc điểm ngữ pháp của nhóm động từ chỉ hành động nói năng trong
hai ngôn ngữ Anh và Việt sẽ có những đặc điểm giống và khác nhau. Nếu
chỉ dựa vào ý nghĩa hoặc hình thức để so sánh, đối chiếu nhóm động từ này
trong hai ngôn ngữ thì kết quả sẽ khác nhau xa. Cho nên, để xác định được
đặc điểm giống nhau và nét khác biệt giữa động từ chỉ hành động nói năng
trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng ta phải đồng thời dựa cả vào hình thức
lẫn ý nghĩa. Xuất phát từ quan điểm này, chúng tôi cho rằng tiêu chí để đối
chiếu, phân biệt động từ chỉ hành động nói năng trong tiếng Anh và tiếng
Việt là tiêu chí ngữ pháp- ý nghĩa. Đây cũng chính là sự thống nhất biện
chứng giữa hình thức và ý nghĩa trong ngôn ngữ. Như vậy, khi nghiên cứu
về chức năng ngữ pháp của động từ chỉ hành động nói năng trong tiếng Anh
và tiếng Việt, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm khác biệt và tương
đồng dưới đây.
1. Đặc điểm về chức vụ cú pháp của các động từ nói năng
1.1. Vị ngữ-chức vụ cú pháp điển hình của động từ nói năng
Động từ có nhiều chức năng cú pháp khác nhau: vị ngữ, trạng ngữ, bổ
ngữ, định ngữ… nhưng điển hình nhất là vai trò vị ngữ. Đặc điểm này tiếng
Anh và tiếng Việt đều giống nhau.
Ví dụ:
- We talked on the phone for over an hour.
65
(Chúng tôi nói chuyện qua điện thoại hơn một tiếng) (4)
- John and I have been talking about our families
(John và tôi đã nói chuyện về gia đình chúng tôi) (4)
Động từ talked và talking đóng vai trò vị ngữ, bổ sung ý nghĩa cho
chủ ngữ we và John and I; thể hiện hành động nói chuyện. Tương tự, trong
câu tiếng Việt, động từ nói chuyện đứng sau chủ ngữ chúng tôi hoặc John
và tôi và bổ sung ý nghĩa cho các chủ ngữ này. Ví dụ:
- You say you love me, Janet (1)
(Jên, em nói em yêu tôi)
- I have told her you are here
(Tôi đã thưa với bà là cô đến rồi) (1)
Say và tell là hai động từ, đóng vai trò vị ngữ trong câu, thể hiện hành
động nói năng của chủ ngữ You và I. Trong câu tiếng Việt, nói và thưa đóng
vai trò vị ngữ, bổ sung ý nghĩa cho chủ ngữ em và tôi.
- We talked for hours about the meaning of life. (9)
(Chúng tôi nói chuyện với nhau hàng tiếng đồng hồ về ý nghĩa cuộc
đời)
Với vai trò các thành phần khác: trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…
Ví dụ:
- To speak truth, sir, I don’t understand you at all. (1)
(Thưa ông, thú thực rằng tôi không hiểu ông một chút nào)
Động từ speak đóng vai trò trạng ngữ chỉ mục đích, làm rõ thêm ý
nghĩa của câu. Tương tự, trong tiếng Việt, ta có động từ tương ứng là thưa,
66
làm thành phần phụ, đứng ở đầu câu, bổ nghĩa cho câu. Ví dụ:
- I heard her say (1)
(Tôi nghe thấy chị nói)
- ....but I had no time to listen to what they said (1)
(..., nhưng tôi chẳng có thì giờ đâu nghe chuyện họ)
- I mean what I say. (1)
(Tôi hiểu lời tôi nói)
Động từ say, said kết hợp với từ (cụm từ) để làm các thành phần phụ
(bổ ngữ, định ngữ) trong câu và bổ nghĩa cho câu.
- Without speaking, she stood up and went out (9)
(Chẳng nói chẳng rằng, bà ta đứng dậy, bỏ ra ngoài)
- Having said that I agree with your other point (11)
(Tuy nói vậy, tôi vẫn đồng ý với điểm kia của anh)
Các động từ speaking, said đóng vai trò trạng ngữ, bổ sung ý nghĩa
cho câu. Tương tự, ở các câu tiếng Việt, động từ nói đóng vai trò thành
phần phụ trong câu, bổ sung ý nghĩa cho câu.
1.2. Các kiểu cấu trúc câu có vị ngữ là động từ nói năng
Động từ nói năng là một tiểu loại động từ nên sẽ có những đặc điểm
của động từ nói chung và có những đặc điểm riêng phản ảnh đặc trưng nói
năng. Xét về trật tự từ thì tiếng Anh và tiếng Việt đều có chung loại hình
đối với thành phần câu, đó là loại hình:
67
Subject-Verb-Object 1- Object 2 (CN-VN-TP khác)
Đây là loại hình phổ biến thứ nhì, chiếm từ 32,4% đến 41, 8% trong
toàn bộ các ngôn ngữ trên thế giới (chỉ sau loại hình SOV, chiếm 41% đến
51,8%). Ví dụ:
- He speaks Italian (14)
(Anh ấy nói tiếng Ý)
- I will speak to Miss Temple and the teachers. (1)
(Tôi sẽ nói với cô Tempơ và các cô giáo)
Động từ speak đứng sau chủ ngữ, được chia phù hợp theo chủ ngữ, ở
thì hiện tại và tương lai: he - speaks; I -(will) speak.
Tương tự, trong câu tiếng Việt, động từ nói cũng đứng sau chủ ngữ
anh ấy, tôi và đứng trước các tân ngữ tiếng Ý, cô Tempơ và các cô gái.
- I tell you this plainly.(1)
(Tôi nói thẳng điều này cho cô biết.)
Tell: vị ngữ, đứng trước tân ngữ you, đứng sau chủ ngữ - I (ở ngôi thứ
nhất, số ít), ở thì hiện tại đơn.
Tương tự, trong câu tiếng Việt, nói: vị ngữ, đứng sau chủ ngữ tôi và
đứng trước tân ngữ điều này cho cô biết.
- My father said nothing about her money.(1)
(Cha tôi không nói năng gì về của hồi môn của cô ta)
Said (động từ say chia ở thì quá khứ đơn): vị ngữ, đứng sau chủ ngữ
my father và đứng trước tân ngữ her money.
Tương ứng, trong tiếng Việt, động từ nói năng: vị ngữ, đứng sau chủ
68
ngữ cha tôi và đứng trước tân ngữ của hồi môn của cô ta.
1.2.1. Cấu trúc nòng cốt
Trong tiếng Anh, vị trí các thành phần câu đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Vị trí động từ luôn cố định, thường đứng sau chủ ngữ hoặc đứng
trước tân ngữ, hoặc đứng đầu câu. Ngoài hai thành phần chính chủ ngữ và
vị ngữ, câu còn có các thành phần phụ khác như: tân ngữ, bổ ngữ, hoặc
trạng ngữ. Từng thành phần sẽ đóng vai trò khác nhau trong câu, kết hợp
các thành phần này, chúng ta sẽ có các mẫu câu cơ bản khác nhau.
Mô hình cấu trúc nòng cốt:
Subject Verb Object
John speaks French
(John nói tiếng Pháp)
They tells the news
(Họ thông báo tin tức)
He are telling the truth
(Ông ấy đang nói sự thật)
He talks about his friends
(Nó kể chuyện về các bạn của nó)
(4)
Động từ cần phù hợp với chủ ngữ khi làm vị ngữ trong câu, căn cứ vào
thời gian mà động từ được chia ở các thì khác nhau: hiện tại, tương lai và
quá khứ.
Động từ gồm có các dạng sau: dạng cơ bản (talk, tell, speak, say), dạng
thêm –s (talks, tells, says, speaks), dạng quá khứ (talked, told, spoke, said),
dạng V-ing (talking, speaking, telling, saying) và quá khứ phân từ (talked,
69
told, said, spoken).
Sự phù hợp giữa động từ và chủ ngữ được thể hiện qua phạm trù ngôi.
Quá khứ Hiện tại Tương lai
will/shall
talked/talked spoke/spoken said/said told/told say tell talk speak
Thì Ngôi I You We They He She It
talk speak say tell talks speaks says tells
Ví dụ:
- She said that she would be late. (14)
(Cô ấy nói rằng cô ấy sẽ đến muộn).
Chủ ngữ: She (ngôi thứ ba, số ít) -said.
- She speaks with a strange accent. (14)
(Bà ấy nói giọng rất lạ)
Chủ ngữ: she (ngôi thứ ba số ít) - speaks
- I will say the very thought of you makes me sick. (1)
(Tôi sẽ trả lời rằng chỉ nghĩ đến bà thôi, tôi cũng đủ phát ốm lên rồi)
Chủ ngữ: I (ngôi thứ nhất, số ít) - will say.
- Trong tiếng Việt, động từ nói chung và động từ nói năng nói riêng
không chia theo chủ ngữ, thay vào đó, động từ có thể kết hợp với các phó từ
đã, đang, sẽ… để chỉ các thì quá khứ, hiện tại và tương lai. Ví dụ:
- Chúng tôi đã bàn luận về vấn đề này.
70
- Chúng tôi đang bàn luận về vấn đề này.
- Chúng tôi sẽ bàn luận về vấn đề này.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp, các phó từ “đang, sẽ” vẫn có thể kết
hợp với các động từ nói năng ở thì quá khứ. Ví dụ:
- Hôm qua, khi chúng tôi đang chuyện trò thì anh ấy gọi điện đến rủ đi
chơi.
- Trong buổi sinh hoạt đoàn tuần trước, chúng tôi đã đặt ra khẩu
hiệu: “Sẽ nói không với ma tuý”.
1.2.2. Cấu trúc mở rộng
Trong tiếng Anh, ngoài cấu trúc nòng cốt, cấu trúc câu còn có những
kiểu câu mở rộng sau đây:
a) Subject Verb Complement
They are talking rubbish
(Họ đang nói chuyện linh tinh)
We talk merrily
(Chúng tôi nói chuyện vui vẻ)
Our teacher speaks slowly
(Cô giáo nói chậm) (9)
Với cấu trúc câu mở rộng này, tiếng Anh và tiếng Việt đều có sự
tương đồng. Tuy nhiên, cùng là nhóm động từ nói năng nhưng khi chuyển
nghĩa sang tiếng Việt, tuỳ theo ngữ cảnh mà người dịch sẽ chuyển dịch
động từ nói năng sang: nói, nói chuyện...
b) Subject Verb Adverbial
- That speech was spoken on the radio
71
(Bài phát đã được phát đi trên đài truyền
biểu ấy thanh)
- That matter was said yesterday
(Vấn đề ấy được bàn đến ngày hôm qua)
(9)
Nếu xét riêng chức năng chủ ngữ ngữ pháp trong câu, đây là trường
hợp chuyển vị một tham tố khác đứng đầu câu làm chủ ngữ thay vì sử dụng
Phát ngôn thể, ở hai ví dụ trên, đó là tham tố đích ngôn thể trong câu chủ
động (that speech, that matter).
Cấu trúc này cũng có sự tương ứng khi chuyển dịch sang tiếng Việt
c) Subject Verb Object Object
have spoken to the manager I about it
Mary said her secrete to me
He told the news to everyone
d) Subject Verb Object Complement
She speaks about him with great affection
They talked about their wedding happily
e) Subject Verb Object Adverbial
My mother told that story in two days
Our teacher talked about his in the workshop
teaching experience (9)
Ở các cấu trúc mở rộng c, d, e thì tiếng Anh và tiếng Việt đều có. Tuy
vậy, khi tham tố Tiếp ngôn thể đứng sau Ngôn thể, trong tiếng Anh, nó luôn
đòi hỏi một giới từ.
Ví dụ: - Mary said her secrete to me [16]
(Mary kể cho tôi về bí mật của cô ấy)
72
- He told the news to everyone
(Cô ta thông báo tin tới mọi người)
Nhiều động từ nói năng bắt buộc dùng dạng thức –to trước tân ngữ
gián tiếp (cấu trúc câu c), không thể thay thế giới từ khác ngoài to. Có thể
kể ra các động từ nói năng sau:
address explain relate
announce express relay
ascribe impart repeat atrribute
introduce report commend
leak reveal confess
mention say credit
dedicate propose speak
describe prove suggest dictate
recommend unburden disclose
refer divulge
Ví dụ:
- I said to him (14)
(Tôi nói với nó)
- The teacher explained the lesson to us (14)
(Cô giáo giải thích bài học cho chúng tôi)
- And I say to all people in the village (9)
73
(Và tôi nói với mọi người trong làng rằng)
- He told his story to the Sunday Times (11)
(Ông ta kể lại câu chuyện với tờ S.T)
- He repeated his claim to the staff (11)
(Ông ta lặp lại lời tuyên bố với hội đồng)
Tiếng Việt cũng sử dụng giới từ với/cho/đến để đánh dấu Tiếp ngôn
thể.
Ngoài ra, trong tiếng Việt, tham tố tiếp ngôn thể có thể được trình bày
theo cấu trúc mục đích, đó là:
- Anh ấy đã nói (kể, thuật lại, miêu tả) cho tôi biết (nghe, hiểu, hình
dung)
Hiện tượng này hầu như không xuất hiện trong tiếng Anh.
1.2.3. Cấu trúc rút gọn
Trong tiếng Anh, có thể có các cấu trúc rút gọn sau:
a) Subject Verb
- I am speaking Ví dụ:
(Tôi đang nói)
- Students are talking
(Sinh viên đang nói chuyện)
- They said
(Chúng nó nói)
b) Verb Object
Ví dụ: - Let’s talk about her marriage!
(Hãy kể về đám cưới của nó!)
74
- Please speak in English!
(Yêu cầu nói bằng tiếng Anh!)
c) Verb
-Explain, please!
(Hãy giải thích!)
- Repeat, please!
(Hãy nhắc lại)
(24)
Tính chất [+/- chuyển tác] (intransitive/transitive) của động từ sẽ quy
định chặt chẽ khả năng hoạt động của khung vị ngữ. Các ví dụ ở trường hợp
a) có thể có vì đây là những động từ nội động, đối với động từ nói năng
ngoại động, bắt buộc phải có tân ngữ đi kèm (b). Trong tiếng Anh, các kiểu
câu rút gọn bao giờ cũng có mặt động từ, động từ đóng vai trò chính yếu,
không thể lược bỏ được.
Trong tiếng Việt, trật từ các thành phần câu không cố định như trong
tiếng Anh.
Trật tự từ là phương thức cơ bản để biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các
từ với nhau, mỗi vị trí đều có ý nghĩa riêng, hình thái từ không thay đổi.
Ví dụ:
- Tôi kể chuyện. (Tôi: chủ ngữ)
- Anh của tôi kể chuyện rất hay. (Tôi: ý nghĩa sở hữu)
- Thầy giáo kể cho tôi nghe về cuộc sống của thầy. (Tôi: bổ ngữ tiếp
nhận)
Vị trí các yếu tố của câu tiếng Việt thường có khuôn trung hoà kiểu:
75
Trạng ngữ-chủ ngữ-vị ngữ-bổ ngữ
Mỗi thành phần câu đều chiếm một vị trí nhất định trong câu. Dựa vào
bốn quan hệ cơ bản: quan hệ vị tính (đối tượng và đặc trưng của nó), quan
hệ đối tượng (đối tượng phụ thuộc và đối tượng hay là quá trình chủ đạo),
quan hệ thuyết định (đặc trưng của đối tượng và chính đối tượng mang đặc
trưng đó), quan hệ trạng huống (tình trạng, tình thế, điều kiện, quá trình,
động cơ mà đối tượng vận động) để xác định tính chất của mỗi thành phần
câu và ý nghĩa ngữ pháp của chúng. Chẳng hạn: chủ ngữ và vị ngữ gắn với
quan hệ vị tính; bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ gắn với các quan hệ khác hoặc
với cả bốn quan hệ.
Như vậy, so sánh với tiếng Anh, tiếng Việt là một thứ tiếng “ngữ pháp
ngữ cảnh” (contextual grammar), số lượng tham tố xuất hiện trên một cấu
trúc bề mặt cụ thể có vẻ linh động hơn-tùy vào sự cho phép của ngữ cảnh.
Nói cách khác, khả năng tỉnh lược được vận dụng tối đa miễn là đảm bảo
ngữ nghĩa câu và tùy theo mục đích phát ngôn.
2. Đặc điểm về khả năng kết hợp của các động từ nói năng
Trong tiếng Anh, những động từ khác nhau có thể có nhiều loại từ và
cấu trúc khác theo sau. Không có quy tắc chung cho tất cả các động từ,
chúng ta cần căn cứ vào nghĩa hoặc những quy luật về văn phạm nhưng
không ảnh hưởng đến nghĩa để xác định khả năng kết hợp của chúng. Sự
khác nhau này do đặc điểm của động từ quy định, động từ đó có thể là động
từ nội động (intransitive verbs) hoặc động từ ngoại động.
Động từ nội động: không bắt buộc có tân ngữ, sau nó có thể là giới
ngữ
76
Động từ ngoại động: bắt buộc có tân ngữ
Ví dụ: sau các động từ say và tell thường cần danh từ và người ta
thường nói say/tell somebody something nhưng không thể explain
somebody something
2.1 . Khả năng kết hợp với chủ ngữ
2.1.1 Chủ ngữ là danh từ/danh ngữ
Như chương 2 đã trình bày, động từ nói năng là động từ +động và
+chủ ý, do vậy, trong khung ngữ nghĩa của nó, tác thể đóng vai trò gần như
tuyệt đối so với các tham tố khác. Trường hợp này, trong tiếng Anh và tiếng
Việt, khi danh ngữ đứng làm chủ ngữ cho động từ nói năng thì danh ngữ có
thể là Tác thể hoặc Phương tiện (chủ ngữ không phải là người). Ví dụ:
- The notice tells you to keep quiet [16]
(Biển báo bảo bạn giữ im lặng)
- My watch says it’s half past ten [16]
(Đồng hồ của tôi cho biết bây giờ là mười giờ rưỡi)
- I will say the very thought of you makes me sick) (1)
(Tôi sẽ trả lời rằng chỉ nghĩ đến bà thôi, tôi cũng đủ phát ốm
lên rồi)
The notice, My watch, I đều đóng vai trò chủ ngữ trong các phát ngôn
trên. Ở đây, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa quá trình nói năng và
các quá trình hành động khác mà ở đó khi Phương tiện làm chủ ngữ thì vẫn
không thay đổi ngữ nghĩa của chúng.
Trong tiếng Anh và tiếng Việt, hiện tượng chủ ngữ không phải là
người là một đặc điểm gần như tương đồng hoàn toàn, nhất là trên các văn
77
bản dịch. Ví dụ: the story tells of (câu chuyện kể về), the article says(bài
báo nói), reports say (các báo cáo cho biết), Vietnamese radio says (đài
phát thanh Việt Nam cho rằng).
Danh từ khi làm chủ ngữ có thể là danh từ chung hoặc danh từ riêng,
danh từ chỉ người, vật; điều này tương đồng trong cả Tiếng Anh và tiếng
Việt. Ví dụ:
- Alice said a bad word this morning. (4)
(Sáng nay, Alice đã nói bậy)
- The picture reminds us about the past (11)
(Bức tranh gợi chúng tôi nhớ về quá khứ)
- The director talked about the content of the meeting (4)
(Giám đốc nói về nội dung cuộc họp)
Chủ ngữ: Alice, the picture (bức tranh), the director (giám đốc)
Các danh ngữ mơ hồ như they, people, others cũng là chủ ngữ của
động từ nói năng. Trường hợp này có sự chia sẻ trong Tiếng Việt. Ví dụ:
- They tell me to go to school early. (14)
(Họ bảo tôi đến trường sớm)
- Others reported that he died of drugs. (11)
(Người ta đồn là cô ấy chết vì ma túy)
Ngoài ra, trong tiếng Anh, cấu trúc bị động sử dụng tham tố Tiếp ngôn
thể làm chủ ngữ và chủ ngữ giả (dummy subject) được sử dụng phổ biến,
tiếng Việt ít có hiện tượng tương ứng này, nhất là trong các động từ nói
năng. Ví dụ :
78
- It is said that she sees ghost (4)
(Người ta bảo rằng cô ấy gặp ma)
- It was rumoured that they were divorced (4)
(Người ta đồn rằng họ đã li hôn)
- He is reported to be addicted to drugs [24]
(Người ta đồn anh ta nghiện ma túy)
- Ten pupils are said to have been seriously hurt (11)
(Người ta nói mười học sinh bị thương nặng)
Bốn phát ngôn trên đều là câu bị động (passive voice). It is said that, It
was rumoured that là chủ ngữ giả; chủ ngữ he, tenpupils chính là tham tố
Đích ngôn thể trong khung ngữ nghĩa của động từ, đó là đối tượng mà hành
động nói năng muốn phản ánh.
2.1.2 Chủ ngữ là đại từ
Trong tiếng Anh và tiếng Việt, đại từ đều có khả năng kết hợp với
động từ nói năng.
Về hình thức, đại từ nhân xưng chủ ngữ và đại từ nhân xưng tân ngữ
trong tiếng Việt không thay đổi, nhưng trong tiếng Anh là khác nhau.
Trong tiếng Anh, ta có các đại từ nhân xưng chủ ngữ sau: I, You, We,
They, He, She, It
Ví dụ:
- And I say to all people in the village (9)
(Và tôi nói với mọi người trong làng rằng)
- You speak my language as well as Mr. Rochester does (1)
79
(Cô nói tiếng của em không kém gì ông Rôchextơ.)
- They tell me to go to school early.
(Họ bảo tôi đến trường sớm)
Các đại từ nhân xưng chủ ngữ: I (tôi), you(cô), they (họ) đóng vai trò
chủ ngữ trong các phát ngôn trên
Austin [1] đã phát hiện rằng có những phát ngôn mà khi ta đưa ra thì
cũng đồng thời thực hiện cái hành động được gọi tên bằng chính động từ
được sử dụng trong phát ngôn đó. động từ có khả năng đặc biệt ấy gọi là
động từ ngôn hành. Để tạo câu ngôn hành, động từ phải được dùng ở thì
hiện tại và chủ thể phát ngôn phải ở ngôi thứ nhất. Ví dụ:
- Tôi cảm ơn anh
- Tôi hứa mai tôi đến
Trong tiếng Anh, tác thể trong phát ngôn ngôn hành bao giờ cũng là
đại từ ngôi thứ nhất I. Trong tiếng Việt, nó có thể là tôi, hoặc một danh từ
quan hệ được dùng làm đại từ nhân xưng như con, em , cháu, anh, chị (hoặc
một tên riêng hay một danh ngữ bất kỳ biểu thị nhân vật ngôi thứ nhất). Tuy
nhiên, tùy theo ngữ cảnh cụ thể, có thể tỉnh lược chủ thể phát ngôn, ví dụ :
Cảm ơn, Đa tạ, Xin phép... Như vậy, với phát ngôn ngôn hành, tác thể
người nói đồng thời là phát ngôn thể dù tiềm ẩn hay hiển thị.
2.2. Khả năng kết hợp với tân ngữ
Vị trí tân ngữ thường đứng sau động từ, cũng có thể đứng cuối câu.
Trong một phát ngôn, tân ngữ chính là đối tượng mà hoạt động nhắm tới.
Về khả năng kết hợp với tân ngữ, cả tiếng Anh và Tiếng Việt đều có chung
đặc điểm cú pháp này.
Trong tiếng Anh, các đại từ nhân xưng tân ngữ là: me, you, us, them,
80
him, her, it.
2.2.1. Tân ngữ là danh từ/danh ngữ
Khi tân ngữ là danh từ/danh ngữ thì nó có thể là danh từ riêng, danh từ
chung, danh từ chỉ người hoặc đại từ nhân xưng tân ngữ (đối với tiếng
Anh).
Ví dụ :
- You speak my language as well as Mr. Rochester does (1)
(Cô nói tiếng của em không kém gì ông Rôchextơ)
- They tell me to go to school early.
(Họ bảo tôi đến trường sớm)
- Every student has to present his/her opinions about the meeting
(Từng sinh viên phải trình bày ý kiến của mình về cuộc họp) [24]
My language, me and opinions là tân ngữ đứng sau động từ nói năng để
bổ sung, làm rõ nghĩa của các phát ngôn.
2.2.2. Tân ngữ là động từ
Trường hợp này chúng ta thường gặp đối với các động từ nói năng-cầu
khiến. ở tiếng Anh và Tiếng Việt đều có chung hiện tượng này, với cấu trúc
tham tố chung như sau :
Subject + Verb +DO (direct object) + IO (indirect object).
Đó là các động từ: suggest (đề nghị), order (ra lệnh), request (yêu
cầu), propose (đề nghị), offer (đề nghị), pray (cầu xin), command (ra lệnh),
recommend (khuyên, kiến nghị), encourage (khuyến khích), implore (cầu
xin)...Ví dụ :
81
- She told him to go.
(Cô ấy bảo nó đi)
-He told me to telephone the agency.
(Ông ấy bảo tôi gọi điện cho tổ chức đó)
- You asked me to go away.
(Ông yêu cầu tôi ra ngoài ngay) [24]
Ở các phát ngôn trên, động từ nói năng tạo thành cấu trúc cầu khiến:
đối thể của hành động dứng ngay sau động từ nói năng, xét về mặt lôgic,
đối thể này lại là chủ thể của hành động cầu khiến. Trong tiếng Việt, động
từ không biến đổi hình thái nên xác định chủ vị hay cụm chủ vị là không rõ
ràng. Có người cho rằng tôi gọi điện trong ông ấy bảo tôi gọi điện là một
cụm chủ vị. Hiện tượng này trong tiếng Anh được phân biệt rất rõ ràng:
hành động được cầu khiến ở dạng không hạn định (infinitive) được bắt đầu
bằng to, do đó sẽ là bổ ngữ không trực tiếp của câu.
Ngoài ra, theo Givon, có những động từ nói năng được sử dụng để trần
thuật một hành động cầu khiến (manipulative verbs), đòi hỏi bổ ngữ là một
tham tố có ý thức (conscious participant). Tham tố này đóng vai trò kép: là
bổ ngữ của động từ chính, đồng thời lại là chủ ngữ-Tác thể trong câu phụ
(complement sentence).
Ví dụ từ sai, trong phát ngôn Mẹ sai tôi đi chợ.
Như vậy, hiện tượng này dẫn tới việc xóa vai chủ ngữ-Tác thể của nó.
Cấu trúc của phát ngôn trên chỉ còn lại: [A] sai/bảo [B] đi. Có thể hiểu một
cách đơn giản: [A] sai/bảo [B], trong đó B là bổ ngữ của sai/bảo; trong
sai/bảo [B] đi [B], [B] lại là chủ ngữ của đi, [B] thứ hai bị tỉnh lược. Với
cách phân tích này, về ngữ nghĩa không còn sự phân biệt giữa cấu trúc câu
82
cầu khiến và cấu trúc nói năng-thông tin nữa.
2.2.3. Tân ngữ là giới ngữ
Đặc trưng của động từ tiếng Anh: khả năng kết hợp với giới từ để tạo
thành cụm động từ.
Giới từ trong tiếng Anh là một vấn đề rất phức tạp. Khi động từ đi kèm
giới từ, sẽ tạo thành các cụm động từ, động từ chính sẽ có các nét nghĩa và
nét nghĩa thành ngữ và các nét nghĩa này phụ thuộc vào giới từ đi kèm.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ xem xét một vài giới từ bắt buộc
đi cùng động từ mà không làm thay đổi nét nghĩa của chúng.
Nói chung, đa số động từ tiếng Anh, tân ngữ đóng vai trò người nghe
thường được dẫn nhập qua một giới từ, sự có mặt của giới từ là bắt buộc.
Ví dụ:
- I said to him (Tôi nói với nó)
- Does she speak about him with great affection?(1)
(Bà ấy nói về nó với tình cảm dạt dào à?)
- They talked to me about that sad story. [24]
(Họ kể cho tôi nghe về câu chuyện buồn đó)
Các giới từ thường gặp là to (đi với say, speak, whisper, talk…), at (đi
với shout, yell…), with (đi với speak, talk…)
Giới từ to thường được dùng để đánh dấu Người nghe: send to me (gửi
đến/cho tôi), trong các câu hành động vật chất thông thường.
Giới từ with cũng đánh dấu Người nghe, nhưng thường hiểu là có sự
83
trao đổi cùng nhau.
Tiếng Việt cũng sử dụng giới từ với để nhận biết Người nghe. Như
vậy, có thể nói bản chất của quá trình nói năng là một quá trình có sự tương
hỗ (reciprocal), từ đó có sự tương đồng giữa tiếng Anh-Việt.
Đặc điểm này ở tiếng Anh thể hiện rõ nét hơn, đó là trường hợp một số
động từ vừa là nội động từ vừa là ngoại động từ, tham tố tiếp ngôn thể có
thể không cần thiết, tuy vẫn tiềm tàng về ngữ nghĩa: Ví dụ:
- Could I talk to you about the football match for a few minutes? (14)
(Anh có thể nói chuyện với em một lúc về trận bóng đá được không?)
- We talked for almost an hour (14)
(Chúng tôi chuyện trò cả tiếng đồng hồ)
Ở tiếng Việt, cần phải hiển ngôn với em/ với nhau hoặc sử dụng động
từ thể hiện rõ qú trình tương hỗ này: trò chuyện, tâm sự, tâm tình…tùy theo
hoàn cảnh đối thoại.
2.3. Khả năng kết hợp với phó từ
Trong tiếng Anh, tất cả động từ nói chung và động từ nói năng nói
riêng đều có thể kết hợp với phó từ (adverb) để bổ sung ý nghĩa, tính chất,
đặc điểm của động từ.
Các loại phó từ:
- Phó từ chỉ cách thức (adverbs of manner): tồi tệ (badly), to (loudly),
cẩn then (carefully), tốt (well)…
- Phó từ chỉ nơi chốn (adverbs of manner): ở nước ngoài (abroad), ở
phía trước (ahead), ở đâu, mọi nơi, không ở đâu (anywhere, everywhere,
84
and nowhere), trên gác, dưới gác (upstairs, downstairs)…
- Phó từ chỉ thời gian (adverbs of time): ngày mai (tomorrow), hôm
nay (today), thứ hai tuần trước (last Monday), vào tháng Bảy (in July),
trước đây (formerly), ngay lập tức (immediately)…
- Phó từ chỉ tần số (adverbs of frequency): một lần, hai lần (once,
twice), hàng ngày, hàng tháng (every day, every month), thỉnh thoảng, luôn
luôn (sometimes, always)…
Vị trí của phó từ thường đứng sau động từ, hoặc đứng sau phát ngôn
thể, hoặc đứng đầu câu… phụ thuộc vào từng loại phó từ.
Ví dụ [24]: - Some day, I’ll tell you
(Một ngày nào đó, tôi sẽ nói cho bạn biết.)
- He talked about it bitterly
(Anh ấy nghẹn ngào kể về nó)
- We are talking $500 for three hours’ work
(Suốt 3 giờ làm việc, chúng tôi nói chuyện về $500)
- Once a month, we speak about films in French
(Hàng tháng, chúng tôi đều thảo luận về các bộ fim bằng tiếng Pháp)
- They seldom say him about his weaknesses
(Họ rất ít nói với nó về các điểm yếu của nó)
- We talked for hours about the meaning of life.
(Chúng tôi nói chuyện với nhau hàng tiếng đồng hồ về ý nghĩa cuộc
đời)
- She never speaks of her husband at all.
85
(Chị ấy không bao giờ nói gì về chồng mình)
- You are talking complete nonsense, as usual.
- Phó từ chỉ cấp độ (adverbs of degree): rất nhiều (very much), hoàn
toàn, gần như, hầu hết (quite, nearly, almost), tương đối, đủ (fairly,
enough)…
Ví dụ [42]: - He speaks English very well
(Nó nói tiếng Anh rất giỏi)
- The story is rather short but I hardly tell it fluently.
(Câu chuyện tương đối ngắn nhưng tôi khó có thể kể mạch lạc được)
- He quite spoke to the class about the dangers of smoking.
(Ông ta hoàn toàn nói chuyện với lớp học về những nguy hiểm của
việc hút thuốc lá)
- Phó từ nhấn mạnh (intensifiers): rất (very), khá (pretty), hoàn toàn,
rất (absolutely, extremely)…
Ví dụ: [42]- They absolutely speak in English.
(Họ hoàn toàn nói bằng tiếng Anh)
- She seriously talks about his weakness.
(Cô ấy nói gay gắt về khuyết điểm của nó)
- Phó từ giao điểm (focus adverbs): them chí, vừa mới, chỉ, thực sự,
giỏi (even, just, only, really, well)…
Ví dụ: [42]- We only talked for hours about the meaning of life
(Hàng tiếng đồng hồ, chúng tôi chỉ nói chuyện với nhau về ý nghĩa
cuộc đời)
86
- The book also says where she was born
(Cuốn sách cũng nói gì về nơi sinh của cô ấy)
- Phó từ chỉ quan điểm: thẳng thắn, nhìn chung, rõ ràng, tóm lại
(frankly, generally, clearly, in short)…
Ví dụ: [42]- Frankly, he doesn’t talk about the main content of the issue
(Nói thẳng ra, anh ấy không nói về nội dung chính của vấn đề)
- Generally speaking, she is pretty nice.
(Nói chung, nàng khá xinh)
- In short, the book doesn’t say where she was born
(Nói tóm lại, cuốn sách không nói gì về nơi sinh của cô ấy)
So sánh với Tiếng Việt:
1. Các thành tố phụ đứng sau động từ gồm:
Các từ thực:
- Bổ ngữ (trực tiếp hoặc gián tiếp). Ví dụ:
- Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào Việt Nam.
(Nguyễn Thị Ngận- truyện ngắn)
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin là bổ ngữ trực tiếp;
Việt Nam là bổ ngữ gián tiếp cho động từ Truyền bá
- Thưa cụ, con lên bẩm với cụ (rằng) nhà con ốm không đi được ạ (3)
Cụ là bổ ngữ trực tiếp, nhà con là bổ ngữ gián tiếp của động từ bẩm.
- Trạng ngữ của từ (hoặc bổ ngữ hoàn cảnh của từ). Ví dụ:
- Chị Quang đưa mắt nhìn tôi mỉm cười rồi nói với chồng bằng một giọng
87
chế giễu: - Rõ tội nghiệp!... (6)
Bằng một giọng chế giễu là trạng ngữ của động từ Nói
Các phụ từ khác như:
- Lớp từ chỉ ý kết thúc: xong, rồi, đã…Ví dụ:
- Thầy bảo anh bình văn xong rồi, phải ở lại đây, để thầy còn dặn gì ấy.
(10)
- Việc đánh sóc đĩa đêm qua cố nhiên không giấu nổi ngài, nên tôi cứ trình,
nhưng trình xong, tôi xin hộ các thầy, nói rằng là lần đầu, xin ngài tha tội
cho. (3)
- Lớp từ chỉ ý mệnh lệnh: đi, nào, thôi… Ví dụ: - bàn bạc đi/ nào/
thôi…
- Lớp từ chỉ kết quả: được, mất, phải…
- Lớp từ chỉ ý tự lực, ý “cho chính mình”: lấy…
- Lớp từ chỉ ý cùng chung: với, cùng…
Ví dụ: - Chị Quang đưa mắt nhìn tôi mỉm cười rồi nói với chồng bằng một
giọng chế giễu: - Rõ tội nghiệp!... (6)
- Tao (Quan phủ) đã bẩm chuyện mày với ngài (Quan sứ), ngài có
hẹn sẽ tự thưởng cho mày (thám tử.) (3)
- Lớp từ chỉ ý qua lại (tương hỗ): nhau
- Lớp từ chỉ hướng hư hóa: ra, vào, tới, lui, qua lại…
- Lớp từ chỉ hướng tâm lí: cho.
Ví dụ: - Trinh sát cấp báo cho đơn vị (là) quân địch đã bắt đầu hành quân
càn quét. (8)
88
- Lớp từ chỉ mức độ: lắm, quá…
- Lớp từ chỉ cách thức: ngay, liền, tức khắc, tức thì, dần, dần dần, từ
từ, nữa, hoài, luôn, mãi…
Chú ý: vị trí các thành tố phụ thuộc sau của động từ không thật ổn
định, chỉ có thể đưa ra những nhận xét chung sau: liền sau động từ thường
có thể là các phụ từ chỉ cách thức, tiếp theo là các từ thực, cuối cùng là
những từ phụ thuộc các lớp con khác.
2. Thành tố phụ đứng trước động từ.
Những từ hư làm thành tố phụ:
- Từ chỉ sự tiếp diễn tương tự: đều, cùng, vẫn, cứ, mãi, còn…
Ví dụ: - Rồi dì dịu dàng bảo tôi (Trí): - Cháu cứ đi với nó. Nếu nó không
chịu đi với cháu hay bắt nạt cháu thì cứ bảo dì. Dì trị cho nó biết. (5).
- Việc đánh sóc đĩa đêm qua cố nhiên không giấu nổi ngài, nên tôi cứ
trình, nhưng trình xong, tôi xin hộ các thầy, nói rằng là lần đầu, xin ngài
tha tội cho. (3)
- Từ chỉ quan hệ thời gian: từng, đã, vừa, mới, đang, sẽ…
Ví dụ: - Tao (Quan phủ) đã bẩm chuyện mày với ngài (Quan sứ), ngài có
hẹn sẽ tự thưởng cho mày (thám tử) (3)
- Định ngày cưới, chúng tôi mới báo hỷ cho bạn bè, họ hàng gần xa.
(Chu văn, Tiếng trẻ thơ)
- Thay mặt Uỷ ban xã đồng chí Nghĩa sẽ thông báo tới bà con tình
hình vụ mùa Đông- Xuân
(Nguyễn Thị Ngân, truyện ngắn)
- Từ chỉ mức độ: rất, hơi, khí, quá…
89
- Từ nêu ý khẳng định hay phủ định: có, không, chưa, chẳng…
Ví dụ: - Muộn rồi! Chúng ta không tranh luận nữa.
- Từ nêu ý mệnh lệnh, khuyên nhủ: hãy, đừng, chớ…
Ví dụ: - Vả tôi hãy kể cho ngài những chuyện lạ lùng, có khi ở ngoài trí
tưởng tượng. (3)
- Những từ chỉ tần số (số lần): thường, hay, năng, ít, hiếm…
Ví dụ: - Anh ta thường nhắc nhở vợ đi làm về sớm.
Một số từ thực chỉ cách thức của hoạt động nêu ở động từ:
- Những từ phỏng thanh tượng hình và một số tính từ: dịu
dàng/khẽ/nhẹ nhàng/tích cực nói chuyện…
Ví dụ: - Rồi dì dịu dàng bảo tôi (Trí): - Cháu cứ đi với nó. Nếu nó không
chịu đi với cháu hay bắt nạt cháu thì cứ bảo dì. Dì trị cho nó biết. (5).
- Cấu trúc gồm một kết từ và một danh từ (giới ngữ) chỉ điểm xuất
phát, thường chỉ hướng (ra, vào, lên, xuống, về…): từ trên gác nhà nói
xuống; từ ngoài nói chen vào…
Ví dụ: - Hải giậm chân, đầu lúc la lúc lắc, cười như bị nghẹn kể về Lượng,
cái anh nhà thơ bất đắc dĩ. (8)
- Chúng tôi sẽ sớm phản ánh nguyện vọng của bào con lên lãnh đạo.
(Nguyễn Mạnh Tuấn, Đứng trước biển)
- Cán bộ tuyên huấn phổ biến tinh thần hội nghị xuống các xã.
(Lê Công Hội, Thung lũng mưa)
Nhận xét:
- Động từ nói năng trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có khả năng kết
90
hợp với các thành phần đứng trước và sau nó. Tuy nhiên, trong tiếng Việt,
sự kết hợp đó tạo nên một cụm động từ, còn trong tiếng Anh, động từ nói
năng chỉ kết hợp với các thành phần đứng sau mới tạo thành cụm động từ.
- Khả năng kết hợp của động từ nói năng có nhiều điểm tương đồng
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Tuy nhiên, do loại hình ngôn ngữ khác nhau
nên từng ngôn ngữ sẽ có những điểm dị biệt mà người học, người nghiên
cứu tiếng Việt, Anh cần biết và phân biệt để tránh tình trạng sử dụng động
91
từ không đúng, không chính xác.
KẾT LUẬN
Động từ là một vấn đề được các nhà ngôn ngữ học đi sâu nghiên cứu
trong thế kỷ XX, và đặc biệt trong những thập niên cuối thế kỷ này. Ở các
nước nói tiếng Anh như Hoa kỳ, Anh, Canada, Australia…đã có hàng loạt
các công trình khi nghiên cứu về lý thuyết ngôn ngữ đều đề cập đến động từ.
Ở Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến động
từ nói chung và nhóm động từ chỉ hoạt động nói năng nói riêng. Luận văn
không phải là công trình duy nhất nghiên cứu về lý luận, đặc điểm ngữ pháp
và ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng trong tiếng Anh. Nhưng có thể
khẳng định rằng đây là tài liệu đầu tiên đi sâu nghiên cứu, đối chiếu nhóm
động từ nói năng ở hai ngôn ngữ Anh-Việt trên bình diện ngữ pháp-ngữ
nghĩa. Với những hiểu biết đã thu lượm được trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi có thể đi đến một số phát hiện sau đây:
1. Đối với hai ngôn ngữ Anh, Việt, phạm trù động từ nói năng đều
đóng vai trò thiết yếu trong phát ngôn. Tuy nhiên, các ngôn ngữ biến hóa
hình thái như tiếng Anh, động từ nói năng được xác định dựa trên hai tiêu
chí: hình thức và ý nghiã ngữ pháp. Đó là một tập hợp bao gồm tất cả các từ
mang ý nghĩa ngữ pháp khái quát, chỉ hoạt động, quá trình, trạng thái, đồng
thời có hình thức ngữ pháp biến đổi theo các phạm trù ngôi, số, giống, thời,
thức, thể… Còn phạm trù động từ tiếng Việt- ngôn ngữ không biến hình- là
một tập hợp mang ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, quá trình, trạng thái;
đồng thời có đặc điểm về hoạt động ngữ pháp thể hiện ở khả năng kết hợp
với các phó từ thời gian (đã, đang, sẽ…), phó từ mệnh lệnh (hãy, đừng,
chớ…) hay các phó từ khác và có khả năng làm vị ngữ trong câu mà không
91
nhất thiết phải dùng tới từ là.
Trong tiếng Anh, động từ nói năng ít có đặc điểm gần gũi với các
phạm trù: tính từ, danh từ. Ngược lại, động từ nói năng trong tiếng Việt có
nhiều đặc điểm gần gũi với các phạm trù: tính từ, danh từ.
2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng trong tiếng Việt và
tiếng Anh có nhiều nét tương đồng:
- Nghĩa biểu hiện của các động từ nói năng trong tiếng Anh và tiếng
Việt đều dựa trên tiêu chí cơ bản nhất đó là +Động và +Chủ ý. Một quá trình
phát ngôn điển hình có thể được trình bày bằng cấu trúc:
Phát ngôn thể +Quá trình: phát ngôn +/-tiếp ngôn thể+/- ngôn
thể +/-đích ngôn thể
- Nghĩa ngôn hành của động từ nói năng trong tiếng Anh và tiếng Việt
đều gắn với mục đích thông báo, chủ ngữ của phát ngôn ở ngôi thứ nhất và
hành động xảy ra tại thời điểm hiện tại.
3. Về đặc điểm ngữ pháp, động từ nói năng trong tiếng Anh và tiếng
Việt đều có khả năng kết hợp với các thành phần đứng trước và sau nó. Tuy
nhiên, trong tiếng Việt, sự kết hợp đó tạo nên một cụm động từ, còn trong
tiếng Anh, động từ nói năng chỉ kết hợp với các thành phần đứng sau mới
tạo thành cụm động từ.
Cấu trúc câu trong tiếng Anh và tiếng Việt đều theo mô hình:
Subject-Verb-Object 1- Object 2 (CN-VN-TP khác)
Cấu trúc nòng cốt: Subject-Verb-Object
Cấu trúc mở rộng: - a) Subject-Verb-Complement
- b) Subject-Verb-Adverbial
92
- c) Subject-Verb-Object-Object
- d) Subject-Verb-Object- Complement
- e) Subject-Verb-Object- Adverbial
Ở các cấu trúc mở rộng c, d, e thì tiếng Anh và tiếng Việt đều có. Tuy
vậy, khi tham tố Tiếp ngôn thể đứng sau Ngôn thể, trong tiếng Anh, nó luôn
đòi hỏi một giới từ.
Cấu trúc rút gọn trong tiếng Anh: - a) Subject-Verb
- b) Verb-Object
- c) Verb
Trong tiếng Anh, các kiểu câu rút gọn bao giờ cũng có mặt động từ,
động từ đóng vai trò chính yếu, không thể lược bỏ được.
Trong tiếng Việt, trật từ các thành phần câu không cố định như trong
tiếng Anh.
Trật tự từ là phương thức cơ bản để biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các
từ với nhau, mỗi vị trí đều có ý nghĩa riêng, hình thái từ không thay đổi. Vị
trí các yếu tố của câu tiếng Việt thường có khuôn trung hoà kiểu:
Trạng ngữ-chủ ngữ-vị ngữ-bổ ngữ
Với kết quả nghiên cứu đạt được trong luận văn, chúng tôi hi vọng sẽ
có những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu đối chiếu đặc điểm ngữ
pháp, ngữ nghĩa của động từ nói chung và nhóm động từ chỉ hoạt động nói
năng nói riêng trong tiếng Anh và tiếng Việt. Các phát hiện về sự tương
đồng và khác biệt về các đặc điểm này trong hai ngôn ngữ sẽ là những đóng
góp thiết thực, hiệu quả đối với người dạy và học tiếng Anh/tiếng Việt.
Do hạn chế về khả năng và trình độ, còn nhiều vấn đề liên quan đến đề
93
tài chưa được chúng tôi đề cập hoặc đã đề cập nhưng chưa được giải quyết
một cách thấu đáo trong luận văn. Chúng tôi hi vọng sẽ có dịp trở lại khảo
94
sát sâu hơn về những vấn đề này trong các công trình nghiên cứu khác.