VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM QUANG MẪN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM QUANG MẪN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số
: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
không trùng lặp, không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào; những tài liệu,
số liệu, dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Quang Mẫn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY ..................................................................... 8
1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy ........................................................................ 8
1.2. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy .................................................... 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................... 31
2.1. Thực tiễn cơ sở phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng .................................................................................................... 31
2.2. Kết quả đạt được trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng ............................................................................................. 38
2.3. Hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng ....................................................................................... 51
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................ 59
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TRONG THỜI GIAN TỚI ..................................................................................... 64
3.1. Dự báo tình hình và các yêu cầu phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ......................................................................... 64
3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng ............................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANCT : An ninh chính trị
ANTQ : An ninh Tổ quốc
ANTT : An ninh trật tự
ANQG : An ninh quốc gia
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CAND : Công an nhân dân
CSCN : Cộng sản chủ nghĩa
CSĐTTP : Cảnh sát Điều tra tội phạm
CS QLHC : Cảnh sát Quản lý hành chính
CS THSHS & HTTP : Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp
HĐND : Hội đồng nhân dân
NXB : Nhà xuất bản
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
TTXH : Trật tự xã hội
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VPHC : Vi phạm hành chính
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XDPT & QLBVDP : Xây dựng phong trào và quản lý bảo vệ dân phố
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là đô thị trung tâm của miền Trung, có vị trí chiến lược
về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển vượt bậc về kinh tế so với các đô thị khác trong khu vực, thành phố Đà Nẵng
cũng được đánh giá là điểm đến an toàn, “thành phố đáng sống” cho du lịch, học
tập, làm việc. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế - xã hội, tình hình tội phạm và tệ
nạn ma túy ở thành phố Đà Nẵng cũng diễn biến phức tạp.
Theo thống kê của Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành ủy
Đà Nẵng [50], trong 5 năm từ 2016 đến 2020, các lực lượng chuyên trách phòng
chống ma túy đã phát hiện, bắt giữ 1.119 vụ/1.586 đối tượng phạm tội về ma túy;
thu giữ 79,5kg ma túy, 3 súng, 3 lựu đạn, 18 ô tô, 388 xe máy, 884 điện thoại, 3 tỷ
đồng cùng nhiều tang vật khác. Trong đó, đã triệt phá nhiều đường dây vận chuyển,
mua bán ma túy với số lượng lớn vào thành phố, đã khởi tố xét xử 1.119 vụ/1.586 bị
can, nhiều hơn 476 vụ/671 đối tượng (tăng 117%), 65,1kg ma túy (tăng 452%) so
với giai đoạn 2010 - 2015. Qua các đợt ra quân kiểm tra, Công an thành phố Đà
Nẵng đã phát hiện 14.904 trường hợp sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều hơn
9.970 trường hợp (tăng 202%) so với giai đoạn 2010 - 2015. Trong đó, số tái nghiện
chiếm 20,7%; số nghiện mới chiếm 11,2%; số mới phát hiện chiếm 54% và số ngoại
tỉnh chiếm 14,1%. Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức cai nghiện bắt buộc cho 3.791
lượt người, có 884 lượt người đi cai nghiện tự nguyện; có 56/56 xã, phường thành
lập Tổ cai nghiện ma túy.
Tuy nhiên theo Thành ủy Đà Nẵng đánh giá, công tác phòng chống ma túy
trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể: Việc phòng, chống ma túy chủ
yếu giao cho lực lượng Công an nên kết quả chưa cao; công tác cai nghiện tại gia
đình, cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức nên số người cai nghiện còn hạn
chế, chưa hiệu quả; công tác quản lý sau cai nghiện còn nhiều khó khăn. Đặc biệt,
tỷ lệ tái phạm tội và tái nghiện ma túy còn khá cao.
1
Tái phạm tội và tái nghiện ma túy là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả
công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy nói chung, cần
nghiên cứu, đánh giá về tình hình tái phạm tội, tái nghiện ma túy trên cơ sở khoa
học chuyên ngành. Muốn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có hiệu quả
thì cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về khái niệm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở, chủ thể,
nội dung, biện pháp của phòng ngừa tái phạm tội để xác định thực trạng tình hình
tái phạm tội về ma túy tại địa phương. Từ đó, xây dựng các giải pháp phòng ngừa
một cách hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng để xét xử các vụ án một cách chính xác;
đồng thời, cũng là cơ sở đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người
phạm tội về ma túy cũng như phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
Việc nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện, sâu sắc cần xuất phát từ các vấn đề lý luận
về phòng ngừa tái phạm tội nói chung để đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy gắn với các yếu tố tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể, đánh giá
đúng các kết quả và xác định rõ các hạn chế, yếu kém trong hoạt động này. Từ đó,
tìm ra nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để xây dựng các giải pháp tăng cường
hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Việc này là cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có tính thực tiễn.
Vì vậy, đề tài “Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” đã được tác giả chọn làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phòng ngừa tái phạm tội và tái phạm tội về ma túy ở nước ta hiện nay đang là
vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong thời gian qua, đã có
một số công trình khoa học và bài viết liên quan đến phòng ngừa tái phạm tội và
phòng ngừa tội phạm về ma túy như:
* Các công trình, bài viết từ cách tiếp cận của Tội phạm học
- Lê Tuấn Anh (2019) “Phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Học
viện Khoa học xã hội.
2
- Đào Công Chức (2020) “Hoạt động của lực lượng Công an cơ sở các tỉnh,
thành phố phía Nam trong phòng ngừa tội phạm do người nghiện ma túy thực
hiện”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Đại
học Cảnh sát nhân dân.
- Võ Như Huy (2019) “Phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam tại
Tây Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội
phạm, Học viện Khoa học xã hội.
- Lê Tuấn Anh (2017) “Trao đổi một số vấn đề về phòng ngừa tái phạm tội”,
“Nguyên nhân, điều kiện, biện pháp và một số giải pháp phòng ngừa tái phạm tội”,
Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số tháng 1, 3/2017.
* Các công trình, bài viết từ cách tiếp cận của khoa học Luật hình sự
- Đinh Thị Hường (2014) “Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của
thành phố Hải Phòng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bường (2016) “Hoàn thiện pháp luật về án treo - cần tính tới
các nhân tố làm cho người bị kết án tái phạm hoặc phạm tội mới”, Tạp chí Nghề
luật, Học viện Tư pháp, số tháng 3/2016.
- Phan Duy Chiến - Bùi Duy Võ (2018) “Tòa ma túy và nghiên cứu về khả
năng áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, VKSND tối cao, số 24/2018.
- Trương Đức Thuận (2018) “Một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng
hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa
học xã hội, số 6-2018.
- Võ Thị Kim Oanh - Trịnh Duy Thuyên (2018) “Góp ý dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự về tái hòa nhập cộng đồng”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 08(120)/2018.
* Các công trình từ cách tiếp cận của một số chuyên ngành khác
- Võ Thùy Linh (2016) “Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy từ thực
tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính
sách công, Học viện Khoa học xã hội.
3
- Nguyễn Thành Long (2019) “Quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện ma túy từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
- Nguyễn Văn Huy (2019) “Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai
nghiện ma túy (nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh)”, Luận
văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của
những công trình, bài viết nói trên, tác giả nhận thấy:
Một là, các công trình, bài viết nói trên đã nghiên cứu về tình tình tái phạm
tội của những người chấp hành xong án phạt tù và hoạt động phòng ngừa của các
lực lượng chức năng ở địa bàn cơ sở (đặc biệt là lực lượng Công an). Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra: Thực tế, người sau khi chấp hành xong án phạt tù, người hoàn
thành cai nghiện ma túy trở về địa phương tái phạm tội, tái nghiện chiếm tỷ lệ cao.
Vấn đề tái hoà nhập cộng đồng còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả
trong việc tiếp nhận, quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù,
người hoàn thành cai nghiện trở về địa phương.
Hai là, các công trình, bài viết đã nêu rõ nguyên nhân tái phạm tội của những
người sau khi chấp hành xong án phạt tù không chỉ ở những thiếu sót của bản thân
những người đó, gia đình, xã hội mà ngay cả thiếu sót trong công tác giáo dục ở các
trại giam, cơ sở cai nghiện. Vì vậy, khi phạm nhân đang chấp hành án cần phải cảm
hóa, giáo dục, giúp họ nhận ra lỗi lầm để tự giác cải tạo.
Ba là, hầu hết các tác giả đều có quan điểm chung về phòng ngừa tái phạm
tội cần phải phối hợp các chủ thể phòng ngừa với nhau, thông qua đó phát động
toàn dân tham gia phong trào bảo vệ ANCT và TTATXH tạo điều kiện cho người
từng phạm tội sửa chữa lỗi lầm, không tái phạm tội.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì thế, đây là luận văn
hoàn toàn mới và không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đây
cũng như hiện nay.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy: Khái niệm tái phạm tội; khái niệm tình hình tái phạm tội; đặc trưng
của phòng ngừa tình hình tái phạm tội; các cơ sở, nội dung, chủ thể, biện pháp
phòng ngừa tình hình tái phạm tội.
Thứ hai, đánh giá tình hình tái phạm tội, thực trạng phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Thứ ba, dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy, hoạt động phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. Từ đó, đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình
hình tái phạm tội nói chung và lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy nói riêng; thực tiễn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học trong phạm
vi chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”.
- Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong phạm vi 5 năm từ
năm 2016 đến năm 2020.
5
- Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về tội danh: Luận văn nghiên cứu tình hình tái phạm tội về ma túy quy định
tại Chương XVII (từ Điều 192 đến Điều 201) BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009 và Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259) BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên lý của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và tái phạm tội trong
xã hội, vấn đề đấu tranh phòng, chống tái phạm tội; các tri thức khoa học của Tội
phạm học, Pháp luật hình sự, khoa học Điều tra hình sự (trong đó, tri thức của Tội
phạm học là chủ yếu).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, cụ
thể như sau: Phương pháp thống kê; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu; phương
pháp so sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp
nghiên cứu bản án; phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp phỏng vấn
chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận Tội phạm học
về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn, những người làm công tác pháp
luật có thể tham khảo, vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
cho nhân dân, góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ” trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
6
Luận văn có thể sử dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy;
nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng tham khảo
cho hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm các tội phạm khác và phòng ngừa tình
hình tái phạm tội nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, góp phần thực
hiện có hiệu quả “Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định
hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” theo Quyết định số
5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng [57].
Ngoài ra, luận văn còn có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham
khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chương, kết luận, bảng chữ viết tắt, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy
1.1.1. Khái niệm tái phạm tội
1.1.1.1. Khái niệm tái phạm tội
Trong khoa học pháp lý và hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam, thuật ngữ
“tái phạm tội” xuất hiện khá ít. Một khái niệm khác gần gũi với nó là “tái phạm”
được sử dụng phổ biến hơn. Vì vậy, trước khi xem xét thuật ngữ “tái phạm tội”,
chúng ta cần hiểu rõ về “tái phạm”.
Trong các nghiên cứu quốc tế, từ “tái phạm” xuất hiện tương đối nhiều, cụ
thể: Trong tiếng Nga, “повторять ошибку” nghĩa là “tái phạm sai lầm”; trong
tiếng Pháp “récidive” và tiếng Anh “recidivism” có nguồn gốc từ cùng một từ
trong tiếng Latin là “recidivus” nghĩa là “xâm phạm lại”; trong tiếng Trung Quốc
“累犯” (lěifàn) nghĩa là “nhiều lần phạm tội” hàm chứa từ “lũy” (累, lěi) nghĩa là
“liên tục, nhiều lần” và từ “phạm” (犯, fàn) nghĩa là “xâm phạm” [63, tr.338,
733]. Như vậy trong nhiều trường hợp, thuật ngữ “tái phạm” bao hàm nghĩa “tái
phạm tội” chứ không phân biệt cụ thể. Điển hình cho sự không phân biệt cụ thể này
là: Trong khi TS. G.V. Đa-Scốp nhận định “Tái phạm là một khái niệm pháp lý và
rất có ý nghĩa trong tội phạm học… Tái phạm là phạm tội từ hai lần trở lên - kẻ tái
phạm là kẻ phạm tội mới trong khi án tích về tội cũ chưa được xóa bỏ” [48, tr.77]
thì nhà Tội phạm học người Mỹ Michael D. Maltz lại cho rằng “Người tái phạm là
người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay
vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [38, tr.54].
Trong những nghiên cứu ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” cũng xuất hiện
thường xuyên, chẳng hạn như: Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học “tái
phạm” nghĩa là “phạm lại tội cũ, sai lầm cũ” [64, tr.885]; theo từ điển Việt Nam
của tác giả Thanh Nghị thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần nữa” [29, tr.1165];
8
còn theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh thì “tái phạm” nghĩa là “phạm
tội lần thứ hai” [1, tr.225].
Ngoài ra, “tái phạm” còn được nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam điều chỉnh. Với mỗi ngành luật, quy định về “tái phạm” cũng có điểm
khác nhau, cụ thể: Khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Tái
phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà
chưa được xóa kỷ luật…”. Khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy
định: “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý VPHC nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC… mà lại thực hiện hành vi VPHC đã bị xử lý”.
Khoản 1 Điều 49 BLHS 1999 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án,
chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội
đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Khoản 1 Điều 53 BLHS 2015 quy định: “Tái phạm
là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do vô ý”.
Mặc dù thuật ngữ “tái phạm” theo quy định của các ngành luật nêu trên đã
thể hiện “sự lặp lại của hành vi” với những dấu hiệu khác nhau nhưng việc định
nghĩa “tái phạm vi phạm” dưới góc độ pháp luật lao động, hành chính, hình sự là
không đồng nhất với khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học. TS. Vũ Đức
Trung có quan điểm: “Hoàn toàn có nội dung của tái phạm được quy định tại Điều
49 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Việc sử dụng cụm từ tái phạm tội
nhằm phân biệt với tái phạm vi phạm pháp luật khác” [51, tr.18]. Theo tác giả,
quan điểm này chưa nêu đúng bản chất của “tái phạm tội” mà chỉ đề cập đến một
khía cạnh nhỏ nhất của nó là phân biệt tái phạm tội với tái phạm vi phạm pháp luật.
Điều này khiến người đọc nhầm lẫn khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học
với khái niệm “tái phạm” trong Luật hình sự. TS. Lê Tuấn Anh cho rằng: “Tái
phạm tội là trường hợp đã bị kết án về một tội mà lại phạm tội mới” [2, tr.36]. Tác
giả thống nhất với khái niệm này vì mặc dù ngắn gọn nhưng lại khá chính xác khi
nêu được bản chất của “tái phạm tội” chính là trường hợp một chủ thể đã bị kết án
9
bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới,
không kể đó là tội gì cũng như không kể chủ thể đã được xóa án tích hay chưa.
1.1.1.2. Bản chất của tái phạm tội
Tái phạm tội về bản chất là tiếp tục phạm tội, sau khi đã có bản án có hiệu
lực pháp luật. Tái phạm tội thể hiện tính xu hướng coi thường pháp luật, coi thường
các giá trị đạo đức, thể hiện bản chất khó có thể giáo dục, cải tạo để trở thành người
có ích cho xã hội. Thời điểm người phạm tội tiếp tục phạm tội có thể ngay sau khi
có bản án có hiệu lực pháp luật, cũng có thể rất lâu sau khi thi hành xong bản án
(thậm chí đã xóa án tích) tùy thuộc vào từng nguyên nhân, điều kiện cụ thể. Mặc dù
xóa án tích là quy định thể hiện tính nhân văn của Nhà nước đối với những người đã
bị kết án hình sự, giúp họ làm lại cuộc đời và hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên,
việc xóa án tích chỉ làm “trong sạch” về lý lịch tư pháp của người phạm tội chứ
không làm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện cụ thể dẫn đến việc tái phạm tội.
Việc người phạm tội được xóa án tích không loại trừ khả năng người đó sẽ không
tiếp tục phạm tội trong tương lai. Nghiên cứu những trường hợp tái phạm tội vì vậy
sẽ giúp cho việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này để có thể đề ra những
biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng ngừa khả năng tái phạm tội.
Không thể coi một người là tái phạm tội nếu trước đó, người này chưa từng
phạm tội. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 13 BLTTHS 2015 quy định:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật”. Theo đó, một người chỉ bị coi là phạm tội khi đã có bản án có hiệu
lực pháp luật. Như vậy, “tái phạm tội” chỉ xảy ra khi một người đã từng thực hiện
một hành vi phạm tội, đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà lại tiếp tục
thực hiện một hành vi phạm tội khác. Để làm rõ hơn khái niệm tái phạm tội, cần
xem xét một số trường hợp sau:
- Trường hợp người được miễn trách nhiệm hình sự sau đó lại phạm tội
Miễn TNHS là trường hợp người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng
10
các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.
BLHS 2015 quy định các trường hợp miễn TNHS tại Điều 16, Điều 29, khoản 2
Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, đoạn 2 khoản 7 Điều 364, khoản 6
Điều 365 và khoản 2 Điều 390. Bản chất pháp lý của miễn TNHS là chế định nhân
đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS nhưng do người này có các điều
kiện nhất định nên được miễn TNHS. Ví dụ: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét
xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc khi có quyết định đại xá thì người đã thực hiện hành
vi phạm tội được miễn TNHS (quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS 2015).
Miễn TNHS chỉ áp dụng cho người mà hành vi của họ đã có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm. Bản chất của miễn TNHS là miễn các hậu quả pháp lý bất lợi cho
một người đã thực hiện hành vi phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện theo quy định.
Như vậy, về nguyên tắc, người được miễn TNHS là người đã 1 lần thực hiện hành
vi phạm tội. Theo quy định hiện hành của BLTTHS 2015 thì thẩm quyền áp dụng
miễn TNHS do Cơ quan điều tra (với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát), Viện kiểm
sát và Tòa án quyết định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Như vậy, nếu việc
miễn TNHS do Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiến hành (trong giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố), người được miễn TNHS không bị tuyên bằng bản án của Tòa.
Trường hợp này, người được miễn TNHS không được coi là tái phạm tội khi thực
hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nếu việc miễn TNHS do Tòa án thực hiện trong
giai đoạn xét xử (bị tuyên án nhưng miễn TNHS) thì người được miễn TNHS được
coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nhận thức như vậy vẫn
chưa thật hợp lý, vì như trên đã nói, miễn TNHS chỉ áp dụng cho người đã thực
hiện hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, căn cứ vào Hiến pháp và
BLTTHS thì một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật.
- Trường hợp người được miễn hình phạt sau đó lại phạm tội
Điều 59 BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt
nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà
đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS”. Bản chất
11
pháp lý của miễn hình phạt là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà
hành vi của người đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS
và bị xử phạt bằng bản án của Tòa án nhưng do người này có các điều kiện nhất
định nên được miễn hình phạt (quy định tại Điều 59 BLHS). Người được miễn hình
phạt vì vậy là người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội và khi họ lại thực
hiện hành vi phạm tội thì được coi là tái phạm tội.
1.1.1.3. Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội
nhiều lần, phạm nhiều tội
- Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Điều 53 BLHS 2015 quy định: “1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án,
chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện
hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý. 2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”
“Tái phạm tội” giống “tái phạm” và “tái phạm nguy hiểm” ở chỗ: Đều là
người đã bị kết án mà lại thực hiện hành vi phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, “tái phạm tội” khác “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” ở 2 điểm sau:
Thứ nhất, trường hợp được coi là “tái phạm tội” là trường hợp đã bị kết án lại tiếp
tục phạm tội không phân biệt đã được xóa án tích hay chưa được xóa án tích; còn
trường hợp “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” là trường hợp đã bị kết án, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Thứ hai, về hành vi phạm tội mới: Trường
hợp “tái phạm tội” không phân biệt hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý hay vô ý,
thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng; còn trường hợp “tái phạm” đòi hỏi hành vi phạm tội mới phải là tội phạm
được thực hiện với lỗi cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng với lỗi vô ý; “tái phạm nguy hiểm” đòi hỏi đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
12
thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
do cố ý. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa khái niệm “tái phạm tội” với khái
niệm “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” trong BLHS chính là: “Tái phạm tội” chỉ
quan tâm tới số lần phạm tội mà không cần quan tâm đến yếu tố án tích, lỗi và loại
tội phạm mà chủ thể đã thực hiện sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật về một
tội phạm đã thực hiện.
Khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học rộng hơn và bao hàm các
trường hợp của “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm”.
- Phân biệt tái phạm tội với phạm tội nhiều lần
Theo BLHS 1999, “phạm tội nhiều lần” được xác định là một trong những
tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS (phần chung)
và là tình tiết định khung tăng nặng của 48 điều luật ở phần các tội phạm cụ thể (khi
không là tình tiết tăng nặng TNHS - khoản 2 Điều 48). Tuy nhiên, BLHS 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) không còn quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” mà sửa
thành “phạm tội 2 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình tiết tăng
nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không là dấu hiệu định
tội hoặc định khung hình phạt - khoản 2 Điều 52), tình tiết định khung tăng nặng tại
80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có 2 điều luật quy định “phạm tội
2 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 Điều 337, Điều 382).
Qua so sánh, tác giả nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy
định “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên
trong BLHS 2015, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều lần” bằng
thuật ngữ “phạm tội 2 lần trở lên” và ghi rõ trong điều luật. Tóm lại, “phạm tội 2
lần trở lên” được xác định: 1) Là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại phần
chung của BLHS. 2) Là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại một số
điều luật cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. 3) Chỉ khi phạm tội nhiều lần
hoặc phạm tội 2 lần trở lên không được quy định là tình tiết định khung tăng nặng
trong điều luật cụ thể thì mới được xác định là tình tiết tăng nặng TNHS.
13
Với đặc trưng trên, có thể thấy giữa “phạm tội nhiều lần” (BLHS 1999),
“phạm tội 2 lần trở lên” (BLHS 2015) với “tái phạm tội” giống ở chỗ chủ thể đã
nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có nghĩa là chủ thể đó đã phạm tội từ 2 lần trở
lên mà mỗi lần hành vi đều thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, “phạm tội nhiều lần” khác “tái phạm tội” ở 2 điểm: Thứ nhất, hành vi
của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của 2 tội phạm trở lên mà những tội ấy quy định
tại cùng 1 điều hoặc 1 khoản của điều luật. Còn tái phạm tội thì hành vi phạm tội
sau này có thể là hành vi phạm vào 1 tội quy định tại cùng 1 điều luật hoặc phạm 1
tội mới khác với tội đã phạm trước đó; Thứ hai, “phạm tội nhiều lần” khác tái
phạm tội là người thực hiện hành vi phạm tội ở lần thứ nhất chưa bị xử lý bằng 1
bản án đã có hiệu lực pháp luật. Còn “tái phạm tội” tuy cũng nhiều lần phạm tội,
nhưng lần phạm tội đầu tiên đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật.
- Phân biệt tái phạm tội với phạm nhiều tội
“Phạm nhiều tội” là khái niệm của Pháp luật hình sự có liên quan trực tiếp
đến vấn đề quyết định hình phạt. Phạm nhiều tội là trường hợp (chủ thể) có nhiều
hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi phạm tội nhưng hành vi đó
thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau (phạm nhiều tội khác nhau). BLHS
1985 đã quy định rõ cách quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
nhưng lại không có quy định cụ thể về trường hợp phạm nhiều tội. BLHS 1999,
BLHS 2015 cũng không có quy định này. Từ thực tế xét xử, phạm nhiều tội có 2
trường hợp: 1) Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi
này cấu thành một tội riêng. Những hành vi phạm tội này có thể có mối liên quan
với nhau hoặc không. Ví dụ: Thủ kho có hành vi tham ô tài sản, sau đó lại đốt kho
để che giấu hành vi tham ô của mình (phạm tội huỷ hoại tài sản). 2) Người phạm tội
có một hành vi phạm tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau. Ví
dụ: Hành vi dùng vũ lực cố ý tước đoạt tính mạng của chủ tài sản để chiếm đoạt tài
sản sẽ cấu thành 2 tội khác nhau: Tội giết người và Tội cướp tài sản.
Cũng có trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy
định tại các điều luật khác nhau nhưng bị xử lý theo tội danh của một điều luật,
gồm: 1) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác
14
nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là
điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm
tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn. 2) Một người thực hiện nhiều hành vi
phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt
chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu
của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy
cứu TNHS về hành vi phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng
(quy định tại Thông tư liên tịch số 08-2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP). Những trường hợp này không được coi là “phạm nhiều tội”.
Như vậy so với “tái phạm tội”, “phạm nhiều tội” khác ở chỗ trường hợp
phạm nhiều tội, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện “1 lần” đã cấu thành nhiều tội và
người phạm tội chưa bị xét xử, chưa bị kết án về tội nào trong số các tội trên, còn
“tái phạm tội” là trường hợp người phạm tội đã bị xét xử về 1 tội phạm bằng 1 bản
án đã có hiệu lực pháp luật mà còn tiếp tục phạm tội “lần thứ 2”.
1.1.2. Tái phạm tội về ma túy
- Khái niệm tội phạm về ma túy
Tội phạm về ma túy các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực
TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về
các chất ma túy được quy định trong BLHS tại Chương XX, từ Điều 247 đến Điều
259. Tội phạm về ma tuý bao gồm nhiều loại hành vi phạm tội khác nhau nhưng
đều có chung 2 đặc điểm cơ bản: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về
ma tuý thể hiện ở sự đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển bình thường
của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng nói chung; 2)
Các tội phạm về ma tuý đều có chung đối tượng là các chất ma tuý (hoặc liên quan
đến các chất ma tuý). Đó là các chất có khả năng gây nghiện cao cho người sử dụng
làm cho người nghiện không chỉ bị lệ thuộc vào chất đó mà còn làm cho họ bị tổn
hại về nhiều mặt và thậm chí còn có thể đẩy họ vào con đường phạm tội để có tiền
thoả mãn cơn nghiện.
15
- Khái niệm tái phạm tội về ma túy
Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng xã hội tiêu cực thể hiện sự thất bại
trong giáo dục, cải tạo người đã từng phạm tội về ma túy trở thành người có ích cho
xã hội. Hiện tượng này đi ngược lại lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Từ khái niệm về tái phạm
tội, có thể định nghĩa tái phạm tội về ma túy như sau: Tái phạm tội về ma túy là
trường hợp đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma túy quy định trong BLHS,
mà lại phạm một tội mới thuộc một trong các tội phạm về ma túy.
- Đặc trưng của tái phạm tội về ma túy
Khác với tái phạm tội nói chung, tái phạm tội về ma túy có điểm đặc thù:
Người bị coi là tái phạm tội về ma túy là người mà trước đó đã bị Tòa án kết án về
một trong các tội phạm về ma túy quy định tại Chương XX của BLHS, sau đó lại
thực hiện hành vi phạm tội mới về một trong các tội phạm về ma túy (thuộc Chương
XX BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
1.2. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
1.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy
1.2.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Nghiên cứu về phòng ngừa tái phạm tội, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm và đồng
nghiệp cho rằng “hoạt động phòng ngừa tái phạm tội đối với người đã chấp hành
xong bản án hình sự là hình thức phòng ngừa cá biệt của các biện pháp phòng
ngừa tội phạm” [67, tr.1511]. TS. Nguyễn Văn Hoàng cũng cho rằng “phòng ngừa
tái phạm tội thực chất là một bộ phận, một nội dung của hoạt động phòng ngừa tội
phạm nói chung” [32, tr.32]. TS. Vũ Đức Trung thì khẳng định phòng ngừa tình
trạng tái phạm tội là “hướng vào việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tình trạng
tái phạm tội nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi tình trạng tái phạm tội
trong xã hội” [51, tr.39]. Tuy có những khác biệt song các nhà nghiên cứu trên đều
khẳng định phòng ngừa tái phạm tội là một bộ phận của hoạt động phòng ngừa tội
phạm nói chung, được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi
16
công dân nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh tội phạm.
Theo đó, mục tiêu cơ bản của phòng ngừa tái phạm tội là áp dụng đồng bộ
các biện pháp nhắm đến những người đã bị từng một lần thực hiện hành vi phạm tội
để họ không phạm tội trở lại, khắc phục và loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tái
phạm tội. Nếu phòng ngừa tái phạm là áp dụng các biện phạm nhắm đến những
người đã bị kết án (quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015) để họ không phạm
tội mới thì phòng ngừa tái phạm tội là tác động đến tất cả những người đã từng 1 lần
thực hiện hành vi phạm tội, đã bị kết án (kể cả người này đã được xóa án tích) để họ
không thực hiện một lần nữa hành vi phạm tội. Vì vậy, biện pháp phòng ngừa tái
phạm tội không chỉ hướng đến người có nguy cơ tái phạm (quy định tại khoản 1
Điều 53 BLHS 2015) mà kể cả người đã xóa án tích hoặc người không thuộc trường
hợp tái phạm tội (người được miễn TNHS) và người được miễn hình phạt.
Như vậy, có thể định nghĩa: Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là
việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau nhằm hướng tới việc thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội về ma túy, ngăn ngừa người đã bị kết án về
ma túy lại tiếp tục phạm một trong các tội phạm về ma túy.
Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có những đặc điểm sau:
- Về chủ thể phòng ngừa: Chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy tương đồng với chủ thể phòng ngừa tội phạm, đó là các cơ quan Nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, mỗi người dân và chính bản thân
người phạm tội. Trong đó, chủ thể quan trọng và trước tiên là các cơ quan ban hành
chính sách, pháp luật; cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm và tái phạm tội;
gia đình và cơ quan, chính quyền địa phương trong việc giáo dục, cải tạo, giám sát,
động viên người từng phạm tội và bị kết án về ma túy không tái phạm tội.
- Về đối tượng phòng ngừa: Đối tượng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy là những người đã có hành vi phạm tội về ma túy và đã bị kết án (bao gồm:
Người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương; người đang chấp hành các hình
phạt khác tại địa phương như: Cải tạo không giam giữ, án treo...; người đang chấp
hành án trong trại giam…; kể cả người đã được xóa án tích).
17
1.2.1.2. Mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
- Về mục đích
Mục đích phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là hướng đến việc hạn
chế đến mức thấp nhất tình trạng tái phạm tội về ma túy. Tức là, áp dụng các biện
pháp để làm cho một người đã từng thực hiện hành vi phạm tội về ma túy sẽ không
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy cần sử dụng các biện pháp phù hợp để tác động làm thay đổi nhận thức của
những người đang hoặc sẽ có ý định tái phạm tội về ma túy, để họ từ bỏ ý định và
hành vi phạm tội; sử dụng tổng hợp các biện pháp không để tiếp tục hình thành và
tồn tại các nguyên nhân, điều kiện tái phạm tội về ma túy, hạn chế, cô lập, tiến tới
triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tái phạm tội về ma túy.
- Về ý nghĩa
+ Ý nghĩa chính trị: Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng đặc biệt của
tội phạm, vừa thể hiện sự kém hiệu quả trong công tác phòng ngừa tội phạm, vừa
thể hiện sự không phù hợp của các biện pháp tác động đến người đã từng phạm tội
về ma túy. Hiện tượng này đi ngược lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Tội phạm về ma túy
thường liên quan đến nhiều loại tội phạm khác, như: Tội trộm cắp tài sản, tội cướp
giật tài sản… và các tệ nạn xã hội, như: Mại dâm, sử dụng trái phép chất ma túy…
Phòng ngừa nhằm giảm thiểu tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng và tái phạm
tội nói chung sẽ góp phần đảm bảo ANCT, TTATXH, tạo niềm tin của nhân dân
vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
+ Ý nghĩa kinh tế: Công tác phòng, chống tái phạm tội về ma túy có liên hệ
mật thiết với công tác cai nghiện, chữa bệnh cho người sử dụng ma túy; giáo dục,
dạy nghề cho người từng phạm tội về ma túy; tuyên truyền phòng, chống ma túy…
đòi hỏi huy động nguồn lực con người, tài chính to lớn, lâu dài. Làm tốt công tác
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, sẽ giảm áp lực cho các công tác nói
trên, Nhà nước sẽ tập trung được nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực khác và tận
dụng được nguồn nhân lực từ chính những người từng phạm tội về ma túy. Bên
cạnh đó, số tiền hàng năm được người nghiện trên khắp cả nước chi tiêu cho ma túy
18
rất lớn. Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, số tiền trên
có thể được sử dụng vào mục đích khác tích cực hơn, góp phần cải thiện cuộc sống
của bản thân, gia đình họ. Ngoài ra, để một người tái phạm tội về ma túy, Nhà nước
sẽ phải chi một khoản kinh phí không nhỏ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đối với những người này. Khi người này phải chấp hành hình phạt, nhất là
hình phạt tù thì gia đình và xã hội lại mất đi một nguồn lao động có thể làm ra kinh
tế giúp cho đời sống của chính gia đình họ và đỡ gánh nặng cho xã hội.
+ Ý nghĩa xã hội: Ma túy và tệ nạn ma túy có tác hại to lớn, lâu dài không
chỉ đối với bản thân người nghiện mà còn đối với xã hội. Người nghiện ma tuý bị
suy giảm sức lao động, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí
óc, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm (HIV/AIDS, HPV…) do dùng chung dụng cụ
tiêm chích ma túy. Người tái phạm tội về ma túy, người nghiện ma túy có độ tuổi từ
18 đến 30, đây là nguồn lực chính đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước
và đảm bảo giống nòi. Làm tốt công tác này góp phần bảo đảm nguồn lực xã hội,
bảo đảm sức khỏe con người khỏi hủy hoại của ma túy. Mặt khác, để phòng ngừa
tái phạm tội về ma túy đòi hỏi người đã từng phạm tội về ma túy, sau khi chấp hành
xong hình phạt, trở về học tập, sinh sống và làm ăn cần tích cực sửa chữa lỗi lầm
ngay trong môi trường sống hàng ngày dưới sự giám sát, giáo dục, động viên, tạo
điều kiện của cơ quan, tổ chức, đoàn thể, xã hội, gia đình nơi người đó làm việc,
công tác, học tập hoặc cư trú. Vai trò của các cơ quan có thẩm quyền, gia đình và
nhân dân tham gia trong việc giúp đỡ, giám sát, giáo dục những người này là rất
quan trọng, góp phần họ có điều kiện lao động, tu dưỡng, rèn luyện tại địa phương
để hoàn lương và sớm hoà nhập với cộng đồng.
1.2.2. Cơ sở phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
1.2.2.1. Cơ sở chính trị
Cơ sở chính trị trong phòng ngừa tình hình tái phạm chính là những chủ
trương, đường lối của Đảng về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng
ngừa tái phạm tội về ma túy nói riêng được thể hiện tại các văn kiện Đại hội Đảng,
các Nghị quyết của Bộ Chính trị và các văn bản triển khai của cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương. Nội dung của các văn kiện này chính là kim chỉ nam để Đảng ủy
19
các cấp triển khai chỉ đạo, lãnh đạo các hoạt động phòng, chống tội phạm tại từng
địa phương. Trên cơ sở các đường lối chủ trương của Đảng, chính quyền các cấp sẽ
hiện thực hóa bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động cụ thể nhằm
đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tình hình tội phạm nói chung và tình
hình tái phạm tội về ma túy nói riêng.
1.2.2.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của phòng ngừa tái phạm tội về ma túy chính là toàn bộ nền
tảng lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm mà trước hết là những nền tảng lý
luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về phòng ngừa tội phạm. C. Mác (Karl Marx) và
Ph. Ăngghen (Friedrich Engels) cho rằng: Phương hướng cơ bản nhất của đấu
tranh phòng, chống tội phạm là hoạt động phòng ngừa. Điểm xuất phát là phải tổ
chức lại xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội vì con người, giáo dục con người
mới trong xã hội, giải phóng con người ra khỏi các thói xấu của những hình thái
kinh tế - xã hội cũ thì sẽ giải phóng tận gốc rễ nguyên nhân làm phát sinh tội phạm.
V.I. Lênin (Vladimir Ilyich Lenin) đã tiếp tục phát triển học thuyết “phòng
ngừa xã hội” của C. Mác và Ph. Ăngghen. V.I. Lênin cho rằng: Muốn phòng ngừa
tội phạm trong điều kiện XHCN thì phải tăng cường công tác giáo dục và nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc thủ tiêu tội phạm.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “Sẽ rơi vào Chủ nghĩa không tưởng nếu nghĩ rằng sau khi
lật đổ Chủ nghĩa tư bản, người ta có thể làm việc ngay trong xã hội mà không cần
một chuẩn mực pháp luật nào…” [36, tr.122, 405].
- Quan điểm phòng ngừa tội phạm của Tội phạm học Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho lý luận về phòng, chống
tội phạm ở Việt Nam. Người đã chỉ ra: “Phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam phải
được coi là nhiệm vụ của toàn xã hội. Phải đề phòng và ngăn chặn những hoạt
động phạm pháp khác của bọn trộm cướp và những phần tử tội phạm khác” [33,
tr.22]. Người cho rằng, khi tội phạm xảy ra thì phải tìm mọi cách hạn chế, không để
cho tội phạm tái diễn gây ra tội ác cho xã hội.
Trong các nghiên cứu của mình, GS.TS. Đào Trí Úc cho rằng: Nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là những mâu thuẫn của những quá
20
trình xã hội [62, tr.72]. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh, nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm được hiểu là “hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong
hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như
là hậu quả của mình” [66, tr.84]. Ngoài ra, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm và đồng
nghiệp cũng đồng quan điểm rằng: “Những yếu tố môi trường bên ngoài hay bên
trong con người… tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ
thể, mà phải là sự tương tác, kết hợp của hai yếu tố đó trở thành nguyên nhân của
tội phạm cụ thể” [67, tr.133]. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ
thể được các nhà khoa học tiếp cận thông qua cơ chế tâm lý xã hội của hành vi
phạm tội. Phòng ngừa tội phạm can thiệp vào cơ chế của hành vi phạm tội và loại
bỏ một số hành vi phạm tội, cũng như tìm cách giảm xác suất xảy ra đối với một số
tội phạm khác [65, tr.234].
- Quan điểm phòng ngừa tái phạm tội của Tội phạm học Việt Nam
Lý luận về phòng ngừa tái phạm tội từ lâu đã được lồng ghép trong lý luận về
phòng ngừa tội phạm. Theo đó, phòng ngừa tái phạm tội có thể thực hiện được dưới
2 mức độ: Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm cụ thể.
GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: “Các biện pháp phòng ngừa chung hướng đến
việc khắc phục hoặc làm mất hiệu lực các nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm nói chung (trong cả nước và trong một địa bàn)” [66, tr.165]. PGS.TS.
Hồ Sỹ Sơn nhận định: “Ngoài những hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm (nói chung) còn có những hiện tượng xã hội tiêu
cực (đặc thù) của nhóm tội tương ứng” [49, tr.10]. TS. Nguyễn Mạnh Kháng thì
cho rằng: “Khi căn cứ vào mục tiêu phòng ngừa (theo tính chất) của tội phạm thì
phòng ngừa tội phạm cụ thể có thể là phòng ngừa chung, phòng ngừa một loại tội,
phòng ngừa tội phạm cụ thể” [35, tr.245]. Giáo trình Tội phạm học của trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng nêu rằng: “Căn cứ vào phạm vi, mức độ tác
động của biện pháp thì có những biện pháp phòng ngừa chung, biện pháp phòng
ngừa loại tội phạm và biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể” [31, tr.280].
Như vậy, vấn đề quan trọng mang tính quyết định đến hiệu quả phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy là xác định nguyên nhân và điều kiện của tái phạm
21
tội về ma túy. Hơn nữa, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy không chỉ dựa
vào tình hình tội phạm và những nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội về ma túy
mà còn phải dựa vào thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên
địa bàn. Thực trạng này bao gồm việc tổ chức, phối hợp lực lượng; việc triển khai,
áp dụng các biện pháp phòng ngừa tái phạm tội về ma túy trong thực tế, qua đó
đánh giá được các ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Sau khi đánh giá thực trạng phòng ngừa, các
chủ thể phòng ngừa sẽ dự báo tình hình trong tương lai, từ đó kiến nghị các biện
pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa và nâng cao hiệu quả của công tác này.
Những vấn đề lý luận vừa trình bày ở trên sẽ là cơ sở để tác giả xây dựng những
giải pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy tại thành phố Đà Nẵng.
1.2.2.3. Cơ sở pháp lý
Đến nay, vấn đề phòng ngừa tình hình tái phạm tội tuy chưa có văn bản quy
phạm riêng để điều chỉnh nhưng đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật của
Nhà nước như: Hiến pháp: Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013; các Bộ luật và Luật:
BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015, Luật Tổ chức VKSND 2014, Luật Tổ
chức TAND 2014, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015, Luật Đặc xá
2018…; các văn bản dưới luật: Nghị định số 94/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật
phòng, chống ma túy sửa đổi về quản lý sau cai nghiện ma túy, Nghị định số
56/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn…; văn bản của các Bộ,
ngành: Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BCA hướng dẫn
Nghị định số 94/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình,
cộng đồng, Thông tư số 05/2018/TT-BCA của Bộ Công an quy định việc thu thập
tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc [11]…
1.2.2.4. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy chính là
thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy. Thực trạng tình hình tái phạm tội về ma
22
túy chính là “bức tranh” hiện thực sinh động giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nhận thức rõ nhất thực trạng, cơ cấu, tính chất của tình hình tái phạm tội về
ma túy, từ đó phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tình trạng tái
phạm tội về ma túy. Đây chính là những cơ sở thực tiễn quan trọng để đề ra các giải
pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Bên cạnh đó, tình hình tái hòa
nhập cộng đồng của những người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội về ma
túy, đã chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương cũng là cơ sở thực tiễn quan
trọng trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. “Hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội đối với người bị kết án tù không chỉ phụ thuộc vào việc
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mà còn phụ thuộc vào công tác giáo dục
cải tạo, tổ chức cho người mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng” [2, tr.52].
1.2.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Tội phạm và tái phạm tội về ma túy là hiện tượng tiêu cực đi ngược lợi ích xã
hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và
TTATXH. Vì vậy, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy yêu cầu toàn thể xã
hội tham gia một cách chặt chẽ. Chủ thể phòng ngừa không chỉ bao gồm chủ thể
lãnh đạo quá trình phòng ngừa mà còn là các chủ thể trực tiếp thực hiện công tác
phòng ngừa, bao gồm:
1.2.3.1. Chủ thể lãnh đạo công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội
Chủ thể lãnh đạo toàn bộ công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung
và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng là Đảng Cộng sản Việt
Nam vì đây là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội (quy định tại Điều 4 Hiến
pháp 2013). Đảng lãnh đạo phòng ngừa tình hình tái phạm tội thông qua việc đề ra
chủ trương, phương hướng phòng ngừa, như: Chỉ thị số 48-CT/TW [7], Chỉ thị số
09/CT/TW [8]… và hoàn thiện hệ thống các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội
phạm, cải tạo, cảm hóa người phạm tội. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong phòng
ngừa tình hình tái phạm tội còn thể hiện ở sự tiên phong, vai trò nòng cốt của các
Đảng viên trong công tác phòng ngừa.
1.2.3.2. Chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội
Quá trình phòng ngừa tình hình tái phạm tội được tiến hành từ khi ban hành
23
các văn bản quy phạm pháp luật (ban hành pháp luật) cho đến khi khai triển khai
thực hiện các quy định này trong thực tiễn (thi hành pháp luật). Theo đó, chủ thể
của phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy bao gồm các chủ thể ban hành
pháp luật và chủ thể thi hành pháp luật. Cụ thể:
- Chủ thể ban hành pháp luật về phòng ngừa tình hình tái phạm tội
+ Quốc hội: Là cơ quan quyền lực Nhà nước duy nhất có quyền lập Hiến và
lập pháp [41, Đ.69], [42, Đ.1]. Quốc hội ban hành các luật điều chỉnh hoạt động
phòng ngừa tội phạm (trong đó có tái phạm tội) như: Hiến pháp, BLHS, BLTTHS,
luật tạm giam, tạm giữ…
+ Hội đồng nhân dân các cấp: Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương
[41, Đ.113], [43, Đ.6]. Trong phạm vi quyền hạn của mình, HĐND các cấp phòng
ngừa tội phạm thông qua việc quyết định các chủ trương, biện pháp kinh tế - xã hội
quan trọng để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân nhằm phòng ngừa
tội phạm [46, Đ.13]. Thông qua các kỳ họp, HĐND ra nghị quyết ban hành các văn
bản về phòng ngừa tình hình tội phạm, tình hình tái phạm tội ở địa phương và kiểm
tra, giám sát hoạt động này.
- Chủ thể thực thi pháp luật về phòng ngừa tình hình tái phạm tội
+ Chính phủ: Thể hiện vai trò phòng ngừa tình hình tái phạm tội thông qua
việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về phòng ngừa tội phạm;
xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội… trên toàn quốc để
nâng cao đời sống cho người dân nhằm phòng ngừa tình hình tái phạm tội. Chính
phủ còn thể hiện vai trò lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội thông
qua các Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống tội phạm [13], [17], xây dựng “Chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm” từng giai đoạn.
+ Ủy ban nhân dân các cấp: Triển khai các chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm của Chính phủ, các Nghị quyết của HĐND các cấp về phòng ngừa
tình hình tái phạm tội theo điều kiện thực tế tại địa phương; xây dựng, triển khai các
kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội… nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân góp phần triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và
tái phạm tội. Ngoài ra, UBND các cấp còn xây dựng các đề án, chương trình phòng,
24
chống tội phạm tại địa phương theo từng giai đoạn, phát động phong trào “Toàn
dân bảo vệ ANTQ”… [46, Đ.13].
+ Các cơ quan chuyên trách phòng chống tội phạm, tái phạm tội, gồm:
* Công an nhân dân: Là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật [46, Đ.3]. CAND thực hiện công tác quản lý Nhà nước
về ANTT thông qua đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường
lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, khởi tố, điều tra tội phạm
theo quy định của pháp luật; thống kê hình sự; phát hiện nguyên nhân, điều kiện
phát sinh tội phạm; thực hiện quản lý về thi hành án hình sự, tạm giữ, tạm giam;
quản lý đối tượng được tha tù trước thời hạn... [46, Đ.16].
Bên cạnh hệ thống Cơ quan điều tra trong CAND trực tiếp làm nhiệm vụ
phòng, chống tội phạm thì hệ thống các trại giam là nơi quản lý, giáo dục, cải tạo
phạm nhân. Thông qua các biện pháp giáo dục, cải tạo làm cho phạm nhân thấy
được chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước để phấn đấu lao động, tiến bộ; làm
cầu nối cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể phối hợp thực hiện tốt công tác
tái hòa nhập cộng đồng, giúp đỡ phạm nhân xóa bỏ mặc cảm để làm ăn lương thiện,
góp phần làm giảm tỷ lệ tái phạm tội.
* Viện kiểm sát nhân dân: Là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp [44, Đ.2]. VKSND phối hợp với các chủ thể khác xây dựng, triển
khai các chương trình phòng ngừa tình hình tái phạm tội, thống kê hình sự; trực tiếp
giám sát hoạt động điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội trong xét xử các vụ án tái
phạm tội. Ngoài ra, VKSND còn giám sát việc tuân thủ pháp luật của các Bộ, ban,
ngành, chính quyền các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội… Từ đó, góp phần phòng
ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tái phạm tội nói riêng.
* Tòa án nhân dân: Là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện quyền tư
pháp. Bằng hoạt động của mình, TAND góp phần giáo dục công dân nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp
25
luật khác [45, Đ.2]. TAND thực hiện vai trò phòng ngừa thông qua hoạt động xét
xử các vụ án, giám sát hoạt động thi hành án; tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương xây dựng và triển khai các đề án, kế hoạch phòng ngừa tình hình
tái phạm tội; yêu cầu các cơ quan, tổ chức có liên quan khắc phục những nguyên
nhân, điều kiện làm phát sinh tái phạm tội. Thông qua các phiên tòa lưu động, xét
xử “điểm”, Tòa án góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phòng ngừa tình hình
tội phạm và tái phạm tội về ma túy.
* Một số cơ quan phòng, chống tội phạm chuyên trách: Ban chỉ đạo
“Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm” [17], Ban Chỉ đạo quốc gia chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả [22], Ủy ban Quốc gia phòng, chống
AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm [14] tùy theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao phối hợp với các chủ thể khác thực hiện phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy.
* Một số cơ quan hành chính Nhà nước có liên quan: Thực hiện phòng ngừa
tình hình tái phạm tội thông qua việc hướng dẫn, tổ chức thi hành các quy định pháp
luật về phòng ngừa tình hình tái phạm tội và triển khai các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội từ trung ương đến địa phương nhằm hạn chế, triệt tiêu
nguyên nhân, điều kiện phát sinh tình hình tái phạm tội.
+ Các tổ chức, cá nhân: Các tổ chức chính trị - xã hội giúp việc cho bộ máy
của Đảng, chính quyền, các cơ quan chuyên môn thống kê, dự báo tình hình tái
phạm tội, xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chữa bệnh,
hướng nghiệp, dạy nghề, hỗ trợ việc làm… cho người từng thực hiện hành vi phạm
tội. Thông qua hoạt động của mình, các tổ chức này góp phần phòng ngừa tình hình
tội phạm và tái phạm tội.
Các cá nhân tham gia phòng ngừa tình hình tái phạm tội bằng việc phát hiện,
tố giác tội phạm; giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng;
hưởng ứng chương trình phòng ngừa tình hình tái phạm tội tại địa phương; quản lý
gia đình, người thân không để phạm tội, tái phạm tội.
26
1.2.4. Nội dung phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
- Hạn chế các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tái phạm tội về ma túy
Cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện các
chính sách kinh tế, xã hội... làm triệt tiêu những yếu tố tiêu cực trong đời sống vật
chất, tinh thần của con người. Khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý xã
hội, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo những người bị kết án về ma túy,
không để họ lợi dụng những sơ hở, thiếu sót để tái phạm tội. Việc này hướng đến
loại bỏ những điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi cho việc thực hiện tái phạm tội; cảm
hóa, giáo dục những người chấp hành xong án phạt tù về lại địa phương, tác động
đến tư tưởng, tình cảm của họ, để họ nhận thức rõ lỗi lầm, đoạn tuyệt với quá khứ,
trở về cuộc sống lương thiện.
- Kiềm chế, kiểm soát số lượng người đã bị kết án về một trong các tội phạm
về ma túy
Dự báo chính xác và kiềm chế có hiệu quả số lượng tái phạm tội về ma túy là
tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy. Quyết định số 424/QĐ-TTg đã đề ra 04 mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, năng lực chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống
ma túy; kiềm chế gia tăng, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tác hại của tội phạm và tệ nạn
ma túy đối với đời sống xã hội. Triệt xóa từ 5 - 10% số điểm, tụ điểm mỗi năm…
hạn chế phát sinh người nghiện mới…; đến năm 2020, có hơn 20% số xã, phường,
thị trấn trọng điểm về ma túy giảm mức độ phức tạp so với năm 2015… [26].
- Kiểm soát chặt chẽ ma túy, tiền chất ma túy
Bên cạnh kiềm chế, kiểm soát số lượng tái phạm tội về ma túy, cần kiểm soát
chặt chẽ các chất, tiền chất ma túy và các hoạt động có liên quan, bao gồm: Tiền
chất (sản xuất, mua bán, nhập khẩu, xuất khẩu); ma túy sử dụng trong y tế (dược
phẩm có chứa morphin, codein…); trồng cây chứa chất ma túy (cần sa, thuốc
phiện…); vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (thẩm lậu vào Việt Nam để
tiêu thụ hoặc quá cảnh Việt Nam sang nước thứ 3). Quyết định số 424/QĐ-TTg đã
đề các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm nhằm kiểm soát ma túy: 100% hành vi phạm
tội sản xuất trái phép chất ma túy ở trong nước được phát hiện, xử lý triệt để; giảm
27
diện tích cây có chứa chất ma túy trồng trái phép so với năm trước và triệt phá
100% diện tích phát hiện được… Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp về ma
túy, không để thất thoát tiền chất, các dược phẩm có chứa chất ma túy và chất
hướng thần sử dụng sai mục đích [26].
1.2.5. Biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Phòng ngừa tình hình tái phạm tội sử dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau
tùy thuộc vào cách phân loại. Nếu căn cứ vào bản chất phòng ngừa, phòng ngừa
tình hình tái phạm tội bao gồm các biện pháp “phòng” mang tính xã hội nhằm ngăn
ngừa trước không để tái phạm tội xảy ra và các biện pháp “chống” mang tính
cưỡng chế nhằm răn đe, giáo dục, phát hiện, xử lý tái phạm tội đã xảy ra. Nếu căn
cứ vào tính chất của biện pháp tác động thì phân loại thành các biện pháp về kinh tế
- xã hội, các biện pháp về văn hóa - giáo dục, các biện pháp về tổ chức - quản lý xã
hội, các biện pháp về pháp luật… Trong luận văn này, tác giả trình bày theo hướng
áp dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
của chủ thể phòng ngừa.
1.2.5.1. Biện pháp phòng ngừa xã hội
Phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp mang tính chất kinh tế, văn hóa,
xã hội, giáo dục và pháp luật được thực hiện dưới hình thức công khai nhằm hạn
chế, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tái phạm tội. Để
công tác phòng ngừa xã hội đạt hiệu quả, cần tập trung làm tốt các biện pháp sau:
* Biện pháp kinh tế - xã hội: Đây là một trong những biện pháp tác động lớn
trong công tác phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy nói chung và tình hình
tái phạm tội về ma túy nói riêng. Biện pháp này thông qua tác động bằng kinh tế để
khắc phục, tiến đến loại trừ những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tái phạm tội
về ma túy liên quan đến nghèo đói, thất nghiệp, thiếu việc làm...
* Biện pháp chính trị - tư tưởng: Biện pháp này tác động vào nhận thức, tư
tưởng của người dân, nâng cao nhận thức và trách nhiệm công dân của họ, chấp
hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
xây dựng nếp sống văn minh, đạo đức trong sạch, tự giác tham gia phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy. Biện pháp này cũng đẩy mạnh tuyên truyền về tác hại
28
của ma túy trong việc hủy hoại sức khỏe, tính mạng của con người, hủy hoại giống
nòi để nâng cao ý thức phòng chống tái phạm tội. Biện pháp này góp phần xóa bỏ
những đặc điểm nhân thân xấu của người có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy,
hình thành các đặc điểm nhân thân tốt hạn chế nguy cơ tái phạm tội về ma túy.
* Biện pháp văn hóa - giáo dục: Biện pháp này tác động đến tư duy, tinh
thần của người dân góp phần nâng cao dân trí, hình thành nếp sống văn hóa, văn
minh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Vì vậy, cần không ngừng nâng cao đời sống văn
hóa, tinh thần cho nhân dân, đảm bảo phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức
pháp luật. Biện pháp này có tác động to lớn, lâu dài với việc hạn chế, khắc phục
những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm ma túy.
* Biện pháp tổ chức - quản lý: Biện pháp này hình thành và hoàn thiện hệ
thống tổ chức - quản lý xã hội một cách chặt chẽ từ thành phố đến phường, xã nhằm
đảm bảo các lĩnh vực đời sống - xã hội đều được quản lý, giám sát bởi hệ thống các
cơ quan quản lý Nhà nước và quản lý chuyên ngành, hạn chế những “vùng trống”
tạo thành nguyên nhân, điều kiện của tình hình tái phạm tội về ma túy.
* Biện pháp pháp luật: Biện pháp này hình thành hệ thống quy phạm pháp
luật về phòng ngừa tình hình tội phạm và tình hình tái phạm tội về ma túy quy định
cụ thể các hành vi được xem là tái phạm tội về ma túy và chế tài tương ứng, những
quy định về thi hành hình phạt, quản lý giáo dục đối với người tái phạm tội về ma
túy. Một hệ thống chính sách nhất quán, hoàn chỉnh và được áp dụng đúng sẽ tạo ra
trật tự phù hợp với yêu cầu thực tế, hạn chế, khắc phục, loại trừ dần nguyên nhân,
điều kiện của tình hình tái phạm tội về ma túy; tạo điều kiện cho cơ quan chức năng
thực hiện nhiệm vụ, duy trì và bảo vệ trật tự pháp luật.
1.2.5.2. Phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách
Phòng ngừa nghiệp vụ là hệ thống các biện pháp mang tính chuyên môn, đặc
thù do cơ quan chức năng tiến hành nhằm tác động đến những nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh tình hình tái phạm tội về ma túy và hướng đến từng người có
nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy nhằm ngăn ngừa họ tái phạm tội. Các biện pháp
phòng ngừa nghiệp vụ bao gồm: Tổ chức nắm tình hình địa bàn, quản lý các lĩnh
vực tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng để tái phạm tội về ma túy (bar, pub, khách sạn, bến
29
xe, nhà ga…); quản lý người có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy; tăng cường
phát hiện, xử lý đối tượng tái phạm tội về ma túy; công tác thi hành hình phạt, giáo
dục người bị kết án về ma túy; sử dụng trang bị khoa học công nghệ hỗ trợ phát
hiện, xử lý kịp thời người tái phạm tội về ma túy…
Tiểu kết Chương 1
Trong chương này, tác giả đã trình bày, phân tích một số vấn đề lý luận cơ
bản của tái phạm tội về ma túy, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Trong
đó, tác giả đưa ra quan điểm của mình về tái phạm tội về ma túy cùng với các đặc
điểm pháp lý để làm cơ sở nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy. Tác giả đã đề cập các trường hợp người được miễn TNHS
sau đó lại phạm tội, người được miễn hình phạt sau đó lại phạm tội; phân biệt tái
phạm tội và tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội; làm
rõ những vấn đề cơ bản về mục đích, ý nghĩa, chủ thể phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy. Đồng thời, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề
lý luận cơ bản về nội dung phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Từ đó, làm
rõ các biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
Những vấn đề lý luận được nghiên cứu, làm rõ ở chương này là cơ sở phương
pháp luận quan trọng để đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 trong Chương 2. Qua đó,
đề ra các giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến.
30
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI
VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực tiễn cơ sở phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Cơ sở chính trị
- Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về phòng, chống tội phạm
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về phòng, chống tội phạm và tái
phạm tội về ma túy được thể hiện rất rõ trong Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính
trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma
túy trong tình hình mới [6]. Chỉ thị số 48-CT/TW đã nêu rõ mục đích của công tác
phòng, chống tội phạm là “kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu
quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội”; yêu cầu phải “tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm; phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội… lấy chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp
chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội phạm” [7]. Chỉ thị số 09/CT/TW tiếp tục
xác định “bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH là nhiệm vụ đặc biệt của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta…” [8]. Trong Kết luận số 05-KL/TW, Ban Bí thư khẳng
định “công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách,
vừa thường xuyên, lâu dài…; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và thường
xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp…” [5].
Đặc biệt, Kết luận số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới. Trong đó, Ban Bí
thư yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể tiếp tục chỉ đạo thực hiện có
hiệu quả Chỉ thị số 21-CT/TW, tập trung một số công tác trọng tâm, như: Cần xác
định rõ công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý là nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp
31
bách, vừa thường xuyên, liên tục, lâu dài và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý của chính quyền, huy động sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia. Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên
nghe báo cáo và chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong
Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý ở Việt Nam đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030 và gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia khác.
Quốc hội, HĐND các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường thực hiện chức
năng giám sát công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý. Đây chính là những cơ
sở chính trị quan trọng để tăng cường công tác phòng, chống tội phạm về ma túy
nói chung và tăng cường phòng, chống tái phạm tội về ma túy nói riêng.
Căn cứ tình hình thực tế của địa phương, Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Chỉ
thị số 37-CT/TU và nhận định “thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma túy ngày càng
tinh vi, đối tượng sử dụng ma túy ngày càng trẻ hóa…; ý thức chấp hành pháp luật
về phòng, chống ma túy còn hạn chế. Công tác cai nghiện và quản lý sau cai còn
lúng túng…” [50]. Thường trực Thành ủy thường xuyên sơ kết, yêu cầu các cấp ủy
Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện
có hiệu quả Chỉ thị số 48-CT/TW, Chỉ thị số 37-CT/TU, Thông báo số 11-TB/TU;
đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội
phạm và tệ nạn ma túy nói riêng; xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, vừa cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp của các cấp uỷ Đảng.
- Chính sách của Nhà nước về phòng chống tội phạm
Ngày 31/7/1998, Chính phủ ban hành Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg với
mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về TTATXH, làm giảm một cách cơ bản các
loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và phát triển đất nước [13];
thành lập Ban chỉ đạo từ trung ương đến địa phương để triển khai thực hiện [17].
Phát huy kết quả đạt được, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg [16] và
Quyết định số 1217/QĐ-TTg với mục tiêu “hàng năm, giảm từ 2% đến 3% tỷ lệ tái
phạm tội trong số phạm nhân được đặc xá, mãn hạn tù…” [20], thể hiện sự quan
tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với việc kiềm chế và làm giảm tái phạm tội. Chính
32
phủ hướng đến năm 2020 “giảm tỷ lệ tái phạm tội trong số người chấp hành xong
án phạt tù xuống dưới 15%; ít nhất 50% số khu dân cư, xã, phường… đạt tiêu chí
An toàn về ANTT” [21]; “tăng 5 - 10% số vụ phạm tội về ma túy được phát hiện,
bắt giữ…; tư vấn, hỗ trợ tìm việc làm cho 100% người chấp hành xong án phạt tù”
[47]. Quyết định số 1001/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống và
kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [19];
Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm
giai đoạn 2015 - 2025 định hướng đến năm 2030 [21].
Về hoạt động giáo dục, cảm hóa người đã bị kết án, ngay từ năm 1998
trong“Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm” Chính phủ đã chỉ rõ “tổ
chức quản lý số đối tượng bị quản chế, cấm cư trú, cải tạo không giam giữ, bị kết
án tù cho hưởng án treo... không để họ tái phạm tội” [13]. Phòng ngừa tình hình tái
phạm tội phải thông qua việc phát động toàn dân tham gia với mục tiêu “ít nhất
60% số đối tượng vi phạm pháp luật hình sự, người được đặc xá tha tù, được bảo
lãnh, giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục tiến bộ tại cộng đồng dân cư” [13].
Ở phạm vi địa phương, UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Chỉ thị số
21/2004/CT-UB [52] và Quyết định số 5393/QĐ-UBND với mục tiêu “ngăn chặn,
từng bước đẩy lùi tội phạm, loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện phát sinh tội phạm…
giảm tỷ lệ tái phạm tội trong số người chấp hành xong án phạt tù xuống dưới 15%;
ít nhất 50% số khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu
chí an toàn về ANTT” kèm theo 6 nhóm giải pháp và 15 đề án trọng tâm để triển
khai thực hiện [57]. Xác định người nghiện ma túy là đối tượng tiềm ẩn nguy cơ vi
phạm pháp luật và lây nhiễm HIV/AIDS, UBND thành phố đã triển khai Đề án
“Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020” với mục tiêu “phấn đấu 100% người
nghiện mới, người tái nghiện được tổ chức cai nghiện và quản lý sau cai…; số
người nghiện ma túy trên địa bàn dưới 0,05% dân số; tỷ lệ tái nghiện hàng năm
không quá 40%; duy trì 100% cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, trường học,
đơn vị lực lượng vũ trang không có người nghiện…” [58] và hiện thực hóa bằng
các Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND, 26/2017/QĐ-UBND và 46/2019/QĐ-
33
UBND ban hành Quy chế phối hợp tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn thành
phố [54], [60], [61]. Đối với người có dấu hiệu loạn thần do sử dụng ma túy,
UBND thành phố đã ban hành Quy chế tổ chức tiếp nhận vào cơ sở y tế để chữa
bệnh [59].
Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cũng ký ban hành Kế hoạch số 32/KH-
BCĐ ngày 10/6/2019, về việc thực hiện “Tháng hành động phòng, chống ma túy”
(từ ngày 01/6 đến ngày 30/6/2019). Kế hoạch nhằm tiếp tục tăng cường, quán triệt
thực hiện có hiệu quả Kết luận số 95-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới
[4]; Nghị quyết số 98/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng,
chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới [23]; Chiến lược Quốc
gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030 [18]; Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy
không được kiểm soát trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm
2020” [58]; các Kế hoạch chuyên đề về phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và tệ
nạn ma túy… Tăng cường quản lý chặt chẽ địa bàn, kịp thời nắm tình hình, kiên
quyết phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm và tệ nạn ma tuý, bắt giữ các đối tượng chủ
mưu, cầm đầu; không để hình thành các tụ điểm phức tạp về tội phạm và tệ nạn ma
tuý trên địa bàn thành phố. Qua đó, tạo chuyển biến về nhận thức và hành động của
cả hệ thống chính trị và toàn dân đối với công tác phòng chống ma túy; đề cao vai
trò, trách nhiệm cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng trong đấu
tranh phòng chống tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố.
2.1.2. Cơ sở pháp lý
Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”. Điều 11
Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị
nghiêm trị”. Điều 4 BLHS 2015 quy định các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án,
Tư pháp… và các cơ quan khác có “trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ
34
chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Điều 5 BLTTHS 2015
quy định cơ quan Nhà nước “áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối
hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm”. Đối với tổ chức, công dân “có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo
tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Về hoạt động quản lý, giáo dục, cảm hóa người đã bị kết án, các cơ quan, tổ
chức và cư dân nơi cư trú cần phối hợp giúp đỡ người đó sửa chữa lỗi lầm. Chính
phủ đã cụ thể hóa trách nhiệm trên bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, như:
Luật Thi hành ánh hình sự 2019, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP…“Tạo điều kiện
thuận lợi cho người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định
cuộc sống, phòng ngừa tái phạm và vi phạm pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ
thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân
và người chấp hành xong án phạt tù” [28].
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
2.1.3.1. Thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng
Từ năm 2016 đến năm 2020, các lực lượng phòng chống tội phạm thành phố
Đà Nẵng đã phát hiện, xử lý hình sự tổng cộng 1.119 vụ/1.586 đối tượng phạm tội
về ma túy (Bảng 2.1, Biểu đồ 2.1). Nhìn chung, có sự tăng dần đều cả về số vụ, số
đối tượng phạm tội về ma túy bị phát hiện, xử lý hình sự (Bảng 2.2, Biểu đồ 2.2).
Tình hình tái phạm tội về ma túy cũng có chiều hướng gia tăng, cụ thể: Đã phát
hiện, xử lý tổng cộng 541 vụ/985 đối tượng tái phạm tội về ma túy (Bảng 2.3), năm
2017 tăng 14 vụ/51 đối tượng, năm 2018 tăng 7 vụ/43 đối tượng, năm 2019 tăng 84
vụ/54 đối tượng, riêng năm 2020 tuy giảm 59 vụ nhưng tăng 24 đối tượng. Nhìn
chung, tình hình tái phạm tội về ma túy có xu hướng tăng tương ứng với tình hình
tội phạm ma túy nói chung tại thành phố Đà Nẵng (Biểu đồ 2.2, 2.3b). Trong đó, tỷ
lệ tái phạm tội về ma túy xảy ra trong vòng 1 năm sau khi chấp hành xong hình phạt
là 37,46%, từ 1 đến 3 năm là 28,73%, từ 3 năm đến 5 năm là 21,83%, từ 5 năm trở
lên là 11,98% (Bảng 2.18, Biểu đồ 2.18). Phần lớn tái phạm tội về ma túy bị xử phạt
35
tù dưới 3 năm chiếm tỷ lệ 47,92%, phạt tù từ 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 33,71%
(Bảng 2.9, Biểu đồ 2.9).
Về cơ bản, tình hình tái phạm tội về ma túy chuyển biến tương ứng với tình
hình tái phạm tội và tình hình tội phạm nói chung ở thành phố Đà Nẵng, tuy có sự
tăng giảm từng năm khác nhau nhưng xu hướng chung là tăng cả về số vụ và số đối
tượng, đặc biệt là sự tăng ổn định về số đối tượng tái phạm tội (Bảng 2.4, 2.5, 2.6;
Biểu đồ 2.3a, 2.3b, 2.5, 2.6). Kết quả trên cho thấy, mặc dù công tác phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy có kết quả nhưng cần tăng cường hơn nữa.
2.1.3.2. Cơ cấu tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Cơ cấu tái phạm tội về ma túy theo địa bàn quận, huyện
Từ năm 2016 đến năm 2020, tất cả quận, huyện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng đều xảy ra tái phạm tội về ma túy. Trong đó, nổi bật là Thanh Khê (206 đối
tượng), Sơn Trà (188 đối tượng), Hải Châu (169 đối tượng). Các địa bàn có mật độ
tái phạm tội về ma túy bị phát hiện, xử lý cao gồm: Thanh Khê (21,68 đối
tượng/1km2), Hải Châu (7,35 đối tượng/1km2), Ngũ Hành Sơn (3,70 đối
tượng/1km2) (Bảng 2.11, Biểu đồ 2.11). Nếu so sánh với mật độ dân cư để đánh giá
tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình tái phạm tội về ma túy đối thì những địa
bàn trọng điểm tái phạm tội về ma túy là Ngũ Hành Sơn (1 đối tượng/845,78 dân),
Sơn Trà (1 đối tượng/922,63 dân), Thanh Khê (1 đối tượng/996,80 dân) (Bảng 2.10,
Biểu đồ 2.10). Kết quả nghiên cứu tại Bảng 7, 8 và Biểu đồ 7, 8 cho thấy, trong tổng
số đối tượng tái phạm tội về ma túy bị xử lý thì các quận trung tâm vẫn là trọng
điểm như: Hải Châu, Ngũ Hành Sơn, Thanh Khê, Sơn Trà. Phần lớn đối tượng tái
phạm tội về ma túy có hộ khẩu thành phố Đà Nẵng (chiếm tỷ lệ 85,14%), số đối
tượng tái phạm tội có hộ khẩu ngoại tỉnh khá thấp (chiếm tỷ lệ 14,86%) (Bảng 2.15,
Biểu đồ 2.15).
- Cơ cấu tái phạm tội về ma túy theo tội danh và mục đích tái phạm tội
Căn cứ theo tội danh trong các vụ án tái phạm tội về ma túy được khởi tố trên
địa bàn thành phố cho thấy, cao nhất là “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (quy định
tại Điều 249 BLHS 2015) với 332 vụ/481 đối tượng (tương ứng 61,37% số
vụ/48,83% số đối tượng) và “Mua bán trái phép chất ma tuý” (quy định tại Điều
36
251 BLHS 2015) với 193 vụ/392 đối tượng (tương ứng 35,67% số vụ/39,80% số
đối tượng), các tội danh về ma túy khác là 16 vụ/112 đối tượng (tương ứng 2,96%
số vụ/11,37% số đối tượng) (Bảng 5, Biểu đồ 5). Điều này phản ánh thị trường cung
cấp ma túy tại thành phố Đà Nẵng rất sôi động, hấp dẫn những người đã từng bị xử
lý hình sự về ma túy tiếp tục tái phạm tội. Cũng đánh giá về tội danh, tái phạm chủ
yếu về tội danh đã từng bị xử lý với tổng cộng 435 vụ/780 đối tượng (chiếm tỷ lệ
80,41% số vụ/79,19% số đối tượng), số phạm tội danh mới khá ít chỉ 106 vụ/205
đối tượng (chiếm tỷ lệ 19,59% số vụ/20,81% số đối tượng) (Bảng 14, Biểu đồ 14).
Kết quả này cho thấy, các đối tượng có xu hướng tái phạm lại tội danh cũ vì đã có
kinh nghiệm trong việc thực hiện tội phạm và đối phó với cơ quan chức năng.
Đánh giá về mục đích tái phạm tội, tác giả nhận thấy chủ yếu là mục đích vụ
lợi với 331 vụ/547 đối tượng (chiếm tỷ lệ 61,18% số vụ/55,53% số đối tượng) và sử
dụng ma túy cho bản thân với 210 vụ/438 đối tượng (chiếm tỷ lệ 38,82% số
vụ/44,47% số đối tượng) (Bảng 2.8, Biểu đồ 2.8). Điều này cho thấy, thu lợi bất
chính và có ma túy thỏa mãn nhu cầu bản thân là mục đích chủ yếu của tái phạm tội
về ma túy.
- Cơ cấu tái phạm tội về ma túy theo loại ma túy sử dụng
Trong tổng số 985 đối tượng tái phạm tội về ma túy bị xử lý, có 962 đối
tượng có tiền sử sử dụng ma túy (chiếm tỷ lệ 97,66%), rất ít đối tượng không sử
dụng ma túy (chiếm tỷ lệ 2,34%). Trong đó, loại ma túy được sử dụng nhiều nhất là
ma túy tổng hợp (chiếm tỷ lệ 67,46%) (Bảng 2.22; Biểu đồ 2.22a, 2.22b).
- Cơ cấu tái phạm tội về ma túy theo đặc điểm nhân thân người phạm tội
* Về giới tính: Trong tổng số 985 đối tượng tái phạm tội về ma túy bị xử lý,
chủ yếu là nam giới với 875 đối tượng (chiếm tỷ lệ 88,83%), nữ giới chỉ có 110 đối
tượng (chiếm tỷ lệ 11,17%). Nhìn chung, tỷ lệ nam/nữ tái phạm tội về ma túy ổn
định qua các năm, cụ thể: Nam 88,46% - 88,77%, nữ: 11,54% - 11,23% (Bảng 2.12,
Biểu đồ 2.12a).
* Về độ tuổi: Đa số người tái phạm tội về ma túy có độ tuổi từ 18 đến 30
(chiếm tỷ lệ 77,36%), độ tuổi trên 30 chiếm tỷ lệ 20,61%, rất ít trường hợp tái phạm
tội dưới 18 tuổi (chiếm tỷ lệ 2,03%). Độ tuổi này phần nào phản ánh tình trạng “trẻ
37
hóa” của đối tượng phạm tội về ma túy (Bảng 2.12, Biểu đồ 2.12b).
* Về nghề nghiệp: Phần lớn người tái phạm tội về ma túy có nghề nghiệp
không ổn định (chiếm tỷ lệ 60,30%), tỷ lệ không có nghề nghiệp là 26,60%, số
người có nghề nghiệp ổn định rất thấp (chiếm tỷ lệ 13,10%) (Bảng 2.13, Biểu đồ
2.13). Qua phân tích Bảng 10 và Biểu đồ 10 nhận thấy, những người không có nghề
nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định có nguy cơ tái phạm tội về ma túy rất cao,
đòi hỏi việc giải quyết công ăn việc làm, tái hòa nhập cộng đồng cho những người
này cần được quan tâm, nâng cao hiệu quả.
* Về trình độ học vấn: Đa số người tái phạm tội về ma túy chưa hoàn thành
chương trình giáo dục phổ thông. Cụ thể: Tiểu học trở xuống chiếm tỷ lệ 5,48%,
trung học cơ sở chiếm tỷ lệ 31,68%, trung học phổ thông chiếm tỷ lệ 46,70%, chỉ có
16,14% đối tượng có trình độ từ cao đẳng trở lên (Bảng 2.14, Biểu đồ 2.14).
* Về tình trạng hôn nhân, đặc điểm gia đình: Phần lớn người tái phạm tội về
ma túy chưa kết hôn (chiếm tỷ lệ 50,46%), tỷ lệ kết hôn là 31,88%. Tỷ lệ tái phạm
tội về ma túy ở những người có gia đình đầy đủ cha mẹ cao hơn những người có gia
đình khiếm khuyết (62,13% so với 37,87%) (Bảng 2.16; Biểu đồ 2.16a, 2.16b).
2.2. Kết quả đạt được trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, tổ chức triển khai
thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Hệ thống chính trị thành phố Đà Nẵng đóng vai trò to lớn trong việc bảo đảm
ANTT nói chung, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng. Cụ thể:
- UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 6111/QĐ-UBND phê duyệt
Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát
trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020” [58]; Quyết định
số 8048/QĐ-UBND thành lập Ban chỉ đạo Phòng, chống HIV/AIDS, tệ nạn xã hội
và xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”. HĐND thành phố ban hành
Quyết định số 23/HĐND thành lập Đoàn giám sát việc thực hiện các quy định pháp
luật về phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố…
38
- Cơ quan thường trực Phòng, chống ma túy đã tham mưu cho Thành ủy,
UBND thành phố xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo sát với thực tế, phù
hợp với yêu cầu phòng ngừa tình hình tội phạm. Qua đó, đã thực hiện các biện pháp
phòng, chống tội phạm và tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố, cụ thể:
Tham mưu Thành ủy tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ
Chính trị [6] và Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành uỷ [50]. Tham mưu UBND thành
phố ban hành công văn chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, UBND các quận, huyện tổ
chức tuyên truyền nhân “Tháng hành động phòng, chống ma túy”. Hoàn thành Đề
án “Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy - Đẩy lùi tệ nạn ma túy trong
thanh niên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Tiếp tục thực hiện Kế hoạch số
114/KH-UBND ngày 07/6/2010 của UBND thành phố về thực hiện Đề án “Xây
dựng xã, phường, thị trấn không tệ nạn ma túy”. Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch liên
tịch số 67/KHLT giữa Công an thành phố và Thành đoàn về thực hiện Nghị quyết
Liên tịch số 03/2010/NQLT của Bộ Công an và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh về phối hợp hành động phòng, chống ma túy trong thanh thiếu niên giai đoạn
2010 - 2015 và những năm tiếp theo. Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch số 32/KH-BCĐ
ngày 10/6/2019, về việc thực hiện Tháng hành động phòng, chống ma túy (từ 01/6
đến 30/6/2019). Chỉ đạo thực hiện Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn
2016 - 2025 [57] và Kế hoạch phòng, chống ma túy giai đoạn 2016 - 2020.
- Lực lượng Công an là nòng cốt trong công tác phòng ngừa tội phạm và tái
phạm tội về ma túy. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
Công an thành phố đã tích cực tham mưu ban hành nhiều chương trình, kế hoạch
phòng, chống ma túy. Cụ thể:
+ Tháng 11/2016, Công an thành phố đã ban hành Kế hoạch phòng, chống
đối tượng có biểu hiện loạn thần do sử dụng ma túy trên địa bàn thành phố và tham
mưu UBND thành phố ban hành thành Quy chế phối hợp thực hiện [59]. Tính đến
tháng 3/2020, Công an các đơn vị, địa phương đã quản lý 324 đối tượng sử dụng ma
túy có dấu hiệu loạn thần và theo dõi chặt chẽ 59 đối tượng nghi vấn, không để xảy
ra các vụ việc ảnh hưởng nghiêm trọng ANTT.
39
+ Tháng 01/2016, Công an quận Thanh Khê đã tham mưu Quận ủy ban hành
Đề án số 03-ĐA/QU về “Phòng, chống ma túy trên địa bàn quận Thanh Khê giai
đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo” [40]. Đến cuối năm 2019, đã có 933
lượt đối tượng được giáo dục, giúp đỡ; đã công nhận tiến bộ 583 lượt đối tượng và
đang tiếp tục giáo dục, giúp đỡ 135 đối tượng khác; hỗ trợ 50 người cai nghiện
thành công từ đủ 5 năm trở lên với kinh phí 10.000.000 đồng/người.
2.2.2. Thực trạng tổ chức các biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.2.1. Biện pháp phòng ngừa xã hội
- Công tác tuyên truyền, giáo dục
Thời gian qua, công tác tuyên truyền phòng chống ma túy nói chung và
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố được
củng cố, đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả tương đối cao, góp phần kiềm chế, đẩy lùi
dần tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Hàng năm, Ban chỉ đạo Phòng chống ma
túy, mại dâm, HIV/AIDS thành phố và các quận, huyện đã chỉ đạo các cấp, các
ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống ma túy với nhiều hình thức
đa dạng, phong phú. Cụ thể: Ở cấp thành phố, duy trì và nâng cao chất lượng các
chuyên mục định kỳ, như: “An ninh Đà Nẵng” trên Đài phát thanh - Truyền hình
Đà Nẵng [1.1], “An ninh - Trật tự” trên Báo Công an thành phố [1.2], “Pháp luật”
trên Báo Đà Nẵng [1.3]… Thường xuyên đăng tin, bài về phòng, chống ma túy trên
các cổng thông tin điện tử, như: “An ninh Đà Nẵng - Tin tức” trên Cổng thông tin
điện tử thành phố [1.4], “Pháp luật và đời sống” trên website VKSND thành phố
[1.5]… Ở cấp quận, việc tuyên tuyền trên hệ thống phát thanh địa phương được duy
trì, chất lượng được nâng lên, thu hút sự quan tâm của nhân dân. Phòng XDPT &
QLBVDP, Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố và lực lượng CSĐTTP về
ma túy Công an các quận, huyện xây dựng nội dung và đưa hàng trăm tin, bài,
phóng sự về phòng, chống ma túy. Hiện nay, việc tuyên truyền thông qua “Tổ tự
quản” tại khu dân cư đang phát huy hiệu quả, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Việc phát động toàn dân tham gia phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”
được chú trọng, nâng cao về lượng và chất. Thông qua phát động phong trào, vận
40
động nhân dân toàn thành phố hưởng ứng tích cực phòng ngừa tội phạm và tái phạm
tội về ma túy. Cụ thể:
+ Lực lượng Công an phối hợp với chính quyền các xã, phường đẩy mạnh
vận động quần chúng tham gia phòng, chống ma túy; xây dựng mới 3 mô hình và
tiếp tục duy trì 18 mô hình phòng, chống ma túy. Nhiều mô hình đã phát huy hiệu
quả, như: “Câu lạc bộ chủ nhà nghỉ, khách sạn phòng chống tội phạm và tệ nạn xã
hội” (phường Thanh Khê Đông); “Vùng giáo 3 không” (phường Tam Thuận); “3
liên kết, 3 trách nhiệm”, “Câu lạc bộ Hướng Thiện” phường Vĩnh Trung); “5+1”,
“1 hướng, 2 quản, 3 tự giác” (phường Hòa Khê)… Hiện nay, thành phố có
686/2.589 tổ dân phố không có tệ nạn ma túy. Qua tuyên truyền, ý thức phòng,
chống ma túy của nhân dân được nâng cao; hoạt động phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy của tổ chức quần chúng ở cơ sở được củng cố, đi vào chiều sâu.
+ Bước đột phá nâng cao chất lượng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy là đưa tiêu chí phòng, chống ma túy và tệ nạn xã hội vào bình xét phong trào thi
đua “Vì ANTQ” cấp xã, phường, các danh hiệu “Khu phố văn hóa”, “Gia đình văn
hóa” hàng năm. Việc này đã góp phần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,
thúc đẩy hoạt động của đội ngũ tuyên truyền viên đối với công tác phòng, chống ma
túy và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
+ Thành đoàn phối hợp với Đoàn thanh niên Công an thành phố thường
xuyên biên tập, đăng tải tin bài tuyên truyền về phòng, chống ma túy trên các trang
thông tin điện tử địa phương, phát hành 25.300 bản tin trên fanpage “Tuổi trẻ Đà
Nẵng” [1.6], “Tuổi trẻ Công an thành phố Đà Nẵng” [1.7], “Phong trào Toàn dân
bảo vệ ANTQ thành phố Đà Nẵng” [1.8] để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
phòng, chống ma túy; thành lập “Đội tuyên truyền lưu động phòng chống tội phạm
ma túy và tệ nạn xã hội” [1.9] tại 41/56 phường, xã và đã thực hiện 152 chương
trình tuyên truyền phòng, chống ma túy tại các địa bàn dân cư.
Đối với các ban, ngành có liên quan cũng có nhiều hình thức tuyên truyền
phòng, chống ma túy và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, như:
+ Sở Y tế phối hợp Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội và Sở Giáo dục - Đào
41
tạo in ấn, phát tờ rơi và tổ chức hàng chục buổi tuyên truyền về tác hại của ma túy
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung tâm giáo dục thường xuyên… trên
địa bàn thành phố, thu hút hàng nghìn lượt sinh viên, học viên tham gia. Đại học Đà
Nẵng đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp quản lý học sinh, sinh viên đối với tệ nạn
ma túy, tổ chức cho 100% học sinh, sinh viên ký cam kết “nói không với ma túy”,
phối hợp chặt chẽ với Công an địa phương, gia đình học sinh quản lý con em.
Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm thành phố đã phối hợp với các sở, ban,
ngành tổ chức 3.026 đợt tập huấn về phòng, chống tội phạm ma tuý cho hàng trăm
ngàn lượt cán bộ cốt cán và nhân dân. Đã thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép
tuyên truyền phòng, chống ma túy và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn với phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Tổ dân phố không
có tội phạm và tệ nạn ma túy, tệ nạn xã hội”.
- Công tác quản lý người có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy
+ Về quản lý người có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy
Người có nguy cơ tái phạm tội cao về ma túy là người chấp hành xong án
phạt tù trở về địa phương; người có tiền án, tiền sự về ma túy; người có nhân thân
xấu; người nghiện ma túy; người được miễn TNHS, miễn hình phạt… Chính quyền
địa phương, lực lượng Công an chuyên trách thường xuyên quản lý, giám sát những
đối tượng này bằng các biện pháp, như: Theo dõi các bất minh về quan hệ xã hội,
kinh tế, những bất thường về hành vi; đồng thời, quan tâm giúp đỡ, nắm bắt tâm tư
nguyện vọng để kịp thời phát hiện những dấu hiệu tiêu cực có khả năng dẫn đến
hành vi tái phạm tội về ma túy. Riêng đối với người chấp hành xong án phạt tù về
địa phương, Đội CSTHAHS & HTTP Công an quận, huyện và Công an xã, phường
lập hồ sơ giám sát, giáo dục theo Nghị định số 49/2020/NĐ-CP [28]. Tuy nhiên,
những người chấp hành xong án phạt tù nhưng không về lại địa phương hoặc đối
tượng từ địa phương khác đến Đà Nẵng sinh sống (trong đó có phạm tội về ma túy)
thì chưa có thống kê, theo dõi cụ thể.
+ Về biện pháp cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện
Hầu hết người tái phạm tội về ma túy có tiền sử sử dụng ma túy với tỷ lệ là
42
97,66% tổng số người tái phạm tội bị phát hiện, xử lý hình sự (Bảng 2.22, Biểu đồ
2.22a). Bên cạnh tổ chức thi hành bản án đối với họ, các cơ quan chức năng còn tổ
chức cai nghiện, chữa cho những người này. Hơn nữa, người nghiện ma túy cũng
thuộc nhóm có nguy cơ cao phạm tội về ma túy. Vì vậy, người nghiện ma túy nói
chung, người từng bị kết án ma túy nói riêng luôn được chính quyền thành phố quan
tâm tổ chức cai nghiện. Hiện nay, có 3.841 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý
theo Đề án 6111 [58]. Tất cả các quận, huyện và 56/56 xã, phường trên địa bàn
thành phố đều có người nghiện ma túy. Theo thống kê của Sở Lao động - Thương
binh & Xã hội và Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố, trong thời gian
2016 - 2020, toàn thành phố có 5.349 người nghiện ma túy được tổ chức cai nghiện.
Trong đó, có 2.836 người cai nghiện tập trung (chiếm tỷ lệ 53,01%), 1.672 người
cai nghiện bằng Methadone (chiếm tỷ lệ 31,26%) và 841 người cai nghiện tại gia
đình (chiếm tỷ lệ 15,73%) (Bảng 2.21, Biểu đồ 2.21). Hiện nay, thành phố áp dụng
2 hình thức cai nghiện (cai nghiện tập trung và cai nghiện tại cộng đồng) tại 1 cơ sở
xã hội, 2 cơ sở điều trị Methadone và 56 trung tâm y tế phường, xã [54]. Cụ thể:
1) Cai nghiện tập trung được thực hiện tại Cơ sở xã hội Bàu Bàng (thuộc Sở
Lao động - Thương binh & Xã hội). Trong giai đoạn 2016 - 2020, Cơ sở Bàu Bàng
đã cai nghiện cho 2.836 lượt người (thuộc Đề án 6111 quản lý). Tại đây, người
nghiện được điều trị theo phác đồ cai nghiện, được sử dụng các thuốc hỗ trợ cắt
cơn, phục hồi sức khỏe và được cách ly trong 12 tháng. Trong vòng 1 năm kể từ khi
hoàn thành cai nghiện, có 572/2.836 người tái nghiện (chiếm tỷ lệ 20,17%), chỉ có
297/2.836 người cai nghiện thành công (sau 3 năm chưa phát hiện tái nghiện, chiếm
tỷ lệ 10,47%) (Bảng 2.21).
2) Cai nghiện tại cộng đồng gồm 2 hình thức: Điều trị tại cơ sở Methadone
và điều trị tại gia đình. Trong giai đoạn 2016 - 2020, có 1.672 người điều trị bằng
Methadone (thông qua 2 cơ sở Methadone tại quận Hải Châu, Thanh Khê) và 841
người cai nghiện tại gia đình (thông qua 56 cơ sở y tế phường, xã). Người nghiện
được điều trị theo phác đồ cai nghiện, được tiếp nhận, lập hồ sơ và phân công thành
viên theo dõi, quản lý, đánh giá định kỳ. Thành phố cũng có chính sách hỗ trợ chi
phí khám sức khỏe, xét nghiệm chất ma túy… và tiền thuốc cắt cơn nghiện cho
43
người cai nghiện. Trong vòng 1 năm kể từ khi hoàn thành cai nghiện, có 219/1.672
người điều trị Methadone (chiếm tỷ lệ 13,09%) và 163/841 người cai nghiện tại gia
đình (chiếm tỷ lệ 19,38%) tái nghiện (Bảng 2.21, Biểu đồ 2.21).
Có sự chênh lệch lớn giữa số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (3.841)
và số người cai nghiện thực tế (5.349) là vì có nhiều người tái nghiện và cai nghiện
nhiều lần, đặc biệt có trường hợp đã cai nghiện 4 lần nhưng vẫn tái nghiện. Trên
thực tế, cắt cơn cai nghiện ma túy đã khó nhưng để quản lý, giúp người cai nghiện
tái hòa nhập cộng đồng, không tái nghiện còn khó khăn hơn nhiều. Mặc dù đã có Đề
án về quản lý người nghiện ma túy [58] nhưng thực tế việc triển khai tiếp nhận,
quản lý và hỗ trợ người cai nghiện sau chữa bệnh chưa thực sự rõ ràng và hiệu quả.
Hiện nay, việc cai nghiện được chia làm 5 giai đoạn trong đó có 4 giai đoạn ở trong
trung tâm cai nghiện và 1 giai đoạn ở cộng đồng [27]. Tuy nhiên, sau khi được tái
hòa nhập cộng đồng thì tỷ lệ người tái nghiện khá cao, các hoạt động để người
nghiện tái hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động lành mạnh, tạo việc làm cho
người nghiện sau cai còn rất hạn chế.
- Biện pháp quản lý chất ma túy, tiền chất ma túy
Các tiền chất dùng để sản xuất ma túy tổng hợp như Ephedrin,
PseudoEphedrin có thể được điều chế từ các tân dược chứa tiền chất, như: Tiffy-
Flu, Decolgen, Ame-Flu, Dotoux, Glotadol, Glotifed, Dolirhume, Denausal,
Partamol… Đây là các hoạt chất thường dùng để bào chế thuốc trị cảm cúm, ho
hen; người mua không phải dùng đến đơn thuốc của bác sỹ, việc mua bán dễ dàng,
không bị kiểm duyệt… Một số trường hợp sử dụng tiền chất công nghiệp trôi nổi
trên thị trường thì các loại hóa chất này cũng dễ dàng mua được tại các cửa hàng
hóa chất, phần lớn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Để sản xuất ma túy tổng hợp thì
phải có tiền chất. Vì thế, để ngăn chặn nguồn cung, ngoài việc chặn bắt trên các
tuyến biên giới và trong nội địa, việc quản lý các tiền chất dùng để sản xuất trái
phép chất ma túy trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Theo thống kê của Sở Kế hoạch - Đầu tư, hiện nay trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng có 35 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dược phẩm và vật tư y tế và 26
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hóa chất (chưa kể hàng nghìn cơ sở bán lẻ).
44
Phòng CSĐTTP về kinh tế Công an thành phố đang lập hồ sơ quản lý nghiệp vụ đối
với 2 ngành nghề này. Tuy nhiên, UBND thành phố chưa có biện pháp quản lý việc
sản xuất, mua bán tiền chất. Đây là kẽ hở lớn mà các đối tượng có thể lợi dụng để
phạm tội, tái phạm tội sản xuất trái phép ma túy.
- Công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù,
người hoàn thành cai nghiện, người miễn TNHS, miễn hình phạt
Là một thành phố có tốc độ phát triển nhanh, mạnh, Đà Nẵng cũng đối diện
với tình trạng số người vi phạm pháp luật gia tăng và số người chấp hành xong hình
phạt trở về địa phương ngày càng nhiều. Vì vậy, công tác tái hoà nhập cộng đồng
cho những đối tượng này luôn được lãnh đạo thành phố quan tâm, huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội cùng tham gia, bước
đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Một trong những mô hình được cả nước biết đến như một điểm sáng của
thành phố Đà Nẵng trong công tác này là “Quỹ giải quyết việc làm cho đối tượng
đã từng vi phạm pháp luật sau khi chấp hành hình phạt trở về” (Quỹ hoàn lương)”
của UBND thành phố. Được hình thành từ năm 2001, đến nay Quỹ đã cho 1.127
lượt người vay với tổng số tiền hơn 3,4 tỷ đồng. Theo đánh giá của Phòng CSĐTTP
về TTXH Công an thành phố (đơn vị quản lý trực tiếp Quỹ) đa số người được vay
vốn đã sử dụng đúng mục đích, bước đầu góp phần ổn định đời sống, tạo điều kiện
hoà nhập cộng đồng tốt hơn. Trong đó, nhiều người vay tiền làm ăn buôn bán, mua
sắm trang thiết bị để nuôi dạy trẻ tại nhà, tổ chức chăn nuôi… trả được vốn sớm và
được đề nghị cho vay tiếp lần 2.
Nhiều mô hình, cách làm sáng tạo được xây dựng, hoạt động có sự liên kết,
phối hợp giữa Công an với các ngành, đoàn thể vận động Đoàn viên, Hội viên và
nhân dân tham gia. Trong đó có mô hình “5+1” của phường Tam Thuận (quận
Thanh Khê) hoạt động theo hình thức cứ 1 người vi phạm thì có 5 người đại diện
cho 5 thành phần (gồm: Công an, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên) cùng tham gia giáo dục, quản lý, cảm hoá. Đến nay,
mô hình này đã giúp đỡ 80/103 người, trong đó có 42 người có công ăn việc làm ổn
định; mô hình “1 hướng, 2 quản, 3 tự giác” của phường Hoà Khê (quận Thanh
45
Khê) thực hiện, đã giúp đỡ cho 22 đối tượng có việc làm ổn định; mô hình “Hỗ trợ
vay vốn” của Hội phụ nữ phường Khuê Mỹ (quận Ngũ Hành Sơn) cho 10 lượt
người vay vốn với số tiền 85.000.000 đồng…
2.2.2.2. Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
Đây là biện pháp quan trọng có tính chất răn đe đối với các đối tượng tái
phạm tội về ma túy; Công an, Bộ đội biên phòng, VKSND, TAND… là những lực
lượng quan trọng trong phòng ngừa nghiệp vụ.
- Phòng ngừa của lực lượng Công an
Lực lượng Công an được pháp luật cho phép áp dụng các biện pháp mang
tính chất đặc thù để tiến hành công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy,
bao gồm: Biện pháp pháp luật, biện pháp nghiệp vụ... Trong những năm qua, lực
lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy Công an thành phố đã triển
khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ cơ bản mang tính chất đặc thù, chuyên biệt để
điều tra, khám phá, làm sáng tỏ các hoạt động tái phạm tội về ma túy. Cụ thể:
+ Công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình địa bàn: Đây là hoạt động điều tra
nghiên cứu, thu thập rộng rãi, có hệ thống những thông tin, tài liệu về tình hình có
liên quan ở địa bàn, tuyến, lĩnh vực, hệ loại đối tượng phục vụ công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn TTATXH (trong đó có phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy). Từ năm 2016 đến năm 2020, lực lượng CSĐTTP về ma túy
Công an thành phố duy trì điều tra cơ bản đối với 12 đối tượng thuộc 3 nhóm. Từ
công tác điều tra cơ bản, kịp thời phát hiện những đối tượng biểu hiện nghi vấn tái
phạm tội về ma túy để tập trung lực lượng xác minh làm rõ. Điển hình như:
Nguyễn Vũ Hòa (sinh năm: 1990; trú: tổ 42, phường Thọ Quang, quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng) bị TAND thành phố Đà Nẵng tuyên phạt 07 năm tù giam
về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 02/2016/HSPT). Sau khi
chấp hành án xong về địa phương (tháng 9/2020), Hòa thường xuyên liên lạc với
các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn quận Thanh Khê. Qua điều tra cơ bản, Đội
CSĐTTP về ma túy Công an quận Thanh Khê phát hiện Hòa có biểu hiện nghi vấn
tái phạm tội về ma túy nên đã tập trung lực lượng, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ
để giám sát Hòa. Đến 11 giờ 30 ngày 03/11/2020, Đội CSĐTTP về ma túy Công an
46
quận Thanh Khê đã bắt quả tang Hòa bán ma túy cho 1 đối tượng trước nhà số
112/175 Trần Cao Vân, thành phố Đà Nẵng. Tang vật thu giữ là 10,042 gam ma túy
đá (Methamphetamine). Ngày 11/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh
Khê đã khởi tố Nguyễn Vũ Hòa về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (quy định
tại khoản 2 Điều 251 BLHS 2015).
+ Công tác phát hiện, xử lý tái phạm tội về ma túy: Theo thống kê của Công
an thành phố Đà Nẵng, trong giai đoạn 2016 - 2020 lực lượng phòng chống tội
phạm đã phát hiện 541 vụ/985 đối tượng tái phạm tội về ma túy và đã chuyển toàn
bộ cho TAND thành phố xét xử, chiếm tỷ lệ 48,35% số vụ/62,11% số đối tượng
phạm tội về ma túy, 26,51% số vụ/22,69% số đối tượng tái phạm tội nói chung và
9,74% số vụ/10,45% số đối tượng phạm tội đã được phát hiện, xét xử trên toàn
thành phố (Bảng 2.3, 2.5, 2.6; Biểu đồ 2.3a, 2.5, 2.6).
Trong tổng số 985 bị cáo tái phạm tội về ma túy đã xử lý, số bị cáo có khung
hình phạt dưới 3 năm tù là 472 (chiếm tỷ lệ 47,92%); khung hình phạt từ 3 năm đến
7 năm tù là 332 (chiếm tỷ lệ 33,71%); khung hình phạt trên 7 năm đến 15 năm tù là
137 (chiếm tỷ lệ 13,91%); khung hình phạt trên 15 năm là 42 (chiếm tỷ lệ 4,26%),
tù chung thân hoặc tử hình là 2 (chiếm tỷ lệ 0,20%) (Bảng 2.9, Biểu đồ 2.9). Đa số
các vụ tái phạm tội được xét xử công khai tại trụ sở TAND các cấp, trong đó xét xử
lưu động không đáng kể (97 vụ). Theo thống kê của Phòng CS THAHS & HTTP
Công an thành phố, từ năm 2016 đến năm 2020 có 1.504 người chấp hành xong án
phạt tù về ma túy trở về địa phương. Sau khi tái hòa nhập cộng đồng, số đối tượng
tái phạm tội về ma túy là 985 người (chiếm tỷ lệ 65,49%) (Bảng 2.9, Biểu đồ 2.9).
+ Công tác thi hành hình phạt: Hiện nay, trên địa bàn thành phố không có
trại giam trực thuộc Bộ Công an mà chỉ có 1 trại tạm giam trực thuộc Công an thành
phố (Trại giam Hòa Sơn) thực hiện chức năng chính là tạm giữ, tạm giam người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo các vụ án đang điều tra, xét xử và thi hành 1 số lượng hạn
chế án phạt tù (khoảng 60 phạm nhân/năm). Đây là những phạm nhân có mức án
dưới 7 năm tù giam, không phạm tội về ma túy. Phạm nhân về ma túy thi hành án
tại các trại giam trực thuộc Bộ Công an, như: An Điềm (Quảng Nam), Bình Điền
(Thừa Thiên - Huế), Hoàng Cát (Quảng Trị). Vì vậy, tác giả không có số liệu để
47
phân tích, đánh giá thực trạng công tác thi hành hình phạt đối với người phạm tội về
ma túy ở thành phố Đà Nẵng. Đây là điểm hạn chế của luận văn mà tác giả cần khắc
phục, bổ sung trong các nghiên cứu tiếp theo.
Về công tác tổ chức, quản lý giam giữ phạm nhân, Trại tạm giam Công an
thành phố thường xuyên kiểm tra nhà giam, buồng giam, người, quà thăm gặp, các
khu vực lao động để ngăn chặn, xử lý tình trạng phạm nhân vi phạm, đặc biệt là tái
phạm tội trong khi thi hành án. Theo thống kê của Trại tạm giam Công an thành
phố, từ năm 2016 đến năm 2020 có 103 phạm nhân tái phạm tội (chiếm tỷ lệ
33,01%) trong tổng số 312 phạm nhân thi hành án tại đây. Số phạm nhân tái phạm
tội là nam giới chiếm tỷ lệ 32,53%, nữ giới chiếm tỷ lệ 34,92%; không có tái phạm
tội về ma túy (Bảng 2.20). Nếu căn cứ tình hình tái phạm tội để đánh giá chất lượng,
hiệu quả công tác quản lý, giáo dục phạm nhân thì Trại tạm giam Công an thành
phố còn nhiều hạn chế, thiếu sót cần chấn chỉnh, khắc phục.
- Phòng ngừa của lực lượng Bộ đội biên phòng
Lực lượng Phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên
phòng thành phố Đà Nẵng áp dụng các biện pháp trinh sát, xác lập và đấu tranh 11
chuyên án về ma túy; các đồn biên phòng cũng thường xuyên tổ chức trinh sát nắm
tình hình, phát hiện, bắt giữ 112 vụ/249 đối tượng phạm tội về ma túy (trong đó có
tái phạm tội về ma túy). Điển hình như:
Qua trinh sát nắm tình hình, lực lượng phòng chống ma túy Bộ đội biên
phòng thành phố phát hiện Lê Thị Hậu (sinh năm: 1997; trú: phường Hòa Khánh
Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng) và Võ Ngọc Ánh (sinh năm: 1995; trú:
phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng) có biểu hiện nghi vấn mua ma
túy từ các tỉnh phía Bắc mang vào tiêu thụ tại thành phố Đà Nẵng nên đã sử dụng
các biện pháp nghiệp vụ để theo dõi. Đến 19 giờ 00 ngày 13/10/2019, tại khu vực
ngã ba đường tránh nam Hải Vân, trinh sát Bộ đội biên phòng đã phối hợp với
Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố và Bộ đội biên phòng các tỉnh Nghệ
An, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế bắt quả tang Hậu, Ánh đang vận chuyển 1kg ma
túy tổng hợp (Ketamine) từ Nghệ An vào Đà Nẵng tiêu thụ. Bản thân Hậu, Ánh đều
có tiền án về tàng trữ trái phép chất ma túy.
48
- Phòng ngừa của VKSND, TAND
VKSND thực hiện việc giám sát hoạt động của các ban, ngành trong công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy. Khi phát hiện vi phạm, VKSND kiến
nghị các cơ quan, tổ chức… áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa tội phạm
và tệ nạn ma túy trên địa bàn. Từ đó, góp phần phòng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy. Đặc biệt, trong quá trình điều tra, xét xử các vụ án tái phạm tội về ma túy,
VKSND tập hợp những sơ hở, thiếu sót của các cơ quan, ban ngành có liên quan để
kiến nghị khắc phục, hạn chế nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội về ma túy.
TAND thực hiện công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy thông
qua việc xét xử các vụ án ma túy. Bên cạnh việc ra bản án, TAND ra quyết định yêu
cầu các cơ quan có liên quan áp dụng những biện pháp cần thiết để phòng ngừa,
ngăn chặn việc phát sinh các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng.
2.2.3. Thực trạng quan hệ phối hợp lực lượng trong phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thành ủy Đà Nẵng đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để việc phối hợp giữa
các lực lượng trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy đạt kết quả.
UBND thành phố đã ban hành Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 -
2025 [57] và Kế hoạch phòng, chống ma túy giai đoạn 2016 - 2020 để chỉ đạo các
cơ quan, ban ngành và UBND các quận, huyện tổ chức thực hiện. Triển khai thực
hiện Đề án “Xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy” và Đề án
“Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020” [58]. Tổ chức sơ kết, tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị [6], Chỉ thị số 24-CT/TU và Chỉ thị số 37-
CT/TU của Thành ủy [50] về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống và kiểm
soát ma túy với phương châm “Lấy phòng ngừa là chính, tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức là cơ bản; luôn lấy dân làm gốc, gia đình làm tế bào; thôn, xã,
làng, xóm, cơ quan, trường học làm điểm tựa; lực lượng Công an làm nòng cốt”.
Ban chỉ đạo 138/CP thành phố đã phân công các thành viên phụ trách các
lĩnh vực, địa bàn cụ thể để triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung, nhóm giải
49
pháp và đề án trọng tâm của Chiến lược phòng, chống tội phạm, chương trình hành
động phòng, chống ma túy giai đoạn 2016 - 2025, kế hoạch “Tổ chức tháng hành
động phòng, chống ma túy”; xây dựng kế hoạch, mở các đợt cao điểm tấn công,
trấn áp tội phạm vào dịp lễ, Tết... để kịp thời phát hiện, đấu tranh, triệt phá, xử lý
các “điểm nóng” phát sinh tội phạm và tệ nạn ma túy.
Sở Thông tin - Truyền thông đã phối hợp Sở Lao động - Thương binh & Xã
hội và các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đưa tin, giới thiệu đường
dây nóng về phòng, chống ma túy; tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức về phòng,
chống ma túy cho 265 cán bộ, hội viên nòng cốt ở cơ sở, tuyên truyền pháp luật lưu
động thu hút đông đảo người dân tham gia. Sở Tư pháp duy trì hoạt động 110 Câu
lạc bộ pháp luật (có 84 Câu lạc bộ trợ giúp, tư vấn pháp lý, 14 Câu lạc bộ “Phụ nữ
với pháp luật”). Hội phụ nữ thành phố đã chỉ đạo các cấp hội tiếp tục phát động
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, củng cố
và duy trì 591 Câu lạc bộ, như: “Phòng, chống tội phạm”; “Phòng, chống tệ nạn xã
hội”; “Phụ nữ với pháp luật”...
Lực lượng Công an thành phố đã thể hiện vai trò nòng cốt trong thực tiễn
phòng ngừa tội phạm và tái phạm tội về ma túy. Cụ thể:
- Phối hợp với Quận/huyện đoàn triển khai thực hiện Nghị quyết liên tịch số
03/2010/NQLT của Bộ Công an và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về phối
hợp phòng, chống ma túy gắn với phong trào “3 không với ma túy” trong thanh
thiếu niên. Phối hợp với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam thành phố và các quận,
huyện lồng ghép tuyên truyền phòng, chống ma túy vào ngày hội “Đại đoàn kết
toàn dân”, mô hình “Cụm dân cư không có tệ nạn ma túy”, “Khu phố không có tệ
nạn ma túy”; duy trì 28 hòm thư tố giác tội phạm tại để tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm ma túy.
- Phối hợp với Sở Giáo dục - Đào tạo và các trường học, trung tâm dạy nghề
tổ chức hơn 20 đợt tuyên truyền và ký cam kết không vi phạm pháp luật với chủ đề
“Nói không với ma túy”. Làm việc với chủ các cơ sở kinh doanh bar, pub, karaoke,
khách sạn… trên địa bàn thành phố để tuyên truyền pháp luật về ma túy và ký cam
kết không vi phạm pháp luật về ma túy. Phối hợp với Liên đoàn lao động, Sở Lao
50
động - Thương binh & Xã hội tổ chức tuyên truyền về tình hình ANTT tại 45 cơ
quan, doanh nghiệp cho khoảng 12.000 lượt cán bộ, công nhân viên, công nhân.
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan (Bộ đội biên phòng, Cảnh sát
biển, Hải quan, An ninh sân bay…) làm tốt công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình,
chủ động rà soát, phát hiện các trường hợp khả nghi để xác minh, làm rõ. Kết quả,
đã phối hợp với Bộ đội biên phòng thành phố triệt phá 11 chuyên án, bắt 25 đối
tượng vận chuyển, mua bán ma túy. Điển hình: Lúc 19 giờ 00 ngày 13/10/2019, tại
khu vực ngã ba đường tránh nam Hải Vân, Phòng CSĐTTP về ma túy Công an
thành phố phối hợp Bộ đội biên phòng thành phố và Bộ đội biên phòng các tỉnh
Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế bắt quả tang 2 đối tượng gồm: Lê Thị
Hậu (sinh năm: 1997; trú: phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng) và Võ Ngọc Ánh (sinh năm: 1995; trú: phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng) khi Hậu, Ánh đang vận chuyển 1kg ma túy tổng hợp (Ketamine) từ
Nghệ An vào Đà Nẵng tiêu thụ.
- Liên ngành Công an - VKSND - TAND thường xuyên trao đổi, đánh đánh
giá tình hình tái phạm tội về ma túy bị khởi tố, xét xử để tìm nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh. Từ đó, rút kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của từng chủ thể.
2.3. Hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Hạn chế, yếu kém trong công tác tham mưu, hoạch định chính sách,
pháp luật liên quan đến phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Thứ nhất, hiện nay các cấp chính quyền thành phố Đà Nẵng tập trung phòng
ngừa tình hình tội phạm ma túy nói chung chứ chưa chuyên sâu phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy. Điều này thể hiện rõ ở các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của
Thành ủy, UBND, HĐND thành phố về phòng, chống tội phạm và kiểm soát ma túy
chưa có chuyên đề riêng, ngay cả trong các chương trình, đề án, kế hoạch phòng,
chống tội phạm về ma túy cũng chưa thể hiện riêng nội dung phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy. Vì vậy, chưa có nhóm biện pháp chuyên biệt cho phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy. Trong thời gian qua, chưa có nghiên cứu, thống kê
51
cụ thể về tình hình tái phạm tội nói chung và tái phạm tội về ma túy nói riêng trên địa
bàn thành phố dẫn đến công tác tổng kết, đánh giá kết quả phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy không toàn diện, rõ nét và việc nhận định, dự báo tình hình tái
phạm tội về ma túy thiếu chính xác.
Thứ hai, công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội trên địa bàn thành phố
hiện nay đang tập trung vào công tác “chống” (tập trung phát hiện, triệt phá, xử lý
các đối tượng tái phạm tội về ma túy) mà chưa chú trọng tương xứng cho công tác
“phòng” (phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy). Vì vậy, chỉ xử lý được “bề
nổi”, phần “ngọn” của tình hình tội phạm về ma túy, chưa triệt tiêu được những
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tái phạm tội về ma túy.
Thứ ba, chưa có sự nhất quán giữa công tác phòng, chống tội phạm ma túy
(trong đó có tái phạm tội về ma túy) với công tác xử lý người nghiện. Quan điểm chỉ
đạo phòng, chống tội phạm về ma túy thì quyết liệt nhưng nhận thức ma túy là tệ
nạn xã hội, người nghiện ma túy là “người bệnh” trong khi thực tế hầu hết người tái
phạm tội về ma túy đều nghiện ma túy và phần lớn nguyên nhân tái phạm tội là vừa
để có ma túy thỏa mãn nhu cầu bản thân vừa thu lợi nhuận bất chính.
Thứ tư, việc quán triệt, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định của pháp luật
về phòng, chống ma túy (trong đó có phòng ngừa tái phạm tội về ma túy) ở một số
đơn vị, địa phương chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở cấp xã, phường. Nhiều
đơn vị, địa phương chưa ban hành chương trình, kế hoạch... liên quan đến phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy; có nơi tuy đã ban hành nhưng còn hình thức,
chưa bám sát tình hình thực tế nên hiệu quả chưa cao; việc cập nhật, triển khai văn
bản về phòng, chống ma túy chưa thực sự được quan tâm.
Thứ năm, một số UBND, ban, ngành, đoàn thể ở địa phương chưa quan tâm
đúng mức đến công tác phòng, chống ma túy nói chung và phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy nói riêng, chưa thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
các quy định của cấp dưới; vẫn coi công tác ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là
nhiệm vụ riêng của lực lượng Công an nên chưa thực hiện hết trách nhiệm được
phân công, phân cấp.
52
Thứ sáu, công tác thống kê số liệu tội phạm, tái phạm tội về ma túy, người
nghiện, tái nghiện ma túy chưa thống nhất giữa các ban, ngành gây khó khăn cho việc
khái quát tình hình tội phạm, tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố. Chẳng
hạn như: Công an chốt số liệu thống kê vào ngày 15/11 hàng năm; VKND, TAND
chốt số liệu vào ngày 31/12. Công an thống kê người nghiện bao gồm cả phạm nhân,
bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, người bị xử lý VPHC có sử dụng ma túy; Sở Lao
động - Thương binh & Xã hội, Sở Y tế chỉ thống kê số người nghiện có hồ sơ quản lý
theo Đề án 6111... Việc không thống nhất số liệu thống kê còn ảnh hưởng đến việc
đánh giá hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm, tái phạm tội, tái nghiện ma túy
cũng như khả năng dự báo tình hình trong tương lai.
2.3.2. Hạn chế, yếu kém trong công tác triển khai, tổ chức phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy
2.3.2.1. Hạn chế, yếu kém trong công tác tuyên truyền, giáo dục
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy chưa thực sự hiệu quả. Hiện nay, công tác tuyên truyền tập trung vào
phòng, chống tác hại ma túy, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
nói chung chứ chưa có chuyên đề riêng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy. Chưa phân nhóm đối tượng cần tuyên truyền (người từng phạm tội về ma túy,
người từng nghiện ma túy, người đang thi hành án về ma túy, người đang cai nghiện
ma túy...). Vì vậy, công tác tuyên truyền chưa tác động nhiều đến nhóm đối tượng
có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy dẫn đến hiệu quả chưa cao. Việc phát động
phong trào quần chúng tham gia phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy chưa
sâu rộng, chưa có sức lan tỏa mạnh mẽ trong nhân dân. Tâm lý e ngại, thái độ kỳ thị
với người từng phạm tội, người nghiện ma túy vẫn còn phổ biến ảnh hưởng đến
hiệu quả tuyên truyền cho người dân.
Thứ hai, công tác phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy tại một vài đơn vị, địa phương còn chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, mang
tính hình thức dẫn đến hiệu quả chưa cao. Nội dung tuyên truyền chưa có sự thống
nhất, đồng bộ giữa các ngành dẫn đến hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược”. Điển hình như: Ngành Công an nhìn nhận người nghiện ma túy là “tội
53
phạm” nên nội dung tuyên truyền mang tính nghiêm khắc, áp chế; ngành Y tế lại
nhìn nhận người nghiện ma túy là “người bệnh” nên nội dung tuyên truyền mang
tính vận động, thuyết phục… Việc này làm cho người được tuyên truyền hoang
mang, không biết phải nghe theo ngành nào.
Thứ ba, việc tuyên truyền chủ yếu lồng ghép là chính, thường chỉ thực hiện
theo “thời vụ” và nặng về thành tích, chưa thường xuyên, liên tục, đối tượng được
tuyên truyền chủ yếu là cán bộ, viên chức, nhân dân, học sinh, giáo viên…, những
đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy (người chấp hành xong án ma túy
về địa phương, người được miễn TNHS, người được miễn hình phạt, người hoàn
thành cai nghiện…) tham gia rất ít và thậm chí có nơi không mời được đối tượng
này. Từ đó, việc tiếp cận để tuyên truyền, cảm hóa, giáo dục những đối tượng này
còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tuyên truyền chưa thường
xuyên được bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cũng như kỹ năng lý luận, nghiệp vụ
tuyên truyền, còn nặng “chủ nghĩa kinh nghiệm” (tự rút kinh nghiệm qua thực tiễn).
Chế độ chính sách, đãi ngộ đối với tuyên truyền viên còn thấp, phần lớn không đủ
trang trải sinh hoạt mà phải làm thêm công việc khác. Tài liệu tuyên truyền phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy chưa được cập nhật, bổ sung thường xuyên,
kinh phí cho công tác tuyên truyền còn hạn chế.
2.3.2.2. Hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý đối tượng nguy cơ cao;
phát hiện, xử lý tái phạm tội về ma túy
Thứ nhất, tính nguy hiểm cao của tái phạm tội về ma túy gây nhiều khó khăn
cho công tác phát hiện, xử lý. Trong giai đoạn 2016 - 2020, thành phố phát hiện, xử
lý hình sự tổng cộng 541 vụ/985 đối tượng tái phạm tội về ma túy, chiếm tỷ lệ
48,35% số vụ/62,11% số đối tượng phạm tội về ma túy, 26,51% số vụ/22,69% số
đối tượng tái phạm tội nói chung và 9,74% số vụ/10,45% số đối tượng phạm tội đã
được phát hiện, xét xử trên toàn thành phố (Bảng 2.3, 2.5, 2.6; Biểu đồ 2.3a, 2.5,
2.6). Tuy tái phạm tội về ma túy chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số tội phạm nói chung
(9,74% số vụ/10,45% số đối tượng) nhưng lại chiếm 1 nửa tổng số tội phạm về ma
túy (48,35% số vụ/62,11% số đối tượng) và ¼ tổng số tái phạm tội đã phát hiện, xử
54
lý. Hơn nữa, tái phạm tội về ma túy có xu hướng tăng qua các năm cả về số vụ/số
đối tượng (Bảng 2.3; Biểu đồ 2.3b, 2.6). Từ năm 2016 đến năm 2020, có 1.504
người chấp hành xong án phạt tù về ma túy trở về địa phương nhưng số tái phạm tội
về ma túy là 985 người (chiếm tỷ lệ 65,49%) (Bảng 2.24, Biểu đồ 2.24) và phần lớn
tái phạm tội ngay trong vòng 1 năm kể từ khi tái hòa nhập cộng đồng với 369 đối
tượng (chiếm tỷ lệ 37,46%). Hệ số tái phạm tội về ma túy ở Đà Nẵng là 1 đối
tượng/1,04km2 và 1 đối tượng/1.249.59 người dân (Bảng 2.10, 2.11; Biểu đồ 2.10,
2.11). Như vậy xét về tổng thể, Đà Nẵng là địa phương có tình hình tái phạm tội về
ma túy khá cao và tương đối phức tạp.
Trong khi đó, lực lượng trực tiếp làm công tác phòng, chống tội phạm và tái
phạm tội về ma túy còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Hệ số giữa lực lượng
trực tiếp phòng, chống ma túy và số đối tượng phạm tội, tái phạm tội về ma túy bị
phát hiện, xử lý lần lượt là 1/9,91 (1 cán bộ/9,91 đối tượng) và 1/6,16 (1 cán bộ/6,16
đối tượng) (Bảng 2.25).
Thứ hai, trong nhiều trường hợp khi phát hiện dấu hiệu tái phạm tội về ma
túy, các cơ quan chức năng chưa chú trọng đi sâu làm rõ mô hình tổ chức tội phạm,
chưa phát hiện được các đối tượng cầm đầu, chỉ huy băng nhóm mà chỉ mới tập
trung điều tra làm rõ, xử lý vụ việc phạm tội đơn lẻ; không tiến hành các biện pháp
nghiệp vụ đặc thù hoặc có tiến hành nhưng hiệu quả không cao.
Thứ ba, số liệu thống kê, phân tích ở trên chỉ là “phần nổi” của tình trạng tái
phạm tội về ma túy. Bởi trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ thống kê, phân tích
đối tượng tái phạm tội là người đã phạm tội về ma túy bị kết án mà lại phạm tội mới
về ma túy. Trong thực tế, có nhiều trường hợp đối tượng từng bị kết án về nhóm tội
khác rồi tái phạm tội về ma túy hoặc từng bị kết án về ma túy nhưng tái phạm nhóm
tội khác; người được miễn TNHS; người được miễn hình phạt... nhưng không thuộc
phạm vi nghiên cứu của luận văn này. Ngoài ra, vẫn còn những người tái phạm tội
về ma túy chưa bị phát hiện hoặc đã bị phát hiện nhưng chưa xét xử, những đồng
phạm nhưng cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát hiện, xử lý (còn gọi là tội phạm
ẩn). Để phản ánh chính xác tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng, đòi hỏi ngoài con số tái phạm tội đã được thống kê nêu trên thì phải cộng
55
thêm số tội phạm ẩn. Đây là điểm mà tác giả cần mở rộng nghiên cứu, làm rõ trong
các công trình nghiên cứu tiếp theo.
Thứ tư, hoạt động điều tra, phát hiện, xử lý tái phạm tội về ma túy của các cơ
quan chức năng còn tồn tại những hạn chế nhất định, bao gồm: Thiếu sót trong công
tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án để làm rõ các yếu tố cấu thành của hành vi tái
phạm tội về ma túy và các tài liệu, chứng cứ làm sáng tỏ toàn bộ tình tiết vụ án dẫn
đến một số vụ án bị tạm đình chỉ điều tra, không xử lý hình sự được đối tượng tái
thực hiện hành vi phạm tội về ma túy mà phải xử lý bằng hình thức khác (xử lý
hành chính, quản lý, giám sát…); hạn chế trong công tác vận động quần chúng tham
gia phòng, chống tội phạm và tái phạm tội về ma túy; năng lực, trình độ chuyên
môn của lực lượng trực tiếp phòng ngừa tái phạm tội còn hạn chế; những vướng
mắc, mâu thuẫn trong công tác phối hợp lực lượng… gây ảnh hưởng đáng kể đến
hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
Thứ năm, công tác quản lý, giáo dục phạm nhân, xử lý phạm nhân có hành vi
vi phạm trong trại giam chưa tiến hành triệt để, các hình thức kỷ luật còn nhẹ chưa
mang tính răn đe. Một số đối tượng thi hành án phạt tù có nhiều tiền án, tiền sự
nhưng trại giam chưa có biện pháp giáo dục riêng biệt nhằm giảm nguy cơ phạm tội
trở lại sau khi họ chấp hành xong án phạt tù về lại địa phương.
Thứ sáu, công tác quản lý, giáo dục đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội về
ma túy tại xã, phường còn lỏng lẻo. Một số trường hợp đối tượng quản lý, giáo dục
là đối tượng nguy hiểm, khi phát hiện có hành vi tái phạm tội về ma túy thì các chủ
thể quản lý không tố giác mà tránh né, sợ bị liên lụy, trả thù.
2.3.2.3. Hạn chế, yếu kém trong công tác tái hòa nhập cộng đồng, tạo công
ăn việc làm
Thứ nhất, công tác quản lý người chấp hành xong án phạt tù, thi hành án tại
địa phương, hoàn thành cai nghiện ma túy về địa phương, người được miễn TNHS,
người được miễn hình phạt còn lỏng lẻo. Thực tế, chỉ những đối tượng về lại nơi cư
trú thì cơ quan chức năng mới mời đến, lập hồ sơ quản lý và giáo dục, còn những
đối tượng có hộ khẩu ngoại tỉnh hoặc không về lại nơi cư trú thì chính quyền địa
phương không rõ họ đang làm gì, ở đâu.
56
Thứ hai, hiện nay mới tập trung đào tạo việc làm cho người thi hành án phạt
tù, người cai nghiện bắt buộc chứ chưa chú trọng đến đào tạo nghề, hướng nghiệp
cho người được miễn TNHS, miễn hình phạt về ma túy. Việc đào tạo nghề và
hướng nghiệp cho phạm nhân, học viên trong thời gian chấp hành án, cai nghiện bắt
buộc chủ yếu là nông nghiệp, lâm nghiệp và một số ngành nghề thủ công đơn giản,
hiệu quả thấp, khó tìm việc. Trong khi người tuyển dụng yêu cầu lao động tay nghề
cao nên phần lớn nghề nghiệp họ được đào tạo không đáp ứng được, phải tổ chức
đào tạo lại gây ảnh hưởng lớn đến cơ hội tìm việc làm. Nhiều người không có công
ăn việc làm đã quay trở lại tái phạm tội về ma túy vừa để có ma túy thỏa mãn nhu
cầu bản thân, vừa có nguồn tài chính trang trải cuộc sống.
Thứ ba, mặc dù chính quyền thành phố xác định công tác tái hòa nhập cộng
đồng cho người chấp hành xong án phạt tù về địa phương là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và đã phân công ban, ngành chức năng thực hiện. Tuy nhiên, thực tế
việc xác định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các lực lượng chưa thực sự rõ ràng, vẫn
còn tư tưởng “giao khoán” cho Công an. Việc này tạo sự thụ động của các lực
lượng còn lại trong thực hiện tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ tư, các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng còn chung chung, nặng về hình
thức và tuyên truyền, chưa tác động đến đối tượng chính là người chấp hành xong
án phạt tù, người hoàn thành cai nghiện về địa phương. Việc tuyên truyền tái hòa
nhập cộng đồng còn nhiều hạn chế, còn một bộ phận người dân e ngại, kỳ thị đối
với người từng bị xử lý hình sự, cai nghiện ma túy. Nhiều trường hợp người tuyển
dụng viện lý do để từ chối khéo khi biết quá khứ của họ. Điều này vừa gây cho họ
tâm lý chán nản, mất niềm tin vào cuộc sống và cơ hội “làm lại cuộc đời”, vừa gián
tiếp tạo khó khăn về kinh tế dẫn đến tái phạm tội.
2.3.2.4. Hạn chế yếu kém trong công kiểm soát ma túy, tiền chất ma túy
Thứ nhất, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP quy định 515 chất trong 3 Danh mục
chất ma túy và 44 chất trong Danh mục tiền chất. Từ đó đến nay, nhiều loại ma túy
và tiền chất mới xuất hiện và đã được Ủy ban Kiểm soát ma túy quốc tế (INCB) đưa
vào Danh mục kiểm soát quốc tế. Tuy nhiên, những chất mới này chưa được nước
ta quy định trong Nghị định số 73/2018/NĐ-CP dẫn đến thiếu căn cứ pháp lý để
57
kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến tiền chất và ma túy cũng như để xử
lý các vi phạm pháp luật liên quan đến các chất này.
Thứ hai, hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 35 doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh dược phẩm và vật tư y tế và 26 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hóa chất (chưa kể hàng nghìn cơ sở bán lẻ) nhưng chính quyền các cấp thành phố
chưa có chương trình, kế hoạch quản lý về việc sản xuất, mua bán các tiền chất có
thể sử dụng để sản xuất ma túy tổng hợp.
Thứ ba, việc quản lý chất ma túy mới chỉ tập trung ở các loại ma túy thành
phẩm chứ chưa quản lý các dụng cụ dùng để điều chế, cất giấu, vận chuyển, sử
dụng ma túy, đặc biệt là các máy móc (máy chưng cất, lò sấy…), dụng cụ sử dụng
trái phép chất ma túy (bơm kim tiêm, ống nghiệm…) có bán trên thị trường.
Thứ tư, chỉ mới quản lý chuyên ngành theo từng lực lượng (Y tế quản lý
dược phẩm, Công thương quản lý hóa chất…), chưa có liên kết, phối hợp cùng
phòng ngừa. Chẳng hạn, một người vừa chấp hành án ma túy về địa phương đã mua
acid sunfuric tại chợ Tăng Bạt Hổ, mua thuốc Decolgen tại các quầy thuốc tư nhân,
mua máy chưng cất tại chợ Cồn… để tổ chức sản xuất trái phép ma túy “đá”
(Methamphetamine) thì không ai quản lý, nghi vấn hành vi này của đối tượng.
2.3.3. Hạn chế, yếu kém trong quan hệ phối hợp phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy
Thứ nhất, hoạt động phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa chưa được diễn
ra thường xuyên, liên tục; chưa dựa vào một quy chế nhất định nên chưa đạt được
mục tiêu đề ra. Hạn chế này là do mỗi chủ thể phải thực hiện nhiệm vụ đặc thù và bị
hạn chế về nguồn nhân lực.
Thứ hai, việc trao đổi thông tin, phối hợp phòng ngừa phát hiện, xử lý tái
phạm tội về ma túy giữa thành phố Đà Nẵng và các tỉnh, thành khác còn chưa hiệu
quả. Đà Nẵng là địa bàn trọng điểm có đường biển dài, đường biên giới và Quốc lộ
1A nối liền các vùng, miền; có sân bay, trung tâm du lịch, khu công nghiệp nên cần
phối hợp chặt chẽ giữa các quận, huyện trên địa bàn thành phố với các tỉnh, thành
phố khác trong điều tra, truy tố, xét xử tình hình tội phạm và tái phạm tội về ma túy.
58
Thứ ba, việc phối hợp giữa các trại giam trực thuộc Bộ Công an (An Điềm,
Bình Điền, Hoàng Cát) và Trại tạm giam Công an thành phố và chính quyền các
quận, huyện chưa mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân.
Các đoàn thể, doanh nghiệp chưa đủ điều kiện, cơ sở vật chất hỗ trợ giáo dục, đào
tạo nghề chuyên sâu nên phạm nhân chỉ được đào tạo, hướng dẫn những nghề cơ
bản, lao động tay chân là chính.
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây
Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar thông qua Hành lang
kinh tế Đông Tây (EWEC) với điểm kết thúc là cảng Tiên Sa và sân bay quốc tế Đà
Nẵng; diện tích nhỏ, dân cư đông. Tội phạm về ma túy dễ lợi dụng điều này để hoạt
động (thẩm lậu ma túy vào Đà Nẵng để tiêu thụ hoặc sử dụng sân bay, cảng biển Đà
Nẵng để quá cảnh ma túy sang nước thứ 3…). Sự tác động của quá trình hội nhập
quốc tế và mặt trái của kinh tế thị trường, Đà Nẵng thu hút người từ khắp nơi đến
sinh sống, học tập, làm việc, ngành du lịch phát triển mạnh tiềm ẩn nguy cơ phát
sinh tội phạm (trong đó có tái phạm tội về ma túy). Sự gia tăng của tình hình tội
phạm, tái phạm tội về ma túy nằm trong xu hướng gia tăng của tình hình tội phạm
nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai, tình hình tội phạm, tái phạm tội về ma túy có quan hệ mật thiết với
các loại tội phạm khác (tội phạm ma túy với nhóm tội xâm phạm sở hữu, tội phạm
ma túy với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế…). Sự gia tăng của tình hình
nghiện, tái nghiện ma túy góp phần làm gia tăng tình hình tội phạm, tái phạm tội về
ma túy. Lợi nhuận thu được từ buôn bán ma túy cao nên thu hút nhiều người phạm
tội và tái phạm tội. Tất cả những yếu tố này làm gia tăng tính “bền vững” tình hình
tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ khiến đối tượng lợi
dụng các thành tựu này để thực hiện việc tái phạm tội cũng như đối phó với cơ quan
phòng chống ma túy (giao dịch mua bán chất ma túy, rủ rê tổ chức sử dụng trái
59
phép chất ma túy… thông qua các mạng xã hội Facebook, Zalo…); sự xuất hiện
ngày càng nhiều loại ma túy mới dễ ngụy trang, cất giấu cũng góp phần gia tăng
tình hình tái phạm tội về ma túy.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
2.4.2.1. Nguyên nhân thuộc về bản thân người tái phạm tội về ma túy
Thứ nhất, do những tác động tiêu cực từ môi trường gia đình và xã hội đã
hình thành ở người tái phạm tội về ma túy những đặc điểm nhân cách lệch lạc, trái
với chuẩn mực đạo đức, lối sống trụy lạc, lười lao động, ngại khó ngại khổ… nên
họ thường tìm cách tái phạm tội để thỏa mãn nhu cầu bản thân. Qua phân tích Bảng
19 và Biểu đồ 19.1, 19.2 cho thấy, có đến 97,66% người tái phạm tội về ma túy
nghiện ma túy. Từ chỗ nghiện ma túy, sau khi thi hành xong bản án, những người
này tái phạm tội bằng cách mua ma túy về bán lại kiếm lời, vừa để có tiền sinh sống
(chiếm tỷ lệ 55,53%) vừa có ma túy thỏa mãn nhu cầu bản thân (chiếm tỷ lệ
44,47%) (Bảng 2.8, Biểu đồ 2.8). Điển hình như trong vụ án “Mua bán trái phép
chất ma túy” do Nguyễn Hữa Hòa thực hiện, Hòa mua ma túy với giá 4.200.000
đồng, trích ra 1 phần sử dụng cho bản thân và bán số còn lại với giá 5.000.000
đồng, thu lợi nhuận 800.000 đồng (tương đương 19,04%).
Thứ hai, nhiều người sau khi chấp hành án phạt tù, hoàn thành cai nghiện về
tái hòa nhập cộng đồng nhưng không có việc làm ổn định để tự mưu sinh, nghề
được đào tạo tại trại giam, trung tâm cai nghiện không phù hợp tại địa phương nơi
họ cư trú làm cho bản thân họ cảm thấy tự ái, chán nản; nhiều người không nhận trợ
giúp của đoàn thể, chính quyền địa phương; một số đối tượng khác lại lười lao
động, thích “việc nhẹ, lương cao” nên bất chấp tái phạm tội để có tiền. Qua phân
tích, có đến 60,30% đối tượng tái phạm tội không có nghề nghiệp ổn định và
26,60% thất nghiệp; 46,95% đối tượng tái phạm tội ngay trong 1 năm sau khi chấp
hành án xong (Bảng 2.13, 2.18; Biểu đồ 2.13, 2.18).
Thứ ba, còn có một số trường hợp do người phạm tội thiếu bản lĩnh, nhận
thức pháp luật mơ hồ, dễ bị rủ rê lôi kéo, mua chuộc… dẫn đến tái phạm tội về ma
túy, tập trung vào số thanh niên từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao 77,36% (Bảng
2.12, Biểu đồ 2.12b). Đây là độ tuổi muốn khẳng định bản thân và có thể đóng góp
60
nhiều cho xã hội nếu không tạo điều kiện để tái hòa nhập cộng đồng, có công ăn
việc làm ổn định sẽ là nguyên nhân, điều kiện để họ tái phạm tội.
2.4.2.2. Những nguyên nhân và điều kiện thuộc về các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể và chính quyền địa phương
- Về công tác tham mưu, hoạch định chính sách, pháp luật và lãnh đạo chỉ
đạo công tác phòng ngừa
+ Hiện nay, các cấp chính quyền thành phố Đà Nẵng tập trung phòng ngừa
tình hình tội phạm ma túy nói chung chứ chưa chuyên sâu phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy; chưa có nghiên cứu, thống kê cụ thể về tình hình tái phạm tội về
ma túy dẫn đến công tác tổng kết, đánh giá kết quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy không toàn diện, rõ nét. Đang tập trung vào công tác “chống” (tập trung
phát hiện, triệt phá, xử lý các đối tượng phạm tội về ma túy) mà chưa chú trọng tương
xứng cho công tác “phòng” (phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy).
+ Bất cập trong quan điểm xử lý: Về pháp luật hình sự thì kiên quyết trấn áp,
xử lý triệt để tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy; về quản lý Nhà
nước thì xem người nghiện ma túy là “người bệnh”. Trong khi hầu hết người tái
phạm tội về ma túy là người nghiện ma túy và phần lớn nguyên nhân tái phạm tội là
vừa có ma túy thỏa mãn bản thân vừa thu lợi nhuận bất chính.
+ Bất cập trong quy định của pháp luật về tội phạm ma túy: Hình phạt đối
với tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy hiện nay khá nghiêm khắc nhưng phần
lớn tập trung cho hình phạt chính (phạt tù), còn hình phạt bổ sung chỉ mang tính tùy
nghi, ít kèm theo chế tài để tiếp tục quản lý, giám sát, đánh giá sự ăn năn hối cải,
hướng thiện của người đã thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Đặc biệt những
người được miễn TNHS, được miễn hình phạt về ma túy thì có rất ít quy định của
pháp luật áp dụng cho nhóm đối tượng này.
+ Sự chỉ đạo của các cấp, các ngành chủ yếu tập trung vào các lực lượng
chuyên trách phòng, chống tội phạm và tái phạm tội về ma túy, chưa tạo được sự
đồng bộ, nhất quán nên tình hình tái phạm tội về ma túy vẫn diễn biến phức tạp, gây
ra những hậu quả xấu cho cộng đồng, xã hội.
61
- Về công tác tuyên truyền, giáo dục
+ Công tác tuyên truyền tập trung vào phòng, chống tác hại ma túy, phòng
chống tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy nói chung chứ chưa có chuyên đề
riêng tuyên truyền phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Công tác phối hợp
tuyên truyền tại một vài đơn vị, địa phương còn chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, mang
tính hình thức. Mỗi ban, ngành tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình tự biên soạn
tài liệu nên chưa thống nhất về nội dung tuyên truyền.
+ Việc tuyên truyền chủ yếu lồng ghép là chính, mang tính “thời vụ” và
nặng về thành tích, chưa thường xuyên, liên tục, đối tượng được tuyên truyền chủ
yếu là cán bộ, viên chức, nhân dân, học sinh… chưa tiếp cận được nhiều với nhóm
đối tượng cần tuyên truyền (đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy).
+ Đội ngũ tuyên truyền viên tuy đông nhưng trình độ, kỹ năng còn thấp; kinh
phí đầu tư cho công tác tuyên truyền còn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra.
- Về công tác quản lý, phát hiện, xử lý tái phạm tội về ma túy
+ Công tác quản lý đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy chưa tốt.
Hiện nay mới chỉ tập trung quản lý người chấp hành xong án phạt tù về ma túy về
lại địa phương chứ chưa tập trung thống kê, quản lý người được miễn TNHS, miễn
hình phạt về ma túy.
+ Lực lượng trực tiếp làm công tác phòng, chống tội phạm và tái phạm tội về
ma túy còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng; năng lực điều tra, xét xử các vụ
án ma túy của cơ quan tố tụng còn nhiều hạn chế, mới tập trung chứng minh hành vi
phạm tội đơn lẻ, chưa tập trung làm rõ được toàn bộ các đồng phạm, tội phạm ẩn
còn cao, những đối tượng chưa bị phát hiện lại tiếp tục phạm tội về ma túy. Điển
hình như vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” do Nguyễn Hữu Hòa thực hiện,
cơ quan tố tụng chỉ xử lý hình sự đối với Hòa, còn người đã bán ma túy cho Hòa thì
không phát hiện, xử lý được.
+ Đầu tư, trang bị cho lực lượng trực tiếp phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Chưa huy động được đông đảo nhân
dân tham gia tố giác người tái phạm tội về ma túy. Số lượng tin báo, tố giác tái
phạm tội về ma túy chưa nhiều.
62
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề thực trạng
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trong
đó, khái quát tình hình tái phạm tội về ma túy và công tác phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; tập trung khảo sát, nghiên cứu
tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua các chỉ
số như: Thực trạng, cơ cấu, diễn biến, mức độ phức tạp của tái phạm tội về ma túy
và tỷ trọng của tình hình tái phạm tội về ma túy trong tổng thể tình hình tái phạm tội
và tình hình tội phạm nói chung. Qua đó, khẳng định tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng khá cao và phức tạp đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo, chỉ đạo nghiêm túc, sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố.
Trong chương này, luận văn còn phân tích thực trạng công tác phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như: Công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; công tác tham mưu của
các ban, ngành hữu quan; công tác phòng ngừa chung thông qua tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, hoạt động cai nghiện, tái hòa nhập cộng đồng…; công tác phòng
ngừa riêng của từng lực lượng chuyên trách như Công an, Bộ đội biên phòng,
VKSND, TAND… thông qua quản lý đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội, quản
lý, giáo dục phạm nhân, người cai nghiện, điều tra, xử lý tội phạm và tái phạm tội
về ma túy… Từ đó, rút ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hoạt
động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Những kết quả nghiên cứu trong Chương 2 của luận văn là cơ sở thực tiễn cho việc
đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy ở Chương 3 của
luận văn.
63
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Dự báo tình hình và các yêu cầu phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.1.1. Dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong thời gian tới
Dự báo là một nhận định có cơ sở khoa học về trạng thái có thể có của đối
tượng dự báo. Dự báo tình hình tái phạm tội về thực chất là phán đoán khả năng của
tình hình tái phạm tội trong tương lai, qua đó có những kế hoạch, biện pháp phù hợp
để phòng, tránh việc tái phạm loại tội phạm này.
3.1.1.1. Cơ sở dự báo
Trong những năm qua, tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng gia tăng cả về số vụ và số đối tượng, người tái phạm tội ngày càng trẻ hóa,
tính chất ngày càng nguy hiểm, hành vi ngày càng manh động. Trong khi đó, các
chính sách của thành phố Đà Nẵng chưa thể giải quyết triệt để vấn đề an sinh xã
hội, việc làm, cai nghiện… ẩn chứa nhiều nguy cơ làm phát sinh tái phạm tội, tái
nghiện về ma túy.
Mặc dù các lực lượng chuyên trách phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã nỗ lực làm tốt công tác phòng ngừa và đấu
tranh với các tội phạm này. Tuy nhiên, do lực lượng còn thiếu, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ không đồng đều… nên công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy vẫn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
Từ kết quả nghiên cứu tình hình tái phạm tội về ma túy và những hạn chế,
thiếu sót trong công tác phòng ngừa tình tình tái phạm tội về ma túy ở Chương 2
luận văn, tác giả nhận thấy cần dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến để từ đó đề ra các giải pháp thống nhất, toàn
diện, khoa học và khả thi.
64
3.1.1.2. Nội dung dự báo
- Về tình hình tái phạm tội: Tái phạm tội về ma túy sẽ diễn biến theo chiều
hướng gia tăng với tính chất, mức độ nguy hiểm hơn, phương thức, thủ đoạn thực
hiện tinh vi hơn. Tái phạm tội về ma túy chủ yếu vẫn là mua bán và tàng trữ trái phép
chất ma túy; động cơ, mục đích chính vẫn là thu lợi bất chính và có ma túy thỏa mãn
nhu cầu bản thân. Tái phạm tội về tàng trữ trái phép chất ma túy sẽ gia tăng do BLHS
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định giảm khối lượng ma túy tổng hợp mà
đối tượng tàng trữ phải chịu TNHS từ 01 gam xuống còn 0,1 gam. Ngoài ra, đối
tượng tái phạm tội về ma túy còn tham gia thực hiện các tội phạm khác như: Cướp,
cướp giật…
- Về tính chất, mức độ tái phạm tội: Tính chất, mức độ tái phạm tội về ma túy
ngày càng nguy hiểm. Người tái phạm tội về ma túy không chỉ hoạt động đơn lẻ mà
có chiều hướng tập hợp thành từng nhóm nhỏ cùng hoạt động tái phạm tội, có sự
phân chia vai trò, vị trí rõ ràng khi hoạt động. Đặc biệt có sự rủ rê, lôi kéo những
người dưới 18 tuổi tham gia thực hiện hành vi phạm tội về ma túy.
- Về đối tượng tái phạm tội: Đối tượng tái phạm tội về ma túy ngày càng đa
dạng, tập trung nhiều ở độ tuổi từ 18 đến 35. Động cơ, mục đích tái phạm tội về ma
túy chủ yếu là vụ lợi và có ma túy sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, các đối tượng
này còn lôi kéo những người không có việc làm, việc làm không ổn định tham gia
hoạt động phạm tội.
- Về đặc điểm đối tượng tái phạm tội: Những người tái phạm tội về ma túy
ngày càng trẻ hóa, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt hơn và liên kết với các băng
nhóm, đường dây phạm tội về ma túy liên quận, liên tỉnh. Các đối tượng triệt để lợi
dụng các địa bàn khu du lịch (quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn…), sự quản lý lỏng lẻo
trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng
không… để thực hiện hành vi phạm tội. Phần lớn tái phạm tội về ma túy là các tội
Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Về phương thức, thủ đoạn hoạt động tái phạm tội: Tái phạm tội về ma túy
trong thời gian tới sẽ hoạt động với phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, kín
đáo và phức tạp hơn, sử dụng những phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại để che
65
giấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra và xử lý. Sẽ hình
thành các đường dây hoạt động liên tuyến, liên quận, liên tỉnh với nhiều đối tượng
tham gia. Tái phạm tội về ma túy sẽ có mối quan hệ với các tội phạm về trật tự xã
hội, kinh tế, rửa tiền...
- Về địa bàn hoạt động tái phạm tội: Tái phạm tội về ma túy tiếp tục diễn biến
phức tạp, trọng điểm vẫn là các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà... nơi tập trung
các quán bar, karaoke, khách sạn, trung tâm thương mại, khu dân cư đông đúc.
3.1.2. Các yêu cầu phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
Hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong thời gian đến cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải đảm bảo tính hệ
thống. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải đảm bảo đồng bộ, thống
nhất, thông suốt từ việc đề ra quan điểm, chủ trương, đề án, kế hoạch cho đến việc
thực hiện các giải pháp phòng ngừa. Các chủ thể phòng ngừa phải chủ động hoạch
định, xây dựng chiến lược phòng ngừa theo lộ trình cụ thể, ứng với mỗi giai đoạn
cần có những kế hoạch, đề án tạo thành thể thống nhất từ cấp thành phố đến cấp cơ
sở, từ các chủ thể trực tiếp phòng ngừa đến các chủ thể có liên quan. Tính hệ thống
trong phòng ngừa còn thể hiện sự lãnh đạo xuyên suốt của Đảng, sự điều hành nhất
quán của Nhà nước đối với chiến lược phòng chống tội phạm.
Thứ hai, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải đảm bảo tính toàn
diện. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải được triển khai rộng khắp
trong toàn thể các cơ quan chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và từng người
dân. Phải xác định phòng ngừa tái phạm tội là một cấu thành quan trọng của chiến
lược xây dựng và bảo về Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đòi hỏi
phải bao quát toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, theo tinh thần “phòng, chống tội
phạm là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; trực
tiếp chỉ huy, điều hành của chính quyền các cấp, phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, tổ chức,
đơn vị, nòng cốt là các cơ quan bảo vệ pháp luật” [57].
66
- Thứ ba, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải đảm bảo tính
khoa học. Phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy nói riêng là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, phải
được dựa trên các căn cứ khoa học, đặc biệt là tri thức Tội phạm học; đồng thời,
phải phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, “phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa công tác
phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội… lấy chủ động
phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội phạm” [7].
Thứ tư, phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy phải đảm bảo tính khả
thi. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội phải phù hợp với điều kiện
ANTT, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng và năng lực thực tế của các chủ thể
phòng ngừa, đảm bảo có thể triển khai và thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn. Đây
là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phòng, chống tội phạm của thành phố
“đầu tư cho công tác phòng, chống tội phạm là góp phần tạo ra sự phát triển bền
vững của thành phố, đảm bảo nguồn lực đầu tư cho công tác bảo đảm TTATXH phù
hợp với khả năng điều kiện của thành phố trong từng giai đoạn” [57].
3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
3.2.1. Hoàn thiện lý luận, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh
đạo, chỉ đạo phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
- Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận
Từ thực tiễn công tác phòng ngừa, cần thường xuyên tổng kết, phân tích,
đánh giá quy mô, mức độ, tính chất, diễn biến, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, rút ra quy luật,
dự báo tình hình sát với thực tế tại địa phương.
Để đạt được mục tiêu này, thành phố Đà Nẵng cần thành lập trung tâm
chuyên trách về thống kê, tổng hợp thông tin về tình hình tội phạm nói chung và
tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng. Sau khi thống nhất số liệu và kết quả
phân tích, đánh giá từ các cơ quan chuyên trách (Công an, VKSND, TAND…) và
những cơ quan hữu quan (kinh tế, y tế…), tiến tới thống nhất nội dung chương
67
trình, kế hoạch phòng ngừa áp dụng cho toàn thành phố. Các đơn vị phòng ngừa
chuyên trách cần phối hợp, trao đổi thông tin, tổ chức nghiên cứu khoa học và
truyền đạt kinh nghiệm.
Gắn liền với hoàn thiện lý luận, cần thường xuyên đào tạo, tái đào tạo, tập
huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác phòng ngừa thống
nhất trên toàn thành phố.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo công
tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Để phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có hiệu quả, các lực lượng
chuyên trách và ban ngành, đoàn thể tùy theo chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao cần tăng cường tham mưu cho Thành uỷ, UBND thành phố Đà Nẵng và Lãnh
đạo các đơn vị trực tiếp phòng ngừa các nội dung sau:
+ Đề ra nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy phù hợp với từng giai đoạn, từng địa bàn; phân công trách
nhiệm cho từng cấp, ngành, có kế hoạch kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”, đưa nội dung phòng ngừa
tái phạm tội, tái nghiện ma túy thành một nội dung trọng tâm của phong trào. Tham
mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền,
phát động thi đua, ký quy chế phối hợp giữa các địa bàn giáp ranh, xây dựng “Cụm
dân cư không có tệ nạn ma túy”, “Khu phố không có tệ nạn ma túy”...
+ Kiện toàn các Ban chỉ đạo 138/CP từ cấp thành phố đến cấp cơ sở, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan này; bố trí cán bộ phù hợp, sử dụng kinh phí
hợp lý, chống thất thoát, lãng phí. Định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị
quyết, chương trình, đề án, kế hoạch phòng, chống và kiểm soát ma túy; khen
thưởng, động viên kịp thời những gương điển hình tiên tiến; nhanh chóng phát hiện
và khắc phục những sơ hở, hạn chế trong công tác phòng ngừa.
+ Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
công tác hoạch định chính sách, triển khai thực hiện, giám sát tổng kết công tác
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
68
3.2.2. Khắc phục hạn chế trong công tác tuyên truyền về phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy
Thông qua tuyên truyền, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về phòng, chống ma tuý đến với người dân, làm cho mỗi người
dân nhận thức được tác hại của tệ nạn ma túy, ý thức được vai trò, trách nhiệm của
mình trong công tác phòng, chống ma tuý nói chung và phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy nói riêng. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này trong
thời gian đến, cần làm tốt những nội dung sau:
- Công tác tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, liên tục: Việc tuyên
truyền phải tiến hành thường xuyên, liên tục và triển khai sâu rộng đến từng cá
nhân, từng gia đình, từng khu dân cư... đặc biệt là các nhóm đối tượng có nguy cơ
cao, đối tượng đã có tiền án, tiền sự và đang nghiện ma túy.
- Hình thức tuyên truyền phải phong phú, đa dạng: Thường xuyên đổi mới
cho phù hợp thị hiếu của người dân, chẳng hạn: Tập huấn, sinh hoạt chuyên đề…,
thi tìm hiểu về phòng chống ma túy, vẽ tranh cổ động, phát tờ rơi, đăng tin bài,
chiếu phim tư liệu… Tùy theo nghề nghiệp, trình độ, khả năng nhận thức, tiếp thu
của từng nhóm đối tượng cần tuyên truyền mà có nội dung tuyên truyền phù hợp.
- Nội dung tuyên truyền phải cụ thể, rõ ràng, cô đọng, súc tích, tránh chung
chung, trừu tượng: Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào: Tác hại của ma túy đối
với bản thân và xã hội; các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy...; chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố về phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy; vai trò, trách nhiệm của mỗi người dân trong công tác phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy; cách thức liên lạc, báo tin khi phát hiện tội
phạm, vi phạm pháp luật về ma túy...
- Phải kiện toàn đội ngũ, nâng cao trình độ đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên: Huy động đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia tuyên truyền phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Chú trọng đội ngũ tuyên truyền viên cấp cơ
sở. Thường xuyên tập huấn bổ sung kiến thức, cập nhật thông tin về công tác phòng
ngừa, nâng cao kỹ năng cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.
69
- Kết hợp tuyên truyền với đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”:
Lực lượng phòng ngừa chuyên trách cấp thành phố (Công an, Bộ đội biên phòng...)
tăng cường phối hợp với Công an cấp quận, huyện, các ban ngành, đoàn thể đẩy
mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”, xây dựng “Cụm dân cư không có tệ
nạn ma túy”, “Khu phố không có tệ nạn ma túy”...
- Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành trong tuyên truyền: Sửa
đổi, bổ sung, ký kết mới các quy chế phối hợp giữa ngành Công an với các ban
ngành, đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc... để nâng tầm
và mở rộng quy mô tuyên truyền.
- Chú trọng công tác tổng kết, khen thưởng động viên phong trào: Thường
xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tuyên truyền; kịp thời động viên,
tuyên dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác
tuyên truyền để động viên, khích lệ phong trào và thu hút người dân tham gia.
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội góp phần
bảo đảm an sinh xã hội, gắn chặt với nâng cao hiệu quả ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy
- Gắn việc hoạch định, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội địa
phương với công tác phòng ngừa tình hình tội phạm (trong đó có tái phạm tội về ma
túy), xem tình hình ANTT địa phương là 1 tiêu chí đánh giá chất lượng phát triển
kinh tế - xã hội, 1 lợi thế cạnh tranh giữa Đà Nẵng với các địa phương khác.
- Khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong quy hoạch vùng, ngành (du lịch,
vận tải…) hạn chế đến mức thấp nhất việc tội phạm lợi dụng để hoạt động (trong đó
có hoạt động tái phạm tội về ma túy).
- Ưu tiên đổi mới các chính sách xã hội liên quan đến phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy như: Giải quyết việc làm; xóa đói giảm nghèo; tôn giáo, dân
tộc; giáo dục; tái hòa nhập cộng đồng…
3.2.4. Tăng cường hiệu lực công tác quản lý Nhà nước về trật tự xã hội
- Đổi mới phương thức quản lý một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện
về ANTT, nhất là dịch vụ karaoke, bar, pub, khách sạn... không để tội phạm lợi
dụng hoạt động tái phạm tội về ma túy. Đổi mới chính sách, biện pháp quản lý và
70
xử lý đối với các tệ nạn xã hội (mại dâm, cờ bạc, sử dụng trái phép ma túy…) nhằm
kiểm soát chặt chẽ các chất ma túy.
- Làm tốt công tác quản lý nhân khẩu, cư trú, nhất là người từ địa phương
khác đến Đà Nẵng du lịch, học tập, làm việc, hạn chế các đối tượng lợi dụng sơ hở
trong công tác quản lý để thực hiện hành vi tái phạm tội về ma túy.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý giao thông (đường
bộ, đường sắt, đường hàng không…) không để các đối tượng lợi dụng sơ hở vận
chuyển trái phép chất ma túy.
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ
- Đẩy mạnh điều tra cơ bản các địa bàn có tình hình tái phạm tội, người tái
nghiện ma túy gia tăng, phức tạp về ANTT; tăng cường cán bộ trinh sát quản lý địa
bàn (ưu tiên cán bộ nhiều kinh nghiệm, quen thuộc địa bàn cơ sở), quản lý số đối
tượng hình sự nổi có liên quan đến ma túy (có tiền án, tiền sự về ma túy, miễn
TNHS, đối tượng phạm pháp hình sự có sử dụng chất ma túy…), nắm rõ các mối
quan hệ nghi vấn để kịp thời phát hiện các hành vi tái phạm tội về ma túy. Kết hợp
răn đe với vận động thuyết phục các đối tượng có nguy cơ cao tái phạm tội về ma
túy, không để các đối tượng khác rủ rê, lôi kéo họ tái phạm tội.
- Tăng cường công tác vận động quần chúng làm “tai mắt” cung cấp thông
tin mật về tội phạm về ma túy để tập trung áp dụng các biện pháp nghiệp vụ chuyên
ngành làm rõ, kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi tái phạm tội về ma túy.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động tuần tra kiểm soát kết hợp với các hoạt
động nghiệp vụ chủ động phòng ngừa tái phạm tội về ma túy trên các tuyến giao
thông, các địa bàn trọng điểm, địa bàn tập trung dân cư đông đảo, địa bàn giáp ranh.
- Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các lực lượng trực tiếp phòng, chống tội phạm (lực lượng phòng
chống ma túy trong Công an, Bộ đội biên phòng…) kịp thời phát hiện các hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm; phát hiện những thiếu sót, sơ hở của chính sách, cơ chế
quản lý Nhà nước từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
- Thường xuyên tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm,
kiểm danh kiểm diện số đối tượng trên địa bàn có nghi vấn tái phạm tội để kịp thời
71
phát hiện, xử lý các hành vi tái phạm tội về ma túy.
- Tăng cường vận động đầu thú kết hợp tổ chức truy bắt đối tượng truy nã về
ma túy, nhất là những đối tượng nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm.
3.2.6. Nâng cao hiệu quả tấn công trấn áp tội phạm, điều tra, truy tố, xét
xử tái phạm tội về ma túy
- Lực lượng Công an, Bộ đội biên phòng xây dựng các chương trình, kế
hoạch chuyên đề phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy theo từng giai đoạn,
phân công phân cấp cụ thể và tổ chức thực hiện đồng loạt, thống nhất trên phạm vi
toàn thành phố, không có “vùng trống” để tội phạm ma túy lợi dụng ẩn náu, chờ
điều kiện thuận lợi để tái phạm tội.
- Định kỳ rà soát, tập trung chuyển hóa những địa bàn trọng điểm về tội
phạm và tệ nạn ma túy, không để hình thành “điểm nóng” tiềm ẩn nguy cơ tái phạm
tội về ma túy.
- Bên cạnh các biện pháp nghiệp vụ quản lý đối tượng nghi vấn vi phạm pháp
luật về ma túy, các lực lượng chuyên trách khác trong Công an (CSTHAHS &
HTTP, Công an phường…) thường xuyên rà soát, quản lý, theo dõi nhóm đối tượng
có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.
Thường xuyên tiếp xúc, nắm bắt tâm tư nguyện vọng, kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ họ ổn
định cuộc sống, vừa ngăn ngừa họ tái phạm tội vừa giúp họ tái hòa nhập cộng đồng.
- Tăng cường hiệu quả của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong
phát hiện tái phạm tội về ma túy. Nêu cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác
của người dân với tội phạm, kịp thời báo tin cho các lực lượng chức năng khi phát
hiện các biểu hiện phạm tội, tái phạm tội về ma túy trong địa bàn, cơ quan, đơn vị
mình phụ trách. Thiết lập đường dây nóng, cổng thông tin, hộp thư tiếp nhận tin
báo, tố giác của nhân dân đối với tội phạm và tái phạm tội về ma túy để kịp thời tiếp
nhận, xử lý thông tin. Đồng thời, có cơ chế bảo đảm bí mật, an toàn cho người báo
tin, tạo sự an tâm cho người dân khi tố giác tội phạm. Tăng cường phối hợp với các
địa phương lân cận kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các trường hợp các đối
tượng ngoại tỉnh đến thành phố Đà Nẵng thực hiện việc phạm tội hoặc tái phạm tội
về ma túy. Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, tái phạm tội về ma túy
72
theo đúng quy định, trình tự và phải làm rõ trong thời gian nhanh nhất. Liên ngành
Công an - VKSND - TAND - Thanh tra sơ kết đánh giá công tác tiếp nhận, giải
quyết kết quả tin báo tố giác tội phạm, tạo chuyển biến tích cực trong công tác tiếp
nhận, xử lý các thông tin về tội phạm, đặc biệt là về ma túy.
- Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử (đặc biệt là các vụ tái
phạm tội về ma túy) không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tăng
cường xét xử “điểm”, xét xử các vụ án tái phạm tội về ma túy để nâng cao hiệu quả
tuyên truyền, răn đe.
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra với VKSND, TAND, Y
tế, Lao động - Thương binh & Xã hội trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tái
phạm tội về ma túy (phối hợp cai nghiện, chữa bệnh cho bị can bị cáo tái phạm tội
về ma túy…).
3.2.7. Nâng cao hiệu quả giáo dụ,c cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng cho
người phạm tội và người có nguy cơ cao tái phạm tội về ma túy
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giam giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo
đối với các đối tượng giam giữ (phạm nhân thi hành án, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo); có biện pháp quản lý, giáo dục riêng biệt cho số phạm nhân về ma túy. Chủ
động phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong công tác giam
giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo và thực hiện chế độ, chính sách đối với các loại đối
tượng giam giữ, quản lý không để phát sinh bức xúc, phản ứng tiêu cực, gây rối,
chống đối tập thể, gây mất an ninh, an toàn cơ sở giam giữ, quản lý.
- Chủ động thực hiện các biện pháp giúp phạm nhân chuẩn bị tái hòa nhập
ngay trong quá trình chấp hành án; thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm tái
hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù. Bao gồm:
+ Tư vấn tâm lý nhằm cung cấp cho phạm nhân kiến thức, giúp họ định
hướng và nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải
trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Nội dung tư vấn bao gồm: Tình cảm, hôn
nhân, gia đình; phòng chống ma túy, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội; xóa bỏ mặc
cảm, tự ti, xây dựng ý chí, niềm tin, khả năng ứng phó, giải quyết các vấn đề phát
73
sinh trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng; lao động, việc làm... Nội dung tư vấn
phải thiết thực, thể hiện được tinh thần chân thành, tránh qua loa hình thức.
+ Tư vấn, hỗ trợ các thủ tục pháp lý cho phạm nhân như: Đăng ký cư trú, hộ
tịch, cấp căn cước công dân; vay vốn, đăng ký kinh doanh, ký kết hợp đồng lao
động… Tăng cường vai trò và sự tham gia của gia đình, đoàn thể xã hội trong quá
trình chấp hành án, điều trị cai nghiện để ổn định tâm lý, nắm bắt tâm tư, hướng
thiện cho họ.
+ Định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm cho phạm
nhân, trại viên, người cai nghiện. Công an thành phố cần chủ trì, phối hợp với Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức đào tạo nghề,
nâng cao tay nghề, cấp chứng chỉ nghề cho phạm nhân, trại viên, người cai nghiện
và liên hệ với các doanh nghiệp để giới thiệu, tạo việc làm cho họ.
+ Tùy theo điều kiện thực tế, cần hỗ trợ kinh phí cho phạm nhân đã chấp
hành án xong, được đặc xá, tha tù trước thời hạn có điều kiện khi trở về nơi cư trú
có nguồn vốn để lao động, sản xuất bắt đầu cuộc sống mới, trở thành công dân tốt,
phòng ngừa họ tái phạm tội.
3.2.8. Tăng cường nguồn lực cho phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy
- Rà soát biên chế, tổ chức của lực lượng chuyên trách và đoàn thể có liên
quan công tác phòng ngừa để sắp xếp, bố trí lại cho phù hợp với điều kiện địa
phương, ưu tiên lực lượng cho Công an, Bộ đội biên phòng, Hải quan…; tăng
cường giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên
môn, kiến thức pháp luật cho các lực lượng chuyên trách và các ban ngành, đoàn
thể của thành phố. Có cơ chế thu hút nhân tài, tuyển dụng những người có chuyên
môn cao về phòng chống tội phạm để làm công tác nghiên cứu, cố vấn, quản lý.
- Lãnh đạo các đơn vị thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ, kịp thời phát hiện, khắc phục những hạn chế,
yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Đầu tư, trang bị các
phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và
phòng ngừa tình hình tái phạm tội.
74
- Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào Vận động
“xã hội hóa” các nguồn kinh phí hỗ trợ công tác ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy từ các nguồn của Trung ương, địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp và nhân
dân để đảm bảo đủ nguồn lực cho triển khai có hiệu quả công tác phòng ngừa.
3.2.9. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác điều trị, cai nghiện ma
túy, quản lý sau cai nghiện nhằm hỗ trợ tốt công tác phòng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy
Nâng cao hiệu quả công tác rà soát, thống kê người nghiện. Không chỉ thống
kê người nghiện ma túy trên địa bàn thành phố, cơ quan chức năng cần nắm rõ các
đối tượng nghiện ma túy từ địa phương khác đến. Cần nắm bắt lịch sử bản thân, tiền
án tiền sự, mối quan hệ xã hội của người nghiện, đặc biệt là quan hệ với các đối
tượng phạm tội, người nghiện ma túy khác. Đối với những người cai nghiện tại gia
đình, chính quyền địa phương cần phối hợp với gia đình người nghiện nắm bắt tình
hình, diễn biến tâm lý để động viên, giúp đỡ họ cai nghiện thành công.
Hiện nay, thành phố Đà Nẵng triển khai 2 trung tâm điều trị cai nghiện bằng
Methadone theo Nghị định số 90/2016/NĐ-CP [24]. Các trung tâm này được tài trợ
bởi dự án hợp tác giữa Bộ Y tế Việt Nam và Bộ Y tế - Dịch vụ con người Hoa Kỳ
(VAAC - US.CDC) đã thu được những kết quả tích cực, góp phần trợ giúp người
nghiện dần từ bỏ ma túy, xây dựng cuộc sống mới, gia đình ấm lo và hạnh phúc.
Tuy nhiên, đã phát sinh nhiều trường hợp lợi dụng việc điều trị để đối phó
với cơ quan chức năng, vi phạm pháp luật như: Sử dụng “vỏ bọc” điều trị
Methadone để bán ma túy cho những người đang điều trị cai nghiện; khi nào không
có ma túy để sử dụng thì mới đến uống Methadone để cắt cơn nghiện… Qua thực
tiễn tại Cơ sở điều trị Methadone số 2 tại quận Thanh Khê, tác giả nhận thấy thành
phố cần nghiên cứu thêm những mô hình hiện đại, đáp ứng được yêu cầu phòng
ngừa tái phạm tội, tái nghiện ma túy. Tòa ma túy (Drug Court) là một mô hình đáng
để quan tâm, xem xét.
Tòa ma túy (Drug Court) hay còn được gọi là Tòa điều trị nghiện ma túy
(Drug Treatment Court) là một Tòa án đặc biệt được giao trách nhiệm để giải quyết
các trường hợp tội phạm có liên quan đến lạm dụng chất gây nghiện, bao gồm:
75
Giám sát; xét nghiệm ma túy; điều trị nghiện; các biện pháp kỷ luật và động viên,
khuyến khích kịp thời [29, tr.49]. Đây là một chương trình tổng hợp, kết hợp giữa
các giải pháp tư pháp, điều trị, phục hồi và giám sát dành cho người nghiện ma túy
rất hiệu quả ở Hoa kỳ và các nước khác. Hầu hết các chương trình của Tòa ma túy
kéo dài từ 12 đến 18 tháng và được chia ra thành 03 hoặc 04 giai đoạn, cụ thể: Giai
đoạn 1: Định hướng và đánh giá (12 tuần); giai đoạn 2: Điều trị chuyên sâu và ổn
định (12 tuần); giai đoạn 3: Trưởng thành và chuyển tiếp (12 tuần); giai đoạn 4:
Chuyển tiếp và kết thúc (16 tuần). Khi học viên đã hoàn thành các tiêu chí của từng
giai đoạn, họ sẽ tiến tới cấp độ tiếp theo và cuối cùng là tốt nghiệp chương trình.
Ngược lại, nếu họ thất bại trong chương trình của Tòa ma túy thì họ sẽ bị xét xử và
nhận hình phạt từ Tòa án hình sự.
Có thể thấy, phương thức vận hành và yêu cầu của Tòa ma túy không quá
phức tạp nhưng hiệu quả mang lại rất lớn, phát huy tối đa sự nỗ lực của học viên
dưới sự giám sát chặt chẽ và tương tác toàn diện với cơ quan chức năng. Đối chiếu
với thực tế nước ta hiện nay, với những ghi nhận về quyền con người trong Hiến
pháp 2013 thì Tòa ma túy là giải pháp phù hợp và giàu tính nhân văn hơn so với mô
hình cai nghiện bắt buộc hiện nay. Bởi vì trọng tâm của Tòa ma túy là hướng đến
điều trị nghiện ma túy và phục hồi chức năng xã hội cho người nghiện chứ không
đơn thuần chỉ là trừng phạt tương xứng như những Tòa án thông thường khác.
Tính khả thi của Tòa ma túy ở Việt Nam còn ở chỗ: Luật Xử lý VPHC 2012
đã chuyển thẩm quyền đưa người nghiện ma túy đi cai nghiện bắt buộc từ UBND
cấp huyện sang TAND cùng cấp nên việc áp dụng Tòa ma túy là khả thi cả về cơ sở
pháp lý và thực tiễn áp dụng. Hơn nữa, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử
lý nghiêm khắc hơn đối với các tội phạm ma túy. Điển hình như: Việc tàng trữ dưới
0,1gam heroin trước đây chỉ bị xử phạt VPHC thì hiện nay bị phạt tù từ 01 năm đến
05 năm (nếu trước đó đã bị xử lý hành chính về hành vi này). Như vậy, dự báo số
lượng người phạm tội về ma túy trong thời gian đến sẽ tăng, gây áp lực lớn đối với
hệ thống trại giam, trung tâm cai nghiện. Nếu áp dụng mô hình Tòa ma túy thì sẽ
giải quyết được nhóm đối tượng phạm tội về ma túy ở mức độ ít nghiêm trọng nêu
trên, giải quyết được sự quá tải cho hệ thống cơ quan thi hành án hình sự.
76
3.2.10. Nâng cao hiệu quả phối hợp lực lượng trong phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy
- Tăng cường phối hợp với các địa phương lân cận trong phòng ngừa tái
phạm tội về ma túy
Tiếp tục cụ thể hóa các quy chế phối hợp trong quản lý và tổ chức cai nghiện,
tái hòa nhập cộng đồng; thống nhất đầu mối để quản lý, chỉ đạo công tác này tránh
chồng chéo. Các chủ thể trực tiếp phòng ngừa (Công an, VKSND, TAND…) cần
tăng cường tham mưu cho UBND thành phố Đà Nẵng ký kết quy chế phối hợp, thỏa
thuận hợp tác với các địa phương lân cận (Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế), các cơ
quan Đảng, Nhà nước đóng trên địa bàn thành phố nhằm chia sẻ thông tin, trao đổi
nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và
tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng.
- Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các lực lượng trong phòng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy
Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là
lực lượng CSĐTTP về ma tuý Công an thành phố và Công an các quận huyện, Bộ
đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan... Tuy nhiên, đây là công tác rất khó khăn,
phức tạp đòi hỏi phải phối hợp chặt chẽ mới tạo được hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện.
Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của từng lực lượng mà có thể
phối hợp liên ngành, đa ngành, cụ thể như sau:
+ Giữa Cơ quan CSĐT với VKSND, TAND: Duy trì các phiên họp liên ngành
đánh giá tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm ma túy. Từ đó, rút kinh nghiệm,
đề ra giải pháp khắc phục những hạn chế, sơ hở, thiếu sót, nâng cao chất lượng điều
tra, truy tố, xét xử, góp phần phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, đảm bảo
TTATXH địa phương. Việc phối hợp liên ngành phải trên cơ sở bình đẳng, tinh
thần xây dựng, đúng quy định pháp luật, cùng hướng đến mục tiêu chung phòng
chống tội phạm, tránh tình trạng “quyền anh quyền tôi”...
+ Giữa Công an với Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan: Lực lượng
CSĐTTP về ma túy Công an thành phố giữ vai trò nòng cốt trong phối hợp với Bộ
đội biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan tích cực, chủ động trao đổi thông tin,
77
phối hợp tuần tra kiểm soát tại địa bàn sân bay, cảng biển theo nội dung Quyết định
số 133/2002/QĐ-TTg [15].
+ Giữa Công an với ngành Công thương, Y tế, Lao động - Thương binh &
Xã hội: Lực lượng CSĐTTP về kinh tế, CSĐTTP về ma túy Công an thành phố
phối hợp với Sở Công thương, Sở Y tế quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất, buôn
bán, sử dụng các loại thuốc tân dược có chứa chất gây nghiện, chất hướng thần, các
loại tiền chất để phòng ngừa việc sản xuất trái phép chất ma túy. Công an thành phố
phối hợp Sở Y tế, Sở Lao động - Thương binh & Xã hội nâng cao hiệu quả công tác
cai nghiện ma túy, hạn chế tình hình tái nghiện.
+ Giữa các lực lượng chuyên trách với chính quyền địa phương và các đoàn
thể, tổ chức xã hội: Các lực lượng chuyên trách tăng cường phối hợp với các cấp
chính quyền, đoàn thể xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ...
vận động tham gia phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
- Tăng cường phối hợp với thân nhân, gia đình phạm nhân trong quá trình
giáo dục phạm nhân
Thường xuyên trao đổi thông tin với gia đình phạm nhân về kết quả cải tạo
của con em họ. Nhân các dịp lễ, Tết, đặc xá, giảm án, trại tạm giam Công an thành
phố cần tăng cường tổ chức gặp mặt, đối thoại với gia đình phạm nhân để thông báo
tình hình trại giam, các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
quy định của ngành Công an về giáo dục, cải tạo phạm nhân cũng như giải đáp
những ý kiến, nguyện vọng của gia đình và bản thân phạm nhân. Đồng thời, bàn bạc
thống nhất với gia đình phạm nhân chương trình, kế hoạch phối hợp cùng quản lý,
giáo dục con em họ. Việc này giúp phạm nhân an tâm tư tưởng, tích cực học tập, lao
động, rèn luyện; hạn chế việc phạm tội mới ngay trong trại giam; hình thành phẩm
chất tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng, hạn
chế nguy cơ tái phạm tội ngoài xã hội.
78
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đánh giá và khái quát phòng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020,
khẳng định tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố khá cao và
tương đối phức tạp. Vì vậy, công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian đến cần phải đảm bảo các yêu cầu như:
Tính hệ thống, tính toàn diện, tính khoa học và tính khả thi. Để công tác phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đạt hiệu quả
cao, đáp ứng yêu cầu đề ra trong “Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn
2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030” của UBND thành phố Đà Nẵng, tác giả
nhận thấy cần phải huy động sức mạnh toàn diện, đồng bộ của cả hệ thống chính trị
và toàn thể người dân thành phố Đà Nẵng cùng tham gia.
Trong chương này, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng trong thời gian đến. Đó là, nhanh chóng khắc phục những hạn chế
trong các công tác: Tham mưu, hoạch định chính sách, pháp luật liên quan đến
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy; tuyên truyền phòng ngừa tái phạm tội;
đẩy mạnh phòng ngừa nghiệp vụ; nâng cao hiệu quả phối hợp lực lượng trong
phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy… Đồng thời, thường xuyên kiện toàn,
nâng cao năng lực của các chủ thể lãnh đạo cũng như của các chủ thể thực hiện
công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy theo định kỳ hoặc đột xuất để
kịp thời phát hiện các sơ hở, thiếu sót, hạn chế, yếu kém để có biện pháp chấn
chỉnh. Có thực hiện tốt các nội dung mà tác giả đã phân tích, đánh giá và đưa ra nêu
trên thì công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
mới đạt được hiệu quả cao và bền vững.
79
KẾT LUẬN
Xuất phát từ quá trình nghiên cứu các tài liệu của Tội phạm học, các văn bản
quy phạm pháp luật và các văn bản khác về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng cũng như thực tiễn công tác, tôi chọn đề tài “Phòng ngừa
tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn
thạc sĩ nhằm góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về phòng ngừa tái phạm tội và
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm ma túy nói chung và tái phạm tội
về ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Luận văn này tập trung làm rõ các nhận thức cơ bản về tái phạm tội, tình
hình tái phạm tội, tái phạm tội về ma túy, tình hình tái phạm tội về ma túy và phòng
ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy; phân biệt tái phạm tội, phòng ngừa tái phạm
tội trong khoa học Tội phạm học với tái phạm, phòng ngừa tái phạm trong khoa học
Luật hình sự; các yếu tố ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy; thực trạng công tác phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020; từ đó, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tái tình hình phạm tội về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến, đáp ứng các yêu cầu về tính hệ
thống, tính toàn diện, tính khoa học và tính khả thi. Tuy đã có nhiều cố gắng trong
nghiên cứu nhưng do hạn chế về thời gian, dữ liệu phân tích và năng lực nghiên cứu
của bản thân nên luận văn không tránh khỏi có những hạn chế, thiếu sót. Tác giả
mong nhận được sự quan tâm, nhận xét, góp ý từ những nhà nghiên cứu, những
người đọc luận văn này để có thể hoàn thiện trong những nghiên cứu tiếp theo.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô tại Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức và chia sẻ những kinh nghiệm
quý báu; các lãnh đạo, cán bộ Sở, ban, ngành thành phố Đà Nẵng đã tích cực hỗ trợ
về điều kiện nghiên cứu và cung cấp số liệu; các bạn học, đồng nghiệp đã giúp đỡ
trong thống kê, phân tích số liệu. Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS.
Trần Hữu Tráng - Trưởng khoa Luật, Đại học Mở Hà Nội đã trực tiếp hướng dẫn,
tận tình chỉ bảo để tác giả có thể hoàn thiện được luận văn này.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển giản yếu, Nxb Trường Thi, Sài Gòn.
2. Lê Tuấn Anh (2019), Phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa,
Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Học
viện Khoa học xã hội.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (1995), Nghị quyết số 08-NQ/HNTW Hội
nghị lần thứ tám BCHTW Đảng khoá VII v/v tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, ban hành ngày 23/01/1995, Hà Nội.
4. Ban Bí thư (2014), Kết luận số 95-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-
CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị v/v “Tiếp tục tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình
mới”, ban hành ngày 02/4/2014, Hà Nội.
5. Ban Bí thư (2016), Kết luận số 05-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X v/v tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban
hành ngày 15/7/2016, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2008), Chỉ thị số 21-CT/TW v/v tiếp tục tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới, ban
hành ngày 26/3/2008, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW v/v tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành
ngày 22/10/2010, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 09/CT-TW v/v tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình
mới, ban hành ngày 01/12/2011, Hà Nội.
9. Bộ Công an (2002), Kế hoạch 14/KH-BCA v/v ký quy chế phối hợp giữa lực
lượng Công an, Biên phòng trong công tác đấu tranh với tội phạm ma túy
trên tuyến biên giới, cửa khẩu.
10. Bộ Công an (2016), Báo cáo số 44/BC-BCA-C41 v/v tổng kết Chương trình
mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy; báo cáo kết quả thực hiện Chương
trình năm 2011, giai đoạn 2012 - 2015 và đề xuất Chương trình phòng,
chống ma túy giai đoạn 2016 - 2020, ban hành ngày 23/02/2016, Hà Nội.
11. Bộ Công an (2018), Thông tư 05/2018/TT-BCA v/v quy định việc thu thập tài
liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, ban hành ngày 07/02/2018, Hà Nội.
12. Bộ Công an (2020), Mệnh lệnh số 1433/ĐK-HT v/v ra quân thực hiện Đợt
cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm ANTT, bảo vệ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII và Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, ban hành ngày
15/12/2020, Hà Nội.
13. Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg v/v phê duyệt Chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 31/7/1998, Hà Nội.
14. Chính phủ (2000), Quyết định số 61/2000/QĐ-TTg v/v thành lập Ủy ban
Quốc gia phòng chống AIDS và chống tệ nạn ma túy, mại dâm, ban hành
ngày 05/6/2000, Hà Nội.
15. Chính phủ (2002), Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg v/v ban hành quy chế
phối hợp giữa lực lượng Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển và Hải
quan trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên
giới, cửa khẩu và trên biển, ban hành ngày 09/10/2002, Hà Nội.
16. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg v/v tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm
2010, ban hành ngày 08/11/2004, Hà Nội.
17. Chính phủ (2004), Quyết định số 59/2004/QĐ-TTg v/v thành lập Ban chỉ đạo
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 09/4/2004, Hà
Nội.
18. Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP v/v quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù,
ban hành ngày 16/9/2011, Hà Nội.
19. Chính phủ (2011), Quyết định số 1001/QĐ-TTg v/v phê duyệt Chiến lược
Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030, ban hành ngày 27/6/2011, Hà Nội.
20. Chính phủ (2012), Quyết định số 1217/QĐ-TTg v/v phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012 - 2015, ban hành
ngày 06/9/2012, Hà Nội.
21. Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg v/v phê duyệt Chiến lược quốc
gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 định hướng đến năm 2030,
ban hành ngày 14/4/2016, Hà Nội.
22. Chính phủ (2014), Quyết định số 389/QĐ-TTg v/v thành lập Ban Chỉ đạo
quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, ban hành ngày
19/3/2014, Hà Nội.
23. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 98/NQ-CP v/v tăng cường chỉ đạo công tác
phòng, chống, kiểm soat và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, ban hành
ngày 26/12/2014, Hà Nội.
24. Chính phủ (2016), Nghị định số 90/2016/NĐ-CP v/v quy định về điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, ban hành ngày
01/7/2016, Hà Nội.
25. Chính phủ (2017), Quyết định số 199/QĐ-TTg v/v phê duyệt chương trình
thực hiện Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW đến năm 2020, ban hành ngày 14/02/2017, Hà
Nội.
26. Chính phủ (2017), Quyết định số 424/QĐ-TTg v/v phê duyệt Chương trình
phòng, chống ma túy đến năm 2020, ban hành ngày 07/4/2017, Hà Nội.
27. Chính phủ (2019), Văn bản hợp nhất số 1866/VBHN-BLĐTBXH v/v quy định
chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc, ban hành ngày 15/5/2019, Hà Nội.
28. Chính phủ (2020), Nghị định số 49/2020/NĐ-CP v/v quy định chi tiết thi
hành Luật THAHS về tái hòa nhập cộng đồng, ban hành ngày 17/4/2020, Hà
Nội.
29. Phan Duy Chiến - Bùi Duy Võ (2018), Tòa ma túy và khả năng áp dụng tại
Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 24(2018).
30. Công an thành phố Đà Nẵng (2020), Báo cáo tại Hội nghị đánh giá 5 năm
thực hiện chương trình thành phố “4 An”, ban hành ngày 25/9/2020, Đà
Nẵng.
31. Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Tội phạm học, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Hoàng (2015), Hoạt động của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội trong phòng ngừa tái phạm tội đối với người chấp
hành xong án phạt tù trên địa bàn thành phố Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1989), Chủ tịch Hồ Chí Minh với CAND, Viện Khoa học Công
an - Bộ Nội vụ, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Huy (2019), Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai
nghiện ma túy (nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh),
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội.
35. Nguyễn Mạnh Kháng, Vấn đề phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, công
trình Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
V. I. Lênin (1970), Toàn tập (30), Nxb Sự thật, Hà Nội. 36.
Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. 37.
38. Michael D. Maltz ([1984] 2001), Recidivism, Academic Press, Inc., Orlando,
Florida, Mỹ.
Thanh Nghị (1952), Việt Nam tân từ điển, Nxb Thời thế, Sài Gòn. 39.
Quận ủy Thanh Khê (2016), Đề án số 03-ĐA/QU v/v “Phòng, chống ma túy 40.
trên địa bàn quận Thanh Khê giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp
theo”, ban hành ngày 20/01/2016, Đà Nẵng.
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 41.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội. 42.
Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương. 43.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. 44.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. 45.
Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân. 46.
Quốc hội (2019), Luật Thi hành án hình sự. 47.
G. V. Đa - Scốp (1990), Tội phạm học, Hà Nội. 48.
49. Hồ Sỹ Sơn (2019), Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm: Khía cạnh lý luận, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số
04(71).
50. Thành ủy Đà Nẵng (2014), Chỉ thị số 37-CT/TU v/v tiếp tục tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày 20/8/2014, Đà Nẵng.
51. Vũ Đức Trung (2001) Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình trạng tái phạm tội ở nước ta hiện nay.
52. UBND thành phố Đà Nẵng (2004), Chỉ thị số 21/2004/CT-UB v/v tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình Quốc gia phòng,
chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010, ban hành ngày 29/11/2004, Đà
Nẵng.
53. UBND thành phố Đà Nẵng (2010), Kế hoạch số 114/KH-UBND v/v thực hiện
Đề án “Xây dựng xã, phường, thị trấn không tệ nạn ma túy”, ban hành ngày
07/6/2010, Đà Nẵng.
54. UBND thành phố Đà Nẵng (2014), Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND v/v
ban hành Quy chế phối hợp Lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày 06/9/2014, Đà Nẵng.
55. UBND thành phố Đà Nẵng (2015), Quyết định số 7661/QĐ-UBND v/v xây
dựng lực lượng dân phòng làm nhiệm vụ tuần tra ban đêm để phòng chống
tội phạm, quản lý ANTT trên địa bàn trong tình hình mới.
56. UBND thành phố Đà Nẵng (2015), Quyết định số 8394/QĐ-UBND v/v ban
hành Kế hoạch phối hợp lực lượng tuần tra phòng, chống tội phạm, đảm bảo
ANTT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày 09/11/2015, Đà Nẵng.
57. UBND thành phố Đà Nẵng (2016), Quyết định số 5393/QĐ-UBND v/v ban
hành Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định
hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày
10/8/2016, Đà Nẵng.
58. UBND thành phố Đà Nẵng (2016), Quyết định số 6111/QĐ-UBND v/v phê
duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy không được
kiểm soát trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”,
ban hành ngày 07/09/2016, Đà Nẵng.
59. UBND thành phố Đà Nẵng (2017), Quyết định số 901/QĐ-UBND v/v ban
hành Quy chế tổ chức tiếp nhận người có dấu hiệu loạn thần đang có hành vi
nguy hiểm cho gia đình và xã hội tự nguyện vào cơ sở y tế để chữa bệnh, ban
hành ngày 20/02/2017, Đà Nẵng.
60. UBND thành phố Đà Nẵng (2017), Quyết định số 26/2017/QĐ-UBND v/v
sửa đổi, bổ sung Quy chế phối hợp Lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày 14/8/2017, Đà Nẵng.
61. UBND thành phố Đà Nẵng (2019), Quyết định số 46/2019/QĐ-UBND v/v
ban hành Quy chế phối hợp Lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, ban hành ngày 21/10/2019, Đà Nẵng.
62. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Từ điển Trung Việt, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 64.
Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Khắc Hải (2020), Giáo trình Tội phạm học, Nxb 65.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
66. Võ Khánh Vinh (1999), Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Đại học Huế, Thừa
Thiên - Huế.
67. Nguyễn Xuân Yêm và đồng nghiệp (2013), Tội phạm học Việt Nam, Nxb
CAND, Hà Nội.
Website
68. Chuyên mục “An ninh Đà Nẵng”:
http://www.drt.danang.vn/chuong_trinh-194-an_ninh_da_nang;
https://www.youtube.com/channel/UCQ3_EX1YRN3QNOy5rtkB0VQ
69. Chuyên mục “An ninh trật tự”:
cadn.com.vn/cate/60_0_an-ninh-trat-tu.aspx
70. Chuyên mục “Pháp luật”:
https://baodanang.vn/chanel/5432/
71. Chuyên mục “An ninh Đà Nẵng - Tin tức”:
https://danang.gov.vn/web/an-ninh/danh-muc?id=100000092
72. Chuyên mục “Pháp luật và đời sống”:
https://vksdanang.gov.vn/web/guest/tin-tuc/dm-phap-luat-va-doi-
song?id=90%2C91%2C74
73. Fanpage “Tuổi trẻ Đà Nẵng”:
https://vi-vn.facebook.com/pages/category/Community-Organization/Tuổi-
trẻ-Đà-Nẵng-1205776749456619/
74. Fanpage “Tuổi trẻ Công an thành phố Đà Nẵng”:
https://facebook.com/tuoitrecatpdanang/
75. Fanpage “Phong trào Toàn dân bảo vệ ANTQ thành phố Đà Nẵng”:
https://facebook.com/Vibinhyencuocsong2/
76. Thành đoàn Đà Nẵng, “Tuyên truyền lưu động về phòng chống tội phạm ma
túy”: http://thanhdoandanang.org.vn/archives/3412
PHỤ LỤC
I. BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Thống kê tình hình xét xử phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Số vụ phạm tội Số bị cáo phạm tội Năm
145 196 2016
165 231 2017
218 307 2018
300 425 2019
291 427 2020
1.586 TỔNG
1.119 Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.2. Xu hướng tội phạm về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Tăng/giảm Số bị can Tăng/giảm Tỷ lệ % Năm
- 20 53 82 -9 Tỷ lệ % - 13,79% 32,12% 37,61% -3,00% - 35 76 118 2 - 17,86% 32,90% 38,44% 0,47% 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG Số vụ 145 165 218 300 291 1.119 196 231 307 425 427 1.586
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.3. Tình hình tái phạm tội về ma túy trong tình hình tội phạm
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Tỷ lệ % Tình hình tái phạm tội về ma túy Tình hình tội phạm về ma túy nói chung
(4)
(1)
(2)
(3)
(5)
(6)=(2):(4)
(7)=(3):(5)
Năm Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can
145 71 104 196 48,97% 53,06% 2016
165 85 155 231 51,52% 67,10% 2017
218 92 198 307 42,20% 64,50% 2018
300 176 252 425 58,67% 59,29% 2019
291 117 276 427 40,21% 64,64% 2020
1.119 1.586 541 985 48,35% 62,11%
TỔNG Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.4. Diễn biến tái phạm tội về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Năm Số vụ Tăng/giảm Tỷ lệ % Tăng/giảm Tỷ lệ %
- 14 7 84 -59 - 19,72% 8,24% 91,30% -33,52% - 51 43 54 24 - 49,04% 27,74% 27,27% 9,52% 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG 71 85 92 176 117 541 Số bị can 104 155 198 252 276 985
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.5. Tình hình tái phạm tội về ma túy trong tình hình tội phạm
nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Tỷ lệ % Tình hình tái phạm tội về ma túy Tình hình tội phạm nói chung
(1)
(2)
(4)
(5)
(6)=(2):(4)
(7)=(3):(5)
(3)
Năm Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can
71 1.006 1.794 7,06% 5,80% 104 2016
85 1.021 1.800 8,33% 8,61% 155 2017
92 1.085 1.806 8,48% 10,96% 198 2018
176 1.240 2.130 14,19% 11,83% 252 2019
117 1.204 1.899 9,72% 14,53% 276 2020
TỔNG 541 5.556 9.429 9,74% 10,45% 985
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.6. Tình hình tái phạm tội về ma túy trong tình hình tái phạm tội
nói chung thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Tỷ lệ % Tình hình tái phạm tội về ma túy Tình hình tái phạm tội nói chung
(1)
(2)
(4)
(5)
(6)=(2):(4)
(7)=(3):(5)
(3)
Năm Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can
71 315 699 22,54% 14,88% 104 2016
85 358 814 23,74% 19,04% 155 2017
92 367 871 25,07% 22,73% 198 2018
176 504 1.256 34,92% 20,06% 252 2019
117 497 702 23,54% 39,32% 276 2020
TỔNG 541 2.041 4.342 26,51% 22,69% 985
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.7. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo tội danh)
TỘI DANH TÁI PHẠM TỘI
Tái phạm tội về ma túy Tội danh khác Năm
Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ
100%
100% 35,67% 39,80% 61,37% 48,83% 2,96% 11,37%
Mua bán trái phép chất ma túy Số bị can 56 77 81 93 85 392 32 39 34 48 40 193 Tàng trữ trái phép chất ma túy Số bị can 41 76 117 131 116 481 36 45 58 125 68 332 3 1 0 3 9 16 Số bị can 7 2 0 28 75 112 71 85 92 176 117 541 Số bị can 104 155 198 252 276 985
2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG Tỷ lệ % Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.8. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo mục đích tái phạm tội)
MỤC ĐÍCH TÁI PHẠM TỘI
TỔNG
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Để kiếm lời
Để sử dụng
(2)
(3)=(2):(8)
(5)=(4):(8)
(7)=(6):(8)
(8)
(4)
Mục đích khác (6)
(1)
331 547 61,18% 55,53% 38,82% 44,47% 0,00% 0,00% 541 985 210 438 0 0 Số vụ Số BC
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.9. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo hình phạt đã áp dụng)
MỨC HÌNH PHẠT TÒA ÁN ĐÃ TUYÊN
Năm
Tử hình
Hưởng án treo
Tù chung thân
Hình phạt khác
Tù từ 3 năm trở xuống
Tù trên 7 đến dưới 15 năm
Tù trên 3 năm đến 7 năm
Tù từ 15 năm trở lên
Tổng số bị cáo tái phạm tội về ma túy bị xử lý
100% 0,00% 47,92% 33,71% 13,91% 4,26% 0,20%
0%
0%
104 2016 155 2017 198 2018 252 2019 276 2020 TỔNG 985 0 0 0 0 0 0 58 71 96 112 135 472 35 51 67 85 94 332 12 21 28 35 41 137 4 7 9 10 12 42 1 0 0 1 0 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tỷ lệ %
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.10. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo dân số từng quận, huyện) *
(1)
(2)
(3)
(5)=(3):(4)
(6)
(4)
STT Địa bàn Số dân (người) Số dân/ 1 bị cáo Mức độ nguy hiểm Số bị cáo
1 Thanh khê 205.341 206 996,80 3
2 Hải Châu 221.324 169 1.309,61 4
3 Liên Chiểu 170.153 108 1.575,49 6
4 Cẩm Lệ 143.632 98 1.465,63 5
5 Ngũ Hành Sơn 115.872 137 845,78 1
6 Sơn Trà 173.455 188 922,63 2
7 Hòa Vang 201.070 79 2.545,19 7
TỔNG 1.230.847 985 1.249,59
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.11. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo diện tích từng quận, huyện)
(1)
(2)
(5)=(4):(3)
(6)
(3)
(4)
STT Ðịa bàn Diện tích (km2) Số bị cáo/ 1 km2 Mức độ nguy hiểm Số bị cáo
Thanh Khê 9,5 1 206 21,68 1
Hải Châu 23 2 169 7,35 2
Liên Chiểu 75 3 108 1,44 6
Cẩm Lệ 36 4 98 2,72 5
Ngũ Hành Sơn 37 5 137 3,70 3
Sơn Trà 60 6 188 3,13 4
Hòa Vang 707,07 7 79 0,11 7
TỔNG 947,57 985
1,04 Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.12. Cơ cấu tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo độ tuổi, giới tính)
ĐỘ TUỔI
GIỚI TÍNH
Năm
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Nam
Tỷ lệ %
Nữ
Tỷ lệ %
Trên 30 tuổi
Dưới 18 tuổi
Tổng số bị cáo đã xét xử sơ thẩm
Từ 18 đến 30 tuổi
(3)
(4)=(3):(2)
(6)=(5):(2)
(8)=(7):(2)
(10)=(9):(2)
(11)
(12)=(11):(2)
(1)
(2)
(5)
(9)
(7)
104 2 1,92% 80 76,92% 20,19% 92 88,46% 12 11,54% 21 2016
155 3 1,94% 120 77,42% 20,65% 138 89,03% 17 10,97% 32 2017
198 4 2,02% 153 77,27% 20,71% 176 88,89% 22 11,11% 41 2018
252 5 1,98% 195 77,38% 21,03% 224 88,89% 28 11,11% 53 2019
276 6 2,17% 214 77,54% 20,29% 245 88,77% 31 11,23% 56 2020
985 762 875 TỔNG 20 2,03% 77,36% 203 20,61% 88,83% 110 11,17%
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.13. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo nghề nghiệp)
NGHỀ NGHIỆP
Năm
Tổng số bị cáo đã xét xử sơ thẩm
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
(4)=(3):(2) 12,50% 12,90% 12,63% 12,70% 13,04% 13,10%
Không nghề nghiệp (5) 28 41 53 67 73 262
(6)=(5):(2) 26,92% 26,45% 26,77% 26,59% 26,45% 26,60%
Nghề nghiệp không ổn định (7) 62 94 118 153 167 594
(8)=(7):(2) 59,62% 60,65% 59,60% 60,71% 60,51% 60,30%
(1) 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG
Nghề nghiệp ổn định (3) 13 20 25 32 36 129
(2) 104 155 198 252 276 985 Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.14. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo học vấn)
TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN
TỔNG
NĂM
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở
Tiểu học trở xuống
Sau Đại học, Đại học, Cao đẳng
Tỷ lệ % 26,92% 43,87% 43,94% 48,41% 56,16% 46,70%
Tỷ lệ % 44,23% 31,61% 36,36% 30,95% 24,28% 31,68%
Tỷ lệ % 7,69% 4,52% 4,55% 6,75% 4,71% 5,48%
Tỷ lệ % 21,15% 20,00% 15,15% 13,89% 14,86% 16,14%
Số bị cáo 46 49 72 78 67 312
Số bị cáo 8 7 9 17 13 54
104 155 198 252 276 985
Số bị cáo 22 31 30 35 41 159
2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG
Số bị cáo 28 68 87 122 155 460 Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.15. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo địa bàn cư trú)
NƠI CƯ TRÚ
TỔNG Năm Có hộ khẩu thành phố Không có hộ khẩu thành phố
(2)
(3)=(2):(6)
(4)
(5)=(4):(6)
(6)
(1)
Số BC Tỷ lệ % Số BC Tỷ lệ %
77 73,98% 27 26,02% 104 2016
128 82,47% 27 17,53% 155 2017
160 80,79% 38 19,21% 198 2018
181 71,79% 71 28,21% 252 2019
235 85,75% 41 14,25% 276 2020
85,14% 781 985 TỔNG 204 14,86%
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.16. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo hoàn cảnh gia đình)
* Tổng số người tái phạm tội: 985
Hoàn cảnh cụ thể Số BC Tỷ lệ %
Chưa kết hôn 497 50,46%
Đã kết hôn 314 31,88%
Đã ly hôn (vợ/chồng chết) 62 6,29% Bản thân người phạm tội
112 11,37% Chung sống nhưng không đăng ký kết hôn
Gia đình đủ cha mẹ 612 62,13%
Gia đình người phạm tội 373 37,87% Gia đình không đủ cha mẹ (cha mẹ mất sớm hoặc ly hôn…)
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.17. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo tội danh)
TỘI DANH TÁI PHẠM TỘI TỔNG
Năm
Số vụ Số bị can Số vụ Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số vụ Tỷ lệ %
(1) 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG
(2) 71 85 92 176 117 541
(3) 104 155 198 252 276 985
Phạm lại tội cũ Số bị can (6) 78 114 165 216 207 780
(5)=(4):(2) 73,24% 74,12% 81,52% 86,93% 78,63% 80,41%
(4) 52 63 75 153 92 435
(7)=(6):(3) 75,00% 73,55% 83,33% 85,71% 75,00% 79,19%
(8) 19 22 17 23 25 106
Phạm tội mới Số bị can (10) 26 41 33 36 69 205
(9)=(8):(2) 26,76% 25,88% 18,48% 13,07% 21,37% 19,59%
Tỷ lệ % (11)=(10):(3) 25,00% 26,45% 16,67% 14,29% 25,00% 20,81%
Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.18. Cơ cấu tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo thời gian)
Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tổng số vụ tái phạm tội về ma túy Tổng số bị can tái phạm tội về ma túy Thời gian tái phạm tội (sau khi chấp hành xong hình phạt tù) Số vụ tái phạm tội về ma túy Số bị can tái phạm tội về ma túy
541 985
46,95% 30,68% 17,93% 4,44% 37,46% 28,73% 21,83% 11,98% 369 283 215 118 Từ 0 đến 1 năm Từ 1 năm đến 3 năm Từ 3 năm đến 5 năm Từ 5 năm trở lên 254 166 97 24
Nguồn: Phòng CS THAHS & HTTP Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.19. Số phạm nhân quản lý, giam giữ tại trại tạm giam
Công an thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo thời gian tái phạm tội)
THỜI GIAN TÁI PHẠM TỘI
Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số phạm nhân * Số phạm nhân tái phạm
Tổng số phạm nhân
Giới tính
Số tiền án
Có tiền sử sử dụng ma túy
Mức án
312 249 63 312 0 45 267 268 44 0 0 0 103 81 22 103 0 28 75 82 21 0 0 0 33,01% 32,53% 34,92% 33,01% 0% 62,22% 28,09% 30,60% 47,73% 0% 0% 0% Khi đang chấp hành án 29 23 6 29 0 5 24 11 18 0 0 0 9% 9% 10% 9% 0% 11% 9% 4% 41% 0% 0% 0% Sau khi chấp hành án 74 58 16 74 0 23 51 37 37 0 0 0 24% 23% 25% 24% 0% 51% 19% 14% 84% 0% 0% 0%
Nam Nữ Dưới 2 Tiền án Từ 2 Tiền án trở lên Có Không Dưới 3 năm Từ 3 đến 7 năm Từ 7 đến 15 năm Từ 15 năm trở lên Chung thân Nguồn: Phòng CS THAHS & HTTP Công an thành phố Đà Nẵng
(*) Ghi chú: Số lượng phạm nhân thi hành án tại trại tạm giam tương ứng 15% tổng số bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.
Bảng 2.20. Số phạm nhân quản lý, giam giữ tại trại tạm giam
Công an thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (theo tội danh tái phạm)
TỘI DANH TÁI PHẠM TỘI
Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số phạm nhân * Số phạm nhân tái phạm Tội danh khác Tội danh về ma túy
Tổng số phạm nhân 103 33,01% 312 0 0% 103 100%
Nam 249 32,53% 0 0% 81 33% 81 Giới tính Nữ 63 34,92% 0 0% 22 35% 22
Dưới 2 Tiền án 312 103 33,01% 0 0% 103 33% Số tiền án Từ 2 Tiền án trở lên 0 0% 0 0% 0 0% 0
Có 45 62,22% 0 0% 28 62% 28
Có tiền sử sử dụng ma túy Không 267 28,09% 0 0% 75 28% 75
Dưới 3 năm 268 30,60% 0 0% 82 31% 82
Từ 3 đến 7 năm 44 47,73% 0 0% 21 48% 21
Từ 7 đến 15 năm 0 0% 0 0% 0 0% 0 Mức án
Từ 15 năm trở lên 0 0% 0 0% 0 0% 0
Chung thân 0% 0 0% 0 0% 0
0 Nguồn: Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng
(*) Ghi chú: Số lượng phạm nhân thi hành án tại trại tạm giam tương ứng 15% tổng số bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.
Bảng 2.21. Thống kê tình hình tái nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Cai nghiện tập trung Điều trị bằng Methadone Cai nghiện tại gia đình, cộng đồng Năm Tổng
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Số người cai nghiện
Số người tái nghiện
Số người cai nghiện
Số người tái nghiện
Số người cai nghiện
Số người tái nghiện
502 538 556 607 633 46,81% 56,13% 57,01% 52,88% 52,76% 235 302 317 321 334 364 348 323 317 311 165 178 138 182 188 45,33% 51,15% 42,72% 57,41% 60,45% 152 167 165 178 179 42,73% 48,53% 46,36% 49,09% 49,15% 23,03% 18,56% 17,58% 21,35% 16,76% 35 31 29 38 30
53,21% 1.509 1.672 2.836 50,90% 841 163 19,38% 47,17%
2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG* 851 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh & Xã hội thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.22. Thống kê tình hình phạm tội về ma túy trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (có sử dụng ma túy)
LOẠI MA TÚY SỬ DỤNG
Năm Tỷ lệ % Tổng số bị can Cần sa Heroin Loại khác
Số bị can có sử dụng/nghiện ma túy
94,23% 97,42% 97,98% 98,81% 97,83% 97,66% 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG 104 155 198 252 276 985 0 17 24 35 46 122 19 13 21 26 23 102 Ma túy tổng hợp 78 96 138 166 171 649 1 25 11 22 30 89
Thuốc phiện 0 98 0 151 0 194 0 249 0 270 0 962 Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.23. Thống kê tình hình phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 (có sử dụng ma túy)
Có sử dụng ma túy
Năm 2016 2017 2018 2019 2020 TỔNG Tổng số tội phạm bị xử lý Số bị can 1.794 1.800 1.806 2.130 1.899 9.429 Số vụ 1.006 1.021 1.085 1.240 1.204 5.556 Tỷ lệ % 11,43% 10,48% 13,27% 16,69% 18,11% 14,24% Số bị can 129 141 196 312 287 1065 Tỷ lệ % 7,19% 7,83% 10,85% 14,65% 15,11% 11,29%
Số vụ 115 107 144 207 218 791 Nguồn: Phòng CSĐTTP về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.24. Thống kê người chấp hành xong án phạt tù về địa phương trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020
Nghề nghiệp
Giới tính
Độ tuổi
Thời gian tái phạm tội về ma túy sau khi chấp hành xong án phạt tù
Năm
Nam
Nữ
Dưới 18 uổi
Dưới 1 năm
Không có nghề nghiệp
Có nghề nghiệp
Từ 18 đến 30 tuổi
Trên 30 tuổi
Trên 5 năm
Nghề nghiệp không ổn định
Số người tái phạm tội về ma túy
Từ 1 năm đến 3 năm
Từ 3 năm đến 5 năm
28 41 53 67 73 262 13 20 25 32 36 126 12 17 22 28 31 110 2 3 4 5 6 20 80 92 62 120 138 94 153 176 118 195 224 153 214 245 167 762 875 594 39,49% 17,42% 8,38% 58,18% 7,31% 1,33% 50,66% 21 32 41 53 56 203 13,50% 104 155 198 252 276 985 100% 42 51 74 97 105 369 37,46% 36 42 41 85 79 283 28,73% 18 41 43 43 70 215 21,83% 8 21 40 27 22 118 11,98%
Số người chấp hành xong án phạt tù ma túy về địa phương 215 2016 259 2017 297 2018 351 2019 382 2020 TỔNG 1.504 100% Tỷ lệ %
Nguồn: Phòng CS THAHS & HTTP Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.25. Thống kê biên chế của lực lượng phòng chống tội phạm về ma túy thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2020
- Tổng số bị can phạm tội ma túy bị phát hiện, xử lý: 1.586
- Tổng số bị can tái phạm tội về ma túy bị phát hiện, xử lý: 985
CHỨC DANH
ĐỘ TUỔI
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐƠN VỊ TỔNG SỐ
CBĐT
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Cao cấp
Trung cấp
Sơ cấp
ĐTV cao cấp
ĐTV trung cấp
ĐTV sơ cấp
Sau đại học
Dưới 30 tuổi
Trên 40 tuổi
Số BC phạm tội ma túy/1 cán bộ
Số BC tái phạm tội ma túy/1 cán bộ
Từ 30 đến 40 tuổi
0 10 3 35 5 40 0 3 3 42 3 29 10 9 33,04 20,52 48
Phòng CSĐTTP về Ma túy CATP
0 6 21 59 2 59 0 25 0 61 25 49 24 13 18,44 11,45 86
Đội CSĐTTP về Ma túy CAQ
0 0 0 0 16 14 10 14 7 5 61,00 37,88 0 0 10 2 26
Phòng PCMT&TP Bộ đội biên phòng
TỔNG
0 0 38 5 160 16 24 94 7 115 117 38 92 41 27 9,91 6,16
Nguồn: Công an thành phố, Bộ đội biên phòng thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.26. Thống kê biên chế của lực lượng Kiểm sát viên thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2020
CHỨC DANH
ĐỘ TUỔI
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐƠN
TỔNG
KTV
Số BC phạm tội ma túy/1 cán bộ
Số BC tái phạm tội ma túy/1 cán bộ
Sau đại học
Đại học
Cao cấp
Trung cấp
Sơ cấp
Dưới 30 tuổi
Trên 40 tuổi
KSV trung cấp
KSV sơ cấp
Từ 30 đến 40 tuổi
20 37 15 7 65 5 67 0 34 18 19 22,03 13,68 72 VKSND thành phố
13 35 20 9 39 6 42 48 26 42 22 17,62 10,94 90 VKSND quận, huyện
Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đả Nẵng
Bảng 2.27. Thống kê biên chế của lực lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2020
CHỨC DANH
ĐỘ TUỔI
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐƠN VỊ
TỔNG SỐ
Thư ký
Đại học
Sơ cấp
Số BC phạm tội ma túy/1 cán bộ
Số BC tái phạm tội ma túy/1 cán bộ
Thẩm phán
Sau đại học
Cao cấp
Trung cấp
Từ 30 đến 40 tuổi
Trên 40 tuổi
Dưới 30 tuổi
38 44 13 55 10 33 38 11 19,34 12,01 69 7 82
TAND thành phố
36 36 14 32 55 51 38 7 16,52 10,26 32 9 96
TAND quận, huyện
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.28. Thống kê biên chế của lực lượng Trại giam trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2020
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
ĐỘ TUỔI
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐƠN VỊ TỔNG Sơ cấp Cao Trung Sơ Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp Trên 40 tuổi Dưới 30 tuổi Từ 30 tuổi đến 40 tuổi
120 3 42 2 58 15 45 60 15 74 27 19
Trại tạm giam CATP Đà Nẵng
Nguồn: Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.29. Thống kê biên chế của trung tâm cai nghiện tập trung thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2020
CHỨC DANH
ĐỘ TUỔI
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐƠN VỊ
TỔNG SỐ
Cán bộ
Đại học
Cao cấp
Sơ cấp
Nhân viên
Sau đại học
Trung cấp
Dưới 30 tuổi
Trên 40 tuổi
Từ 30 đến 40 tuổi
43 108 3 40 2 41 108 72 52 27 151
3 4 0 2 0 3 4 3 3 1 7
134 178 0 56 0 56 256 127 108 77 312 Cơ sở Bàu Bàng Trung tâm Methadone Cơ sở Y tế xã, phường
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh & Xã hội thành phố Đà Nẵng