BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .................../................... ........../..........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU VINH

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .................../................... ........../..........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU VINH

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO ĐĂNG KIÊN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, đề tài “Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã

trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh” là công trình nghiên cứu

khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hữu Vinh

LỜI CẢM ƠN

Sau 02 năm học tập, tôi đã hoàn thành chương trình đào tạo cao học

chuyên ngành Quản lý công. Tôi đã tiến hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài

“Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh

Tây Ninh” . Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn,

lời đầu tiên tôi xin chân thành biết ơn sâu sắc đến Hội đồng Khoa học thuộc

Học viện hành chính quốc gia, các thầy giáo, cô giáo đã trang bị những kiến

thức quý báu và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận

văn này.

Đặc biệt tôi xin trân trọng và bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Đào Đăng

Kiên người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đóng góp nhiều ý kiến

quan trọng và sâu sắc, giúp cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, lãnh đạo Văn phòng HĐND-UBND

huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng

Kinh tế-Hạ tầng, Chi cục Thống kê huyện Hòa Thành và các xã, thị trấn trên

địa bàn huyện đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cộng tác để giúp tôi hoàn thành

luận văn này. Luận văn này được hoàn thành bởi sự cố gắng, nỗ lực của bản

thân, nhưng do khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên không

thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, tôi rất mong nhận được

những ý kiến đóng góp quý báo của quý thầy, cô và các bạn học để giúp tôi

hoàn thành tốt hơn công trình nghiên cứu của mình.

Xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hữu Vinh

MỤC LỤC

trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .........................................................................................................1

Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ

CẤP XÃ..........................................................................................................12

1.1. Các khái niệm có liên quan....................................................................12

1.1.1. Chính quyền cấp xã....................................................................12

1.1.2. Kinh tế cấp xã.............................................................................13

1.1.3. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã…......................................13

1.2. Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã......................................................14

1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.........................14

1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã...........................15

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.......................17

1.3. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã......................27

1.3.1. Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.....................27

1.3.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp

xã.....................................................................................................................28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP

XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH...........31

2.1. Tổng quan về huyện huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.....................31

2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Hòa

Thành, tỉnh Tây Ninh.....................................................................................31

2.1.2 Tác động của đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đến quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã

trên địa bàn huyện..........................................................................................32

2.2. Thực trạng quản lý Nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện

Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh............................................................................34

2.2.1. Đánh giá về thực hiện nội dung quản lý nhà nước về kinh tế

cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh................................34

2.2.2. Đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên

địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh....................................................49

2.3. Đánh giá chung công tác quản lý Nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa

bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.........................................................60

2.3.1 Những kết quả đạt được.............................................................60

2.3.2 Hạn chế, thiếu sót........................................................................62

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH................................................65

3.1. Định hƣớng, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nƣớc về kinh tế trong

thời gian tới....................................................................................................65

3.1.1 Định hướng của Đảng về quản lý nhà nước nói chung và quản

lý nhà nước về kinh tế cấp xã nói riêng........................................................65

3.1.2 Mục tiêu, yêu cầu........................................................................67

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về kinh tế

cấp xã..............................................................................................................69

3.2.1. Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật.....................................69

3.2.2. Khắc phục tình trạng trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên,

khuyến khích tính chủ động trong quản lý nhà nước về kinh tế.................73

3.2.3. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện

nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã..............................................79

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà

nước về kinh tế cấp xã....................................................................................82

3.2.5. Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho

hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.............................................85

3.2.6. Kinh nghiệm thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước về

kinh tế có thể áp dụng tại địa phương...........................................................86

3.3. Kiến nghị.................................................................................................88

3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ.................................................88

3.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện...................................88

KẾT LUẬN....................................................................................................91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................93

DANH MỤC CÁC BẢNG

2.1

2.2

2.3

2.4

2.5

Cơ sở hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện Trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức xã Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức xã Trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức xã Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức xã

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài

Chính quyền cơ sở cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là cấp

hành chính bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân

dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những chủ

trương, giải pháp lớn của địa phương, thực hiện chức năng giám sát toàn diện.

Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện

chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực về kinh tế-văn hóa xã hội-quốc

phòng an ninh.

Ủy ban nhân dân cấp xã là chủ thể điều hành và thực hiện các giải pháp

nhằm ổn định, duy trì và phát triển tình hình kinh tế-văn hóa xã hội-quốc

phòng an ninh tại địa phương, hay nói cách khác Ủy ban nhân dân cấp xã là

cơ quan trực tiếp tổ chức, triển khai và thực hiện các chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp trên, đồng thời thông

qua hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân có thể phản ánh được kết quả,

hiệu lực thực thi các chủ trương, đường lối, chính sách đó. Do đó, vấn đề làm

sao để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tổ chức điều hành tốt công việc

thực tiễn tại địa phương, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất là vấn đề quan trọng

hiện nay.

Cấp xã là cấp trực tiếp liên hệ và tiếp xúc với Nhân dân, là cầu nối giữa

Đảng, Nhà nước với Nhân dân, là nơi gần dân, sát dân nhất, cũng chính là cấp

trực tiếp tiến hành tiếp nhận và giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng chính

đáng của Nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay nội dung tổ chức thực thi và thực

hiện chủ trương, chính sách vẫn là khâu còn hạn chế trong hoạt động của cấp

cơ sở. Riêng hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã, nhất là

quản lý nhà nước về kinh tế lại càng bộc lộ rõ hơn những yếu kém của mình,

nguyên nhân có thể xuất phát từ sự thiếu kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thường

xuyên, kịp thời từ cấp trên, từ thể chế quy định về tổ chức, hoạt động, nhiệm

vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã còn

2

thiếu sót hoặc từ ý chí chủ quan của người trực tiếp chỉ đạo, điều hành công

việc.

Hòa Thành là huyện nội địa thuộc tỉnh Tây Ninh, diện tích tự nhiên của huyện là 82,92 km2, đơn vị hành chính gồm Thị trấn Hoà Thành và 7 xã (Hiệp

Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam, Trường Đông,

Trường Hoà, Trường Tây). Dân số toàn huyện năm 2016 là 145.809 người.

Có Trung tâm Thương mại Long Hoa nằm trên cửa ngõ giao thông giữa Tây

Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh; Tòa Thánh Cao Đài thuộc huyện Hòa

Thành là một địa điểm du lịch, hành hương khá nổi tiếng với các hoạt động lễ,

tết diễn ra hàng năm thu hút trên 100.000 lượt khách tham quan, là đầu mối

lưu thông hàng hóa giữa các huyện trong tỉnh, chính vì thế đòi hỏi huyện phải

thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về kinh tế.

Do đó, làm sao để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế của

các xã, thị trấn, tạo được sự nhạy bén, thông thoáng về môi trường đầu tư,

đảm bảo về an ninh chính trị trật tự, an toàn xã hội, chăm lo tốt về an sinh xã

hội là nhiệm vụ quan trọng của huyện Hòa Thành trong giai đoạn hiện nay.

Với đặc thù là cửa ngõ lưu thông hàng hóa trong và ngoài tỉnh, tốc độ phát

triển kinh tế thời gian qua trên địa bàn huyện tương đối nhanh so với các

huyện trong tỉnh, việc tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện là nhu cầu cấp thiết cho sự phát triển trong

tình hình hiện nay.

Xuất phát từ những thực tiễn nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Quản

lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh” làm luận văn tốt nghiệp cao học quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực

quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế

tại các cấp chính quyền hiện nay ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần quan

tâm, nhiều hạn chế, bất cập còn tồn tại, chưa đáp ứng tốt yêu cầu vận hành

3

trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu quản lý nhà nước về kinh tế góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý được nhiều tác giả chú trọng. Hiện nay nổi

lên một số công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận văn, tiêu biểu

có các công trình như sau:

Một là, các công trình đã công bố và đƣợc in thành sách

-Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước trên các lĩnh

vực kinh tế, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Giáo trình hệ

thống hóa khoa học quản lý nhà nước về kinh tế trên các lĩnh vực dự án đầu

tư, doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế. Tổng quan lý luận chung quản lý

nhà nước về kinh tế, sự vận động của nền kinh tế thị trường với các qui luật

cơ bản: cung cầu, cạnh tranh và giá trị; hệ thống mục tiêu, quan điểm của

Đảng và nhà nước trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế; các

nguyên tắc, phương pháp và công cụ trong quản lý nhà nước về kinh tế. Cụ

thể hóa các cách thức quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế như: quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp, đối với dự án đầu tư và Hội nhập kinh tế quốc

tế. Đây là tài liệu hữu ích có tính định hướng cho nghiên cứu của luận văn.

-Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2010), Quản lý nhà nước về kinh tế,

Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Giáo trình có 04 chương, cung cấp cho sinh

viên những nội dung chủ yếu: tổng quan, qui luật; nguyên tắc, công cụ;

phương pháp, mục tiêu và chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Ưu điểm

và nhược điểm của nền kinh tế thị trường, cách thức tác động của nhà nước

vào nền kinh tế thị trường. Giáo trình có nhiệm vụ cung cấp cho sinh viên

những kiến thức lý luận, khái quát cơ bản, có tính hệ thống của một bộ môn

khoa học về Nhà nước, quản lý nền kinh tế quốc dân của Nhà nước. Nội dung

giáo trình nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, hiện đại ở

Việt Nam trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế. Giáo trình là tài liệu

khoa học nêu rõ khái niệm quản lý; quản lý nhà nước về kinh tế; quản lý nhà

nước về ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về

4

kinh tế và quyết định, hiệu quả quản lý kinh tế. Đây là tài liệu tham khảo có

ích cho luận văn.

-Nguyễn Đăng Thành (2012), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý

hành chính nhà nước những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam,

Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Nội dung sách chuyên khảo luận bàn về

những lý luận, khái niệm về đo lường và đánh giá hiệu quả với các tiêu chí

đánh giá hiệu quả, những kinh nghiệm đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý

nhà nước của một số nước trên thế giới và khả năng ứng dụng vào quản lý

nhà nước ở Việt Nam. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích vừa có tính lý luận và

thực tiễn, vừa có tác dụng định hướng về hiệu quả quản lý nhà nước cho nội

dung luận văn nghiên cứu.

-Lê Sỹ Thiệp (2014), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản Thống

kê, Hà Nội. Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế do GS,TS Lê Sỹ Thiệp

biên soạn có cấu trúc nội dung được trình bày gồm 2 phần: Phần 1-Những vấn

đề lý luận chung về quản lý nhà nước về kinh tế, trong phần này tác giả hệ

thống hóa kiến thức quản lý nhà nước về kinh tế mang tính lý luận, lý giải và

làm rõ thuật ngữ kinh tế; nguồn gốc và quá trình hình thành tư duy quản lý

kinh tế, nguyên lý kinh tế; quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền

kinh tế, vai trò và sự cần thiết quản lý nhà nước về kinh tế. Phần 2-Quản lý

nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế cụ thể, trong phần này tác giả đi sâu làm

rõ cách thức quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế cụ thể; chức năng,

nhiệm vụ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường; các nguyên tắc, phương

pháp và công cụ quản lý của nhà nước nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn

lực của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay ở

nước ta.

Hai là, các đề tài nghiên cứu cấp Bộ

-Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Nghiên cứu và phân cấp quản lý Nhà

nước về đầu tư công ở Việt Nam, Hà Nội. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân

5

tích thực trạng phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam từ năm 2000 đến

nay, qua đó tìm ra những bất cập và nguyên nhân nhằm đề xuất những quan

điểm, giải pháp định hướng góp phần thúc đẩy công tác đổi mới phân cấp

quản lý hiện nay ở Việt Nam.

Xu hướng phân cấp quản lý nhà nước nói chung và phân cấp quản lý về

đầu tư công nói riêng đang ngày càng mạnh mẽ. Nhìn chung, chủ trương phân

cấp quản lý nhà nước là đúng đắn và phù hợp với xu thế chung. Chủ trương

này đã thực sự góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đầu tư công,

tăng cường tính tự chủ, sáng tạo của chính quyền địa phương, là cơ sở cho

việc triển khai cải cách thủ tục hành chính và trực tiếp góp phần cải thiện môi

trường đầu tư của Việt Nam. Tuy vậy, việc phân cấp quản lý đầu tư công một

cách toàn diện, triệt để cho các Bộ, ngành và địa phương như hiện nay cũng

đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Thực tế cho thấy tình trạng đầu tư công bị

phê phán là kém hiệu quả, dàn trải, lãng phí, thất thoát trong nhiều năm qua

chính là hệ lụy của những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện phân cấp

quản lý nhà nước về đầu tư công.

Kinh nghiệm quốc tế trong phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư cho

thấy muốn quá trình phân cấp đầu tư công diễn ra thành công phải tuân thủ

một số nguyên tắc cơ bản, đó là: phân cấp phải phù hợp với năng lực (bộ máy,

con người, tiềm lực tài chính,..), phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã

hội; phân cấp tài khóa phải tương ứng với nhiệm vụ chi,…Ngoài ra, tăng

cường phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công từ chính quyền trung ương

cho chính quyền địa phương cần phải gắn liền với việc phải thiết lập bộ máy

chính quyền trung ương đủ mạnh, có khả năng giám sát việc thực hiện của

chính quyền cấp dưới; phải có hệ thống pháp luật về đầu tư công hoàn chỉnh,

cùng với cơ chế phát huy hiệu quả tinh thần dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi

cho người dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội tham gia giám sát hoạt động

quản lý nhà nước về đầu tư công.

6

-Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Đổi mới quản lý nhà nước đối với các

loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần

kinh tế, Hà Nội. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản

lý nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng thống nhất không phân biệt

thành phần kinh tế; xác định các nội dung chính của quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp nhằm hình thành nội dung và cơ chế

quản lý nhà nước thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp. Đề tài gồm 03

chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước thống

nhất đối với các loại hình doanh nghiệp. Chương này tập trung làm rõ một số

vấn đề lý luận như: các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam xét từ đặc điểm

pháp lý và sở hữu có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước; quan niệm về quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường; quan

niệm, đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt

thành phần kinh tế; vai trò của Nhà nước, mục tiêu và nguyên tắc xác định nội

dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; nội dung quản lý nhà nước đối

với doanh nghiệp và quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt thành phần

kinh tế; phân biệt quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; một số kinh

nghiệm quản lý của nước ngoài. Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước đối

với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Chương này tập trung phân tích

thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp không phân biệt thành phần

kinh tế trên các khía cạnh: khung pháp lý của các doanh nghiệp; bộ máy quản

lý nhà nước đối với doanh nghiệp; việc tách bạch chức năng quản lý của chủ

sở hữu với chức năng quản lý nhà nước...Phân tích tại chương này cho biết

quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đã có những đổi mới trong thời gian

gần đây. Chương III: Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quản

lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không

phân biệt thành phần kinh tế. Chương này đề xuất quan điểm, mục tiêu đổi

mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; tập trung phân tích, đề xuất 06

7

nhóm giải pháp (nội dung quản lý nhà nước cần thể chế hoá; hoàn thiện

khung khổ pháp luật; bảo đảm hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước; giải

pháp về cơ chế, chính sách; tách bạch quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở

hữu; đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp).

Ba là, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ quản lý nhà nƣớc về kinh tế

-Đào Viết Hiền (2005), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sỹ,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án hệ thống các khái

niệm cơ bản về nền kinh tế thị trường, những ưu thế và khuyết tật của nền

kinh tế thị trường; vai trò, sự cần thiết quản lý nhà nước về kinh tế; những

tiêu chí về hiệu lực, kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong quản

lý nhà nước về kinh tế. Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu lực quản lý nhà

nước về kinh tế trong thời kỳ đổi mới, những vấn đề đang đặt ra, nguyên nhân

của những hạn chế, quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà

nước về kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Luận án có tính khái quát hóa cao về lý

luận và thực tiễn về hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế trong sự nghiệp đổi

mới từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa.

-Dương Thị Lan Chi (2007), Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp

xã ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà

Nội. Đề tài đề cập đến thực trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của chính

quyền cấp xã, nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn,

vướng mắc trong quá trình phối hợp, điều hành hoạt động của chính quyền

địa phương, tuy nhiên đề tài vẫn chưa phân tích sâu về nội dung quản lý nhà

nước, nhất là quản lý nhà nước về kinh tế.

-Trần Văn Hiệp (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân

dân cấp xã ở tỉnh Hậu Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc

gia, Hà Nội. Đề tài phần lớn đề cập đến cách thức hoạt động, phương pháp

quản lý, điều hành của chính quyền địa phương, những bất cập trong vấn đề

8

hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã, từ đó đề xuất những giải pháp góp

phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của cấp chính quyền địa phương. Hạn chế

của đề tài là đề cập những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào quản lý nhà nước

về kinh tế của chính quyền cấp xã.

-Hoàng Thị Dung (2016), Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt của

chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học

viện Hành chính Quốc gia. Đề tài chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân sự nhất là

đội ngũ cán bộ chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước cấp xã, công tác

tổ chức, điều hành về nhân sự trong cơ quan hành chính, nhất là chính quyền

cấp xã thời gian qua đã đạt được những kết quả thiết thực, từng bước đem lại

hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời kiến nghị

một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới. Hạn

chế của luận văn là chưa phân tích sâu về công tác quản lý của chính quyền

cấp xã, nhất là quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn.

-Nguyễn Văn Sỹ (2016), Hoạt động của chính quyền cấp xã từ thực

tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính

Quốc gia, Hà Nội. Đề tài cung cấp kinh nghiệm trong cách thức hoạt động,

phương pháp quản lý của chính quyền địa phương nhằm đạt hiệu quả, mang

tính khả thi, góp phần đề cao vai trò quan trọng trong giải quyết các thủ tục

hành chính tại địa phương. Tuy nhiên, đề tài đề cập đến quản lý nhà nước về

kinh tế trên địa bàn xã không nhiều, chủ yếu về thủ tục hành chính.

Nhìn chung, các đề tài luận văn, luận án trên chủ yếu nhấn mạnh đến

cách thức tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã; hiệu quả quản lý và

điều hành của chính quyền địa phương trong tình hình hiện nay mà chưa đề

cập, nhấn mạnh về hiệu quả quản lý kinh tế của chính quyền địa phương. Bên

cạnh đó có rất nhiều bài báo, đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu về hoạt

động quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền cấp xã. Các công trình

nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định trong việc cung cấp nền tảng lý

9

luận chung quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền cấp xã trong phạm vi

cả nước nói chung và huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh nói riêng.

Tuy nhiên việc nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về kinh tế tại

huyện Hòa Thành cho đến nay vẫn chưa có công trình nào được tiến hành. Do

đó, với nhiệm vụ đặt ra là phải đi sâu nghiên cứu về thực trạng, hiệu quả hoạt

động thiết thực của công tác quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là vấn đề

quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới phát triển như hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1 Mục đích

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ khung lý thuyết, phân tích

thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã và đề ra giải pháp để nâng cao

hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,

tỉnh Tây Ninh.

3.2 Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của đề tài bao

gồm:

+Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về kinh tế; quản lý nhà

nước về kinh tế cấp xã.

+Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên

địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

+Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế

cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh

Tây Ninh.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

+Về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về

kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

10

+Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh.

+Về thời gian nghiên cứu: Năm 2014-2016. Tầm nhìn đến năm 2025.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1 Phƣơng pháp luận

Việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài trên quan điểm của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ

trương, chính sách của Đảng và nhà nước về quản lý nhà nước, quản lý nhà

nước về kinh tế.

5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu

-Phương pháp thu thập thông tin:

+Thông tin thứ cấp: Được thu thập qua các nghiên cứu, báo cáo đã

được công bố như: sách, giáo trình của Học viện Hành chính Quốc gia, các đề

tài cấp Bộ, các bài báo trên các tạp chí, kỉ yếu Hội thảo khoa học, luận án tiến

sĩ, luận văn thạc sĩ, các báo cáo, thông tin của Phòng Kinh tế-Hạ tầng, Phòng

Tài chính-Kế hoạch, Phòng Nội vụ và số liệu thống kê của UBND huyện Hòa

Thành, tỉnh Tây Ninh.

+Thông tin sơ cấp: Được thu thập qua các cuộc trao đổi, tham khảo ý

kiến của người dân, các chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học liên quan đến

nội dung quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về kinh tế.

-Phương pháp xử lý thông tin: Thông qua các phương pháp phân tích,

so sánh, tổng hợp, đối chiếu, suy luận,…một cách có hệ thống và khoa học.

Phần mềm phân tích sử dụng chủ yếu là Excel.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa về lý luận

Thứ nhất, Xây dựng khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế và

quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã. Theo đó, luận văn làm rõ được nội hàm

của các khái niệm quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về kinh tế và nội dung

quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.

11

Thứ hai, Phân tích, đánh giá một cách khoa học thực trạng hoạt động

quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh. Đồng thời, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân

của những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên

địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

6.2. Ý nghĩa về thực tiễn

Thứ nhất, Chỉ ra những hạn chế, bất cập của công tác quản lý nhà nước

về kinh tế trên địa bàn huyện Hòa thành, tỉnh Tây Ninh. Từ đó, đề xuất một

hệ thống các giải pháp đồng bộ góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh

tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Thứ hai, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh,

sinh viên, các nhà quản lý ở địa phương và những ai quan tâm đến đề tài luận

văn nghiên cứu.

7. Kết cấu của Luận văn

Luận văn được kết cấu gồm các phần mở đầu, nội dung chính, kết luận,

tài liệu tham khảo và 3 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

12

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ

1.1 Các khái niệm có liên quan

1.1.1. Chính quyền cấp xã

Khái niệm chính quyền cấp xã: Chính quyền cấp xã được hiểu là chính

quyền địa phương ở xã, là hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở

địa bàn các xã, thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở

xã; bao gồm 02 hệ thống cơ quan: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương

(HĐND xã), cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (UBND xã).

Đặc điểm của chính quyền cấp xã:

Một là, chính quyền cấp xã là loại chính quyền điển hình và phổ biến ở

Việt Nam.

Hai là, chính quyền cấp xã là chính quyền gần với cộng đồng dân cư

nhất, do vậy, tổ chức và hoạt động vừa phải đảm bảo tính hệ thống, nhất quán

vừa phải phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương.

Ba là, chính quyền cấp xã là chủ thể quan trọng trực tiếp tổ chức thực

hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước

đến với Nhân dân.

Bốn là, chính quyền cấp xã có bộ máy đơn giản nhất, có tính chuyên

môn hóa không cao, chịu sự tác động từ Nhân dân rất lớn.

Năm là, chính quyền cấp xã chịu nhiều tác động từ quan hệ dòng họ,

làng mạc và văn hóa làng xã.

Vai trò và địa vị pháp lý của chính quyền cấp xã: vai trò và địa vị pháp

lý của chính quyền cấp xã cần được nhìn nhận trong cả hệ thống chính quyền

nhà nước và trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở:

Một là, hiện thực hóa đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng.

Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân thực hiện có

hiệu quả quyền làm chủ thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã.

13

Chính quyền cấp xã trong hệ thống chính quyền nhà nước:

Một là, các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật muốn đi vào

cuộc sống phải thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã, phải được thực

hiện ở xã thành phong trào hành động của Nhân dân, thông qua những sáng

kiến và nỗ lực của Nhân dân.

Hai là, chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là nơi trực

tiếp tổ chức và điều hành các hoạt động quản lý, các công việc hành chính ở

cơ sở và trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật ở xã, phường, thị trấn.

Ba là, chính quyền cấp xã có vai trò quan trọng trong việc phát triển

của địa phương về mọi mặt. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

Nhân dân tại địa phương.

1.1.2 Kinh tế cấp xã

Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện vật chất của đời

sống con người và các mối quan hệ vật chất giữa con người với con người

trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất

định mà mấu chốt là vấn đề sở hữu và vấn đề lợi ích.

Như vậy, kinh tế cấp xã là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau

giữa cá nhân, tổ chức và chính quyền cấp xã, liên quan trực tiếp đến việc sản

xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ

diễn ra trên địa bàn xã, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người

nhất định.

1.1.3 Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

Là các hoạt động kinh tế được thực hiện trên địa bàn cấp xã chịu sự tác

động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực của nhà nước đối với các quá

trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do chính phủ và các cơ quan

hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở (UBND các cấp) tiến hành để

thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước nhằm duy trì và phát

triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật về kinh tế, thỏa mãn nhu

cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

14

1.2 Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

1.2.1 Chủ thể quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã

Khái niệm chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế: chủ thể quản lý nhà

nước về kinh tế là cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương

thực hiện nhiệm vụ, chức năng quản lý đối với các hoạt động kinh tế trong

nền kinh tế quốc dân. Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã là Hội

đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Theo Điều 8, Luật tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015 quy định: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân

cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành

chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương,

Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy

ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định”.

Như vậy, về cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm: Chủ

tịch và các Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân. Theo Nghị định số 08/2016/NĐ-

CP, ngày 25 tháng 01 năm 2016 quy định về số lượng tối đa Phó Chủ tịch Ủy

ban nhân dân ở các đơn vị hành chính: “Ủy ban nhân dân xã đồng bằng,

trung du có dân số 8.000 người trở lên gồm có 01 chủ tịch, 02 phó chủ tịch,

02 ủy viên”. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách chung, khối nội chính, quy

hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; Phó Chủ tịch phụ trách khối kinh

tế chịu trách nhiệm về lĩnh vực tài chính, địa chính, giao thông nông thôn, tài

nguyên môi trường và các lĩnh vực khác; Phó Chủ tịch phụ trách khối văn

hóa-xã hội chịu trách nhiệm về lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, lao động

thương binh xã hội và các lĩnh vực khác; 02 ủy viên Ủy ban nhân dân xã, 01

ủy viên phụ trách công an và 01 ủy viên phụ trách quân sự. Ở cấp xã không

thành lập cơ quan chuyên môn mà chỉ có công chức chuyên môn giúp Ủy ban

nhân dân giải quyết công việc trên từng lĩnh vực.

Ngoài những công chức trực tiếp đảm trách từng lĩnh vực công việc

được phân công theo Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05 tháng 12 năm

15

2011 “quy định về công chức xã, phường, thị trấn”, gồm 07 chức danh: văn

phòng-thống kê, tư pháp-hộ tịch, địa chính-nông nghiệp-xây dựng và môi

trường, văn hóa-xã hội, tài chính-kế toán, công an, quân sự, còn có một số

chức danh là những người hoạt động không chuyên trách tham mưu cho Ủy

ban nhân dân giải quyết các công việc của địa phương như: cán bộ giao thông

– nông thôn – thủy lợi, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ quỹ, cán bộ đội thuế,

cán bộ đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa…Công chức ở từng chức danh

tùy thuộc vào loại hình của xã mà có số lượng khác nhau, tổng số công chức

tối đa không quá 23 người; tổng số cán bộ, công chức, người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, ấp tối đa không quá 65 người.

1.2.2 Vai trò quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã

Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, theo Karl Marx: “Bất cứ một

lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá

lớn đều yêu cầu phải có sự chỉ đạo để điều hòa các hoạt động cá nhân. Một

nghệ sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc

trưởng”. Như vậy, tất cả mọi tổ chức, mọi hoạt động đều cần có sự quản lý

của con người, bởi trong xã hội có nhiều mối quan hệ khác nhau, những hoạt

động có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, ảnh hưởng đến lợi ích

của cộng đồng nói chung. Vì vậy việc quản lý để các hoạt động đó đi vào trật

tự theo một khuôn khổ nhất định nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển là cần

thiết. Do đó quản lý đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức, hình thành khi

tổ chức xuất hiện. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã đóng vai trò rất quan

trọng, cụ thể như sau:

Ủy ban nhân dân xã thực hiện quản lý về kinh tế với mục tiêu ổn định,

duy trì, phát triển kinh tế một cách bền vững và lành mạnh. Bởi lẽ, trong môi

trường hoạt động, các yếu tố kinh tế luôn vận động và biến đổi không ngừng,

sẽ có nhiều yếu tố không phù hợp làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung, ảnh

hưởng đến cộng đồng, ảnh hưởng đến chất lượng của thị trường, vì vậy quản

lý về kinh tế sẽ khắc phục được những hạn chế này.

16

Ủy ban nhân dân xã ngoài quản lý chất lượng hàng hóa mang lại lợi ích

cho cộng đồng, còn điều tiết sản phẩm hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu

của Nhân dân, của thị trường. Cụ thể Ủy ban nhân dân xã khuyến khích phát

triển các ngành nghề, làng nghề tạo ra sản phẩm phục vụ cho thị trường đang

có nhu cầu lớn hiện tại và trong tương lai. Ngược lại những sản phẩm không

được thị trường ưa chuộng thì vận động người dân không nên đầu tư phát

triển tránh gây thiệt hại về kinh tế.

Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế có thể định hướng khả

năng phát triển tối ưu đối với từng loại sản phẩm hàng hóa cụ thể, phát huy

được tiềm năng nguồn lực của địa phương. Ủy ban nhân dân xã quản lý về

kinh tế còn là cơ sở để phản ánh tính hiệu quả những chính sách của cấp trên,

bởi chỉ có thực tiễn mới có thể kiểm nghiệm được tính khả thi của chủ trương,

chính sách trong thực tế, nếu có thiếu sót trong quá trình quản lý mà nguyên

nhân từ cơ chế thì đó chính là cơ sở để các cấp, các ngành điều chỉnh cho phù

hợp. Ủy ban nhân dân xã quản lý về kinh tế còn là điều kiện để có thể chuyển

giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hoạt động kinh doanh, từ đó sẽ

đem lại hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao hơn, tiết kiệm chi phí hơn.

Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò rất lớn vừa

điều tiết, tạo điều kiện, vừa ngăn chặn, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, của

cộng đồng; kích thích nền kinh tế phát triển bền vững, đúng hướng và phù

hợp với quy hoạch phát triển vùng miền, phát triển ngành nghề. Có như vậy

nhà nước mới phát huy đầy đủ vai trò quản lý của mình trong nền kinh tế

đang vận động và biến đổi không ngừng. Ngoài ra, chính sự cọ sát trong thực

tiễn có thể phản ánh chính sách, chủ trương có đúng đắn hay không.

Mặt khác, cách thức quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ thúc đẩy nền kinh tế

phát triển: cụ thể là hoạt động quản lý các dự án đầu tư, công trình cơ sở hạ

tầng, dự án phát triển ngành nghề của địa phương. Hơn nữa nếu cách thức

quản lý hợp lý, khoa học, bài bản thì có thể ngăn chặn được những tác động

xấu gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế của xã, ảnh hưởng đến người tiêu

17

dùng, cụ thể như: ngăn chặn, chống hàng gian, hàng giả. Cách thức quản lý

sai, thiếu khoa học sẽ không tạo động lực cho sự phát triển mà còn tạo ra lực

cản đối với địa phương.

Tóm lại, quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã có vai trò to lớn trong nền

kinh tế, không có sự quản lý thì các hoạt động kinh tế sẽ diễn ra không theo

trật tự pháp luật, mặt khác có thể gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của

từng vùng, khu vực trên địa bàn xã, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của

Nhân dân, vì vậy quản lý nhà nước về kinh tế quyết định sự tồn tại, phát triển

hay trì trệ của mọi hệ thống kinh tế.

1.2.3 Nội dung quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã

Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là một trong những nội dung quản

lý rất quan trọng ở địa bàn cơ sở, để đảm bảo mục tiêu kích thích sự phát triển

và duy trì trật tự trong lĩnh vực kinh tế, trên cơ sở khung pháp lý về chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân xã, công tác quản lý nhà

nước về kinh tế ở địa phương gồm những nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, đề ra các chủ trương, biện pháp không trái với quy định

của pháp luật và các chủ trương, biện pháp do cấp trên ban hành, nhằm

khai thác mọi tiềm năng kinh tế trên địa bàn xã

Kinh tế trong xã hội nói chung có những hoạt động kinh tế hiệu quả

nhưng cũng có những hoạt động kinh tế kém hiệu quả, có thể do nhiều

nguyên nhân trong đó nguyên nhân chính là công tác quản lý chưa khơi dậy

được hết mọi tiềm năng kinh tế vốn có của từng ngành, từng lĩnh vực và từng

địa phương. Trách nhiệm đặt ra là công tác quản lý phải làm sao tạo điều kiện

tối đa nhằm kích thích được các hoạt động kinh tế đó phát triển, góp phần

mang lại lợi ích cho người sản xuất, tăng thu nhập cho người dân, tạo tiền đề

để nâng cao đời sống của Nhân dân, để làm được điều này đòi hỏi Ủy ban

nhân dân xã phải thực hiện tốt các mặt hoạt động như sau:

Một là, xây dựng cơ chế quản lý nhà nước và quyền tự quản lý của

Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh trí tuệ của quần chúng

18

Cơ chế quản lý nhà nước chính là cách thức quản lý, nguyên tắc thực

hiện quản lý, bao gồm: bộ máy quản lý và con người thực hiện công tác quản

lý đóng vai trò là chủ thể quản lý. Bộ máy quản lý được tổ chức sao cho phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế; chủ thể quản lý là

nhân sự điều hành, sử dụng các giải pháp phù hợp để tác động vào đối tượng

quản lý nhằm giúp nhà quản lý đạt mục tiêu đề ra. Trong hoạt động quản lý

nhà nước về kinh tế ở chính quyền cơ sở, cấp xã tổ chức bộ máy quản lý nhà

nước thống nhất theo quy định của pháp luật, yếu tố quyết định vẫn là con

người chỉ đạo, điều hành và thực thi nội dung quản lý. Do đó, cơ chế quản lý

nhà nước về kinh tế ở chính quyền cơ sở cần phải hoàn thiện, nhằm tạo động

lực cho phát triển kinh tế, làm sao để có thể huy động được sức mạnh tổng

hợp của toàn dân phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.

Chính quyền cơ sở cần đề cao tính tự quản của Nhân dân, đây là

phương thức quản lý thật sự hiệu quả, tạo điều kiện cho Nhân dân tự quản, tự

điều hành trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật để hướng đến mục tiêu đề

ra. Nhân dân tự quản trong đời sống sinh hoạt và tự quản trong lao động sản

xuất, tự do phát triển kinh tế theo những mô hình được chính quyền định

hướng. Thực hiện được cơ chế tự quản trong phát triển kinh tế sẽ kích thích

được sự chủ động, sáng tạo trong lao động sản xuất.

Hai là, tuyên truyền, vận động, khuyến khích, hướng dẫn người nông

dân chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nông nghiệp theo các mô hình tự sáng tạo

hoặc do cấp trên phổ biến, hỗ trợ, đồng thời tham gia chương trình phát triển

kinh tế của xã

Chính quyền cơ sở thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế

bằng nhiều biện pháp, trong đó đề cao nội dung tuyên truyền, vận động,

thuyết phục để định hướng theo đúng quy hoạch sản xuất của địa phương.

Đồng thời để tránh tình trạng sản xuất tự phát, manh mún, không ổn định về

thu nhập cho người nông dân, cấp xã phải tích cực vận động, thuyết phục

người dân thực hiện mô hình sản xuất với quy mô hợp lý và theo định hướng

19

của xã, từ đó làm cho cơ cấu kinh tế, loại hình sản xuất được chuyển đổi phù

hợp. Để giúp người nông dân ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế, chính

quyền cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ về mô hình sản xuất, phương thức sản

xuất phù hợp với quy hoạch chung của huyện và xã. Những mô hình sản xuất

ở địa phương gồm: mô hình chăn nuôi hiệu quả kinh tế cao, mô hình trồng

cây công nghiệp hoặc cây ngắn ngày, mô hình phát triển các ngành nghề

truyền thống của địa phương,…Nhà nước khuyến khích người nông dân phát

triển sản xuất thông qua hỗ trợ phương tiện sản xuất, vốn, tiến bộ khoa học kỹ

thuật và ký kết hợp đồng thu mua sản phẩm cho người nông dân, có thể nhà

nước làm trung gian cho việc ký kết hợp đồng theo mô hình liên kết “4 nhà”

“nhà nước - nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học”.

Hoạt động kinh tế ở cấp xã có rất nhiều hình thức, tuy nhiên để phát

triển kinh tế theo đúng định hướng, đúng quy hoạch thì cần phải có sự hướng

dẫn, giúp đỡ của chính quyền cơ sở trong đó Ủy ban nhân dân xã là chủ thể

trực tiếp thực hiện chức năng quản lý. Ủy ban nhân dân xã giúp đỡ các chủ

thể sản xuất kinh doanh hoạt động có hiệu quả, đạt năng suất cao đáp ứng

được chất lượng hàng hóa cần thiết để tăng sức cạnh tranh và phù hợp với nhu

cầu của thị trường. Để làm được điều này, Ủy ban nhân dân xã phải thực hiện

các hoạt động cụ thể như: mở Hội nghị, tổ chức các lớp học chuyển giao khoa

học kỹ thuật, giống mới, kịp thời cung cấp những tiến bộ kỹ thuật sản xuất tân

tiến, có hiệu quả, từ đó chủ trì hoặc liên kết với các đơn vị, công ty, các

chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cung cấp giống chất lượng cao, nhằm

đảm bảo cho người dân sản xuất hiệu quả.

Thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến công: hoạt động

khuyến nông, khuyến công nhằm khuyến khích người nông dân chuyển đổi

cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với mô hình kinh tế đem lại hiệu

quả cao hơn, chuyển giao kỹ thuật mới cho người dân. Tổ chức các lớp đào

tạo nghề cho lao động nông thôn cũng là biện pháp giúp người dân sản xuất ra

những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời trang bị cho

20

người lao động có được những kỹ năng cần thiết trong quá trình lao động. Ở

cấp xã, các lớp đào tạo nghề thường được tổ chức phù hợp với các ngành

nghề hiện có tại địa phương, để các học viên có thể tìm được việc làm tại chỗ

sau khi tốt nghiệp. Vận động, hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động hợp tác

lẫn nhau theo mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác. Mô hình này đã từng bước

chứng minh được hiệu quả to lớn của nó, sự cộng tác trong sản xuất có thể tạo

ra nguồn vốn lớn, học hỏi được các kỹ năng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, phù

hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm và nhất là có được sức mạnh tập thể để

bảo vệ quyền lợi của mình khi tiếp cận thị trường.

Ba là, quyết định hoặc góp phần ra quyết định pháp lý cho hoạt động

sản xuất kinh doanh; giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn

Ủy ban nhân dân xã không có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh

nhưng có trách nhiệm quản lý gián tiếp thông qua việc xác nhận thủ tục pháp

lý của các chủ thể đăng ký kinh doanh, xác nhận tính hợp lý và ảnh hưởng của

dự án đối với môi trường tự nhiên, an ninh, chính trị tại địa phương… từ đó

làm cơ sở để cấp trên cấp giấy phép. Khi đơn vị có giấy phép, Ủy ban nhân

dân xã với trách nhiệm là chủ thể quản lý hành chính nhà nước tại địa phương

sẽ tiếp quản các đơn vị, thực hiện chức năng giám sát thường xuyên hoạt

động của các đơn vị theo đúng thẩm quyền quy định.

Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng nói

chung, hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống cộng đồng dân cư trong xã

Kết cấu hạ tầng bao gồm: điện, đường, công trình công cộng…, tất cả

các hạng mục trên là nhu cầu thiết yếu của Nhân dân, nếu thiếu một trong

những nội dung trên thì xã không thể phát triển được. Chính quyền cấp xã và

cấp trên phải quan tâm đầu tư, thực hiện các công trình này, phải kiến nghị

cấp trên và vận động người dân tạo điều kiện để đưa điện đến từng hộ dân,

đồng thời phải kiến nghị giải quyết tốt các sự cố như: điện yếu cho hoạt động

sản xuất, huy động sửa chữa đường dây điện,…Kết cấu hạ tầng giao thông

đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa-xã hội

21

của địa phương, là huyết mạch cho hoạt động vận chuyển và đi lại của Nhân

dân. Việc quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông là nhu cầu cấp

thiết. Có nhiều cách thực hiện, một là xin hỗ trợ vốn xây dựng từ cấp trên, hai

là bố trí ngân sách xã để đầu tư xây dựng, ba là vận động sự tham gia đóng

góp của người dân theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Đồng

thời chính quyền địa phương cần thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý các tuyến

đường theo phân cấp gồm: đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng,

đường ngõ xóm, thường xuyên kiến nghị đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa,

tu bổ kịp thời đáp ứng nhu cầu thông thương, đi lại; quản lý và sử dụng có

hiệu quả các công trình công cộng gồm: trường học, trạm y tế, chợ,…

Năm là, các biện pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí nhân lực, vật

lực trên địa bàn xã

Vật lực kinh tế ở cấp xã bao gồm nhiều nội dung, trong đó cả vấn đề tài

chính phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế và phương tiện phục vụ cho

phát triển kinh tế (trang thiết bị, máy móc…), cấp xã phải đề ra các biện pháp

phòng chống tham nhũng, lãng phí vật lực kinh tế, thực hiện đồng bộ các biện

pháp nhằm ngăn chặn tình trạng rút ruột công trình, lãng phí thời gian, công

sức và tiền của trong hoạt động phát triển kinh tế, trong đó tập trung các biện

pháp: xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể trong việc sử dụng tài

sản công, đồng thời phải công khai, minh bạch trong mọi hoạt động để làm cơ

sở giám sát.

Sáu là, các biện pháp nhằm khai thác quá trình phát triển kinh tế trên

địa bàn xã, từ sản xuất đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng

Chính quyền địa phương đề ra các biện pháp phù hợp cho quá trình

phát triển kinh tế trên địa bàn như: khai thác tốt quá trình vận chuyển, trao đổi

hàng hóa, phương tiện phục vụ cho sản xuất, để người dân có thể dễ dàng tiếp

cận sản phẩm. Một trong các giải pháp đặt ra là giới thiệu và hỗ trợ giới thiệu

sản phẩm thông qua các hoạt động khuyến nông, mô hình sản xuất mẫu. Nhà

nước sẽ định hướng sản xuất và tiêu dùng, tạo mọi điều kiện để người sản

22

xuất tiếp cận người tiêu dùng và giúp người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn

sản phẩm cần thiết cho nhu cầu thiết yếu của mình.

Bảy là, tổ chức và quản lý sự phát triển kinh tế công của xã

Kinh tế công của xã là một trong những nguồn thu ngân sách quan

trọng của địa phương. Do đó, Ủy ban nhân dân xã phải quản lý thật sự hiệu

quả các hoạt động kinh tế công, nhằm thực hiện tốt việc khai thác triệt để các

nguồn thu cho ngân sách xã, đồng thời có thể phát huy tối đa hiệu quả của các

hoạt động kinh tế công.

Thứ hai, xây dựng tổ chức và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát

triển kinh tế-xã hội phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế cấp

trên nhằm huy động mọi tiềm lực kinh tế trên địa bàn

Căn cứ quy hoạch và kế hoạch chung của huyện về định hướng phát

triển ngắn hạn (01 năm) và dài hạn (05 năm hoặc hơn 05 năm), trên cơ sở tình

hình thực tế của từng địa phương, Ủy ban nhân dân xã xây dựng quy hoạch và

kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cụ thể trên cơ sở đảm bảo quy định pháp

luật và chủ trương chỉ đạo của cấp trên, phù hợp với điều kiện thực tế của địa

phương và nguyện vọng của Nhân dân. Hoạt động lập quy hoạch, xây dựng

kế hoạch được thực hiện theo đúng quy trình, trong đó cần tổ chức lấy ý kiến

của các ngành, các cấp, đoàn thể, hội quần chúng và Nhân dân là nội dung

quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng tham gia.

Thực hiện lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội

cần đề ra giải pháp để hoàn thành mục tiêu; đồng thời định hướng phát triển

các nội dung như: quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển ngành nghề,

vùng chăn nuôi, sản xuất…Từ đó, Ủy ban nhân dân xã tiếp tục xây dựng kế

hoạch thực hiện nhằm đạt yêu cầu đề ra. Quy hoạch đúng, khả thi cùng với kế

hoạch phù hợp sẽ huy động tối đa nguồn lực, khơi dậy các tiềm năng kinh tế,

từ đó sẽ làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.

Thứ ba, lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn và

phương án phân bổ dự toán ngân sách

23

Dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương (trong trường hợp cần thiết)

và lập quyết toán ngân sách địa phương phải được xây dựng và trình Hội

đồng nhân dân cùng cấp quyết định, báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài

chính cấp trên trực tiếp. Quan tâm thực hiện tốt tình hình thu, chi ngân sách

địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý

ngân sách trên địa bàn, nhằm đảm bảo theo quy định của pháp luật. Hàng năm

Ban tài chính xã phối hợp cùng đội thuế lập các khoản thu cần phải thực hiện

trong năm, từ đó lập dự toán thu, chi ngân sách xã báo cáo Thường trực Hội

đồng nhân dân xã và chuẩn bị hồ sơ để thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân

gần nhất. Trong quá trình chi ngân sách nếu nguồn thu không đảm bảo thì

công chức tài chính-kế toán xã chủ động tham mưu chủ tài khoản tính toán lại

các khoản chi nhằm đảm bảo cân đối ngân sách.

Dự toán thu, chi ngân sách xã sau khi được Hội đồng nhân dân cùng

cấp thông qua, Ủy ban nhân dân xã phải lập thủ tục báo cáo Ủy ban nhân dân

huyện và Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân

dân xã là chủ tài khoản điều hành hoạt động thu, chi ngân sách xã. Công chức

tài chính-kế toán xã chịu trách nhiệm tham mưu về nghiệp vụ kế toán, chủ

động liên hệ với cơ quan tài chính cấp trên để thực hiện công tác tham mưu

quản lý ngân sách trên địa bàn theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, xây dựng các biện pháp nhằm đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa

phương

Hoạt động sản xuất ở cấp xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bên cạnh

đó là một số hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh, dịch vụ.

Để nâng cao hiệu quả sản xuất thì việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào hoạt động sản xuất là vô cùng cần thiết, sẽ góp phần tăng năng suất lao

động và chất lượng sản phẩm, qua đó mang lại lợi nhuận cao cho người nông

dân, người tiêu dùng và chủ sản xuất kinh doanh qua đó có thể tiết kiệm được

chi phí đầu tư, chi phí sản xuất. Trình độ khoa học kỹ thuật là những giải

24

pháp, sáng kiến, cải tiến và phương tiện hiện đại nhằm ứng dụng vào hoạt

động sản xuất và đời sống của người dân.

Việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào hoạt động sản xuất đã được

khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng (Khóa XI) “về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nêu rõ: “…Phát triển và ứng dụng

khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực

quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội

dung cần được ưu tiên tâm trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của

các ngành, các cấp…”. Như vậy, vai trò của khoa học công nghệ là rất quan

trọng quyết định sự thành công của hoạt động sản xuất, do đó việc đưa khoa

học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc Nhân

dân có thể tiếp cận được các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, đưa vào hoạt động

sản xuất cần phải có sự hướng dẫn, hỗ trợ của chính quyền địa phương.

Ủy ban nhân dân xã chuyển giao các ứng dụng khoa học kỹ thuật cho

người dân bằng các biện pháp thích hợp thông qua các buổi khuyến nông,

khuyến công mời các chuyên gia trình bày, tổ chức các lớp hướng dẫn cho

người dân. Mặt khác, thông qua các buổi làm việc, trao đổi với các nhà doanh

nghiệp, Ủy ban nhân dân xã sẽ thực hiện vai trò trung gian giới thiệu nhà

doanh nghiệp cho người dân tiếp cận các loại sản phẩm, đây là cách làm hợp

lý theo mô hình kiên kết 4 nhà “nhà nước – nhà nông – nhà khoa học và nhà

doanh nghiệp”, cách làm này thật sự hiệu quả bởi doanh nghiệp có đầy đủ

nguồn tài chính để thực hiện và có thể bao tiêu sản phẩm cho người dân.

Thứ năm, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh tế đảm bảo quyền và

lợi ích của các bên tham gia vào quá trình kinh tế

Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là nhà nước đánh giá, xem xét

hoạt động kinh tế đó tốt hay xấu, theo dõi xem có tuân thủ các quy định của

pháp luật hay không. Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng của

25

quản lý nhà nước, vì vậy phải thực hiện thường xuyên, liên tục mới đảm bảo

đạt mục tiêu đề ra. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là cần thiết vì không

phải lúc nào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng diễn ra thuận lợi, bởi môi

trường kinh doanh, sản xuất luôn biến động và lợi ích của các bên trong mối

quan hệ kinh tế đó có nguy cơ bị ảnh hưởng. Hoạt động kiểm tra, giám sát về

kinh tế giúp phát hiện những mặt làm được, những hạn chế, thiếu sót, từ đó đề

ra các giải pháp khắc phục, đồng thời ngăn chặn và xử lý những hành động

gây ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng cũng như những hoạt động trái với

quy định của pháp luật. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế bao gồm những

nội dung sau:

Một là, kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật của nhà

nước về kinh tế. Đây là nội dung quan trọng vì chúng ta đang xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các hoạt động trong nền kinh tế phải diễn

ra trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, do đó hoạt động kiểm tra việc

chấp hành pháp luật là hoạt động cần thiết, nhằm duy trì tính nghiêm minh và

công bằng của pháp luật.

Hai là, kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi

trường, quan hệ lao động

Hiện tại công tác bảo vệ môi trường sinh thái đã trở thành nhiệm vụ

quan trọng trong mục tiêu phát triển bền vững được chỉ đạo tại Nghị quyết số

24-NQ/TW, ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương

(Khóa XI) “về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài

nguyên và bảo vệ môi trường”, cụ thể là: “…Môi trường là vấn đề toàn cầu.

Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển

bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài

hoà với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp

kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa

dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên

quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ

26

cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền

vững…”.

Ủy ban nhân dân xã thực hiện nghiêm công tác kiểm tra việc chấp hành

các quy định của pháp luật về thực hiện các quan hệ lao động, tránh để xảy ra

trường hợp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao

động. Bộ Luật Lao động năm 2012 được ban hành và có hiệu lực thi hành kể

từ ngày 01 tháng 5 năm 2013 (năm 2017 dự kiến sẽ ban hành Bộ Luật lao

động mới) đã đặt nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ

lao động ở Việt Nam và là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chức năng

giám sát, kiểm tra quan hệ lao động của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Ba là, kiểm tra, giám sát sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Kết

quả cuối cùng của hoạt động sản xuất là sản phẩm được làm ra và bán cho

người tiêu dùng, vì vậy chất lượng sản phẩm đó phải đảm bảo, tránh gây tác

hại đến người sử dụng. Nhà nước phải thực hiện chức năng kiểm tra nhằm

đảm bảo tốt yêu cầu về chất lượng, nếu qua kiểm tra phát hiện sản phẩm

không đảm bảo chất lượng, phải kịp thời xử lý tránh gây thiệt hại cho cộng

đồng và cho nền kinh tế.

Thứ sáu, đề ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quy

định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, chống hàng gian,

hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể luôn được Ủy ban nhân

dân xã quan tâm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát như đã nêu trên, đồng

thời việc xây dựng các biện pháp nhằm thực thi đúng quy định của pháp luật

về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất

lượng là biện pháp góp phần làm trong sạch nền kinh tế, phát huy hiệu quả

sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh và nhất là bảo vệ lợi ích của cộng

đồng, của người tiêu dùng. Những biện pháp về thực hiện tiêu chuẩn đo lường

chất lượng sản phẩm, chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng bao

gồm: Tổ chức kiểm tra các hoạt động thương mại bán lẻ, kiểm tra các phương

27

tiện sử dụng để đo lường và kiểm tra tem, nhãn các sản phẩm hàng hóa được

bày bán trên thị trường. Qua đó, có thể tuyên truyền, nhắc nhở người dân thực

hiện nghiêm túc những quy định về đo lường chất lượng sản phẩm. Nếu phát

hiện sai phạm, có thể áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính theo quy định

tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP, ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ

quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP,

ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ “quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và

bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Đồng thời quan tâm thực hiện các biện

pháp phù hợp nhằm tuyên truyền, giáo dục người dân chủ động phòng ngừa,

tránh mua phải những sản phẩm kém chất lượng.

1.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã

1.3.1 Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế

Hiệu quả (effectiveness) là kết quả, sự đạt được kết quả mong muốn.

Theo khái niệm của kinh tế học: Hiệu quả là kết quả công việc đạt được trừ đi

tổng các chi phí phải bỏ ra để thực hiện công việc đó. Theo tài liệu “Đo lường

và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước những thành tựu trên thế

giới và ứng dụng ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Đăng Thành, hiệu quả

quản lý hành chính nhà nước được tiếp cận với 02 góc độ khác nhau. Tiếp cận

từ góc độ kinh tế thì hiệu quả quản lý hành chính nhà nước là: “Kết quả thực

hiện một chủ trương, chính sách được xác định qua việc so sánh các kết quả

đạt được với toàn bộ các nguồn lực sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở kết quả đạt

được là tối đa trong khi chi phí là tối thiểu. Hiệu quả quản lý hành chính nhà

nước được xác định bởi mối tương quan giữa kết quả thực tế có được từ các

nguồn lực và kết quả tối đa từ các nguồn lực đó”. Tiếp cận từ góc độ xã hội

thì hiệu quả quản lý hành chính nhà nước được hiểu: “là mức độ đáp ứng của

kết quả với nhu cầu, mong đợi của khách hàng và nguồn lực xã hội, được

khách hàng chấp nhận và sử dụng”.

28

Như vậy, để có hiệu quả cao nhất thì kết quả đạt được là điều tất nhiên

nhưng các nguồn lực bỏ ra để thực hiện công việc đó phải hợp lý, đồng thời

kết quả đó phải đáp ứng được các nhu cầu, mong đợi của người dân.

1.3.2 Tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về kinh tế

cấp xã

Từ những cách tiếp cận khác nhau về hiệu quả quản lý nhà nước như

trên có rất nhiều tiêu chí để xác định hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của

Ủy ban nhân dân xã. Để xác định một cách chính xác là vấn đề khá phức tạp,

chính vì vậy có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để mô tả hiệu quả

quản lý nhà nước và tương ứng là có nhiều tiêu chí và phương pháp để đánh

giá, đo lường hiệu quả được đưa ra. Để đánh giá một hoạt động nào đó có

hiệu quả hay không cần phải dựa trên những tiêu chí đề ra, làm cơ sở đánh giá

mức độ hoàn thành của nó. Trong quản lý cũng vậy, để đánh giá được hiệu

quả của quản lý đạt đến mức nào cần phải có tiêu chí nhất định. Tiêu chí này

là cơ sở để nhà quản lý đánh giá mức độ thực thi công việc quản lý của các

chủ thể quản lý. Như vậy trong quản lý nhà nước về kinh tế cũng không ngoại

lệ, để đánh giá hiệu quả của nó phải có tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Trên cơ sở tiếp

cận hiệu quả quản lý nhà nước từ góc độ kinh tế; góc độ xã hội và góc độ

quản lý thì có rất nhiều tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về

kinh tế, tuy nhiên có những tiêu chí cơ bản như sau:

Tiêu chí 1: Trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý hành

chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Lực lượng cán bộ,

công chức có trình độ và có năng lực tốt trong thực thi công vụ, là tiền đề để

đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý hành chính nhà nước. Ngược lại

nếu cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa

phương có trình độ thấp thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản

lý. Do đó, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức được xem là tiêu

chí để đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.

29

Tiêu chí 2: Việc đảm bảo thực hiện những nội dung quản lý nhà

nước trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã. Xét từ góc độ kinh

tế, có thể xét về các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ quản lý đó, mà đặc biệt

là nguồn lực về tài chính.

Tiêu chí 3: Chi phí của hoạt động quản lý phải hợp lý. Mọi hoạt động

đều cần phải có nguồn lực phù hợp nhất là nguồn lực về tài chính; để hoạt

động quản lý đạt hiệu quả cao thì mục tiêu đề ra phải đạt được và chi phí thực

hiện phải hợp lý. Tuy nhiên, có những hoạt động quản lý để xác định chi phí

chính xác thì rất khó, không thể định lượng được. Xét từ góc độ xã hội, hiệu

quả của hoạt động quản lý là sự tác động của hoạt động quản lý lên người dân

và tổ chức, nhằm đem lợi ích cao.

Tiêu chí 4: Sự hài lòng của người dân và tổ chức đối với hoạt động

quản lý của Ủy ban nhân dân xã. Đối tượng quản lý chính là người dân, các

quan hệ sản xuất, như vậy hoạt động quản lý hiệu quả nhưng lại không đem

đến sự hài lòng cho người dân thì kết quả đó không bền vững và không thể

xem hoạt động quản lý đó đạt hiệu quả cao được. Hay nói cách khác, quản lý

hành chính là vì con người nhưng nếu con người không chấp nhận nó thì hoạt

động quản lý không thể thành công. Cho nên tiêu chí về sự chấp nhận, thừa

nhận của người dân cũng phải được xem là thước đo để đánh giá hiệu quả

quản lý cao hay thấp.

30

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Trong Chương 1, trên cơ sở các luận cứ khoa học, Luận văn đã xây

dựng được khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã. Theo đó, nội

hàm các khái niệm về chính quyền cấp xã, quản lý nhà nước về kinh tế, trong

đó, có khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và các tiêu chí đánh giá

hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, bao gồm:

Tiêu chí 1: Trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý hành

chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã.

Tiêu chí 2: Việc đảm bảo thực hiện những nội dung quản lý nhà nước

trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Tiêu chí 3: Chi phí của hoạt động quản lý phải hợp lý.

Tiêu chí 4: Sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với hoạt động quản

lý của Ủy ban nhân dân xã.

Khung lý thuyết nêu trên là cơ sở để nghiên cứu, phân tích, đánh giá

thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,

tỉnh Tây Ninh ở Chương 2 tiếp theo.

31

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

2.1. Tổng quan về huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh

2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Hòa

Thành, tỉnh Tây Ninh

Huyện Hoà Thành nằm ở trung tâm của tỉnh Tây Ninh, có địa giới hành

chính phía đông giáp huyện Gò Dầu và huyện Dương Minh Châu; phía bắc

giáp Thành phố Tây Ninh và huyện Dương Minh Châu; phía nam giáp huyện

Gò Dầu; phía tây giáp huyện Châu Thành. Trung tâm huyện lị Hòa Thành

cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 90 km, cách biên giới Việt Nam-

Campuchia khoảng 25 km về phía tây và 40 km về phía bắc. Trên địa bàn

huyện có các tuyến đường giao thông cấp quốc gia đi qua (về đường bộ có

tuyến Quốc lộ 22B; về đường thủy có tuyến sông Vàm Cỏ Đông) tạo điều kiện

thuận lợi cho việc giao lưu với các địa phương khác. Diện tích tự nhiên: 82,92 km2, dân số: 145.809 người, mật độ dân số: 1.758 người/km2. Huyện gồm Thị

trấn Hòa Thành và 7 xã: Hiệp Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Nam, Long

Thành Trung, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây. Dân số trên địa bàn

huyện chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 99,46%), kế đến là dân tộc Hoa

(0,29%) và dân tộc Khmer (0,25%). Về tôn giáo, trên địa bàn huyện có 05 tôn

giáo là Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh đạo Bến Tre, Phật giáo, Công

giáo và Tin lành (hệ phái nhân chứng Giêhôva), trong đó đông nhất là tín đồ

đạo Cao Đài Tây Ninh.

Hòa Thành có tiềm năng lớn để phát triển du lịch trở thành ngành kinh

tế quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn. Với

các địa điểm như: Tòa Thánh Tây Ninh; Trung tâm Thương mại Long Hoa;

các di tích lịch sử-văn hóa; cảnh quan thiên nhiên dọc theo bờ sông Vàm Cỏ

Đông; các làng nghề,…tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các loại

hình du lịch của tỉnh Tây Ninh, vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước.

32

Trung tâm Thương mại Long Hoa nằm trên cửa ngõ giao lưu giữa Tây

Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh; Tòa Thánh Cao Đài thuộc huyện Hòa

Thành là một địa điểm du lịch, hành hương khá nổi tiếng với lễ, tết diễn ra

hàng năm thu hút trên 100.000 lượt du khách tham quan. Địa hình Hoà Thành

tương đối bằng phẳng, có xu hướng nghiêng dần từ bắc xuống nam; đất đai,

khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển nhanh, đa dạng và phong phú các

chủng loại cây rừng và các loài sinh vật khác; rừng Hoà Thành có nhiều gỗ

quý, thú rừng, do đường giao thông thuận lợi nên việc khai thác rất dễ dàng.

Hoà Thành có mạng lưới giao thông khá dày đặc. Phía nam huyện có

sông Vàm Cỏ Đông chảy qua dài 11 km với cảng Bến Kéo. Đường bộ, ngoài

các trục lộ chính như quốc lộ 22B đoạn qua huyện dài 12,8 km, đường tỉnh có

các tuyến như: Tỉnh lộ 781, 785, 790, 793, 797, 798, 799, còn có mạng lưới

đường nông thôn chằng chịt từ thị trấn toả đi các xã trong huyện. Hệ thống

giao thông này rất thuận lợi cho việc đi lại giữa các vùng và các khu vực sản

xuất, góp phần mở rộng giao lưu về kinh tế - văn hoá xã hội giữa huyện với

các huyện khác trong tỉnh, với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác.

2.1.2 Tác động của đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội

của huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đến quản lý nhà nƣớc về kinh tế

cấp xã trên địa bàn huyện

2.1.2.1. Về thuận lợi

Huyện có bình quân diện tích đất/người lớn, có khả năng hợp tác tích tụ

đất để phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; có vị trí địa lý khá

thuận lợi cho giao lưu hàng hóa và phát triển thương mại-du lịch, nơi đây có

Tòa thánh Tây Ninh và Trung tâm Thương mại Long Hoa là đầu mối giao

lưu, trao đổi hàng hóa với Thành phố Hồ Chí Minh. Ngành du lịch của huyện

hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách trong và ngoài tỉnh về đây tham

quan trong những ngày lễ, tết và mua sắm hàng hóa. Hình thành tuyến du lịch

tâm linh Núi Bà – Tòa Thánh – Long Hoa. Vị trí địa lý mang lại sự thuận lợi

cho huyện về phát triển kinh tế, có cơ hội hòa nhập, giao lưu, trao đổi, hợp tác

33

trong và ngoài tỉnh. Tiềm năng về tự nhiên của huyện khá đa dạng với nền

nhiệt cao đều trong năm, địa hình khá bằng phẳng, thuận lợi cho xây dựng các

công trình cơ sở hạ tầng như: giao thông, công nghiệp, xây dựng và phân bố

dân cư.

Kinh tế-xã hội của huyện ngày càng phát triển theo hướng đẩy mạnh

phát triển dịch vụ, thương mại, công nghiệp và đô thị theo hướng hiện đại;

huyện luôn quan tâm huy động nguồn lực tập trung đầu tư xây dựng kết cấu

hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, tạo bước chuyển biến mạnh

mẽ trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần của Nhân dân; giữ vững ổn định an ninh chính trị, bảo đảm an ninh quốc

phòng. Đảng bộ huyện luôn chú trọng đề ra các chủ trương, giải pháp đẩy

mạnh phát triển kinh tế trên địa bàn, Ban Thường vụ Huyện ủy đã thành lập

các ban chỉ đạo thực hiện một số lĩnh vực mang tính đột phá để phát triển

kinh tế - xã hội huyện Hòa Thành giai đoạn 2017-2020. Trong đó, huyện xác

định 03 lĩnh vực trọng tâm: phát triển hạ tầng - du lịch - xúc tiến đầu tư; lĩnh

vực khuyến học - khuyến tài; cải cách hành chính.

Cùng với phát triển kinh tế, huyện Hòa Thành cũng đã tập trung huy

động các nguồn lực nhằm hỗ trợ gia đình chính sách, tạo việc làm mới cho

người lao động, giúp đỡ hộ nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo cải thiện

cuộc sống, tập trung giải quyết các chế độ, chính sách đối với người có công,

bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng. Trong 02 năm 2015-2016, huyện Hòa

Thành đã mở hơn 27 lớp đào tạo nghề cho trên 840 lao động nông thôn, trong

đó, gần 88% lao động sau khi tốt nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định.

Huyện cũng đã vận động các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài huyện ưu

tiên tuyển lao động địa phương vào làm việc. Hàng năm, có hơn 2.700 lao

động có việc làm; tỷ lệ lao động qua đào tạo của huyện đạt 123,81% so với

chỉ tiêu.

34

2.1.2.2. Về khó khăn

Hòa Thành nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa có

lượng nước lớn, mưa nhiều và thường xuyên gây xói mòn, ngập úng cục bộ.

Ngược lại mùa khô mưa ít, nước bốc hơi nhiều, gây tình trạng khô hạn cho

đất và cây trồng.

Huyện có trên 90% người dân theo đạo Cao Đài; vùng đô thị tập trung

dân cư đông đúc với đa số người dân từ các tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ

đến định cư, tạo ra áp lực cho công tác quản lý trên nhiều mặt, trong đó có

vấn đề an ninh, an toàn, trật tự xã hội.

Hòa Thành là huyện có diện tích nhỏ nhưng dân số đông nên mật độ

dân số tương đối cao so với các huyện trong tỉnh, hệ thống đường giao thông

nội bộ trong huyện phần lớn chưa được nhựa hóa, mức độ đô thị hóa ngày

càng cao càng làm tăng mật độ dân số, nguồn rác thải và nước thải lớn nguy

cơ gây ô nhiễm môi trường đang đặt ra vấn đề cần phải quan tâm giải quyết.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh

2.2.1. Đánh giá về thực hiện nội dung quản lý nhà nƣớc về kinh tế

cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh

2.2.1.1. Đề ra các chủ trƣơng, biện pháp không trái với quy định

của pháp luật và các chủ trƣơng, biện pháp do cấp trên ban hành, nhằm

khai thác mọi tiềm năng kinh tế trên địa bàn xã

Một là, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và quyền tự quản của

Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh trí tuệ của quần chúng

Để hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và thực hiện quyền tự quản của

Nhân dân trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy

ban nhân dân xã trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Các

xã trên địa bàn huyện đã xây dựng quy chế hoạt động của Ủy ban nhân dân xã

theo hướng dẫn quy chế mẫu tại Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg, ngày 12

tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ “ban hành Quy chế làm việc

35

mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”, trong đó quy định rõ chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng thành viên Ủy ban nhân dân, về cơ chế

phối hợp trong giải quyết công việc của các bộ phận tham mưu thực hiện

công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói

riêng. Ngoài ra, các xã, thị trấn đã và đang áp dụng quy trình quản lý chất

lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2008, đây là cách thức cụ thể hóa cơ chế

quản lý nhà nước theo quy trình chuẩn nhất định, do đó hiệu quả quản lý

không ngừng được hoàn thiện.

Chính quyền cấp xã thực hiện chức năng tổ chức, hướng dẫn và tạo

điều kiện để cộng đồng dân cư thực hiện các hình thức tự quản theo quy định.

Các xã trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều hoạt động tự quản như: hoạt

động tự quản của ấp, khu phố có tổng cộng 1.214 tổ dân cư tự quản trên địa

bàn 39 ấp, khu phố; có các tổ chức tự quản hoạt động trên lĩnh vực kinh tế

bao gồm: 18 Tổ hợp tác thành lập theo Nghị định số 151/2007/NĐ-CP, ngày

10 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ “về tổ chức và hoạt động của tổ hợp

tác”, trong đó có 13 Tổ hợp tác hoạt động với các ngành nghề chăn nuôi,

trồng trọt phù hợp với vị trí địa lý và điều kiện tự nghiên của địa phương như:

nuôi cá nước ngọt, chăn nuôi bò sinh sản, trồng lúa, trồng nhãn GAP, trồng

khoai môn, trồng bông và 05 Tổ hợp tác hoạt động gắn với làng nghề truyền

thống như: sản xuất gỗ gia dụng, đúc gang, may mặc và vót đũa; có 10 Hợp

tác xã hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực nông nghiệp (03 Hợp tác xã), phi

nông nghiệp (03 Hợp tác xã), giao thông vận tải (01 Hợp tác xã) và Quỹ tín

dụng nhân dân (04 Quỹ tín dụng). Các tổ chức tự quản hoạt động trong khuôn

khổ pháp luật và điều lệ quy định, đồng thời thực hiện mục tiêu kinh tế theo

định hướng, hướng dẫn của Ủy ban nhân dân huyện, xã và ngành cấp trên, tự

chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.

Việc thực hiện tự quản ở cấp xã chủ yếu thông qua huy động sự đóng

góp của người dân trong xây dựng các công trình công cộng, kết cấu hạ tầng,

quyên góp thực hiện các phong trào như: đóng góp quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ

36

vì người nghèo, quỹ phòng chống thiên tai, an ninh quốc phòng,…Để thực

hiện tốt chế độ tự quản thì phải có phương châm, mục đích cụ thể rõ ràng, vì

vậy Ủy ban nhân dân xã cần thực hiện chức năng định hướng, hướng dẫn và

tạo điều kiện cho các tổ chức này tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình,

góp phần lớn trong việc xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương.

Hai là, tuyên truyền, vận động, khuyến khích, hướng dẫn nông dân

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất theo mô hình mới, thực hiện các hoạt

động hỗ trợ nông dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế tại địa

phương

Hòa Thành có hơn 75% dân số làm nông nghiệp, thời gian qua các xã

đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giúp người nông dân chuyển đổi cơ cấu

giống cây trồng, vật nuôi theo hướng ngày càng hiệu quả hơn, huyện đã triển

khai cho các xã, thị trấn nhiều dự án, mô hình sản xuất mới, hiệu quả theo quy

hoạch chung của tỉnh tại Quyết định số 26/2009/QĐ-UBND, ngày 27 tháng

05 năm 2009 “về việc ban hành quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn

tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2009 – 2015 và định hướng đến năm 2020”, trong đó

chú trọng phát triển các ngành nghề truyền thống như: mây tre đan xã Long

Thành Trung, nghề làm nhang xã Long Thành Bắc, nghề mộc gia dụng xã

Hiệp Tân, nghề sản xuất gạch ở Trường Đông, Long Thành Nam…và nhiều

mô hình chăn nuôi, trồng trọt đạt hiệu quả kinh tế cao: mô hình trồng dưa

trong nhà lưới tại ấp Long Trung, xã Long Thành Trung; mô hình nuôi trâu

bò thịt tại xã Trường Đông và Trường Hòa; mô hình sản xuất lúa khép kín đạt

hiệu quả kinh tế cao bảo vệ môi trường bền vững tại xã Trường Tây; mô hình

trồng khoai môn sáp tại ấp Trường Thọ, xã Trường Hòa; mô hình trồng nhãn

theo hướng VietGap tại xã Trường Hòa; mô hình nuôi cá nước ngọt tại ấp

Bến Kéo, xã Long Thành Nam. Thực hiện 05 đề tài mô hình hội thi sáng tạo

khoa học kỹ thuật như: đề tài mô hình nuôi cá thác lác trên đồng ruộng kết

hợp trồng rau nhút; đề tài mô hình máy cải tiến vận chuyển lúa trên đồng

ruộng lầy; đề tài mô hình trồng quýt đường trên đất cát; đề tài mô hình máy

37

quét bùn trong ao đìa và san lấp ruộng; đề tài mô hình máy bóc vỏ khoai môn,

kết quả có 02 đề tài đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Ngoài ra, Hội nông dân

huyện đã tổ chức 87 buổi hội thảo, tập huấn kỹ thuật phòng trừ các loại bệnh

gây hại trên cây trồng, vật nuôi cho 3.306 hội viên hội nông dân các xã, thị

trấn tham dự. Đồng thời các xã còn chủ động tạo điều kiện cho người dân

tham gia các mô hình có giá trị kinh tế cao như: để có vốn sản xuất, Ủy ban

nhân dân xã đã làm cầu nối cho các hộ dân được vay vốn, giới thiệu cho

26.973 hộ vay với tổng số tiền 541.143.000.000 đồng từ các chương trình cho

vay ưu đãi như: học sinh, sinh viên, nước sạch vệ sinh môi trường, hộ cận

nghèo,…, trong đó nợ quá hạn là 3.237.000.000 đồng, chiếm tỉ lệ 0,59% trên

tổng dư nợ. Hoạt động Quỹ hỗ trợ nông dân hiện nay tổng dư nợ 04 cấp

(trung ương, tỉnh, huyện, xã) là 13.341.000.000đ cho 1.101 hộ vay bao gồm:

vốn địa phương là 768 hộ với 5.685.000.000đ, vốn huyện ủy thác là 75 hộ với

1.500.000.000đ, vốn tỉnh là 90 hộ với 1.656.000.000đ, vốn trung ương là 168

hộ với 4.500.000.000đ (Nguồn từ báo cáo của Ban chấp hành Hội nông dân

huyện Hòa Thành).

Các mô hình trên được nhân dân hưởng ứng tích cực và thực hiện có

hiệu quả góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn các xã, theo kết quả điều

tra năm 2016, cả huyện có 1.404 hộ nghèo và hộ cận nghèo theo Quyết định

59/2015/QĐ-TTg, chiếm 3,85%, trong đó hộ nghèo là 835 hộ, chiếm 2,29%

(so với năm 2015 giảm 0,14%); hộ cận nghèo là 575 hộ, chiếm 1,58% (so với

năm 2015 tăng 0,07%); số hộ thoát nghèo là 152, trong đó xã có tỉ lệ hộ thoát

nghèo cao nhất là xã Long Thành Nam với 38 hộ, xã có tỉ lệ hộ thoát nghèo

thấp nhất là xã Trường Tây với 16 hộ. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân xã còn phối

hợp với các đoàn thể thường xuyên kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn, tạo điều

kiện để người dân tiếp cận các nguồn vốn vay nhanh chóng, dễ dàng, giúp

người dân an tâm sản xuất. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay là:

Về chủ quan, các hộ gia đình chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở

rộng sản xuất kinh doanh do không xây dựng được phương án, kế hoạch sản

38

xuất khả thi nên khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ

chức tín dụng và các quỹ hỗ trợ phát triển. Chưa chủ động trong việc huy

động năng lực nội tại của gia đình, địa phương, chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ

của nhà nước. Sự phân công, phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể

ở địa phương trong việc hướng dẫn, hỗ trợ phát triển các mô hình kinh tế chưa

chặt chẽ, cụ thể dẫn đến hiệu quả hoạt động của các mô hình chưa cao.

Về khách quan, các mô hình này chưa đảm bảo được đầu ra cho sản

phẩm, ví dụ như: mô hình chăn nuôi bò sinh sản, mô hình trồng hoa lan cắt

cành, mô hình trồng rau sạch,...Từ đó người dân gặp không ít khó khăn nếu

thị trường có biến động; nhiều mô hình mang tính tự phát do có hiệu quả kinh

tế nhất thời nhưng không mang tính bền vững, người dân lại tự đầu tư vào sản

xuất chưa đảm bảo được hiệu quả rất dễ dẫn đến thua lỗ. Ngoài ra, những hoạt

động sản xuất này gặp một số khó khăn như: sản phẩm do chưa được áp dụng

các tiến bộ về khoa học công nghệ mới nên số lượng, chất lượng không cao;

hình thức sản xuất tại các làng nghề chủ yếu vẫn là hộ gia đình, quy mô sản

xuất nhỏ, thiết bị thô sơ, công nghệ thấp, vốn đầu tư ít; chính sách hỗ trợ,

khuyến khích phát triển làng nghề, công tác khuyến nông chưa đáp ứng theo

yêu cầu. Việc nắm bắt, cập nhật thông tin thị trường còn hạn chế, sản phẩm

tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Phần lớn lao động chưa qua đào tạo, chủ yếu

trưởng thành từ truyền nghề; số lượng nghệ nhân, thợ có tay nghề cao còn ít.

Chưa có sự gắn kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng; chưa có sự liên

doanh giữa các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, du lịch với các cơ sở sản

xuất ngành nghề, làng nghề.

Sản phẩm làng nghề còn đơn điệu, mẫu mã chất lượng chưa có tính

cạnh tranh cao; chưa có sản phẩm làng nghề nổi trội; một số làng nghề, ngành

nghề bị mai một dần. Do tác động của quá trình đô thị hóa và chuyển dịch cơ

cấu lao động nông thôn vào các khu, cụm công nghiệp, các nhà máy, xí

nghiệp, công ty tư nhân nên lao động làng nghề biến động; lao động có tay

nghề cao có xu hướng chuyển dần sang tìm việc làm tại các công ty, doanh

39

nghiệp nước ngoài, các khu công nghiệp. Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ các

ngành nghề nông thôn còn nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của những mặt

hàng cùng loại được sản xuất bằng công nghệ hiện đại; các sản phẩm ngành

nghề nông thôn gắn với du lịch còn ít, các làng nghề chưa gắn với tour du lịch

để tăng cường giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm. Năng lực, kinh nghiệm quản lý

kinh doanh của các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất, trình độ kiến thức và tay nghề

của người lao động trong các làng nghề còn hạn chế. Trong bối cảnh hội nhập

quốc tế, đây thực sự là khó khăn lớn để có thể đáp ứng được những yêu cầu

tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống đường giao thông đến các làng nghề chưa được

đầu tư nâng cấp hoàn chỉnh, đặc biệt hệ thống thông tin liên lạc, quảng bá sản

phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu.

Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là công tác quản lý nhà nước của Ủy ban

nhân dân xã phải có biện pháp thiết thực hơn nữa nhằm khắc phục những hạn

chế, thiếu sót nêu trên mà đặc biệt là chú trọng công tác tuyên truyền, vận

động người dân chuyển đổi mô hình sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi theo

hướng hiệu quả hơn, phải định hướng rõ ràng và bằng các biện pháp hiệu quả,

thích hợp để đảm bảo quyền và lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.

Ba là, quyết định, góp phần ra quyết định pháp lý hoạt động sản xuất

kinh doanh và giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn

Bảng 2.1. Cơ sở hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện

Phân theo ngành Phân theo tình trạng đăng ký kinh doanh

Xây dựng

Thương mại, dịch vụ

Vận tải, kho bãi Tổng số cơ sở

Công nghiệp chế biến, chế tạo Đã có giấy chứng nhận đăng ký KD Khôn g phải đăng ký KD

Chưa có giấy chứng nhận đăng ký KD

Đã đăng ký KD nhưng chưa được cấp giấy

11.258 1.805 79 368 9.006 5.687 3.109 2.134 328

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Hòa Thành thống kê năm 2017)

40

Như vậy, trên địa bàn huyện có 11.258 cơ sở kinh doanh theo các

ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, kho bãi, thương mại, dịch vụ, trong đó

đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 5.687 cơ sở (chiếm 50,51%)

tổng số cơ sở kinh doanh; chưa có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 2.134

cơ sở (chiếm 18,95%); có cơ sở không phải đăng ký kinh doanh là 328 cơ sở

(chiếm 2,91%) và có 3.109 cơ sở đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa được

cấp giấy chứng nhận (chiếm 27,61%). Các cơ sở này để được cấp giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh phải thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận nhằm

hoàn chỉnh thủ tục trình lên cấp trên thực hiện các bước tiếp theo để được cấp

giấy và Ủy ban nhân dân xã sẽ lập sổ theo dõi, kiểm tra hoạt động kinh doanh

theo thẩm quyền.

Tuy nhiên thực tế hoạt động này diễn ra còn hạn chế, do Ủy ban nhân

dân cấp xã chưa thường xuyên kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của

các cơ sở đã đăng ký, chỉ thực hiện việc kiểm tra các cơ sở kinh doanh khi có

vấn đề về hoạt động. Thực tế, Ủy ban nhân dân xã khi xác nhận hồ sơ để được

cấp giấy chứng nhận, cán bộ xã không lập sổ theo dõi kiểm tra, mặt khác giữa

cấp xã và cấp huyện chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động này, do khi

các cơ sở được cấp phép kinh doanh huyện, tỉnh không gửi thông báo về cho

chính quyền địa phương để tiện việc quản lý. Bởi vì có những hồ sơ cấp giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh không phải xác nhận của Ủy ban nhân dân xã

nên cấp xã không thể nắm được thông tin về hoạt động của cơ sở đó, từ đó

gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của xã, chính vì vậy xét về khía

cạnh quản lý, thì hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này chưa cao.

Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất, cuộc sống của

cộng đồng dân cư trong xã nói riêng

Kết cấu hạ tầng là điều kiện quan trọng cho kinh tế phát triển, nếu kết

cấu hạ tầng được trang bị hoàn chỉnh thì sẽ góp phần trực tiếp vào hiệu quả

phát triển kinh tế. Ủy ban nhân dân xã thực hiện việc đầu tư xây dựng kết cấu

41

hạ tầng thông qua việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ trực tiếp cho

sản xuất, cụ thể trên địa bàn huyện và 08 xã, thị trấn đã thực hiện được 303

công trình, trong đó: 156 công trình giao thông; 117 công trình dân dụng; 27

công trình hạ tầng kỹ thuật; 03 công trình thủy lợi với tổng mức đầu tư là:

656.298.708.000 đồng; nâng cấp đá 0x4 được 39km, sửa chữa đường giao

thông nông thôn được 54km. Ngoài ra cấp huyện còn quan tâm đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng như: điện, công trình thủy lợi, các công trình công cộng

để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân theo tiêu chuẩn

nông thôn mới, nhằm mục tiêu hướng đến năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn

nông thôn mới.

Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể theo yêu cầu của địa phương, các tuyến

đường giao thông, công trình công cộng hiện nay chỉ cơ bản đáp ứng nhu cầu,

chưa đạt yêu cầu đề ra. Cấp xã chưa có biện pháp hiệu quả, thiết thực nhằm

huy động nguồn lực từ các tổ chức, mạnh thường quân và Nhân dân đóng góp

cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình phục vụ nhu cầu phát

triển kinh tế-xã hội, chỉ huy động các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội

đóng góp được 36% tổng giá trị công trình.

Việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ nhu cầu vận chuyển và

đi lại của Nhân dân thời gian qua thường xuyên được quan tâm, tuy nhiên các

công trình chủ yếu là trải sỏi đó hoặc cứng hóa (trải đá dăm, đá 0x4), thực

hiện bê tông nhựa, bê tông xi măng đạt tỉ lệ thấp, chỉ 4,6km. Hiệu quả quản lý

các công trình này sau khi đưa vào sử dụng chưa cao, do không có đơn vị chủ

quản thực hiện quản lý, Ủy ban nhân dân xã chỉ đề ra các biện pháp kiểm tra,

đề xuất hướng giải quyết các công trình khi có vấn đề (duy tu, dặm vá, sửa

chữa…); hơn nữa việc giám sát, kiểm tra xây dựng các công trình chủ yếu

giao cho các ấp thực hiện nên không có chuyên môn, kỹ thuật quản lý phù

hợp. Các xã trong huyện huy động sự tham gia đóng góp và vận động người

dân làm đường giao thông theo kế hoạch nhất định trừ xã nông thôn mới thực

hiện chỉ tiêu làm đường theo tiêu chí quy định (nhựa hóa 100% đường trục

42

xã; cứng hóa 100% đường trục ấp và cứng hóa 50% đường ngõ xóm), tuy

nhiên thực tế căn cứ kế hoạch thì mỗi năm chỉ thực hiện được từ 01 đến 02

tuyến đường để đạt so với chỉ tiêu nghị quyết, nếu đề ra kế hoạch quá cao sẽ

khó hoàn thành. Chính vì vậy hoạt động này cần có cơ chế cụ thể hơn để mỗi

xã có thể chủ động thực hiện theo nhu cầu của người dân và yêu cầu phát

triển kinh tế-xã hội của địa phương.

Năm là, các biện pháp nhằm khai thác tiềm năng phát triển kinh tế

trên địa bàn xã, từ sản xuất đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng

Ủy ban nhân dân xã ngoài việc thực hiện các biện pháp hướng dẫn, tạo

điều kiện, khuyến khích, giúp đỡ các thành phần kinh tế trên địa bàn xã hoạt

động thường xuyên liên tục, cần tham gia vào các hoạt động kinh tế như:

trung gian giới thiệu, xác nhận, giúp đỡ nhà sản xuất đưa sản phẩm đến với

người tiêu dùng thông qua việc giới thiệu các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất

trình bày, quảng bá sản phẩm đến Nhân dân ở các khu dân cư, thôn, ấp, từ đó

làm cho các hoạt động kinh tế, trao đổi mua bán hàng hóa diễn ra thuận lợi,

nhanh chóng, góp phần tăng cường khả năng sản xuất và tiêu dùng của thị

trường. Hoạt động này thực tế trên địa bàn các xã vẫn còn khá mờ nhạt, chưa

phát huy hết vai trò là chủ thể quản lý các hoạt động sản xuất mặc dù phải

chịu sự chi phối và tác động của cơ chế kinh tế thị trường và nhu cầu của

người dân, chủ yếu nhiệm vụ của các xã là giới thiệu cho các doanh nghiệp,

cơ sở sản xuất tiếp cận người dân, nhưng lại chưa có cơ chế kiểm tra chất

lượng hàng hóa, sản phẩm, chưa có biện pháp chế tài phù hợp nếu các cơ sở

trên vi phạm quy định về đảm bảo chất lượng. Cho nên thực trạng hiện nay

còn hạn chế về khả năng liên kết với các nhà sản xuất các dòng sản phẩm tốt

và khả năng liên kết nhà sản xuất với người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, sản

phẩm để đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng cao nhất, tránh gây thiệt hại

cho người dân.

Sáu là, tổ chức và quản lý phát triển kinh tế trên địa bàn xã, chống

tham nhũng, lãng phí

43

Phát triển kinh tế công được các xã quan tâm thực hiện nhằm tạo nguồn

thu cho ngân sách, Ủy ban nhân dân xã đã thực hiện việc thu phí, lệ

phí,…Việc cho thuê đất công với diện tích 49ha, hàng năm thu nộp ngân sách

2.136.215.360 đồng. Tuy nhiên việc phát triển kinh tế công ở các xã hiện nay

chưa phát huy được hết tiềm năng, nhiều nơi chưa khai thác hiệu quả các

nguồn thu, một số nơi còn quỹ đất công nhưng chưa có giải pháp tận thụ hết

công suất, các xã chưa chủ động khai thác hiệu quả các nguồn thu từ hoạt

động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác để nộp vào ngân sách, nhằm

tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Từ đó, có thể đánh giá công tác

quản lý chưa thật sự đạt hiệu quả cao, lãng phí tài nguyên, chưa vận dụng hết

tiềm năng vốn có.

2.2.1.2. Xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế phù

hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của cấp trên nhằm huy

động mọi tiềm lực kinh tế trên địa bàn

Công tác xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế trên địa

bàn các xã huyện Hòa Thành được quan tâm thực hiện hàng năm và giai đoạn

05 năm. Riêng công tác lập quy hoạch các xã còn hạn chế trong quá trình thực

hiện. Hiệu quả của công tác lập quy hoạch thể hiện qua kết quả sản xuất của

các chủ thể kinh tế. Các xã phát triển kinh tế theo định hướng quy hoạch

chung của tỉnh, huyện và của xã, tuy nhiên do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế

thị trường nên có những ngành nghề phát triển mạnh như: mây tre đan, se

nhang,…cũng có ngành nghề dần bị mai một mà chính quyền cấp xã khó có

khả năng can thiệp được như nghề làm đũa, nghề chằm nón lá,…

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch nếu phù hợp sẽ khuyến khích kinh tế

phát triển năng động hơn, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát

triển, lúc đó các ngành nghề sản xuất, kinh doanh sẽ tự phát theo nhu cầu của

thị trường, dẫn đến công tác quản lý của chính quyền địa phương gặp rất

nhiều khó khăn. Qua khảo sát thực tế, công tác lập quy hoạch phát triển kinh

tế của huyện có 5/8 xã, thị trấn phát triển ngành nghề không theo quy hoạch

44

mà chú trọng ngành nghề mới phát sinh theo nhu cầu của thị trường do quy

hoạch chưa dự báo được hết tình hình phát triển kinh tế của địa phương. Điều

này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ, năng lực của người lập quy

hoạch, tiềm năng kinh tế của từng địa phương,...

Như vậy công tác lập quy hoạch, kế hoạch để đạt hiệu quả phải chú

trọng tính khả thi, có như thế mới có thể huy động được hết tiềm năng phát

triển kinh tế của địa phương. Công tác quản lý sẽ gặp khó khăn khi cấp xã

định hướng phát triển kinh tế bằng quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khả thi và

sẽ không huy động được hết tiềm năng kinh tế của địa phương. Việc quản lý

quy hoạch không phân định nhiệm vụ cụ thể, không có phương pháp quản lý

thích hợp sẽ dễ dẫn đến thực trạng là phát triển kinh tế không theo quy hoạch

do không có biện pháp hiệu quả để tạo điều kiện cho ngành, nghề sản xuất

kinh doanh phát triển.

2.2.1.3 Lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn và

phƣơng án phân bổ dự toán ngân sách

Việc điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương (trong trường hợp cần

thiết) và lập quyết toán ngân sách địa phương phải trình ra Hội đồng nhân dân

cùng cấp quyết định, báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên

trực tiếp. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện ngân sách địa

phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân

sách trên địa bàn. Hàng năm các xã trên địa bàn huyện Hòa Thành thực hiện

công tác lập dự toán thu, chi ngân sách địa phương theo đúng Luật Ngân sách

nhà nước. Trên cơ sở chỉ tiêu thu ngân sách, thu thuế huyện giao trong năm,

các xã, thị trấn thực hiện công tác lập dự toán thu, chi đưa ra lấy ý kiến tập thể

cán bộ, công chức trước khi thông qua tại kỳ họp Hội đồng nhân dân vào cuối

năm trước đó. Tuy nhiên trong quá trình quản lý ngân sách nếu có phát sinh

nhiệm vụ chi mà nguồn thu không đảm bảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ

điều chỉnh dự toán chi phù hợp và thông báo đến cán bộ, công chức biết đồng

thời báo cáo cho Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.

45

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm điều hành, quản lý ngân

sách hiệu quả, đảm bảo chi đúng, chi đủ đồng thời tính toán tận dụng các

nguồn thu nhằm cân đối ngân sách theo quy định; giao trách nhiệm cho công

chức tài chính-kế toán xã trực tiếp tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân

theo dõi, giám sát hoạt động thu, chi nếu có khó khăn, vướng mắc phải báo

cáo và đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. Công chức tài chính-kế toán thực

hiện quyết toán ngân sách với cơ quan tài chính cấp trên theo hướng dẫn quy

định tại Luật Ngân sách Nhà nước, sau đó trình ra Hội đồng nhân dân cùng

cấp phê duyệt quyết toán vào thời gian kỳ họp 6 tháng của năm sau.

Tuy nhiên hoạt động quản lý ngân sách ở cấp xã thực tế gặp không ít

khó khăn như: huyện giao chỉ tiêu thu ngân sách cho các xã, thị trấn trên cơ

sở đã dự toán trước sẽ thu từ nguồn nào và thu bao nhiêu, nhưng thực tế có

nhiều xã nguồn thu giao không đảm bảo thực hiện khả thi do không có địa chỉ

như: thu từ nguồn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu khác ngân sách từ

nguồn xử phạt vi phạm hành chính, do đó trong quá trình thực hiện rất dễ dẫn

đến nguồn thu không đảm bảo. Trong năm 2017, do tình hình thu ngân sách

gặp rất nhiều khó khăn, một số nguồn thu bị hụt, có 4/8 xã, thị trấn phải điều

chỉnh dự toán chi, đề nghị huyện bổ sung nguồn thu nhằm đảm bảo cân đối

ngân sách.

2.2.1.4. Đề ra các biện pháp nhằm đƣa tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa

phƣơng

Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất trên địa bàn

Hòa Thành thời gian qua đạt được những kết quả thiết thực, góp phần nâng

cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân. Từng địa phương đã thực

hiện chuyển giao, giới thiệu các thành tựu khoa học kỹ thuật mới thông qua

các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong 03 năm qua huyện đã tổ

chức được 36 lớp đào tạo nghề với 1.110 học viên tham dự, tập trung các

ngành nghề như: kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản, lớp kỹ thuật đan mây tre, lớp

46

thợ hồ thợ nề, lớp dạy nấu ăn, kỹ thuật trồng rau an toàn,…Ủy ban nhân dân

các xã, thị trấn đã phối hợp với các phòng, ban chuyên môn của huyện mở

1.155 lớp tập huấn phổ biến một số điểm mới đối với các văn bản luật mới

được ban hành với 49.767 người dân tham gia. Kết quả cho thấy, các học viên

tham gia các lớp đạo tạo nghề đã ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ vào hoạt

động sản xuất, mang lại năng suất cao, nhất là nghề dạy nấu ăn, kỹ thuật đan

mây tre và trồng rau an toàn.

Hiện tại trên địa bàn huyện có 85.213 lao động sản xuất nông nghiệp,

trong đó có 18.365 người được chuyển giao các tiến bộ về khoa học kỹ thuật,

chiếm 21,55% là quá ít. Đồng thời thiếu cơ chế tổ chức, hướng dẫn phù hợp

nên khi được chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, người

dân chưa áp dụng hiệu quả dẫn đến năng suất, chất lượng chưa cao. Nguồn

kinh phí cho hoạt động tổ chức các lớp đào tạo nghề chuyển giao tiến bộ kỹ

thuật chưa được bố trí hợp lý để có thể kích thích thực hiện một cách hiệu

quả; chưa có cơ chế quy trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân thực

hiện nhiệm vụ này. Việc thực hiện liên kết “4 nhà” chưa thật sự hợp lý nhằm

hỗ trợ người nông dân phát triển kinh tế, tình trạng được mùa mất giá, được

giá mất mùa vẫn còn phổ biến ở các địa phương mà chưa thật sự có biện pháp

giải quyết căn cơ, triệt để.

2.2.1.5. Kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật của

Nhà nƣớc về kinh tế

Kiểm tra, giám sát là việc làm bắt buộc và thường xuyên trong hoạt

động quản lý, điều hành; công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải gắn liền với hoạt

động kiểm tra, giám sát nhằm mục tiêu phát hiện và kịp thời chỉ ra những hạn

chế, thiếu sót từ đó đề ra các giải pháp khắc phục. Hoạt động kiểm tra, giám

sát được thực hiện bởi những cơ quan, đối tượng khác nhau với những nội

dung và góc độ cũng khác nhau, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về

kinh tế.

47

Kiểm tra có thể được tổ chức thành đoàn để tiếp cận cơ sở thực hiện

hoặc cũng có thể giao cho từng cá nhân riêng lẽ thực hiện về một nội dung

nào đó do Ủy ban nhân dân huyện phân công. Thực hiện có hiệu quả nội dung

này cấp dưới sẽ quan tâm chú ý hơn, có ý thức tốt hơn về vị trí, vai trò, chức

năng, trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ

đó sẽ chủ động hơn trong thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động thanh tra do Ủy ban

nhân dân huyện giao cho cơ quan thanh tra huyện thực hiện nội dung chủ yếu

là thanh tra hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà

nước về kinh tế nói riêng.

Cơ chế để người dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính

nhà nước đó là: Ủy ban nhân dân xã tiếp thu, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị

của người dân về những hạn chế, thiếu sót trong quá trình quản lý. Từ đó, Ủy

ban nhân dân xã tiến hành điều chỉnh hoạt động quản lý của mình được tốt

hơn và phản hồi, phúc đáp lại cho Nhân dân biết kết quả khắc phục, qua đó

giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các

lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng được chặt chẽ hơn.

2.2.1.6. Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quy

định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng, chống hàng gian,

hàng giả, hàng kém chất lƣợng, bảo vệ lợi ích của ngƣời tiêu dùng

Trong giai đoạn hiện nay, trên thị trường đã và đang tồn tại một thực tế

là hàng thật, hàng giả, hàng kém chất lượng lẫn lộn với nhau nhất là ở vùng

nông thôn tình trạng này lại càng trở nên phổ biến hơn; hàng giả, hàng kém

chất lượng được tung ra thị trường với nhiều chiêu trò khuyến mãi hấp dẫn

nhằm thu hút người tiêu dùng. Điều này sẽ rất có hại nếu mua phải và ảnh

hưởng không tốt cho các loại hàng hóa thật, bởi sẽ liên quan đến uy tín

thương hiệu trên thị trường, ví dụ: trứng gà giả, sữa giả, phân bón giả,…nếu

người tiêu dùng sử dụng với số lượng nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe,

thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Chính vì vậy phải thường xuyên chú trọng

đến hoạt động kiểm tra, giám sát để đảm bảo sự ổn định và trong sạch của thị

48

trường, hiện tại theo quy định có 05 cơ quan thực hiện chức năng và có thẩm

quyền xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực này bao gồm: cơ quan

quản lý thị trường; thanh tra chuyên ngành khoa học – công nghệ; văn hóa,

thể thao và du lịch; công an kinh tế; Ủy ban nhân dân các cấp, trong đó Ủy

ban nhân dân cấp xã chưa có lực lượng để có thể thực hiện được chức năng

này theo quy định của pháp luật, chủ yếu do Phòng Kinh tế-Hạ tầng của

huyện, cơ quan quản lý thị trường và công an kinh tế thực hiện.

Trong 03 năm 2014-2016, Phòng Kinh tế-Hạ tầng của huyện đã phối

hợp với Đội Quản lý thị trường số 3 kiểm tra 84 vụ. Qua kiểm tra phát hiện 27

vụ vi phạm, trong đó: vi phạm về lĩnh vực hàng cấm 18 vụ; vi phạm về nguồn

gốc, xuất xứ 06 vụ; vi phạm khác 03 vụ (sử dụng LPG mini không được phép

nạp lại). Phạt vi phạm hành chính 27 vụ với số tiền 295.500.000 đồng (Trong

đó: tiền phạt hành chính 85.500.000 đồng, tiền bán hàng tịch thu: 210.000.000

đồng). Công tác kiểm tra thị trường theo Kế hoạch của Ban chỉ đạo 389

huyện: đã kiểm tra 222 hộ kinh doanh, phát hiện nhắc nhở 21 hộ kinh doanh

không niêm yết giá trên các sản phẩm; 03 vụ kinh doanh không có giấy phép

đăng ký. Bắt 09 vụ (trong đó 06 vụ kinh doanh hàng giả, 03 vụ kinh doanh

hàng cấm). Tạm giữ tang vật 23 kg bột ngọt giả bao bì Ajinomoto; 29 gói

hero; 30 gói Jet. Ra quyết định xử phạt với số tiền 11.700.000 đồng.

Hiện nay khó khăn nhất đối với chính quyền cấp xã trong thực hiện

chức năng kiểm tra hàng giả, hàng kém chất lượng là chưa có đủ thẩm quyền,

năng lực, trình độ chuyên môn và chưa được trang bị phương tiện kỹ thuật để

đánh giá đúng chất lượng hàng hóa; chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan

quản lý thị trường và chính quyền trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, xử

phạt vi phạm về lĩnh vực này. Mặt khác, ở cấp xã không có cán bộ chuyên

trách về thực hiện công tác quản lý thị trường, tạm thời giao cho công an xã

liên kết với một số ban ngành, các đoàn thể đảm nhiệm việc này, trong khi đó

chức năng của công an xã là đảm bảo trật tự an toàn xã hội là chính.

49

Cấp xã chưa chủ động trong việc kiểm tra xử phạt chỉ khi nào có sự chỉ

đạo từ cấp trên hoặc hàng hóa đó có thông tin làm giả thì mới tiến hành kiểm

tra nhắc nhỡ, còn xử phạt rất hạn chế bởi theo quy định của pháp luật, để xử

lý được hàng giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả, chi phí

thực hiện việc giám định là khá cao, đồng thời phải có yêu cầu giám định của

chủ thương hiệu sản phẩm được làm giả. Mặt khác, có những hàng hóa có

nguồn gốc từ các nước không đăng ký chất lượng tại Việt Nam, hàng hóa

không có ai xác nhận là hàng giả vì không có cơ quan đại diện của nhà sản

xuất tại Việt Nam.

2.2.2. Đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên

địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh

2.2.2.1. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 1 về trình độ và năng lực thực

hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nƣớc của đội ngũ cán bộ, công

chức cấp xã trên địa bàn huyện

Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân ở địa

phương, do Hội đồng nhân dân trực tiếp bầu ra và thực hiện nhiệm vụ trong

nhiệm kỳ 05 năm, Ủy ban nhân dân xã hoạt động trên nguyên tắc tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách từng lĩnh vực công việc cụ thể. Do đó thực hiện chức

năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh

tế nói riêng có hiệu quả hay không phụ thuộc vào cách thức tổ chức và quá

trình thực thi nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân, đồng thời phụ thuộc rất lớn vào

khả năng, năng lực của từng nhân sự đảm trách công việc đó.

Về số lượng, cơ cấu nhân sự thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên

các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng ở cấp xã thì có Chủ tịch Ủy

ban nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách lĩnh vực kinh tế,

giúp việc cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch có các công chức như sau: trưởng

công an, xã đội trưởng, công chức tài chính-kế toán, công chức văn phòng-

thống kê, công chức địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường, công

50

chức tư pháp-hộ tịch và một số người hoạt động không chuyên trách như cán

bộ cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ thuế,...

Nguồn nhân lực của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của tỉnh

Tây Ninh tại Quyết định số 66/2013/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 12 năm 2013

quy định “về chức danh, bố trí các chức danh và chế độ, chính sách đối với

những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ấp, khu

phố trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”. Hiện tại huyện Hòa Thành có 08 xã, thị trấn

trong đó biên chế cấp xã là 25 biên chế, riêng Ủy ban nhân dân xã gồm có

Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và 07 chức danh công chức gồm:

trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự, văn hóa-xã hội, tư pháp-hộ tịch, địa

chính-nông nghiệp-xây dựng và môi trường, văn phòng-thống kê, tài chính-kế

toán. Ngoài ra để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân thực hiện chức

năng quản lý nhà nước còn có các chức danh hoạt động không chuyên trách

gồm: cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ

quỹ, cán bộ đội thuế, cán bộ đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa,…Tổ chức

bộ máy của Ủy ban nhân dân xã thể hiện qua số lượng thành viên Ủy ban

nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức và đội ngũ cán bộ không chuyên trách

trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, chất lượng của đội

ngũ này và sự phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý hành chính

nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nói

riêng, bao gồm:

Số lượng cán bộ, công chức: 193.

Cán bộ chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện: 90.

Công chức cấp xã trên địa bàn huyện: 103.

Về số lượng cán bộ, công chức: thể hiện qua trình độ văn hóa, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước, qua số liệu

thống kê tại thời điểm ngày 01 tháng 12 năm 2016 của Phòng Nội vụ huyện

Hòa Thành, cụ thể như sau:

51

Bảng 2.2. Về trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức xã

Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %

0 0 0 0 Tiểu học

3 3,33 1 0,97 Trung học cơ sở

87 96,67 102 99,03 Trung học phổ thông

(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)

Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.2 cho thấy, trình độ văn hóa của

đội ngũ cán bộ, công chức các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hòa Thành đã

cơ bản đạt chuẩn theo quy định, chỉ còn 04 trường hợp không đạt chuẩn theo

yêu cầu (tốt nghiệp trung học cơ sở) cần phải tham gia các lớp bổ túc để tốt

nghiệp trung học phổ thông theo chuẩn quy định đối với cán bộ, công chức

cấp xã.

Bảng 2.3. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,

công chức xã

Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %

7 7,78 0 0 Chƣa qua đào tạo

1 1,11 0 0 Sơ cấp

53 58,89 49 47,57 Trung cấp

1 1,11 5 4,85 Cao đẳng

28 31,11 48 46,61 Đại học

0 0 1 0,97 Thạc sĩ

(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)

Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.3 cho thấy, trình độ chuyên môn

của đội ngũ cán bộ chuyên trách vẫn còn 07 trường hợp chưa qua đào tạo

(chiếm 7,78%) và 01 trường hợp trình độ sơ cấp (chiếm 1,11%); đối với đội

ngũ công chức cấp xã trình độ trung cấp vẫn còn cao với 49 trường hợp

(chiếm 47,57%). Với thực trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,

52

công chức nêu trên, đòi hỏi Ủy ban nhân dân huyện, xã, thị trấn cần phải tạo

điều kiện chuẩn hóa cán bộ nhất là đối với 07 trường hợp chưa qua đào tạo,

nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ, công chức đạt chuẩn theo yêu cầu quy

định trong tình hình hiện nay.

Bảng 2.4. Về trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức xã

Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %

0 0 0 0 Chƣa đào tạo

7 7,78 9 8,74 Sơ cấp

72 80 86 83,49 Trung cấp

10 11,11 8 7,77 Cao cấp

1 1,11 0 0 Cử nhân

(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)

Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.4 cho thấy, trình độ chính trị của

đội ngũ cán bộ, công chức xã, thị trấn nhìn chung cơ bản đạt chuẩn theo quy

định, trình độ sơ cấp còn 16 trường hợp (chiếm 8,3%); còn lại là trình độ

trung cấp trở lên, chiếm tỉ lệ khá cao (chiếm 91,71%), trong đó có 01 trường

hợp là cử nhân chính trị (chiếm 0,52%).

Bảng 2.5. Về công tác đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức quản lý hành

chính nhà nƣớc của đội ngũ cán bộ, công chức xã

Công chức

Cán bộ chuyên trách Trình độ

Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %

81 90 92 89,32 Chƣa qua đào tạo

9 10 11 10,68 Chuyên viên và tƣơng đƣơng

(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)

Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.5 cho thấy, đội ngũ cán bộ, công

chức chủ yếu là chưa qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính

53

nhà nước, chiếm tỉ lệ rất cao (chiếm 89,64%), điều này đặt ra nhiệm vụ trong

thời gian tới cấp ủy, chính quyền các cấp từ huyện đến xã, thị trấn phải tạo

điều kiện cho các trường hợp nêu trên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để

chuẩn hóa trình độ cán bộ theo quy định.

Ngoài ra còn tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước dành

cho đối tượng là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân

dân xã trên địa bàn huyện theo Đề án 1956 được 28 trường hợp; bồi dưỡng kỹ

năng lãnh đạo cấp phòng 07 trường hợp và bồi dưỡng các chức danh cấp xã

theo Đề án 1956 được 21 trường hợp (chiếm 10,88%) quá ít so với số lượng

và nhu cầu đào tạo của các địa phương.

Đối với chức danh người hoạt động không chuyên trách tham mưu Ủy

ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế gồm: giao thông – nông thôn –

thủy lợi, thuế, đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa trên địa bàn huyện có 33

trường hợp, trong đó về trình độ văn hóa: tốt nghiệp trung học cơ sở là 06

trường hợp (chiếm 18,18%), tốt nghiệp trung học phổ thông là 27 trường hợp

(chiếm 81,81%); về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa qua đào tạo là 14

trường hợp (chiếm 42,42%), sơ cấp 02 trường hợp (chiếm 6,06%), trung cấp

10 trường hợp (chiếm 30,30%), đại học 07 trường hợp (chiếm 21,21%); về

trình độ lý luận chính trị: chưa qua đào tạo 15 trường hợp (chiếm 45,45%), sơ

cấp 04 trường hợp (chiếm 12,12%), trung cấp 14 trường hợp (chiếm 42,42%);

về bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước, chưa qua bồi dưỡng 25

trường hợp (chiếm 75,75%), tham gia bồi dưỡng 08 trường hợp (chiếm

24,24%). Đội ngũ này có trình độ chuyên môn thấp, hầu hết chưa qua bồi

dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước, do đó trong quá trình thực thi

nhiệm vụ sẽ gặp hạn chế trong công tác tham mưu, đồng thời sẽ lúng túng

trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao ở địa phương.

Với số lượng cán bộ chuyên trách, công chức và người hoạt động

không chuyên trách trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước về

kinh tế tại các xã trên địa bàn huyện như trên cơ bản đáp ứng được yêu cầu,

54

nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần quan tâm: đối với đội

ngũ cán bộ chuyên trách về trình độ chuyên môn có 07 trường hợp chưa qua

đào tạo (chiếm 7,78%) là cao; về trình độ đại học là 28 trường hợp (chiếm

31,11%); về trình độ chính trị của đội ngũ này trung cấp là 72 trường hợp

(chiếm 80%); về bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước chưa qua

đào tạo là 81 trường hợp (chiếm 90%). Như vậy có thể nói đội ngũ cán bộ

chuyên trách được đào tạo chủ yếu về lý luận chính trị; về trình độ chuyên

môn nghiệp vụ có trường hợp vẫn chưa qua đào tạo và bồi dưỡng kiến thức

quản lý hành chính nhà nước còn tới 90% chưa được đào tạo.

Đối với đội ngũ công chức, thực tế qua khảo sát cho thấy: trình độ

chuyên môn theo quy định phải từ trung cấp trở lên, bởi lực lượng này thông

qua thi tuyển có sự cạnh tranh nên sẽ loại ra những người không đủ chuẩn,

tuy nhiên đa phần họ chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà

nước có 92 trường hợp (chiếm 89,32%), đây cũng là vấn đề ảnh hưởng đến

công tác tham mưu quản lý hành chính nhà nước tại mỗi địa phương.

Đối với những người hoạt động không chuyên trách trình độ tương đối

thấp, cụ thể về chuyên môn chưa qua đào tạo có 14 trường hợp (chiếm

42,42%); chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước có 25

trường hợp (chiếm 75,75%). Vì thế, họ sẽ thiếu chủ động trong công tác tham

mưu và hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước nói

chung và trên lĩnh vực kinh tế nói riêng, do đó hiệu quả quản lý sẽ không cao.

Như vậy với thực trạng trên, khi thực hiện nhiệm vụ quản lý sẽ rất khó

khăn do các đối tượng trên chưa được đào tạo đủ chuẩn theo quy định, trong

khi đó tại Quyết định số 163/QĐ-TTg, ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ

tướng Chính phủ “về phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,

viên chức giai đoạn 2016 – 2025” quy định phải chuẩn hóa về trình độ lý luận

chính trị; kiến thức quản lý nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an

ninh theo các chương trình quy định cho cán bộ, công chức, viên chức; cập

nhật và nâng cao kiến thức, năng lực hội nhập quốc tế; bồi dưỡng kiến thức

55

tin học, ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quy định, tiếng dân tộc cho cán bộ, công

chức, viên chức công tác tại vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Vì

thế khi tham mưu giải quyết công việc, đội ngũ này rất dễ dẫn đến làm việc

theo cảm tính, hiệu quả công việc sẽ không cao. Đây là vấn đề cần phải được

quan tâm thường xuyên để thực hiện công tác quản lý nhà nước nói chung và

quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nói riêng được tốt hơn.

Tóm lại, với việc bố trí nguồn nhân lực và cách thức hoạt động của Ủy

ban nhân dân cấp xã như hiện nay so với nhiệm vụ, chức năng quy định đòi

hỏi các xã, thị trấn phải tích cực hơn nữa trong việc chủ động kiện toàn, tạo

điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức, những người hoạt động không

chuyên trách tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa về chuyên

môn, nghiệp vụ và nhạy bén khi thực hiện công tác tham mưu quản lý nhà

nước tại địa phương, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.

2.2.2.2. Đánh giá hiệu quả theo tiêu chí 2 việc đảm bảo thực hiện

những nội dung quản lý nhà nƣớc trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân

dân cấp xã

Quan tâm thực hiện tốt tình hình thu, chi ngân sách địa phương, phối

hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách trên địa

bàn, nhằm đảm bảo theo quy định của pháp luật. Hàng năm Ban tài chính xã

phối hợp cùng đội thuế lập các khoản thu cần phải thực hiện trong năm, từ đó

lập dự toán thu, chi ngân sách xã báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân xã

và chuẩn bị hồ sơ để thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân gần nhất. Trong

quá trình chi ngân sách nếu nguồn thu không đảm bảo thì công chức tài

chính-kế toán xã chủ động tham mưu chủ tài khoản tính toán lại các khoản chi

nhằm đảm bảo cân đối ngân sách. Dự toán thu, chi ngân sách xã sau khi được

Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua, Ủy ban nhân dân xã phải lập thủ tục

báo cáo Ủy ban nhân dân huyện và Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện quyết

định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là chủ tài khoản điều hành hoạt động thu,

chi ngân sách xã. Công chức tài chính-kế toán xã chịu trách nhiệm tham mưu

56

về nghiệp vụ kế toán, chủ động liên hệ với cơ quan tài chính cấp trên để thực

hiện công tác tham mưu quản lý ngân sách trên địa bàn theo đúng quy định

của pháp luật.

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đối với hoạt động quản lý hành

chính nhà nước, tuy nhiên việc trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho công tác

quản lý cũng là yếu tố vô cùng quan trọng. Cơ sở vật chất bao gồm các trang

thiết bị, phương tiện, dụng cụ chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động

quản lý hành chính nhà nước, đây là điều kiện cần thiết và không thể thiếu

trong hoạt động quản lý, cụ thể: máy vi tính, máy ghi âm, máy photocopy,

máy in, dụng cụ hỗ trợ lấy mẫu xét nghiệm,... Do đó, để nâng cao hiệu quả

hoạt động quản lý hành chính ngoài những vấn đề đã nêu trên thì việc trang bị

đầy đủ cơ sở vật chất cho hoạt động quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả

quản lý được tốt hơn. Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển rất đa

dạng và phong phú như hiện nay, để thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội nói

chung, trong công tác quản lý cần phải trang bị đầy đủ phương tiện làm việc

phù hợp để đảm bảo công việc được thực hiện đạt kết quả tốt nhất.

2.2.2.3. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 3 về chi phí thực hiện công tác

quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện

Chi phí quản lý là khoản kinh phí bỏ ra để thực hiện hoạt động quản lý,

chi phí này được lồng ghép chung vào chi phí thực thi nhiệm vụ của từng đơn

vị, hàng năm chi phí cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở các xã dao

động khoảng 300-340 triệu đồng. Kinh phí này sử dụng cho hoạt động của

các ban, ngành nhằm thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, trong đó có thực hiện

chức năng quản lý nhà nước mà cụ thể bao gồm các nội dung sau:

Chi phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cấp xã trích từ

ngân sách xã, thị trấn mỗi năm từ 20.000.000đ đến 24.000.000 đồng, chủ yếu

do cán bộ, công chức tự bỏ kinh phí để học tập nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ. Các xã, thị trấn luôn quan tâm thực hiện những nội dung nhằm

khai thác hết tiềm năng kinh tế, nhất là tận dụng triệt để các nguồn thu của xã,

57

các nguồn thu từ việc điều tiết từ ngân sách cấp trên và quan tâm thực hiện

các quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhằm tạo nguồn thu cho ngân

sách. Từ những việc làm trên, kinh tế xã phát triển, đáp ứng yêu cầu và

nguyện vọng của người dân, từ đó Nhân dân nhiệt tình ủng hộ và hưởng ứng

các chủ trương chính sách do địa phương phát động.

Công tác lập quy hoạch đã cơ bản đạt được mục tiêu định hướng cho

phát triển kinh tế ở mỗi địa phương mặc dù hiện nay chi phí cho hoạt động

lập quy hoạch ở các xã, thị trấn chưa được bố trí thực hiện. Tuy không được

bố trí kinh phí để thực hiện quy hoạch, các xã, thị trấn vẫn xây dựng một số

quy hoạch cụ thể phù hợp với địa phương như: quy hoạch vùng sản xuất, quy

hoạch sử dụng đất,…những quy hoạch này thực hiện theo quy trình cụ thể,

hiệu quả của công tác lập quy hoạch chưa cao, đa số các quy hoạch còn nằm

trên giấy chưa tiến hành triển khai. Có xã chưa thực hiện được quy hoạch sản

xuất, chỉ có quy hoạch sử dụng đất, đồng thời hiện tại vẫn còn thiếu cơ chế

kiểm tra, đánh giá công tác quy hoạch để đảm bảo thực hiện theo đúng quy

định. Mặt khác, tuy lập quy hoạch nhưng hoạt động theo dõi, triển khai thực

hiện quy hoạch chưa được quan tâm chặt chẽ, do đó có xã phát triển kinh tế

theo hướng tự phát không theo quy hoạch, không đạt hiệu quả cao.

Công tác quản lý và điều hành ngân sách ở các xã, thị trấn trên địa bàn

huyện được thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm

2015 và đã đạt được một số kết quả nhất định; tuy nhiên chi phí này không

được phân bổ rõ ràng cho từng hoạt động mà được thực hiện dựa trên kết quả

thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.

Với mục tiêu từng bước đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động

sản xuất, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân, các xã, thị trấn đã thực hiện

nhiều biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả nội dung trên như: xã Long

Thành Bắc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng hoa màu, chăn nuôi; xã

Long Thành Trung đưa tiến bộ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các

ngành nghề truyền thống, xã Trường Tây đưa tiến bộ vào sản xuất giống cây

58

trồng, chăn nuôi,…Chi phí thực hiện công tác này thường thấp, do các biện

pháp thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động khuyến nông, tạo điều kiện cho

các doanh nghiệp giới thiệu thành tựu khoa học kỹ thuật đến người dân.

Ngoài ra, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn được tổ chức

thông qua các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, kinh phí dành cho

hoạt động này được phân bổ hàng năm từ nguồn vốn ngân sách tỉnh, trong 03

năm được phân bổ 1.620.000.000đ tổ chức được 36 lớp dạy nghề trên địa bàn

các xã, thị trấn tiêu biểu như các ngành nghề kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản,

lớp kỹ thuật đan mây tre, lớp thợ hồ thợ nề, lớp dạy nấu ăn, kỹ thuật trồng rau

an toàn,…Công tác này được giao cho công chức lao động thương binh xã hội

các xã, thị trấn đảm nhiệm, thực hiện phối hợp với các hội đoàn tham mưu Ủy

ban nhân dân các xã, thị trấn tổ chức.

Trong hoạt động quản lý, việc kiểm tra hàng gian, hàng giả, hàng kém

chất lượng chi phí còn thấp và không được bố trí nguồn kinh phí riêng. Mục

tiêu quản lý nhà nước ở lĩnh vực này có lúc có nơi chưa đạt yêu cầu đề ra, các

xã, thị trấn đa số chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa,

trình độ năng lực của cán bộ, công chức cấp xã chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ cho công tác kiểm tra đo lường tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Trong 03

năm qua, các xã, thị trấn chỉ thực hiện trung bình được 15 cuộc kiểm tra,

trong đó Thị trấn Hòa Thành thực hiện nhiều nhất với 33 cuộc kiểm tra, phát

hiện 33 cơ sở vi phạm, đã tiến hành nhắc nhở và đề nghị khắc phục; xã

Trường Hòa thực hiện ít nhất với 09 cuộc kiểm tra, phát hiện 09 cơ sở vi

phạm. Kinh phí cho mỗi cuộc kiểm tra được chi là tiền công tác phí cho cán

bộ đi kiểm tra 50.000 đồng/1 người/1 ngày; kinh phí kiểm định chất lượng

sản phẩm không được phân bổ.

Tóm lại, kinh phí cho các hoạt động quản lý chưa được phân định rõ

ràng, nhất là chi phí cho các hoạt động quản lý hành chính về kinh tế, chủ yếu

là trách nhiệm quản lý được chi trả bằng tiền lương và phụ cấp hàng tháng.

Do đó, hiện nay việc đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý đạt được dựa trên

59

mục tiêu cơ bản tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, nhưng chưa phát huy tối

đa tiềm năng kinh tế của địa phương.

2.2.2.4. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 4 về sự hài lòng của ngƣời dân

và tổ chức đối với hoạt động quản lý của Ủy ban nhân dân xã

Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong đó có lĩnh

vực kinh tế. Huyện Hòa Thành có 08 xã, thị trấn đã thực hiện chức năng quản

lý hành chính nhà nước như kết quả đã đánh giá ở trên, góp phần tạo ra động

lực cho sự phát triển kinh tế ở mỗi địa phương. Tuy nhiên, trên từng nội dung

quản lý về kinh tế của Ủy ban nhân dân xã vẫn còn có những hạn chế nhất

định mà người dân chưa thật sự hài lòng về công tác quản lý, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức xã khi

giải quyết công việc hành chính cho người dân vẫn còn trường hợp cán bộ,

công chức chưa tận tâm hướng dẫn và giải quyết nhanh chóng, kịp thời các

thủ tục hành chính. Qua khảo sát còn trường hợp cán bộ, công chức chưa có

giấy hẹn, chưa tận tình hướng dẫn người dân khi đến liên hệ giải quyết công

việc, để người dân đi lại nhiều lần. Qua thống kê 08/08 xã, thị trấn có 86

trường hợp không có giấy hẹn để nhân dân đi lại nhiều lần trên tổng số

198.382 hồ sơ nhận giải quyết, đặc biệt là ở lĩnh vực địa chính-xây dựng và

lĩnh vực tư pháp-hộ tịch mặc dù các lĩnh vực này đã và đang áp dụng quy

trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. Từ đó dẫn

đến một số ít bộ phận nhân dân chưa thật sự hài lòng về thái độ làm việc của

công chức và cách thức điều hành quản lý của Ủy ban nhân dân xã.

Thứ hai, về thực hiện nội dung quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh

vực kinh tế của Ủy ban nhân dân xã cơ bản đã thực hiện tốt chức năng quản lý

của mình, khuyến khích kinh tế phát triển theo quy hoạch, kế hoạch. Tuy

nhiên, người dân vẫn mong muốn có được cơ sở hạ tầng và dịch vụ đầy đủ

hơn để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Qua khảo sát thống kê nhu cầu

mong muốn của người dân 05 xã (Long Thành Trung, Long Thành Bắc, Long

Thành Nam, Trường Tây, Trường Đông) theo chương trình mục tiêu quốc gia

60

xây dựng nông thôn mới có 429 nguyện vọng của người dân đề nghị chính

quyền địa phương quan tâm quản lý và tạo điều kiện tốt nhất trên lĩnh vực làm

đường giao thông nông thôn; có 250 ý kiến mong muốn xây dựng trường học

đạt chuẩn quốc gia nhất là cấp học tiểu học và mầm non. Còn lại các ý kiến

khác đa phần người dân có nhu cầu được trang bị phương tiện sản xuất, khoa

học kỹ thuật và dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn.

Như vậy, mong muốn của người dân còn nhiều và hiện tại công tác

quản lý hành chính nhà nước ở địa phương tạm thời chưa thể đáp ứng được

hết nhu cầu của người dân. Mặt khác, người dân cũng rất bức xúc về tình

trạng hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng đã và đang phổ biến trên thị

trường hiện nay, hàng ngày họ phải mua và sử dụng những loại hàng hóa, sản

phẩm thiếu chất lượng và khi có hậu quả xảy ra cơ quan chức năng mới vào

cuộc. Do đó, công tác quản lý hành chính nhà nước thật sự cần có nhiều giải

pháp tốt hơn.

2.3. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh

2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước về kinh tế ở cấp xã trên địa bàn

huyện từng bước được hoàn thiện theo xu hướng chung đó là nâng dần năng

lực quản lý, điều hành theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Bội Nội vụ

cho cán bộ, công chức cấp xã và có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ủy ban

nhân dân huyện, phòng chuyên môn cấp huyện.

Hoạt động chấp hành và điều hành của Ủy ban nhân dân xã từng bước

được nâng lên, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền

cấp xã. Đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ đã có sự chuyển biến

tích cực về trình độ năng lực và tác phong công tác.

Các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế nhằm nâng cao thu nhập, cải

thiện đời sống cho người dân được quan tâm, kết quả đã thực hiện được nhiều

nội dung như: triển khai các loại hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao; phát triển

61

ngành nghề chú trọng các ngành nghề truyền thống có hiệu quả; gắn việc xây

dựng thương hiệu trên thị trường góp phần đem lại thu nhập cho người dân

trên địa bàn, những mô hình này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của

người dân. Thực hiện chế độ tự quản tại địa phương, vận động Nhân dân đóng

góp xây dựng các công trình nhất là công trình đường giao thông, từng bước

hoàn thiện cơ sở hạ tầng tại địa phương.

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội được quan

tâm xây dựng, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch, kế hoạch chuyên đề về

lĩnh vực kinh tế được chú trọng. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt

động sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực công tác tại các xã, thị trấn trên địa bàn

huyện Hòa Thành bước đầu mang lại kết quả quan trọng đó là năng suất tăng

cao, thu nhập nâng lên.

Hàng năm các xã, thị trấn thực hiện tốt công tác lập dự toán thu, chi và

quyết toán ngân sách đúng theo luật định; báo cáo đầy đủ, chặt chẽ tình hình

ngân sách địa phương đối với Ủy ban nhân dân huyện và Phòng Tài chính-Kế

hoạch huyện.

*Nguyên nhân đạt được

Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng về thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước về kinh tế tại địa phương; sự sâu sát, tạo điều kiện của

Ủy ban nhân dân huyện và phòng chuyên môn cấp huyện đã chỉ đạo thực hiện

tốt công tác quản lý nhà nước về kinh tế.

Ủy ban nhân dân huyện xây dựng quy chế thực hiện chế độ công vụ

của cán bộ huyện và cán bộ, công chức cấp xã, từ đó cấp xã thực hiện rất

nghiêm túc việc chấp hành và điều hành công việc tại địa phương.

Các chương trình, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế được triển khai

tại địa phương là nhu cầu cấp thiết và Nhân dân luôn mong muốn làm gì để

cuộc sống khá hơn, tốt hơn do đó người dân rất hưởng ứng và tin tưởng vào

sự phát động, quản lý của địa phương.

62

2.3.2 Hạn chế, thiếu sót

Đội ngũ cán bộ, công chức chưa thật sự chủ động trong hoạt động tham

mưu quản lý nhà nước về kinh tế; vận dụng kiến thức chuyên môn trong tham

mưu thực hiện công việc còn hạn chế, bởi số lượng cán bộ chưa qua đào tạo

về trình độ chuyên môn nghiệp vụ chiếm đến 50%; đội ngũ công chức chưa

được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước chiếm 80%.

Nhiều xã trên chưa đề ra các biện pháp thích hợp để khai thác hết tiềm

năng kinh tế vốn có của địa phương; ngành nghề sản xuất còn hạn chế, chủ

yếu sản phẩm để tiêu thụ nội địa, chưa định hướng cạnh tranh với bên ngoài

nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô đầu tư cho chất lượng sản phẩm tốt hơn.

Hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất chưa đa dạng, chưa

theo kịp nhu cầu của người dân, chưa gắn kết tốt mô hình liên kết “4 nhà”

trong khai thác tiềm năng, lợi thế vốn có của từng xã.

Do thiếu vốn để thực hiện bao tiêu sản phẩm đầu ra nên hoạt động sản

xuất của người nông dân dễ bị ảnh hưởng về giá cả, vật tư phân bón,…Việc

huy động đóng góp của người dân chưa chú trọng đến đối tượng là các thành

phần kinh tế, tổ chức, đơn vị cùng chung tay góp sức vào công cuộc đổi mới

và xây dựng địa phương. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản

xuất, kinh doanh chưa mang tính bền vững, chất lượng sản phẩm còn hạn chế

chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.

Chưa có cơ chế hiệu quả, phù hợp nhằm khuyến khích các sản phẩm

được tạo ra từ việc sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi

trong sản xuất. Chính quyền cấp xã chưa thể hiện là cầu nối gắn kết giữa nhà

khoa học và người sử dụng thành quả khoa học, góp phần nâng cao chất

lượng sản phẩm.

Công tác quản lý hàng gian, hàng giả chưa được thực hiện triệt để, còn

tồn tại hàng kém chất lượng ngoài thị trường. Các xã chưa chủ động phối hợp

với các cơ quan chức năng của huyện tiến hành kiểm tra thường xuyên mà chỉ

63

thực hiện khi có thông tin. Công tác kiểm định chất lượng sản phẩm còn hạn

chế, chưa có cơ chế thực hiện hiệu quả, thích hợp.

Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra thu, chi ngân sách một vài xã còn để

xảy ra sai phạm, chi ngân sách chưa đúng mục đích. Kinh phí hoạt động hàng

năm giao cho các xã chưa đáp ứng được nhu cầu công tác tại địa phương.

Thời gian qua nguồn thu ngân sách, thu thuế đạt thấp do chính sách miễn

giảm thuế của Chính phủ..., thu không đủ bù chi nên một vài xã mất cân đối

ngân sách phải đề nghị huyện bổ sung kinh phí hoạt động.

Nguyên nhân hạn chế, thiếu sót

Đội ngũ cán bộ, công chức xã chưa được đào tạo bài bản về kiến thức

quản lý nhất là quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã, các xã chưa có cơ chế

khuyến khích tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức. Phần lớn cấp

xã còn trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.

Cán bộ, công chức một vài nơi chưa có điều kiện tiếp cận thông tin

quản lý, thông tin pháp luật để vận dụng vào hoạt động tham mưu thực hiện

công việc. Mặc dù cấp huyện tổ chức triển khai các văn bản pháp luật mới

nhưng đối tượng triển khai chưa đầy đủ, chưa quan tâm nhiều đến đối tượng

trực tiếp tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế.

Huyện Hòa Thành có tiềm năng phát triển kinh tế lớn nhưng việc đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa phương vẫn còn hạn chế, trong khi đó nguồn

lực vận động của Ủy nhân dân xã đối với các thành phần kinh tế để thực hiện

xã hội hóa chưa nhiều. Nguồn kinh phí bố trí thực hiện các chương trình kế

hoạch phát triển kinh tế ở mỗi địa phương hiện tại còn rất khó khăn.

Chính quyền cấp xã chưa tạo điều kiện đảm bảo đầu ra cho các sản

phẩm dự án sản xuất kinh doanh hoặc sau khi được huyện chuyển giao khoa

học kỹ thuật chưa giúp học viên vận dụng một cách tốt nhất. Vẫn còn tồn tại

nhiều cơ chế chưa hợp lý trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, nhất là

cơ chế quản lý đối với các loại hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng trên

địa bàn.

64

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Trong Chương 2, trên cơ sở khung lý thuyết của Chương 1 và từ thực

tiễn của huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, luận văn đã nghiên cứu và đề cập

đến các nội dung sau:

Thứ nhất, Tổng quan về điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội của

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh và tác động của các nhân tố liên quan đến

quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện.

Thứ hai, Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên

địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Thứ ba, Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa

bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Qua phân tích, đánh giá, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được,

quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh cũng còn không ít những hạn chế, bất cập và những vấn đề đặt ra, đây là

cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh ở

Chương 3 tiếp theo.

65

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

3.1. Định hƣớng, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nƣớc về kinh tế

trong thời gian tới

3.1.1 Định hƣớng của Đảng về quản lý Nhà nƣớc nói chung và

quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã nói riêng

Thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục

của mọi nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện trên nhiều lĩnh

vực do Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất quản lý ở tầm vĩ

mô; ở các địa phương có Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện với những phạm

vi khác nhau. Muốn thực hiện quản lý xã hội tốt thì bộ máy quản lý hành

chính nhà nước từ trung ương đến địa phương phải có phương pháp và cách

thức quản lý hiệu quả. Đây là nhiệm vụ quan trọng của mỗi ngành, mỗi cấp và

mỗi địa phương.

Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng

Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội

tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy

chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực

lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước thực

hiện những nội dung công việc của mình, nhằm mục tiêu xây dựng nhà nước

của dân, do dân và vì dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Đảng chỉ đạo hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở,

hoàn thiện nhiệm vụ và quyền hạn trong công tác quản lý hành chính Nhà

nước, chỉ đạo cách thức tổ chức sao cho thực hiện công tác quản lý hành

chính đạt kết quả cao nhất; chỉ đạo nhà nước xây dựng thể chế, cơ chế phù

hợp trong thực hiện công tác quản lý, cụ thể là qua các kỳ Đại hội, Hội nghị

66

của Đảng: Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã

chỉ rõ phải thực hiện “…Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề

ngân sách xã và từng bước chuyên nghiệp hóa một số vị trí công tác của

xã…”. Đây là sự quan tâm của Đảng đối với cấp cơ sở, nhằm từng bước củng

cố đội ngũ cán bộ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính

nhà nước. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “về

đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị

trấn”, lần đầu tiên có một nghị quyết chuyên đề đối với chính quyền cơ sở thể

hiện sự quan tâm của Đảng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Nghị quyết đã nêu rõ những việc làm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả

của cơ quan hành chính nhà nước đó là:

“…Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã,

phường, thị trấn. Đối với những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc

phòng, những công việc được phân cấp và những việc tự quản của cộng đồng

dân cư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đưa ra Hội đồng nhân dân bàn, quyết định

chủ trương, sau đó tổ chức thực hiện. Đối với những công việc được cấp trên

ủy quyền, cơ quan hành chính tổ chức thực hiện theo đúng quy định của cấp

trên. Đối với công việc tự quản của thôn và các tổ chức tự quản khác, cơ quan

hành chính hướng dẫn, hỗ trợ và giám sát việc tuân thủ pháp luật. Đối với các

khiếu kiện của dân, phải đề cao trách nhiệm giải quyết theo thẩm quyền,

không để dây dưa kéo dài…”.

Về tổ chức cơ quan hành chính: “…Giữ chế độ Ủy ban nhân dân,

nhưng thu gọn số thành viên. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập

thể Ủy ban nhân dân, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các thành viên trong

Ủy ban nhân dân. Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm: Văn phòng Ủy ban nhân

dân và các lĩnh vực công việc: lĩnh vực kinh tế – tài chính (kể cả kế toán), lĩnh

vực văn hóa – xã hội và lĩnh vực nội chính (đối với phường có thế vận dụng

quy định chung để tổ chức các lĩnh vực công việc cho phù hợp)…”.

67

Về điều kiện và phương tiện làm việc: “…Tạo điều kiện cho chính

quyền cơ sở chủ động về ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho

những cơ sở có trình độ phát triển trung bình có thể tự cân đối được chi

thường xuyên. Thực hiện quy chế định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu,

chi ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các

cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở miền núi và các vùng khó

khăn. Phấn đấu đến năm 2020 các xã, phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc.

Trang bị phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại hóa theo yêu

cầu tin học hóa hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm tốt hệ thống

truyền thanh, nhà bưu điện – văn hóa để nhân dân tiếp nhận thông tin và hội

họp…”.

Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đã đề ra nhiều chủ trương và giải

pháp từ thẩm quyền đến cách thức giải quyết công việc, tổ chức hoạt động

của chính quyền cơ sở, từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động

của chính quyền cơ sở. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung

ương (Khóa X) “về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng,

định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị - xã hội”, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ

quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở từng bước được đổi mới, phù

hợp với yêu cầu nhiệm vụ của địa phương.

Tại Đại hội Đảng bộ huyện Hòa Thành lần thứ XI cũng đã khẳng định

phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và thực hiện tốt cải cách hành chính

trong đó chú trọng đến cải cách thủ tục hành chính và xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức xã có đầy đủ năng lực thực thi công vụ.

3.1.2. Mục tiêu, yêu cầu

Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và đang trong tiến trình thực

hiện cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta nói chung và huyện Hòa Thành nói riêng. Việc quản lý nhà nước về

kinh tế sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực tác động: mặt tích cực đó là nền

68

kinh tế thị trường có các chủ thể kinh doanh hoạt động với hình thức tư hữu,

sẽ có động lực thực hiện đổi mới đối với hoạt động sản xuất của mình, nhằm

đem lại hiệu quả cao. Các chủ thể sản xuất kinh doanh chủ động, sáng tạo hơn

trong hoạt động và có quyết tâm cao trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Chính họ là người chủ động trong sản xuất kinh doanh, do đó họ sẽ giải quyết

được vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh là: sản xuất cái gì, sản xuất cho

ai, sản xuất bao nhiêu và sản xuất bằng cách nào? Họ đề ra phương án tối ưu

trong việc sử dụng nguồn vốn, khoa học kỹ thuật cho hoạt động sản xuất của

mình. Kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho người tiêu dùng nhiều hơn, đáp

ứng yêu cầu của người tiêu dùng nhanh hơn, hiệu quả hơn, văn minh hơn.

Mặt tiêu cực đó là do tư lợi nên rất dễ dẫn đến các hoạt động xâm phạm

đến lợi ích của người khác, lợi ích của người tiêu dùng. Cạnh tranh không

lành mạnh, tiêu diệt lẫn nhau; bóc lột sức lao động; trộm cắp tài sản; hủy hoại

môi trường sống; trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước, có thái độ vô

cảm trước những khó khăn của nhân dân.

3.1.2.1 Mục tiêu: Hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân

xã nhằm hướng đến mục tiêu đó là hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế

kinh tế thị trường, tiếp tục phát huy mặt tích cực của cơ chế này tạo đà cho

nền kinh tế phát triển. Mặt khác, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cơ

sở phải thực hiện chức năng hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người

dân tham gia vào các hoạt động kinh tế một cách hiệu quả nhất. Đồng thời

bảo vệ lợi ích của các bên và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.

3.1.2.2 Yêu cầu:

Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã phải đảm bảo các yêu cầu theo

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đã

định hướng, đó là phải nâng cao được tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt

động của hệ thống các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại

của chính quyền cấp xã đối với cấp trên và Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày

03 tháng 6 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) “về

69

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”, đồng

thời phải thật sự nhạy bén và chủ động nhằm đề ra các biện pháp phù hợp với

công tác quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.

Hoạt động quản lý nhà nước cấp xã phải tạo ra môi trường thuận lợi

cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện

cho nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, có hiệu quả, góp phần tích

cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Tạo môi trường cạnh tranh

công bằng, bình đẳng, xây dựng văn hóa sản xuất, đề cao chất lượng sản

phẩm nhằm phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng được tốt hơn. Xác lập

được trật tự trong sản xuất kinh doanh, công khai hóa chất lượng sản phẩm để

người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm tốt nhất, chất lượng cao nhất.

Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và từng cá nhân thành

viên Ủy ban nhân dân. Kiện toàn tổ chức bộ máy giúp việc gồm Văn phòng

Ủy ban nhân dân và 03 khối công việc: khối kinh tế – tài chính, khối văn hóa

– xã hội và khối nội chính. Tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ động

hơn trong quản lý ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho các đơn vị

có thể tự cân đối và có tích lũy thực hiện nhiệm vụ chi thường xuyên. Quan

tâm thực hiện tốt quy chế định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu, chi

ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các cơ

quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, phấn đấu đến năm 2020 các xã,

phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc được trang bị đầy đủ các phương tiện

cần thiết và từng bước hiện đại hóa theo yêu cầu tin học hóa trong hệ thống

quản lý hành chính nhà nước; bảo đảm tốt hệ thống truyền thanh, bưu điện –

nhà văn hóa để Nhân dân kịp thời tiếp nhận thông tin và hội họp.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về

kinh tế cấp xã

3.2.1. Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật

Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan hành chính nhà

nước từ trung ương đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ của mình. Do đó cần phải

70

xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để không bị chồng chéo về chức

năng, thẩm quyền hoặc không bị buông lỏng trong quản lý. Để thực hiện được

những việc này cần phải quan tâm những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về tổ

chức, thẩm quyền giữa chính quyền cơ sở và chính quyền cấp trên

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định về nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã và các thành

viên Ủy ban nhân dân. Để cụ thể hóa Luật này, Chính phủ đã ban hành nhiều

văn bản thực hiện, trong đó có Nghị quyết số 08/2016/NQ-CP, ngày 25 tháng

01 năm 2016 “về quy định số lượng Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy

trình, thủ tục bầu, từ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức

thành viên Ủy ban nhân dân”. Với hệ thống pháp luật quy định như trên, đủ

cơ sở để Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân và cán bộ, công

chức hoạt động trong khuôn khổ quy định. Tuy nhiên, theo cách nhìn của

người nghiên cứu, cần phải cải thiện một số nội dung sau để hệ thống pháp

luật trở nên hoàn thiện hơn:

Một là, xây dựng thể chế thực hiện nhất thể hóa chức danh Bí thư Đảng

ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã một cách rộng rãi, nhằm nâng

cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành ở cấp chính quyền cơ sở theo tinh

thần Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28 tháng 05 năm 2013 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa XI) “quy định một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,

hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở”.

Hai là, quan tâm thực hiện luật hóa trong hoạt động quản lý nhà nước

về kinh tế đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân

và công chức, từ đó đề cao thẩm quyền quản lý nhà nước nói chung và quản

lý nhà nước về kinh tế cấp xã nói riêng một cách cụ thể, góp phần đảm bảo

hoạt động thực thi công vụ đạt hiệu quả cao.

Ba là, tinh giảm biên chế một số chức danh cán bộ bán chuyên trách

không cần thiết, phân công thêm nhiệm vụ cho công chức để thực hiện có

71

hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế như: tinh giảm cán bộ đài

truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa giao lại nhiệm vụ cho công chức văn hóa-xã

hội thực hiện; cán bộ đội thuế giao lại nhiệm vụ cho công chức tài chính-kế

toán; cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi giao lại nhiệm vụ cho công

chức địa chính – xây dựng – môi trường. Việc tinh giảm biên chế các chức

danh này một mặt sẽ giảm chi phí hoạt động thường xuyên (chi lương, phụ

cấp), mặt khác sẽ tạo điều kiện nâng phụ cấp kiêm nhiệm cho công chức phụ

trách, tạo động lực làm việc đạt hiệu quả cao.

Thứ hai, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm tập

thể, cá nhân lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã và quy định trách nhiệm cụ thể

của cán bộ, công chức trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

kinh tế

Trách nhiệm tập thể và cá nhân thành viên Ủy ban nhân dân đã được

quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, bao gồm:

những công việc cần phải thông qua tập thể và những việc không cần, những

việc do cá nhân là thành viên Ủy ban nhân dân quyết định và chịu trách nhiệm

trước tập thể. Tuy nhiên, cũng cần bổ sung thêm những hoạt động bắt buộc

phải được tập thể thống nhất thông qua và định hướng giải pháp thực hiện,

giao lại cho cá nhân trực tiếp tổ chức điều hành theo ý kiến của tập thể, nếu có

sai sót thì đó là trách nhiệm của tập thể, cá nhân chỉ là người thừa hành ý kiến

của tập thể phân công. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng cần bổ sung thêm nội dung

những công việc cá nhân được phân công phụ trách theo lĩnh vực công tác có

quyền chủ động đề ra các giải pháp sao cho kết quả mang lại là cao nhất,

tránh tình trạng cứ trông chờ vào ý kiến tập thể, không chủ động và không

dám quyết định vấn đề, gây ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.

Thông tư số 06/2012/TT-BNV, ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Nội

vụ “quy định về hướng dẫn chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển

dụng công chức xã, phường, thị trấn” đã điều chỉnh những bất cập tại Quyết

72

định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ

Nội vụ “về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công

chức xã, phương, thị trấn” đó là nội dung quy định còn mang tính chung

chung, chưa tách bạch những hoạt động cụ thể cần phải làm đối với các chức

danh chuyên môn, qua đó công chức xem đây là cẩm nang nhằm thực thi

công vụ được tốt hơn, đặc biệt là tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã

trong thực hiện công tác quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả hơn.

Thứ ba, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định thẩm quyền

quản lý hành chính nhà nước về các hoạt động kinh tế ở cấp xã

Hiện tại hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã thực hiện dựa

trên nhiều văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của

cấp trên. Có rất nhiều hoạt động chính quyền xã chưa tiến hành quản lý kịp

thời khi xảy ra vấn đề, mặc dù theo quy định vẫn chủ động thực hiện được.

Do vậy khi có văn bản chỉ đạo từ cấp trên thì Ủy ban nhân dân xã mới bắt đầu

thực hiện, điều này gây ra sự chậm chạp, kém hiệu quả trong quản lý. Mặt

khác, chính do sự trông chờ, ỷ lại theo cách thức thực hiện nêu trên, chính

quyền cấp trên thường đùn đẩy trách nhiệm cho chính quyền cấp dưới. Vì thế

cần thiết phải xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng

bộ về các hoạt động kinh tế, trong đó quy định rõ trách nhiệm quản lý của

chính quyền các cấp.

Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân xã ban

hành các quyết định hành chính nhằm chỉ đạo, hướng dẫn, khuyến khích, bảo

vệ, bảo đảm lợi ích của các bên và trật tự trong sản xuất kinh doanh. Ủy ban

nhân dân cấp xã phải ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với

những hoạt động kinh tế gây ảnh hưởng xấu và không đúng quy định pháp

luật, quyết định này là ý chí của chủ thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu

quản lý trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện.

Do đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cần phải được hoàn thiện,

73

trong đó quy định rõ thẩm quyền của cấp xã thực hiện chức năng quản lý tới

mức độ nào và ở phạm vi nào.

3.2.2 Khắc phục tình trạng trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên,

khuyến khích tính chủ động, sáng tạo trong quản lý nhà nƣớc về kinh tế

Đây là hiện tượng khá phổ biến ở các cơ quan hành chính nhà nước

hiện nay. Cấp dưới thiếu chủ động, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên mặc

dù những công việc đó được pháp luật quy định cụ thể thuộc thẩm quyền của

cấp mình. Cấp xã vẫn chưa mạnh dạn sử dụng hoặc do chưa được phân cấp,

phân định chức năng quản lý một cách cụ thể, rõ ràng, dẫn đến thiếu chủ động

trong công tác quản lý hành chính nhà nước. Đồng thời, chưa có cơ chế

khuyến khích phù hợp nhằm tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực

thi nhiệm vụ đạt chất lượng, hiệu quả. Để khắc phục những hạn chế trên, theo

ý kiến của người nghiên cứu cần có các giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, cần phân cấp rõ ràng hơn cho chính quyền cơ sở trong

hoạt động quản lý điều hành ở địa phương

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa

X) xác định: “…phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp

trong bộ máy chính quyền, đồng thời xây dựng hành lang pháp lý bảo đảm sự

thống nhất quản lý của Nhà nước Trung ương…”. Tại Đại hội Đảng lần thứ

XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cần: “…phân định rõ quyền hạn và trách

nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương, bảo đảm

sự tập trung, thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ động, tự

chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương…”. Như vậy, Đảng và

Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện phân cấp quản lý hành chính nhà

nước cho từng cấp, từng ngành cụ thể; thực hiện phân cấp mạnh và phù hợp

hơn về nhiệm vụ từ Chính phủ, các bộ cho chính quyền địa phương, phát huy

tinh thần trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo của chính quyền địa phương

trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong

bộ máy chính quyền.

74

Việc phân cấp cho chính quyền cơ sở chính là giao quyền tự quyết định

những vấn đề của địa phương, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước trên

lĩnh vực kinh tế, bởi hiện nay chính quyền cơ sở đang tổ chức theo mô hình

hành chính truyền thống, tất cả quyền lực tập trung, mệnh lệnh, thứ bậc hành

chính. Do đó sẽ dễ nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại của chính quyền cấp dưới đối

với chính quyền cấp trên. Để khắc phục hạn chế này biện pháp hiệu quả là

thực hiện phân cấp mạnh mẽ kết hợp với tản quyền để tăng tính chủ động

trong hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở.

Hoạt động phân cấp này bao gồm: phân cấp về quản lý tài chính, phân

cấp về quản lý cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, phân cấp về quản lý thị trường,

phân cấp về quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã,…Để

hoạt động phân cấp có hiệu lực, hiệu quả thì cần phải thể chế hóa trong Luật

tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các văn bản pháp quy khác

mà cụ thể là các văn bản về quản lý hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực kinh

tế, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ theo quan điểm chủ trương chung.

Thứ hai, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý và

cán bộ, công chức về thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với

hoạt động công vụ

Hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được

đánh giá trên cơ sở xem xét tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo, hiệu quả trong

công tác tham mưu và mức độ hoàn thành nhiệm vụ; cần phải đánh giá một

cách khách quan, dân chủ và công khai những hoạt động này. Hoạt động đánh

giá khách quan, công tâm sẽ đạt hiệu quả trong việc khích lệ, động viên, kích

thích sự nhạy bén và năng động trong hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ,

công chức. Để thực hiện việc đánh giá cán bộ, công chức về thực thi công vụ

thật sự hiệu quả, đảm bảo chất lượng phải xây dựng bộ tiêu chí đánh giá. Hiện

tại Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2017/NĐ-CP, ngày 27 tháng 7

năm 2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP,

ngày 9 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ “về đánh giá và phân loại cán bộ,

75

công chức, viên chức”. Nghị định có nhiều điểm mới như việc bỏ tiêu chí

sáng kiến hay tiêu chí đánh giá dựa trên khối lượng công việc thực hiện được.

Cụ thể, Nghị định số 88/2017/NĐ-CP đã sửa đổi tiêu chí phân loại

đánh giá viên chức ở mức hoàn thành nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ

theo hướng bỏ yêu cầu: có ít nhất 01 công trình khoa học, đề án, đề tài hoặc

sáng kiến được áp dụng và mang lại hiệu quả trong việc thực hiện công tác

chuyên môn, nghề nghiệp được cấp có thẩm quyền công nhận. Theo đó, chỉ

viên chức được đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mới phải đáp

ứng yêu cầu tiêu chí như trên. Đồng thời, Nghị định cũng quy định rõ, căn cứ

điều kiện cụ thể của cơ quan, tổ chức, đơn vị, thủ trưởng xây dựng các tiêu

chí chi tiết để đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, trong đó

phải tính đến tỉ lệ khối lượng công việc của cán bộ, công chức, viên chức đã

thực hiện đạt yêu cầu so với khối lượng công việc chung của cơ quan, tổ

chức, đơn vị khi đánh giá, phân loại; đồng thời khuyến khích áp dụng công

nghệ thông tin trong thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên

chức bảo đảm phù hợp với quy định.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả việc đánh giá cán bộ, công chức,

viên chức cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

Một là, việc triển khai đánh giá phải đảm bảo đầy đủ mục đích, yêu cầu

là: xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng, đánh

giá cán bộ, công chức, viên chức; qua đánh giá nhằm nhận xét được phẩm

chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kết quả thực

hiện nhiệm vụ được giao; đánh giá cán bộ, công chức, viên chức phải đảm

bảo khách quan, công tâm, phản ánh đúng năng lực và phẩm chất của người

được đánh giá trên cơ sở nắm vững các quan điểm lịch sử, toàn diện và phát

triển; phải thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo các kết luận

đánh giá phải chính xác, công bằng. Bản thân cán bộ, công chức, viên chức

được trình bày ý kiến của mình về kết luận đánh giá.

76

Hai là, phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị được phân công

làm thước đo đánh giá phẩm chất và năng lực của cán bộ; lấy nhu cầu nhiệm

vụ, sở trường công tác làm căn cứ để bố trí cán bộ. Đánh giá cán bộ, công

chức, viên chức phải có phương pháp (phân tích định lượng, đánh giá theo

kết quả và lưu trữ); thiết lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác đánh

giá. Bộ phận chuyên trách có trách nhiệm căn cứ vào những tư liệu liên quan

và những ghi chép về kết quả công việc của cán bộ, công chức, viên chức để

bình xét, đánh giá họ. Đồng thời, nâng cao vai trò trách nhiệm của tập thể (tập

thể cơ quan, phòng tổ chức, bộ phận chuyên trách, hội đồng đánh giá cơ

quan...) trong việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.

Ba là, hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên

chức phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Các tiêu chí khi xây dựng càng cụ thể

càng giúp cho việc đánh giá đạt hiệu quả, bao gồm: số lượng công việc mà

cán bộ, công chức, viên chức thực hiện, trong đó chú trọng số lượng công

việc hoàn thành, số lượng công việc hoàn thành có chất lượng, đúng tiến độ,

khả năng nắm vững kiến thức, năng động, sáng tạo, tiết kiệm...làm lợi cho cơ

quan, đơn vị được bao nhiêu; tinh thần thái độ phục vụ xã hội, duy trì mối

quan hệ đồng nghiệp trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, quan hệ đoàn kết, hài hòa

với cấp trên và cấp dưới.

Bốn là, đẩy mạnh việc triển khai, phổ biến, quán triệt đầy đủ, chính xác

về nội dung phương pháp đánh giá theo quy định mới. Mục đích làm cho cán

bộ, công chức, viên chức nhận thức được trách nhiệm của cá nhân và các

thành viên, qua đó tham gia một cách tích cực, dân chủ vào quá trình đánh giá

trong cơ quan, đơn vị, gồm cả đánh giá bản thân và đánh giá đồng nghiệp.

Khi cơ chế đánh giá cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện hiệu quả,

người được đánh giá cảm thấy hài lòng về hoạt động đánh giá và sẽ ý thức

được hoạt động thực thi công vụ của mình. Từ đó góp phần tăng tính chủ

động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ.

77

Thứ ba, xây dựng quy chế khen thưởng đối với cán bộ, công chức để

động viên, khuyến khích những sáng kiến, cải tiến trong quản lý nhà nước

Khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức nâng cao tính chủ động, sáng

tạo trong công việc ngoài những biện pháp khích lệ, động viên thì biện pháp

khen thưởng cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu cần được áp dụng

và quan tâm thực hiện thường xuyên đối với mỗi cấp, mỗi ngành. Với mục

tiêu thúc đẩy tính năng động, sáng tạo, phát huy tinh thần trách nhiệm cao

trong công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, các cơ quan, đơn vị xây dựng

cơ chế khen thưởng cho các cá nhân có thành tích nhằm kịp thời khích lệ,

động viên đồng thời tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, nhân rộng trong cơ quan, thúc

đẩy hình thành phong trào thi đua thiết thực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

được phân công.

Để nâng cao hiệu quả công tác của cán bộ cấp cơ sở thì việc thường

xuyên thực hiện cơ chế khen thưởng, khuyến khích, động viên kịp thời sẽ

mang lại hiệu quả cao trong công tác. Nếu sự sáng tạo của mỗi cán bộ, công

chức thực hiện có hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi thì chắc chắn hiệu quả

điều hành, quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ được nâng lên. Tuy nhiên,

chính quyền cấp xã phải định hướng sự sáng tạo trong tham mưu quản lý của

đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đặt trong khuôn khổ pháp luật, làm sao

để thực hiện công tác chuyên môn tốt nhưng không vi phạm pháp luật, hiệu

quả quản lý được nâng cao hơn, không làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung

của tổ chức. Sự sáng tạo này có thể là việc cải tiến phương pháp làm việc, quy

trình quản lý, giải quyết hồ sơ của công dân, quy trình ra quyết định hành

chính của Ủy ban nhân dân xã…tất cả những việc làm đó sẽ góp phần trực

tiếp vào việc quy định hiệu quả cao hay thấp của công tác quản lý nhà nước

tại địa phương.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cần quan tâm:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác thi

đua - khen thưởng; quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của

78

Đảng, các quy định của Nhà nước về thi đua, khen thưởng để vận dụng một

cách cụ thể, sáng tạo vào thực tiễn tại đơn vị, cơ quan, từ đó có sự lãnh đạo,

chỉ đạo đúng đắn, kịp thời làm cho công tác thi đua - khen thưởng bắt nhịp

được với thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò to lớn của quần chúng Nhân

dân, thực hiện được nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, nâng cao nhận thức về công tác thi đua - khen thưởng và quản

lý Nhà nước đối với công tác thi đua - khen thưởng. Phải bám sát và thực hiện

đúng nguyên tắc khen thưởng: "kịp thời, chính xác, công bằng, công khai";

trong đó chú trọng khen thưởng đối tượng là người lao động trực tiếp. Tuyên

truyền trên hệ thống đài truyền thanh, trong các cuộc họp, hội nghị của cơ

quan, đơn vị về nội dung Luật Thi đua - Khen thưởng và các quy định, chính

sách về thi đua - khen thưởng của Nhà nước và của đơn vị.

Thứ ba, Đẩy mạnh xây dựng và nêu gương các điển hình tiên tiến, kịp

thời khen thưởng, động viên các cá nhân, tập thể có thành tích nổi bật, tạo ra

những tấm gương sáng trong hoạt động của cơ quan, đơn vị. Tăng cường sự

phối hợp giữa các đơn vị, các ngành, các cấp trong công tác thi đua - khen

thưởng. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, từng cơ quan, đơn

vị tham gia phong trào thi đua và thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác

thi đua - khen thưởng, thường xuyên đổi mới phong trào thi đua - khen

thưởng, nhất là quan tâm đổi mới hình thức tổ chức phát động thi đua, đăng

ký thi đua hàng năm nhằm đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh phô trương,

hình thức. Mục tiêu thi đua phải gắn với nhiệm vụ công việc hàng ngày và

gắn liền với mục đích, yêu cầu chung của từng đợt phát động thi đua để

hướng cán bộ, công chức, người lao động và Nhân dân vào mục tiêu đó mà

phấn đấu đạt kết quả tốt. Thực hiện khen thưởng thường xuyên, đột xuất kịp

thời nhằm tạo sự động viên, khích lệ trong công tác.

Do đó, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, cấp xã

phải quan tâm thực hiện tốt hoạt động thi đua, khen thưởng đảm bảo khen

thưởng đúng người, đúng việc nhằm tạo sự khuyến khích, động viên cán bộ,

79

công chức, viên chức thực hiện, điều này sẽ góp phần tăng tính chủ động của

cán bộ, công chức, viên chức trong công việc, không trông chờ, ỷ lại vào sự

chỉ đạo của cấp trên.

3.2.3. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện

nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

VIII) “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước” và Kết luận số 37-KL/TW, ngày 02 tháng 2 năm 2009 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến

lược cán bộ từ nay đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu của công tác cán bộ là

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt

là cán bộ đứng đầu có phẩm chất năng lực tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng

trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân; đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,

đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, nhằm

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính

vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực là

nhiệm vụ quan trọng của mỗi địa phương. Khi trình độ năng lực của đội ngũ

cán bộ cấp cơ sở được nâng lên thì công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh

vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng ở cấp xã sẽ được nâng lên. Để

thực hiện được điều này cần phải quan tâm một số nội dung quan trọng sau:

Thứ nhất, thông qua thi tuyển để tiến hành bổ nhiệm cán bộ có trình

độ năng lực đáp ứng yêu cầu trong việc lãnh đạo, quản lý, điều hành ở một

số chức danh của chính quyền địa phương

Đây là cách làm mới, nếu huyện Hòa Thành thực hiện được sẽ mang

tính đột phá trong công tác tuyển dụng đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở,

áp dụng chế độ thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo như: Chủ tịch,

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Hiện tại công chức xã đã thực hiện chế độ

thi tuyển theo quy định tại Nghị quyết 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12

năm 2011 của Chính phủ “về công chức xã, phường, thị trấn”, việc thi tuyển

80

chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân hiện vẫn chưa có cơ chế

hướng dẫn thực hiện, ưu điểm của phương pháp này:

Một là, thực hiện mô hình thi tuyển cán bộ lãnh đạo sẽ sàng lọc được

những cán bộ không đủ trình độ, thiếu kiến thức quản lý nhà nước, hạn chế về

năng lực lãnh đạo quản lý và điều hành công việc tại địa phương.

Hai là, thông qua thi tuyển sẽ lựa chọn được những cán bộ thật sự có

tâm huyết và tận tụy với công việc, nhạy bén trong lãnh đạo, điều hành và xử

lý tốt các tình huống quản lý hành chính nhà nước tại địa phương.

Ba là, việc thi tuyển sẽ khắc phục được nhược điểm về tư tưởng cục bộ

địa phương, họ hàng thân thích, khắc phục những hạn chế về năng lực gây

ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành quản lý công việc của địa phương.

Tuy nhiên việc thi tuyển cán bộ quản lý cấp cơ sở cũng có một số hạn

chế, thiếu sót nhất định:

Một là, cán bộ trúng tuyển sẽ khó đánh giá được chính xác về tư tưởng

chính trị, đạo đức lối sống của người cán bộ đó, điều này sẽ gây khó khăn,

vướng mắc trong công tác bảo vệ đảng, bảo vệ chính trị nội bộ.

Hai là, hoạt động thi tuyển cán bộ quản lý sẽ dẫn đến tình trạng cán bộ

đó chưa được tín nhiệm cao của người dân cũng như của cán bộ, công chức

tại địa phương, điều này ngược lại với việc áp dụng hình thức dân bầu trực

tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ

5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “về đẩy mạnh cải cách hành

chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”.

Ba là, hoạt động thi tuyển cán bộ quản lý sẽ không còn phù hợp, trái

với quy định về bầu cử Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân theo quy định

tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị định số

08/2016/NĐ-CP, ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ “quy định số

lượng Phó chủ tịch UBND và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi

nhiệm, điều động, cách chức thành viên UBND”.

81

Với những ưu điểm và khuyết điểm nêu trên, mục tiêu để nâng cao hiệu

lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế nên thực hiện theo các đề xuất

trên và tìm biện pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm cụ thể:

Để đánh giá về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của người thi tuyển

phải thực hiện kỹ quy trình các bước về thẩm định, xem xét hồ sơ cá nhân,

thành phần gia đình xuất thân và ràng buộc tiêu chuẩn phải là đảng viên Đảng

Cộng sản Việt Nam; có thâm niên công tác, trình độ năng lực chuyên môn khi

tham gia thi tuyển, đồng thời phải có quy chế cụ thể xét tuyển hồ sơ ban đầu

đối với người dự thi.

Về trường hợp tín nhiệm của Nhân dân và cán bộ, công chức ở cơ

quan, đơn vị đối với người trúng tuyển, chúng ta có thể kết hợp giữa việc thi

tuyển và việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Nhân dân và cán bộ, công chức

đối với những người này. Do đó phải có quy chế cụ thể về tổ chức lấy phiếu

tín nhiệm, nếu tỉ lệ tín nhiệm không cao thì phải có cơ chế thực hiện từ chức.

Thứ hai, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý hành chính

nhà nước cho cán bộ hiện đang công tác

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là giải pháp chủ yếu hiện

nay đang được chính quyền cơ sở thực hiện, bởi đây là cách thức hợp lý nhằm

tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn theo quy định.

Hiện tại ở cấp xã số người tốt nghiệp hệ chính quy trình độ cao đẳng, đại học

khá ít, hơn 80% cán bộ, công chức xã tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại

học thuộc các hệ tại chức, vừa học vừa làm. Như vậy hoạt động đào tạo, bồi

dưỡng góp phần rất quan trọng nhằm giúp cán bộ, công chức đạt chuẩn và

trang bị phần nào kiến thức chuyên môn cho công tác hiện nay ở địa phương.

Đào tạo, bồi dưỡng góp phần rất quan trọng trong việc trang bị kiến

thức quản lý, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,

công chức, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả công việc, năng lực quản lý

hành chính nhà nước. Để thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức cấp xã theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 01 tháng 9 năm 2017

82

của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”, mỗi xã

cần chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn phù

hợp với công tác quy hoạch của địa phương, nhằm chuẩn bị nguồn cán bộ đạt

chuẩn theo yêu cầu bố trí nhân sự các chức danh lãnh đạo, quản lý quy định.

Thứ ba, tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo nhằm trang bị kỹ năng,

kinh nghiệm cũng như các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế cho

cán bộ, công chức cấp xã

Tập huấn, tổ chức hội thảo về kiến thức quản lý nhà nước cũng như

trao đổi kinh nghiệm về thực hiện những tình huống quản lý hành chính nhà

nước về kinh tế là những việc làm nhằm giúp cán bộ, công chức có thể nâng

cao hơn về trình độ quản lý của mình. Thông qua những hoạt động này, từng

cán bộ, công chức sẽ trao đổi những kiến thức quản lý, kinh nghiệm của mình

để cùng nhau thảo luận, góp ý, phân định đúng sai theo quy định của pháp

luật nhằm thực thi công vụ đạt hiệu quả cao. Với tầm quan trọng đó, để nâng

cao trình độ, kiến thức quản lý nhà nước về kinh tế của đội ngũ cán bộ, công

chức xã ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng cần quan tâm đến công tác tập huấn

nghiệp vụ và tổ chức hội thảo nhằm trang bị kỹ năng, kinh nghiệm của đội

ngũ cán bộ, công chức xã.

3.2.4. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý

nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

Thứ nhất, thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt động quản lý hành

chính nhà nước của cấp xã

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

IX) về “đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở

cơ sở xã, phường, thị trấn” đã khẳng định các tổ chức trong hệ thống chính trị

từ trung ương đến cấp huyện phải đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo,

khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, hướng mạnh về cơ sở, thôn, xóm, ấp, bản,

tăng cường đi sát, làm việc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu nguyện

vọng của Nhân dân, cùng với cơ sở giải quyết các vướng mắc cho dân.

83

Hoạt động kiểm tra công tác quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở được

thực hiện thường xuyên hơn hoạt động thanh tra. Kiểm tra có thể được tổ

chức thành đoàn để tiếp cận cơ sở thực hiện hoặc cũng có thể giao cho từng

cá nhân riêng lẽ thực hiện về một nội dung nào đó do Ủy ban nhân dân huyện

phân công. Thực hiện có hiệu quả nội dung này cấp dưới sẽ quan tâm chú ý

hơn, có ý thức tốt hơn về vị trí, vai trò, chức năng, trách nhiệm của mình

trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ đó sẽ chủ động hơn trong

thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động thanh tra do Ủy ban nhân dân huyện giao cho

cơ quan thanh tra huyện thực hiện nội dung chủ yếu là thanh tra hoạt động

quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói

riêng. Thanh tra được tiến hành theo chương trình, kế hoạch hoặc thanh tra

đột xuất về quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa

phương. Hoạt động thanh tra thường được tổ chức trên lĩnh vực tài chính ngân

sách của địa phương.

Với tầm quan trọng và vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra như đã

nêu trên thì đây cũng là một trong những giải pháp thiết thực góp phần tăng

hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cơ sở.

Để phát huy tối đa hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, cấp huyện cần

phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên, không phải đến lúc có vấn đề sai phạm

mới tiến hành thanh tra kiểm tra, nhằm kích thích sự chủ động, tích cực trong

việc quản lý của cấp dưới. Để làm được điều này, các chương trình, kế hoạch

do Ủy ban nhân dân huyện phổ biến, triển khai đến cấp xã nhất là những nội

dung có liên quan đến hoạt động kinh tế cần phải đảm bảo sự kiểm tra thường

xuyên quá trình tổ chức thực hiện, đòi hỏi Ủy ban nhân dân huyện phải có đủ

nguồn lực và cách thức tiến hành một cách khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo

thực hiện thật sự có hiệu quả, chất lượng.

Thứ hai, tạo điều kiện tối đa để Nhân dân thực hiện việc kiểm tra,

giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương

84

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa

X) về “đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

của bộ máy nhà nước” đã đề ra các chủ trương, giải pháp về giải quyết tốt

mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với Nhân dân, huy động sự

tham gia có hiệu quả của Nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của cơ

quan hành chính nhà nước. Tập trung cải cách theo hướng đơn giản, minh

bạch, công khai về thủ tục hành chính, xem đây là một giải pháp quan trọng

để phòng, chống tham nhũng, khắc phục tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ

của cơ quan nhà nước. Xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định về quyền

được thông tin của người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát

hoạt động của cơ quan hành chính.

Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, Nhân dân giám

sát hoạt động của chính quyền và phản ánh những thiếu sót, bất hợp lý về

công tác quản lý hành chính của chính quyền. Tuy nhiên vấn đề là cơ chế tạo

điều kiện cần được quan tâm thực hiện phù hợp, có hiệu quả để người dân

tham gia phản ánh và mức độ, sự tiếp thu của chính quyền đối với những

phản ánh đó nhằm đưa ra các điều chỉnh trong hoạt động. Mỗi địa phương

phải nghiêm túc tạo điều kiện tối đa để người dân trực tiếp tham gia cùng nhà

nước, nhằm thực hiện giám sát việc quản lý hành chính của nhà nước.

Cơ chế để người dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính

nhà nước đó là: Ủy ban nhân dân xã tiếp thu, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị

của người dân về những hạn chế, thiếu sót trong quá trình quản lý. Từ đó, Ủy

ban nhân dân xã tiến hành điều chỉnh hoạt động quản lý của mình được tốt

hơn và phản hồi, phúc đáp lại cho Nhân dân biết kết quả khắc phục, qua đó

giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các

lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng được chặt chẽ hơn. Đồng

thời, phải có cơ chế xin lỗi người dân nếu thực hiện hành vi sai, gây thiệt hại

đến quyền lợi của Nhân dân; thực hiện nghiêm túc luật bồi thường trách

nhiệm nhà nước để từ đó góp phần nâng cao ý thức thực thi công vụ.

85

Như vậy, ý thức được tầm quan trọng của Nhân dân trong việc tham gia

vào quá trình quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, nên có cơ chế cụ thể

nhằm tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào hoạt động giám sát việc thực

thi pháp luật của chính quyền cấp xã. Cơ chế này phải được công khai hóa để

nhân dân nhận thức được thẩm quyền của mình khi thực hiện, tham gia cùng

với nhà nước thực hiện việc quản lý hành chính thật sự đạt hiệu quả cao.

3.2.5. Đầu tƣ trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho

hoạt động quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đối với hoạt động quản lý hành

chính nhà nước, tuy nhiên cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý cũng là

yếu tố vô cùng quan trọng. Cơ sở vật chất bao gồm các trang thiết bị, phương

tiện, dụng cụ chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động quản lý hành chính

nhà nước, đây là điều kiện cần thiết và không thể thiếu trong hoạt động quản

lý, cụ thể: máy vi tính, máy ghi âm, máy photocopy, máy in, dụng cụ hỗ trợ

lấy mẫu xét nghiệm,... Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành

chính ngoài những vấn đề đã nêu trên thì việc trang bị đầy đủ cơ sở vật chất

cho hoạt động quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý được tốt hơn.

Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển rất đa dạng và phong phú như

hiện nay, để thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội nói chung, trong công tác

quản lý cần phải trang bị đầy đủ phương tiện làm việc phù hợp để đảm bảo

công việc được thực hiện đạt kết quả tốt nhất.

Cơ sở vật chất đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý hành

chính, phục vụ cho người quản lý cũng như người tác nghiệp có đủ điều kiện

để thực thi nhiệm vụ, bởi hiện tại các xã mới chỉ trang bị phương tiện là máy

vi tính, máy ghi âm, ghi hình chứ chưa trang bị các công cụ hỗ trợ khác như

đo lường chất lượng sản phẩm, kiểm tra chất lượng về môi trường,…Để trang

bị phương tiện phục vụ cho công tác quản lý thì có 02 phương thức thực hiện

đó là: bố trí ngân sách tự trang bị phương tiện làm việc; sự hỗ trợ phương tiện

86

từ cơ quan chuyên môn cấp trên theo chương trình kế hoạch hỗ trợ hàng năm

để thực thi nhiệm vụ.

3.2.6. Kinh nghiệm thực hiện các biện pháp quản lý nhà nƣớc về

kinh tế có thể áp dụng tại địa phƣơng

Hoạt động quản lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước cấp xã

được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Tuy nhiên làm sao để đạt

được hiệu quả cao trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế, qua nghiên cứu

có nhiều địa phương có cách làm hay và sáng tạo trên cơ sở quy định của

pháp luật, chủ động vận dụng thực hiện những cách làm cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong công tác vận động nhân dân xây dựng các công trình

công cộng tại địa phương. Các xã trên địa bàn huyện Dương Minh Châu giáp

ranh với huyện Hòa Thành thực hiện công tác vận động nhân dân làm đường

giao thông nông thôn có sự hỗ trợ vốn nhà nước 50%, nhân dân 20-30%,

ngoài ra còn vận động các đơn vị mạnh thường quân tài trợ thực hiện. Điểm

sáng tạo của huyện là sau khi công trình hoàn thành, xã giao cho các hội đoàn

thể của xã, các ngành của Ủy ban nhân dân phối hợp với ấp quản lý và bảo

quản công trình, các đơn vị này có trách nhiệm theo dõi, quản lý và vận động

Nhân dân tu bổ khi công trình bị hư hỏng, xuống cấp. Đây là cách làm hay

của huyện, xã có thể giảm bớt được việc quản lý nhằm tập trung giải quyết

những công việc hành chính khác, còn công tác theo dõi, bảo quản các công

trình này được các hội đoàn thể theo dõi và kịp thời báo cáo lại cho Đảng ủy-

Ủy ban nhân dân xã nhằm có hướng chỉ đạo thực hiện tốt hơn.

Thứ hai, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ phục vụ cho

công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói

riêng, có thể áp dụng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng của tỉnh Bình Dương

như đề án tuyển chọn và đào tạo hàng năm hơn 150 cán bộ trẻ làm lãnh đạo

chủ chốt cấp ủy, chính quyền xã, đây là một trong những chương trình đột

phá để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

87

quản lý. Để thực hiện được nội dung trên, kinh nghiệm đặt ra là phải áp dụng

các giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, người

đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về phát triển nguồn ngân lực,

nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ công việc trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm khuyến khích, thu

hút nhân tài có trình độ cao tham gia vào bộ máy nhà nước, tạo điều kiện

thuận lợi cho cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đồng thời có cơ chế, chính sách thu

hút người có trình độ cao về địa phương công tác.

Ba là, đổi mới phương pháp tuyển dụng, mở rộng đối tượng, đào tạo và

sử dụng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Đẩy mạnh thực

hiện cơ chế, chính sách luân chuyển cán bộ trẻ về cơ sở, nhằm tạo điều kiện

đào tạo, tích lũy kinh nghiệm, qua đó đánh giá năng lực, trình độ để có thể

xem xét đề bạt, bổ nhiệm chức vụ cao hơn.

Bốn là, xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích về kinh tế

đối với cán bộ cấp xã phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Cụ thể

như ngoài hỗ trợ tiền học phí, tiền ăn, ở, đi lại nên xem xét cấp thêm kinh phí

cho việc đi thực tế, viết luận văn tốt nghiệp, tiền thưởng cho kết quả học tập

tốt đảm bảo phù hợp với tình hình giá cả thị trường hiện nay, nhằm khích lệ,

động viên kịp thời đối với cán bộ, công chức.

Năm là, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

trong diện quy hoạch và cán bộ đương chức cấp xã tại Trường chính trị tỉnh

theo phương châm: lý luận gắn với thực tiễn, học đi đối với hành; giáo dục

đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, xử lý tình

huống,…Trang bị phương tiện, điều kiện cần thiết để cán bộ chủ chốt cấp xã

hoàn thành nhiệm vụ được giao như: máy tính, thiết lập các trang web nội bộ,

internet để có thể cập nhật các văn bản của Đảng, Nhà nước, chủ trương chính

88

sách cấp trên và các thông tin cần thiết một cách nhanh chóng, kịp thời phục

vụ tốt cho nhiệm vụ quản lý nhà nước tại địa phương.

3.3. Kiến nghị

3.3.1 Đối với Quốc Hội và Chính phủ

-Cần nghiên cứu, khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản pháp luật qui

định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quản lý hành

chính nói chung, thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước về kinh tế nói

riêng đối với cán bộ, công chức cấp xã.

-Nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015 để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thi tuyển các chức

danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã kết hợp với cơ chế bầu tín

nhiệm đối với các chức danh này.

3.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện

-Rà soát, thực hiện phân cấp mạnh mẽ về công tác quản lý hành chính

nhà nước cho chính quyền cơ sở phù hợp với khả năng và quyền hạn nhất

định, tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở có ý thức chủ động trong thực hiện

nhiệm vụ quản lý của mình.

-Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức về thực hiện chức

năng thẩm quyền của mình khi thực thi công vụ phù hợp với từng nhóm đối

tượng.

-Hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc cơ chế kiểm tra, đánh giá hoạt

động quản lý hành chính nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành, nhất là chính quyền

cấp cơ sở. Lưu ý hoạt động kiểm tra, giám sát này phải được đổi mới với

những hình thức phù hợp, phân quyền kiểm tra, giám sát cho các cơ quan theo

hướng hợp lý.

-Tạo điều kiện trang bị đầy đủ các trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ

chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhất

là trang bị các công cụ hỗ trợ khác như đo lường chất lượng sản phẩm, kiểm

89

tra chất lượng về môi trường,…để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà

nước về kinh tế, qua đó góp phần thực thi nhiệm vụ đạt kết quả tốt.

90

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Trong Chương 3, trên cơ sở khung lý thuyết ở Chương 1, qua phân tích,

đánh giá thực trạng quản lý nhà nước ở Chương 2 và trên cơ sở quan điểm,

phương hướng về quản lý hành chính nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Luận văn đã đề xuất 06 nhóm giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn

huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới. Cụ thể như sau:

Một là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Hai là, Khắc phục sự trông chờ chỉ đạo của cấp trên, khuyến khích tính

chủ động, sáng tạo trong quản lý nhà nước về kinh tế.

Ba là, Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước về kinh tế.

Bốn là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà

nước về kinh tế.

Năm là, Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho hoạt

động quản lý nhà nước về kinh tế.

Sáu là, Các biện pháp quản lý hành chính nhà nước có thể áp dụng ở tại

địa phương.

Ngoài ra, Luận văn còn kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội về hoàn

thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế. Kiến nghị với UBND tỉnh và UBND

huyện về thực hiện tăng cường kiểm tra giám sát, trang bị cơ sở vật chất, đánh

giá hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã trong thực hiện cơ chế,

chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

91

KẾT LUẬN

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là yêu cầu tất yếu

khách quan trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

như hiện nay ở Việt Nam. Mặt khác, nhu cầu nâng cao đời sống của Nhân dân

và xu thế đô thị hóa, phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp nông thôn, xây

dựng nông thôn mới là thực tiễn khách quan, luôn được Đảng và nhà nước ta

quan tâm, chỉ đạo thực hiện.

Thông qua nghiên cứu lý luận, cơ sở pháp lý và từ thực tiễn quản lý hành

chính nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh, tác giả đã hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu luận văn với những kết quả

chủ yếu như sau:

Thứ nhất, Xây dựng khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.

Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước về

kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Thứ ba, Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi và đặc thù nhằm

hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,

tỉnh Tây Ninh. Cụ thể các giải pháp như sau:

-Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

-Khắc phục sự trông chờ chỉ đạo của cấp trên, khuyến khích tính chủ

động, sáng tạo trong quản lý nhà nước về kinh tế.

-Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước về kinh tế.

-Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước về

kinh tế.

-Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho hoạt động

quản lý nhà nước về kinh tế.

-Các biện pháp quản lý hành chính nhà nước có thể áp dụng ở tại địa

phương.

92

Từ những căn cứ khoa học, qua nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước

về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Các giải pháp

nêu trên nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

2. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015.

3. Luật cán bộ công chức năm 2008.

4. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế

thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

5. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ

quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với

cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã.

6. Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 5 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ

quy định về công chức xã, phường, thị trấn.

7. Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 04 năm 2006 của Thủ

tướng Chính phủ quy định về ban hành Quy chế làm việc mẫu của

UBND xã, phường, thị trấn.

8. Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ

trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn quy định cụ thể đối với

cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

9. Quyết định số 26/2009/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 5 năm 2009 của

UBND tỉnh Tây Ninh quy định về phát triển ngành nghề truyền thống

giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020.

10. Quyết định số 38/2010/QĐ-UBND, ngày 5 tháng 8 năm 2010 của UBND

tỉnh Tây Ninh về việc quy định chức danh, số lượng, một số chế độ,

chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

11. Quyết định số 66/2013/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 12 năm 2013 của

UBND tỉnh Tây Ninh về việc quy định chức danh, bố trí các chức

danh và chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không

94

chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ấp, khu phố trên địa bàn tỉnh

Tây Ninh.

12. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Chính quyền cấp xã và quản lý

nhà nước ở cấp xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), “Nghiên cứu phân cấp quản lý Nhà nước

về đầu tư công ở Việt Nam”.

14. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước trên các lĩnh

vực kinh tế, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đào Đăng Kiên (2012), “Kết quả bước đầu thực hiện NQ11/2011/NQ-CP

về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã

hội”, Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội, số 17 (Tháng 2

năm 2011).

16. Đào Đăng Kiên (2012), “Đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ cấp xã-

Yêu cầu cần thiết khách quan trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí

Khoa học Chính trị số 6, năm 2012.

17. Trần Lưu Quang (2014), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tây Ninh”, Tạp

chí Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội, số 89, trang 34.

18. Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2014,

2015 và 2017.

19. Đào Viết Hiền (2005), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến

sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

20. Hoàng Thị Dung (2016), Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt của chính

quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ,

Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.

21. Trần Văn Hiệp (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân

dân cấp xã ở tỉnh Hậu Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính

Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

22. Nguyễn Văn Sỹ năm (2016) “Hoạt động của chính quyền xã từ thực tiễn

95

huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành

chính Quốc gia, Hà Nội.

23. Dương Bạch Long (2011), Chính quyền cấp xã và việc tổ chức, điều hành

hoạt động Ủy ban nhân dân cấp xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia

sự thật, Hà Nội.

24. Đinh Văn Mậu (2007), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã về

quản lý nhà nước, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

25. Bùi Tiến Quý, Dương Danh Mỵ (2000), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt

động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước

ta, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đinh Ngọc Giang (2011), Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân

dân xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

27. Nguyễn Đăng Thành (2012), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành

chính nhà nước những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt

Nam”, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội.

28. Lê Sỹ Thiệp (2014), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản Thống kê,

Hà Nội.

29. Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2010), Quản lý nhà nước về kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.