…………/…………
……/……
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ PHI YẾN
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP VIỄN THÔNG
QUÂN ĐỘI VIETTEL
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI - NĂM 2023
…………/…………
……/……
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ PHI YẾN
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP VIỄN THÔNG
QUÂN ĐỘI VIETTEL
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8 31 01 10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THÙY NHI
HÀ NỘI - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2023 Học viên Nguyễn Thị Phi Yến
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình, sự đóng góp ý kiến quý báu của nhiều tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc và chân thành đến cô giáo TS.
Bùi Thị Thùy Nhi công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia đã trực tiếp
hướng dẫn, quan tâm, chỉ bảo tận tình và động viên tôi trong suốt thời gian
thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các giảng viên của Học viện Hành chính Quốc
gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức bổ ích và quý giá trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông
Quan đội – nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu, thu thập tài liệu về chính sách, kế hoạch, chương trình đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của tập đoàn, phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Mặc dù đã có sự cố gắng, nhưng trong quá trình thực hiện Luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2023 Học viên Nguyễn Thị Phi Yến
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN
LÝ .................................................................................................................... 14
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP .......... 14
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp .............. 14
1.2. Lý luận về quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp ...... 22
1.4. Kinh nghiệm của một số doanh nghiệp trong quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ....................................................................................................... 32
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 40
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC
NGOÀI CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI
VIETTEL ........................................................................................................ 41
2.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Tập đoàn Công nghiệp
Viễn thông Quân đội Viettel ........................................................................... 41
2.2. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn
thông Quân đội Viettel .................................................................................... 50
2.3. Thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel ............................................................... 54
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn
Công nghiệp Viễn thông Quân đội ................................................................. 75
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 86
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG
NGHIỆP VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL .......................................... 87
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel ............ 87
3.2. Định hướng hoàn thiện quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel ............................................. 89
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn
Công nghiệp Viễn thông Quân đội ................................................................. 90
3.4. Một số kiến nghị, đề xuất ......................................................................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 107
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH VẼ
Danh mục bảng biểu
Bảng 2.1: Tình hình vốn đầu tư qua các năm của Viettel tại thị trường
Campuchia ....................................................................................................... 62
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh của công ty VTG (Viettel Global) ................. 65
Danh mục hình vẽ
Hình 2.1: 9 thị trường quốc tế của Viettel Global ......................................... 51
Hình 2.2: Thông tin chi tiết về các dự án đầu tư ra nước ngoài của Viettel ... 52
Hình 2.3: Cơ cấu tổ chức của Tập đoàn Viettel .............................................. 61
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (Overseas Direct Investment - ODI) là
việc nhà đầu tư của một quốc gia mang tài sản của mình đến một quốc gia
khác, vùng lãnh thổ khác để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, thu lợi
nhuận. Với cách hiểu này, đầu tư ra nước ngoài liên quan đến sự dịch chuyển
về con người, về tài sản để thực hiện hoạt động đầu tư từ quốc gia nơi cư trú
của nhà đầu tư đến quốc gia nơi tiếp nhận đầu tư.
Ở Việt Nam, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang ngày càng
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài giúp nền kinh tế Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền
kinh tế thế giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam. Đồng thời, thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có
thêm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu…phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong
nước. Đầu tư ra nước ngoài giúp mở rộng thị trường cũng như giúp củng cố vị
thế của Việt Nam tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Theo Niên giám thống kê
Việt Nam năm 2022, Việt Nam có 109 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng ký đạt gần 426,6 triệu USD, tăng 78,7% số
dự án và tăng 4,3% số vốn so với cùng kỳ. Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu
tư ra nước ngoài ở 14 ngành. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu
với 15 dự án đầu tư mới và 4 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đăng ký gần 251,9
triệu USD, chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Ngành kinh
doanh bất động sản đứng thứ hai với 02 dự án mới và 03 lượt điều chỉnh vốn,
tổng vốn đầu tư hơn 76,8 triệu USD, chiếm 14,4%; tiếp theo là các ngành bán
buôn, bán lẻ; khai khoáng,… Có 29 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của
Việt Nam trong năm 2022. Dẫn đầu là Xinh-ga-po với 21 dự án đầu tư mới và
1
03 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 79,5 triệu USD,
chiếm 14,9% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ hai là Lào với tổng vốn đầu tư hơn
70,5 triệu USD, chiếm 13,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Úc, Hoa
Kỳ, Đức,… Lũy kế đến ngày 20/12/2022, Việt Nam đã có 1.611 dự án đầu tư
ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam trên 21,75 tỷ USD.
Trong đó, có 139 dự án của các doanh nghiệp có vốn nhà nước, với tổng vốn
đầu tư ra nước ngoài gần 11,6 tỷ USD, chiếm 53,3% tổng vốn đầu tư cả nước.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành khai
khoáng (32%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,8%). Các địa bàn nhận đầu tư
của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (24,6%); Cam-pu-chia (13,5%); Vê-
nê-xuê-la (8,4%).
Bên cạnh những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội cho
Việt Nam, cho các quốc gia và cộng đồng tiếp nhận đầu tư, thì đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro,
thách thức. Đó là những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt
Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư này đã dẫn đến các tranh chấp ngoài
mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người
dân địa phương cũng như hình ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước
ngoài thường mang theo tư duy, cách nghĩ của người Việt Nam. Năng lực của
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu. Hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước chưa cao. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi
mới, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Trong những năm qua, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội
(Viettel) đã không ngừng mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Ngay từ năm 2003,
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội đã xác định chiến lược đầu tư ra
nước ngoài là tất yếu khách quan và trở thành 1 trong 3 trụ chính hình thành
nên một Tập đoàn viễn thông- công nghệ thông tin vững mạnh nói riêng và
2
thế giới nói chung trong thời gian không xa sắp tới. Bởi vì, khi nhìn vào dòng
chảy chính của ngành viễn thông hiện nay, có thể thấy nổi bật nhất là xu
hướng kết hợp và sáp nhập. Hiện thế giới có khoảng 700 nhà mạng, nhưng
được dự báo là trong vòng vài năm tới con số trên sẽ chỉ còn hai chữ số. Do
đó, sẽ có khoảng 600 nhà mạng dần biến mất vì không còn thị phần, không
còn thuê bao, trong khi bản chất doanh thu của nhà mạng đến từ số lượng thuê
bao thực. Những xu thế này trực tiếp liên quan đến Tập đoàn Công nghiệp
Viễn thông Quân đội, vì nếu không đầu tư nước ngoài, không mở rộng thị
trường thì sẽ khó có thể duy trì được đà tăng trưởng và phát triển như trong
thời gian vừa qua tại thị trường Việt Nam. Nếu Tập đoàn không lớn mạnh,
không có một lượng thuê bao lớn thì sẽ nằm trong số 600 nhà mạng đó.
Cho đến nay, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel đã
đầu tư trên 15 quốc gia và không ngừng mở rộng thị phần. Năm 2021, hầu hết
các thị trường Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội đầu tư có mức
tăng trưởng doanh thu cao 2 con số: Movitel tại Mozambique tăng 31% - ghi
nhận 3 năm liền tăng trưởng trên 30%, Halotel tại Tanzania tăng 24%,
Lumitel tại Burundi tăng 20%, Natcom tại Haiti tăng 18% - duy trì chuỗi tăng
trưởng liên tục 2 con số trong 5 năm từ 2017 đến nay, Metfone tại Campuchia
tăng 11%, Star Telecom tại Lào tăng 12%. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động đầu
tư của Tập đoàn chủ yếu mới được thực hiện ở thị trường các nước đang phát
triển. Các nguồn lực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn còn nhiều hạn chế.
Với sức ép trên thị trường đầu tư quốc tế, với yêu cầu duy trì được đà tăng
trưởng, hoạt động đổi mới quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội cần tiếp tục được hoàn thiện, cần có
tầm nhìn chiến lược cho các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Là một cán bộ công tác tại Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội
(Viettel), tôi lựa chọn đề tài “Quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội” làm luận văn thạc sĩ Quản lý
3
kinh tế. Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần đưa hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn hướng đến những tầm cao mới
với quy mô lớn hơn và hiệu quả cao hơn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài và công tác quản lý đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ cao là một hướng nghiên cứu
tương đối mới mẻ tại Việt Nam. Cho đến nay, học viên đã thu thập được
không nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu và bài viết trực tiếp về chủ đề này.
Có thể điểm lại một số các tài liệu đã công bố như sau:
a) Các công trình đã công bố liên quan đến đầu tư ra nước ngoài
Nguyễn Thị Kiều Oanh trên Tạp chí tài chính số ra ngày 16/7/2017 có
bài viết “Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”.
Bài viết trình bày thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong những
năm qua và định hướng chính sách của Bộ Kế hoạch Đầu tư về tạo điều kiện
cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh những kết quả
đạt được, tác giả phân tích một số hạn chế mà tình hình đầu tư vốn trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải. Trên cơ sở đó, tác
giả đề xuất các biện pháp nhằm thúc đẩy vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Tác giả nhận định Tập
đoàn Viễn thông Quân đội Viettel là điểm sáng về thực hiện hoạt động đầu tư
vốn trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ - thông tin truyền thông.
Phùng Anh Vũ, trên Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 2- 2017,
tr 49- 56 có bài viết “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam ”. Bài viết
chỉ ra sự cần thiết phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát
triển. Tác giả đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp của
Việt Nam ra nước ngoài; qua đó, chỉ ra các cơ hội và thách thức mà doanh
nghiệp Việt Nam phải đối mặt. Tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá cả về những kết quả đạt
4
được và hạn chế còn tồn tại cũng như nguyên nhân của những hạn chế ấy.
Trên cơ sở trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp
Việt Nam tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đỗ Huy Thưởng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội:
Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 4 (2015) 30-38 có bài viết “Chính sách
đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”. Bài viết phân tích các giai đoạn phát triển ODI của Trung Quốc, mà
gần nhất là giai đoạn đẩy mạnh chiến lược “đi ra ngoài” (từ năm 2010-nay),
các biện pháp thúc đẩy ODI của Trung Quốc thông qua biện pháp tài chính,
tài khóa, đơn giản hóa thủ tục quản lý hành chính, nới lỏng kiểm soát ngoại
hối và các hỗ trợ khác, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Hải Đăng (2013) với đề tài nghiên cứu: “Đầu tư của
các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế
quôc tế”; Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Luận án đã khái quát và hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài như các khái niệm, hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; lý
thuyết về đầu tư ra nước ngoài, tính tất yếu của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các nước đang phát triển; mục tiêu đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng; tác động của đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Trên cơ sở khái quát kinh nghiệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
một số quốc gia và một số công ty xuyên quốc gia, luận án đã rút ra những bài
học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam và công tác quản lý đầu
tư ra nước ngoài ở nước ta, Luận án khái quát về quá trình hội nhập và hệ
thống pháp lý của Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài; khái quát và phân tích
được thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
theo thời gian, địa bàn, lĩnh vực, hình thức, chủ thể đầu tư; đi sâu phân tích
những lợi ích của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với doanh nghiệp và lợi
ích của đất nước; phân tích những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam và
5
của Nhà nước trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đồng thời phân
tích và chỉ rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến những thành công và hạn
chế đó. Trên cơ sở khái quát bối cảnh kinh tế trong nước, quốc tế, dự báo xu
thế, những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, luận án đã xác định
mục tiêu, đưa ra các quan điểm, định hướng hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Luận án đã đề xuất các nhóm giải
pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu
quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để đảm bảo lợi ích
chung của đất nước.
Luận án tiến sĩ kinh tế “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam:
Nhân tố tác động và hàm ý chính sách” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Mai
(2018). Luận án đã chỉ ra mặc dù đạt được những thành công nhất định, song
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn một số hạn
chế: Thứ nhất, công tác quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài gặp nhiều khó
khăn do các doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ báo cáo đầy đủ cho cơ quan
nhà nước, đồng thời khâu kiểm tra giám sát doanh nghiệp của cơ quan nhà
nước chưa thực hiện nghiêm túc. Thứ hai, số dự án và quy mô đầu tư nhỏ.
Thứ ba, Việt Nam chưa có chính sách về bảo hộ đầu tư cho các doanh nghiệp.
Thứ tư, thủ tục, trình tự cấp phép đầu tư còn rườm rà, gây cản trở cho
doanh nghiệp. Thứ năm, các chính sách ưu đãi đầu tư chưa được ban hành
đồng bộ. Có những hạn chế trên do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, Việt Nam
cho đến nay vẫn coi trọng thu hút dòng đầu tư vào trong nước mà chưa chú ý
đến dòng đầu tư ra nước ngoài. Đây là quan niệm thiếu tầm nhìn chiến lược
mà chưa thấy được lợi ích của đầu tư ra nước ngoài mang lại cho nền kinh tế.
Thứ hai, còn nhiều quốc gia mà Việt Nam chưa có quan hệ thương mại-đầu tư
song phương theo các tiêu chuẩn, nguyên tắc và thông lệ hiện hành. Chưa kể
6
có những quốc gia Việt Nam đã thực hiện đầu tư song chưa ký kết các Hiệp
định bảo hộ đầu tư và hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Thứ ba, Việt Nam
chưa có một “kênh” đưa ra các thông tin thị trường, thông tin đối tác, môi
trường đầu tư tại nước nhận đầu tư, các dịch vụ hỗ trợ tư pháp về đăng ký và
xử lý tranh chấp trong kinh doanh,…
Luận án tiến sĩ Kinh tế quốc tế “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN trong khuôn khổ Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC)” của tác giả Trịnh Quang Hưng (2021). Tác giả đã tập
trung phân tích, đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
được hình thành cuối năm 2015. Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp
nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp sang ASEAN đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030. Với mục tiêu đó, nghiên cứu đã hệ thống hóa cơ sở lý
luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và xây dựng mô hình đánh giá các yếu
tố tác động đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
trong bối cảnh thực thi AEC. Đặc biệt, các chỉ tiêu như độ mở cửa, thuế suất
đã được điều chỉnh thay đổi của điều kiện của thị trường chung AEC. Một số
yếu tố khác tác động tới thu hút vốn đầu tư của nước tiếp nhận như GDP,
GDP/người, chỉ số tài nguyên thiên nhiên/GDP, chỉ số lao động, rủi ro chính
trị… được sử dụng phân tích tới mức độ hấp dẫn đầu tư. Về mặt thực tiễn, tác
giả Trịnh Quang Hương đã phân tích tình hình đầu tư của một số quốc gia
châu Á sang ASEAN như Nhật Bản, Singapore, Malaysia. Đây là bài học
kinh nghiệm quan trọng cho cơ quan lập chính sách xây dựng hệ thống khung
chính sách phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành đầu tư
sang ASEAN trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, công trình nghiên cứu đã đề
xuất các giải pháp, nhóm giải pháp mới, phù hợp với thực tiễn của AEC nhằm
thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam sang
7
ASEAN đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
b) Những nghiên cứu có liên quan đến hoạt động kinh doanh ngành
bưu chính viễn thông của Tập đoàn Viễn thông công nghệ Viettel
Nguyễn Mạnh Hùng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10 năm 2019
có bài đăng “Đầu tư ra nước ngoài - hướng đi và cách làm mới nâng cao khả
năng cạnh tranh của Viettel”. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra vấn đề cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp viễn thông di động Việt Nam và trước sự
cạnh tranh gay gắt đó, buộc các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam phải tìm
ra những hướng đi mới để tự nâng cao sức cạnh tranh của mình. Tác giả đưa
ra ví dụ điển hình về nâng cao sức cạnh tranh, đó là chủ động đầu tư ra nước
ngoài - cách làm mới để Viettel nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập.
Viettel đầu tư sang Campuchia bước đầu thành công đã thể hiện một cách làm
mới đầy táo bạo và nhanh nhạy để chủ động cọ sát với bên ngoài, nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tác giả Mẫn Mạnh Tuấn năm 2017 có bài viết “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel tại Mozambique ”. Bài viết
hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư dự án FDI của Viettel tại Mozambique,
phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của Tập đoàn Viễn thông Quân đội
Viettel tại Mozambique giai đoạn 2011-2016. Dựa trên đánh giá quá trình
triển khai dự án viễn thông của Viettel tại Mozambique giai đoạn 2011-2013,
dự báo về thị trường Mozambique giai đoạn 2014-2016 và các mục tiêu kinh
doanh của Viettel tại Mozambique, tác giả đề xuất một số chiến lược kinh
doanh của Viettel thời gian tới và tổng kết bài học kinh nghiệm của Viettel
trong quá trình thực hiện đầu tư FDI tại Mozambique giai đoạn 2011-2013.
Một công trình nghiên cứu khác có thể kể đến là “Đề xuất chiến lược
marketing hỗn hợp của Viettel cho thị trường Haiti” của tác giả Nguyễn
Phương Thảo năm 2010. Nhìn chung, bài viết trên đã đi sâu vào phân tích
những vấn đề liên quan đến việc triển khai chiến lược marketing của Viettel
8
tại thị trường Haiti; trên cơ sở đó đề ra các giải pháp và khuyến nghị để phát
huy hiệu quả chiến lược marketing, phục vụ cho công tác bán hàng tại thị
trường này. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tập trung vào phân tích khía cạnh
marketing trong hoạt động kinh doanh mà chưa đi sâu vào phân tích các vấn
đề liên quan đến đầu tư quốc tế cũng như là xây dựng kế hoạch, chiến lược
kinh doanh tổng thể cho một công ty trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
Năm 2016, tác giả Nguyễn Thu Thủy có bài viết “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty viễn thông Viettel trong cung cấp dịch vụ điện thoại di
động” đăng trên Tạp chí Khoa học Công nghệ thông tin và Truyền thông. Bài
viết hệ thống hóa cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh,
phân tích năng lực cạnh tranh của công ty Viettel trong cung cấp dịch vụ điện
thoại di động trong và ngoài nước. Tác giả cũng đưa ra dự báo áp lực cạnh
tranh của Viettel trong thời gian tới, từ đó đưa ra 5 nhóm giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh dịch vụ điện thoại di động của Viettel.
Công trình nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh của công ty Viettel
Campuchia - Những bài học kinh nghiệm" của Nguyễn Đức Kiên năm 2019
đăng trên Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, đã trình bày một số vấn
đề lý luận về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Áp dụng các tiêu chí đánh
giá năng lực cạnh tranh và một số mô hình về phân tích năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp, tác giả phân tích, làm rõ năng lực cạnh tranh của Viettel tại
Campuchia. Tuy nhiên, bài viết chưa đưa ra được các biện pháp cụ thể để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Viettel trong cung cấp dịch vụ điện thoại di
động một cách cụ thể.
Năm 2015, tác giả Quách Thị Ngọc Hà đã nghiên cứu về Tập đoàn
Viễn thông Quân đội Viettel trên góc nhìn văn hóa doanh nghiệp với đề tài
“Văn hóa doanh nghiệp của Viettel trong giai đoạn chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Bài viết đã phân tích rất sâu sắc văn hóa doanh nghiệp của Viettel,
từ quá trình xây dựng văn hóa doanh nghiệp, quá trình xây dựng và phát triển
9
của Viettel. Tác giả nhận diện, đánh giá văn hóa doanh nghiệp của Viettel
hiện nay dựa trên các sản phẩm hữu hình của văn hóa Viettel, những giá trị
được tuyên bố của Viettel, các ngầm định nền tảng và quan niệm chung. Trên
cơ sở quan điểm, định hướng phát triển Văn hóa doanh nghiệp của Viettel
trong điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh ở trong và ngoài nước, tác giả
đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển văn hóa doanh nghiệp của Viettel
trong giai đoạn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược kinh doanh của Viettel còn được nghiên cứu trong công
trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền năm 2015: “Chiến lược kinh doanh
của Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel ”. Tác giả đã tìm hiểu về tập đoàn
Viettel, phân tích các căn cứ hình thành chiến lược kinh doanh của Viettel và
đánh giá chiến lược mà Viettel triển khai trong thực tiễn. Cuối cùng, tác giả
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chiến lược kinh doanh của Viettel trong
giai đoạn sắp tới.
Mặc dù đã có nhiều bài viết về hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập
đoàn Viettel trên nhiều lĩnh vực và địa bàn khác nhau. Tuy nhiên, các công
trình mà học viên thu thập tìm hiểu chưa đề cập sâu đến hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của Viettel cũng như vấn đề quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của doanh nghiệp nhà nước nói chung, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông
Quân đội nói riêng. Chính vì vậy, đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả không bị
trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào đã công bố trước đó, đồng thời có những
đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các giải pháp hoàn thiện
quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông
Quân đội Viettel.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư ra nước ngoài và quản lý đầu tư
10
trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước. Khảo cứu kinh nghiệm
quản lý đầu tư ra nước ngoài của một số tập đoàn kinh tế trong nước, từ đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cho tập đoàn Viettel.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel, chỉ ra những kết quả đạt
được cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của các hạn chế đó.
- Xác định phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Chủ thể quản lý đầu tư ra nước ngoài được đề
cập trong luận văn là Ban lãnh đạo Tập đoàn Viettel. Nội dung quản lý đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài được phân tích trong luận văn trên 5 khía cạnh sau: (1)
Định hướng chiến lược đầu tư; (2) Tổ chức bộ máy quản lý đầu tư; (3) Tổ
chức thực hiện dự án đầu tư; (4) Đánh giá hiệu quả đầu tư; (5) Tổ chức kiểm
tra, giám sát đầu tư ra nước ngoài.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Tập đoàn Viettel từ năm 2017 đến 2022 và được chia thành
hai giai đoạn: Giai đoạn trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát toàn cầu và
giai đoạn sau khi dịch COVID-19 đã được kiểm soát.
- Phạm vi về không gian: Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel đến các quốc gia trên thế
giới, trong đó tập trung ở khu vực châu Á, châu Mỹ và châu Phi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
11
tưởng Hồ Chí Minh với cách tiếp cận toàn diện, lịch sử, cụ thể.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Tìm hiểu các công trình
nghiên cứu đã có về đầu tư trực tiếp ra nước, quản lý đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, các báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội về kết
quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, báo cáo về hoạt động quản lý đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
- Phương pháp phân tích thống kê mô tả: Phương pháp này được sử
dụng để phân tích thực trạng quản lý đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn công
nghiệp viễn thông Quân đội Viettel trong những năm qua;... phân tích mô tả:
xây dựng định hướng chiến lược đầu tư kinh doanh; tính hiệu quả của bộ máy
tổ chức nhân sự quản lý đầu tư; phân tích đánh giá hiệu quả của hoạt động
đầu tư ra nước ngoài…. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp phù hợp xuất
phát từ góc độ quản lý nhằm gia tăng hiệu quả đầu tư ra nước ngoài của
Viettel, góp phần nâng cao uy tín, thúc đẩy quan hệ về kinh tế, chính trị, xã
hội, ngoại giao và đối ngoại quốc phòng giữa Việt Nam với các quốc gia tiếp
nhận đầu tư…
- Phương pháp diễn giải quy nạp: Đây là phương pháp lập luận đi từ
cái riêng đến cái chung, từ cái chi tiết đến tổng thể. Luận văn sử dụng
phương pháp này để khái quát các dự án đầu tư của Tập đoàn Viettel vào các
quốc gia riêng rẽ thành quy luật chung, nghĩa là phát hiện ra các quy luật
khách quan sau khi quan sát các biểu hiện cụ thể. Từ đó, luận văn rút ra một
số định hướng, phương hướng chung để hoàn thiện công tác quản lý đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Viễn thông Công nghiệp Viettel trong
thời gian tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 03
12
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý đầu tư trực
13
tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO) (1996): Đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài xuất hiện khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có
được một tài sản ở nước khác (nước tiếp nhận đầu tư) cùng với quyền quản lý
tài sản đó. Phương diện quản lý là yếu tố để phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài với các công cụ tài chính khác.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF (1993), đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
vốn đầu tư thực hiện để thu được lợi ích lâu dài theo đó một tổ chức trong
một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh
nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác đó.
Theo UNCTAD (1998) đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được định nghĩa
là một khoản đầu tư trong thời gian dài, phản ánh lợi ích lâu dài và sự kiểm
soát của một công ty ở trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
hay công ty mẹ) đối với công ty con ở nền kinh tế khác.
John Dunning (2008) đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phải có sự di chuyển
tài sản hay sản phẩm trung gian, bao gồm vốn tài chính, chuyên gia quản lý,
công nghệ,...và không bao gồm bất kỳ sự thay đổi nào về sở hữu hay quyền kiểm
soát các quyết định về việc sử dụng các nguồn lực nằm trong tay nhà đầu tư.
Nghị định số 83/2015/NĐ-CP quy định: Đầu tư ra nước ngoài là việc
nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở
14
kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư đó.
Luật Đầu tư 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Đầu tư không quy định cụ thể và chính thức về khái niệm đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài; nhưng cách hiểu về đầu tư trực tiếp trong việc áp dụng các điều
kiện đầu tư cho thấy sự nhấn mạnh quyền quản lý và điều hành trực tiếp
doanh nghiệp được đầu tư là thành lập tổ chức kinh tế hay còn gọi là
Greenfield Investment - để phân biệt với hình thức đầu tư gián tiếp - Porfolio
Investment là góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp đã tồn tại. Dù vậy,
Luật Đầu tư 2014 lại dành riêng một chương để quy định về đầu tư ra nước
ngoài. Các hình thức đầu tư ra nước ngoài bao gồm: (i) Thành lập tổ chức
kinh tế theo quy định của nước tiếp nhận đầu tư; (ii) Thực hiện hợp đồng
BCC ở nước ngoài; (iii) Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ
chức kinh tế ở nước ngoài để quản lý, điều hành; (iv) Đầu tư chứng khoán,
giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ hoặc tổ chức tài chính
trung gian; (v) Các loại hình đầu tư khác.
Luật Đầu tư 2020 giải thích khái niệm về đầu tư ra nước ngoài là "việc
nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài, sử dụng lợi nhuận
thu được từ nguồn vốn đầu tư này để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ở
nước ngoài”; và cũng dành riêng Chương V để quy định về hoạt động đầu tư
ra nước ngoài. Theo đó: Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài
đối với các dự án có vốn đầu tư từ 20.000 tỷ đồng trở lên; Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án thông
thường có số vốn đầu tư từ 800 tỷ đồng trở lên hoặc các dự án có điều kiện
với số vốn từ 400 tỷ đồng trở lên.
Tóm lại, một cách khái quát về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với
15
doanh nghiệp nhà nước có thể hiểu như sau: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của doanh nghiệp là hình thức đầu tư quốc tế mà các doanh nghiệp với vai
trò chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng mới hoặc sáp nhập hoặc mua lại phần
lớn,thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để trở thành chủ sở
hữu toàn bộ hoặc từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý, điều hành và chịu
trách nhiệm về hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, hình thức đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài gồm: Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước
tiếp nhận đầu tư; đầu tư theo hình thức hợp đồng ở nước ngoài; góp vốn, mua
cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia
quản lý tổ chức kinh tế đó; các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp
luật nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu là đầu tư tư nhân với
mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Khi thừa vốn tương đối ở trong
nước và khi thị trường trong nước đã bão hòa, các doanh nghiệp thường lựa
chọn đầu tư ra nước ngoài nhằm hưởng tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đây cũng
là một trong những điểm mà V.I.Lê Nin đã từng khẳng định: Xuất khẩu tư
bản quốc tế xảy ra là do tư bản trong nước bị thừa tương đối do lợi nhuận
(hay hiệu quả đầu tư) trong nước giảm sút nên cần xuất khẩu tư bản ra nước
ngoài để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Theo quy định pháp luật của nhiều
nước, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, luật pháp
của một số nước, trong đó có Việt Nam, quy định đầu tư ra nước ngoài có thể
có sự tham gia góp vốn của Nhà nước. Dù chủ thể là tư nhân hay Nhà nước,
cũng cần khẳng định đầu tư ra nước ngoài có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi
nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần phải đặc
biệt lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI. Các nước tiếp nhận vốn FDI cần
phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách
16
thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển
kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
Thứ hai, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối
thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp
từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp
nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định không giống nhau về vấn đề này.
Tỷ lệ góp vốn của các chủ đầu tư sẽ quy định quyền và nghĩa vụ mỗi bên,
đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa vào tỷ lệ này.
Thứ ba, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư. Quyết định sản xuất kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Hình thức này mang tính khả thi và
hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị. Thu nhập của
chủ đầu tư phụ thuộc và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn
đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường kèm theo chuyển giao
công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư thông qua việc đưa máy móc, thiết
bị, bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, cán bộ quản lý…vào nước
nhận đầu tư để thực hiện dự án.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với doanh nghiệp
Một là, tạo cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính
của doanh nghiệp.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức luân chuyển vốn dư thừa
tương đối ở trong nước của doanh nghiệp nhà nước ra nền kinh tế khác ở
nước ngoài. Nó giải quyết được vấn đề sử dụng số vốn thừa tương đối này sao
cho có hiệu quả cao nhất. Việc mở rộng và phát triển hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các nguồn lực ra
khỏi phạm vi của một quốc gia, với một phạm vi rộng hơn và môi trường
17
khác hơn đó là trên bình diện quốc tế. Trong môi trường đó các nhà đầu tư có
thể lựa chọn môi trường và lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có lợi
nhuận cao hơn đầu ở trong nước.
Hai là, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tạo cơ hội mở rộng thị trường
kinh doanh, tăng cường học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, nâng vị thế hình ảnh
của doanh nghiệp đầu tư trên thị trường quốc tế.
Khi đầu tư trực triếp ra nước ngoài thì sẽ có cơ hội cung ứng sản phẩm
sản xuất của doanh nghiệp mình tại nước sở tại một cách hợp pháp, dễ dàng
và không chịu các điều kiện ràng buộc ngặt nghèo khi xuất khẩu hàng hóa
trực tiếp phải chịu. Đây là điều kiện tốt để thâm nhập sâu vào thị trường nội
địa của nước sở tại, mở rộng thị trường tiêu thụ. Khi đầu tư vào một nước
phát triển, với cơ sở vật chất và điều kiện hiện đại, tác phong công nghiệp.
Đây là cơ hội tốt để hoàn thiện phương cách quản lý hiện đại của doanh
nghiệp mà trong nước không có điều kiện áp dụng, học tập cơ chế quản lý
hiện đại.
Ba là, thúc đẩy doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới.
Ngày nay, khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế đã trở thành xu
thế mang tính thời đại. Mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh
tế đối ngoại, chủ động hội nhập quan hệ kinh tế quốc tế. Việc mở rộng hợp
tác quốc tế nhằm mục đích kết hợp các yếu tố trong nước với các yếu tố nước
ngoài và khai thác các có hiệu quả nguồn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát
triển doanh nghiệp của mỗi quốc gia. Việc tiến hành hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài giữa của doanh nghiệp dẫn đến sự di chuyển các nguồn lực
tài chính từ các quốc gia này sang quốc gia khác. Hay nói cách khác thông
qua hoạt động đầu tư giữa các nước với nhau các nguồn tài chính được phân
phối trên phạm vi thế giới, có tác động tích cực tới doanh nghiệp. Các nguồn
lực di chuyển không chỉ là vốn mà doanh nghiệp có thể có thể tranh thủ được
18
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, giải quyết được vấn đề lao động...
Đối với Việt Nam, xuất phát từ tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm qua, có thể khẳng định rằng
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang là một xu hướng tất yếu của các
nhà đầu tư. Khi chuyển hướng hoặc mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ
giúp nhà đầu tư khai thác được lợi thế so sánh của các nước tiếp nhận đầu tư.
Cụ thể: Các doanh nghiệp khai thác được những lợi thế so sánh của nước tiếp
nhận đầu tư, qua đó tận dụng được chi phí sản xuất thấp của nước tiếp nhận
đầu tư để sản xuất những sản phẩm có giá thành hạ hơn so với sản phẩm sản
xuất trong nước, giảm được chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng
thay thế nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó nâng cao hiệu quả đầu
tư; Giúp các nhà đầu tư Việt Nam mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm,
kéo dài chu kì sống của sản phẩm mới tạo ra trong nước; Tạo dựng được thị
trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, ổn định và giá rẻ; Tránh được hàng rào
thuế quan của nước tiếp nhận đầu tư. Qua đó, mang về cho đất nước một
lượng ngoại lệ đáng kể góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, Luật Đầu tư hiện hành của Việt Nam đã có những quy định
thông thoáng và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp nhà nước nói riêng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các điều kiện
về “tính khả thi” của dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và “năng lực tài
chính” của nhà đầu tư đã được gỡ bỏ, các nhà đầu tư chỉ còn phải đáp ứng
một số điều kiện mang tính chất nghiệp vụ dưới góc đô quản lý nhà nước và
đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiệu quả. Theo đó điều kiện đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài được quy định tương ứng với hình thức đầu tư mà nhà đầu
tư lựa chọn.
1.1.4. Các hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
Theo Luật Đầu tư của Việt Nam năm 2020, nhà đầu tư thực hiện hoạt
19
động đầu tư ra nước ngoài, có thể lựa chọn các hình thức sau đây:
- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận
đầu tư: thành lập doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã. Tổ chức kinh tế ở nước ngoài là tổ chức kinh tế được thành lập hoặc đăng
ký kinh doanh ở nước ngoài theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng lãnh
thổ tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động đầu tư ở quốc gia, vùng lãnh
thổ tiếp nhận đầu tư, trong đó nhà đầu tư Việt Nam sở hữu một phần hay toàn
bộ vốn đầu tư.
- Thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) ở nước ngoài: tức là
nhà đầu tư Việt Nam sẽ ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư
của nước tiếp nhận đầu tưnhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân
chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế.
- Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước
ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước
ngoài: Ở hình thức này nhà đầu tư có quyền tham gia quản lý và thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài.
- Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua
các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước
ngoài: Loại hình thức này nhà đầu tư có thể dễ dàng đầu tư và rút vốn khi cần
thiết, lợi nhuận dựa trên việc gia tăng giá trị của cổ phiếu nhưng nhà đầu tư
không có quyền quản lý, điều hành trong công ty.
- Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp
nhận đầu tư.
1.1.5. Điều kiện, thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Điều kiện để quyết định đầu tư, thẩm quyền, quy trình, thủ tục quyết
định đầu tư, chấm dứt đầu tư đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các
20
quy định pháp luật khác có liên quan.
Điều 59 Luật Đầu tư 2020 về quyết định đầu tư ra nước ngoài quy định:
Đối với hoạt động đầu tư được thực hiện bởi doanh nghiệp nhà nước, việc
quyết định đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện theo quy định chặt chẽ của
pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cơ quan đại
diện chủ sở hữu sẽ quyết định đầu tư ra nước ngoài theo thẩm quyền và chịu
trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư.
Điều kiện được cấp phép đầu tư ra nước ngoài có thể hiểu là điều kiện
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Điều 60
Luật Đầu tư 2020. Theo đó, để được cấp Giấy chứng nhận, nhà đầu tư phải
đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với nguyên tắc thực
hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Theo Điều 51 của Luật Đầu tư 2020, nhà đầu tư thực hiện hoạt động
đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của Luật Đầu tư 2020, quy định
khác của pháp luật có liên quan, pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp
nhận đầu tư (sau đây gọi là nước tiếp nhận đầu tư) và điều ước quốc tế có liên
quan; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Thứ hai, không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư ra nước ngoài và đáp
ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài đối với ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài
có điều kiện.
Thứ ba, nhà đầu tư có cam kết tự thu xếp ngoại tệ hoặc có cam kết thu
xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài cửa tổ chức tín dụng
được phép.
Thứ tư, có quyết định đầu tư ra nước ngoài (theo quy định tại Điều 59
của Luật Đầu tư 2020).
Thứ năm, có văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của nhà đầu tư. Thời điểm xác nhận của cơ quan thuế là không
21
quá 03 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ dự án đầu tư.
1.2. Lý luận về quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong sự vận động của sự vật.
Như vậy, từ nội hàm của quản lý nói trên, chúng ta có thể hiểu:
Quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là sự tác động có tổ chức, áp
dụng các quy định pháp luật, quy định quản lý nội bộ của chủ thể đầu tư đối
với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm đảm bảo cho hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phát triển theo quy định, chủ động phối hợp
mục đích riêng của từng doanh nghiệp nhằm đạt tới mục đích chung của nền
kinh tế và của doanh nghiệp.
Đầu tư nói chung, đặc biệt là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài luôn hàm
chứa yếu tố rủi ro, do vậy, đòi hỏi các chủ đầu tư cần đặc biệt quan tâm tới
công tác quản lý hoạt động này. Mục đích của hoạt động quản lý là nhằm
ngăn ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội mà các dự án đầu
tư mong muốn hướng tới.
1.2.2. Nội dung quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
1.2.2.1. Xây dựng định hướng chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Để quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, doanh nghiệp cần xây dựng
định hướng chiến lược, kế hoạch và các dự án đầu tư để định hướng doanh
nghiệp theo đúng mục tiêu phát triển. Chiến lược là hệ thống các quan điểm,
các mục đích và các mục tiêu cơ bản cùng các giải pháp, các chính sách nhằm
sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực, lợi thế và cơ hội của doanh nghiệp
để đạt được các mục tiêu đề ra trong một thời gian nhất định.
Định hướng chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
là tổng hợp các mục tiêu dài hạn, các giải pháp lớn về đầu tư sản xuất, về kinh
22
doanh, về tài chính và về nhân tố con người nhằm đưa hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp ở nước ngoài phát triển lên một trạng thái mới cao hơn về
chất. Chiến lược đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng
đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư, mở rộng thị
trường ra nước ngoài.
Trong định hướng chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phải thể
hiện được quyết tâm cao, mục tiêu tương xứng với yêu cầu, quảng bá thương
hiệu, mở rộng thị trường sản xuất, tạo điều kiện thu được nhiều hiệu quả hơn
từ hoạt động sản xuất kinh doạnh. Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ cần đầu tư,
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, việc xây dựng chiến lược đầu tư
ra nước ngoài cần phải có tính động, không khép kín mà phải mang tính thực
tiễn, phù hợp với quy định của pháp luật trong nước và pháp luật của quốc gia
dự kiến đầu tư, có tính đến tiềm năng, lợi thế và nguồn lực sẵn có của doanh
nghiệp. Định hướng chiến lược đầu trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
thường gồm: chiến lược thâm nhập thị trường, chiến lược mở rộng thị trườn,
chiến lược phát triển sản phẩm; chiến lược đa dạng hóa đầu tư.
Để xây dựng định hướng chiến lược, doanh nghiệp phải xác định được
sứ mệnh của doanh nghiệp, phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình, thời cơ,
thách thức của môi trường đầu tư để đưa ra các phương án lựa chọn chiến
lược. Sứ mệnh của doanh nghiệp là một khái niệm dùng để chỉ mục đích của
doanh nghiệp, lý do, ý nghĩa của sự ra đời và tồn tại của nó. Sứ mệnh của
doanh nghiệp chính là bản tuyên ngôn của doanh nghiệp đối với xã hội.
1.2.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Để quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, doanh nghiệp cần phải tổ
chức bộ máy và nhân sự làm công tác quản lý. Bộ máy quản lý được tổ chức
phù hợp với quy mô, lĩnh vực đầu tư. Thông thường, các doanh nghiệp sẽ xây
dựng bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài gồm bộ phận ở trong
23
nước và bộ phận ở nước ngoài. Bộ phận ở trong nước tập trung vào nhiệm vụ
xây dựng định hướng chiến lược, giám sát. Bộ phận ở nước ngoài làm nhiệm
vụ trực tiếp quản lý phần vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và các hoạt động
sản xuất, kinh doanh ở nước sở tại.
1.2.2.3. Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Sau khi được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư trên các quốc gia có dự
án được đã ký kết. Trong quá trình thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
các doanh nghiệp chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác ra
nước ngoài để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại
hối sau khi dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước, vùng lãnh thổ
đầu tư chấp thuận. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
được hưởng các ưu đãi về đầu tư theo quy định của pháp luật và tuyển dụng
lao động sang làm việc tại cơ sở sản xuất, kinh doanh do nhà đầu tư thành lập
ở nước ngoài.
Trong quá trình đầu tư ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải tuân thủ
pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập
từ việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, các doanh nghiệp phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tài chính
và hoạt động đầu tư ở nước ngoài; Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước. Khi kết thúc đầu tư ở nước ngoài, chuyển toàn bộ vốn, tài
sản hợp pháp về nước theo quy định của pháp luật. Trường hợp nhà đầu tư
chưa chuyển về nước vốn, tài sản, lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc
đầu tư ở nước ngoài theo quy định thì phải được sự đồng ý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
1.2.2.4. Đánh giá hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đánh giá hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một nội dung trọng
tâm trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hiệu quả đầu tư có ý nghĩa
24
quan trọng để định hướng cho việc triển khai đầu tư, xác định lĩnh vực đầu tư,
thị trường đầu tư. Xét từ góc độ vĩ mô, để đánh giá hiệu quả của đầu tư, các
nhà quản lý có thể áp dụng các chỉ số đánh giá khác nhau như hệ số sử dụng
vốn (ICOR), mức độ đóng góp của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với tăng
trưởng của nền kinh tế nước đi đầu tư, sự thay đổi về năng suất lao động trên
mỗi đơn vị đầu tư trong nước… Xét từ góc độ vi mô, có tổng cộng 5 phương
pháp để đánh giá hiệu quả của một dự án đầu tư (bao gồm cả đầu tư vào trong
nước và đầu tư ra nước ngoài), đó là: (1) Phương pháp thời gian hoàn vốn
(PP); (2) Phương pháp thời gian hoàn vốn có chiết khấu (DPP); (3) Phương
pháp giá trị hiện tại thuần (NPV); (4) Phương pháp tỷ suất sinh lời nội bộ
(IRR); (5) Phương pháp chỉ số sinh lời (PI). Về cơ bản, đầu tư là việc khai
thác tốt nhất mọi tiềm năng và thế mạnh của doanh nghiệp hướng tới mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận. Việc quyết định thực hiện một dự án đầu tư đòi hỏi
phải cân nhắc xem xét nhiều mặt trong đó chủ yếu là hiệu quả kinh tế vốn đầu
tư. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để đánh giá mức tiềm
năng lợi nhuận của một dự án đầu tư, mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm
riêng. Tùy theo từng trường hợp và yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp đặt
ra, chủ thể quản lý sẽ lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp để lựa chọn dự
án đầu tư tối ưu nhất.
1.2.2.5. Tổ chức kiểm tra, giám sát đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Việc tiến hành kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động đầu tư trực triếp
ra nước ngoài của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng; qua kiểm tra, giám
sát, chủ đầu tư tìm ra những điểm hợp lý, những điểm chưa hợp lý từ đó làm
cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp được thực hiện
theo đúng quỹ đạo, hiệu quả, lành mạnh.
Mục đích của kiểm tra, giám sát:
- Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của chiến lược, các cơ chế chính sách đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong việc tổ chức thực hiện
25
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
- Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong việc
thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
- Bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quá trình thực hiện
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chấp hành
đúng pháp luật, phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để
kịp thời có biện pháp uốn nắn, sửa chữa và ngăn chặn sai phạm trong quá
trình thực hiện đầu tư hoặc kiến nghị việc điều chỉnh chính sách pháp luật về
đầu tư nước ngoài.
- Thông qua việc kiểm tra và giám sát, đánh giá các dự án đầu tư còn
tạo ra nguồn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài để các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp có căn cứ đánh giá hiệu
quả và mức độ hợp lý của hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách đã ban hành.
Kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hoạt động
thường xuyên liên tục của các cơ quan quản lý nhà nước và bản thân doanh
nghiệp. Như vậy, thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát không chỉ đảm
bảo sự nghiêm minh của pháp luật mà nhằm tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tháo gỡ khó khăn.
- Phát hiện điểm bất hợp lý, sai trái trong việc tổ chức thực hiện chiến
lược, kế hoạch và thực hiện các dự án đầu tư để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến
nghị việc điều kế hoạch nâng cao hiệu quả cảu từng dự án nói riêng, của hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp và xử lý vi phạm theo
quy định của pháp luật.
Hình thức kiểm tra, giám sát, đánh giá bao gồm:
- Kiểm tra, giám sát định kỳ: Đó là việc kiểm tra, giám sát của các cơ
quan, đơn vị chức năng theo kế hoạch nhất định.
- Kiểm tra, giám sát đột xuất: Đó là việc kiểm tra, giám sát của các cơ
26
quan, đơn vị chức năng một cách đột xuất, thường khi có các sự việc xảy ra hoặc
có đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp hay những vấn đề nảy sinh trong từng dự án đầu tư.
- Kiểm tra, giám sát thường xuyên: Đây là công tác kiểm tra, giám sát
thường xuyên trong quá trình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp.
1.2.3. Tiêu chí đánh giá quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp nhà nước
1.2.3.1. Mức độ đạt được mục tiêu quản lý
Hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước cần hướng đến các mục tiêu
tổng thể và mục tiêu cụ thể, mục tiêu tiêu về kinh tế, mục tiêu về xã hội. Quản
lý đầu tư trực tiếp ra nước hướng đến các mục tiêu về bảo toàn vốn đầu tư, có
lợi nhuận, tạo được sự ủng hộ của nước sở, khẳng định dược uy tín trên thị
trường, quảng bá về hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam đến với các
quốc gia tiếp nhận đầu tư.
1.2.3.2. Quy mô đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Quy mô đầu tư trực tiếp ra ngoài được thể hiện ở quy mô vốn đầu tư
qua các năm, quy mô vốn ở các dự án đầu tư. Hoạt động quản lý đầu tư trực
tiếp ra nước cần phải tính toán sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Quy
mô đầu tư được xác định phù hợp với các loại hình dự án, lĩnh vực đầu tư,
quốc gia đầu tư. Quy mô đầu tư được xác định không hợp lý sẽ dẫn đến đồng
vốn không được sử dụng hiệu quả ảnh hưởng cơ hội đầu tư ở các thị trường,
lĩnh vực tiềm năng khác.
1.2.3.3. Hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thể hiện trên nhiều
phương diện như hiệu quả về kinh tế, hiệu quả về xã hội. Hiệu quả kinh tế là
tiêu chí phản ánh trình độ, mức độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các
mục tiêu nhất định, được biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế đặc trưng,
được thiết lập trên cơ sở so sánh tương quan giữa kết quả đầu ra với chi phí
27
hoặc các yếu tố đầu vào. Trong nền kinh tế thị trường, có thể nhận thấy mục
tiêu tối thiểu nhất để doanh nghiệp có thể tồn tại chính là phải đảm bảo kết
quả thu về từ hoạt động đầu tư sẽ đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt
động đầu tư đó. Hoạt động đầu tư của mỗi doanh nghiệp đều hướng đến mục
tiêu cuối cùng là lợi nhuận, gia tăng lợi nhuận cũng được các doanh nghiệp
coi là sự gia tăng của hiệu quả kinh tế. Các chỉ tiêu đề đánh giá hiệu quả đầu
tư về kinh tế, đó là: Tổng vốn đầu tư và chi phí; Thời gian thu hồi vốn; giá trị
hiện tại thuần.
1.2.3.4. Mức độ đóng góp của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong
tăng trưởng của doanh nghiệp
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải đóng góp vào sự phát triển của
doanh nghiệp. Sự đóng góp này có thể được đánh giá trên nhiều phương diện
như đóng góp về doanh thu, thị phần, uy tín thương hiệu… Hoạt động quản lý
dầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần đảm bảo hoạt động đầu tư đóng góp tích
cực vào sự phát triển của doanh nghiệp. Sự đóng góp phần này không chỉ
trong ngắn hạn mà phải đóng góp trong dài hạn và bền vững.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của doanh nghiệp nhà nước
1.2.4.1. Các yếu tố khách quan
- Yếu tố thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách có tác động lớn đến hoạt quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Thể chế, chính sách ở đây bao gồm thể chế, chính sách liên quan
đến khuyến khích đầu tư, quy trình, thủ tục, lĩnh vực đầu tư, chính sách thuế
đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chính sách
thương mai,. Thích ứng với khung thể chế, chính sách, hoạt động quản lý đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải triển khai các hoạt động quản lý phù hợp,
cần có định hướng chiến lược trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, xác định
các lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phù hợp. Ví dụ, về lĩnh vực đầu tư,
28
trước năm 2006, Chính phủ không cho phép doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, ở giai đoạn này, trong Nghị
định số 78/2006/NĐ-CP Chính phủ cho phép các doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính, tín dụng, báo chí, phát
thanh, truyền hình, viễn thông. Điều này sẽ tạo ra sự thay đổi trong quản lý
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thay đổi các dòng vốn, ưu tiên dòng vốn đầu tư
vào các hoạt động có lợi thế so sánh đối với doanh nghiệp.
- Quy mô khách hàng
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, tính cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt xoay quanh việc giành khách
hàng- nhân tố quyết định đến doanh thu của bất kì một doanh nghiệp nào.
Trong chính sách đầu tư của các doanh nghiệp, đầu tư mở rộng thị trường,
chế độ chính sách thu hút khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp
mình luôn được chú trọng đầu tư phát triển. Đối với bất kì các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh nào, việc thu hút chăm sóc khách hàng đã trở thành
nhân tố quyết định sự sống còn của chính doanh nghiệp. Vì vậy, khách hàng
chính là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến các kế hoạch đầu tư đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp, là nhân tố định hướng cho việc đầu tư
của doanh nghiệp.
- Cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu trong hoạt
động của mỗi doanh nghiệp, là nền tảng cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Cùng với thời gian và sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa
học kĩ thuật hiện đại, cơ sở vật chất của doanh nghiệp cũng ngày càng bị hao
mòn, hỏng hóc hoặc không phù hợp để tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu
cầu của thời đại. Do đó, doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất và hiện đại hoá
sản phẩm của doanh nghiệp mình thì trong chiến lược đầu tư phải chú trọng
cả việc hiện đại hoá và mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật phù hợp với định
29
hướng sản xuất kinh doanh.
- Điều kiện kinh tế-xã hội của nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp
Điều kiện của quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp cũng là một nhân tố
quan trọng đối với hoạt động quản lý. Điều kiện quốc gia tiếp nhận đầu tư bao
gồm các điều kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, các điều kiện về
thể chế, chính sách, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư có tác động lớn hơn
đối với hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bên cạnh đó, các
yếu tố về chi phí nguyên vật liệu, tiềm năng thị trường cũng đặt ra những câu
hỏi lớn cho hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thực tiễn chỉ ra rằng những doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài có bộ máy quản lý tổ chức khoa học, đồng bộ, đội ngũ nhân sự quản lý
có năng lực, trách nhiệm và có tầm nhìn sẽ biết huy động được sức mạnh tập
thể trong xây dựng, tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý đầu tư
trực tiếp ra ra ngoài. Bộ máy quản lý phù hợp với điều kiện đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, không chỉ giúp doanh nghiệm tiết kiệm được chi phí, nâng cao
hiệu quả đầu tư, mà còn thuận lợi cho quá trình quản lý, điều hành hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp
Trong bất cứ thời đại nào thì nhân tố con người cũng luôn là nhân tố
quan trọng nhất trong mỗi khâu sản xuất. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi
công nghệ khoa học kĩ thuật ngày càng hiện đại thì việc nâng cao trình độ,
kinh nghiệm của đội ngũ nhân lực cho phù hợp với trang thiết bị hiện đại
trong mỗi doanh nghiệp càng trở lên quan trọng hơn hết. Do đó, trong chiến
lược đầu tư của bất kì một doanh nghiệp nào, nhân tố con người cũng phải
được đưa lên hàng đầu. Do sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và khoa
học trên thế giới, nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng, là nhân tố
30
đảm bảo sự thành công của đơn vị. Các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài muốn thành công thì cùng với sự đầu tư về công nghệ thì doanh nghiệp
cũng cần phải đầu tư cho yếu tố con người mà trước hết là trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ quản lý. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc vào phần lớn đặc điểm quản lý doanh nghiệp của các nhà quản lý. Đội
ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp ma trực tiêp la Tổng giám đốc, giám
đốc các đơn vị và các trưởng, phó phòng co vai tro đạc biệt quan trọng đôi vơi
nhiẹm vu quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý của
doanh nghiệp có trình độ cao, năng lực tốt sẽ tao nen điêu kiện thuận lơi co
tác đọ ng anh hu ủng tích cực đến hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài như có chủ truong, chính sách chiến lược đầu tư phù hợp và tạo điều
kiện thuạn lơi vê thơi gian, kinh phí, nhan lực đảm bao cho hoạt động quản lý
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý phải là nhưng người
nắm chắc và hiểu sâu sắc mục tiêu, chương trình, nội dung quản lý, biết chỉ
đao, tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược đầu tư, mang lại lợi nhuận cao
và hướng doanh nghiệp phát triển bền vững. Cùng với đội ngũ cán bộ quản lý,
việc xây dưng bộ máy quản lý hợp lý, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng,
hoạt động có hiệu qua có vai trò quan trọng đối với hoạt động quản lý đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.
- Uy tín, thương hiệu và chính sách của doanh nghiệp
Uy tín, thưong hiệu của doanh nghiệp càng tôt thì hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài cũng như quản lý hoạt động đó sẽ gặp thuận lợi. Uy tín,
thưong hiệu của doanh nghiệp mạnh sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong đầu
tư, hợp tác kinh doanh, góp phần tăng thêm việc làm thu nhập và các chính
sách đãi ngộ đối với tập thể doanh nghiệp, tạo động lực khiến cán bộ, người
lao động tự giác gắn bó với doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý, tổ chức công việc.
- Mục tiêu phát triển của doanh nghiệp
Trong một môi trường kinh tế phát triển mạnh và luôn biến động như
31
hiện nay, các doanh nghiệp luôn luôn bị đe doạ bởi các nguy cơ tiềm ẩn từ
môi trường kinh tế, doanh nghiệp nào biết cách làm chủ những biến động đó
thì sẽ hoạt động an toàn hơn và có nhiều cơ hội tồn tại, phát triển hơn so với
các doanh nghiệp khác. Việc xây dựng các kế hoạch, mục tiêu phát triển của
các doanh nghiệp chính là phương thức hữu hiệu để loại bỏ bớt các yếu tố rủi
ro do môi trường kinh tế đem lại. Vì vậy, bất kì doanh nghiệp nào đi vào hoạt
động đều có các mục tiêu, chiến lược và các định hướng phát triển, chúng là
nhân tố chủ quan chính ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy,
mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp trong từng thời kì tác động đến quản
lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp, hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài phải dựa vào định hướng phát triển của doanh nghiệp. Đây
chính là cơ sở cho việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp, các
kế hoạch đầu tư đầu tư ra nước ngoài được xây dựng dựa trên mục tiêu phát
triển, các kế hoạch đầu tư chính là việc hiện thực hoá dần các mục tiêu đã đề
ra của doanh nghiệp.
- Năng lực quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Năng lực quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thể hiện ở năng
lực của bộ máy, năng lực nhân sự làm công tác quản lý. Năng lực này được
thể hiện trên các khía cạnh về khả năng xây dựng các quy định quản lý đầu tư
phù hợp với quy định của pháp luật, xây dựng được các định hướng chiến
lược đầu tư, tổ chức đầu tư, giám sát, kiểm tra, hoạt động đầu tư.
1.4. Kinh nghiệm của một số doanh nghiệp trong quản lý đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
1.4.1. Kinh nghiệm của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT
Với mục tiêu mở rộng thị trường và tìm kiếm cơ hội đầu tư và kinh
doanh quốc tế, từ năm 2016, VNPT đã tích cực thúc đẩy hợp tác, từng bước
phát triển kinh doanh tại thị trường nước ngoài thông qua việc chủ động tìm
kiếm thị trường tại các nước trong khu vực và trên thế giới đặc biệt là những
32
quốc gia có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp với Việt Nam trong đó có
Slovakia, quốc gia với cộng đồng trên 5.000 người Việt sinh sống và làm
việc. Cộng đồng người Việt tại Slovakia chính là những khách hàng tiềm
năng và là cầu nối để VNPT có thể thâm nhập thị trường và cộng đồng người
Việt tại các nước EU. Slovakia cũng là quốc gia có trình độ phát triển cao về
CNTT và vì vậy VNPT có thể thúc đẩy hợp tác với các đối tác Slovakia trong
lĩnh vực này.
VNPT có 59 khoản đầu tư vào 24 công ty con, 27 công ty liên kết và 8
khoản đầu tư tài chính khác. Tổng giá trị vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp
khoảng 6.962 tỷ đồng. Trong đó, 3 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước trực
thuộc gồm: Tổng công ty Dịch vụ viễn thông - VNPT VinaPhone, Tổng công
ty Truyền thông - VNPT Media, Công ty TNHH MTV Cáp quang - FOCAL
nhận 4.606 tỷ vốn đầu tư. Cả 3 doanh nghiệp đều kinh doanh có lãi trong năm
2021 với tổng lợi nhuận trước thuế khoảng 2.229 tỷ đồng, giúp VNPT thu về
lợi nhuận khoảng 921 tỷ đồng. VNPT còn đầu tư 1.253 tỷ đồng vào 21 công
ty con dưới 100% vốn điều lệ. Trong đó 20 công ty phát sinh lãi và một công
ty báo lỗ.
Ngoài ra, VNPT đầu tư thêm 1.103 tỷ đồng vào nhóm công ty liên
doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác. Tuy nhiên, nhóm này ghi nhận 22 doanh
nghiệp có lãi, 5 doanh nghiệp thua lỗ và 8 doanh nghiệp chưa gửi báo cáo
kinh doanh năm vừa qua. Một số doanh nghiệp VNPT góp vốn đầu tư đang
thua lỗ, gồm Công ty Stream Net (VNPT góp 72% vốn) lỗ 189 tỷ đồng; Công
ty TNHH VKX (VNPT góp 50% vốn) lỗ 10,6 tỷ đồng; Liên doanh cáp đồng
Lào Việt (VNPT góp 50% vốn) lỗ 1,1 tỷ đồng; Công ty CP Phát triển dịch vụ
học tập và giải trí trực tuyến (góp 42,93% vốn) lỗ 3 tỷ đồng; Công ty CP
Truyền thông VMG (vốn góp 28,3%) lỗ 581,9 tỷ đồng…
Tính đến cuối năm 2022, VNPT có 5 khoản đầu tư ra nước ngoài trị giá
13,12 triệu USD song đến nay mới thu được 1,13 triệu USD về nước. VNPT
33
thu được hơn 1,1 triệu USD từ các khoản lợi nhuận sau chia của Công ty
ACASIA - Malaysia và công ty VNPT Global HongKong. Khoản đầu tư vào
Liên doanh cáp đồng Việt Lào đang lỗ lũy kế 1,18 triệu USD. Liên danh
LVCC được đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt. Khoản đầu tư vào Công
ty Stream Net tại Myanmar khoảng 10,28 triệu USD, hiện đang lỗ lũy kế 4,61
triệu USD. Hiện nay, VNPT đang lên kế hoạch thoái vốn khỏi 2 doanh nghiệp
nói trên để cắt lỗ.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn VNPT được quy định
tại Điều 77 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 25/2016/NĐ-CP. Hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của Tập đoàn VNPT bao gồm đầu tư ra nước ngoài của VNPT và
các công ty con của VNPT, công ty con của công ty do VNPT nắm giữ trên
50% vốn điều lệ. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của VNPT là việc đưa vốn
bằng tiền, các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành
hoạt động đầu tư, bao gồm:
a) Góp vốn, mua cổ phần và/hoặc phần vốn góp để thành lập công ty tại
thị trường nước ngoài.
b) Góp vốn, mua cổ phần và/hoặc phần vốn góp tại các công ty đang
hoạt động tại thị trường nước ngoài.
c) Mua lại một doanh nghiệp khác để hình thành một pháp nhân mới.
d) Góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không hình thành
pháp nhân mới.
đ) Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật.
Huy động vốn cho công ty con và công ty liên kết của VNPT tại nước
ngoài là việc VNPT chuyển vốn cho các công ty này theo quy định của pháp
luật, bao gồm các hình thức:
a) Góp vốn hoặc mua cổ phần bằng tiền mặt, thiết bị và các hình thức khác.
b) Mua trái phiếu và các giấy tờ có giá khác.
34
c) Cho vay cổ đông.
d) Chuyển đổi các khoản nợ dưới mọi hình thức thành cổ phần hoặc
phần vốn góp.
đ) Cho thuê tài chính.
e) Các hình thức khác.
Việc VNPT huy động vốn cho công ty con tại nước ngoài bằng phương
thức cho vay cổ đông được hiểu rằng khi VNPT được cấp Giấy chứng nhận
đầu tư ra nước ngoài, đã bao gồm phương thức cho vay cổ đông. Hội đồng
thành viên VNPT báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định
chủ trương dự án đầu tư ra nước ngoài.
Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền quyết định
chủ trương đầu tư của Quốc hội thì Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư
sau khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; trường hợp dự án đầu tư ra
nước ngoài thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng
Chính phủ thì cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định đầu tư sau khi Thủ
tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
Trách nhiệm của Hội đồng thành viên VNPT:
a) Xây dựng dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp bảo đảm
đúng mục tiêu, hiệu quả, có tính đến các yếu tố rủi ro và trình cơ quan đại
diện chủ sở hữu hoặc để cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt.
b) Ban hành quy chế hoạt động và quản lý, sử dụng vốn, tài sản của
doanh nghiệp tại nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật nước sở tại,
bảo đảm quản lý chặt chẽ, chống thất thoát.
c) Giám sát, đánh giá thường xuyên và chịu trách nhiệm về hiệu quả
đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp.
d) Báo cáo định kỳ 06 tháng và hằng năm cho cơ quan đại diện chủ sở
hữu về tiến độ thực hiện đối vớidự án đang trong quá trình đầu tư; về hiệu quả
35
đầu tư đối với dự án đang hoạt động.
đ) Báo cáo kịp thời và đề xuất giải pháp với cơ quan đại diện chủ sở
hữu trong trường hợp phát sinh vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp.
e) Việc chuyển lợi nhuận, thu nhập khác và thu hồi vốn khi kết thúc dự
án đầu tư tại nước ngoài vềnước hoặc tiếp tục đầu tư ở nước ngoài thực hiện
theo Điều lệ này, quy chế tài chính của VNPT, pháp luật về đầu tư và quy
định khác của pháp luật có liên quan.
7. Tập đoàn VNPT tiến hành đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các
quy định của Điều lệ này, các quy định khác của pháp luật có liên quan và
pháp luật nước sở tại.
1.4.2. Kinh nghiệm của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là đơn vị có số dự án triển khai ở
nước ngoài nhiều nhất, với 32 dự án đã đăng ký, gồm 5 dự án tìm kiếm dầu
khí, 21 dự án thăm dò dầu khí, 6 dự án mua mỏ và mua trữ lượng. Tổng vốn
đăng ký là 7,1 tỷ USD. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, gần một nửa số này
hiện gặp khó khăn (13 dự án), 11 dự án triển khai đúng tiến độ, còn lại các dự
án đều chậm và không có khả năng triển khai. Tổng vốn PVN đã chuyển ra
nước ngoài để thực hiện số dự án này đến nay khoảng 3,12 tỷ USD, tập trung
chủ yếu giai đoạn 2008 - 2013. Tập đoàn này đã thu lãi gần 2 tỷ USD với số
dự án đầu tư ở nước ngoài.
Trong giai đoạn vừa qua, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của PVN gặp
nhiều khó khăn khách quan và chủ quan khác nhau. Khó khăn lớn nhất đó là
các thủ tục chậm được phê duyệt do quá trình thẩm định kéo dài. Các dự án
cần kết thúc thì không hoàn thành được do thủ tục quá phức tạp; dự án đầu tư
mới, đầu tư mở rộng cũng chưa được phê duyệt do quá trình thẩm định kéo
dài. Cụ thể, dự án đầu tư hiệu chỉnh Nhenhetski là dự án rất hiệu quả, có dòng
tiền dương từ năm 2016 nhưng cũng phải mất hơn 3 năm mới được phê duyệt
36
đầu tư điều chỉnh sau khi có rất nhiều kiến nghị. Với dự án đầu tư hiệu chỉnh
của dự án Algeria, hiện chủ đầu tư là Tổng Công ty Thăm dò và Khai thác
Dầu khí (PVEP) - đơn vị thành viên của PVN đã trình gần 4 năm rồi nhưng
đến nay cũng chưa hoàn thành thẩm định và phê duyệt. Tương tự như vậy, dự
án đầu tư mới tận dụng cơ sở hạ tầng của dự án Nhenhetski ở Liên bang Nga
được PVN trình đã 4 năm nhưng vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận đầu tư
ra nước ngoài.
Thậm chí, Dự án thăm dò khai thác dầu khí SK305 ở Malaysia đã kết
thúc từ nhiều năm trước nhưng đến giờ vẫn chưa hoàn thành các thủ tục kết
thúc dự án từ Việt Nam dẫn tới các nghĩa vụ của nhà đầu tư (PVEP) chưa thể
thực hiện được. Dự án đang đối mặt với nguy cơ bị phạt do các bên đối tác và
các công ty dịch vụ liên quan khởi kiện ra Tòa trọng tài.
Qua thống kê, đến thời điểm này, ngành dầu khí có 32 dự án đầu tư ra
nước ngoài đã ký kết, gồm 5 dự án tìm kiếm dầu khí, 21 dự án thăm dò dầu
khí, 6 dự án mua mỏ và mua trữ lượng. Tổng trữ lượng dầu đã phát hiện và
mua quyền sở hữu khoảng 145 triệu tấn dầu thô. Tổng số tiền đã đầu tư ra
nước ngoài khoảng 3,6 tỷ USD tính đến 31/12/2022. Tổng số tiền đã chuyển
về nước khoảng 2,5 tỷ USD tính đến 31/12/2022.
Trong số 32 dự án này, chỉ với dự án dầu khí Nhenhetski tại Nga và dự
án lô 433a & 416b tại Algeria, phần thu của phía Việt Nam sẽ vượt phần vốn
chuyển ra nước ngoài của tất cả các dự án cộng lại.
Hiện có ba dự án đang phải dừng, giãn do các yếu tố địa chính trị là dự
án lớn ở Venezuela và hai dự án ở Peru. Với các dự án đã triển khai còn lại,
hiện PVN và các đơn vị thành viên đang phải hoàn thành các thủ tục và các
nghĩa vụ cam kết của nhà đầu tư với nước sở tại cũng như với các đối tác
tham gia dự án.
Hiện nay, Nghị định 124/2017/NĐ-CP ngày 15/11/2017 đang điều
chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí. Tuy nhiên, Nghị
37
định đang bộc lộ những hạn chế do những ràng buộc liên quan đến tổng mức
đầu tư, hạn mức chuyển tiền ra nước ngoài và giấy chứng nhận đầu tư điều
chỉnh. Bên cạnh đó, việc có ý kiến khác nhau của các cơ quan quản lý Nhà
nước về các vấn đề đã nêu ở trên nên quá trình thẩm định kéo dài không hạn
định. Cùng với đó, tâm lý đùn đẩy sợ trách nhiệm cũng đã ảnh hưởng rất
nhiều tới quá trình thẩm định dự án. Đây chính là những bất cập khiến các dự
án đầu tư ra nước ngoài của ngành dầu khí gặp khó khăn, nhất là với các dự
án khoan thăm dò khi kết thúc không phát hiện dầu khí (dự án không thành
công) nhưng lại có tổng vốn đầu tư bị vượt con số được phê duyệt ban đầu.
Khi đó, chủ đầu tư phải xin phép và việc xin phép này liên quan rất nhiều thủ
tục như xin điều chỉnh báo cáo đầu tư, xin hạn mức đầu tư điều chỉnh… Thực
tế đã có nhiều dự án dầu khí của PVEP rơi vào tình trạng tương tự, vẫn "nằm
chờ" vì không có cơ quan nào phê duyệt để kết thúc đầu tư, dẫn tới không
thực hiện được cam kết với các bên và nguy cơ làm phát sinh chi phí như phạt
hợp đồng, phí trọng tài…
Để giải quyết những khó khăn này, PVN đang đề xuất sửa đổi Nghị
định 124/2017/NĐ-CP theo hướng phải đảm bảo được bốn mục tiêu.
Thứ nhất là với những dự án đang triển khai tốt phải tạo được hành
lang pháp lý cho dự án hoạt động tốt hơn và hiệu quả hơn.
Thứ hai là với những dự án đầu tư buộc phải kết thúc thì cần có quy
định rõ ràng để kết thúc nhanh nhất, tránh kiện tụng phát sinh chi phí.
Thứ ba là những dự án lớn, những dự án khó bị tác động bởi các yếu tố
địa chính trị như các dự án dầu khí ở Venezuela hay Peru cần có cơ chế để
duy trì dự án này hoặc cơ chế bán cắt lỗ để giảm thiểu những rủi ro cho chủ
đầu tư.
Thứ tư là nghị định mới cần đảm bảo đơn giản hóa các quy trình, thủ
tục phê duyệt các dự án dầu khí mới, tránh kéo dài gây lãng phí trong quá
38
trình chuẩn bị.
1.4.3. Các bài học có giá trị tham khảo cho Tập đoàn Công nghiệp
Viễn thông Quân đội Viettel
Từ những kinh nghiệm quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp nêu trên có thể rút ra những bài học kinh nghiệm với Tập đoàn
Công nghiệp Viễn thông Quân đội trong hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài như sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đặc biệt quan
tâm đến việc thu hồi vốn đầu tư: có nghĩa là tỷ lệ thu hồi chi phí càng cao thì
thu hồi vốn đầu tư càng nhanh và ngược lại. Tỷ lệ thu hồi cao hay thấp phụ
thuộc vào tính chất và điều kiện của từng nước đầu tư.
Thứ hai, các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần luôn chú
trọng và quan tâm đến môi trường đầu tư. Vì vậy cần phải hoạch định đầu tư
nghiêm túc, lực chọn được môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, ổn định về
kinh tế-xã hội, về chính sách vĩ mô,... là vấn đề vô cùng quan trọng.
Thứ ba, cần nghiên cứu chính sách về thuế, lợi nhuận và phân chia sản
phẩm phải thể hiện tính thống nhất và có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Thứ tư, Lãnh đạo doanh nghiệp cần thường xuyên quan tâm đến công
tác kiểm tra, đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, điều chỉnh
phù hợp khi có các biến động của thị trường, các biến động về cơ chế, chính
39
sách của nước nhận đầu tư.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn đã trình bày hệ thống cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn về quản lý hoạt động đẩu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp. Luận văn đã chỉ ra khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông
qua các quy định pháp lý, cũng như đặc điểm, vai trò, hình thức của đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. Nội dung chính của chương 1 tập trung vào lý luận về
quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước. Luận văn
đã nêu được khái niệm, nội dung quản lý, các nhân tố ảnh hưởng và các tiêu
chí đánh giá hiệu quả quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh
nghiệp. Để có thêm kinh nghiệm thực tiễn trong công tác này, luận văn đã
khảo cứu 2 tập đoàn VNPT và PVN trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị cho thực tiễn quản
lý ở Viettel. Hệ thống khung lý thuyết trình bày ở chương 1 là căn cứ để triển
40
khai các nội dung trong chương 2 và chương 3 của luận văn.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
CỦA TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL
2.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội, thường dược biết đến
dưới tên giao dịch Viettel hay Tập đoàn Viettel, là một tập đoàn viễn thông và
công nghệ Việt Nam được thành lập vào ngày 1 tháng 6 năm 1989. Các ngành
nghề chính của tập đoàn bao gồm: ngành dịch vụ viễn thông & công nghệ
thông tin; ngành nghiên cứu sản xuất thiết bị điện tử viễn thông, ngành công
nghiệp quốc phòng, ngành công nghiệp an ninh mạng và ngành cung cấp dịch
vụ số. Sản phẩm nổi bật nhất của Viettel hiện nay là mạng di động Viettel
Mobile. Công ty thành viên Viettel Telecom của Viettel hiện đang là nhà
mạng giữ thị phần lớn nhất trên thị trường dịch vụ viễn thông Việt Nam.
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) là doanh nghiệp
kinh tế quốc phòng 100% vốn nhà nước, chịu trách nhiệm kế thừa các quyền,
nghĩa vụ pháp lý và lợi ích hợp pháp của Tổng Công ty Viễn thông Quân
đội. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) do Bộ Quốc phòng
thực hiện quyền chủ sở hữu và là một doanh nghiệp quân đội kinh doanh
trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin. Hiện nay,
Viettel là Tập đoàn Viễn thông và Công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam,
đồng thời được đánh giá là một trong những công ty viễn thông có tốc độ phát
triển nhanh nhất thế giới và nằm trong Top 15 công ty viễn thông toàn cầu về
số lượng thuê bao. Viettel hiện đang hoạt động và kinh doanh tại 13 quốc gia
trải dài từ Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi với quy mô thị trường 270 triệu dân,
gấp khoảng 3 lần dân số Việt Nam. Bên cạnh viễn thông, Viettel còn tham gia
41
vào lĩnh vực nghiên cứu sản xuất công nghệ cao và một số lĩnh vực khác như
bưu chính, xây lắp công trình, thương mại và xuất nhập khẩu, trung tâm dữ
liệu internet IDC.
a. Giai đoạn 1989 – 1999: Công ty xây dựng công trình cột cao
Ngày 1 tháng 6 năm 1989, Tổng Công ty Điện tử thiết bị thông tin
(SIGELCO) được thành lập - là tiền thân của Tập đoàn Viễn thông Quân đội
(Viettel). Trong thời gian đầu hoạt động, SIGELCO có khoảng 40 nhân sự,
vốn là bộ đội từ các đơn vị của Binh chủng Thông tin liên lạc. Trong những
năm đầu thành lập, SIGELCO đã tập trung triển khai các công trình xây lắp
cột cao. Năm 1990, SIGELCO xây dựng tuyến vi ba số AWA đầu tiên của
Việt Nam. Từ năm 1990 đến năm 1994, SIGELCO tiếp tục hoàn thành nhiều
dự án công trình thi công xây lắp như: 14 trạm vi ba tiếp nối Vinh - Đà Nẵng
và Đà Nẵng – TP HCM; 7 tháp ăng-ten vi ba Đà Nẵng – Nha Trang và Nha
Trang – Bình Định; tuyến vi ba răng Ba Vì – Vinh cho Tổng cục Bưu điện;
tuyến vi ba băng rộng 140Mb/s Hà Nội – Đà Nẵng; tháp ăng-ten cao nhất Việt
Nam (85m) cho Bưu điện Quảng Ninh... Tháng 12 năm 1992, SIGELCO đã
đề nghị Nhà nước cho phép được chuyển thành Công ty Điện tử thiết bị thông
tin trực thuộc Binh chủng thông tin liên lạc. Ngày 13 tháng 6 năm 1995, Thủ
tướng Chính phủ ra Thông báo số 3179/ĐM-DN (do Phó Thủ tướng Trần Đức
Lương ký) quyết định cho phép thành lập Công ty Điện tử viễn thông Quân
đội. Ngày 14 tháng 7 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên
Công ty Điện tử thiết bị thông tin thành Công ty Điện tử Viễn thông quân đội
trực thuộc Binh chủng thông tin liên lạc, tên giao dịch quốc tế là VIETEL.
Vietel khi đó cũng là doanh nghiệp thứ hai được cấp giấy phép kinh doanh
đầy đủ các dịch vụ viễn thông ở Việt Nam.
Ngày 1 tháng 7 năm 1997, Trung tâm Bưu chính được thành lập với
dịch vụ đầu tiên là phát hành báo chí. Năm 1997, Vietel hoàn thành nhiều
công trình thông tin cho ngành Bưu điện, Phát thanh, Vô tuyến truyền hình tại
42
địa phương, trong đó có tháp truyền hình cao nhất Việt Nam (125m) tại
Tuyên Quang. Tháng 9 năm 1999, Vietel đã hoàn thành đường trục thông tin
quân sự Bắc – Nam đầu tiên của Việt Nam, ký hiệu tuyến cáp 1A. Tuyến
đường trục cáp quang này dài gần 2.000 km, với 19 trạm chính và một số
trạm nhánh, dung lượng 2.5 Mbps. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam áp
dụng thành công công nghệ thu-phát trên một sợi quang.
b. 2000 – 2009: Sự bùng nổ trên thị trường dịch vụ viễn thông
Ngày 3 tháng 2 năm 2000, Tổng cục trưởng Mai Liêm Trực đã ký
quyết định cho phép Vietel triển khai thử nghiệm dịch vụ điện thoại đường
dài, sử dụng công nghệ VoIP. Khi đó, Vietel là đơn vị duy nhất tại Việt Nam
được cấp phép[15]. Ngày 15 tháng 10 năm 2000, Vietel chính thức kinh doanh
thử nghiệm có thu phí dịch vụ điện thoại đường dài VoIP trên tuyến Hà Nội –
TP.HCM với dịch vụ "178 – mã số tiết kiệm của bạn". Sự kiện này đánh dấu
lần đầu tiên ở Việt Nam, bên cạnh VNPT, có một doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ viễn thông.
Việc dịch vụ 178 thành công đã mang về cho Vietel nguồn lực rất lớn.
Vietel sau đó đã mở rộng dịch vụ 178 tới 62 tỉnh thành khác (lúc đó Hà Nội
và Hà Tây chưa sáp nhập), và hoàn vốn sau 9 tháng đưa vào khai thác toàn
mạng. Năm 2000, Vietel lắp đặt thành công cột phát sóng của Đài truyền hình
quốc gia Lào (140 m). Ngày 5 tháng 12 năm 2001, Vietel mở dịch vụ điện
thoại quốc tế sử dụng công nghệ VoIP.
Ngày 28 tháng 12 năm 2002, Vietel chính thức khai trương dịch vụ kết
nối Internet, tốc độ đường truyền Internet quốc tế 2Mbps với giá chỉ còn 1/3
so với giá thời điểm hiện hành. Ngày 28 tháng 10 năm 2003, Bộ Quốc phòng
đã đổi tên Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội thành Công ty Viễn thông
Quân đội thuộc Binh chủng Thông tin liên lạc, tên giao dịch là Viettel. Tháng
3 năm 2003, Viettel cung cấp dịch vụ điện thoại cố định (PSTN) đường dài tại
Hà Nội và TP HCM. Ngày 09 tháng 1 năm 2004, Viettel chính thức ra mắt
43
logo với bộ nhận diện thương hiệu Viettel được sử dụng cho đến nay.
Ngày 27 tháng 4 năm 2004, Bộ Quốc phòng đã điều chuyển Viettel
thuộc Binh chủng Thông tin Liên lạc về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Ngày 15
tháng 10 năm 2004, Viettel khai trương dịch vụ thông tin di động 098.
Năm 2005, Viettel hoàn thành tuyến cáp quang quân sự Bắc – Nam 1B
sau 2 năm triển khai. Đây là đường trục 10Gbps đầu tiên của Việt Nam, giúp
vùng phủ truyền dẫn trong nước của Viettel tăng từ 23 lên 52 tỉnh. 7 tháng sau,
Viettel hoàn thành đường cáp quang 1C, sử dụng công nghệ ghép bước sóng
(DWDM), dụng lượng 40 lambda. Ngày 6 tháng 4 năm 2005, Công ty Viễn
thông Quân đội đã chuyển đổi thành Tổng Công ty Viễn thông Quân đội trực
thuộc Bộ Quốc phòng, các Trung tâm và Xí nghiệp trực thuộc được chuyển đổi
thành các Công ty con. Viettel cũng ra mắt cách tính cước theo block 6s. Sau
khi cách tính cước này tạo bước đột phá trên thị trường, Viettel tiếp tục thống
nhất phương thức tính cước này trên các dịch vụ còn lại, trở thành doanh
nghiệp đầu tiên tính cước block 6s cho dịch vụ điện thoại đường dài.
Năm 2006, Viettel thành lập Công ty Viettel Cambodia, cung cấp dịch
vụ điện thoại quốc tế, Internet và thuê kênh tại Campuchia. Viettel trở thành
công ty đầu tiên của Việt Nam đầu tư viễn thông ra nước ngoài. tháng 3 tháng
2007, Viettel sáp nhập 3 Công ty lớn bao gồm: Đường dài, Internet, Di động
thành Công ty Viễn thông Viettel (Viettel Telecom). tháng 6 năm 2007, Trung
tâm Công nghệ Viettel đã được thành lập. Ngày 24 tháng 10 năm 2007, Sở Kế
hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội đã cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh
doanh số 0103020282 cho phép thành lập Công ty Cổ phần Đầu tư Quốc tế
Viettel (Viettel Global JSC).
Năm 2008, Viettel đẩy mạnh các hoạt động trách nhiệm xã hội như: tài
trợ chương trình Chúng tôi là chiến sĩ, Như chưa hề có cuộc chia ly, Trái tim
cho em, chương trình phẫu thuật Nụ cười, Internet trường học, v.v.. Ngày 19
tháng 2 năm 2009, Viettel Cambodia đã khai trương dịch vụ với thương hiệu
44
Metfone trên toàn lãnh thổ Campuchia. Ngày 16 tháng 10 năm 2009, Star
Telecom (liên doanh giữa Viettel và Lao Asia Telecom) khai trương dịch vụ
với thương hiệu Unitel tại Lào. Ngày 14 tháng 12 năm 2009, Tổng Công ty
Viễn thông Quân đội đã đổi thành thành Tập đoàn Viễn thông Quân đội trực
thuộc Bộ Quốc phòng[33]. Sau hơn 5 năm hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ di
động, Viettel Mobile đã chiếm được 40% thị phần thuê bao di động với hơn
42,5 triệu thuê bao kích hoạt. Bùng nổ dịch vụ viễn thông cũng giúp doanh
thu của Viettel tăng gấp hơn 1.000 lần trong vòng 10 năm.
c. Giai đoạn 2010 – 2018: Tập đoàn công nghệ toàn cầu
Ngày 25 tháng 3 năm 2010, Viettel khai trương 3G tại 63 tỉnh, thành
phố trên cả nước với 8.000 trạm phát sóng 3G tại thời điểm khai trương. Cuối
năm 2010, Viettel hoàn thành chương trình kết nối Internet trường học cho
toàn ngành giáo dục
Ngày 8 tháng 9 năm 2011, Viettel khai trương mạng Natcom nhằm
cung cấp các dịch vụ viễn thông tại Haiti sau gần 1 năm đầu tư, trở thành
công ty duy nhất cung cấp đầy đủ dịch vụ viễn thông, công nghệ 3G và cũng
là nhà mạng sở hữu cổng kết nối Internet quốc tế duy nhất của Haiti qua tuyến
cáp quang biển 10Gbps tới Bahamas kết nối đi Hoa Kỳ. Tổng thống Haiti,
ông Michel Martelly chia sẻ, 3.000 km cáp quang mà Natcom đã xây dựng sẽ
góp phần tạo nên cuộc cách mạng về lĩnh vực viễn thông ở đất nước này.
Cuối năm 2011, dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông và công nghệ
thông tin (CNTT) của Viettel đi vào vận hành, có khả năng sản xuất nhiều
chủng loại khác nhau như thiết bị đầu cuối, thiết bị hạ tầng mạng, thiết bị
thông tin quân sự. Năm 2011 cũng đánh dấu nhiều dấu mốc trong nghiên cứu
sản xuất như: thử nghiệm thành công hệ thống cảnh báo sóng thần tại Đà
Nẵng, thử nghiệm thành công hệ thống giám sát hồ nước, khai trương trung
tâm dữ liệu Viettel IDC Sóng Thần, thành lập Viện Nghiên cứu và Phát triển
Viettel. Số lượng đường trục cáp quang của Viettel được nâng lên thành 5
đường (1A, 1B, 1C, 1D và Đông Dương). Ngày 05 tháng 12 năm 2011,
45
Viettel tiếp nhận nguyên trạng EVN Telecom.
Ngày 15 tháng 5 năm 2012, Viettel đã khai trương mạng di động
Movitel tại Mozambique. Đầu tháng 10, loạt điện thoại di động Sumo 2G
V6206 đầu tiên do Viettel tự sản xuất trên dây chuyền của mình đã xuất
xưởng và đưa ra thị trường. Viettel cũng thực hiện thành công sản xuất, chế
tạo nhiều thiết bị thông tin quân sự đáp ứng nhu cầu an ninh quốc phòng. Với
doanh thu năm 2012 hơn 141.418 tỷ đồng, Viettel trở thành doanh nghiệp
viễn thông và CNTT lớn nhất Việt Nam.
Bước sang năm 2013, tại các diễn đàn viễn thông và CNTT, lãnh đạo
Tập đoàn đã tuyên bố về sự thay đổi chuyển dịch trong Viettel, từ nhà mạng
viễn thông thành nhà cung cấp dịch vụ. Bộ Quốc phòng chính thức giao
nhiệm vụ cho Viettel sản xuất trang bị quân sự. Tháng 3 năm 2013, mạng
Telemor ở Timor Leste khai trương. Tháng 11 năm 2013, Bưu chính Viettel
(Viettel Post) đã cán mốc doanh thu một nghìn tỷ đồng, chính thức trở thành
thành viên của CLB các doanh nghiệp nghìn tỷ tại Việt Nam.
Năm 2014, Viettel bán những thẻ sim đầu tiên với thương hiệu Nexttel
tại Cameroon và Bitel tại Peru. Sau hơn 10 năm kinh doanh dịch vụ di động,
Viettel bắt đầu chuyển hướng sang CNTT bằng việc ra đời nhiều dịch vụ giải
pháp như: dịch vụ chứng thực chữ ký số CA, hệ thống quản lý nhà trường
SMAS, dịch vụ Agri.One hỗ trợ người nông dân, dịch vụ chống trộm và giám
sát thông minh cho xe máy Smart Motor, dịch vụ chuyển tiền tận nhà
BankPlus… Cũng trong năm này, Viettel thay đổi cách làm các chương trình
xã hội, tập trung vào các chương trình lớn, có ý nghĩa xã hội cao như Quỹ bò
giống thoát nghèo, Internet băng siêu rộng, Vì em hiếu học...
Trong tháng 3 và tháng 10 năm 2015, Viettel bắt đầu kinh doanh
tại Burundi với thương hiệu Lumitel và tại Tazania với thương hiệu Halotel.
Tại Việt Nam, Viettel là doanh nghiệp viễn thông đầu tiên thử nghiệm cung
46
cấp dịch vụ 4G.
Tháng 11 năm 2016, Viettel chính thức nhận giấy phép cung cấp dịch
vụ 4G trên lãnh thổ Việt Nam và tuyên bố sản xuất thành công thiết bị hạ tầng
cho mạng viễn thông. Cũng trong giai đoạn này Viettel đã cán mốc 36 triệu
khách hàng quốc tế.
Ngày 18 tháng 4 năm 2017, Viettel chính thức khai trương mạng viễn
thông 4G tại Việt Nam. Với vùng phủ toàn quốc lên tới 95% dân số, Viettel là
nhà mạng đầu tiên trên thế giới có vùng phủ 4G toàn quốc ngay khi khai
trương. Giữa năm 2017, hệ thống tính cước thời gian thực (vOCS) do Viettel
tự phát triển đi vào hoạt động. Ngày 19 tháng 7 năm 2017, Công ty mẹ Viettel
chính thức được Chính phủ công nhận là doanh nghiệp Quốc phòng An ninh.
Năm 2018 cũng chứng kiến những nỗ lực của Viettel trong việc góp
phần thúc đẩy Chính phủ điện tử với các sản phẩm: hệ thống quản lý thông tin
tiêm chủng quốc gia, dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, dự án đô thị
thông minh, cổng thông tin 1 cửa quốc gia. Ngày 05 tháng 1 năm 2018, Tập
đoàn Viễn thông Quân đội đã đổi tên thành Tập đoàn Công nghiệp – Viễn
thông Quân đội. Tháng 3 năm 2018, dịch vụ máy chủ ảo do Viettel phát triển
mang tên Viettel StartCloud ra đời, Viettel dẫn đầu thị trường về dịch vụ Data
Center và Cloud. Tháng 6 năm 2018, thương hiệu quốc tế thứ 10 của Viettel
– mạng di động quốc tế Mytel – khai trương tại Myanmar. Tháng 8 năm 2018,
Viettel chuyển tiếp sang Giai đoạn phát triển 4: Giai đoạn của 4.0 và Kinh
doanh toàn cầu. Chiến lược phát triển trong giai đoạn này là duy trì tốc độ
tăng trưởng 10-15%, trở thành Tập đoàn công nghệ kinh doanh toàn cầu, tiếp
tục duy trì vị thế dẫn dắt số một Việt Nam về viễn thông và công nghiệp công
nghệ cao.
d. Giai đoạn từ 2018 – nay: Nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật số
Đầu tháng 12 năm 2018, Viettel kích hoạt thành công 30 trạm phát
sóng đầu tiên cùng nền tảng cung cấp dịch vụ sử dụng công nghệ NB-IoT tại
47
Hà Nội, trở thành nhà mạng đầu tiên tại Việt Nam triển khai thành công mạng
IoT thương mại. Nửa đầu năm 2019, Viettel cũng ra mắt nhiều Tổng Công ty
và Công ty đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển giai đoạn 4 của
mình như: Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp, Công ty An ninh mạng,
Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao và Tổng Công ty Dịch vụ số.
Tháng 4 năm 2019, Viettel hoàn thành tích hợp hạ tầng phát sóng 5G
đầu tiên tại khu vực hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội) và phát sóng thử nghiệm thành
công trên các băng tần được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép. Ngày
10 tháng 5 năm 2019, Viettel cùng Tập đoàn Ericsson (Thụy Điển) thực hiện
kết nối chính thức lần đầu tiên trên mạng di động 5G tại Việt Nam.
Tháng 6 năm 2019, Viettel++ – chương trình chăm sóc khách hàng lớn
nhất từ trước đến nay của Viettel, đã chính thức đi vào hoạt động. Cuối tháng
6 năm 2019, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính
phủ (e-cabinet) do Viettel phát triển cũng đi vào hoạt động sau hơn 3 tháng
chuẩn bị. Tại buổi khai trương Hệ thống, Quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám
đốc Viettel Lê Đăng Dũng cam kết sẽ luôn đồng hành cùng Chính phủ để góp
phần thực hiện sứ mệnh kiến tạo xã hội số, triển khai thành công Chính phủ
điện tử tại Việt Nam.
Tháng 7 năm 2019, Trung tâm giám sát điều hành đô thị thông minh cấp
tỉnh đầu tiên của Việt Nam trên nền tảng Smart City đã ra mắt tại Thừa Thiên
Huế. Mô hình được triển khai trên nền tảng giải pháp Smart City của Viettel.
Với 10 dịch vụ giám sát đô thị thông minh, thu thập phản ánh của người dân và
gửi đến các cơ quan chức năng để xử lý nhanh chóng, mô hình tại Huế được
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá rất cao. Thứ trưởng Bộ Thông tin &
Truyền thông Phạm Anh Tuấn cho rằng đây là mô hình phù hợp cho việc triển
khai xây dựng trên toàn quốc theo mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra.
Cũng trong tháng 7 năm 2019, Viettel bước chân vào thị trường gọi xe
công nghệ với ứng dụng MyGo, đồng thời ra mắt website thương mại điện tử
48
VoSo.vn. Cuối tháng 7 cùng năm, Viettel đã tuyên bố sẽ định hướng ứng
dụng Mocha thành một siêu ứng dụng, đáp ứng các nhu cầu nghe nhạc, xem
phim, video, đọc tin tức, chơi game… và kết nối với nhiều ứng dụng khác của
Viettel.
Tháng 8 năm 2019, tại Diễn đàn cấp cao về CNTT-TT Việt Nam 2019
(Vietnam ICT Summit 2019), Viettel cùng một số doanh nghiệp CNTT lớn tại
Việt Nam thành lập Liên minh Chuyển đổi số Việt Nam. Thiếu tướng Lê
Đăng Dũng, Quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Viettel được bầu làm Chủ
tịch Liên minh.
Tháng 9 năm 2019, Viettel công bố sẽ phát sóng 5G và đưa vào khai
thác hạ tầng kết nối vạn vật (IoT) tại TP Hồ Chí Minh. Tại đây, Viettel đã
hoàn thành xây dựng 1.000 trạm NB-IoT phủ sóng 100% thành phố và phủ
sóng 5G trên toàn bộ phường 12, quận 10, TPHCM. TPHCM trở thành địa
phương đầu tiên trên cả nước phủ sóng 5G liền mạch và IoT trên diện rộng.
Theo công bố của Hiệp hội Di động Thế giới (GSMA), Viettel là đại diện duy
nhất của Việt Nam góp mặt trong danh sách 50 nhà mạng đầu tiên trên thế
giới triển khai thành công công nghệ 5G.
Ngày 17 tháng 1 năm 2020, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
Nguyễn Mạnh Hùng và Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc
Anh đã thực hiện cuộc gọi video đầu tiên sử dụng đường truyền kết nối 5G
trên thiết bị thu phát sóng gNodeB do Viettel tự nghiên cứu và sản xuất, bao
gồm cả thiết bị phần cứng và phần mềm. Ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viettel
công bố chính thức khai trương kinh doanh thử nghiệm 5G, trở thành nhà
mạng cung cấp sớm nhất 5G cho khách hàng sau thời gian phát sóng thử
nghiệm về kỹ thuật. Trong năm 2020, dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19
trên toàn cầu, Viettel vẫn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2020,
đạt tổng doanh thu hơn 264 nghìn tỷ đồng, tăng trường 4,4% so với 2019 và
49
đạt 102,4% so với kế hoạch năm.
2.2. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
Năm 2006, Viettel quyết định mở rộng kinh doanh ra nước ngoài với
mục tiêu tìm kiếm thị trường tiềm năng. Công ty Cổ phần Đầu tư quốc tế
Viettel Global (nay là Tổng Công ty Đầu tư quốc tế Viettel) được thành lập
tháng 10 năm 2006 với tầm nhìn và sứ mệnh đưa Viettel trở thành tập đoàn
viễn thông lớn mạnh tầm quốc tế. Sau 15 năm phát triển, Tổng Công ty Cổ
phần Đầu tư quốc tế Viettel- Viettel Global là một trong những nhà đầu tư
nước ngoài lớn nhất Việt Nam. Viettel Global đã đưa vào kinh doanh 9 công
ty viễn thông tại 9 quốc gia trên khắp châu Á, châu Phi và châu Mĩ với tổng
dân số hơn 175 triệu và 13 triệu khách hàng. Tổng doanh thu năm 2014 là 1,2
tỷ USD.
Hiện tại, Viettel Global quản lý trực tiếp 9 thị trường quốc tế, trong đó
công ty đã trở thành nhà mạng số 1 về thị phần tại 5 quốc gia bao gồm
Campuchia, Lào, Burundi, Đông Timor và Mozambique. Tính đến 2022,
Viettel Global ghi nhận tổng dân số các thị trường đang kinh doanh là 210
triệu người và đạt 42 triệu thuê bao, tăng 7% so với năm 2017. Doanh thu các
50
thị trường năm 2018 đạt gần 1,19 tỷ USD.
Hình 2.1: 9 thị trường quốc tế của Viettel Global
Nguồn: http://viettelglobal.vn/
Về hạ tầng, Viettel Global có tổng chiều dài cáp quang là 143.294 km,
tăng 12% so với năm 2018. Tổng số trạm phát sóng 2G/3G/4G là 45.340
trạm, tăng 52% và đã có 6/9 thị trường quốc tế đang quản lý đã triển khai kinh
51
doanh 4G.
Hình 2.2: Thông tin chi tiết về các dự án đầu tư ra nước ngoài của Viettel
52
Nguồn: http://viettelglobal.vn/
Ngày 15/5/2012, Viettel công bố chính thức kinh doanh tại lục địa đen
mở đầu là Mozambique với thương hiệu Movitel. Chỉ sau hơn 1 năm đầu tư,
Movitel đã sở hữu mạng lưới lớn nhất, có vùng phủ rộng và sâu nhất tại
Mozambique với 1.800 trạm phát sóng (2G và 3G) phủ 100% quận, huyện và
đường quốc lộ, đóng góp hơn 50% hạ tầng mạng di động của toàn
Mozambique. Viettel cũng dựng nên một hạ tầng viễn thông bền vững cho
quốc gia châu Phi này với 12.600 km cáp quang, đóng góp 70% hạ tầng cáp
quang của toàn Mozambique.
Thời điểm đó, Movitel đã góp phần đưa Mozambique trở thành một
trong những quốc gia phát triển nhanh nhất về hạ tầng viễn thông và trở thành
1 trong 3 quốc gia có hạ tầng cáp quang lớn nhất khu vực sau Nam Phi và
Nigeria. Đến thời điểm này, Viettel đã triển khai tại 4 quốc gia ở châu Phi là
Mozambique, Tanzania (mạng Halotel), Burundi (mạng Lumitel), Cameroon
(mạng Nexttel).
Theo thống kê hiện nay, Movitel đang phủ sóng 98% dân số và 90% diện tích
Mozambique. Movitel hiện có 9,2 triệu thuê bao, chiếm 46% thị phần.
Tại Tanzania, mạng Halotel có 7,3 triệu thuê bao chiếm 13% thị phần.
Halotel đang có phủ sóng 87% dân số Tanzania. Tại Thị trường Burundi,
Lumitel phủ sóng 97% dân số và chiếm 59% thị phần. Thị trường Cameroon,
Nexttel đang chiếm 13% thị phần và phủ sóng 70% dân số.
Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2021 của Tổng công ty Đầu tư Quốc tế
Viettel (Viettel Global) cho thấy, sự “trỗi dậy” của thị trường châu Phi. Theo
đó, doanh thu cả năm 2021 thị trường châu Phi đạt 6.978,5 tỷ đồng - tăng
30% so với cùng kỳ năm trước, lợi nhuận sau thuế đạt gần 1900 tỷ đồng. Kết
quả này đến từ việc tổng doanh thu tăng thêm 1930 tỷ và khoản lãi tỷ giá tăng
thêm 2.503 tỷ so với cùng kỳ, đưa châu Phi trở thành thị trường có lợi nhuận
53
cao nhất trong số các thị trường của Viettel Global.
Trong năm 2021, hầu hết các thị trường tại châu Phi đều tăng trưởng
mạnh về doanh thu, nổi bật là Halotel tại Tanzania tăng 33%, Lumitel tại
Burundi tăng 24%, Movitel tại Mozambique tăng 45%. Trong đó, Halotel là
thị trường tăng trưởng tốt nhất trong các thị trường Viettel đầu tư, với tăng
trưởng thuê bao 4G đứng đầu các thị trường. Không chỉ thuê bao data, dịch vụ
ví điện tử tại các thị trường châu Phi cũng đạt được những kết quả tích cực
khi số thuê bao ví phát triển tăng mới chiếm 85% thuê bao ví điện tử tăng
thêm của Viettel Global.
Đến năm 2022, dù đối diện với nhiều khó khăn, song doanh thu các thị
trường của Viettel tại châu Phi vẫn đạt 3.862 tỷ đồng và đóng góp hơn 75%
doanh thu cho Viettel Global.
2.3. Thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
2.2.1. Xây dựng chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thực hiện chủ trương, đường lối của Việt Nam về chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế, Tập đoàn đã sớm hoạch định kế hoạch đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài và xác định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là chiến lược để Tập
đoàn duy trì tốc độ phát triển nhanh và bền vững. Chiến lược về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Viettel xuất phát từ việc Tập đoàn đã sớm nhận thấy sự
chật hẹp của thị trường trong nước để phát triển dịch vụ viễn thông. Theo “quy
tắc” xác định tổng mức đầu tư tại một thị trường của Viettel, với mức đầu tư 20
USD/người và dân số cả nước 90 triệu người thì đầu tư cho thị trường trong
nước của Viettel ở mức khoảng 2 tỷ USD. Muốn tăng mức đầu tư, tăng vùng
phủ sóng, tăng lượng thuê bao thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tất yếu. Do
vậy, Viettel đã sớm coi hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một chiến
lược phát triển cơ bản, quan trọng. Việc lựa chọn địa điểm đầu tư (quốc gia) ở
mỗi châu lục cũng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Viettel. Kết quả là, đầu tư
54
ở các nước này đều góp phần nâng cao vị thế thương hiệu Viettel ở nước ngoài,
mang lại hiệu quả đầu tư cao. Không những thế, từ các quốc gia này, Viettel đã
mở rộng đầu tư ra các quốc gia khác trong cùng châu lục.
Viettel đã xác định mục tiêu phát triển chung cho hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là:
- Năm 2012, Viettel tiếp tục chiến lược “phổ cập viễn thông và thúc
đẩy phát triển ứng dụng CNTT” trên mọi lĩnh vực ở các thị trường cũ, đến hết
năm 2012 tổng dân số thị trường nước ngoài của Viettel sẽ gấp đội thị trường
Việt Nam.
- Năm 2015, doanh thu viễn thông nước ngoài sẽ tương đương 30-40%
doanh thu viễn thông trong nước.
- Năm 2020, doanh thu viễn thông nước ngoài lớn hơn từ 2- 3 lần.
Viettel đưa ra mục tiêu đạt vùng phủ dân số khoảng 400- 500 triệu dân
tại 15 quốc gia, năm 2016 sẽ thuộc top 20 và đến 2020 sẽ thuộc top 10 nước
trên thế giới về đầu tư viễn thông, CNTT.
Với ưu tiên đầu tư vào các nước đang phát triển, Viettel đã đưa các
thương hiệu mới khai trương như Natcom ở Haiti lên vị trí số 1, cũng đặt mục
tiêu từ 2 đến 4 năm phải nằm trong top 3 doanh nghiệp viễn thông hàng đầu ở
nước đã và sẽ đầu tư, mở rộng kinh doanh thêm 3- 4 quốc gia với tổng dân số
khoảng 100 triệu dân.
Do đầu là lĩnh vực còn mới mẻ nên pháp luật và chính sách của Việt
Nam đối với lĩnh vực này chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ. Sự bảo hộ và hỗ
trợ, giúp đỡ của nhà nước đối với các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài cũng
còn rất hạn chế. Trong bối cảnh đó, Viettel vẫn mạnh dạn xây dựng kế hoạch
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển đến năm 2020, từ việc đánh
giá môi trường bên trong và môi trường bên ngoài, chiến lược của Viettel đã
xác định chiến không chỉ muốn khẳng định vị thế chủ đạo quốc gia về viễn
55
thông và công nghệ thông tin, mà còn có khát vọng trở thành tập đoàn đa
quốc gia, nằm trong tốp 10 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn nhất thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã được được xác định là 1 trong 3 trụ cột
chiến lược của Viettel, đó là lý do Viettel đặt mục tiêu đến năm 2020 phải đầu
tư ra 20 đến 25 nước, với dân số 600-800 triệu dân. Trung bình mỗi năm,
Viettel đầu tư vào 1 đến 2 thị trường mới với tốc độ, quy mô và hiệu quả ngày
càng cao. Doanh thu từ thị trường nước ngoài đang đi đúng lộ trình kế hoạch
của Viettel. Viettel đặt mục tiêu duy trì tốc độ tăng trường doanh thu bình
quân 15-20%/ năm, mỗi thị trường sẽ thu hồi vốn trong vòng 3-5 năm.
Chiến lược của Viettel là tiếp tục phát huy thế mạnh của một tập đoàn
cung cấp các dịch vụ viễn thông - CNTT hàng đầu tại các thị trường, đẩy
mạnh phát triển các dịch vụ data, dịch vụ giá trị gia tăng, công nghệ thông tin
trên nền tảng Internet di động và băng rộng. Các thị trường mới được tập
trung đẩy mạnh tăng trưởng nhằm nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, mang
về lợi nhuận và thu hồi đầu tư trong thời gian sớm nhất. Đối với các thị
trường đã đi vào kinh doanh bền vững, Viettel tiếp tục giữ vững đà tăng
trưởng ổn định bằng cách tiến sâu áp dụng công nghệ mới để tăng cường quản
lý hiệu quả và thông minh hóa các dịch vụ cho người dùng.
Để đạt được những thành công trong quá trình đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài những năm vừa qua, Viettel đã thực hiện các chiến lược sau:
a. Chiến lược thâm nhập thị trường
Trên cơ sở phân tích, đánh giá môi trường kinh doanh, xem xét các
mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định, các nhà quản lý của Viettel đã lựa chọn chiến
lược tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng vị thế của Tập đoàn
bằng cách tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ mà hiện là thế mạnh của
Tập đoàn như: điện thoại quốc tế, các dịch vụ thông tin di động, internet.
Viettel đã tăng số nhân viên bán hàng và mở rộng đại lý tại các thị trường
56
ngoài nước; Tăng cường các hoạt đông quảng cáo trên truyền hình, internet,
báo chí, băng rôn. Đồng thời Viettel đang đẩy mạnh các chiến dịch khuyến
mại như đưa ra các gói cước giá rẻ..
b. Chiến lược phát triển thị trường
Tập đoàn đã tiến hành đa dạng hoá sản phẩm nhằm tận dụng nguồn vốn
lớn mạnh và đội ngũ nhân lực sẵn có của mình. Nhu cầu của khách hàng đòi
hỏi phải được quan tâm hơn, được phục vụ tốt hơn. Cơ hội của thị trườn g các
nước đang phát triển vì thế mà Tập đoàn đã đưa ra các gói dịch vụ phù hợp
với nhu cầu khách hàng đồng thời mở rộng nhiều lĩnh vực kinh doanh để tận
dụng khả của Tập đoàn nhằm chiếm lĩnh thị trường với mục tiêu dẫn đầu một
số lĩnh vực có lợi thế.
c. Chiến lược tiếp cận khách hàng
Viettel đã tìm kiếm những phân khúc thị trường mới như: những khách
hàng có nhu cầu nghe nhiều, đối tượng trẻ thích sử dụng các dịch vụ giá trị
gia tăng. Và Viettel đã “bắt” nhanh cơ hội để liên tục đưa ra các dịch vụ mới
mang lại doanh thu lớn cùng với chiến lược giá mà Tập đoàn đưa ra rất hấp
dẫn, chiến lược Maketting mạnh mẽ nhằm tới việc thu hút những khách hàng
sử dụng mới. Dịch vụ nhạc chuông chờ I-muzik sau một năm rưỡi ra đời đã
có tám triệu người sử dụng. Bên cạnh đó, Viettel còn đưa ra nhiều loại dịch
vụ như I-share - sẻ chia tài khoản, dịch vụ nhận và gửi thư điện tử trên điện
thoại động
Với những bước đi ấy, Viettel đã được những đánh giá rất tích cực từ
thị trường thế viễn thông thế giới cũng như các nước nhận đầu tư. Các thương
hiệu của Viettel tại ASEAN đã được đánh giá là các thương hiệu viễn thông
hàng đầu theo danh sách của Brand Finance, công ty tư vấn chiến lược và
đánh giá thương hiệu hàng đầu thế giới. Trong đó Unitel tại Lào là thương
hiệu hoạt động hiệu quả nhất khu vực ASEAN, với giá trị tăng 106% so với
năm trước đó. Metfone tại Campuchia cũng được đánh giá là thương hiệu
57
viễn thông giá trị nhất Campuchia.
d. Chiến lược phát triển sản phẩm
Là doanh nghiệp hoạt động trong nghiều lĩnh vực với cơ cấu chủng loại
sản phẩm đa dạng thích hợp, có khả năng cạnh tranh thị trường. Với thị
trường rộng lớn trong nước và ngoài nước. Đồng thời khách hàng luôn luôn
quan tâm đến các sản phẩm và dịch vụ của Viettel. Vì vậy mà Viettel đã luôn
nghiên cứu đưa ra chiến lược phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách
hàng, với nhu cầu thị trường.
Có thể nhận thấy chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Viettel
là chiến lược xuyên quốc gia. Việc lựa chọn thị trường quốc gia mục tiêu của
Viettel là “đánh” vào những thị trường khó, những thị trường các nước đang
phát triển, thậm chí là bất ổn về chính trị và khó khăn về tự nhiên. Điều đó
khẳng định rằng Viettel “đánh” ra nước ngoài với tham vọng trở thành số 1
của các thị trường đó. Để làm được điều này, Viettel đã áp dụng chiến lược
Đại dương xanh - nghĩa là họ đang tự tạo ra một ngành kinh doanh, một thị
trường mới, một “đại dương” các dịch vụ mới ở một vùng đất còn chưa được
ai khai phá.
Khởi đầu từ các nước láng giềng (Lào, Cămpuchia) rồi vượt qua đại
dương đến các nước xa xôi như Peru, Haiti. Tại các nước đầu tư, Viettel mang
giải pháp đã thành công ở Việt Nam áp dụng vào các nước này, không quản
ngại đổ vốn vào các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Việc hoạch định đầu tư vào Mô dăm bích với những kết quả ngoài
mong đợi đã tạo tiền đề để phát triển đầu tư sang Tandania, Burunđi và
Camơrun ở Châu Phi. Ngoài ra, việc xây dựng kế hoạch đầu tư đồng bộ, đặc
biệt đầu tư vào kết cấu hạ tầng viễn thông (đòi hỏi vốn, công sức và thời gian
rất lớn), đầu tư vào vùng nông thôn... không chỉ tạo thế chủ động trong kinh
doanh dịch vụ viễn thông, mà còn tạo niềm tin, làm yên lòng người dân và
58
chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư.
2.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Để quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Tập đoàn Công
nghiệp viễn thông Quân đội tổ chức bộ máy theo mô hình tập đoàn trực thuộc
bộ chủ quản. Do cơ chế đặc thù trong quân đội nên Tập đoàn Công nghiệp
viễn thông Quân đội không có hội đồng quản trị mà Đảng ủy Tập đoàn thực
hiện vai trò và chức năng giống như hội đồng quản trị ở các tập đoàn kinh tế
hiện có. Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội kinh doanh đa ngành
nghề như: cung cấp dịch vụ viễn thông, truyền dẫn, bưu chính, bất động sản.
Trong đó viễn thông và công nghệ thông tin là ngành kinh doanh chính.
Để phục vụ việc quản lý, sản xuất, kinh doanh tại nước ngoài, Tập đoàn
Công nghiệp viễn thông Quân đội đã xây dựng theo cấu trúc tổ chức hỗn hợp,
cụ thể là mô hình theo cấu trúc sản phẩm và cấu trúc địa lý. Với mỗi công ty
con là một tổ chức độc lập, được xây dựng trên bộ phận hóa sản phẩm hay địa
lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của từng đơn vị. Cơ quan đầu
não Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội chỉ giám sát bên ngoài các
đơn vị trực thuộc, hỗ trợ tư vấn cho các đơn vị về tài chính và pháp luật.
Hiện nay, Tập đoàn Viettel có 3 công ty thành viên thuộc Tập đoàn
Viễn thông Quân đội (Viettel) tham gia điều hành trực tiếp các thị trường
nước ngoài trong lĩnh vực mạnh nhất, nhiều kinh nghiệm nhất của mình. Đó
là: Tổng Công ty Viễn thông Viettel (Viettel Telecom); Công ty cổ phần Đầu
tư Quốc tế Viettel (Viettel Global) và Viettel Network.
Theo mô hình trên, Viettel thành lập 2 trung tâm nghiệp vụ toàn cầu,
trực tiếp tham gia hỗ trợ quy hoạch, tối ưu và khai thác mạng lưới tại tất cả
các thị trường nước ngoài của Viettel. Trong mô hình mới, Viettel trực tiếp
điều hành các thị trường nước ngoài của Viettel trong 3 nhiệm vụ chính: xây
dựng chiến lược đầu tư, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày
và tổ chức bộ máy nhân sự cho thị trường nước ngoài (trừ Ban Giám đốc và
59
nhân sự kĩ thuật lớp công ty). Công tác điều hành với mỗi thị trường tương tự
như việc điều hành giữa Viettel và các chi nhánh tỉnh tại Việt Nam. Trong đó,
90% nhiệm vụ do bộ máy tại thị trường nước ngoài chủ động thực hiện.
Viettel liên tục mở rộng các công cụ hỗ trợ, tham gia công tác phân tích số
liệu, đối soát và đảm bảo doanh thu, hỗ trợ công tác chăm sóc khách hàng.
Công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel (Viettel Global) tập trung vào nhiệm vụ
xúc tiến đầu tư, triển khai hạ tầng, thực hiện khai trương, sau đó bàn giao cho
Viettel Telecom và Viettel Network điều hành. Viettel Global cũng chịu trách
nhiệm đảm bảo khung nhân sự bộ máy Ban Giám đốc của nước ngoài, đảm
bảo các điều kiện pháp lí, tài chính đầu tư cho các thị trường, đồng thời giám
sát và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh tại thị trường nước ngoài.
Từ tháng 10/2011, Viettel Network thành lập 2 trung tâm: Trung tâm
Quy hoạch - Thiết kế - Tối ưu toàn cầu và Trung tâm Điều hành khai thác
toàn cầu. Hai trung tâm này là đầu mối giao diện trực tiếp thực hiện các công
việc liên quan đến vận hành khai thác tại các thị trường. Viettel Network cũng
trực tiếp cử người đi kiểm tra tài nguyên, năng lực mạng lưới, thiết lập báo
60
cáo tối ưu hàng ngày, xây dựng đường dây hotline hỗ trợ kĩ thuật 24/24.
Hình 2.3: Cơ cấu tổ chức của Tập đoàn Viettel
Nguồn: Website Viettel Group (https://viettel.com.vn/vi/)
2.2.3. Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hiện nay, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân đội đã đầu tư tại 10
nước thuộc 3 châu lục: Lào, Campuchia, Haiti, Mozambique, Peru, Timor
61
Leste, Cameroon, Tazania, Burudi, Burkina faso với doanh thu năm 2015 gần
10 tỉ USD và trên 80 triệu thuê bao đang hoạt động. Tại những nước đã kinh
doanh, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân đội là doành nghiệp viễn
thông có hạ tầng lớn nhất ngày tại thời điểm khai trương.
a) Tổ chức thực hiện đầu tư tại Campuchia
Cuối năm 2006, Tổng công ty Viễn thông Quân đội (nay là Tập đoàn
Công nghiệp Viễn thông quân đội) chính thức đặt chấn vào thị trường
Campuchia, trở thành doanh nghiệp viễn thông đầu tiên đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Đây là thị trường đầu tiên và cũng thành công nhất của Tập đoàn
Công nghiệp Viễn thông Quân đội. Tập đoàn lựa chọn hình thức đầu tư 100%
vốn chủ sở hữu để thâm nhập vào một thị trường đang phát triển ở
Campuchia. Triết lý “Mạng Metfone là mạng củà người Campuchia” xuất
phát đầu tiên từ sự nhận thức của Ban lãnh đạo Tập đoàn khi đầu tư sang thị
trường này đó là phải “nhập gia tùy tục”.
Bảng 2.1: Tình hình vốn đầu tư qua các năm của Viettel
tại thị trường Campuchia
Đơn vị: USD
Vốn VTG đã góp Vốn VTG Thị Vốn đầu tư đăng ký góp trường 2010 2015 2019 2021
Cam 151.445.689 151.445.689 711.93 9.697.683 18.380.000 11.500.000 Puchia
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2022 của VTG)
Năm 2014, với số vốn đầu tư lên đến 275,8 triệu USD nên Viettel đã có
2.687 trạm 2G với 3.778 tủ BTS và 29,301 TRX đàng hoạt động trong trạm,
vùng phủ sóng dân số đạt 99,49%, tổng số xã phủ được là 1414/1621 xã có
trạm chiếm 87%. Hiện tại thì còn có 207 xã chưa có trạm nhưng chỉ còn 19 xã
62
chưa có sóng. Còn về trạm 3G: đã có 1237 Node B đang hoạt động, trong đó
có 65% số Node B được khai băng thông 20M; 31,5% số trạm được khai băng
thông là 10M và 3,5% số trạm khai băng thông là 8M. Tổng số cáp quang mà
Viettel đã đầu tư tại thị trường này đến năm 2021 là 13.795 km phủ sóng đến
100% huyện và 95% các xã.
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội chủ trương cử những
chuyên gia tốt nhất sang xây dựng bộ máy, đào tạo và chuyển giao tri thức.
Mục tiêu cuối cùng là sau 3 năm triển khai, bộ máy đó phải được vận hành
bởi chính những người địa phương, từ kỹ thuật đến kinh doanh. Điều này
khác với những nhà đầu tư khác, tập trung thuê các chuyên gia nước ngoài đã
có chuyên môn để đảm bảo công việc, thay vì đào tạo một lớp nhân lực cấp
cao cho chính đất nước đó. Cách làm này đã được người dân nước sở tại đánh
giá cao, vì những giá trị thực sự và sự chân thành mà Tập đoàn đang mang
đến cho đất nước họ. Có được sự tin tưởng này thì Tập đoàn sẽ nhận được sự
yêu mến, tin tưởng và thu hút được nhiều người tài.
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội lựa chọn đầu tư tại
Campuchia vì Vương quốc Campuchia có nền kinh tế vĩ mô, hệ thống tài
chính khá ổn định, kinh tế tiếp tục giữ được mức tắng trưởng dưới 10%/năm
trong những năm gần đây. Quan hệ Việt Nam - Campuchia đang phát triển về
mọi mặt theo phương châm: “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp
tác toàn diện, bền vững lâu dài”, là nền tảng quan trọng và thuận lợi cho
doanh nghiệp hai nước tận dụng các cơ hội tắng cường đầu tư và thúc đẩy
thương mại. Doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế khi đầu tư vào
Campuchia hơn Thái Lan, Trung Quốc, do vị trí địa lý gần, vận chuyển hàng
hoá thuận lợi khi có cả đường sông, đường bộ, đường biển… cùng nhiều cửa
khẩu quốc tế thuận tiện cho di chuyển nhân sự, hàng hoá qua lại giữa hai
nước một cách nhanh chóng. Thị trường Campuchia với thị hiếu tiêu dùng có
nhiều điểm tương đồng với thị trường trong nước, và rất phù hợp với sản
63
phẩm, hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam làm ra từ chất lượng đến giá cả,
cộng đồng người Việt đông đảo tại Campuchia cũng là đối tượng tiêu dùng
quan trọng cho hàng hóa Việt Nam. Đến nay, đã có trên 500 doanh nghiệp
Việt Nam đăng ký kinh doanh chính thức tại Campuchia. Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội có thể tận dung chiến lược kinh doanh đã áp
dụng tại Việt Nam sang Campuchia. Chính phủ Hoàng gia Campuchia đang
tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính mở cửa, tạo mọi điều kiện phát
triển kinh tế, trao đổi thương mại, tăng cường đầu tư từ nước ngoài nhằm tạo
công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người dân. Bên cạnh đó, quan hệ
giữa hai chính phủ Việt Nam - Campuchia đã có bề dày truyền thống, nhất là
về quân đội nên Viettel Cambodia nhận được nhiều sự quan tâm và chỉ đạo
trực tiếp của các cấp lãnh đạo.
Mục tiêu của Tập đoàn khi đầu tư vào Campuchia là trở thành nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông đứng số 1 tại nước này; đứng đầu về số trạm BTS tại
Campuchia; phát triển các dịch vụ mang lại nhiều tiện ích, nhiều lựa chọn
chokhách hàng với giá cả tốt nhất; số lượng khách hàng nhiều nhất; chăm sóc
khách hàng với chất lượng tốt nhất.
Cùng với chiến lược thâm nhập thị trường trên, Tập đoàn Công nghiệp
Viễn thông Quân đội đã thực hiện Chiến lược chi phí thấp. Hiện tại, giá của
Viettel rẻ hơn của các nhà cung cấp dịch vụ khác tại Campuchia từ 20- 25%.
Ngoài ra, Viettel còn có nhiều chính sách tốt hơn với thuê bao là kiều bào
Việt Nam tại Campuchia và thuê bao là kiều bào Campuchia tại Việt Nam.
Đó được xem như là sự tri ân để cảm ơn khách hàng. Những khách hàng của
Viettel phải được hưởng sự lớn mạnh của Tập đoàn. Ban lãnh đạo Tập đoàn
có chính sách cho tất cả khách hàng của Viettel, không kể người Việt hay
người Campuchia. Đã là khách hàng của Viettel thì phải được hưởng những
gì tốt nhất, lớn nhất của chính sản phẩm. Hơn nữa, Viettel Campuchia còn
thực hiện đúng triết lý kinh doanh của Viettel là "kinh doanh gắn với trách
64
nhiệm xã hội", đẩy mạnh những hoạt động xã hội như quỹ người nghèo, ủng
hộ các trường học, các bệnh viện... Chính những hoạt động xã hội đó đã giúp
thương hiệu Viettel đi sâu vào đời sống người dân Campuchia, chiếm được
thiện cảm của người dân để từ đó có chỗ đứng vững chắc trên đất nước
Campuchia.
Đến năm 2105, thế mạnh lớn nhất của Viettel tại Campuchia chính là
lĩnh vực di động. Viettel dùng thế mạnh này làm “con thuyền” ra biển lớn, bắt
đầu từ các thị trường mới mẻ và còn chưa phát triển, cơ may thành công sẽ
lớn hơn. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội với thế mạnh về tài
chính và kinh nghiệm phát triển thị trường viễn thông từ thị trường trong
nước đã đầu tư quy mô lớn, phát triển cơ sở hạ tầng mạng tại Campuchia. Tập
trung phát triển vào các tuyến cáp quang và mạng lưới các trạm BTS phủ
sóng tới khắp các huyện, thị xã. Làm cơ sở để phát triển các dịch vụ viễn
thông băng rộng trong tương lai, chiếm ưu thế so với các đối thủ khác.
Dưới đây là kết quả thực hiện chiến lược đầu tư tại Campuchia (Bảng 2.2).
ĐVT: USD
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh của công ty VTG (Viettel Global)
2004 2021 2014
100 triệu 200 triệu 100% 300 triệu 100% Doanh thu kế hoạch
58 triệu 162 triệu 179% 255 triệu 57% Doanh thu thực tế
Chưa có lợi nhuận 4 triệu 40 triệu Lợi nhuận
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh VTG năm 2021
Từ năm 2014, để phấn đấu phát triển đạt mục tiêu là nhà mạng cung cấp
dịch vụ mạng 5 nhất: mạng lưới lớn nhất với cáp quang đường trục có dung
lượng 20Gbps, 3000 trạm BTS với 2,55 triệu thuê bao di động; vùng phủ sóng
rộng nhất tới 24 tỉnh thành với 100% số cáp quang đến các huyện, mỗi xã có
65
1 trạm BTS; sản phẩm dịch vụ có chất lượng tốt nhất; giá tốt nhất và hệ thống
chăm sóc khách hàng tốt nhất. Vì thế, Metfone đã tập trung đầu tư vào dịch
vụ mạng 3G nhiều hơn mặc dù trên thị trường lúc đó đã có nhiều công ty
cung cấp dịch vụ 3G nhưng với việc đầu tư trạm phát sóng làm cho mức độ
phổ biến và sự phong phú của mạng 3G của Metfone hơn hẳn các dịch vụ
khác. Chính nhờ việc đầu tư đúng đắn trên mà chỉ trong vòng nửa năm mà số
lượng thuê bao 3G phát sinh lượng cước đạt 75.000 thuê bao và cước phát
sinh di động thuê bao USB 3G cũng tăng lên đáng kể. Viettel cũng đã đầu tư
hơn 10.000 km cáp quang phủ sóng hơn 70% số huyện, với dung lượng mạng
lõi đáp ứng đến 4 triệu thuê bao.. .với việc đầu tư mạng lưới rộng lớn như vậy
mà Metfone đã chiếm 60% thị phần dịch vụ ADSL và 50% thị phần dịch vụ
điện thoại cố định với 2 triệu thuê bao di động.
Việc đầu tư mở rộng các trạm phát sóng giúp cho tổng số thuê bao Reg
của nhà mạng Metfone cung cấp đạt được 3.721.028 thuê bao đã đưa Metfone
lên dẫn đầu thị trường với thị phần là 48% trên 8 nhà mạng cung cấp là:
Mobitel, Hello GSM, Mfone, qb, Star-Cell, Excel, Smart Mobile và Beeline.
Thật đáng kinh ngạc khi quý 1/2010, Mobitel của tập đoàn Royal còn chiếm
vị trí đứng đầu trên thị trường dịch vụ di động mà chỉ sau có 1 năm Metfone
đã vươn lên đứng đầu. Viettel đã vượt qua các nhà mạng lớn chiếm thị phần
cao do họ đã xuất hiện trên thị trường Campuchia từ rất sớm và nắm giữ một
vị trí quan trọng trong lòng khách hàng, đó quả là một thành công đáng khích
lệ cho Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel. Sự xuất hiện của Metfone, đã
giúp đưa mật độ thâm nhập của điện thoại cố định tại Campuchia từ 0,2% lên
21% trong đó tổng số thuê bao của Methome là 339.000 thuê bao chiếm 89%
thị phần. Còn về Internet băng rộng, tổng số lượng thuê bao là 94.000 thuê
bao chiếm đến 70% thị phần Internet băng tộng của toàn Campuchia.
Về hạ tầng mạng lưới, Viettel chủ trương đầu tư bằng cách tự làm, thuê
đối tác trực tiếp thực hiện, bỏ qua các chủ thầu và khi bắt tay vào làm thì phân
66
tích sâu, chi tiết tới từng hạng mục để có thể đầu tư ghép với gói chung của
Viettel ở Việt Nam để giảm giá thành của thiết bị lẫn hàng hóa. Đầu tư hệ
thống nguồn điện: đối thủ cạnh tranh dùng pin mặt trời và dàn ắc-quy lớn còn
Viettel chỉ mua máy nổ và ắc-quy vừa đủ công suất đủ cấu hình nhằm tiết
kiệm chi phí đầu tư, vận hành và khai thác.
Tính tới thời điểm này, với lượng vốn đầu tư lớn vào thị trường này
nhưng doanh thu của Viettel thu được vẫn còn chưa cao. Tuy nhiên, những
con số doanh thu từ thị trường Campuchia cũng có sự tăng lên đáng kể qua
các năm cũng là một khởi đầu tốt đẹp cho sự phát triển của Viettel trên thị
trường quốc tế.
Nhờ sự phát triển thần tốc của mạng Metfone mà doanh thu của Viettel
tại thị trường Campuchia trong năm 2009 đã đạt được 58 triệu USD hoàn
thành vượt mức kế hoạch đề ra trong năm, tăng trưởng hơn 667% so với năm
2008. Năm 2010, công ty tiếp tục đạt vượt mức kế hoạch lên đến 162 triệu
USD, tăng 2,8 lần so với năm 2009. Đến hết năm 2011, tổng doanh thu đạt
255 triệu USD tăng trưởng 58% so với kết quả thực hiện năm 2010 và cao
gấp 1,6 lần so với doanh thu của nhà mạng đứng thứ 2 tại Campuchia là Cell
Card. Về lợi nhuận của VTG tính đến hết năm 2010 lợi nhuận đạt 3,8 triệu
USD đã trừ lũy kế lỗ qua các năm và cũng là năm đầu tiên kinh doanh thu
được lợi nhuận, nhưng đến hết năm 2021 lợi nhuận của công ty đã tăng lên
đáng kể đạt 39,3 triệu USD.
Khi bắt đầu đầu tư tại Campuchia, Viettel vẫn chưa quen với con người,
văn hóa, phong cách làm việc tại một thị trường mới này buộc họ phải đưa
những nhân viên Việt Nam sang đấy làm và hướng dẫn cho những nhân viên
khác tại Campuchia cách làm việc và tiêu chí của Viettel. Metfone cũng đầu
tư vốn để mở ra các cửa hàng ở các tỉnh đến tuyến huyện trong khi các mạng
khác chỉ có các cửa hàng ở các tỉnh thành phố lớn và cũng là mạng duy nhất
67
đang xây dựng hệ thống nhân viên Metfone làng xã len lỏi đến từng phường
xã để phân phối sản phẩm và chăm sóc khách hàng tốt nhất theo đúng tiêu chí
của Viettel.
Ngày 7/11/2014, tại lễ trao giải thưởng truyền thông thế giới năm 2014
Metfone đã vinh dự khi nhận được giải thưởng “Nhà cung cấp dịch vụ tốt
nhất tại thị trường đang phát triển” với số điểm tối đa vì đã thích nghi với
những đặc thù của thị trường, có chiến lược thâm nhập hợp lý giúp làm thay
đổi bức tranh ngành viễn thông Campuchia.
Sau 6 năm khai thác, thương hiệu mạng viễn thông di động của Viettel là
Metfone đã vươn lên vị trí số 1; mật độ di động của Metfone đã tăng lên 9 lần,
Internet băng rộng tăng lên 12 lần và hiện Metfone là nhà cung cấp dịch vụ di
động lớn nhất tại Campuchia. Tại các thị trường mới khai thác cũng đang có
những tín hiệu phản hồi tích cực hứa hẹn đem lại cho Viettel một con số lợi
nhuận thỏa đáng với những gì mà Viettel đã đầu tư tại các thị trường này.
b) Tổ chức thực hiện đầu tư tại Peru
Ngày 27/1/2011, Viettel trúng thầu dự án đầu tư tại thị trường Peru, hiện
tại công ty đang xúc tiến đầu tư khoảng 27 triệu USD để xây dựng cơ sở hạ
tầng, mạng lưới di động mới tại Peru. Viettel đã lên kế hoạch đầu tư khoảng
27 triệu USD để xây dựng mạng di động mới tại Peru. Cuộc đấu thầu giấy
phép di động thứ 4 ở Peru có sự tham gia của 4 nhà mạng, gồm Viettel,
Americatel (công ty con thuộc tập đoàn Entelcủa Chile), Hits Telecom (công
ty của Kuwait) và Winner Systems, liên doanh của Nga. Viettel thắng thầu
nhờ cam kết phục vụ miễn phí cho 4.025 tổ chức giáo dục ở Peru trong vòng
4 năm, nhiều gấp hơn 2 lần so với cam kết của hai đối thủ tham gia đấu thầu
giấy phép di động này. Các điều kiện khác của giấy phép mà Viettel sẽ phải
đáp ứng là có tối thiểu 15.000 kết nối trong năm đầu tiên và 338.000 kết nối
trong năm thứ 3 cũng như phủ sóng 5 tỉnh ngoài khu vực thủ đô Lima và
Callao trong vòng hai năm.Peru hiện có 3 mạng di động hoạt động, gồm Claro
68
(thuộc sở hữu của tập đoàn America Movil SAB của Mexico), Movistar
(thuộc sở hữu củaTelefonica Moviles SAC, thành viên của tập đoàn
Telefonica SA của TâyBan Nha) và Nextel del Peru SA, thành viên của NII
Holdings Inc. Trong đó, theo số liệu tính đến cuối năm 2009, Movistar là nhà
mạng lớn nhất, chiếm 63% thị trường di động của Peru với 15,6 triệu thuê bao,
tiếp đến là Claro (33% thị phần và có 8,25 triệu thuê bao) và Nextel del Peru
SA (hơn 800.000 thuê bao và 3,3% thị phần). Theo website
Telecompaper.com, tỷ lệ sử dụng điện thoại di động ở Peru đã đạt 97% tính
đến cuối năm 2010, tăng 17% so với năm ngoái. Peru có gần 30 triệu dân với
thu nhập bình quân đầu người khoảng 3.500 USD tính đến tháng 6/2010. Quốc
gia Nam Mỹ này hiện có hơn 8 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ 27%.
c) Tổ chức thực hiện đầu tư tại Mozambique
Tại Mozambique, số vốn Viettel đầu tư cho mạng Movitel gần 400 triệu
USD để xây dựng hạ tầng mạng lưới với khoảng 4.500 trạm BTS 2G và 1.200
trạm BTS 3G để phủ sóng rộng khắp nước Mzambique, kể cả các vùng sâu
vùng xa. Movitel là một liên minh giữa Viettel và SPI, một công ty cổ phần
của Mozambique. Mozambique hiện có 20,3 triệu dân, trong đó có khoảng 7
triệu người dùng dịch vụ di động của hai nhà cung cấp Mcel và Vodacom.
Thu nhập đầu người của người dân Mozambique đạt 464 USD vào năm 2009
và là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.
Movitel đã đánh bại hai nhà thầu khác là Uni-Telecom, một liên doanh
giữa Unitel SA của Angola và Energy Capital SA của Mozambique; và
TMM, công ty của hãng viễn thông Bồ Đào Nha (Portugal Telecom). Cuộc
đấu giá đưa ra các điều kiện là các công ty tham gia phải có ít nhất 2 triệu
khách hàng tại những quốc gia mà họ đã hoạt động kinh doanh và phải chứng
minh doanh thu đạt trên 50 triệu USD/năm. Movitel đã chi 28 triệu USD để
đấu giá giấy phép di động thứ ba ở Mozambique. Cuộc đấu giá giấy phép di
động thứ 3 ở Mozambique có tới 22 công ty tham gia. Với giấy phép này,
69
trong vòng 12 tháng, Movitel phải bắt đầu cung cấp dịch vụ. Trong 5 năm tới,
Movitel đã lên kế hoạch đầu tư 400 triệu USD để phát triển kinh doanh đồng
thời đảm bảo phủ sóng đến 85% dân số của Mozambique.
d) Tổ chức thực hiện đầu tư tại Haiti
Tại Haiti, Viettel đã mua lại 60% cổ phần của Công ty viễn thông nhà
nước của cộng hòa Haiti- Teleco, công ty Natcom ra đời với sự liên doanh của
Viettel và Teleco. Vào ngày 4/5/2010, chính phủ và ngân hàng trung ương
Haiti đã ký thỏa thuận đồng ý cho Viettel đầu tư vào hãng viễn thông sở hữu
nhà nước Telecommunications d’Haiti (Teleco). Theo thỏa thuận này, Viettel
đầu tư một gói trị giá 99 triệu USD vào Teleco. Trong đó, Viettel đã đồng ý
đầu tư ban đầu 59 triệu USD và 40 triệu USD còn lại trong 4 năm tiếp theo để
nâng cấp mạng lưới và các dịch vụ của Teleco đã bị ảnh hưởng nặng nề sau
trận động đất hồi tháng 1/2010. Theo các công bố trước đó, Viettel cũng sẽ
gánh cả khoản nợ cũ của Teleco ước chừng khoảng 30 triệu USD. Tại Haiti,
hạ tầng dịch vụ điện thoại cố định lạc hậu của Công ty Teleco (nhà mạng của
Haiti được Viettel mua cổ phần) bị sập gần như hoàn toàn sau trận động đất
tại Haiti vào trung tuần tháng 1/2010. Do vậy, Viettel và đối tác đã tiến hành
thay thế mới và đầu tư bổ sung hạ tầng để cung cấp thêm các dịch vụ viễn
thông. Hiện Natcom đang cung cấp dịch vụ thuê kênh quốc tế, dịch vụ điện
thoại cố định và Internet ADSL.
Natcom tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng cáp viễn thông tại Haiti mà
chưa một nhà cung cấp nào làm đươc, công ty dự định sẽ xây dựng trên 1.000
trạm BTS tương đương với Campuchia. Năm 2010, Natcom đã xây dựng
được 150 trạm BTS, đến cuối năm 2011 số lượng trạm BTS tăng lên 400 trạm
BTS và tiến hành kết nối với các mạng viễn thông khác tại Haiti.
Trong thời gian vài tháng sau triển khai dịch vụ, các cuộc gọi khác vào
nội mạng di động và cố định của Natcom cũng được thử nghiệm thành công.
Trong thời gian tới, Natcom sẽ thực hiện việc kết nối với các mạng viễn thông
70
khác tại Haiti. Từ năm 2016, Natcom phát sóng 1.000 trạm BTS để tiến hành
kinh doanh dịch vụ. Sau khi có đầu tư của Viettel, Teleco sẽ trở thành liên
doanh viễn thông mới có giấy phép và băng tần cung cấp đủ loại dịch vụ viễn
thông gồm cố định hữu tuyến, cố định không dây, cáp quang biển quốc tế,
băng rộngkhông dây WiMAX và di động. Trong đó, Viettel chiếm 60% cổ
phần của liên doanh và 40% cổ phần còn lại thuộc về Teleco và các đối tác cũ
của hãng viễn thông.
2.2.4. Đánh giá hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
Hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội trước giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn ra, trong
giai đoạn đại dịch Covid-19 và sau đại địch trên thực tế không những điểm
khác biệt đáng kể. Trước giai đoạn Covid-19, hiệu quả đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội tương đối ổn
định và có triển vọng. Trong năm 2021, bất chấp những khó khăn mà đại dịch
Covid-19 gây ra trên toàn cầu cũng như trên các thị trường quốc tế mà Viettel
Global hoạt động, doanh nghiệp này vẫn hoàn thành các mục tiêu kế hoạch và
tạo ra những dấu ấn mới. Với tổng dân số 220 triệu người trên các thị trường
đang kinh doanh - gần gấp 2,2 lần dân số Việt Nam, Viettel Global hiện có
58,7 triệu thuê bao và đứng top 1 về thuê bao trên 5/9 thị trường bao gồm
Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timor, Burundi. Trong đó, tại Myanmar,
từ nhà mạng thứ 4 gia nhập thị trường, Mytel đã vươn lên vị trí số 1 với
32,8% thị phần thuê bao di động và 51% thị phần dịch vụ internet có dây, trở
thành thị trường có khách hàng và doanh thu lớn nhất của Viettel Global. Tại
Campuchia, Metfone vẫn giữ vững vị trí số 1 với 42% thị phần dịch vụ di
động và 62% dịch vụ cố định băng rộng. Đặc biệt, Metfone đã chính thức
vượt qua đối thủ Smart về quy mô doanh thu, đạt mức tăng trưởng cao nhất
trong các thị trường đã bão hòa về dịch vụ viễn thông. Đó là đại diện cho 2 thị
71
trường: mới nhất và lâu năm nhất, dù môi trường, điều kiện khác nhau nhưng
đều có dấu ấn rõ nét của Viettel Global trong tình hình mới. Năm 2021, hầu
hết các thị trường Viettel Global đầu tư có mức tăng trưởng doanh thu cao 2
con số: Movitel tại Mozambique tăng 31% - ghi nhận 3 năm liền tăng trưởng
trên 30%, Halotel tại Tanzania tăng 24%, Lumitel tại Burundi tăng 20%,
Natcom tại Haiti tăng 18% - duy trì chuỗi tăng trưởng liên tục 2 con số trong
5 năm từ 2017 đến nay, Metfone tại Campuchia tăng 11%, Star Telecom tại
Lào tăng 12%.
2.2.5. Tổ chức kiểm tra, giám sát trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Công tác kiểm tra là một công tác quan trọng trong việc quản lý và điều
hành việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Ở bước này, người quản lý có thể
nắm rõ tình hình biến động trong công ty để có thể đề ra những phương án xử
lý kịp thời, khắc phục những nhược điểm tồn động và phát huy những ưu
điểm cũng như tiềm năng nhằm phát triển hoạt động kinh doanh.
Trong những năm qua, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội đã
duy trì nghiêm túc, thường xuyên các hoạt động kiểm tra hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn. Cũng như các doanh nghiệp nói chung, trong
công tác kiểm tra xuyên suốt các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội đưa ra 3 hình thức kiểm tra:
Kiểm tra định kỳ: Mỗi tháng, các nhà lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn sẽ
tổ chức kiểm tra định kỳ một lần. Theo đó, ban lãnh đạo sẽ đi kiểm tra 1 vòng
về các hoạt động sản xuất, máy móc thiết bị quan trọng để xem tình hình hoạt
động có gì cần bổ sung hoặc khắc phục nhằm đảm bảo tiến độ.
Kiểm tra thường xuyên: Công tác kiểm tra thường xuyên này thường sẽ
do các nhà quản lý cấp 1 (trưởng phòng, trưởng ban) chịu trách nhiệm diễn ra
hằng ngày. Các trưởng bộ phận phải đốc thúc và quản lí những công việc
trong bộ phần mình rồi báo cáo cho cấp trên biết. Việc kiểm tra thường xuyên
như vậy sẽ giúp cho ban lãnh đạo nắm rõ được tình hình 1 cách thường xuyên
72
và dễ dàng giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và kịp thời.
Kiểm tra đột xuất: Công tác kiểm tra này thường diễn ra không thường
xuyên, không báo trước. Ví dụ trong trường hợp, nhà quản trị Viettel muốn
tham khảo tình hình sản xuất để có chiến lược mới, hay ban thanh tra về kiểm
tra 1 cách đột ngột, hoặc nếu nhận được phản hồi không tốt của khách hàng
về dịch vụ hay hậu mãi ở quốc gia nào đó. Viettel sẽ cử người kiểm tra và xử
lý trong bộ phận chịu trách nhiệm. Ưu điểm của việc kiểm tra đột xuất là có
thể nắm bắt được thái độ hành vi thực sự của mỗi nhân viên, qua đó sẽ có
hướng giải quyết vấn đề này.
Trong việc kiểm tra các phương án đề ra, công ty Viettel thực hiện đầy
đủ 3 loại kiểm tra: Kiểm tra lường trước, kiểm tra trong quá trình và kiểm tra
phản hồi.
Kiểm tra lường trước: Viettel coi trọng ý kiến của nhân viên đề xuất,
những đề xuất thường phải được đảm bảo về tính khách quan cũng như tính
khả thi. Từ đó, khi họp lại cấp trên và cá nhân của từng bộ phận sẽ đưa ra
những phương án lường trước những vấn đề phát sinh trong quá trình thực
hiện dự án đó.
Kiểm tra trong quá trình: Trong quá trình thực hiện, nhân viên phụ
trách lĩnh vực nào sẽ thường xuyên cập nhật những thông tin cần thiết cho cấp
trên như doanh thu, những phản hồi từ khách hàng ... để cấp trên có thể đưa ra
những cách xử lí nếu nhận lại nhiều phản hồi không tốt và cũng đưa ra những
phương thức nhằm tăng doanh thu nếu như nhận được những phản hồi mang
tính khả quan.
Kiểm tra phản hồi: Sau khi thực hiện xong dự án, cấp dưới sẽ báo cáo và
bàn giao số liệu lại với cấp trên, qua khai thác và dựa trên số liệu được cập nhật
thường xuyên, cấp trên sẽ so sánh 2 bảng số liệu, nếu khớp nhau thì dự án hoàn
thành, còn nếu không khớp thì nhân viên phải giải trình nguyên nhân. Đây
cũng là điều không ai mong muốn bởi nó sẽ ảnh hưởng đến mức độ tin cậy của
cấp trên và cấp dưới lẫn các nhân viên cùng cấp với nhau. Trong việc kiểm tra
73
quá trình tổ chức, Viettel cũng áp dụng 3 phương thức kiểm tra phổ biến:
Kiểm tra đầu ra: Để đạt được mục tiêu chạy đua doanh thu bán hàng
với các nhà mạng có tiềm năng . Viettel sử dụng nhiều chính sách đối với các
nhân viên nhằm đẩy mạnh năng lực làm việc, gia tăng doanh thu. Điển hình là
mỗi tháng, nhân viên phải đăng kí hoặc nhận chỉ tiêu doanh thu bán hàng.
Nếu doanh thu đạt cao hơn so với mức đăng kí thì sẽ có thêm khoản tiền
thưởng tính vào lương. Và tất nhiên nếu không đạt được chỉ tiêu trong vòng 3
tháng liên tiếp, nhân viên sẽ bị sa thải vì thiếu nỗ lực hoặc được đưa đi huấn
luyện thêm.
Kiểm tra hành vi: Các nhà quản lý không chỉ đánh giá hành vi kinh
doanh của nhân viên mình qua kiểm tra trực tiếp mà họ còn tham khảo vào
những phản hồi của khách hàng thông qua bộ phần chăm sóc khách hàng.
Viettel cho rằng, phục vụ khách hàng là tiêu chuẩn và yêu cầu hàng đầu vì
vậy những nhân viên phục vụ thiếu thái độ sẽ làm ảnh hưởng xấu đến uy tín
của thương hiệu sẽ bị sa thải hoặc đưa đi tập huấn ngay lập tức.
Kiểm tra văn hóa tổ chức: Là một tổ chức trẻ, đầy nhiệt huyết, Tập
đoàn Viettel có một bản sắc văn hóa riêng bao gồm những chuẩn mực khắt
khe. Xuất thân là một tập đoàn quân đội, Viettel đòi hỏi những công nhân
viên của mình làm việc có trách nhiệm như một người lính như tác phong
chỉnh tề, nhiệt huyết, làm việc, phục vụ tận tụy, chu đáo, cấp trên, cấp dưới
tuy xa (cấp) mà gần (thân thiện), những nghi thức như chào cờ đầu tháng...
Trong những năm gần đây, Tập đoàn Viettel đã tiến hành mỗi năm từ
2-3 lần hoạt động kiêm tra, kiêm soát các đối tượng chấp hành các quy định
của pháp luật về đăng ký kinh doanh, về điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh
doanh, về chứng chỉ hành nghề. Công tác kiểm tra, kiểm soat việc chấp hành
các quy định về đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân
đội. Chính vì vậy, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội đã thường
74
xuyên chỉ đạo các đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền,
kiểm tra, kiểm soát đối với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, kinh doanh,
dịch vụ thương mại đối với việc chấp hành các quy định của pháp luật về:
Đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy phép
kinh doanh và chứng chỉ hành nghề, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm,
hạn chế. Thông qua thanh tra, kiểm tra, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông
Quân đội đã có kết luận việc công ty mẹ đã hỗ trợ vốn cho hai đơn vị thành
viên (Công ty cổ phần Công trình Viettel và Công ty TNHH nhà nước một
thành viên Thương mại và Xuất nhập khẩu Viettel) với tổng số tiền trên
535,45 tỉ đồng. Viettel còn cho vay ưu đãi số tiền 370 tỉ đồng với Công ty
TNHH nhà nước một thành viên Thương mại và Xuất nhập khẩu Viettel với
số lãi tính đến 31/12/2020 đã thu là trên 40 tỉ đồng. Điều này không đúng vì
Viettel là doanh nghiệp không có chức năng tín dụng và cũng không có thẩm
quyền cấp tín dụng ưu đãi.
Qua thanh tra, kiểm tra, cũng đã phát hiện một số sai phạm. Chỉ tính
riêng dự án tại Campuchia, năm 2018, Viettel chuyển nhượng vốn cho công
ty Cổ phần đầu tư quốc tế Viettel có phát sinh doanh thu do chênh lệch tỷ giá
số tiền trên 29,54 tỷ đồng nhưng không hạch toán. Đến năm 2020, Viettel mới
hạch toán vào doanh thu dẫn tới giảm số thuế thu nhập phải nộp 699 triệu
đồng (do chênh lệch thuế suất).
Tại Lào, do xác định sai tỷ giá, công ty VTG đã hạch toán thiếu thu nhập
của khoản vốn góp đầu tư sang Lào trên 7,83 tỷ đồng.... Tại Haiti, việc đầu tư
mạng viễn thông và thành lập công ty con VTO cũng để xảy ra sai phạm.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội đã góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, tạo động
75
lực mở rộng quy mô đầu tư. Tốc độ đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn có sự
tăng trưởng đột phá. Nhờ hoạch định đầu tư nghiêm túc, khoa học, chiến lược
đầu tư đùng đắn, chỉ hơn 10 năm triển khai đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
Viettel đã mở rộng vùng phủ sóng lên tới gần 140 triệu dân (gần gấp đôi dân
số trong nước), tổng tài sản ở nước ngoài tăng từ 247,2 triệu USD năm 2009
lên 1.274,6 triệu USD năm 2020; lao động người Việt Nam ở nước ngoài từ
108 người năm 2008 lên 2.504 người năm 2020; doanh thu và lợi nhuận đều
tăng mạnh.
Thị phần và kết quả kinh doanh có những tiến bộ đáng ghi nhận. Trong
6 thị trường đã đi vào kinh doanh là Campuchia, Lào, Mozambique, Haiti,
Đông Timor và Peru, đã mang lại 1,2 tỷ USD doanh thu cho Viettel trong
năm 2014. Tính riêng 9 tháng đầu năm 2014, lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh đạt 1.470 tỷ đồng, tăng gần 400 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2013. Đặc
biệt, tại Mozambique với dự án Movitel, Viettel có lợi nhuận chỉ sau 6 tháng
chính thức kinh doanh. Với hơn 2 triệu thuê bao được phát triển mới, Movitel
được đánh giá là dự án đầu tư hiệu quả nhất của Việt Nam vào châu Phi kể từ
năm 2008 đến nay.
Thành công của Viettel tại Mozambique là chìa khóa để Tập đoàn mở
cánh cửa ra các địa bàn lân cận. Từ Mozambique, Viettel chính thức có thêm
các thị trường Burundi, Cameroon, Tanzania. Nhiều nhà lãnh đạo của Angola,
Tanzania, Chad, Sierra Leon, Liberia, Kenya... đã sang Mozambique tìm hiểu
cách làm của Movitel và mong muốn Viettel sẽ tới đất nước họ đầu tư. Châu
Phi đã trở thành địa bàn chiến lược trong trụ cột đầu tư nước ngoài của Viettel.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đi đúng mục tiêu định hướng,
có những đóng góp cụ thể cho cộng đồng. Chiến lược đầu tư của Viettel
không chỉ để thu lợi nhuận mà còn dựa vào cộng đồng, vì cộng đồng. Với
phương châm “giúp bạn là giúp mình” hoặc “thương người như thể thương
thân”, Viettel không chỉ chú trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân
76
sở tại mà còn giúp đào tạo, chuyển giao công nghệ cho họ. Viettel không chỉ
đưa sóng đến vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn khó khăn ở các nước đầu tư
mà còn đưa cả máy tính, internet đến trường học, tài trợ cho các cơ sở y tế,
tặng máy tính, USB 3G cho học sinh nghèo... Các công ty con của Viettel tại
các nước được chính quyền và nhân dân sở tại đánh giá cao bởi những thành
tựu đặc biệt đối với quốc gia và người dân ở đó, các tổ chức quốc tế đã tặng
các danh hiệu cao quý.
Với triết lý gắn kinh doanh với trách nhiệm xã hội, tại các nước đầu tư,
Viettel đã hỗ trợ học sinh nghèo và những người có hoàn cảnh khó khăn. Tại
Cămpuchia, Viettel đã hỗ trợ cho học sinh nghèo 25.000 - 30.000 đồng/tháng;
tại Haiti, Viettel đã cung cấp Internet miễn phí tới 1.300 trường học công ở
nông thôn, các cơ quan chính phủ, bệnh viện và phòng khám bệnh. Không
dừng lại ở các nước có điều kiện và trình độ phát triển tương tự như Việt
Nam, Viettel đang và đang từng bước hoạch định chiến lược, xúc tiến đầu tư
tại các nước phát triển.
Bên cạnh việc đầu tư rất lớn vào hạ tầng, xây dựng các mạng lưới rộng
khắp Viettel còn triển khai các chương trình xã hội như: tài trợ 5 triệu USD để
đầu tư thực hiện chương trình cung cấp Internet tới trường học trong 3 năm,
mổ tim miễn phí hay điện thoại nông thôn... tại Campuchia; tham gia chương
trình tài trợ cho nhân dân vùng bị lũ lụt, tài trợ cầu truyền hình 24 điểm cho
Bộ Quốc phòng. Những việc làm này của Viettel đã được không chỉ Chính
phủ mà cả các tầng lớp nhân dân đánh giá cao tạo điều kiện cho sự phát triển
mở rộng hoạt động đầu tư tại 2 thị trường này.
Viettel được đánh giá là doanh nghiệp luôn tích cực trong hoạt động
kinh doanh, chú trọng thực hiện hợp đồng, tôn trọng pháp luật, tôn trọng
phong tục, tập quán và văn hóa nước sở tại; thương yêu, gắn bó thân thiết với
cán bộ và nhân dân địa phương. Viettel không chỉ có mục đích đơn phương
theo đuổi lợi nhuận mà họ còn đóng góp cho công cuộc phát triển địa phương,
77
đây là điển hình thành công của công cuộc đầu tư nước ngoài của Viettel.
Đạt được những thành công trên có thể kể ra các lý do liên quan đến
quản lý đầu tư trực tiếp ra nức ngoài:
- Hoạch định chiến lược đầu tư, kinh doanh khác biệt. Việc lập kế
hoạch xúc tiến đầu tư phải được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các DNVT Việt Nam. Với Viettel, để thành công tại thị
trường Mozambique, Viettel đã phải tìm một đối tác địa phương để thành lập
liên doanh Movitel. Để giành được giấy phép viễn thông thứ 3 tại
Mozambique vào năm 2010, Viettel đã vượt lên 12 DNVT đến từ nhiều châu
lục không phải vì bỏ giá cao nhất, mà đạt điểm kỹ thuật cao (90/100 điểm).
Thêm vào đó, với triết lý kinh doanh tạo ra sự khác biệt (vốn đã thành công ở
Việt Nam và nhiều thị trường khu vực ASEAN là đầu tư dồn dập, đầu tư diện
rộng, đầu tư vào các địa bàn xa xôi, cách trở. Đầu tư xong mới kinh doanh,
kinh doanh với giá thấp đi cùng phổ cập dịch vụ cho người dân và hỗ trợ
ngành giáo dục dùng Internet miễn phí, hỗ trợ Chính phủ, công an, quân
đội...). Ngay sau khi nhận giấy phép vào tháng 1/2011, Movitel đã nhanh
chóng xây dựng hạ tầng và đến tháng 11/2011 đã có vùng phủ sóng lớn nhất,
vượt qua 2 đối thủ có thâm niên 15 năm là Vodacom và Mcel. Sau gần 3 năm
hoạt động, Movitel đã trở thành mạng viễn thông có vùng phủ sóng lớn nhất
nước này, với 3.000 trạm phát sóng và 27.000 km cáp quang, chiếm 38% thị
phần (khoảng 4 triệu thuế bao) và trở thành ngữời dẫn dắt sự cạnh tranh trến
thị trường viễn thống ở đầy.
- Lựa chọn thị trường đầu tư phù hợp. Viettel đã biết lựa chọn thị
trữờng đầu tữ phù hợp với điều kiện và khả nằng của Viettel. Các thị trữờng
Viettel đầu tữ vào đều có đặc điểm chung là: có nền kinh tế chậm phát triển,
mức thu nhập bình quần vào dạng thấp của thế giới, là những quốc gia có địa
hình khống thuận lợi, nhiều đồi núi, nhiều thiến tai, hạn hán và bất ổn về
78
chính trị.
Chọn thị trường “khó” là sự lựa chọn phù hợp của Viettel. Bởi lẽ: Các
quốc gia mà Viettel đầu tữ, cung cấp dịch vụ viễn thống còn nghèo, trình độ
phát triển thấp, nến cơ hội để đầu tữ còn lớn. Ở đó Viettel có đủ nằng lực để
cạnh tranh.
Tại Đông Timor, trái với những lo ngại về chi phí cao, xầy dựng hạ
tầng khó khằn tại một quốc đảo có địa hình đồi núi hiểm trở, Viettel chỉ mất 6
tháng kể từ khi khai trương để kinh doanh có lãi - một kỷ lục của làng viễn
thống thế giới. Nằm đầu tiến Telemor (tến cống ty con của Viettel tại Đống
Timor) đoạt Giải “Khởi nghiệp ấn tữợng” của Steve Awards vì thành tích
xuất sắc ngay trong nằm đầu tiến kinh doanh. Mới đầy, mạng di động này
đoạt thếm Giải Vàng hạng mục “Doanh nghiệp tằng trữởng nhanh nhất” nằm
2015 khu vực chầu Á, chầu Uc và New Zealand”. Hiện tại, Telemor chiếm tới
47% thị phần di động tại Đống Timor, đạt tốc độ tằng trưởng tới 280% trong
nằm 2015.
Với Mozambique - một thị trường xa xôi, khống quen thuộc về vằn
hoá, địa lý., Viettel đã có một dự án thành cống. Chỉ trong vòng 2 nằm khai
trữơng dịch vụ, Movitel (tến thữơng hiệu viễn thống của Viettel tại
Mozambique) đã đứng số 1 cả về thuế bao lẫn hạ tầng. Đến nằm 2015,
Movitel đã đoạt tới 6 giải thữởng của thế giới về viễn thống và đữợc đặt biệt
danh “Điều kỳ diệu chầu Phi”. Thị phần của Movitel tại đầy đạt khoảng 40%.
- Tổ chức đầu tư theo chiến lược “Kỹ thuật đi trước kinh doanh theo
sau”. Viettel luôn biết sử dụng chiến lược đầu tư đúng đắn là: “Kỹ thuật đi
trước, kinh doanh theo sau”. Trong khi các công ty viễn thông nước ngoài
khác muốn có lãi ngay trên thị trường đầu tư nên thường đi đầu tư vào những
nơi có lợi nhất không như Viettel đi lắp đặt trạm tận vùng sâu vùng xa. Quan
trọng hơn trong việc kinh doanh viễn thông khi thị trường có mật độ thâm
79
nhập khoảng 50% thì vẫn có cơ hội để thành công, chính vì thế mà Viettel đã
triển khai chiến lược đầu tư mạnh ồ ạt để trở thành nhà cung cấp lớn nhất
trước khi thị trường đó bão hòa.
Với một mạng lưới viễn thông vấn đề về đầu tư hạ tầng mạng lưới hết
sức quan trọng vì nó quyết định đến sự thành công trên con đường phát triển
một doanh nghiệp viễn thông. Viettel được biết đến là một doanh nghiệp viễn
thông có mạng lưới phủ sóng khắp các vùng sâu vùng xa, từ thành thị đến
nông thôn. Viettel cũng đã tạo dựng được chỗ đứng cho mình trên thị trường
mà Viettel tham gia đầu tư thông qua mạng lưới không ngừng cải tiến, lớn
mạnh trên khắp các nước mà Viettel đã đầu tư. Cụ thể: tại thị trường
Campuchia, hiện Metfone đang là mạng có trạm BTS lớn nhất, có vùng phủ
sóng, cung cấp dịch vụ 3G lớn nhất với chất lượng đường truyền ổn đinh và
dung lượng mạng lưới lớn hơn so với các đối thủ đang hoạt động trong thị
trường đó.
Nắm bắt và hiểu đúng thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và các cam
kết quốc tế. Viettel đã nắm vững 4 nguyên tắc: nắm vững luật pháp nước sở
tại; nắm vững luật pháp, văn bản hướng dẫn và ưu đãi của Việt Nam về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài; hiểu rõ các hiệp định bảo hộ đầu tư, hiệp định song
phương và đa phương và là phải có một đơn vị tư vấn đầu tư một cách tận
tâm, có năng lực và có trách nhiệm.
Về mặt pháp lý, Viettel hiểu rõ thủ tục đăng ký tại Bộ Kế hoạch và Đầu
tư hoặc xin giấy phép đầu tư tại nước ngoài (hiểu rõ điều kiện để có thể đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài; vốn và năng lực tài chính và phải được thẩm tra về
năng lực tài chính thì mới được cấp phép...). Tập đoàn đã tiến hành theo một
số bước cần thiết nhất định như: (i) phải xác định địa điểm đầu tư, quy mô
đầu tư, xây dựng trước phương án đầu tư ở nước ngoài, dự báo về tính khả thi
của dự án; (ii) doanh nghiệp xin giấy phép đầu tư tại nước ngoài và xin giấy
phép tại Việt Nam. Tập đoàn đã quan tâm đến các hiệp định song phương, vì
80
chúng rất có ích cho nhà đầu tư. Điểm đặc biệt là các hiệp định này chỉ ra
được các lĩnh vực khuyến khích đầu tư cụ thể, các chính sách ưu đãi đầu tư
hoặc được bảo hộ một cách cụ thể và có thể tìm các văn bản cần thiết ở Cục
Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Bộ Công thương.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
- Hệ thống quản lý chưa đồng bộ. Toàn bộ hệ thống, quy định quản lý,
ứng dụng CNTT.. .đều được thực hiện bằng ngôn ngữ tiếng Việt trong khi
nhu cầu triển khai đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lại đòi hỏi phải sử dụng ngôn
ngữ phổ thông như tiếng Anh, tiếng Pháp. Mặt khác, Tập đoàn chưa có bộ
phận marketting quốc tế khiến cho hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài còn gặp không ít khó khăn.
- Chính sách đầu tư chưa thực sự khuyến khích đầu tư Viettel chủ yếu
đầu tư vào các quốc gia đang phát triển, do đó hệ thống pháp luật về lĩnh vực
đầu tư tại các nước nay còn nhiều thiếu sót, chưa đồng bộ, chưa tạo động lực
thu hút các doanh nghiệp đầu tư. Các văn bản liên quan đến hoạt động đầu tư
còn nhiều hạn chế, chưa lường trước được những vấn đề phát sinh trong quá
trình thẩm định, cấp phép và những vấn đề liên quan đến hoạt động của các
doanh nghiệp trong việc đầu tư.
- Các cấp ngành chưa có những chủ trưởng, biện pháp quyết liệt để
khắc phục những khó khăn, sửa đổi những quyết định không phù hợp mà thay
vào đó họ còn yếu kém về quản lý hành chính, quan liêu và tham nhũng làm
tăng chi phí kinh doanh. Ví dụ như: Khi Viettel bắt đầu vào thị trường
Campuchia họ xin cấp giấy phép dịch vụ VoIP vì tại thời điểm đó chỉ có duy
nhất 1 nhà mạng cung cấp dịch vụ này nhưng nhà mạng này lại là một liên
doanh của BBCVT Campuchia nên họ đã bảo hộ cho nhà mạng này gây ra
không ít khó khăn cho Viettel. Viettel chính thức đặt vấn đề từ tháng 2/2006
đến tháng 5/2006 mới thống nhất được nguyên tắc và đến tháng 7/2006 mới
81
được ký những phụ lục cần thiết để kinh doanh.
- Sử dụng chính sách chưa thực sự hiệu quả: Một số chính sách có thể
phù hợp với thị trường ở Việt Nam, nhưng lại không phù hợp với khách hàng
tại các nước nhận đầu tư. Tại Campuchia, chương trình happy talk ở Việt
Nam không chạy được các chương trình cùng một lúc và chỉ làm trong một
thời gian ngắn thì ở Metfone không thể thực hiện trong khoảng thời gian ngắn
do gặp khó khăn trong việc truyền thông tới khách hàng. Chính vì thế mà gây
ra lãng phí trong việc đầu tư vào các chương trình marketing cho gói mạng
mới của Viettel.
Thể chế chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa
thực sự hoàn chỉnh, thường đi chậm so với thực tế, do đó chưa có tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Quản lý hoạt
động này còn nhiều bất cập, từ khâu quản lý tiền đầu tư đến khâu hậu kiểm.
Doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư được cố gắng cấp phép trong
vòng 30-45 ngày, còn doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
thường gặp các thủ tục rườm rà, kéo dài đôi khi làm lỡ cơ hội đầu tư.
- Thị phần đầu tư còn nhỏ: Vào thời điểm Viettel bắt đầu đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài thì tại các thị trường này đã có các nhà mạng lớn đang đầu
tư kinh doanh có hiệu quả và nắm giữ thị phần lớn. Ví dụ như Capuchia, có
tới 3 nhà mạng, chiếm tới 95% thị phần, ngoài ra cũng có nhiều doanh nghiệp
kinh doanh viễn thông có sự liên doanh với các nước có tiềm lực tài chính và
kinh nghiệm đầu tư về viễn thông như Thái Lan, Na Uy, Thụy Điển nên việc
cố gắng chiếm lĩnh thị phần đầu tư kinh doanh là rất khó. Chỉ với thị phần
nhỏ bé mà rất nhiều nhà đầu tư muốn nhảy vào chiếm lĩnh nó làm cho việc
đầu tư kinh doanh của Viettel ngày càng trở nên khó khăn.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Khó khăn về vấn đề điện, nước, vận tải...: Giá cả sinh hoạt như điện,
82
nước, viễn thông và vận tải tại các dự án, đặc biệt ở Campuchia, Đông ty mo
cao hơn hẳn so với các nước láng giềng trong khu vực làm ảnh hưởng đến
trực tiếp hoạt động đầu tư của Viettel. Do đường đi đến tận các làng, nhiều
đồi núi mà hệ thống vận tải ở các quốc gia nhận đầu tư còn kém nên vẫn còn
có nhiều địa phương chưa có trạm phát sóng của Viettel.
Nếu so sánh việc đầu tư của các doanh nghiệp Viễn thông nước ngoài
vào Việt Nam và việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Viettel trên mọi
phương diện cho thấy việc thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Viettel
còn rất nhiều hạn chế.
- Sự khác biệt trong văn hóa, ngôn ngữ: Ngôn ngữ của người bản địa
gây khó khăn trong việc truyền thông nhất là qua tin nhắn làm cho hiệu quả
truyền thông không cao, hiệu ứng truyền thông thấp làm ảnh hưởng trực tiếp
đến công việc kinh doanh, lãng phí chi phí đầu tư bỏ ra. Người bản địa ở các
nước kém phát triển có tư tưởng không gắn bó mà khi làm về kỹ thuật viễn
thông cần phải có nhân viên làm việc có kinh nghiệm ít nhất 2 năm trở lên.
Điều đó đã khiến cho Viettel đôi khi bị động về nhân viên làm việc ở các
trung tâm kinh doanh. Trong khi nhân viên mới chỉ biết làm những công việc
đơn giản khiến gánh nặng dồn lên nhân viên người Việt Nam.
- Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và kinh doanh trong nước được cử sang các
nước còn kém về kinh nghiệm, nghiệp vụ và ngoại ngữ. Nhiều cán bộ không
biết tiếng Anh lẫn tiếng bản địa, khiến cho mối quan hệ giữa cán bộ nhân
viên người Việt và người bản địa còn chưa hiểu rõ lẫn nhau, đôi lúc hiểu sai
do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ. Một số cán bộ Viettel đảm nhiệm
cương vị là cán bộ chủ trì cấp phòng ban, chi nhánh, nhưng chưa hiểu văn hóa
bản địa, điều hành chưa phù hợp gây ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết
giữa 2 nước.
- Hỗ trợ xúc tiến các dự án đầy tư trực tiếp ra nước ngoài còn hạn chế:
Các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài như Đại sứ quán, Tổng
83
Lãnh sự quán, cơ quan Thương vụ chưa thực sự tham gia có hiệu quả trong
việc hỗ trợ xúc tiến các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Một số cơ quan
đại diện ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn
thuận lợi của nhà đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không chủ động
gặp gỡ, báo cáo tình hình hoạt động của dự án. Đây là nguyên nhân căn bản
làm cho các nhà đầu tư nói chung, Viettel nói riêng lâm vào tình cảnh lạc
lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó khăn trong việc
triển khai dự án tại nước sở tại.
- Nguyên nhân về phía nước tiếp nhận đầu tư:
Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của một số nền kinh tế đang
trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất,
thiếu minh bạch và khó tiếp cận. Tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán
trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp
dụng ngoài các chính sách của nhà nước (Chính sách ưu đãi miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng trên toàn quốc nhưng địa phương
vẫn thu thêm thuế thu nhập).
Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế cũng
như các thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư (đất đai, phê duyệt thiết
kế.v.v.) khá phức tạp, kéo dài thời gian, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp,
thủ tục thông quan phức tạp (Liên bang Nga, Lào).
Lực lượng lao động tại chỗ rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, tính
kỷ luật và tính chuyên cần không cao, rất khó đáp ứng được nhu cầu về lao
động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng (Ví dụ tại Lào). Sự khác
biệt về văn hóa và thói quen sinh hoạt, cách thức làm việc tại các quốc gia
khác cũng là một thách thức mà các nhà đầu tư gặp phải. Đối với các công ty
viễn thông, ngoài sự khác biệt về ngôn ngữ, việc làm cho các nhân viên nước
ngoài thích ứng với văn hóa làm việc của công ty cũng không phải chuyện dễ
dàng và cũng thường mất nhiều thời gian. (Ví dụ: Tại Lào, thói quen không
84
làm việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ
khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo việc phục vụ
khách hàng 24/7 như các công ty viễn thông cần phải làm. Trong giao tiếp và
làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ nhàng, không quen
với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh. Chính vì vậy, bộ máy nhân
viên Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi bản thân, vừa phải thay đổi chính
cách nhìn và làm việc của nhân viên bản xứ.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Lợi thế cạnh tranh không cao: Viettel không có nhiều lợi thế cạnh
tranh so với doanh nghiệp viễn thông các nước nên gặp không ít khó khắn,
thách thức khi đầu tư, kinh doanh sang thị trường nước ngoài. Ví dụ, khi bắt
đầu thâm nhập thị trường viễn thông Campuchia bằng dịch vụ VolP vì trên thị
trường lúc đó chỉ có 1 nhà mạng cung cấp dịch vụ này nhưng đây lại là một
liên doanh của BBCVT Campuchia nên họ bảo hộ rất lớn vì vậy Viettel gặp
không ít khó khăn trong việc kết nối, khi chính thức đặt vấn đề này từ tháng
2/2006 nhưng đến tháng 5/2006 mới thống nhất được nguyên tắc và tháng
7/2006 mới ký được phụ lục cần thiết. Khi Viettel được giấy phép kinh doanh
dịch vụ này thì lập tức có tới 9 nhà mạng khác cũng được phép kinh doanh
dịch vụ này, thị trường chuyển sang canh tranh khốc liệt. Những nơi mà
Metfone định đầu tư thì giá cước của các đối thủ cao nhất là 3 cent/phút và
thấp nhất là 1 cent/phút mà Viettel còn phải cạnh tranh với các nhà mạng khác
nên sẽ phải cung cấp dịch vụ với giá từ 1-2 cent/phút. Trong khi hiện nay ở
Việt Nam, Viettel đang bán trên thị trường với giá bình quân là 8 cent/phút.
Do vậy, nếu không đạt được một lượng khách hàng đủ lớn thì chắc chắn đầu
tư sẽ bị lỗ.
- Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực còn kém hiệu quả Chiến lược của
Viettel là đào tạo con người để nắm vững công nghệ, kỹ thuật đầu tư, kiến
thức kinh doanh, để đảm bảo nhân viên chủ chốt của Viettel đảm nhiệm 10%
85
lao động trí tuệ còn lại 90% sẽ được đào tạo theo quy trình hóa dành cho
người lao động đơn giản và thuê ngoài. Tuy nhiên, công tác đào tạo trong
nước của Viettel cần rất nhiều thời gian, do vậy, thường xảy ra tình trạng
chậm trễ. Trong khi đào tạo ở các quốc gia như Haiiti, Mozambic... lại chưa
tốt, chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và nghiệm thu công trình dẫn
đến chất lượng công trình không đảm bảo.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn đã đi sâu vào phân tích thực trạng của hoạt
động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn
thông Quân đội Viettel. Trước khi tìm hiểu về hoạt động quản lý, luận văn
trình bày lịch sử hình thành và phát triển của Tập đoàn Viettel từ khi thành
lập cho đến giai đoạn hiện nay – khi trở thành tập đoàn viễn thông công nghệ
số 1 của Việt Nam. Chương 2 đã cho thấy hiện nay Viettel đang đầu tư trực
tiếp sang 9 thị trường nước ngoài gồm Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La
tinh, tập trung trong lĩnh vực viễn thông và đa số có hiệu quả tích cực, lợi
nhuận thu được cao hơn vốn đầu tư đã bỏ ra. Kết quả thu được từ hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Viettel phần lớn nhờ vào công tác quản lý hoạt động
này có hiệu quả. Luận văn đã phân tích và đánh giá thực trạng quản lý đầu tư
ra nước ngoài của tập đoàn trên các phương diện: (1) Xây dựng định hướng
chiến lược đầu tư; (2) Tổ chức bộ máy quản lý đầu tư; (3) Tổ chức thực hiện
dự án đầu tư; (4) Đánh giá hiệu quả đầu tư; và (5) Tổ chức kiểm tra, giám sát
trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Luận văn cũng đã chỉ ra những kết quả
đạt được và những hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân của những hạn chế trong
86
quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Viettel.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA TẬP ĐOÀN
CÔNG NGHIỆP VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI VIETTEL
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến quản lý đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang bước vào bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, mở rộng tự do hóa thương mại, làn sóng ký kết
các FTA đang trở thành một xu thế mới trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, tái cơ cấu kinh tế, hướng tới tăng trưởng xanh dựa trên
nền kinh tế tri thức đang và vẫn sẽ là nội dung quan trọng, có tính chất định
hướng đối với các quốc gia trên thế giới. Tăng trưởng xanh với mục tiêu giảm
thiểu chất thải gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, giảm phát thải khí nhà
kính, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng thân thiện hơn với môi trường qua việc phát triển các
ngành kinh tế xanh, sản xuất hàng hoá, phát triển dịch vụ môi trường, phát
triển năng lượng sạch, . là điều mong muốn của nhiều quốc gia, đặc biệt trong
bối cảnh nguồn lực ngày càng cạn kiết và những tác động tiêu cực của biến
đổi khí hậu toàn cầu. Các quốc gia phát triển có xu hướng tiêu dùng các sản
phẩm công nghiệp cuối cùng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị công nghệ
trong các sản phẩm được đặt lên hàng đầu, người tiêu dùng đang hướng đến
việc ủng hộ các sản phẩm công nghiệp đảm bảo sức khỏe, thân thiện với môi
trường. Đây là một thách thức lớn cho sản phẩm Viettel khi muốn tham gia
vào các thị trường này cũng như là vượt qua được các hàng rào kỹ thuật mà
các nước phát triển áp dụng để bảo vệ người tiêu dùng của họ.
87
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có những dấu hiệu phục hồi
đầy khả quan thì ngành viễn thông được đánh giá là ngành mang lại nhiều lợi
nhuận cho các doanh nghiệp, là một ngành không thể thiếu ở bất kỳ quốc gia
nào vì nó liên quan không chỉ đến di động, truyền thông mà nó gắn liền với
các hoạt động trọng trong một quốc gia như an ninh quốc gia, kinh tế, chính
trị, luật pháp, giáo dục, . . Chính vì thế nó đang thu hút sự chú ý của các nhà
đầu tư nước ngoài muốn mở rộng thị trường đầu tư.
Theo đánh giá của các chuyên gia viễn thông, thị trường viễn thông
nhìn chung có 3 loại: thị trường chưa phát triển (với độ phủ dưới 20% dân
số); thị trường đang phát triển (với độ phủ dưới 60%); thị trường đi vào bão
hòa (với độ phủ trên 60%). Trừ thị trường chưa phát triển, thì dù ở đâu, viễn
thông cũng là lĩnh vực cạnh tranh cao và khá rủi ro. Trên thế giới có 1,500
công ty đang nắm giữ giấy phép, nhưng chỉ 500 công ty có lãi. Thị trường
dưới 20% hiện chỉ còn Myanmar, Cuba, Triều Tiên. Trong khi đó, thị trường
có độ phủ 20-60% còn khá nhiều, nhất là tại châu Phi. Như vậy, để đầu tư vào
các thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam không thể
lựa chọn các thị trường phát triển vì hết giấy phép trong khi các thị trường
chưa phát triển thì khả năng thu hồi vốn không cao; cạnh tranh và rủi ro lớn
(vấn đề ổn định chính trị; chính sách bao vây cấm vận, khả năng đổi mới của
nền kinh tế các thị trường này).
Việc xác định thị trường mục tiêu là các thị trường đang phát triển đang là
xu hướng của các doanh nghiệp viễn thông thế giới và đây cũng sẽ là hướng đi
của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam nếu muốn mở rộng ra đầu tư ra nước
ngoài. Bên cạnh đó, việc triển khai đầu tư bằng hoạt động M&A (mua-bán sáp
nhập doanh nghiệp) cũng là một cửa hẹp cho các doanh nghiệp viễn thông Việt
Nam phải tính toán nếu muốn thâm nhập vào các thị trường phát triển. Một
thách thức khác đó là chuẩn bị nhân lực cho việc đầu tư ra nước ngoài của
Viettel. Với đòi hỏi phải am hiểu địa bàn đầu tư; phong tục, tập quán; môi
88
trường pháp luật và đầu tư, ... thì rõ ràng việc chuẩn bị nhân lực để đưa ra nước
ngoài từ giai đoạn tìm hiểu đến giai đoạn triển khai là một thách thức không dễ
vượt qua của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam nói chung, Viettel nói riêng
so với các đối thủ là các doanh nghiệp viễn thông thế giới. Những bài học về
thành công và thất bại của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam suốt thời gian
qua cần được đúc rút; chia sẻ để cùng hướng đến sự thành công.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Viettel được đặt ra trong xu hướng
mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Việt Nam đang chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này mở ra khả năng cho Việt Nam
tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, kinh tế tăng trưởng vừa có tác động thúc đẩy, vừa có tác động cản trở
đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và tập đoàn Viettel nói riêng.
Mô hình kinh tế mới tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát huy
sức mạnh tổng hợp, huy động nguồn lực, sức sáng tạo của toàn dân để đẩy
mạnh phát triển công nghiệp trong vùng. Các cơ chế, chính sách tiếp tục được
đổi mới mạnh mẽ là tiền đề để phát huy hơn nữa việc sử dụng các nguồn lực,
các tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư ra nước ngoài. Chương
trình hành động của Chính phủ Việt Nam trong những năm tới tập trung chủ
yếu vào việc thay đổi mô hình tăng trưởng, chuyển từ tăng trưởng theo chiều
rộng, dựa chủ yếu vào các yếu tố lợi thế so sánh sẵn có sang khai thác các yếu
tố cạnh tranh trên cơ sở công nghệ cao, chất lượng cao của nguồn nhân lực và
tính hiện đại của cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Đây là cơ sở để duy trì tốc độ
tăng trưởng của các ngành kinh tế, trong đó có lĩnh vực viễn thông.
3.2. Định hướng hoàn thiện quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel
- Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá chính xác toàn diện các yếu tố tác động,
rủi ro của các thị trường đang có cơ hội đầu tư để ra quyết định đúng trong
89
việc mở rộng thị trường mới, tranh thủ nâng cao quy mô thị trường.
- Làm phẳng bộ máy từ bộ máy ở trong nước làm nhiệm vụ quản lý đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đến bộ phận quản lý trực tiếp ở các thị trường,
chuyển giao các vị trí quản lý cho người sở tại, hoán đối vị trí làm việc ở lãnh
đạo cấp trung trở xuống giữa người nước sở tại với người Việt Nam, giữa các
nước đã đầu tư đồng thời đưa người nước ngoài về Việt Nam làm việc để xây
dựng nguồn nhân lực toàn cầu.
- Xây dựng tiêu chuẩn công dân toàn cầu cho cán bộ công nhân viên
của Tổng Công ty để phấn đấu đến năm 2025, cán bộ công nhân viên đạt
chuẩn sẵn sàng làm việc ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
- Tư duy và chấp nhận thử thách khó khăn để tìm ra cái mới mang lại
giá trị và tạo ra sức cạnh tranh khác biệt cho các thị trường đã đầu tư, trọng
tâm đẩy mạnh chuyển dịch từ thoại sang data để đón đầu xu thế viễn thông.
- Tối ưu hóa chi phí vận hành khai thác mạng lưới bằng các ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác quản trị và điều hành hàng ngày, đồng thời
xây dựng công cụ truy nhập cá nhân toàn cầu, đảm bảo chỉ một kết nối có thể
truy cập vào dữ liệu tập trung mọi lúc, mọi nơi.
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội
3.3.1. Hoàn thiện chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Công việc đầu tiên mà Viettel cần hướng tới là đẩy mạnh công tác
nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng đối với từng loại sản
phẩm để công ty tập trung đầu tư sản xuất loại sản phẩm thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, đồng thời không ngừng đem đến cho khách hàng những sản
phẩm mới lạ và đầy tiện ích, hợp túi tiền với từng khách hàng khác nhau.
Ngoài ra, công ty cần phải nghiên cứu các hoạt động, hành vi của đối thủ canh
tranh để có thể xây dựng chiến lược và tiến hành hoạt động đầu tư hạ tầng
90
phù hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất mà không gây lãng phí cho Viettel.
Tập đoàn cần tập trung vào các thị trường tiềm năng. Hiện tại các nước
mà Viettel đầu tư vào đều là những nước nghèo, những nước đang phát triển,
chính vì thế mà Viettel cần tập trung nghiên cứu thị trường thật kỹ tránh
trường hợp mất tiền của, công sức đi đầu tư mà không mang lại hiệu quả cao.
Ngoài ra, khi đã đầu tư cần nghiên cứu xem tại thị trường tiềm năng đó đâu là
khách hàng tiềm năng mà Viettel muốn hướng tới để khai thác tốt khu vực
này. Khi khai thác tốt mới mang lại được hiệu quả cao. Viettel muốn mở rộng
hơn việc đầu tư ra nước ngoài thì trước hết cần phải có phương pháp nghiên
cứu thị trường ổn thỏa, thỏa mãn được những nhu cầu mà Viettel có khả năng
làm được để đầu tư chứ không phải cứ đầu tư tràn lan. Trong thời gian qua
Viettel đã làm tốt công việc là tìm kiếm được 5 thị trường tiềm năng nhưng
muốn mở rộng ra xa hơn cho nhiều người biết đến thì cần phải có công tác
nghiên cứu thị trường tốt mới mang lại hiệu quả.
Viettel cần chủ động xây dựng chiến lược đầu tư có hiệu quả. Để tồn tại
và cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế, Viettel cần phải xây dựng
chiến lược đầu tư ra nước ngoài với những bước đi, lộ trình thích hợp trên cơ
sở năng lực của doanh nghiệp và mục tiêu của hoạt động đầu tư. Đối với thị
trường đầu tư truyền thống thì lại cần xây dựng chiến lược đầu tư một cách
chi tiết hơn nữa để tận dụng những lợi thế của Việt Nam cũng như những ưu
đãi nước sở tại để đạt được hiệu quả đầu tư tối đa nhất. Có thể nói đến một số
chiến lược mà một số các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng thành công: (i)
Chiến lược là người tiên phong và dẫn đầu thị trường ngách; (ii) Chiến lược
dựa vào ưu thế độc quyền; (iii) Chiến lược đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư; (iv)
Chiến lược đầu tư từ gần đến xa; (v) Chiến lược thâm nhập từ văn hóa, lan tỏa
thương hiệu; (vi) Chiến lược đầu tư về nhân sự…
Chuẩn bị kỹ các điều kiện trước khi triển khai Chiến lược đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài mở ra không gian rộng lớn để doanh
91
nghiệp phát triển nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức vì môi trường
kinh doanh xa lạ, nhiều sự khác biệt, mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với đầu tư
trong nước. Để đầu tư thành công, doanh nghiệp phải thực hiện một cách bài
bản, tìm hiểu kỹ về môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh như hệ thống
pháp luật, chính sách, trình độ dân trí, đặc điểm nhu cầu, thị hiếu của người dân,
hệ thống cơ sở hạ tầng, mứcđộ cạnh tranh, thu nhập của người dân, văn hóa, tín
ngưỡng, phong tục tập quán…tại nước sở tại. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần
chuẩn bị thật tốt các điều kiện về vốn, công nghệ, nhân sự, quản lý mới có thể
đảm bảo thành công trong hoạt động đầu tư, kinh doanh tại nước ngoài.
3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội cần phải thành lập một bộ
phận chuyên biệt về marketing quốc tế trong bộ máy quản lý của mình. Có
như vậy, Tập đoàn mới nắm vững được đặc điểm của từng thị trường mà có
chính sách kinh doanh phù hợp. Đối với các nước phát triển ở châu Âu, Hoa
Kỳ, Nhật Bản và một số nước phát triển châu Á khác thì cần phải xem kỷ luật
ứng xử với các sản phẩm nhập khẩu tại nước này và cần phải có những chiến
lược dự phòng thị trường để tránh bị động trong trường hợp bị các nước lớn
này chèn ép. Còn đối với các thị trường khác, một mặt cần phải giữ uy tín
trong kinh doanh, mặt khác cần khéo léo tranh thủ khoảng trống của luật
trong điều kiện có thể, để sản phẩm chúng ta nhanh chóng chiếm giữ thị
trường. Bảo vệ thương hiệu và hoạch định chiến lược marketing tại nước
ngoài là cần thiết, điều này càng khẳng định thêm rằng hoạch định và vận
dụng chiến lược marketing quốc tế của Viettel trong giai đoạn hiện nay có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài để có thể
thâm nhập và tiến hành đầu tư trực tiếp.
3.3.3. Nâng cao năng lực của cạnh tranh doanh nghiệp
Viettel cần nâng cao nguồn lực doanh nghiệp một cách toàn diện, bao
gồm nâng cao năng lực tài chính, nâng cao năng lực khoa học công nghệ và
92
nâng cao trình độ nguồn nhân lực.
- Nâng cao năng lực tài chính:
Có thể nói, trong bất kỳ phi vụ kinh doanh nào, tài chính là yếu tố tiên
quyết dẫn đến thành công, cũng là một trong những yếu tố quyết định hiệu
quả của chiến lược kinh doanh. Nguồn vốn có thể huy động từ việc vay nợ,
song trong trường hợp Viettel chủ động nguồn vốn, việc sử dụng vốn có thể
linh hoạt và hiệu quả hơn rất nhiều. Viettel cần huy động tích tụ vốn và lựa
chọn nhiều hình thức đầu tư thích hợp để mở rộng tái đầu tư, tăng sức cạnh
tranh trên thương trường quốc tế, vận dụng mọi hình thức huy động vốn đầu
tư bằng nhiều phương thức, trong đó có việc thực hiện công khai hóa tài chính
để dần được niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhằm chủ động trong việc
tìm kiếm nguồn vốn, khai thác thị trường; tìm cách tiếp cận và tận dụng sự hỗ
trợ về vốn của các tổ chức quốc tế dành cho các hoạt động đầu tư ra nước
ngoài đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
- Nâng cao năng lực khoa học công nghệ
Cần chuyển sang cơ chế thị trường khoa học công nghệ, mở rộng hoạt
động nghiên cứu triển khai, mở rộng mạng lưới dịch vụ tư vấn khoa học công
nghệ, tổ chức các câu lạc bộ doanh nghiệp, câu lạc bộ khoa học công nghệ
nhằm tăng cường giao lưu, kết nối dự án và các kết quả nghiên cứu khoa học
công nghệ.
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực:
Viettel cần có kế hoạch đào tạo nhân lực cụ thể và gắn với định hướng và
nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, phải chủ động đào tạo lao động tại một số
nước nhận đầu tư cho phù hợp với nhu cầu sử dụng, đội ngũ doanh nhân Việt
Nam phải không ngừng nâng cao năng lực sáng tạo, hiểu biết luật và thông lệ
thương mại quốc tế. Với quy mô ngày càng mở rộng, yêu cầu chất lượng công
việc ngày càng cao, trong khi đội ngũ nhân lực chất lượng cao còn thiếu, Viettel
cần tuyển dụng thêm những chuyên gia nước ngoài để có thể kết hợp đào tạo,
93
chuyển giao hiểu biết về công nghệ và luân chuyển cán bộ có năng lực đến các
dự án có nhu cầu cần thiết. Bên cạnh đó, cần đề ra các tiêu chuẩn cụ thể trong
qua trình tuyển chọn, lựa chọn cử các cán bộ thực hiện các dự án nước ngoài -
những người có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kinh nghiệm.
Về lâu dài, cần đẩy mạnh các hoạt động đào tạo để phát triển đội ngũ
đủ năng lực, trình độ ngoại ngữ và tâm huyết để đi ra các thị trường nước
ngoài. Các chương trình đào tạo có thể là ngắn hạn, dài hạn, trong nước, ngoài
nước... Tăng cường kiểm tra giám sát, nâng cao chất lượng các khóa đào tạo,
phát huy triệt để những nguồn chi cho đào tạo. Để thu hút, giữ chân người tài,
Viettel cần có những đãi ngộ hấp dẫn, song vẫn đảm bảo tiêu chí công bằng,
minh bạch, cạnh tranh. nhằm phục vụ sự phát triển của công ty.
Để giữ được người lao động đặc biệt là các cán bộ giỏi trong nước cũng
như các cán bộ là người nước tiếp nhận đầu tư, có kinh nghiệm trong hoạt động
đầu tư Viettel cần đưa ra những chính sách thu hút đãi ngộ nhân tài; các chính
sách về lương, thưởng, đãi ngộ cần đảm bảo tiêu chí: minh bạch, công bằng và
có sức hấp dẫn, cạnh tranh nhằm phục vụ sự phát triển của công ty. Viettel
đang tập trung đầu tư mạnh vào việc xây dựng đội ngũ phần mềm với mục đích
tự mình phát triển, vận hành toàn bộ phần mềm đồng thời còn xuất khẩu các
phần mềm đó ra nước ngoài để giảm bớt các áp lực và phụ thuộc vào các nhà
cung cấp phần mềm hiện tại. Chính vì thế, cần tập trung đầu tư tìm kiếm các
nhân tài người Việt để có thể phát triển phần mềm đấy giúp ích nhiều cho
Viettel không bị phụ thuộc vào những Doanh nghiệp cung cấp trang thiết bị mà
Viettel đang phải nhập với những điều kiện khắt khe, mất nhiều thời gian lẫn
chi phí. Viettel cần cố gắng sản xuất ra những phần mềm chưa ai có để có thể
mang đi cạnh tranh với các Tập đoàn có tiềm lực về viễn thông.
3.3.4. Nâng cao hiệu quả thực hiện dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hiệu quả thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là mục tiêu quan
trọng đối Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội, vì vậy, để nâng cao
94
hiệu quả thực hiện đầu tư cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Thứ nhất, rà soát các lĩnh vực đầu tư, các thị trường đầu tư để có kế
hoạch đầu tư phù hợp, kiên quyết rút vốn tại các thị trường, lĩnh vực ít tiềm
năng, nhiều rủi ro và có những dấu hiệu khó đem lại lợi nhuận kỳ vọng.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, mở rộng thị trường đầu tư, lĩnh vực đầu tư
ở các quốc gia mà Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội có lợi thế
trong chiếm lĩnh thị trường, trong việc tạo ra lợi nhuận.
Thứ ba, áp dụng các phương pháp quản lý thực hiện đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài hiện đại, sử dụng các chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư phù hợp để
đánh giá đúng hiện trạng về hiệu quả đầu tư.
3.3.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài
Xây dựng bộ máy kiểm tra, giám sát trong quản lý đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trong đó tập trung vào việc kiểm tra, giám sát đưa ra các cảnh báo
sớm trong hoạt động quản lý. Nhân sự tham gia kiểm tra, giám sát cần phải
thực sự am hiểu về lĩnh vực quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Thực hiện
đa dạng hóa hình thức kiểm tra, giám sát, trong đó chú ý đến kiểm tra, giám
sát theo chuyên đề, theo địa bàn. Hoạt động kiểm tra, giám sát không chỉ
nhằm phát hiện những sai sót mà còn để kịp thời tìm ra những bài học kinh
nghiệm có giá trị trong hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các
thị trường để có thể áp dụng.
3.3.6. Tăng cường hợp tác với các tổ chức của Việt Nam ở trong và
ngoài nước
Thứ nhất, tích cực tham gia hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại nước
ngoài. Khác với các doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài
Loan, Singapore… doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu tính liên kết trong
kinh doanh, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh với nhau làm thiệt hại
lợi ích của chính các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, cần tích
95
cực tham gia hoạt động Hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước
ngoài, hiện tại mới có AIVL, AIVC, AIVM được thành lập tại Lào,
Campuchia và Myanmar tại ASEAN. Khi tham gia vào hiệp hội các doanh
nghiệp đảm bảo được cạnh tranh lành mạnh, nâng cao uy tín và bảo vệ lợi ích
của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình đầu tư ở nước ngoài. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm được những đối tác kinh doanh,
học hỏi được những kinh nghiệm và thông tin hữu ích cho hoạt động đầu tư
của mình ở nước ngoài. Hơn nữa, các hiệp hội có thể hỗ trợ và bảo vệ lợi ích
của doanh nghiệp ở nước ngoài.
Chủ động tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên
thế giới. Đặc biệt, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu kỹ những cơ hội và
thách thức mà thị trường nước ngoài mang lại trong thuận lợi hóa, tự do hóa
bảo hộ và xúc tiến đầu tư.
Thứ hai, tăng cường kết nối, trao đổi với cộng đồng người Việt Nam
đang sinh sống, làm việc và học tập tại nước ngoài. Hiện nay, ở Lào,
Campuchia đều có cộng đồng người Việt sinh sống và làm ăn. Những cộng
đồng này là nguồn cung cấp thông tin vô cùng quý giá mà các doanh nghiệp
Việt Nam khi đầu tư sang cần tiếp cận. Cách tiếp cận với cộng đồng doanh
nghiệp Việt kiều không khó, Viettel khi đầu tư sang các nước đó có thể tìm
kiếm thông tin về người Việt Nam thông qua các cơ quan Đại diện thương vụ
của Việt Nam đặt tại nước tiếp nhận đầu tư, hoặc thông qua Ủy ban về người
Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, thông qua Hiệp hội
các nhà đầu tư Việt Nam tại Lào, Campuchia, Myanmar…
3.4. Một số kiến nghị, đề xuất
Để hoàn thiện hoạt động quản lý đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra
nước ngoài, ngoài sự nỗ lực đến từ phía doanh nghiệp, còn cần có các cơ chế
khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước Việt Nam đối với các doanh nghiệp thực
96
hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài này.
3.4.1. Xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cấp quốc gia về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
Ở nhiều nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm mục
đích hợp tác để khắc phục nguồn vốn thiếu hụt, tận dụng công nghệ và chất
xám của nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm quản lý... phục vụ cho công cuộc
phát triển kinh tế trong nước.
Do đó, Chính phủ (thông qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cần xây dựng kế
hoạch chiến lược tổng thể cấp quốc gia về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Chiến lược đóng vai trò là kim chỉ nam cho quản lý của nhà nước và việc xác
định kế hoạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp. Dựa trên
chiến lược này nhà nước sẽ thiết lập các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài trong từng thời điểm và lĩnh vực cụ thể. Bản kế
hoạch chiến lược cũng cần vạch rõ mục tiêu trong từng giai đoạn nhất định,
đảm bảo cho các doanh nghiệp an tâm đầu tư lâu dài. Bản kế hoạch phải kết
hợp chặt chẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp vào trong nước với hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài trong phát triển tổng thể chung của quốc gia. Việc xây
dựng một kế hoạch chiến lược tổng thể về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
biện pháp quan trọng của mở cửa trong giai đoạn mới và đây là con đường tất
yếu để Việt Nam giành quyền chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Mục tiêu vĩ mô của chiến lược là thúc đẩy điều chỉnh kết cấu kinh tế và
phân bổ nguồn lực, tăng cường động lực để phát triển nền kinh tế an toàn và
bền vững. Thông qua chiến lược này, Việt Nam xác định phải bước nhanh ra
thị trường quốc tế bằng cách tăng cường hợp tác khai thác, lợi dụng triệt để
nguồn tài nguyên cũng như thị trường của nước ngoài để bổ sung sự thiếu hụt
về tài nguyên, thị trường của mình và từ đó mở rộng hơn nữa không gian cho
phát triển kinh tế. Với chiến lược đẩy mạnh sao cho đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài phát triển tương xứng với thu hút đầu tư vào trong nước, Việt Nam sẽ
97
tìm cách xuất khẩu ra nước ngoài những yếu tố sản xuất có công nghệ, kỹ
thuật và chất lượng sản phẩm nhất định ở một số ngành trong nước, đồng thời
khắc phục tình trạng thiếu năng lượng, tập trung đầu tư phát triển những
ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, trình độ khoa học công nghệ tiên
tiến, đảm bảo cho phát triển kinh tế của đất nước dần đi vào chiều sâu.
Hiện nay, ưu tiên hàng đầu đối với chiến lược tổng thể cấp quốc gia về
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tập trung cải cách thể chế kinh tế để hỗ trợ và
tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế phấn đấu từng bước trở thành những công ty xuyên quốc gia có sức
cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Đồng thời, các nội dung liên quan đến
doanh nghiệp cũng cần chú ý khi xây dựng chiến lược, gồm: mối quan hệ
giữa nhà nước và doanh nghiệp, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, cơ chế
quản lý và phương hướng đề ra chính sách...
3.4.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài
Ở Việt Nam hiện nay các văn bản quy định về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài vẫn chỉ là nghị đinh, quyết định, thông tư.. .đều là các văn bản dưới luật
làm cho các công ty muốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn rất mơ hồ. Các
văn bản quy đinh này còn không có những hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện
như thê nào, không thống nhất giữa các cấp, ban, ngành gây khó khăn cho các
doanh nghiệp làm kìm hãm việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các Doanh
nghiệp Việt Nam. Khi các văn bản, quy định này trở thành luật nó sẽ mang
tính pháp lý cao hơn, mọi người tuân thủ chặt chẽ hơn từ đó các Doanh
nghiệp được hưởng lợi và đất nước cũng hưởng lợi. Ngoài ra, khi ban hành
các văn bản pháp luật quy định về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì
chính phủ cũng nên ban hành thêm các hướng dẫn chi tiết để việc thực hiện
được tuân thủ đúng và nghiêm túc.
Không chỉ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà mọi hoạt
98
động kinh doanh khác của doanh nghiệp đều phải dựa trên những chính sách
kinh tế vĩ mô, văn bản pháp luật, cơ chế quản lý của nhà nước. Vì vậy, sự ổn
định của chính sách, phápluật và vận hành cơ chế có hiệu quả luôn là tiền đề
hết sức cần thiết cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Trước hết cần phải xác định rõ chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
doanh nghiệp chứ không phải là nhà nước. Nhưng nhà nước có trách nhiệm tạo
ra môi trường và điều kiện, định hướng và dẫn dắt doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế tổng thể của đất
nước. Mối quan hệ phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp sẽ đảm bảo cho
mục tiêu vi mô của doanh nghiệp thống nhất với mục tiêu vĩ mô của nhà nước,
đồng thời qua đó nhà nước sử dụng những biện pháp trong cơ chế quản lý mới
và chính sách có hiệu quả của mình để tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp
phát triển một cách an toàn khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Kết quả khảo sát
có gần 40% doanh nghiệp cho rằng các chính sách về hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài chưa được rõ ràng, cụ thể và chưa có nhiều văn bản hướng
dẫn chi tiết từng lĩnh vực, ngành nghề. Quả thật, nghiêm túc đánh giá tình hình
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam thời gian vừa qua có thể thấy một
số tồn tại sau đây: Các văn bản pháp quy hiện nay do nhà nước ban hành đã lạc
hậu, không còn thích hợp với thực tế; quy trình thẩm định và đăng ký cấp giấy
phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn một số bất cập như để thời gian thẩm
định và cấp phép kéo dài, phải qua nhiều đầu mối quản lý nhà nước; chưa có
các quy định và chế tài cụ thể về quản lý sau cấp phép, dẫn đến việc nắm bắt
hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài gặp nhiều khó
khăn, thông tin không chính xác... Do đó nhà nước cần hoàn thiện chính sách,
pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm đẩy
mạnh hoạt động này trong tiến trình hội nhập kinh tế, cụ thể như sau:
- Xây dựng và ban hành Luật Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
Với số lượng dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ngày một tăng, cùng
99
những tồn tại trong quản lý nhà nước và tình hình chậm đổi mới hệ thống văn
bản chính sách của nhà nước như hiện nay, việc gấp rút nghiên cứu xây dựng
và ban hành Luật Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thay cho Nghị định
78/2006/NĐ-CP vào thời điểm này là hết sức cần thiết. Luật mang tính pháp
lý cao hơn, vì thế nó sẽ buộc mọi người phải tuân thủ, qua đó doanh nghiệp
được lợi nói riêng và đất nước được lợi nói chung.
Hiện nay các nước đều có luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đều hết
sức cởi mở với hoạt động này. Khi có một khuôn khổ riêng, mang tính pháp
lý cao để điều chỉnh, nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp hoạt động lâu dài ở nước ngoài cũng như hỗ trợ họ nâng cao sức cạnh
tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, khi có Luật Đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài cùng các chế tài cụ thể kèm theo, công tác quản lý và phối hợp
giữa các cơ quan bộ, ngành của nhà nước trong lĩnh vực này sẽ khắc phục
được sự quan liêu, chồng chéo; đảm bảo cho các doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài hoạt động an toàn và đúng định hướng.
- Chính sách ngoại hối: Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam còn
khá cứng nhắc khiến cho doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong
việc có đủ ngoại tệ để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, cũng như còn
gặp nhiều vướng mắc trong khâu chuyển ngoại tệ ra ngoài và ngược lại. Có
hơn 40% doanh nghiệp cho rằng cơ chế quản lý ngoại hối chưa linh hoạt,
chưa đáp ứng nhu cầu ngoại tệ đồng thời chưa hạn chế rủi ro tỷ giá hối đoái
cho doanh nghiệp. Vì vậy, nhà nước cần: (1) Cho phép các doanh nghiệp Việt
Nam có nguồn thu ngoại tệ ổn định và tương đối lớn được mở tài khoản ngoại
tệ ở nước ngoài, tiến tới áp dụng chính sách này cho tất cả loại hình doanh
nghiệp và loại bỏ việc xin - cho từng trường hợp riêng lẻ như hiện nay; (2)
Tiếp tục nới lỏng để dần tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối. Khi chính
phủ huy động được một lượng khá lớn ngoại tệ từ trong và ngoài nước, quỹ
dự trữ ngoại tệ tương đối ổn định thì sẽ giảm dần sự can thiệp trực tiếp của
100
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc đề ra các quyết định quản lý ngoại
hối mang tính chất hành chính; và (3) Phát triển thị trường ngoại hối đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ, đồng thời tạo cơ chế hạn chế rủi ro tỷ giá hối đoái cho các
doanh nghiệp. Như vậy, cần phải thấy rằng một trong những côngviệc quan
trọng nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá là dự báo tỷ giá.
- Chính sách thuế: Nhà nước cần áp dụng chính sách ưu đãi về thuế đối
với các dự án thực hiện mục tiêu quan trọng, tác động tích cực tới phát triển
kinh tế của đất nước, như sản xuất điện nhập khẩu về Việt Nam, khai thác một
số khoáng sản thay thế nhập khẩu, phục vụ sản xuất, chế biến trong nước. Cụ
thể hơn, những dự án này sẽ được miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối
với phần lợi nhuận chuyển về nước đã được nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
tại nước mà doanh nghiệp đầu tư. Chính phủ cũng phải luôn chú trọng việc đi
trước mở đường bằng các hiệp định chống đánh thuế hai lần để tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp, vì suy cho cùng, dù làm ăn ở đâu thì lợi nhuận cũng sẽ
được chuyển về công ty mẹ. Ngoài ra, cũng cần tính toán để áp dụng các ưu
đãi về khoảng thời gian được miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp trong bước
đầu triển khai dự án.
- Chính sách đặc thù: Chính phủ cần có chính sách đặc thù để khuyến
khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các thị trường truyền thống như
Lào, Campuchia, các nước trong khu vực và Liên bang Nga; đặc biệt là Lào
và Campuchia để đào tạo lao động do lao động tại hai thị trường này không
thể đáp ứng được về số lượng và chất lượng theo yêu cầu. Khuyến khích
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các thị trường còn hoang sơ và tiềm năng
như Mỹ La-tinh, châu Phi và khu vực Trung Đông do có thể gặp phải những
rủi ro tiềm ẩn ban đầu. Chính phủ cũng cần xác định danh mục các dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài được ưu tiên hỗ trợ là các dự án thuộc lĩnh vực năng
lượng, sản xuất điện năng, khai thác tài nguyên thiên nhiên; trong đó đặc biệt
chú trọng các lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí và khoáng sản khác, lĩnh
101
vực trồng cây công nghiệp.
Đồng thời, các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nếu đáp ứng được
các yêu cầu trong nước về nguyên liệu phục vụ sản xuất cũng cần phải đưa
vào danh mục được khuyến khích và hỗ trợ.
- Cải tiến thủ tục hành chính: Quy trình đăng ký hoặc thẩm tra, cấp giấy
chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải được
cải tiến để rút ngắn thời gian. Từng bước phân cấp việc cấp giấy chứng nhận
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, dần tiến tới loại bỏ quy định bắt buộc thẩm tra
trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư áp dụng đối với dự án có quy mô vốn
đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên. Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính đối
với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo hướng đơn giản thuận tiện,
mở rộng hơn nữa các dự án thuộc diện đăng ký, giảm bớt sự can thiệp bằng
các biện pháp hành chính ngay cả đối với dự án sử dụng vốn nhà nước, tăng
quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
Với các dự án có số vốn đầu tư lớn và các dự án thực hiện đầu tư có
ảnh hưởng đến mục tiêu và lợi ích quốc gia thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên
tham mưu nhanh cho Thủ tướng để ra quyết định cho phép hay không cho
phép việc triển khai và đưa dự án đầu tư vào hoạt động đúng lúc, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nắm bắt cơ hội một cách có hiệu quả. Vì vậy, về lâu
dài việc đăng ký đầu tư và chấp nhận đầu tư nên được diễn ra trên mạng
thông tin trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp theo mô hình chính phủ
điện tử mà các cấp, ngành hành chính của chúng ta đang theo đuổi thực hiện.
3.4.3. Bổ sung một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp viễn
thông xúc tiến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hiện nay, các chính sách của nhà nước ta trong lĩnh vực Công nghệ
Thông tin - Viễn thông còn thiếu đồng bộ nhất là các chính sách ưu đãi về
thuế cho doanh nghiệp, chính sách ủng hộ hàng nội địa, chính sách phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Các doanh nghiệp cũng khẳng định tầm quan
102
trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường nghiên cứu
của tư nhân có liên quan tới các vai trò của nhà nước. Các doanh nghiệp công
nghệ thông tin Việt Nam luôn mong muốn có sự hỗ trợ về thuế và sự quan
tâm đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu tư nhân. Vì thế em xin đưa ra một số
kiến nghị sau:
Nhà nước cần hỗ trợ thêm nguồn vốn đầu tư cho cho các dự án về viễn
thông thực hiện ở nước ngoài mà có tác động tới sự phát triển kinh tế, mối
quan hệ hữu nghị của nước ta, những dự án này có thể sẽ được vay vốn của
nhà nước thông quan ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam với mức vay
tối thiểu là 30% tổng số vốn đầu vào dự án với lãi suất ưu đãi. Nhưng đối với
các dự án đầu tư về viễn thông tại Campuchia, Lào thì chính phủ cần bảo lãnh
vay vốn tại các ngân hàng thương mại trong nước với mức vay được phép quả
15% vốn điều lệ của Ngân hàng này cho vay.
3.4.4. Xây dựng mối quan hệ giao lưu hợp tác giữa Việt Nam với các
nước mạnh về viễn thông trên thế giới
Khi bước chân ra nước ngoài, Viettel gặp phải rất nhiều khó khăn lớn
như Viettel đã muộn hơn các Tập đoàn viễn thông lớn trên thế giới từ 10- 20
năm và còn rất non trẻ về kinh nghiệm đầu tư, phát triển mở rộng mạng lưới
viễn thông. Chính vì vậy Nhà nước ta cần mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác
với các nước mạnh về lĩnh vực viễn thông như Thụy Điển, Thái Lan, Nauy.
để tạo điều kiện cho Viettel có thể học tập kinh nghiệm, trao đổi kiến thức về
viễn thông để rút ra các kinh nghiệm học hỏi áp dụng vào chính việc mở rộng
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Viettel. Ngoài ra, khi giao lưu với các quốc
gia đó sẽ xây dựng được mối quan hệ truyền thống đoàn kết hữu nghị với các
nước đó, tạo ra tiềm năng hợp tác to lớn cũng chính là động lực để mối quan
hệ giữa Việt Nam và các nước đó có những bước tiến mới trên cơ sở tăng
cường hợp tác đoàn kết hữu nghị với nhau nói chung, hỗ trợ nhau cùng phát
103
triển vì lợi ích của dân tộc và hòa bình thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 của luận văn đã đề cập đến những yếu tố bên trong và bên
ngoài tác động đến hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Tập
đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel. Từ những yếu tố đó, luận văn
đã chỉ ra 5 phương hướng tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn. Đồng thời, luận văn đã đề xuất
6 nhóm giải pháp tập trung vào các nội dung sau: (1) Hoàn thiện chiến lược
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; (2) Kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài; (3) Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; (4) Nâng
cao hiệu quả thực hiện dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; (5) Nâng cao hiệu
quả kiểm tra, giám sát trong quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; (6) Tăng
cường hợp tác với các tổ chức của Việt Nam trong và ngoài nước. Ngoài ra,
luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước, Quốc hội và các cơ
quan chức năng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên
104
quan đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
KẾT LUẬN
Sau gần 15 năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Viettel đã nhận được
những kết quả đáng khích lệ. Năm 2020, tổng số khách hàng của Viettel tại các
thị trường đạt mức xấp xir 40 triệu, nâng số lượng khách hàng toàn cầu của
Viettel lên 120 triệu, giúp Viettel lọt top 30 Tập đoàn viễn thông có số lượng
khách hàng lớn nhất thế giới. Kết quả đáng khích lệ đó đến từ chiến lược tập
trung mở rộng quy mô thị trường, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, thu hút
khách hàng ở những thị trường mật độ thấp và các dịch vụ gia tăng, ứng dụng
trên di động cho những thị trường đã bão hòa - yếu tố quyết định thành công
trong kinh doanh viễn thông của Viettel trong những năm vừa qua. Các mạng
viễn thông của Viettel tại nước ngoài đều nhanh chóng giữ vị trí số 1 tại các thị
trường, 7/9 thị trường đang kinh doanh đã có lãi sau 3 năm, giúp Viettel thu về
gần 800 triệu đô la Mỹ, tương đương 40% tổng đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu thu được, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của Viettel còn những hạn chế như tiềm lực tài chính và kinh
nghiệm, việc chiếm lĩnh thị phần đầu tư kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn.
Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, như Viettel không có
nhiều lợi thế cạnh tranh so với doanh nghiệp viễn thông các nước, nguồn
nhân lực còn nhiều hạn chế, ....
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng như
hiện nay, thị trường viễn thông trong nước đang cạnh tranh khốc liệt và đến
ngưỡng bão hòa thì việc Viettel lựa chọn đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm
cơ hội, mở rộng thị trường, tận dụng lợi thế so sánh để duy trì tốc độ tăng
trưởng, phát triển là chiến lược hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, quá trình này
không hề đơn giản bởi các rào cản vô hình hay hữu hình đến từ môi trường
105
kinh doanh quốc tế luôn xuất hiện và biến đổi khôn lường. Muốn thành công
tại thị trường nước ngoài thì Viettel phải luôn tạo ra sự khác biệt cả về suy
nghĩ, hành động so với các đối thủ và nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh
từ thị trường mang lại. Đó là yếu tố quan trọng giúp Viettel không chỉ duy trì
106
mà còn nhằm nâng cao thành tích kinh doanh hiện tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu Tiếng Việt
1. Đinh Văn Ân (2009), Năng lực cạnh tranh và tác động của tự do hóa
thương mại ở Việt Nam: Ngành Viễn thông. Đề tài Khoa học công nghệ
cấp Nhà nước VIE/02/009.
2. Phạm Trương Mỹ Chi (2013), Chiến lược kinh doanh dịch vụ thông tin di
động tại Trung tâm thông tin di động khu vực III (VMS- III). Luận văn
thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng.
3. Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Thủ tục đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài và tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam tại Nga. Cần Thơ.
4. Nguyễn Hải Đăng (2012), Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước
ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án tiến sĩ Kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Ánh Điệp, Báo cáo tổng hợp: Giới thiệu tổng quát về tổng
công ty Viễn thông Quân Đội (Viettel) và Công ty Viễn thông Quân Đội
(Viettel Telecom). Hà Nội.
6. Nguyễn Duy Đức (2008), Đầu tư phát triển tại Tổng công ty viễn thông
Quân đội. Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế,
Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Phan Huy Đường (2011), Quản lý kinh tế. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
8. Phạm Thị Minh Hà (2012), Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các nước
đang phát triển. Luận văn thạc sĩ trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
9. Quách Thị Ngọc Hà (2015), Văn hóa doanh nghiệp của Viettel trong giai
đoạn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn thạc sĩ quản trị kinh
107
doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Hà Văn Hội, (2007), Hội nhập WTO, những tác động đến ngành Bưu
chính viễn thông và công nghệ thông tin Việt Nam. Nhà xuất bản Bưu
điện, Hà Nội, 2007.
11. Nguyễn Thị Huyền (2015), Chiến lược kinh doanh của Tập đoàn Viễn
thông Quân đội Viettel. Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Trường Đại
học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), “Đầu tư ra nước ngoài - hướng đi và cách
làm mới nâng cao khả năng cạnh tranh của Viettel”. Tạp chí Kinh tế và
Dự báo, số 10, 2009.
13. Nguyễn Thị Hường (2011), Giáo trình quản trị doanh nghiệp FDI. Nhà
xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
14. Trần Đăng Khoa (2007), Phát triển ngành viễn thông Việt Nam đến năm
2020. Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh.
15. Nguyễn Việt Khôi (2014), Chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên
quốc gia: Những tiếp cận thực tiễn từ Trung Quốc. Hà Nội, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Đức Kiên (2011), Năng lực cạnh tranh của công ty Viettel
Campuchia - Những bài học kinh nghiệm, Luận văn Thạc sĩ.
17. Nguyễn Thị Hương Lan (2007), Năng lực cạnh tranh của dịch vụ viễn
thông Việt Nam. Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Khoa Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
18. Đỗ Hoàng Long (2006), Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
19. Tạ Lợi (2016), Giáo trình kinh doanh quốc tế. Nhà xuất bản Đại học Kinh
108
tế Quốc dân.
20. Phùng Xuân Nhạ (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Lý
luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Hoàng Thị Nhẫn (2011), Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông di động
tại Công ty Thông tin viễn thông Điện lực - EVN Telecom. Luận văn thạc
sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Việt
Nam.
22. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2010), Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án tiến sĩ
kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
23. Hà Phương (2008), “Thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài để chủ động hơn với
thế giới”. Tạp chí Nghiên cứu và Dự báo, số 16, 2008.
24. Bùi Xuân Phong (2006), Giáo trình “Quản trị, kinh doanh doanh nghiệp
viễn thông”. Nhà xuất bản Bưu điện.
25. Nguyễn Thị Kiều Oanh (2017), “Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí tài chính số ra ngày 16/7/2017.
26. Nguyễn Phương Thảo (2010), Đề xuất chiến lược marketing hỗn hợp của
Viettel cho thị trường Haiti. Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế,
Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Đỗ Huy Thưởng (2015), “Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung
Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 31, Số 4 (2015) 30-38.
28. Nguyễn Thu Thủy (2012), Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty viễn
thông Viettel trong cung cấp dịch vụ điện thoại di động. Luận văn thạc sĩ
quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
29. Vũ Đình Tích (2007), “Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào:
hiện trạng và triển vọng”, Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế-xã hội, số
109
19, 7/2007.
30. Mẫn Mạnh Tuấn (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Tập đoàn Viễn
thông Quân đội Viettel tại Mozambique. Luận văn thạc sĩ kinh tế đối
ngoại, Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Tý (2011), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Việt Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
32. Phùng Anh Vũ (2017), “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu A, số 2- 2017, tr 49- 56.
B. Tài liệu Tiếng Anh
33. Aizenman, J and Noy, I, 2006. “Examination of U.S. inbound and
outbound Direct Investment”.
34. Akamatsu Kaname, 1962. “A historical pattern of economic growth in
developing countries”. Journal of Developing Economies, 1(1):3-25,
März-August 1962.
35. Anupan Basu and Krishna Srininasan, Foreign Direct Investment in Afica
- Some case studies, International Monetary Fund, 2002.
36. Bethuel A. Kiplagat, Marcel C. M. Werner, 2007. Telecommunications
and Development in Africa, IOS Press Publication, Netherlands, 2007.
37. Charles Aloo, 1988. “Development of Telecomunications Infrastrucyure
in Africa: Network Evolution, Present Status and Future Development”,
Africa Media Review Vol. 2 No. 3 1988.
38. David N. Figlio , Bruce A. Blonigen, 1999. “The Effects of Direct Foreign
Investment on Local Communities”, NBER Working Paper No. 7274
Issued in July 1999.
39. Deloitte & Touche, 2014. The future of Telecoms in Africa, The
“Blueprint for the brave”.
40. Douglas Hotlz Eaki và cộng sự, 2005. “Why Does U.S. Investment Abroad
110
Earn Higher Returns Than Foreign Investment in the United States?”.
41. Eli M. Noam, 1999. Telecommunications in Africa, Oxford University
Press, 1999.
42. Fukao, K., Ishido, H., andIto, K., 2003. "Vertical Intra-industry Trade and
Foreign Direct Investment in East Asia". Journal of Japanese and
International Economies, 17 (2003), pp. 468-506.
43. G.A. Alabi, 1996. Telecommunications in Nigeria. University of
Pennsylcania - African Studies Center.
44. James Alleman, 1994. Telecommunications and Economic Development:
Empirical Evidence from Southern Africa. Interdisciplinary Telecommun
ications Program, University of Colorado.
45. Li va Liu, 2005. “Foreign Direct Investment and Economic Growth: An
Increasingly Endogenous Relationship”. World Development, 2005, vol.
33, issue 3, 393-407.
46. Marcela Meirelles Aurelio, 2006. “Going Global: The Changing Pattern
of U.S. Investment Abroad”.
47. Mostafa H. Sherif, 2006. Managing projects in Telecommunication
services. John Wiley & Sons Inc. Publication, USA, 2006.
48. OECD, 2008. The Social Impact of Foreign Direct Investment.
49. Raymond Vernon, 1966. “International Investment and International
Trade in the Product Cycle”. Quarterly Journal of Economics. 80 (2):
190-207.
III. Văn bản quy phạm pháp luật
50. Luật Đầu tư số 61/2020/QH14.
51. Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
52. Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ
quy định về đầu tư ra nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 25/9/2015; hết hiệu
111
lực từ ngày 01/01/2021).
53. Nghị định số 124/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Chính
phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí.
54. Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực
hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài (có hiệu lực ngày 01/12/2018; hết hiệu
lực ngày 01/01/2021).
55. Thông tư số 09/2019/TT-BKHĐT ngày 29 tháng 7 năm 2019 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều khoản
của Thông tư liên quan đến đến chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi
quản lý nhà nước và hệ thống thông tin báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư.
56. Thông tư số 03/2021/TT-BKHĐT ngày 09 tháng 4 năm 2021 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định mẫu văn bản, báo cáo liên quan
đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam, đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài và
112
xúc tiến đầu tư.