BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .................../................... ........../..........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU VINH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .................../................... ........../..........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU VINH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO ĐĂNG KIÊN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đề tài “Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã
trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh” là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Hữu Vinh
LỜI CẢM ƠN
Sau 02 năm học tập, tôi đã hoàn thành chương trình đào tạo cao học
chuyên ngành Quản lý công. Tôi đã tiến hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài
“Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh
Tây Ninh” . Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn,
lời đầu tiên tôi xin chân thành biết ơn sâu sắc đến Hội đồng Khoa học thuộc
Học viện hành chính quốc gia, các thầy giáo, cô giáo đã trang bị những kiến
thức quý báu và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin trân trọng và bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Đào Đăng
Kiên người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đóng góp nhiều ý kiến
quan trọng và sâu sắc, giúp cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, lãnh đạo Văn phòng HĐND-UBND
huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng
Kinh tế-Hạ tầng, Chi cục Thống kê huyện Hòa Thành và các xã, thị trấn trên
địa bàn huyện đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cộng tác để giúp tôi hoàn thành
luận văn này. Luận văn này được hoàn thành bởi sự cố gắng, nỗ lực của bản
thân, nhưng do khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên không
thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báo của quý thầy, cô và các bạn học để giúp tôi
hoàn thành tốt hơn công trình nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Hữu Vinh
MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ
CẤP XÃ..........................................................................................................12
1.1. Các khái niệm có liên quan....................................................................12
1.1.1. Chính quyền cấp xã....................................................................12
1.1.2. Kinh tế cấp xã.............................................................................13
1.1.3. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã…......................................13
1.2. Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã......................................................14
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.........................14
1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã...........................15
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.......................17
1.3. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã......................27
1.3.1. Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.....................27
1.3.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp
xã.....................................................................................................................28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH...........31
2.1. Tổng quan về huyện huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.....................31
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh.....................................................................................31
2.1.2 Tác động của đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đến quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã
trên địa bàn huyện..........................................................................................32
2.2. Thực trạng quản lý Nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện
Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh............................................................................34
2.2.1. Đánh giá về thực hiện nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh................................34
2.2.2. Đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh....................................................49
2.3. Đánh giá chung công tác quản lý Nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa
bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.........................................................60
2.3.1 Những kết quả đạt được.............................................................60
2.3.2 Hạn chế, thiếu sót........................................................................62
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH................................................65
3.1. Định hƣớng, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nƣớc về kinh tế trong
thời gian tới....................................................................................................65
3.1.1 Định hướng của Đảng về quản lý nhà nước nói chung và quản
lý nhà nước về kinh tế cấp xã nói riêng........................................................65
3.1.2 Mục tiêu, yêu cầu........................................................................67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về kinh tế
cấp xã..............................................................................................................69
3.2.1. Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật.....................................69
3.2.2. Khắc phục tình trạng trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên,
khuyến khích tính chủ động trong quản lý nhà nước về kinh tế.................73
3.2.3. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã..............................................79
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà
nước về kinh tế cấp xã....................................................................................82
3.2.5. Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho
hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.............................................85
3.2.6. Kinh nghiệm thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước về
kinh tế có thể áp dụng tại địa phương...........................................................86
3.3. Kiến nghị.................................................................................................88
3.3.1. Đối với Quốc hội và Chính phủ.................................................88
3.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện...................................88
KẾT LUẬN....................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................93
DANH MỤC CÁC BẢNG
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
Cơ sở hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện Trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức xã Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức xã Trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức xã Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức xã
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài
Chính quyền cơ sở cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là cấp
hành chính bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những chủ
trương, giải pháp lớn của địa phương, thực hiện chức năng giám sát toàn diện.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực về kinh tế-văn hóa xã hội-quốc
phòng an ninh.
Ủy ban nhân dân cấp xã là chủ thể điều hành và thực hiện các giải pháp
nhằm ổn định, duy trì và phát triển tình hình kinh tế-văn hóa xã hội-quốc
phòng an ninh tại địa phương, hay nói cách khác Ủy ban nhân dân cấp xã là
cơ quan trực tiếp tổ chức, triển khai và thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp trên, đồng thời thông
qua hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân có thể phản ánh được kết quả,
hiệu lực thực thi các chủ trương, đường lối, chính sách đó. Do đó, vấn đề làm
sao để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tổ chức điều hành tốt công việc
thực tiễn tại địa phương, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất là vấn đề quan trọng
hiện nay.
Cấp xã là cấp trực tiếp liên hệ và tiếp xúc với Nhân dân, là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với Nhân dân, là nơi gần dân, sát dân nhất, cũng chính là cấp
trực tiếp tiến hành tiếp nhận và giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng chính
đáng của Nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay nội dung tổ chức thực thi và thực
hiện chủ trương, chính sách vẫn là khâu còn hạn chế trong hoạt động của cấp
cơ sở. Riêng hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã, nhất là
quản lý nhà nước về kinh tế lại càng bộc lộ rõ hơn những yếu kém của mình,
nguyên nhân có thể xuất phát từ sự thiếu kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thường
xuyên, kịp thời từ cấp trên, từ thể chế quy định về tổ chức, hoạt động, nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã còn
2
thiếu sót hoặc từ ý chí chủ quan của người trực tiếp chỉ đạo, điều hành công
việc.
Hòa Thành là huyện nội địa thuộc tỉnh Tây Ninh, diện tích tự nhiên của huyện là 82,92 km2, đơn vị hành chính gồm Thị trấn Hoà Thành và 7 xã (Hiệp
Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam, Trường Đông,
Trường Hoà, Trường Tây). Dân số toàn huyện năm 2016 là 145.809 người.
Có Trung tâm Thương mại Long Hoa nằm trên cửa ngõ giao thông giữa Tây
Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh; Tòa Thánh Cao Đài thuộc huyện Hòa
Thành là một địa điểm du lịch, hành hương khá nổi tiếng với các hoạt động lễ,
tết diễn ra hàng năm thu hút trên 100.000 lượt khách tham quan, là đầu mối
lưu thông hàng hóa giữa các huyện trong tỉnh, chính vì thế đòi hỏi huyện phải
thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về kinh tế.
Do đó, làm sao để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế của
các xã, thị trấn, tạo được sự nhạy bén, thông thoáng về môi trường đầu tư,
đảm bảo về an ninh chính trị trật tự, an toàn xã hội, chăm lo tốt về an sinh xã
hội là nhiệm vụ quan trọng của huyện Hòa Thành trong giai đoạn hiện nay.
Với đặc thù là cửa ngõ lưu thông hàng hóa trong và ngoài tỉnh, tốc độ phát
triển kinh tế thời gian qua trên địa bàn huyện tương đối nhanh so với các
huyện trong tỉnh, việc tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện là nhu cầu cấp thiết cho sự phát triển trong
tình hình hiện nay.
Xuất phát từ những thực tiễn nêu trên, học viên lựa chọn đề tài “Quản
lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh” làm luận văn tốt nghiệp cao học quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực
quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế
tại các cấp chính quyền hiện nay ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần quan
tâm, nhiều hạn chế, bất cập còn tồn tại, chưa đáp ứng tốt yêu cầu vận hành
3
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu quản lý nhà nước về kinh tế góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý được nhiều tác giả chú trọng. Hiện nay nổi
lên một số công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận văn, tiêu biểu
có các công trình như sau:
Một là, các công trình đã công bố và đƣợc in thành sách
-Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực kinh tế, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Giáo trình hệ
thống hóa khoa học quản lý nhà nước về kinh tế trên các lĩnh vực dự án đầu
tư, doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế. Tổng quan lý luận chung quản lý
nhà nước về kinh tế, sự vận động của nền kinh tế thị trường với các qui luật
cơ bản: cung cầu, cạnh tranh và giá trị; hệ thống mục tiêu, quan điểm của
Đảng và nhà nước trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế; các
nguyên tắc, phương pháp và công cụ trong quản lý nhà nước về kinh tế. Cụ
thể hóa các cách thức quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế như: quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp, đối với dự án đầu tư và Hội nhập kinh tế quốc
tế. Đây là tài liệu hữu ích có tính định hướng cho nghiên cứu của luận văn.
-Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2010), Quản lý nhà nước về kinh tế,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Giáo trình có 04 chương, cung cấp cho sinh
viên những nội dung chủ yếu: tổng quan, qui luật; nguyên tắc, công cụ;
phương pháp, mục tiêu và chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Ưu điểm
và nhược điểm của nền kinh tế thị trường, cách thức tác động của nhà nước
vào nền kinh tế thị trường. Giáo trình có nhiệm vụ cung cấp cho sinh viên
những kiến thức lý luận, khái quát cơ bản, có tính hệ thống của một bộ môn
khoa học về Nhà nước, quản lý nền kinh tế quốc dân của Nhà nước. Nội dung
giáo trình nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, hiện đại ở
Việt Nam trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế. Giáo trình là tài liệu
khoa học nêu rõ khái niệm quản lý; quản lý nhà nước về kinh tế; quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
4
kinh tế và quyết định, hiệu quả quản lý kinh tế. Đây là tài liệu tham khảo có
ích cho luận văn.
-Nguyễn Đăng Thành (2012), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam,
Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Nội dung sách chuyên khảo luận bàn về
những lý luận, khái niệm về đo lường và đánh giá hiệu quả với các tiêu chí
đánh giá hiệu quả, những kinh nghiệm đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý
nhà nước của một số nước trên thế giới và khả năng ứng dụng vào quản lý
nhà nước ở Việt Nam. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích vừa có tính lý luận và
thực tiễn, vừa có tác dụng định hướng về hiệu quả quản lý nhà nước cho nội
dung luận văn nghiên cứu.
-Lê Sỹ Thiệp (2014), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội. Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế do GS,TS Lê Sỹ Thiệp
biên soạn có cấu trúc nội dung được trình bày gồm 2 phần: Phần 1-Những vấn
đề lý luận chung về quản lý nhà nước về kinh tế, trong phần này tác giả hệ
thống hóa kiến thức quản lý nhà nước về kinh tế mang tính lý luận, lý giải và
làm rõ thuật ngữ kinh tế; nguồn gốc và quá trình hình thành tư duy quản lý
kinh tế, nguyên lý kinh tế; quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền
kinh tế, vai trò và sự cần thiết quản lý nhà nước về kinh tế. Phần 2-Quản lý
nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế cụ thể, trong phần này tác giả đi sâu làm
rõ cách thức quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế cụ thể; chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường; các nguyên tắc, phương
pháp và công cụ quản lý của nhà nước nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn
lực của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta.
Hai là, các đề tài nghiên cứu cấp Bộ
-Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Nghiên cứu và phân cấp quản lý Nhà
nước về đầu tư công ở Việt Nam, Hà Nội. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân
5
tích thực trạng phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam từ năm 2000 đến
nay, qua đó tìm ra những bất cập và nguyên nhân nhằm đề xuất những quan
điểm, giải pháp định hướng góp phần thúc đẩy công tác đổi mới phân cấp
quản lý hiện nay ở Việt Nam.
Xu hướng phân cấp quản lý nhà nước nói chung và phân cấp quản lý về
đầu tư công nói riêng đang ngày càng mạnh mẽ. Nhìn chung, chủ trương phân
cấp quản lý nhà nước là đúng đắn và phù hợp với xu thế chung. Chủ trương
này đã thực sự góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đầu tư công,
tăng cường tính tự chủ, sáng tạo của chính quyền địa phương, là cơ sở cho
việc triển khai cải cách thủ tục hành chính và trực tiếp góp phần cải thiện môi
trường đầu tư của Việt Nam. Tuy vậy, việc phân cấp quản lý đầu tư công một
cách toàn diện, triệt để cho các Bộ, ngành và địa phương như hiện nay cũng
đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Thực tế cho thấy tình trạng đầu tư công bị
phê phán là kém hiệu quả, dàn trải, lãng phí, thất thoát trong nhiều năm qua
chính là hệ lụy của những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện phân cấp
quản lý nhà nước về đầu tư công.
Kinh nghiệm quốc tế trong phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư cho
thấy muốn quá trình phân cấp đầu tư công diễn ra thành công phải tuân thủ
một số nguyên tắc cơ bản, đó là: phân cấp phải phù hợp với năng lực (bộ máy,
con người, tiềm lực tài chính,..), phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã
hội; phân cấp tài khóa phải tương ứng với nhiệm vụ chi,…Ngoài ra, tăng
cường phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công từ chính quyền trung ương
cho chính quyền địa phương cần phải gắn liền với việc phải thiết lập bộ máy
chính quyền trung ương đủ mạnh, có khả năng giám sát việc thực hiện của
chính quyền cấp dưới; phải có hệ thống pháp luật về đầu tư công hoàn chỉnh,
cùng với cơ chế phát huy hiệu quả tinh thần dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội tham gia giám sát hoạt động
quản lý nhà nước về đầu tư công.
6
-Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Đổi mới quản lý nhà nước đối với các
loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần
kinh tế, Hà Nội. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng thống nhất không phân biệt
thành phần kinh tế; xác định các nội dung chính của quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp và kiến nghị các giải pháp nhằm hình thành nội dung và cơ chế
quản lý nhà nước thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp. Đề tài gồm 03
chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước thống
nhất đối với các loại hình doanh nghiệp. Chương này tập trung làm rõ một số
vấn đề lý luận như: các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam xét từ đặc điểm
pháp lý và sở hữu có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước; quan niệm về quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường; quan
niệm, đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt
thành phần kinh tế; vai trò của Nhà nước, mục tiêu và nguyên tắc xác định nội
dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; nội dung quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp và quản lý nhà nước thống nhất không phân biệt thành phần
kinh tế; phân biệt quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; một số kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài. Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước đối
với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Chương này tập trung phân tích
thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp không phân biệt thành phần
kinh tế trên các khía cạnh: khung pháp lý của các doanh nghiệp; bộ máy quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp; việc tách bạch chức năng quản lý của chủ
sở hữu với chức năng quản lý nhà nước...Phân tích tại chương này cho biết
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đã có những đổi mới trong thời gian
gần đây. Chương III: Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quản
lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không
phân biệt thành phần kinh tế. Chương này đề xuất quan điểm, mục tiêu đổi
mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; tập trung phân tích, đề xuất 06
7
nhóm giải pháp (nội dung quản lý nhà nước cần thể chế hoá; hoàn thiện
khung khổ pháp luật; bảo đảm hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước; giải
pháp về cơ chế, chính sách; tách bạch quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở
hữu; đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp).
Ba là, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ quản lý nhà nƣớc về kinh tế
-Đào Viết Hiền (2005), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sỹ,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án hệ thống các khái
niệm cơ bản về nền kinh tế thị trường, những ưu thế và khuyết tật của nền
kinh tế thị trường; vai trò, sự cần thiết quản lý nhà nước về kinh tế; những
tiêu chí về hiệu lực, kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong quản
lý nhà nước về kinh tế. Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu lực quản lý nhà
nước về kinh tế trong thời kỳ đổi mới, những vấn đề đang đặt ra, nguyên nhân
của những hạn chế, quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước về kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Luận án có tính khái quát hóa cao về lý
luận và thực tiễn về hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế trong sự nghiệp đổi
mới từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
-Dương Thị Lan Chi (2007), Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp
xã ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà
Nội. Đề tài đề cập đến thực trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã, nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc trong quá trình phối hợp, điều hành hoạt động của chính quyền
địa phương, tuy nhiên đề tài vẫn chưa phân tích sâu về nội dung quản lý nhà
nước, nhất là quản lý nhà nước về kinh tế.
-Trần Văn Hiệp (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp xã ở tỉnh Hậu Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc
gia, Hà Nội. Đề tài phần lớn đề cập đến cách thức hoạt động, phương pháp
quản lý, điều hành của chính quyền địa phương, những bất cập trong vấn đề
8
hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã, từ đó đề xuất những giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của cấp chính quyền địa phương. Hạn chế
của đề tài là đề cập những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào quản lý nhà nước
về kinh tế của chính quyền cấp xã.
-Hoàng Thị Dung (2016), Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt của
chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia. Đề tài chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân sự nhất là
đội ngũ cán bộ chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước cấp xã, công tác
tổ chức, điều hành về nhân sự trong cơ quan hành chính, nhất là chính quyền
cấp xã thời gian qua đã đạt được những kết quả thiết thực, từng bước đem lại
hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời kiến nghị
một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới. Hạn
chế của luận văn là chưa phân tích sâu về công tác quản lý của chính quyền
cấp xã, nhất là quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn.
-Nguyễn Văn Sỹ (2016), Hoạt động của chính quyền cấp xã từ thực
tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính
Quốc gia, Hà Nội. Đề tài cung cấp kinh nghiệm trong cách thức hoạt động,
phương pháp quản lý của chính quyền địa phương nhằm đạt hiệu quả, mang
tính khả thi, góp phần đề cao vai trò quan trọng trong giải quyết các thủ tục
hành chính tại địa phương. Tuy nhiên, đề tài đề cập đến quản lý nhà nước về
kinh tế trên địa bàn xã không nhiều, chủ yếu về thủ tục hành chính.
Nhìn chung, các đề tài luận văn, luận án trên chủ yếu nhấn mạnh đến
cách thức tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã; hiệu quả quản lý và
điều hành của chính quyền địa phương trong tình hình hiện nay mà chưa đề
cập, nhấn mạnh về hiệu quả quản lý kinh tế của chính quyền địa phương. Bên
cạnh đó có rất nhiều bài báo, đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu về hoạt
động quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền cấp xã. Các công trình
nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định trong việc cung cấp nền tảng lý
9
luận chung quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền cấp xã trong phạm vi
cả nước nói chung và huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh nói riêng.
Tuy nhiên việc nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về kinh tế tại
huyện Hòa Thành cho đến nay vẫn chưa có công trình nào được tiến hành. Do
đó, với nhiệm vụ đặt ra là phải đi sâu nghiên cứu về thực trạng, hiệu quả hoạt
động thiết thực của công tác quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là vấn đề
quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới phát triển như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ khung lý thuyết, phân tích
thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã và đề ra giải pháp để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,
tỉnh Tây Ninh.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của đề tài bao
gồm:
+Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về kinh tế; quản lý nhà
nước về kinh tế cấp xã.
+Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
+Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế
cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh
Tây Ninh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
+Về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về
kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
10
+Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh.
+Về thời gian nghiên cứu: Năm 2014-2016. Tầm nhìn đến năm 2025.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phƣơng pháp luận
Việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài trên quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước về quản lý nhà nước, quản lý nhà
nước về kinh tế.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
-Phương pháp thu thập thông tin:
+Thông tin thứ cấp: Được thu thập qua các nghiên cứu, báo cáo đã
được công bố như: sách, giáo trình của Học viện Hành chính Quốc gia, các đề
tài cấp Bộ, các bài báo trên các tạp chí, kỉ yếu Hội thảo khoa học, luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ, các báo cáo, thông tin của Phòng Kinh tế-Hạ tầng, Phòng
Tài chính-Kế hoạch, Phòng Nội vụ và số liệu thống kê của UBND huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh.
+Thông tin sơ cấp: Được thu thập qua các cuộc trao đổi, tham khảo ý
kiến của người dân, các chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học liên quan đến
nội dung quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về kinh tế.
-Phương pháp xử lý thông tin: Thông qua các phương pháp phân tích,
so sánh, tổng hợp, đối chiếu, suy luận,…một cách có hệ thống và khoa học.
Phần mềm phân tích sử dụng chủ yếu là Excel.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Thứ nhất, Xây dựng khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế và
quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã. Theo đó, luận văn làm rõ được nội hàm
của các khái niệm quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về kinh tế và nội dung
quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.
11
Thứ hai, Phân tích, đánh giá một cách khoa học thực trạng hoạt động
quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh. Đồng thời, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân
của những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
6.2. Ý nghĩa về thực tiễn
Thứ nhất, Chỉ ra những hạn chế, bất cập của công tác quản lý nhà nước
về kinh tế trên địa bàn huyện Hòa thành, tỉnh Tây Ninh. Từ đó, đề xuất một
hệ thống các giải pháp đồng bộ góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh
tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Thứ hai, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh,
sinh viên, các nhà quản lý ở địa phương và những ai quan tâm đến đề tài luận
văn nghiên cứu.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn được kết cấu gồm các phần mở đầu, nội dung chính, kết luận,
tài liệu tham khảo và 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ
1.1 Các khái niệm có liên quan
1.1.1. Chính quyền cấp xã
Khái niệm chính quyền cấp xã: Chính quyền cấp xã được hiểu là chính
quyền địa phương ở xã, là hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở
địa bàn các xã, thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở
xã; bao gồm 02 hệ thống cơ quan: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
(HĐND xã), cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (UBND xã).
Đặc điểm của chính quyền cấp xã:
Một là, chính quyền cấp xã là loại chính quyền điển hình và phổ biến ở
Việt Nam.
Hai là, chính quyền cấp xã là chính quyền gần với cộng đồng dân cư
nhất, do vậy, tổ chức và hoạt động vừa phải đảm bảo tính hệ thống, nhất quán
vừa phải phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương.
Ba là, chính quyền cấp xã là chủ thể quan trọng trực tiếp tổ chức thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến với Nhân dân.
Bốn là, chính quyền cấp xã có bộ máy đơn giản nhất, có tính chuyên
môn hóa không cao, chịu sự tác động từ Nhân dân rất lớn.
Năm là, chính quyền cấp xã chịu nhiều tác động từ quan hệ dòng họ,
làng mạc và văn hóa làng xã.
Vai trò và địa vị pháp lý của chính quyền cấp xã: vai trò và địa vị pháp
lý của chính quyền cấp xã cần được nhìn nhận trong cả hệ thống chính quyền
nhà nước và trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở:
Một là, hiện thực hóa đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng.
Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân thực hiện có
hiệu quả quyền làm chủ thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã.
13
Chính quyền cấp xã trong hệ thống chính quyền nhà nước:
Một là, các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật muốn đi vào
cuộc sống phải thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã, phải được thực
hiện ở xã thành phong trào hành động của Nhân dân, thông qua những sáng
kiến và nỗ lực của Nhân dân.
Hai là, chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là nơi trực
tiếp tổ chức và điều hành các hoạt động quản lý, các công việc hành chính ở
cơ sở và trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật ở xã, phường, thị trấn.
Ba là, chính quyền cấp xã có vai trò quan trọng trong việc phát triển
của địa phương về mọi mặt. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
Nhân dân tại địa phương.
1.1.2 Kinh tế cấp xã
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện vật chất của đời
sống con người và các mối quan hệ vật chất giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất
định mà mấu chốt là vấn đề sở hữu và vấn đề lợi ích.
Như vậy, kinh tế cấp xã là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau
giữa cá nhân, tổ chức và chính quyền cấp xã, liên quan trực tiếp đến việc sản
xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
diễn ra trên địa bàn xã, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
nhất định.
1.1.3 Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
Là các hoạt động kinh tế được thực hiện trên địa bàn cấp xã chịu sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực của nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do chính phủ và các cơ quan
hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở (UBND các cấp) tiến hành để
thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước nhằm duy trì và phát
triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật về kinh tế, thỏa mãn nhu
cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
14
1.2 Quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
1.2.1 Chủ thể quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã
Khái niệm chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế: chủ thể quản lý nhà
nước về kinh tế là cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương
thực hiện nhiệm vụ, chức năng quản lý đối với các hoạt động kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân. Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã là Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Theo Điều 8, Luật tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 quy định: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương,
Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy
ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định”.
Như vậy, về cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm: Chủ
tịch và các Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân. Theo Nghị định số 08/2016/NĐ-
CP, ngày 25 tháng 01 năm 2016 quy định về số lượng tối đa Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân ở các đơn vị hành chính: “Ủy ban nhân dân xã đồng bằng,
trung du có dân số 8.000 người trở lên gồm có 01 chủ tịch, 02 phó chủ tịch,
02 ủy viên”. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách chung, khối nội chính, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; Phó Chủ tịch phụ trách khối kinh
tế chịu trách nhiệm về lĩnh vực tài chính, địa chính, giao thông nông thôn, tài
nguyên môi trường và các lĩnh vực khác; Phó Chủ tịch phụ trách khối văn
hóa-xã hội chịu trách nhiệm về lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, lao động
thương binh xã hội và các lĩnh vực khác; 02 ủy viên Ủy ban nhân dân xã, 01
ủy viên phụ trách công an và 01 ủy viên phụ trách quân sự. Ở cấp xã không
thành lập cơ quan chuyên môn mà chỉ có công chức chuyên môn giúp Ủy ban
nhân dân giải quyết công việc trên từng lĩnh vực.
Ngoài những công chức trực tiếp đảm trách từng lĩnh vực công việc
được phân công theo Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05 tháng 12 năm
15
2011 “quy định về công chức xã, phường, thị trấn”, gồm 07 chức danh: văn
phòng-thống kê, tư pháp-hộ tịch, địa chính-nông nghiệp-xây dựng và môi
trường, văn hóa-xã hội, tài chính-kế toán, công an, quân sự, còn có một số
chức danh là những người hoạt động không chuyên trách tham mưu cho Ủy
ban nhân dân giải quyết các công việc của địa phương như: cán bộ giao thông
– nông thôn – thủy lợi, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ quỹ, cán bộ đội thuế,
cán bộ đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa…Công chức ở từng chức danh
tùy thuộc vào loại hình của xã mà có số lượng khác nhau, tổng số công chức
tối đa không quá 23 người; tổng số cán bộ, công chức, người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, ấp tối đa không quá 65 người.
1.2.2 Vai trò quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã
Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, theo Karl Marx: “Bất cứ một
lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá
lớn đều yêu cầu phải có sự chỉ đạo để điều hòa các hoạt động cá nhân. Một
nghệ sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc
trưởng”. Như vậy, tất cả mọi tổ chức, mọi hoạt động đều cần có sự quản lý
của con người, bởi trong xã hội có nhiều mối quan hệ khác nhau, những hoạt
động có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, ảnh hưởng đến lợi ích
của cộng đồng nói chung. Vì vậy việc quản lý để các hoạt động đó đi vào trật
tự theo một khuôn khổ nhất định nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển là cần
thiết. Do đó quản lý đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức, hình thành khi
tổ chức xuất hiện. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã đóng vai trò rất quan
trọng, cụ thể như sau:
Ủy ban nhân dân xã thực hiện quản lý về kinh tế với mục tiêu ổn định,
duy trì, phát triển kinh tế một cách bền vững và lành mạnh. Bởi lẽ, trong môi
trường hoạt động, các yếu tố kinh tế luôn vận động và biến đổi không ngừng,
sẽ có nhiều yếu tố không phù hợp làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung, ảnh
hưởng đến cộng đồng, ảnh hưởng đến chất lượng của thị trường, vì vậy quản
lý về kinh tế sẽ khắc phục được những hạn chế này.
16
Ủy ban nhân dân xã ngoài quản lý chất lượng hàng hóa mang lại lợi ích
cho cộng đồng, còn điều tiết sản phẩm hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu
của Nhân dân, của thị trường. Cụ thể Ủy ban nhân dân xã khuyến khích phát
triển các ngành nghề, làng nghề tạo ra sản phẩm phục vụ cho thị trường đang
có nhu cầu lớn hiện tại và trong tương lai. Ngược lại những sản phẩm không
được thị trường ưa chuộng thì vận động người dân không nên đầu tư phát
triển tránh gây thiệt hại về kinh tế.
Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế có thể định hướng khả
năng phát triển tối ưu đối với từng loại sản phẩm hàng hóa cụ thể, phát huy
được tiềm năng nguồn lực của địa phương. Ủy ban nhân dân xã quản lý về
kinh tế còn là cơ sở để phản ánh tính hiệu quả những chính sách của cấp trên,
bởi chỉ có thực tiễn mới có thể kiểm nghiệm được tính khả thi của chủ trương,
chính sách trong thực tế, nếu có thiếu sót trong quá trình quản lý mà nguyên
nhân từ cơ chế thì đó chính là cơ sở để các cấp, các ngành điều chỉnh cho phù
hợp. Ủy ban nhân dân xã quản lý về kinh tế còn là điều kiện để có thể chuyển
giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hoạt động kinh doanh, từ đó sẽ
đem lại hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao hơn, tiết kiệm chi phí hơn.
Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò rất lớn vừa
điều tiết, tạo điều kiện, vừa ngăn chặn, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, của
cộng đồng; kích thích nền kinh tế phát triển bền vững, đúng hướng và phù
hợp với quy hoạch phát triển vùng miền, phát triển ngành nghề. Có như vậy
nhà nước mới phát huy đầy đủ vai trò quản lý của mình trong nền kinh tế
đang vận động và biến đổi không ngừng. Ngoài ra, chính sự cọ sát trong thực
tiễn có thể phản ánh chính sách, chủ trương có đúng đắn hay không.
Mặt khác, cách thức quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ thúc đẩy nền kinh tế
phát triển: cụ thể là hoạt động quản lý các dự án đầu tư, công trình cơ sở hạ
tầng, dự án phát triển ngành nghề của địa phương. Hơn nữa nếu cách thức
quản lý hợp lý, khoa học, bài bản thì có thể ngăn chặn được những tác động
xấu gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế của xã, ảnh hưởng đến người tiêu
17
dùng, cụ thể như: ngăn chặn, chống hàng gian, hàng giả. Cách thức quản lý
sai, thiếu khoa học sẽ không tạo động lực cho sự phát triển mà còn tạo ra lực
cản đối với địa phương.
Tóm lại, quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã có vai trò to lớn trong nền
kinh tế, không có sự quản lý thì các hoạt động kinh tế sẽ diễn ra không theo
trật tự pháp luật, mặt khác có thể gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
từng vùng, khu vực trên địa bàn xã, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
Nhân dân, vì vậy quản lý nhà nước về kinh tế quyết định sự tồn tại, phát triển
hay trì trệ của mọi hệ thống kinh tế.
1.2.3 Nội dung quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã
Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là một trong những nội dung quản
lý rất quan trọng ở địa bàn cơ sở, để đảm bảo mục tiêu kích thích sự phát triển
và duy trì trật tự trong lĩnh vực kinh tế, trên cơ sở khung pháp lý về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân xã, công tác quản lý nhà
nước về kinh tế ở địa phương gồm những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, đề ra các chủ trương, biện pháp không trái với quy định
của pháp luật và các chủ trương, biện pháp do cấp trên ban hành, nhằm
khai thác mọi tiềm năng kinh tế trên địa bàn xã
Kinh tế trong xã hội nói chung có những hoạt động kinh tế hiệu quả
nhưng cũng có những hoạt động kinh tế kém hiệu quả, có thể do nhiều
nguyên nhân trong đó nguyên nhân chính là công tác quản lý chưa khơi dậy
được hết mọi tiềm năng kinh tế vốn có của từng ngành, từng lĩnh vực và từng
địa phương. Trách nhiệm đặt ra là công tác quản lý phải làm sao tạo điều kiện
tối đa nhằm kích thích được các hoạt động kinh tế đó phát triển, góp phần
mang lại lợi ích cho người sản xuất, tăng thu nhập cho người dân, tạo tiền đề
để nâng cao đời sống của Nhân dân, để làm được điều này đòi hỏi Ủy ban
nhân dân xã phải thực hiện tốt các mặt hoạt động như sau:
Một là, xây dựng cơ chế quản lý nhà nước và quyền tự quản lý của
Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh trí tuệ của quần chúng
18
Cơ chế quản lý nhà nước chính là cách thức quản lý, nguyên tắc thực
hiện quản lý, bao gồm: bộ máy quản lý và con người thực hiện công tác quản
lý đóng vai trò là chủ thể quản lý. Bộ máy quản lý được tổ chức sao cho phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế; chủ thể quản lý là
nhân sự điều hành, sử dụng các giải pháp phù hợp để tác động vào đối tượng
quản lý nhằm giúp nhà quản lý đạt mục tiêu đề ra. Trong hoạt động quản lý
nhà nước về kinh tế ở chính quyền cơ sở, cấp xã tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước thống nhất theo quy định của pháp luật, yếu tố quyết định vẫn là con
người chỉ đạo, điều hành và thực thi nội dung quản lý. Do đó, cơ chế quản lý
nhà nước về kinh tế ở chính quyền cơ sở cần phải hoàn thiện, nhằm tạo động
lực cho phát triển kinh tế, làm sao để có thể huy động được sức mạnh tổng
hợp của toàn dân phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.
Chính quyền cơ sở cần đề cao tính tự quản của Nhân dân, đây là
phương thức quản lý thật sự hiệu quả, tạo điều kiện cho Nhân dân tự quản, tự
điều hành trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật để hướng đến mục tiêu đề
ra. Nhân dân tự quản trong đời sống sinh hoạt và tự quản trong lao động sản
xuất, tự do phát triển kinh tế theo những mô hình được chính quyền định
hướng. Thực hiện được cơ chế tự quản trong phát triển kinh tế sẽ kích thích
được sự chủ động, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Hai là, tuyên truyền, vận động, khuyến khích, hướng dẫn người nông
dân chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nông nghiệp theo các mô hình tự sáng tạo
hoặc do cấp trên phổ biến, hỗ trợ, đồng thời tham gia chương trình phát triển
kinh tế của xã
Chính quyền cơ sở thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế
bằng nhiều biện pháp, trong đó đề cao nội dung tuyên truyền, vận động,
thuyết phục để định hướng theo đúng quy hoạch sản xuất của địa phương.
Đồng thời để tránh tình trạng sản xuất tự phát, manh mún, không ổn định về
thu nhập cho người nông dân, cấp xã phải tích cực vận động, thuyết phục
người dân thực hiện mô hình sản xuất với quy mô hợp lý và theo định hướng
19
của xã, từ đó làm cho cơ cấu kinh tế, loại hình sản xuất được chuyển đổi phù
hợp. Để giúp người nông dân ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế, chính
quyền cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ về mô hình sản xuất, phương thức sản
xuất phù hợp với quy hoạch chung của huyện và xã. Những mô hình sản xuất
ở địa phương gồm: mô hình chăn nuôi hiệu quả kinh tế cao, mô hình trồng
cây công nghiệp hoặc cây ngắn ngày, mô hình phát triển các ngành nghề
truyền thống của địa phương,…Nhà nước khuyến khích người nông dân phát
triển sản xuất thông qua hỗ trợ phương tiện sản xuất, vốn, tiến bộ khoa học kỹ
thuật và ký kết hợp đồng thu mua sản phẩm cho người nông dân, có thể nhà
nước làm trung gian cho việc ký kết hợp đồng theo mô hình liên kết “4 nhà”
“nhà nước - nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học”.
Hoạt động kinh tế ở cấp xã có rất nhiều hình thức, tuy nhiên để phát
triển kinh tế theo đúng định hướng, đúng quy hoạch thì cần phải có sự hướng
dẫn, giúp đỡ của chính quyền cơ sở trong đó Ủy ban nhân dân xã là chủ thể
trực tiếp thực hiện chức năng quản lý. Ủy ban nhân dân xã giúp đỡ các chủ
thể sản xuất kinh doanh hoạt động có hiệu quả, đạt năng suất cao đáp ứng
được chất lượng hàng hóa cần thiết để tăng sức cạnh tranh và phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Để làm được điều này, Ủy ban nhân dân xã phải thực hiện
các hoạt động cụ thể như: mở Hội nghị, tổ chức các lớp học chuyển giao khoa
học kỹ thuật, giống mới, kịp thời cung cấp những tiến bộ kỹ thuật sản xuất tân
tiến, có hiệu quả, từ đó chủ trì hoặc liên kết với các đơn vị, công ty, các
chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cung cấp giống chất lượng cao, nhằm
đảm bảo cho người dân sản xuất hiệu quả.
Thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến công: hoạt động
khuyến nông, khuyến công nhằm khuyến khích người nông dân chuyển đổi
cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với mô hình kinh tế đem lại hiệu
quả cao hơn, chuyển giao kỹ thuật mới cho người dân. Tổ chức các lớp đào
tạo nghề cho lao động nông thôn cũng là biện pháp giúp người dân sản xuất ra
những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời trang bị cho
20
người lao động có được những kỹ năng cần thiết trong quá trình lao động. Ở
cấp xã, các lớp đào tạo nghề thường được tổ chức phù hợp với các ngành
nghề hiện có tại địa phương, để các học viên có thể tìm được việc làm tại chỗ
sau khi tốt nghiệp. Vận động, hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động hợp tác
lẫn nhau theo mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác. Mô hình này đã từng bước
chứng minh được hiệu quả to lớn của nó, sự cộng tác trong sản xuất có thể tạo
ra nguồn vốn lớn, học hỏi được các kỹ năng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, phù
hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm và nhất là có được sức mạnh tập thể để
bảo vệ quyền lợi của mình khi tiếp cận thị trường.
Ba là, quyết định hoặc góp phần ra quyết định pháp lý cho hoạt động
sản xuất kinh doanh; giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
Ủy ban nhân dân xã không có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh
nhưng có trách nhiệm quản lý gián tiếp thông qua việc xác nhận thủ tục pháp
lý của các chủ thể đăng ký kinh doanh, xác nhận tính hợp lý và ảnh hưởng của
dự án đối với môi trường tự nhiên, an ninh, chính trị tại địa phương… từ đó
làm cơ sở để cấp trên cấp giấy phép. Khi đơn vị có giấy phép, Ủy ban nhân
dân xã với trách nhiệm là chủ thể quản lý hành chính nhà nước tại địa phương
sẽ tiếp quản các đơn vị, thực hiện chức năng giám sát thường xuyên hoạt
động của các đơn vị theo đúng thẩm quyền quy định.
Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng nói
chung, hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống cộng đồng dân cư trong xã
Kết cấu hạ tầng bao gồm: điện, đường, công trình công cộng…, tất cả
các hạng mục trên là nhu cầu thiết yếu của Nhân dân, nếu thiếu một trong
những nội dung trên thì xã không thể phát triển được. Chính quyền cấp xã và
cấp trên phải quan tâm đầu tư, thực hiện các công trình này, phải kiến nghị
cấp trên và vận động người dân tạo điều kiện để đưa điện đến từng hộ dân,
đồng thời phải kiến nghị giải quyết tốt các sự cố như: điện yếu cho hoạt động
sản xuất, huy động sửa chữa đường dây điện,…Kết cấu hạ tầng giao thông
đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa-xã hội
21
của địa phương, là huyết mạch cho hoạt động vận chuyển và đi lại của Nhân
dân. Việc quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông là nhu cầu cấp
thiết. Có nhiều cách thực hiện, một là xin hỗ trợ vốn xây dựng từ cấp trên, hai
là bố trí ngân sách xã để đầu tư xây dựng, ba là vận động sự tham gia đóng
góp của người dân theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Đồng
thời chính quyền địa phương cần thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý các tuyến
đường theo phân cấp gồm: đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng,
đường ngõ xóm, thường xuyên kiến nghị đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa,
tu bổ kịp thời đáp ứng nhu cầu thông thương, đi lại; quản lý và sử dụng có
hiệu quả các công trình công cộng gồm: trường học, trạm y tế, chợ,…
Năm là, các biện pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí nhân lực, vật
lực trên địa bàn xã
Vật lực kinh tế ở cấp xã bao gồm nhiều nội dung, trong đó cả vấn đề tài
chính phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế và phương tiện phục vụ cho
phát triển kinh tế (trang thiết bị, máy móc…), cấp xã phải đề ra các biện pháp
phòng chống tham nhũng, lãng phí vật lực kinh tế, thực hiện đồng bộ các biện
pháp nhằm ngăn chặn tình trạng rút ruột công trình, lãng phí thời gian, công
sức và tiền của trong hoạt động phát triển kinh tế, trong đó tập trung các biện
pháp: xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể trong việc sử dụng tài
sản công, đồng thời phải công khai, minh bạch trong mọi hoạt động để làm cơ
sở giám sát.
Sáu là, các biện pháp nhằm khai thác quá trình phát triển kinh tế trên
địa bàn xã, từ sản xuất đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng
Chính quyền địa phương đề ra các biện pháp phù hợp cho quá trình
phát triển kinh tế trên địa bàn như: khai thác tốt quá trình vận chuyển, trao đổi
hàng hóa, phương tiện phục vụ cho sản xuất, để người dân có thể dễ dàng tiếp
cận sản phẩm. Một trong các giải pháp đặt ra là giới thiệu và hỗ trợ giới thiệu
sản phẩm thông qua các hoạt động khuyến nông, mô hình sản xuất mẫu. Nhà
nước sẽ định hướng sản xuất và tiêu dùng, tạo mọi điều kiện để người sản
22
xuất tiếp cận người tiêu dùng và giúp người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn
sản phẩm cần thiết cho nhu cầu thiết yếu của mình.
Bảy là, tổ chức và quản lý sự phát triển kinh tế công của xã
Kinh tế công của xã là một trong những nguồn thu ngân sách quan
trọng của địa phương. Do đó, Ủy ban nhân dân xã phải quản lý thật sự hiệu
quả các hoạt động kinh tế công, nhằm thực hiện tốt việc khai thác triệt để các
nguồn thu cho ngân sách xã, đồng thời có thể phát huy tối đa hiệu quả của các
hoạt động kinh tế công.
Thứ hai, xây dựng tổ chức và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế cấp
trên nhằm huy động mọi tiềm lực kinh tế trên địa bàn
Căn cứ quy hoạch và kế hoạch chung của huyện về định hướng phát
triển ngắn hạn (01 năm) và dài hạn (05 năm hoặc hơn 05 năm), trên cơ sở tình
hình thực tế của từng địa phương, Ủy ban nhân dân xã xây dựng quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cụ thể trên cơ sở đảm bảo quy định pháp
luật và chủ trương chỉ đạo của cấp trên, phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương và nguyện vọng của Nhân dân. Hoạt động lập quy hoạch, xây dựng
kế hoạch được thực hiện theo đúng quy trình, trong đó cần tổ chức lấy ý kiến
của các ngành, các cấp, đoàn thể, hội quần chúng và Nhân dân là nội dung
quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng tham gia.
Thực hiện lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
cần đề ra giải pháp để hoàn thành mục tiêu; đồng thời định hướng phát triển
các nội dung như: quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển ngành nghề,
vùng chăn nuôi, sản xuất…Từ đó, Ủy ban nhân dân xã tiếp tục xây dựng kế
hoạch thực hiện nhằm đạt yêu cầu đề ra. Quy hoạch đúng, khả thi cùng với kế
hoạch phù hợp sẽ huy động tối đa nguồn lực, khơi dậy các tiềm năng kinh tế,
từ đó sẽ làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
Thứ ba, lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn và
phương án phân bổ dự toán ngân sách
23
Dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương (trong trường hợp cần thiết)
và lập quyết toán ngân sách địa phương phải được xây dựng và trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định, báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài
chính cấp trên trực tiếp. Quan tâm thực hiện tốt tình hình thu, chi ngân sách
địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý
ngân sách trên địa bàn, nhằm đảm bảo theo quy định của pháp luật. Hàng năm
Ban tài chính xã phối hợp cùng đội thuế lập các khoản thu cần phải thực hiện
trong năm, từ đó lập dự toán thu, chi ngân sách xã báo cáo Thường trực Hội
đồng nhân dân xã và chuẩn bị hồ sơ để thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân
gần nhất. Trong quá trình chi ngân sách nếu nguồn thu không đảm bảo thì
công chức tài chính-kế toán xã chủ động tham mưu chủ tài khoản tính toán lại
các khoản chi nhằm đảm bảo cân đối ngân sách.
Dự toán thu, chi ngân sách xã sau khi được Hội đồng nhân dân cùng
cấp thông qua, Ủy ban nhân dân xã phải lập thủ tục báo cáo Ủy ban nhân dân
huyện và Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã là chủ tài khoản điều hành hoạt động thu, chi ngân sách xã. Công chức
tài chính-kế toán xã chịu trách nhiệm tham mưu về nghiệp vụ kế toán, chủ
động liên hệ với cơ quan tài chính cấp trên để thực hiện công tác tham mưu
quản lý ngân sách trên địa bàn theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, xây dựng các biện pháp nhằm đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa
phương
Hoạt động sản xuất ở cấp xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bên cạnh
đó là một số hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh, dịch vụ.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất thì việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất là vô cùng cần thiết, sẽ góp phần tăng năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm, qua đó mang lại lợi nhuận cao cho người nông
dân, người tiêu dùng và chủ sản xuất kinh doanh qua đó có thể tiết kiệm được
chi phí đầu tư, chi phí sản xuất. Trình độ khoa học kỹ thuật là những giải
24
pháp, sáng kiến, cải tiến và phương tiện hiện đại nhằm ứng dụng vào hoạt
động sản xuất và đời sống của người dân.
Việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào hoạt động sản xuất đã được
khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa XI) “về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nêu rõ: “…Phát triển và ứng dụng
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội
dung cần được ưu tiên tâm trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của
các ngành, các cấp…”. Như vậy, vai trò của khoa học công nghệ là rất quan
trọng quyết định sự thành công của hoạt động sản xuất, do đó việc đưa khoa
học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc Nhân
dân có thể tiếp cận được các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, đưa vào hoạt động
sản xuất cần phải có sự hướng dẫn, hỗ trợ của chính quyền địa phương.
Ủy ban nhân dân xã chuyển giao các ứng dụng khoa học kỹ thuật cho
người dân bằng các biện pháp thích hợp thông qua các buổi khuyến nông,
khuyến công mời các chuyên gia trình bày, tổ chức các lớp hướng dẫn cho
người dân. Mặt khác, thông qua các buổi làm việc, trao đổi với các nhà doanh
nghiệp, Ủy ban nhân dân xã sẽ thực hiện vai trò trung gian giới thiệu nhà
doanh nghiệp cho người dân tiếp cận các loại sản phẩm, đây là cách làm hợp
lý theo mô hình kiên kết 4 nhà “nhà nước – nhà nông – nhà khoa học và nhà
doanh nghiệp”, cách làm này thật sự hiệu quả bởi doanh nghiệp có đầy đủ
nguồn tài chính để thực hiện và có thể bao tiêu sản phẩm cho người dân.
Thứ năm, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh tế đảm bảo quyền và
lợi ích của các bên tham gia vào quá trình kinh tế
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là nhà nước đánh giá, xem xét
hoạt động kinh tế đó tốt hay xấu, theo dõi xem có tuân thủ các quy định của
pháp luật hay không. Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng của
25
quản lý nhà nước, vì vậy phải thực hiện thường xuyên, liên tục mới đảm bảo
đạt mục tiêu đề ra. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là cần thiết vì không
phải lúc nào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng diễn ra thuận lợi, bởi môi
trường kinh doanh, sản xuất luôn biến động và lợi ích của các bên trong mối
quan hệ kinh tế đó có nguy cơ bị ảnh hưởng. Hoạt động kiểm tra, giám sát về
kinh tế giúp phát hiện những mặt làm được, những hạn chế, thiếu sót, từ đó đề
ra các giải pháp khắc phục, đồng thời ngăn chặn và xử lý những hành động
gây ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng cũng như những hoạt động trái với
quy định của pháp luật. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế bao gồm những
nội dung sau:
Một là, kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật của nhà
nước về kinh tế. Đây là nội dung quan trọng vì chúng ta đang xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các hoạt động trong nền kinh tế phải diễn
ra trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, do đó hoạt động kiểm tra việc
chấp hành pháp luật là hoạt động cần thiết, nhằm duy trì tính nghiêm minh và
công bằng của pháp luật.
Hai là, kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi
trường, quan hệ lao động
Hiện tại công tác bảo vệ môi trường sinh thái đã trở thành nhiệm vụ
quan trọng trong mục tiêu phát triển bền vững được chỉ đạo tại Nghị quyết số
24-NQ/TW, ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương
(Khóa XI) “về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường”, cụ thể là: “…Môi trường là vấn đề toàn cầu.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài
hoà với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp
kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa
dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên
quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ
26
cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền
vững…”.
Ủy ban nhân dân xã thực hiện nghiêm công tác kiểm tra việc chấp hành
các quy định của pháp luật về thực hiện các quan hệ lao động, tránh để xảy ra
trường hợp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động. Bộ Luật Lao động năm 2012 được ban hành và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01 tháng 5 năm 2013 (năm 2017 dự kiến sẽ ban hành Bộ Luật lao
động mới) đã đặt nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ
lao động ở Việt Nam và là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chức năng
giám sát, kiểm tra quan hệ lao động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ba là, kiểm tra, giám sát sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Kết
quả cuối cùng của hoạt động sản xuất là sản phẩm được làm ra và bán cho
người tiêu dùng, vì vậy chất lượng sản phẩm đó phải đảm bảo, tránh gây tác
hại đến người sử dụng. Nhà nước phải thực hiện chức năng kiểm tra nhằm
đảm bảo tốt yêu cầu về chất lượng, nếu qua kiểm tra phát hiện sản phẩm
không đảm bảo chất lượng, phải kịp thời xử lý tránh gây thiệt hại cho cộng
đồng và cho nền kinh tế.
Thứ sáu, đề ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, chống hàng gian,
hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể luôn được Ủy ban nhân
dân xã quan tâm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát như đã nêu trên, đồng
thời việc xây dựng các biện pháp nhằm thực thi đúng quy định của pháp luật
về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất
lượng là biện pháp góp phần làm trong sạch nền kinh tế, phát huy hiệu quả
sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh và nhất là bảo vệ lợi ích của cộng
đồng, của người tiêu dùng. Những biện pháp về thực hiện tiêu chuẩn đo lường
chất lượng sản phẩm, chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng bao
gồm: Tổ chức kiểm tra các hoạt động thương mại bán lẻ, kiểm tra các phương
27
tiện sử dụng để đo lường và kiểm tra tem, nhãn các sản phẩm hàng hóa được
bày bán trên thị trường. Qua đó, có thể tuyên truyền, nhắc nhở người dân thực
hiện nghiêm túc những quy định về đo lường chất lượng sản phẩm. Nếu phát
hiện sai phạm, có thể áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính theo quy định
tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP, ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ
quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP,
ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ “quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Đồng thời quan tâm thực hiện các biện
pháp phù hợp nhằm tuyên truyền, giáo dục người dân chủ động phòng ngừa,
tránh mua phải những sản phẩm kém chất lượng.
1.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế ở cấp xã
1.3.1 Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế
Hiệu quả (effectiveness) là kết quả, sự đạt được kết quả mong muốn.
Theo khái niệm của kinh tế học: Hiệu quả là kết quả công việc đạt được trừ đi
tổng các chi phí phải bỏ ra để thực hiện công việc đó. Theo tài liệu “Đo lường
và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước những thành tựu trên thế
giới và ứng dụng ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Đăng Thành, hiệu quả
quản lý hành chính nhà nước được tiếp cận với 02 góc độ khác nhau. Tiếp cận
từ góc độ kinh tế thì hiệu quả quản lý hành chính nhà nước là: “Kết quả thực
hiện một chủ trương, chính sách được xác định qua việc so sánh các kết quả
đạt được với toàn bộ các nguồn lực sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở kết quả đạt
được là tối đa trong khi chi phí là tối thiểu. Hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước được xác định bởi mối tương quan giữa kết quả thực tế có được từ các
nguồn lực và kết quả tối đa từ các nguồn lực đó”. Tiếp cận từ góc độ xã hội
thì hiệu quả quản lý hành chính nhà nước được hiểu: “là mức độ đáp ứng của
kết quả với nhu cầu, mong đợi của khách hàng và nguồn lực xã hội, được
khách hàng chấp nhận và sử dụng”.
28
Như vậy, để có hiệu quả cao nhất thì kết quả đạt được là điều tất nhiên
nhưng các nguồn lực bỏ ra để thực hiện công việc đó phải hợp lý, đồng thời
kết quả đó phải đáp ứng được các nhu cầu, mong đợi của người dân.
1.3.2 Tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về kinh tế
cấp xã
Từ những cách tiếp cận khác nhau về hiệu quả quản lý nhà nước như
trên có rất nhiều tiêu chí để xác định hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của
Ủy ban nhân dân xã. Để xác định một cách chính xác là vấn đề khá phức tạp,
chính vì vậy có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để mô tả hiệu quả
quản lý nhà nước và tương ứng là có nhiều tiêu chí và phương pháp để đánh
giá, đo lường hiệu quả được đưa ra. Để đánh giá một hoạt động nào đó có
hiệu quả hay không cần phải dựa trên những tiêu chí đề ra, làm cơ sở đánh giá
mức độ hoàn thành của nó. Trong quản lý cũng vậy, để đánh giá được hiệu
quả của quản lý đạt đến mức nào cần phải có tiêu chí nhất định. Tiêu chí này
là cơ sở để nhà quản lý đánh giá mức độ thực thi công việc quản lý của các
chủ thể quản lý. Như vậy trong quản lý nhà nước về kinh tế cũng không ngoại
lệ, để đánh giá hiệu quả của nó phải có tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Trên cơ sở tiếp
cận hiệu quả quản lý nhà nước từ góc độ kinh tế; góc độ xã hội và góc độ
quản lý thì có rất nhiều tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về
kinh tế, tuy nhiên có những tiêu chí cơ bản như sau:
Tiêu chí 1: Trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Lực lượng cán bộ,
công chức có trình độ và có năng lực tốt trong thực thi công vụ, là tiền đề để
đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý hành chính nhà nước. Ngược lại
nếu cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương có trình độ thấp thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản
lý. Do đó, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức được xem là tiêu
chí để đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
29
Tiêu chí 2: Việc đảm bảo thực hiện những nội dung quản lý nhà
nước trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã. Xét từ góc độ kinh
tế, có thể xét về các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ quản lý đó, mà đặc biệt
là nguồn lực về tài chính.
Tiêu chí 3: Chi phí của hoạt động quản lý phải hợp lý. Mọi hoạt động
đều cần phải có nguồn lực phù hợp nhất là nguồn lực về tài chính; để hoạt
động quản lý đạt hiệu quả cao thì mục tiêu đề ra phải đạt được và chi phí thực
hiện phải hợp lý. Tuy nhiên, có những hoạt động quản lý để xác định chi phí
chính xác thì rất khó, không thể định lượng được. Xét từ góc độ xã hội, hiệu
quả của hoạt động quản lý là sự tác động của hoạt động quản lý lên người dân
và tổ chức, nhằm đem lợi ích cao.
Tiêu chí 4: Sự hài lòng của người dân và tổ chức đối với hoạt động
quản lý của Ủy ban nhân dân xã. Đối tượng quản lý chính là người dân, các
quan hệ sản xuất, như vậy hoạt động quản lý hiệu quả nhưng lại không đem
đến sự hài lòng cho người dân thì kết quả đó không bền vững và không thể
xem hoạt động quản lý đó đạt hiệu quả cao được. Hay nói cách khác, quản lý
hành chính là vì con người nhưng nếu con người không chấp nhận nó thì hoạt
động quản lý không thể thành công. Cho nên tiêu chí về sự chấp nhận, thừa
nhận của người dân cũng phải được xem là thước đo để đánh giá hiệu quả
quản lý cao hay thấp.
30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong Chương 1, trên cơ sở các luận cứ khoa học, Luận văn đã xây
dựng được khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã. Theo đó, nội
hàm các khái niệm về chính quyền cấp xã, quản lý nhà nước về kinh tế, trong
đó, có khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và các tiêu chí đánh giá
hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, bao gồm:
Tiêu chí 1: Trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã.
Tiêu chí 2: Việc đảm bảo thực hiện những nội dung quản lý nhà nước
trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tiêu chí 3: Chi phí của hoạt động quản lý phải hợp lý.
Tiêu chí 4: Sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với hoạt động quản
lý của Ủy ban nhân dân xã.
Khung lý thuyết nêu trên là cơ sở để nghiên cứu, phân tích, đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,
tỉnh Tây Ninh ở Chương 2 tiếp theo.
31
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
2.1. Tổng quan về huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh
Huyện Hoà Thành nằm ở trung tâm của tỉnh Tây Ninh, có địa giới hành
chính phía đông giáp huyện Gò Dầu và huyện Dương Minh Châu; phía bắc
giáp Thành phố Tây Ninh và huyện Dương Minh Châu; phía nam giáp huyện
Gò Dầu; phía tây giáp huyện Châu Thành. Trung tâm huyện lị Hòa Thành
cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 90 km, cách biên giới Việt Nam-
Campuchia khoảng 25 km về phía tây và 40 km về phía bắc. Trên địa bàn
huyện có các tuyến đường giao thông cấp quốc gia đi qua (về đường bộ có
tuyến Quốc lộ 22B; về đường thủy có tuyến sông Vàm Cỏ Đông) tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giao lưu với các địa phương khác. Diện tích tự nhiên: 82,92 km2, dân số: 145.809 người, mật độ dân số: 1.758 người/km2. Huyện gồm Thị
trấn Hòa Thành và 7 xã: Hiệp Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Nam, Long
Thành Trung, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây. Dân số trên địa bàn
huyện chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 99,46%), kế đến là dân tộc Hoa
(0,29%) và dân tộc Khmer (0,25%). Về tôn giáo, trên địa bàn huyện có 05 tôn
giáo là Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh đạo Bến Tre, Phật giáo, Công
giáo và Tin lành (hệ phái nhân chứng Giêhôva), trong đó đông nhất là tín đồ
đạo Cao Đài Tây Ninh.
Hòa Thành có tiềm năng lớn để phát triển du lịch trở thành ngành kinh
tế quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn. Với
các địa điểm như: Tòa Thánh Tây Ninh; Trung tâm Thương mại Long Hoa;
các di tích lịch sử-văn hóa; cảnh quan thiên nhiên dọc theo bờ sông Vàm Cỏ
Đông; các làng nghề,…tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các loại
hình du lịch của tỉnh Tây Ninh, vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước.
32
Trung tâm Thương mại Long Hoa nằm trên cửa ngõ giao lưu giữa Tây
Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh; Tòa Thánh Cao Đài thuộc huyện Hòa
Thành là một địa điểm du lịch, hành hương khá nổi tiếng với lễ, tết diễn ra
hàng năm thu hút trên 100.000 lượt du khách tham quan. Địa hình Hoà Thành
tương đối bằng phẳng, có xu hướng nghiêng dần từ bắc xuống nam; đất đai,
khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển nhanh, đa dạng và phong phú các
chủng loại cây rừng và các loài sinh vật khác; rừng Hoà Thành có nhiều gỗ
quý, thú rừng, do đường giao thông thuận lợi nên việc khai thác rất dễ dàng.
Hoà Thành có mạng lưới giao thông khá dày đặc. Phía nam huyện có
sông Vàm Cỏ Đông chảy qua dài 11 km với cảng Bến Kéo. Đường bộ, ngoài
các trục lộ chính như quốc lộ 22B đoạn qua huyện dài 12,8 km, đường tỉnh có
các tuyến như: Tỉnh lộ 781, 785, 790, 793, 797, 798, 799, còn có mạng lưới
đường nông thôn chằng chịt từ thị trấn toả đi các xã trong huyện. Hệ thống
giao thông này rất thuận lợi cho việc đi lại giữa các vùng và các khu vực sản
xuất, góp phần mở rộng giao lưu về kinh tế - văn hoá xã hội giữa huyện với
các huyện khác trong tỉnh, với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác.
2.1.2 Tác động của đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội
của huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đến quản lý nhà nƣớc về kinh tế
cấp xã trên địa bàn huyện
2.1.2.1. Về thuận lợi
Huyện có bình quân diện tích đất/người lớn, có khả năng hợp tác tích tụ
đất để phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; có vị trí địa lý khá
thuận lợi cho giao lưu hàng hóa và phát triển thương mại-du lịch, nơi đây có
Tòa thánh Tây Ninh và Trung tâm Thương mại Long Hoa là đầu mối giao
lưu, trao đổi hàng hóa với Thành phố Hồ Chí Minh. Ngành du lịch của huyện
hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách trong và ngoài tỉnh về đây tham
quan trong những ngày lễ, tết và mua sắm hàng hóa. Hình thành tuyến du lịch
tâm linh Núi Bà – Tòa Thánh – Long Hoa. Vị trí địa lý mang lại sự thuận lợi
cho huyện về phát triển kinh tế, có cơ hội hòa nhập, giao lưu, trao đổi, hợp tác
33
trong và ngoài tỉnh. Tiềm năng về tự nhiên của huyện khá đa dạng với nền
nhiệt cao đều trong năm, địa hình khá bằng phẳng, thuận lợi cho xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng như: giao thông, công nghiệp, xây dựng và phân bố
dân cư.
Kinh tế-xã hội của huyện ngày càng phát triển theo hướng đẩy mạnh
phát triển dịch vụ, thương mại, công nghiệp và đô thị theo hướng hiện đại;
huyện luôn quan tâm huy động nguồn lực tập trung đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, tạo bước chuyển biến mạnh
mẽ trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của Nhân dân; giữ vững ổn định an ninh chính trị, bảo đảm an ninh quốc
phòng. Đảng bộ huyện luôn chú trọng đề ra các chủ trương, giải pháp đẩy
mạnh phát triển kinh tế trên địa bàn, Ban Thường vụ Huyện ủy đã thành lập
các ban chỉ đạo thực hiện một số lĩnh vực mang tính đột phá để phát triển
kinh tế - xã hội huyện Hòa Thành giai đoạn 2017-2020. Trong đó, huyện xác
định 03 lĩnh vực trọng tâm: phát triển hạ tầng - du lịch - xúc tiến đầu tư; lĩnh
vực khuyến học - khuyến tài; cải cách hành chính.
Cùng với phát triển kinh tế, huyện Hòa Thành cũng đã tập trung huy
động các nguồn lực nhằm hỗ trợ gia đình chính sách, tạo việc làm mới cho
người lao động, giúp đỡ hộ nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo cải thiện
cuộc sống, tập trung giải quyết các chế độ, chính sách đối với người có công,
bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng. Trong 02 năm 2015-2016, huyện Hòa
Thành đã mở hơn 27 lớp đào tạo nghề cho trên 840 lao động nông thôn, trong
đó, gần 88% lao động sau khi tốt nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định.
Huyện cũng đã vận động các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài huyện ưu
tiên tuyển lao động địa phương vào làm việc. Hàng năm, có hơn 2.700 lao
động có việc làm; tỷ lệ lao động qua đào tạo của huyện đạt 123,81% so với
chỉ tiêu.
34
2.1.2.2. Về khó khăn
Hòa Thành nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa có
lượng nước lớn, mưa nhiều và thường xuyên gây xói mòn, ngập úng cục bộ.
Ngược lại mùa khô mưa ít, nước bốc hơi nhiều, gây tình trạng khô hạn cho
đất và cây trồng.
Huyện có trên 90% người dân theo đạo Cao Đài; vùng đô thị tập trung
dân cư đông đúc với đa số người dân từ các tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ
đến định cư, tạo ra áp lực cho công tác quản lý trên nhiều mặt, trong đó có
vấn đề an ninh, an toàn, trật tự xã hội.
Hòa Thành là huyện có diện tích nhỏ nhưng dân số đông nên mật độ
dân số tương đối cao so với các huyện trong tỉnh, hệ thống đường giao thông
nội bộ trong huyện phần lớn chưa được nhựa hóa, mức độ đô thị hóa ngày
càng cao càng làm tăng mật độ dân số, nguồn rác thải và nước thải lớn nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường đang đặt ra vấn đề cần phải quan tâm giải quyết.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.2.1. Đánh giá về thực hiện nội dung quản lý nhà nƣớc về kinh tế
cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.2.1.1. Đề ra các chủ trƣơng, biện pháp không trái với quy định
của pháp luật và các chủ trƣơng, biện pháp do cấp trên ban hành, nhằm
khai thác mọi tiềm năng kinh tế trên địa bàn xã
Một là, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và quyền tự quản của
Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh trí tuệ của quần chúng
Để hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và thực hiện quyền tự quản của
Nhân dân trên cơ sở quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy
ban nhân dân xã trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Các
xã trên địa bàn huyện đã xây dựng quy chế hoạt động của Ủy ban nhân dân xã
theo hướng dẫn quy chế mẫu tại Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg, ngày 12
tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ “ban hành Quy chế làm việc
35
mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”, trong đó quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng thành viên Ủy ban nhân dân, về cơ chế
phối hợp trong giải quyết công việc của các bộ phận tham mưu thực hiện
công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói
riêng. Ngoài ra, các xã, thị trấn đã và đang áp dụng quy trình quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2008, đây là cách thức cụ thể hóa cơ chế
quản lý nhà nước theo quy trình chuẩn nhất định, do đó hiệu quả quản lý
không ngừng được hoàn thiện.
Chính quyền cấp xã thực hiện chức năng tổ chức, hướng dẫn và tạo
điều kiện để cộng đồng dân cư thực hiện các hình thức tự quản theo quy định.
Các xã trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều hoạt động tự quản như: hoạt
động tự quản của ấp, khu phố có tổng cộng 1.214 tổ dân cư tự quản trên địa
bàn 39 ấp, khu phố; có các tổ chức tự quản hoạt động trên lĩnh vực kinh tế
bao gồm: 18 Tổ hợp tác thành lập theo Nghị định số 151/2007/NĐ-CP, ngày
10 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ “về tổ chức và hoạt động của tổ hợp
tác”, trong đó có 13 Tổ hợp tác hoạt động với các ngành nghề chăn nuôi,
trồng trọt phù hợp với vị trí địa lý và điều kiện tự nghiên của địa phương như:
nuôi cá nước ngọt, chăn nuôi bò sinh sản, trồng lúa, trồng nhãn GAP, trồng
khoai môn, trồng bông và 05 Tổ hợp tác hoạt động gắn với làng nghề truyền
thống như: sản xuất gỗ gia dụng, đúc gang, may mặc và vót đũa; có 10 Hợp
tác xã hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực nông nghiệp (03 Hợp tác xã), phi
nông nghiệp (03 Hợp tác xã), giao thông vận tải (01 Hợp tác xã) và Quỹ tín
dụng nhân dân (04 Quỹ tín dụng). Các tổ chức tự quản hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật và điều lệ quy định, đồng thời thực hiện mục tiêu kinh tế theo
định hướng, hướng dẫn của Ủy ban nhân dân huyện, xã và ngành cấp trên, tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.
Việc thực hiện tự quản ở cấp xã chủ yếu thông qua huy động sự đóng
góp của người dân trong xây dựng các công trình công cộng, kết cấu hạ tầng,
quyên góp thực hiện các phong trào như: đóng góp quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ
36
vì người nghèo, quỹ phòng chống thiên tai, an ninh quốc phòng,…Để thực
hiện tốt chế độ tự quản thì phải có phương châm, mục đích cụ thể rõ ràng, vì
vậy Ủy ban nhân dân xã cần thực hiện chức năng định hướng, hướng dẫn và
tạo điều kiện cho các tổ chức này tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình,
góp phần lớn trong việc xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương.
Hai là, tuyên truyền, vận động, khuyến khích, hướng dẫn nông dân
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất theo mô hình mới, thực hiện các hoạt
động hỗ trợ nông dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế tại địa
phương
Hòa Thành có hơn 75% dân số làm nông nghiệp, thời gian qua các xã
đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giúp người nông dân chuyển đổi cơ cấu
giống cây trồng, vật nuôi theo hướng ngày càng hiệu quả hơn, huyện đã triển
khai cho các xã, thị trấn nhiều dự án, mô hình sản xuất mới, hiệu quả theo quy
hoạch chung của tỉnh tại Quyết định số 26/2009/QĐ-UBND, ngày 27 tháng
05 năm 2009 “về việc ban hành quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn
tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2009 – 2015 và định hướng đến năm 2020”, trong đó
chú trọng phát triển các ngành nghề truyền thống như: mây tre đan xã Long
Thành Trung, nghề làm nhang xã Long Thành Bắc, nghề mộc gia dụng xã
Hiệp Tân, nghề sản xuất gạch ở Trường Đông, Long Thành Nam…và nhiều
mô hình chăn nuôi, trồng trọt đạt hiệu quả kinh tế cao: mô hình trồng dưa
trong nhà lưới tại ấp Long Trung, xã Long Thành Trung; mô hình nuôi trâu
bò thịt tại xã Trường Đông và Trường Hòa; mô hình sản xuất lúa khép kín đạt
hiệu quả kinh tế cao bảo vệ môi trường bền vững tại xã Trường Tây; mô hình
trồng khoai môn sáp tại ấp Trường Thọ, xã Trường Hòa; mô hình trồng nhãn
theo hướng VietGap tại xã Trường Hòa; mô hình nuôi cá nước ngọt tại ấp
Bến Kéo, xã Long Thành Nam. Thực hiện 05 đề tài mô hình hội thi sáng tạo
khoa học kỹ thuật như: đề tài mô hình nuôi cá thác lác trên đồng ruộng kết
hợp trồng rau nhút; đề tài mô hình máy cải tiến vận chuyển lúa trên đồng
ruộng lầy; đề tài mô hình trồng quýt đường trên đất cát; đề tài mô hình máy
37
quét bùn trong ao đìa và san lấp ruộng; đề tài mô hình máy bóc vỏ khoai môn,
kết quả có 02 đề tài đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Ngoài ra, Hội nông dân
huyện đã tổ chức 87 buổi hội thảo, tập huấn kỹ thuật phòng trừ các loại bệnh
gây hại trên cây trồng, vật nuôi cho 3.306 hội viên hội nông dân các xã, thị
trấn tham dự. Đồng thời các xã còn chủ động tạo điều kiện cho người dân
tham gia các mô hình có giá trị kinh tế cao như: để có vốn sản xuất, Ủy ban
nhân dân xã đã làm cầu nối cho các hộ dân được vay vốn, giới thiệu cho
26.973 hộ vay với tổng số tiền 541.143.000.000 đồng từ các chương trình cho
vay ưu đãi như: học sinh, sinh viên, nước sạch vệ sinh môi trường, hộ cận
nghèo,…, trong đó nợ quá hạn là 3.237.000.000 đồng, chiếm tỉ lệ 0,59% trên
tổng dư nợ. Hoạt động Quỹ hỗ trợ nông dân hiện nay tổng dư nợ 04 cấp
(trung ương, tỉnh, huyện, xã) là 13.341.000.000đ cho 1.101 hộ vay bao gồm:
vốn địa phương là 768 hộ với 5.685.000.000đ, vốn huyện ủy thác là 75 hộ với
1.500.000.000đ, vốn tỉnh là 90 hộ với 1.656.000.000đ, vốn trung ương là 168
hộ với 4.500.000.000đ (Nguồn từ báo cáo của Ban chấp hành Hội nông dân
huyện Hòa Thành).
Các mô hình trên được nhân dân hưởng ứng tích cực và thực hiện có
hiệu quả góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn các xã, theo kết quả điều
tra năm 2016, cả huyện có 1.404 hộ nghèo và hộ cận nghèo theo Quyết định
59/2015/QĐ-TTg, chiếm 3,85%, trong đó hộ nghèo là 835 hộ, chiếm 2,29%
(so với năm 2015 giảm 0,14%); hộ cận nghèo là 575 hộ, chiếm 1,58% (so với
năm 2015 tăng 0,07%); số hộ thoát nghèo là 152, trong đó xã có tỉ lệ hộ thoát
nghèo cao nhất là xã Long Thành Nam với 38 hộ, xã có tỉ lệ hộ thoát nghèo
thấp nhất là xã Trường Tây với 16 hộ. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân xã còn phối
hợp với các đoàn thể thường xuyên kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn, tạo điều
kiện để người dân tiếp cận các nguồn vốn vay nhanh chóng, dễ dàng, giúp
người dân an tâm sản xuất. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay là:
Về chủ quan, các hộ gia đình chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh do không xây dựng được phương án, kế hoạch sản
38
xuất khả thi nên khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ
chức tín dụng và các quỹ hỗ trợ phát triển. Chưa chủ động trong việc huy
động năng lực nội tại của gia đình, địa phương, chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ
của nhà nước. Sự phân công, phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể
ở địa phương trong việc hướng dẫn, hỗ trợ phát triển các mô hình kinh tế chưa
chặt chẽ, cụ thể dẫn đến hiệu quả hoạt động của các mô hình chưa cao.
Về khách quan, các mô hình này chưa đảm bảo được đầu ra cho sản
phẩm, ví dụ như: mô hình chăn nuôi bò sinh sản, mô hình trồng hoa lan cắt
cành, mô hình trồng rau sạch,...Từ đó người dân gặp không ít khó khăn nếu
thị trường có biến động; nhiều mô hình mang tính tự phát do có hiệu quả kinh
tế nhất thời nhưng không mang tính bền vững, người dân lại tự đầu tư vào sản
xuất chưa đảm bảo được hiệu quả rất dễ dẫn đến thua lỗ. Ngoài ra, những hoạt
động sản xuất này gặp một số khó khăn như: sản phẩm do chưa được áp dụng
các tiến bộ về khoa học công nghệ mới nên số lượng, chất lượng không cao;
hình thức sản xuất tại các làng nghề chủ yếu vẫn là hộ gia đình, quy mô sản
xuất nhỏ, thiết bị thô sơ, công nghệ thấp, vốn đầu tư ít; chính sách hỗ trợ,
khuyến khích phát triển làng nghề, công tác khuyến nông chưa đáp ứng theo
yêu cầu. Việc nắm bắt, cập nhật thông tin thị trường còn hạn chế, sản phẩm
tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Phần lớn lao động chưa qua đào tạo, chủ yếu
trưởng thành từ truyền nghề; số lượng nghệ nhân, thợ có tay nghề cao còn ít.
Chưa có sự gắn kết giữa người sản xuất và người tiêu dùng; chưa có sự liên
doanh giữa các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, du lịch với các cơ sở sản
xuất ngành nghề, làng nghề.
Sản phẩm làng nghề còn đơn điệu, mẫu mã chất lượng chưa có tính
cạnh tranh cao; chưa có sản phẩm làng nghề nổi trội; một số làng nghề, ngành
nghề bị mai một dần. Do tác động của quá trình đô thị hóa và chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn vào các khu, cụm công nghiệp, các nhà máy, xí
nghiệp, công ty tư nhân nên lao động làng nghề biến động; lao động có tay
nghề cao có xu hướng chuyển dần sang tìm việc làm tại các công ty, doanh
39
nghiệp nước ngoài, các khu công nghiệp. Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ các
ngành nghề nông thôn còn nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của những mặt
hàng cùng loại được sản xuất bằng công nghệ hiện đại; các sản phẩm ngành
nghề nông thôn gắn với du lịch còn ít, các làng nghề chưa gắn với tour du lịch
để tăng cường giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm. Năng lực, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh của các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất, trình độ kiến thức và tay nghề
của người lao động trong các làng nghề còn hạn chế. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, đây thực sự là khó khăn lớn để có thể đáp ứng được những yêu cầu
tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống đường giao thông đến các làng nghề chưa được
đầu tư nâng cấp hoàn chỉnh, đặc biệt hệ thống thông tin liên lạc, quảng bá sản
phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu.
Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là công tác quản lý nhà nước của Ủy ban
nhân dân xã phải có biện pháp thiết thực hơn nữa nhằm khắc phục những hạn
chế, thiếu sót nêu trên mà đặc biệt là chú trọng công tác tuyên truyền, vận
động người dân chuyển đổi mô hình sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi theo
hướng hiệu quả hơn, phải định hướng rõ ràng và bằng các biện pháp hiệu quả,
thích hợp để đảm bảo quyền và lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
Ba là, quyết định, góp phần ra quyết định pháp lý hoạt động sản xuất
kinh doanh và giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
Bảng 2.1. Cơ sở hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện
Phân theo ngành Phân theo tình trạng đăng ký kinh doanh
Xây dựng
Thương mại, dịch vụ
Vận tải, kho bãi Tổng số cơ sở
Công nghiệp chế biến, chế tạo Đã có giấy chứng nhận đăng ký KD Khôn g phải đăng ký KD
Chưa có giấy chứng nhận đăng ký KD
Đã đăng ký KD nhưng chưa được cấp giấy
11.258 1.805 79 368 9.006 5.687 3.109 2.134 328
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Hòa Thành thống kê năm 2017)
40
Như vậy, trên địa bàn huyện có 11.258 cơ sở kinh doanh theo các
ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, kho bãi, thương mại, dịch vụ, trong đó
đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 5.687 cơ sở (chiếm 50,51%)
tổng số cơ sở kinh doanh; chưa có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 2.134
cơ sở (chiếm 18,95%); có cơ sở không phải đăng ký kinh doanh là 328 cơ sở
(chiếm 2,91%) và có 3.109 cơ sở đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa được
cấp giấy chứng nhận (chiếm 27,61%). Các cơ sở này để được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh phải thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận nhằm
hoàn chỉnh thủ tục trình lên cấp trên thực hiện các bước tiếp theo để được cấp
giấy và Ủy ban nhân dân xã sẽ lập sổ theo dõi, kiểm tra hoạt động kinh doanh
theo thẩm quyền.
Tuy nhiên thực tế hoạt động này diễn ra còn hạn chế, do Ủy ban nhân
dân cấp xã chưa thường xuyên kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của
các cơ sở đã đăng ký, chỉ thực hiện việc kiểm tra các cơ sở kinh doanh khi có
vấn đề về hoạt động. Thực tế, Ủy ban nhân dân xã khi xác nhận hồ sơ để được
cấp giấy chứng nhận, cán bộ xã không lập sổ theo dõi kiểm tra, mặt khác giữa
cấp xã và cấp huyện chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động này, do khi
các cơ sở được cấp phép kinh doanh huyện, tỉnh không gửi thông báo về cho
chính quyền địa phương để tiện việc quản lý. Bởi vì có những hồ sơ cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh không phải xác nhận của Ủy ban nhân dân xã
nên cấp xã không thể nắm được thông tin về hoạt động của cơ sở đó, từ đó
gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của xã, chính vì vậy xét về khía
cạnh quản lý, thì hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này chưa cao.
Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất, cuộc sống của
cộng đồng dân cư trong xã nói riêng
Kết cấu hạ tầng là điều kiện quan trọng cho kinh tế phát triển, nếu kết
cấu hạ tầng được trang bị hoàn chỉnh thì sẽ góp phần trực tiếp vào hiệu quả
phát triển kinh tế. Ủy ban nhân dân xã thực hiện việc đầu tư xây dựng kết cấu
41
hạ tầng thông qua việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ trực tiếp cho
sản xuất, cụ thể trên địa bàn huyện và 08 xã, thị trấn đã thực hiện được 303
công trình, trong đó: 156 công trình giao thông; 117 công trình dân dụng; 27
công trình hạ tầng kỹ thuật; 03 công trình thủy lợi với tổng mức đầu tư là:
656.298.708.000 đồng; nâng cấp đá 0x4 được 39km, sửa chữa đường giao
thông nông thôn được 54km. Ngoài ra cấp huyện còn quan tâm đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng như: điện, công trình thủy lợi, các công trình công cộng
để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân theo tiêu chuẩn
nông thôn mới, nhằm mục tiêu hướng đến năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn
nông thôn mới.
Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể theo yêu cầu của địa phương, các tuyến
đường giao thông, công trình công cộng hiện nay chỉ cơ bản đáp ứng nhu cầu,
chưa đạt yêu cầu đề ra. Cấp xã chưa có biện pháp hiệu quả, thiết thực nhằm
huy động nguồn lực từ các tổ chức, mạnh thường quân và Nhân dân đóng góp
cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế-xã hội, chỉ huy động các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội
đóng góp được 36% tổng giá trị công trình.
Việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ nhu cầu vận chuyển và
đi lại của Nhân dân thời gian qua thường xuyên được quan tâm, tuy nhiên các
công trình chủ yếu là trải sỏi đó hoặc cứng hóa (trải đá dăm, đá 0x4), thực
hiện bê tông nhựa, bê tông xi măng đạt tỉ lệ thấp, chỉ 4,6km. Hiệu quả quản lý
các công trình này sau khi đưa vào sử dụng chưa cao, do không có đơn vị chủ
quản thực hiện quản lý, Ủy ban nhân dân xã chỉ đề ra các biện pháp kiểm tra,
đề xuất hướng giải quyết các công trình khi có vấn đề (duy tu, dặm vá, sửa
chữa…); hơn nữa việc giám sát, kiểm tra xây dựng các công trình chủ yếu
giao cho các ấp thực hiện nên không có chuyên môn, kỹ thuật quản lý phù
hợp. Các xã trong huyện huy động sự tham gia đóng góp và vận động người
dân làm đường giao thông theo kế hoạch nhất định trừ xã nông thôn mới thực
hiện chỉ tiêu làm đường theo tiêu chí quy định (nhựa hóa 100% đường trục
42
xã; cứng hóa 100% đường trục ấp và cứng hóa 50% đường ngõ xóm), tuy
nhiên thực tế căn cứ kế hoạch thì mỗi năm chỉ thực hiện được từ 01 đến 02
tuyến đường để đạt so với chỉ tiêu nghị quyết, nếu đề ra kế hoạch quá cao sẽ
khó hoàn thành. Chính vì vậy hoạt động này cần có cơ chế cụ thể hơn để mỗi
xã có thể chủ động thực hiện theo nhu cầu của người dân và yêu cầu phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Năm là, các biện pháp nhằm khai thác tiềm năng phát triển kinh tế
trên địa bàn xã, từ sản xuất đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng
Ủy ban nhân dân xã ngoài việc thực hiện các biện pháp hướng dẫn, tạo
điều kiện, khuyến khích, giúp đỡ các thành phần kinh tế trên địa bàn xã hoạt
động thường xuyên liên tục, cần tham gia vào các hoạt động kinh tế như:
trung gian giới thiệu, xác nhận, giúp đỡ nhà sản xuất đưa sản phẩm đến với
người tiêu dùng thông qua việc giới thiệu các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
trình bày, quảng bá sản phẩm đến Nhân dân ở các khu dân cư, thôn, ấp, từ đó
làm cho các hoạt động kinh tế, trao đổi mua bán hàng hóa diễn ra thuận lợi,
nhanh chóng, góp phần tăng cường khả năng sản xuất và tiêu dùng của thị
trường. Hoạt động này thực tế trên địa bàn các xã vẫn còn khá mờ nhạt, chưa
phát huy hết vai trò là chủ thể quản lý các hoạt động sản xuất mặc dù phải
chịu sự chi phối và tác động của cơ chế kinh tế thị trường và nhu cầu của
người dân, chủ yếu nhiệm vụ của các xã là giới thiệu cho các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất tiếp cận người dân, nhưng lại chưa có cơ chế kiểm tra chất
lượng hàng hóa, sản phẩm, chưa có biện pháp chế tài phù hợp nếu các cơ sở
trên vi phạm quy định về đảm bảo chất lượng. Cho nên thực trạng hiện nay
còn hạn chế về khả năng liên kết với các nhà sản xuất các dòng sản phẩm tốt
và khả năng liên kết nhà sản xuất với người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, sản
phẩm để đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng cao nhất, tránh gây thiệt hại
cho người dân.
Sáu là, tổ chức và quản lý phát triển kinh tế trên địa bàn xã, chống
tham nhũng, lãng phí
43
Phát triển kinh tế công được các xã quan tâm thực hiện nhằm tạo nguồn
thu cho ngân sách, Ủy ban nhân dân xã đã thực hiện việc thu phí, lệ
phí,…Việc cho thuê đất công với diện tích 49ha, hàng năm thu nộp ngân sách
2.136.215.360 đồng. Tuy nhiên việc phát triển kinh tế công ở các xã hiện nay
chưa phát huy được hết tiềm năng, nhiều nơi chưa khai thác hiệu quả các
nguồn thu, một số nơi còn quỹ đất công nhưng chưa có giải pháp tận thụ hết
công suất, các xã chưa chủ động khai thác hiệu quả các nguồn thu từ hoạt
động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác để nộp vào ngân sách, nhằm
tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Từ đó, có thể đánh giá công tác
quản lý chưa thật sự đạt hiệu quả cao, lãng phí tài nguyên, chưa vận dụng hết
tiềm năng vốn có.
2.2.1.2. Xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của cấp trên nhằm huy
động mọi tiềm lực kinh tế trên địa bàn
Công tác xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế trên địa
bàn các xã huyện Hòa Thành được quan tâm thực hiện hàng năm và giai đoạn
05 năm. Riêng công tác lập quy hoạch các xã còn hạn chế trong quá trình thực
hiện. Hiệu quả của công tác lập quy hoạch thể hiện qua kết quả sản xuất của
các chủ thể kinh tế. Các xã phát triển kinh tế theo định hướng quy hoạch
chung của tỉnh, huyện và của xã, tuy nhiên do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế
thị trường nên có những ngành nghề phát triển mạnh như: mây tre đan, se
nhang,…cũng có ngành nghề dần bị mai một mà chính quyền cấp xã khó có
khả năng can thiệp được như nghề làm đũa, nghề chằm nón lá,…
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch nếu phù hợp sẽ khuyến khích kinh tế
phát triển năng động hơn, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát
triển, lúc đó các ngành nghề sản xuất, kinh doanh sẽ tự phát theo nhu cầu của
thị trường, dẫn đến công tác quản lý của chính quyền địa phương gặp rất
nhiều khó khăn. Qua khảo sát thực tế, công tác lập quy hoạch phát triển kinh
tế của huyện có 5/8 xã, thị trấn phát triển ngành nghề không theo quy hoạch
44
mà chú trọng ngành nghề mới phát sinh theo nhu cầu của thị trường do quy
hoạch chưa dự báo được hết tình hình phát triển kinh tế của địa phương. Điều
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ, năng lực của người lập quy
hoạch, tiềm năng kinh tế của từng địa phương,...
Như vậy công tác lập quy hoạch, kế hoạch để đạt hiệu quả phải chú
trọng tính khả thi, có như thế mới có thể huy động được hết tiềm năng phát
triển kinh tế của địa phương. Công tác quản lý sẽ gặp khó khăn khi cấp xã
định hướng phát triển kinh tế bằng quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khả thi và
sẽ không huy động được hết tiềm năng kinh tế của địa phương. Việc quản lý
quy hoạch không phân định nhiệm vụ cụ thể, không có phương pháp quản lý
thích hợp sẽ dễ dẫn đến thực trạng là phát triển kinh tế không theo quy hoạch
do không có biện pháp hiệu quả để tạo điều kiện cho ngành, nghề sản xuất
kinh doanh phát triển.
2.2.1.3 Lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn và
phƣơng án phân bổ dự toán ngân sách
Việc điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương (trong trường hợp cần
thiết) và lập quyết toán ngân sách địa phương phải trình ra Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định, báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên
trực tiếp. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện ngân sách địa
phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân
sách trên địa bàn. Hàng năm các xã trên địa bàn huyện Hòa Thành thực hiện
công tác lập dự toán thu, chi ngân sách địa phương theo đúng Luật Ngân sách
nhà nước. Trên cơ sở chỉ tiêu thu ngân sách, thu thuế huyện giao trong năm,
các xã, thị trấn thực hiện công tác lập dự toán thu, chi đưa ra lấy ý kiến tập thể
cán bộ, công chức trước khi thông qua tại kỳ họp Hội đồng nhân dân vào cuối
năm trước đó. Tuy nhiên trong quá trình quản lý ngân sách nếu có phát sinh
nhiệm vụ chi mà nguồn thu không đảm bảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ
điều chỉnh dự toán chi phù hợp và thông báo đến cán bộ, công chức biết đồng
thời báo cáo cho Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.
45
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm điều hành, quản lý ngân
sách hiệu quả, đảm bảo chi đúng, chi đủ đồng thời tính toán tận dụng các
nguồn thu nhằm cân đối ngân sách theo quy định; giao trách nhiệm cho công
chức tài chính-kế toán xã trực tiếp tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân
theo dõi, giám sát hoạt động thu, chi nếu có khó khăn, vướng mắc phải báo
cáo và đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. Công chức tài chính-kế toán thực
hiện quyết toán ngân sách với cơ quan tài chính cấp trên theo hướng dẫn quy
định tại Luật Ngân sách Nhà nước, sau đó trình ra Hội đồng nhân dân cùng
cấp phê duyệt quyết toán vào thời gian kỳ họp 6 tháng của năm sau.
Tuy nhiên hoạt động quản lý ngân sách ở cấp xã thực tế gặp không ít
khó khăn như: huyện giao chỉ tiêu thu ngân sách cho các xã, thị trấn trên cơ
sở đã dự toán trước sẽ thu từ nguồn nào và thu bao nhiêu, nhưng thực tế có
nhiều xã nguồn thu giao không đảm bảo thực hiện khả thi do không có địa chỉ
như: thu từ nguồn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu khác ngân sách từ
nguồn xử phạt vi phạm hành chính, do đó trong quá trình thực hiện rất dễ dẫn
đến nguồn thu không đảm bảo. Trong năm 2017, do tình hình thu ngân sách
gặp rất nhiều khó khăn, một số nguồn thu bị hụt, có 4/8 xã, thị trấn phải điều
chỉnh dự toán chi, đề nghị huyện bổ sung nguồn thu nhằm đảm bảo cân đối
ngân sách.
2.2.1.4. Đề ra các biện pháp nhằm đƣa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa
phƣơng
Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất trên địa bàn
Hòa Thành thời gian qua đạt được những kết quả thiết thực, góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân. Từng địa phương đã thực
hiện chuyển giao, giới thiệu các thành tựu khoa học kỹ thuật mới thông qua
các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong 03 năm qua huyện đã tổ
chức được 36 lớp đào tạo nghề với 1.110 học viên tham dự, tập trung các
ngành nghề như: kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản, lớp kỹ thuật đan mây tre, lớp
46
thợ hồ thợ nề, lớp dạy nấu ăn, kỹ thuật trồng rau an toàn,…Ủy ban nhân dân
các xã, thị trấn đã phối hợp với các phòng, ban chuyên môn của huyện mở
1.155 lớp tập huấn phổ biến một số điểm mới đối với các văn bản luật mới
được ban hành với 49.767 người dân tham gia. Kết quả cho thấy, các học viên
tham gia các lớp đạo tạo nghề đã ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ vào hoạt
động sản xuất, mang lại năng suất cao, nhất là nghề dạy nấu ăn, kỹ thuật đan
mây tre và trồng rau an toàn.
Hiện tại trên địa bàn huyện có 85.213 lao động sản xuất nông nghiệp,
trong đó có 18.365 người được chuyển giao các tiến bộ về khoa học kỹ thuật,
chiếm 21,55% là quá ít. Đồng thời thiếu cơ chế tổ chức, hướng dẫn phù hợp
nên khi được chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, người
dân chưa áp dụng hiệu quả dẫn đến năng suất, chất lượng chưa cao. Nguồn
kinh phí cho hoạt động tổ chức các lớp đào tạo nghề chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật chưa được bố trí hợp lý để có thể kích thích thực hiện một cách hiệu
quả; chưa có cơ chế quy trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ này. Việc thực hiện liên kết “4 nhà” chưa thật sự hợp lý nhằm
hỗ trợ người nông dân phát triển kinh tế, tình trạng được mùa mất giá, được
giá mất mùa vẫn còn phổ biến ở các địa phương mà chưa thật sự có biện pháp
giải quyết căn cơ, triệt để.
2.2.1.5. Kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật của
Nhà nƣớc về kinh tế
Kiểm tra, giám sát là việc làm bắt buộc và thường xuyên trong hoạt
động quản lý, điều hành; công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải gắn liền với hoạt
động kiểm tra, giám sát nhằm mục tiêu phát hiện và kịp thời chỉ ra những hạn
chế, thiếu sót từ đó đề ra các giải pháp khắc phục. Hoạt động kiểm tra, giám
sát được thực hiện bởi những cơ quan, đối tượng khác nhau với những nội
dung và góc độ cũng khác nhau, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
kinh tế.
47
Kiểm tra có thể được tổ chức thành đoàn để tiếp cận cơ sở thực hiện
hoặc cũng có thể giao cho từng cá nhân riêng lẽ thực hiện về một nội dung
nào đó do Ủy ban nhân dân huyện phân công. Thực hiện có hiệu quả nội dung
này cấp dưới sẽ quan tâm chú ý hơn, có ý thức tốt hơn về vị trí, vai trò, chức
năng, trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ
đó sẽ chủ động hơn trong thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động thanh tra do Ủy ban
nhân dân huyện giao cho cơ quan thanh tra huyện thực hiện nội dung chủ yếu
là thanh tra hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về kinh tế nói riêng.
Cơ chế để người dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đó là: Ủy ban nhân dân xã tiếp thu, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị
của người dân về những hạn chế, thiếu sót trong quá trình quản lý. Từ đó, Ủy
ban nhân dân xã tiến hành điều chỉnh hoạt động quản lý của mình được tốt
hơn và phản hồi, phúc đáp lại cho Nhân dân biết kết quả khắc phục, qua đó
giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng được chặt chẽ hơn.
2.2.1.6. Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng, chống hàng gian,
hàng giả, hàng kém chất lƣợng, bảo vệ lợi ích của ngƣời tiêu dùng
Trong giai đoạn hiện nay, trên thị trường đã và đang tồn tại một thực tế
là hàng thật, hàng giả, hàng kém chất lượng lẫn lộn với nhau nhất là ở vùng
nông thôn tình trạng này lại càng trở nên phổ biến hơn; hàng giả, hàng kém
chất lượng được tung ra thị trường với nhiều chiêu trò khuyến mãi hấp dẫn
nhằm thu hút người tiêu dùng. Điều này sẽ rất có hại nếu mua phải và ảnh
hưởng không tốt cho các loại hàng hóa thật, bởi sẽ liên quan đến uy tín
thương hiệu trên thị trường, ví dụ: trứng gà giả, sữa giả, phân bón giả,…nếu
người tiêu dùng sử dụng với số lượng nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe,
thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Chính vì vậy phải thường xuyên chú trọng
đến hoạt động kiểm tra, giám sát để đảm bảo sự ổn định và trong sạch của thị
48
trường, hiện tại theo quy định có 05 cơ quan thực hiện chức năng và có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực này bao gồm: cơ quan
quản lý thị trường; thanh tra chuyên ngành khoa học – công nghệ; văn hóa,
thể thao và du lịch; công an kinh tế; Ủy ban nhân dân các cấp, trong đó Ủy
ban nhân dân cấp xã chưa có lực lượng để có thể thực hiện được chức năng
này theo quy định của pháp luật, chủ yếu do Phòng Kinh tế-Hạ tầng của
huyện, cơ quan quản lý thị trường và công an kinh tế thực hiện.
Trong 03 năm 2014-2016, Phòng Kinh tế-Hạ tầng của huyện đã phối
hợp với Đội Quản lý thị trường số 3 kiểm tra 84 vụ. Qua kiểm tra phát hiện 27
vụ vi phạm, trong đó: vi phạm về lĩnh vực hàng cấm 18 vụ; vi phạm về nguồn
gốc, xuất xứ 06 vụ; vi phạm khác 03 vụ (sử dụng LPG mini không được phép
nạp lại). Phạt vi phạm hành chính 27 vụ với số tiền 295.500.000 đồng (Trong
đó: tiền phạt hành chính 85.500.000 đồng, tiền bán hàng tịch thu: 210.000.000
đồng). Công tác kiểm tra thị trường theo Kế hoạch của Ban chỉ đạo 389
huyện: đã kiểm tra 222 hộ kinh doanh, phát hiện nhắc nhở 21 hộ kinh doanh
không niêm yết giá trên các sản phẩm; 03 vụ kinh doanh không có giấy phép
đăng ký. Bắt 09 vụ (trong đó 06 vụ kinh doanh hàng giả, 03 vụ kinh doanh
hàng cấm). Tạm giữ tang vật 23 kg bột ngọt giả bao bì Ajinomoto; 29 gói
hero; 30 gói Jet. Ra quyết định xử phạt với số tiền 11.700.000 đồng.
Hiện nay khó khăn nhất đối với chính quyền cấp xã trong thực hiện
chức năng kiểm tra hàng giả, hàng kém chất lượng là chưa có đủ thẩm quyền,
năng lực, trình độ chuyên môn và chưa được trang bị phương tiện kỹ thuật để
đánh giá đúng chất lượng hàng hóa; chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan
quản lý thị trường và chính quyền trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, xử
phạt vi phạm về lĩnh vực này. Mặt khác, ở cấp xã không có cán bộ chuyên
trách về thực hiện công tác quản lý thị trường, tạm thời giao cho công an xã
liên kết với một số ban ngành, các đoàn thể đảm nhiệm việc này, trong khi đó
chức năng của công an xã là đảm bảo trật tự an toàn xã hội là chính.
49
Cấp xã chưa chủ động trong việc kiểm tra xử phạt chỉ khi nào có sự chỉ
đạo từ cấp trên hoặc hàng hóa đó có thông tin làm giả thì mới tiến hành kiểm
tra nhắc nhỡ, còn xử phạt rất hạn chế bởi theo quy định của pháp luật, để xử
lý được hàng giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả, chi phí
thực hiện việc giám định là khá cao, đồng thời phải có yêu cầu giám định của
chủ thương hiệu sản phẩm được làm giả. Mặt khác, có những hàng hóa có
nguồn gốc từ các nước không đăng ký chất lượng tại Việt Nam, hàng hóa
không có ai xác nhận là hàng giả vì không có cơ quan đại diện của nhà sản
xuất tại Việt Nam.
2.2.2. Đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.2.2.1. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 1 về trình độ và năng lực thực
hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nƣớc của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn huyện
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân ở địa
phương, do Hội đồng nhân dân trực tiếp bầu ra và thực hiện nhiệm vụ trong
nhiệm kỳ 05 năm, Ủy ban nhân dân xã hoạt động trên nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách từng lĩnh vực công việc cụ thể. Do đó thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh
tế nói riêng có hiệu quả hay không phụ thuộc vào cách thức tổ chức và quá
trình thực thi nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân, đồng thời phụ thuộc rất lớn vào
khả năng, năng lực của từng nhân sự đảm trách công việc đó.
Về số lượng, cơ cấu nhân sự thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng ở cấp xã thì có Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách lĩnh vực kinh tế,
giúp việc cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch có các công chức như sau: trưởng
công an, xã đội trưởng, công chức tài chính-kế toán, công chức văn phòng-
thống kê, công chức địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường, công
50
chức tư pháp-hộ tịch và một số người hoạt động không chuyên trách như cán
bộ cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ thuế,...
Nguồn nhân lực của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của tỉnh
Tây Ninh tại Quyết định số 66/2013/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 12 năm 2013
quy định “về chức danh, bố trí các chức danh và chế độ, chính sách đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ấp, khu
phố trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”. Hiện tại huyện Hòa Thành có 08 xã, thị trấn
trong đó biên chế cấp xã là 25 biên chế, riêng Ủy ban nhân dân xã gồm có
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và 07 chức danh công chức gồm:
trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự, văn hóa-xã hội, tư pháp-hộ tịch, địa
chính-nông nghiệp-xây dựng và môi trường, văn phòng-thống kê, tài chính-kế
toán. Ngoài ra để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân thực hiện chức
năng quản lý nhà nước còn có các chức danh hoạt động không chuyên trách
gồm: cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ
quỹ, cán bộ đội thuế, cán bộ đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa,…Tổ chức
bộ máy của Ủy ban nhân dân xã thể hiện qua số lượng thành viên Ủy ban
nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức và đội ngũ cán bộ không chuyên trách
trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, chất lượng của đội
ngũ này và sự phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý hành chính
nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nói
riêng, bao gồm:
Số lượng cán bộ, công chức: 193.
Cán bộ chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện: 90.
Công chức cấp xã trên địa bàn huyện: 103.
Về số lượng cán bộ, công chức: thể hiện qua trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước, qua số liệu
thống kê tại thời điểm ngày 01 tháng 12 năm 2016 của Phòng Nội vụ huyện
Hòa Thành, cụ thể như sau:
51
Bảng 2.2. Về trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức xã
Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
0 0 0 0 Tiểu học
3 3,33 1 0,97 Trung học cơ sở
87 96,67 102 99,03 Trung học phổ thông
(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)
Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.2 cho thấy, trình độ văn hóa của
đội ngũ cán bộ, công chức các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hòa Thành đã
cơ bản đạt chuẩn theo quy định, chỉ còn 04 trường hợp không đạt chuẩn theo
yêu cầu (tốt nghiệp trung học cơ sở) cần phải tham gia các lớp bổ túc để tốt
nghiệp trung học phổ thông theo chuẩn quy định đối với cán bộ, công chức
cấp xã.
Bảng 2.3. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức xã
Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
7 7,78 0 0 Chƣa qua đào tạo
1 1,11 0 0 Sơ cấp
53 58,89 49 47,57 Trung cấp
1 1,11 5 4,85 Cao đẳng
28 31,11 48 46,61 Đại học
0 0 1 0,97 Thạc sĩ
(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)
Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.3 cho thấy, trình độ chuyên môn
của đội ngũ cán bộ chuyên trách vẫn còn 07 trường hợp chưa qua đào tạo
(chiếm 7,78%) và 01 trường hợp trình độ sơ cấp (chiếm 1,11%); đối với đội
ngũ công chức cấp xã trình độ trung cấp vẫn còn cao với 49 trường hợp
(chiếm 47,57%). Với thực trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,
52
công chức nêu trên, đòi hỏi Ủy ban nhân dân huyện, xã, thị trấn cần phải tạo
điều kiện chuẩn hóa cán bộ nhất là đối với 07 trường hợp chưa qua đào tạo,
nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ, công chức đạt chuẩn theo yêu cầu quy
định trong tình hình hiện nay.
Bảng 2.4. Về trình độ chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức xã
Cán bộ chuyên trách Công chức Trình độ Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
0 0 0 0 Chƣa đào tạo
7 7,78 9 8,74 Sơ cấp
72 80 86 83,49 Trung cấp
10 11,11 8 7,77 Cao cấp
1 1,11 0 0 Cử nhân
(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)
Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.4 cho thấy, trình độ chính trị của
đội ngũ cán bộ, công chức xã, thị trấn nhìn chung cơ bản đạt chuẩn theo quy
định, trình độ sơ cấp còn 16 trường hợp (chiếm 8,3%); còn lại là trình độ
trung cấp trở lên, chiếm tỉ lệ khá cao (chiếm 91,71%), trong đó có 01 trường
hợp là cử nhân chính trị (chiếm 0,52%).
Bảng 2.5. Về công tác đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức quản lý hành
chính nhà nƣớc của đội ngũ cán bộ, công chức xã
Công chức
Cán bộ chuyên trách Trình độ
Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
81 90 92 89,32 Chƣa qua đào tạo
9 10 11 10,68 Chuyên viên và tƣơng đƣơng
(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)
Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.5 cho thấy, đội ngũ cán bộ, công
chức chủ yếu là chưa qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính
53
nhà nước, chiếm tỉ lệ rất cao (chiếm 89,64%), điều này đặt ra nhiệm vụ trong
thời gian tới cấp ủy, chính quyền các cấp từ huyện đến xã, thị trấn phải tạo
điều kiện cho các trường hợp nêu trên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để
chuẩn hóa trình độ cán bộ theo quy định.
Ngoài ra còn tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước dành
cho đối tượng là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân xã trên địa bàn huyện theo Đề án 1956 được 28 trường hợp; bồi dưỡng kỹ
năng lãnh đạo cấp phòng 07 trường hợp và bồi dưỡng các chức danh cấp xã
theo Đề án 1956 được 21 trường hợp (chiếm 10,88%) quá ít so với số lượng
và nhu cầu đào tạo của các địa phương.
Đối với chức danh người hoạt động không chuyên trách tham mưu Ủy
ban nhân dân xã quản lý nhà nước về kinh tế gồm: giao thông – nông thôn –
thủy lợi, thuế, đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa trên địa bàn huyện có 33
trường hợp, trong đó về trình độ văn hóa: tốt nghiệp trung học cơ sở là 06
trường hợp (chiếm 18,18%), tốt nghiệp trung học phổ thông là 27 trường hợp
(chiếm 81,81%); về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa qua đào tạo là 14
trường hợp (chiếm 42,42%), sơ cấp 02 trường hợp (chiếm 6,06%), trung cấp
10 trường hợp (chiếm 30,30%), đại học 07 trường hợp (chiếm 21,21%); về
trình độ lý luận chính trị: chưa qua đào tạo 15 trường hợp (chiếm 45,45%), sơ
cấp 04 trường hợp (chiếm 12,12%), trung cấp 14 trường hợp (chiếm 42,42%);
về bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước, chưa qua bồi dưỡng 25
trường hợp (chiếm 75,75%), tham gia bồi dưỡng 08 trường hợp (chiếm
24,24%). Đội ngũ này có trình độ chuyên môn thấp, hầu hết chưa qua bồi
dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước, do đó trong quá trình thực thi
nhiệm vụ sẽ gặp hạn chế trong công tác tham mưu, đồng thời sẽ lúng túng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao ở địa phương.
Với số lượng cán bộ chuyên trách, công chức và người hoạt động
không chuyên trách trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước về
kinh tế tại các xã trên địa bàn huyện như trên cơ bản đáp ứng được yêu cầu,
54
nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần quan tâm: đối với đội
ngũ cán bộ chuyên trách về trình độ chuyên môn có 07 trường hợp chưa qua
đào tạo (chiếm 7,78%) là cao; về trình độ đại học là 28 trường hợp (chiếm
31,11%); về trình độ chính trị của đội ngũ này trung cấp là 72 trường hợp
(chiếm 80%); về bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước chưa qua
đào tạo là 81 trường hợp (chiếm 90%). Như vậy có thể nói đội ngũ cán bộ
chuyên trách được đào tạo chủ yếu về lý luận chính trị; về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ có trường hợp vẫn chưa qua đào tạo và bồi dưỡng kiến thức
quản lý hành chính nhà nước còn tới 90% chưa được đào tạo.
Đối với đội ngũ công chức, thực tế qua khảo sát cho thấy: trình độ
chuyên môn theo quy định phải từ trung cấp trở lên, bởi lực lượng này thông
qua thi tuyển có sự cạnh tranh nên sẽ loại ra những người không đủ chuẩn,
tuy nhiên đa phần họ chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà
nước có 92 trường hợp (chiếm 89,32%), đây cũng là vấn đề ảnh hưởng đến
công tác tham mưu quản lý hành chính nhà nước tại mỗi địa phương.
Đối với những người hoạt động không chuyên trách trình độ tương đối
thấp, cụ thể về chuyên môn chưa qua đào tạo có 14 trường hợp (chiếm
42,42%); chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước có 25
trường hợp (chiếm 75,75%). Vì thế, họ sẽ thiếu chủ động trong công tác tham
mưu và hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước nói
chung và trên lĩnh vực kinh tế nói riêng, do đó hiệu quả quản lý sẽ không cao.
Như vậy với thực trạng trên, khi thực hiện nhiệm vụ quản lý sẽ rất khó
khăn do các đối tượng trên chưa được đào tạo đủ chuẩn theo quy định, trong
khi đó tại Quyết định số 163/QĐ-TTg, ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ “về phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2016 – 2025” quy định phải chuẩn hóa về trình độ lý luận
chính trị; kiến thức quản lý nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an
ninh theo các chương trình quy định cho cán bộ, công chức, viên chức; cập
nhật và nâng cao kiến thức, năng lực hội nhập quốc tế; bồi dưỡng kiến thức
55
tin học, ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quy định, tiếng dân tộc cho cán bộ, công
chức, viên chức công tác tại vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Vì
thế khi tham mưu giải quyết công việc, đội ngũ này rất dễ dẫn đến làm việc
theo cảm tính, hiệu quả công việc sẽ không cao. Đây là vấn đề cần phải được
quan tâm thường xuyên để thực hiện công tác quản lý nhà nước nói chung và
quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nói riêng được tốt hơn.
Tóm lại, với việc bố trí nguồn nhân lực và cách thức hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp xã như hiện nay so với nhiệm vụ, chức năng quy định đòi
hỏi các xã, thị trấn phải tích cực hơn nữa trong việc chủ động kiện toàn, tạo
điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức, những người hoạt động không
chuyên trách tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa về chuyên
môn, nghiệp vụ và nhạy bén khi thực hiện công tác tham mưu quản lý nhà
nước tại địa phương, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.
2.2.2.2. Đánh giá hiệu quả theo tiêu chí 2 việc đảm bảo thực hiện
những nội dung quản lý nhà nƣớc trên lĩnh vực kinh tế của Ủy ban nhân
dân cấp xã
Quan tâm thực hiện tốt tình hình thu, chi ngân sách địa phương, phối
hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách trên địa
bàn, nhằm đảm bảo theo quy định của pháp luật. Hàng năm Ban tài chính xã
phối hợp cùng đội thuế lập các khoản thu cần phải thực hiện trong năm, từ đó
lập dự toán thu, chi ngân sách xã báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân xã
và chuẩn bị hồ sơ để thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân gần nhất. Trong
quá trình chi ngân sách nếu nguồn thu không đảm bảo thì công chức tài
chính-kế toán xã chủ động tham mưu chủ tài khoản tính toán lại các khoản chi
nhằm đảm bảo cân đối ngân sách. Dự toán thu, chi ngân sách xã sau khi được
Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua, Ủy ban nhân dân xã phải lập thủ tục
báo cáo Ủy ban nhân dân huyện và Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện quyết
định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là chủ tài khoản điều hành hoạt động thu,
chi ngân sách xã. Công chức tài chính-kế toán xã chịu trách nhiệm tham mưu
56
về nghiệp vụ kế toán, chủ động liên hệ với cơ quan tài chính cấp trên để thực
hiện công tác tham mưu quản lý ngân sách trên địa bàn theo đúng quy định
của pháp luật.
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, tuy nhiên việc trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho công tác
quản lý cũng là yếu tố vô cùng quan trọng. Cơ sở vật chất bao gồm các trang
thiết bị, phương tiện, dụng cụ chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động
quản lý hành chính nhà nước, đây là điều kiện cần thiết và không thể thiếu
trong hoạt động quản lý, cụ thể: máy vi tính, máy ghi âm, máy photocopy,
máy in, dụng cụ hỗ trợ lấy mẫu xét nghiệm,... Do đó, để nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý hành chính ngoài những vấn đề đã nêu trên thì việc trang bị
đầy đủ cơ sở vật chất cho hoạt động quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý được tốt hơn. Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển rất đa
dạng và phong phú như hiện nay, để thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội nói
chung, trong công tác quản lý cần phải trang bị đầy đủ phương tiện làm việc
phù hợp để đảm bảo công việc được thực hiện đạt kết quả tốt nhất.
2.2.2.3. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 3 về chi phí thực hiện công tác
quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện
Chi phí quản lý là khoản kinh phí bỏ ra để thực hiện hoạt động quản lý,
chi phí này được lồng ghép chung vào chi phí thực thi nhiệm vụ của từng đơn
vị, hàng năm chi phí cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở các xã dao
động khoảng 300-340 triệu đồng. Kinh phí này sử dụng cho hoạt động của
các ban, ngành nhằm thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, trong đó có thực hiện
chức năng quản lý nhà nước mà cụ thể bao gồm các nội dung sau:
Chi phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cấp xã trích từ
ngân sách xã, thị trấn mỗi năm từ 20.000.000đ đến 24.000.000 đồng, chủ yếu
do cán bộ, công chức tự bỏ kinh phí để học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Các xã, thị trấn luôn quan tâm thực hiện những nội dung nhằm
khai thác hết tiềm năng kinh tế, nhất là tận dụng triệt để các nguồn thu của xã,
57
các nguồn thu từ việc điều tiết từ ngân sách cấp trên và quan tâm thực hiện
các quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhằm tạo nguồn thu cho ngân
sách. Từ những việc làm trên, kinh tế xã phát triển, đáp ứng yêu cầu và
nguyện vọng của người dân, từ đó Nhân dân nhiệt tình ủng hộ và hưởng ứng
các chủ trương chính sách do địa phương phát động.
Công tác lập quy hoạch đã cơ bản đạt được mục tiêu định hướng cho
phát triển kinh tế ở mỗi địa phương mặc dù hiện nay chi phí cho hoạt động
lập quy hoạch ở các xã, thị trấn chưa được bố trí thực hiện. Tuy không được
bố trí kinh phí để thực hiện quy hoạch, các xã, thị trấn vẫn xây dựng một số
quy hoạch cụ thể phù hợp với địa phương như: quy hoạch vùng sản xuất, quy
hoạch sử dụng đất,…những quy hoạch này thực hiện theo quy trình cụ thể,
hiệu quả của công tác lập quy hoạch chưa cao, đa số các quy hoạch còn nằm
trên giấy chưa tiến hành triển khai. Có xã chưa thực hiện được quy hoạch sản
xuất, chỉ có quy hoạch sử dụng đất, đồng thời hiện tại vẫn còn thiếu cơ chế
kiểm tra, đánh giá công tác quy hoạch để đảm bảo thực hiện theo đúng quy
định. Mặt khác, tuy lập quy hoạch nhưng hoạt động theo dõi, triển khai thực
hiện quy hoạch chưa được quan tâm chặt chẽ, do đó có xã phát triển kinh tế
theo hướng tự phát không theo quy hoạch, không đạt hiệu quả cao.
Công tác quản lý và điều hành ngân sách ở các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện được thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm
2015 và đã đạt được một số kết quả nhất định; tuy nhiên chi phí này không
được phân bổ rõ ràng cho từng hoạt động mà được thực hiện dựa trên kết quả
thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
Với mục tiêu từng bước đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động
sản xuất, góp phần nâng cao đời sống Nhân dân, các xã, thị trấn đã thực hiện
nhiều biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả nội dung trên như: xã Long
Thành Bắc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng hoa màu, chăn nuôi; xã
Long Thành Trung đưa tiến bộ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các
ngành nghề truyền thống, xã Trường Tây đưa tiến bộ vào sản xuất giống cây
58
trồng, chăn nuôi,…Chi phí thực hiện công tác này thường thấp, do các biện
pháp thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động khuyến nông, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp giới thiệu thành tựu khoa học kỹ thuật đến người dân.
Ngoài ra, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn được tổ chức
thông qua các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, kinh phí dành cho
hoạt động này được phân bổ hàng năm từ nguồn vốn ngân sách tỉnh, trong 03
năm được phân bổ 1.620.000.000đ tổ chức được 36 lớp dạy nghề trên địa bàn
các xã, thị trấn tiêu biểu như các ngành nghề kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản,
lớp kỹ thuật đan mây tre, lớp thợ hồ thợ nề, lớp dạy nấu ăn, kỹ thuật trồng rau
an toàn,…Công tác này được giao cho công chức lao động thương binh xã hội
các xã, thị trấn đảm nhiệm, thực hiện phối hợp với các hội đoàn tham mưu Ủy
ban nhân dân các xã, thị trấn tổ chức.
Trong hoạt động quản lý, việc kiểm tra hàng gian, hàng giả, hàng kém
chất lượng chi phí còn thấp và không được bố trí nguồn kinh phí riêng. Mục
tiêu quản lý nhà nước ở lĩnh vực này có lúc có nơi chưa đạt yêu cầu đề ra, các
xã, thị trấn đa số chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa,
trình độ năng lực của cán bộ, công chức cấp xã chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ cho công tác kiểm tra đo lường tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Trong 03
năm qua, các xã, thị trấn chỉ thực hiện trung bình được 15 cuộc kiểm tra,
trong đó Thị trấn Hòa Thành thực hiện nhiều nhất với 33 cuộc kiểm tra, phát
hiện 33 cơ sở vi phạm, đã tiến hành nhắc nhở và đề nghị khắc phục; xã
Trường Hòa thực hiện ít nhất với 09 cuộc kiểm tra, phát hiện 09 cơ sở vi
phạm. Kinh phí cho mỗi cuộc kiểm tra được chi là tiền công tác phí cho cán
bộ đi kiểm tra 50.000 đồng/1 người/1 ngày; kinh phí kiểm định chất lượng
sản phẩm không được phân bổ.
Tóm lại, kinh phí cho các hoạt động quản lý chưa được phân định rõ
ràng, nhất là chi phí cho các hoạt động quản lý hành chính về kinh tế, chủ yếu
là trách nhiệm quản lý được chi trả bằng tiền lương và phụ cấp hàng tháng.
Do đó, hiện nay việc đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý đạt được dựa trên
59
mục tiêu cơ bản tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, nhưng chưa phát huy tối
đa tiềm năng kinh tế của địa phương.
2.2.2.4. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 4 về sự hài lòng của ngƣời dân
và tổ chức đối với hoạt động quản lý của Ủy ban nhân dân xã
Ủy ban nhân dân xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực kinh tế. Huyện Hòa Thành có 08 xã, thị trấn đã thực hiện chức năng quản
lý hành chính nhà nước như kết quả đã đánh giá ở trên, góp phần tạo ra động
lực cho sự phát triển kinh tế ở mỗi địa phương. Tuy nhiên, trên từng nội dung
quản lý về kinh tế của Ủy ban nhân dân xã vẫn còn có những hạn chế nhất
định mà người dân chưa thật sự hài lòng về công tác quản lý, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức xã khi
giải quyết công việc hành chính cho người dân vẫn còn trường hợp cán bộ,
công chức chưa tận tâm hướng dẫn và giải quyết nhanh chóng, kịp thời các
thủ tục hành chính. Qua khảo sát còn trường hợp cán bộ, công chức chưa có
giấy hẹn, chưa tận tình hướng dẫn người dân khi đến liên hệ giải quyết công
việc, để người dân đi lại nhiều lần. Qua thống kê 08/08 xã, thị trấn có 86
trường hợp không có giấy hẹn để nhân dân đi lại nhiều lần trên tổng số
198.382 hồ sơ nhận giải quyết, đặc biệt là ở lĩnh vực địa chính-xây dựng và
lĩnh vực tư pháp-hộ tịch mặc dù các lĩnh vực này đã và đang áp dụng quy
trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. Từ đó dẫn
đến một số ít bộ phận nhân dân chưa thật sự hài lòng về thái độ làm việc của
công chức và cách thức điều hành quản lý của Ủy ban nhân dân xã.
Thứ hai, về thực hiện nội dung quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh
vực kinh tế của Ủy ban nhân dân xã cơ bản đã thực hiện tốt chức năng quản lý
của mình, khuyến khích kinh tế phát triển theo quy hoạch, kế hoạch. Tuy
nhiên, người dân vẫn mong muốn có được cơ sở hạ tầng và dịch vụ đầy đủ
hơn để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Qua khảo sát thống kê nhu cầu
mong muốn của người dân 05 xã (Long Thành Trung, Long Thành Bắc, Long
Thành Nam, Trường Tây, Trường Đông) theo chương trình mục tiêu quốc gia
60
xây dựng nông thôn mới có 429 nguyện vọng của người dân đề nghị chính
quyền địa phương quan tâm quản lý và tạo điều kiện tốt nhất trên lĩnh vực làm
đường giao thông nông thôn; có 250 ý kiến mong muốn xây dựng trường học
đạt chuẩn quốc gia nhất là cấp học tiểu học và mầm non. Còn lại các ý kiến
khác đa phần người dân có nhu cầu được trang bị phương tiện sản xuất, khoa
học kỹ thuật và dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn.
Như vậy, mong muốn của người dân còn nhiều và hiện tại công tác
quản lý hành chính nhà nước ở địa phương tạm thời chưa thể đáp ứng được
hết nhu cầu của người dân. Mặt khác, người dân cũng rất bức xúc về tình
trạng hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng đã và đang phổ biến trên thị
trường hiện nay, hàng ngày họ phải mua và sử dụng những loại hàng hóa, sản
phẩm thiếu chất lượng và khi có hậu quả xảy ra cơ quan chức năng mới vào
cuộc. Do đó, công tác quản lý hành chính nhà nước thật sự cần có nhiều giải
pháp tốt hơn.
2.3. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước về kinh tế ở cấp xã trên địa bàn
huyện từng bước được hoàn thiện theo xu hướng chung đó là nâng dần năng
lực quản lý, điều hành theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Bội Nội vụ
cho cán bộ, công chức cấp xã và có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ủy ban
nhân dân huyện, phòng chuyên môn cấp huyện.
Hoạt động chấp hành và điều hành của Ủy ban nhân dân xã từng bước
được nâng lên, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền
cấp xã. Đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ đã có sự chuyển biến
tích cực về trình độ năng lực và tác phong công tác.
Các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế nhằm nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống cho người dân được quan tâm, kết quả đã thực hiện được nhiều
nội dung như: triển khai các loại hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao; phát triển
61
ngành nghề chú trọng các ngành nghề truyền thống có hiệu quả; gắn việc xây
dựng thương hiệu trên thị trường góp phần đem lại thu nhập cho người dân
trên địa bàn, những mô hình này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của
người dân. Thực hiện chế độ tự quản tại địa phương, vận động Nhân dân đóng
góp xây dựng các công trình nhất là công trình đường giao thông, từng bước
hoàn thiện cơ sở hạ tầng tại địa phương.
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội được quan
tâm xây dựng, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch, kế hoạch chuyên đề về
lĩnh vực kinh tế được chú trọng. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt
động sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực công tác tại các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Hòa Thành bước đầu mang lại kết quả quan trọng đó là năng suất tăng
cao, thu nhập nâng lên.
Hàng năm các xã, thị trấn thực hiện tốt công tác lập dự toán thu, chi và
quyết toán ngân sách đúng theo luật định; báo cáo đầy đủ, chặt chẽ tình hình
ngân sách địa phương đối với Ủy ban nhân dân huyện và Phòng Tài chính-Kế
hoạch huyện.
*Nguyên nhân đạt được
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng về thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về kinh tế tại địa phương; sự sâu sát, tạo điều kiện của
Ủy ban nhân dân huyện và phòng chuyên môn cấp huyện đã chỉ đạo thực hiện
tốt công tác quản lý nhà nước về kinh tế.
Ủy ban nhân dân huyện xây dựng quy chế thực hiện chế độ công vụ
của cán bộ huyện và cán bộ, công chức cấp xã, từ đó cấp xã thực hiện rất
nghiêm túc việc chấp hành và điều hành công việc tại địa phương.
Các chương trình, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế được triển khai
tại địa phương là nhu cầu cấp thiết và Nhân dân luôn mong muốn làm gì để
cuộc sống khá hơn, tốt hơn do đó người dân rất hưởng ứng và tin tưởng vào
sự phát động, quản lý của địa phương.
62
2.3.2 Hạn chế, thiếu sót
Đội ngũ cán bộ, công chức chưa thật sự chủ động trong hoạt động tham
mưu quản lý nhà nước về kinh tế; vận dụng kiến thức chuyên môn trong tham
mưu thực hiện công việc còn hạn chế, bởi số lượng cán bộ chưa qua đào tạo
về trình độ chuyên môn nghiệp vụ chiếm đến 50%; đội ngũ công chức chưa
được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước chiếm 80%.
Nhiều xã trên chưa đề ra các biện pháp thích hợp để khai thác hết tiềm
năng kinh tế vốn có của địa phương; ngành nghề sản xuất còn hạn chế, chủ
yếu sản phẩm để tiêu thụ nội địa, chưa định hướng cạnh tranh với bên ngoài
nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô đầu tư cho chất lượng sản phẩm tốt hơn.
Hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất chưa đa dạng, chưa
theo kịp nhu cầu của người dân, chưa gắn kết tốt mô hình liên kết “4 nhà”
trong khai thác tiềm năng, lợi thế vốn có của từng xã.
Do thiếu vốn để thực hiện bao tiêu sản phẩm đầu ra nên hoạt động sản
xuất của người nông dân dễ bị ảnh hưởng về giá cả, vật tư phân bón,…Việc
huy động đóng góp của người dân chưa chú trọng đến đối tượng là các thành
phần kinh tế, tổ chức, đơn vị cùng chung tay góp sức vào công cuộc đổi mới
và xây dựng địa phương. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh chưa mang tính bền vững, chất lượng sản phẩm còn hạn chế
chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.
Chưa có cơ chế hiệu quả, phù hợp nhằm khuyến khích các sản phẩm
được tạo ra từ việc sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi
trong sản xuất. Chính quyền cấp xã chưa thể hiện là cầu nối gắn kết giữa nhà
khoa học và người sử dụng thành quả khoa học, góp phần nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Công tác quản lý hàng gian, hàng giả chưa được thực hiện triệt để, còn
tồn tại hàng kém chất lượng ngoài thị trường. Các xã chưa chủ động phối hợp
với các cơ quan chức năng của huyện tiến hành kiểm tra thường xuyên mà chỉ
63
thực hiện khi có thông tin. Công tác kiểm định chất lượng sản phẩm còn hạn
chế, chưa có cơ chế thực hiện hiệu quả, thích hợp.
Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra thu, chi ngân sách một vài xã còn để
xảy ra sai phạm, chi ngân sách chưa đúng mục đích. Kinh phí hoạt động hàng
năm giao cho các xã chưa đáp ứng được nhu cầu công tác tại địa phương.
Thời gian qua nguồn thu ngân sách, thu thuế đạt thấp do chính sách miễn
giảm thuế của Chính phủ..., thu không đủ bù chi nên một vài xã mất cân đối
ngân sách phải đề nghị huyện bổ sung kinh phí hoạt động.
Nguyên nhân hạn chế, thiếu sót
Đội ngũ cán bộ, công chức xã chưa được đào tạo bài bản về kiến thức
quản lý nhất là quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã, các xã chưa có cơ chế
khuyến khích tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức. Phần lớn cấp
xã còn trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.
Cán bộ, công chức một vài nơi chưa có điều kiện tiếp cận thông tin
quản lý, thông tin pháp luật để vận dụng vào hoạt động tham mưu thực hiện
công việc. Mặc dù cấp huyện tổ chức triển khai các văn bản pháp luật mới
nhưng đối tượng triển khai chưa đầy đủ, chưa quan tâm nhiều đến đối tượng
trực tiếp tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế.
Huyện Hòa Thành có tiềm năng phát triển kinh tế lớn nhưng việc đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa phương vẫn còn hạn chế, trong khi đó nguồn
lực vận động của Ủy nhân dân xã đối với các thành phần kinh tế để thực hiện
xã hội hóa chưa nhiều. Nguồn kinh phí bố trí thực hiện các chương trình kế
hoạch phát triển kinh tế ở mỗi địa phương hiện tại còn rất khó khăn.
Chính quyền cấp xã chưa tạo điều kiện đảm bảo đầu ra cho các sản
phẩm dự án sản xuất kinh doanh hoặc sau khi được huyện chuyển giao khoa
học kỹ thuật chưa giúp học viên vận dụng một cách tốt nhất. Vẫn còn tồn tại
nhiều cơ chế chưa hợp lý trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, nhất là
cơ chế quản lý đối với các loại hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng trên
địa bàn.
64
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trong Chương 2, trên cơ sở khung lý thuyết của Chương 1 và từ thực
tiễn của huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, luận văn đã nghiên cứu và đề cập
đến các nội dung sau:
Thứ nhất, Tổng quan về điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội của
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh và tác động của các nhân tố liên quan đến
quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện.
Thứ hai, Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Thứ ba, Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa
bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Qua phân tích, đánh giá, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được,
quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh cũng còn không ít những hạn chế, bất cập và những vấn đề đặt ra, đây là
cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh ở
Chương 3 tiếp theo.
65
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KINH TẾ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
3.1. Định hƣớng, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nƣớc về kinh tế
trong thời gian tới
3.1.1 Định hƣớng của Đảng về quản lý Nhà nƣớc nói chung và
quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã nói riêng
Thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục
của mọi nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện trên nhiều lĩnh
vực do Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất quản lý ở tầm vĩ
mô; ở các địa phương có Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện với những phạm
vi khác nhau. Muốn thực hiện quản lý xã hội tốt thì bộ máy quản lý hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương phải có phương pháp và cách
thức quản lý hiệu quả. Đây là nhiệm vụ quan trọng của mỗi ngành, mỗi cấp và
mỗi địa phương.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước thực
hiện những nội dung công việc của mình, nhằm mục tiêu xây dựng nhà nước
của dân, do dân và vì dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đảng chỉ đạo hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở,
hoàn thiện nhiệm vụ và quyền hạn trong công tác quản lý hành chính Nhà
nước, chỉ đạo cách thức tổ chức sao cho thực hiện công tác quản lý hành
chính đạt kết quả cao nhất; chỉ đạo nhà nước xây dựng thể chế, cơ chế phù
hợp trong thực hiện công tác quản lý, cụ thể là qua các kỳ Đại hội, Hội nghị
66
của Đảng: Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã
chỉ rõ phải thực hiện “…Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề
ngân sách xã và từng bước chuyên nghiệp hóa một số vị trí công tác của
xã…”. Đây là sự quan tâm của Đảng đối với cấp cơ sở, nhằm từng bước củng
cố đội ngũ cán bộ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”, lần đầu tiên có một nghị quyết chuyên đề đối với chính quyền cơ sở thể
hiện sự quan tâm của Đảng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Nghị quyết đã nêu rõ những việc làm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của cơ quan hành chính nhà nước đó là:
“…Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã,
phường, thị trấn. Đối với những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, những công việc được phân cấp và những việc tự quản của cộng đồng
dân cư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đưa ra Hội đồng nhân dân bàn, quyết định
chủ trương, sau đó tổ chức thực hiện. Đối với những công việc được cấp trên
ủy quyền, cơ quan hành chính tổ chức thực hiện theo đúng quy định của cấp
trên. Đối với công việc tự quản của thôn và các tổ chức tự quản khác, cơ quan
hành chính hướng dẫn, hỗ trợ và giám sát việc tuân thủ pháp luật. Đối với các
khiếu kiện của dân, phải đề cao trách nhiệm giải quyết theo thẩm quyền,
không để dây dưa kéo dài…”.
Về tổ chức cơ quan hành chính: “…Giữ chế độ Ủy ban nhân dân,
nhưng thu gọn số thành viên. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập
thể Ủy ban nhân dân, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các thành viên trong
Ủy ban nhân dân. Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm: Văn phòng Ủy ban nhân
dân và các lĩnh vực công việc: lĩnh vực kinh tế – tài chính (kể cả kế toán), lĩnh
vực văn hóa – xã hội và lĩnh vực nội chính (đối với phường có thế vận dụng
quy định chung để tổ chức các lĩnh vực công việc cho phù hợp)…”.
67
Về điều kiện và phương tiện làm việc: “…Tạo điều kiện cho chính
quyền cơ sở chủ động về ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho
những cơ sở có trình độ phát triển trung bình có thể tự cân đối được chi
thường xuyên. Thực hiện quy chế định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu,
chi ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các
cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở miền núi và các vùng khó
khăn. Phấn đấu đến năm 2020 các xã, phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc.
Trang bị phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại hóa theo yêu
cầu tin học hóa hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm tốt hệ thống
truyền thanh, nhà bưu điện – văn hóa để nhân dân tiếp nhận thông tin và hội
họp…”.
Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đã đề ra nhiều chủ trương và giải
pháp từ thẩm quyền đến cách thức giải quyết công việc, tổ chức hoạt động
của chính quyền cơ sở, từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động
của chính quyền cơ sở. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương (Khóa X) “về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng,
định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội”, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở từng bước được đổi mới, phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ của địa phương.
Tại Đại hội Đảng bộ huyện Hòa Thành lần thứ XI cũng đã khẳng định
phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và thực hiện tốt cải cách hành chính
trong đó chú trọng đến cải cách thủ tục hành chính và xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức xã có đầy đủ năng lực thực thi công vụ.
3.1.2. Mục tiêu, yêu cầu
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và đang trong tiến trình thực
hiện cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta nói chung và huyện Hòa Thành nói riêng. Việc quản lý nhà nước về
kinh tế sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực tác động: mặt tích cực đó là nền
68
kinh tế thị trường có các chủ thể kinh doanh hoạt động với hình thức tư hữu,
sẽ có động lực thực hiện đổi mới đối với hoạt động sản xuất của mình, nhằm
đem lại hiệu quả cao. Các chủ thể sản xuất kinh doanh chủ động, sáng tạo hơn
trong hoạt động và có quyết tâm cao trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Chính họ là người chủ động trong sản xuất kinh doanh, do đó họ sẽ giải quyết
được vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh là: sản xuất cái gì, sản xuất cho
ai, sản xuất bao nhiêu và sản xuất bằng cách nào? Họ đề ra phương án tối ưu
trong việc sử dụng nguồn vốn, khoa học kỹ thuật cho hoạt động sản xuất của
mình. Kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho người tiêu dùng nhiều hơn, đáp
ứng yêu cầu của người tiêu dùng nhanh hơn, hiệu quả hơn, văn minh hơn.
Mặt tiêu cực đó là do tư lợi nên rất dễ dẫn đến các hoạt động xâm phạm
đến lợi ích của người khác, lợi ích của người tiêu dùng. Cạnh tranh không
lành mạnh, tiêu diệt lẫn nhau; bóc lột sức lao động; trộm cắp tài sản; hủy hoại
môi trường sống; trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước, có thái độ vô
cảm trước những khó khăn của nhân dân.
3.1.2.1 Mục tiêu: Hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân
xã nhằm hướng đến mục tiêu đó là hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường, tiếp tục phát huy mặt tích cực của cơ chế này tạo đà cho
nền kinh tế phát triển. Mặt khác, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cơ
sở phải thực hiện chức năng hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người
dân tham gia vào các hoạt động kinh tế một cách hiệu quả nhất. Đồng thời
bảo vệ lợi ích của các bên và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
3.1.2.2 Yêu cầu:
Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã phải đảm bảo các yêu cầu theo
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đã
định hướng, đó là phải nâng cao được tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt
động của hệ thống các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại
của chính quyền cấp xã đối với cấp trên và Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày
03 tháng 6 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) “về
69
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”, đồng
thời phải thật sự nhạy bén và chủ động nhằm đề ra các biện pháp phù hợp với
công tác quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.
Hoạt động quản lý nhà nước cấp xã phải tạo ra môi trường thuận lợi
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, có hiệu quả, góp phần tích
cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Tạo môi trường cạnh tranh
công bằng, bình đẳng, xây dựng văn hóa sản xuất, đề cao chất lượng sản
phẩm nhằm phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng được tốt hơn. Xác lập
được trật tự trong sản xuất kinh doanh, công khai hóa chất lượng sản phẩm để
người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm tốt nhất, chất lượng cao nhất.
Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và từng cá nhân thành
viên Ủy ban nhân dân. Kiện toàn tổ chức bộ máy giúp việc gồm Văn phòng
Ủy ban nhân dân và 03 khối công việc: khối kinh tế – tài chính, khối văn hóa
– xã hội và khối nội chính. Tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ động
hơn trong quản lý ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho các đơn vị
có thể tự cân đối và có tích lũy thực hiện nhiệm vụ chi thường xuyên. Quan
tâm thực hiện tốt quy chế định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu, chi
ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các cơ
quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, phấn đấu đến năm 2020 các xã,
phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc được trang bị đầy đủ các phương tiện
cần thiết và từng bước hiện đại hóa theo yêu cầu tin học hóa trong hệ thống
quản lý hành chính nhà nước; bảo đảm tốt hệ thống truyền thanh, bưu điện –
nhà văn hóa để Nhân dân kịp thời tiếp nhận thông tin và hội họp.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về
kinh tế cấp xã
3.2.1. Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan hành chính nhà
nước từ trung ương đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ của mình. Do đó cần phải
70
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để không bị chồng chéo về chức
năng, thẩm quyền hoặc không bị buông lỏng trong quản lý. Để thực hiện được
những việc này cần phải quan tâm những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về tổ
chức, thẩm quyền giữa chính quyền cơ sở và chính quyền cấp trên
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã và các thành
viên Ủy ban nhân dân. Để cụ thể hóa Luật này, Chính phủ đã ban hành nhiều
văn bản thực hiện, trong đó có Nghị quyết số 08/2016/NQ-CP, ngày 25 tháng
01 năm 2016 “về quy định số lượng Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy
trình, thủ tục bầu, từ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức
thành viên Ủy ban nhân dân”. Với hệ thống pháp luật quy định như trên, đủ
cơ sở để Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân và cán bộ, công
chức hoạt động trong khuôn khổ quy định. Tuy nhiên, theo cách nhìn của
người nghiên cứu, cần phải cải thiện một số nội dung sau để hệ thống pháp
luật trở nên hoàn thiện hơn:
Một là, xây dựng thể chế thực hiện nhất thể hóa chức danh Bí thư Đảng
ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã một cách rộng rãi, nhằm nâng
cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành ở cấp chính quyền cơ sở theo tinh
thần Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28 tháng 05 năm 2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) “quy định một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở”.
Hai là, quan tâm thực hiện luật hóa trong hoạt động quản lý nhà nước
về kinh tế đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân
và công chức, từ đó đề cao thẩm quyền quản lý nhà nước nói chung và quản
lý nhà nước về kinh tế cấp xã nói riêng một cách cụ thể, góp phần đảm bảo
hoạt động thực thi công vụ đạt hiệu quả cao.
Ba là, tinh giảm biên chế một số chức danh cán bộ bán chuyên trách
không cần thiết, phân công thêm nhiệm vụ cho công chức để thực hiện có
71
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế như: tinh giảm cán bộ đài
truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa giao lại nhiệm vụ cho công chức văn hóa-xã
hội thực hiện; cán bộ đội thuế giao lại nhiệm vụ cho công chức tài chính-kế
toán; cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi giao lại nhiệm vụ cho công
chức địa chính – xây dựng – môi trường. Việc tinh giảm biên chế các chức
danh này một mặt sẽ giảm chi phí hoạt động thường xuyên (chi lương, phụ
cấp), mặt khác sẽ tạo điều kiện nâng phụ cấp kiêm nhiệm cho công chức phụ
trách, tạo động lực làm việc đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm tập
thể, cá nhân lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã và quy định trách nhiệm cụ thể
của cán bộ, công chức trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế
Trách nhiệm tập thể và cá nhân thành viên Ủy ban nhân dân đã được
quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, bao gồm:
những công việc cần phải thông qua tập thể và những việc không cần, những
việc do cá nhân là thành viên Ủy ban nhân dân quyết định và chịu trách nhiệm
trước tập thể. Tuy nhiên, cũng cần bổ sung thêm những hoạt động bắt buộc
phải được tập thể thống nhất thông qua và định hướng giải pháp thực hiện,
giao lại cho cá nhân trực tiếp tổ chức điều hành theo ý kiến của tập thể, nếu có
sai sót thì đó là trách nhiệm của tập thể, cá nhân chỉ là người thừa hành ý kiến
của tập thể phân công. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng cần bổ sung thêm nội dung
những công việc cá nhân được phân công phụ trách theo lĩnh vực công tác có
quyền chủ động đề ra các giải pháp sao cho kết quả mang lại là cao nhất,
tránh tình trạng cứ trông chờ vào ý kiến tập thể, không chủ động và không
dám quyết định vấn đề, gây ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
Thông tư số 06/2012/TT-BNV, ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Nội
vụ “quy định về hướng dẫn chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển
dụng công chức xã, phường, thị trấn” đã điều chỉnh những bất cập tại Quyết
72
định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ “về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công
chức xã, phương, thị trấn” đó là nội dung quy định còn mang tính chung
chung, chưa tách bạch những hoạt động cụ thể cần phải làm đối với các chức
danh chuyên môn, qua đó công chức xem đây là cẩm nang nhằm thực thi
công vụ được tốt hơn, đặc biệt là tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã
trong thực hiện công tác quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả hơn.
Thứ ba, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định thẩm quyền
quản lý hành chính nhà nước về các hoạt động kinh tế ở cấp xã
Hiện tại hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã thực hiện dựa
trên nhiều văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của
cấp trên. Có rất nhiều hoạt động chính quyền xã chưa tiến hành quản lý kịp
thời khi xảy ra vấn đề, mặc dù theo quy định vẫn chủ động thực hiện được.
Do vậy khi có văn bản chỉ đạo từ cấp trên thì Ủy ban nhân dân xã mới bắt đầu
thực hiện, điều này gây ra sự chậm chạp, kém hiệu quả trong quản lý. Mặt
khác, chính do sự trông chờ, ỷ lại theo cách thức thực hiện nêu trên, chính
quyền cấp trên thường đùn đẩy trách nhiệm cho chính quyền cấp dưới. Vì thế
cần thiết phải xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng
bộ về các hoạt động kinh tế, trong đó quy định rõ trách nhiệm quản lý của
chính quyền các cấp.
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân xã ban
hành các quyết định hành chính nhằm chỉ đạo, hướng dẫn, khuyến khích, bảo
vệ, bảo đảm lợi ích của các bên và trật tự trong sản xuất kinh doanh. Ủy ban
nhân dân cấp xã phải ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
những hoạt động kinh tế gây ảnh hưởng xấu và không đúng quy định pháp
luật, quyết định này là ý chí của chủ thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu
quản lý trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện.
Do đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cần phải được hoàn thiện,
73
trong đó quy định rõ thẩm quyền của cấp xã thực hiện chức năng quản lý tới
mức độ nào và ở phạm vi nào.
3.2.2 Khắc phục tình trạng trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên,
khuyến khích tính chủ động, sáng tạo trong quản lý nhà nƣớc về kinh tế
Đây là hiện tượng khá phổ biến ở các cơ quan hành chính nhà nước
hiện nay. Cấp dưới thiếu chủ động, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên mặc
dù những công việc đó được pháp luật quy định cụ thể thuộc thẩm quyền của
cấp mình. Cấp xã vẫn chưa mạnh dạn sử dụng hoặc do chưa được phân cấp,
phân định chức năng quản lý một cách cụ thể, rõ ràng, dẫn đến thiếu chủ động
trong công tác quản lý hành chính nhà nước. Đồng thời, chưa có cơ chế
khuyến khích phù hợp nhằm tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực
thi nhiệm vụ đạt chất lượng, hiệu quả. Để khắc phục những hạn chế trên, theo
ý kiến của người nghiên cứu cần có các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cần phân cấp rõ ràng hơn cho chính quyền cơ sở trong
hoạt động quản lý điều hành ở địa phương
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
X) xác định: “…phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp
trong bộ máy chính quyền, đồng thời xây dựng hành lang pháp lý bảo đảm sự
thống nhất quản lý của Nhà nước Trung ương…”. Tại Đại hội Đảng lần thứ
XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cần: “…phân định rõ quyền hạn và trách
nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương, bảo đảm
sự tập trung, thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ động, tự
chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương…”. Như vậy, Đảng và
Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện phân cấp quản lý hành chính nhà
nước cho từng cấp, từng ngành cụ thể; thực hiện phân cấp mạnh và phù hợp
hơn về nhiệm vụ từ Chính phủ, các bộ cho chính quyền địa phương, phát huy
tinh thần trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo của chính quyền địa phương
trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong
bộ máy chính quyền.
74
Việc phân cấp cho chính quyền cơ sở chính là giao quyền tự quyết định
những vấn đề của địa phương, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước trên
lĩnh vực kinh tế, bởi hiện nay chính quyền cơ sở đang tổ chức theo mô hình
hành chính truyền thống, tất cả quyền lực tập trung, mệnh lệnh, thứ bậc hành
chính. Do đó sẽ dễ nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại của chính quyền cấp dưới đối
với chính quyền cấp trên. Để khắc phục hạn chế này biện pháp hiệu quả là
thực hiện phân cấp mạnh mẽ kết hợp với tản quyền để tăng tính chủ động
trong hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở.
Hoạt động phân cấp này bao gồm: phân cấp về quản lý tài chính, phân
cấp về quản lý cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, phân cấp về quản lý thị trường,
phân cấp về quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã,…Để
hoạt động phân cấp có hiệu lực, hiệu quả thì cần phải thể chế hóa trong Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các văn bản pháp quy khác
mà cụ thể là các văn bản về quản lý hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực kinh
tế, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ theo quan điểm chủ trương chung.
Thứ hai, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý và
cán bộ, công chức về thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với
hoạt động công vụ
Hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được
đánh giá trên cơ sở xem xét tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo, hiệu quả trong
công tác tham mưu và mức độ hoàn thành nhiệm vụ; cần phải đánh giá một
cách khách quan, dân chủ và công khai những hoạt động này. Hoạt động đánh
giá khách quan, công tâm sẽ đạt hiệu quả trong việc khích lệ, động viên, kích
thích sự nhạy bén và năng động trong hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức. Để thực hiện việc đánh giá cán bộ, công chức về thực thi công vụ
thật sự hiệu quả, đảm bảo chất lượng phải xây dựng bộ tiêu chí đánh giá. Hiện
tại Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2017/NĐ-CP, ngày 27 tháng 7
năm 2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP,
ngày 9 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ “về đánh giá và phân loại cán bộ,
75
công chức, viên chức”. Nghị định có nhiều điểm mới như việc bỏ tiêu chí
sáng kiến hay tiêu chí đánh giá dựa trên khối lượng công việc thực hiện được.
Cụ thể, Nghị định số 88/2017/NĐ-CP đã sửa đổi tiêu chí phân loại
đánh giá viên chức ở mức hoàn thành nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ
theo hướng bỏ yêu cầu: có ít nhất 01 công trình khoa học, đề án, đề tài hoặc
sáng kiến được áp dụng và mang lại hiệu quả trong việc thực hiện công tác
chuyên môn, nghề nghiệp được cấp có thẩm quyền công nhận. Theo đó, chỉ
viên chức được đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mới phải đáp
ứng yêu cầu tiêu chí như trên. Đồng thời, Nghị định cũng quy định rõ, căn cứ
điều kiện cụ thể của cơ quan, tổ chức, đơn vị, thủ trưởng xây dựng các tiêu
chí chi tiết để đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, trong đó
phải tính đến tỉ lệ khối lượng công việc của cán bộ, công chức, viên chức đã
thực hiện đạt yêu cầu so với khối lượng công việc chung của cơ quan, tổ
chức, đơn vị khi đánh giá, phân loại; đồng thời khuyến khích áp dụng công
nghệ thông tin trong thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên
chức bảo đảm phù hợp với quy định.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả việc đánh giá cán bộ, công chức,
viên chức cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Một là, việc triển khai đánh giá phải đảm bảo đầy đủ mục đích, yêu cầu
là: xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng, đánh
giá cán bộ, công chức, viên chức; qua đánh giá nhằm nhận xét được phẩm
chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kết quả thực
hiện nhiệm vụ được giao; đánh giá cán bộ, công chức, viên chức phải đảm
bảo khách quan, công tâm, phản ánh đúng năng lực và phẩm chất của người
được đánh giá trên cơ sở nắm vững các quan điểm lịch sử, toàn diện và phát
triển; phải thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo các kết luận
đánh giá phải chính xác, công bằng. Bản thân cán bộ, công chức, viên chức
được trình bày ý kiến của mình về kết luận đánh giá.
76
Hai là, phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị được phân công
làm thước đo đánh giá phẩm chất và năng lực của cán bộ; lấy nhu cầu nhiệm
vụ, sở trường công tác làm căn cứ để bố trí cán bộ. Đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức phải có phương pháp (phân tích định lượng, đánh giá theo
kết quả và lưu trữ); thiết lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác đánh
giá. Bộ phận chuyên trách có trách nhiệm căn cứ vào những tư liệu liên quan
và những ghi chép về kết quả công việc của cán bộ, công chức, viên chức để
bình xét, đánh giá họ. Đồng thời, nâng cao vai trò trách nhiệm của tập thể (tập
thể cơ quan, phòng tổ chức, bộ phận chuyên trách, hội đồng đánh giá cơ
quan...) trong việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Các tiêu chí khi xây dựng càng cụ thể
càng giúp cho việc đánh giá đạt hiệu quả, bao gồm: số lượng công việc mà
cán bộ, công chức, viên chức thực hiện, trong đó chú trọng số lượng công
việc hoàn thành, số lượng công việc hoàn thành có chất lượng, đúng tiến độ,
khả năng nắm vững kiến thức, năng động, sáng tạo, tiết kiệm...làm lợi cho cơ
quan, đơn vị được bao nhiêu; tinh thần thái độ phục vụ xã hội, duy trì mối
quan hệ đồng nghiệp trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, quan hệ đoàn kết, hài hòa
với cấp trên và cấp dưới.
Bốn là, đẩy mạnh việc triển khai, phổ biến, quán triệt đầy đủ, chính xác
về nội dung phương pháp đánh giá theo quy định mới. Mục đích làm cho cán
bộ, công chức, viên chức nhận thức được trách nhiệm của cá nhân và các
thành viên, qua đó tham gia một cách tích cực, dân chủ vào quá trình đánh giá
trong cơ quan, đơn vị, gồm cả đánh giá bản thân và đánh giá đồng nghiệp.
Khi cơ chế đánh giá cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện hiệu quả,
người được đánh giá cảm thấy hài lòng về hoạt động đánh giá và sẽ ý thức
được hoạt động thực thi công vụ của mình. Từ đó góp phần tăng tính chủ
động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ.
77
Thứ ba, xây dựng quy chế khen thưởng đối với cán bộ, công chức để
động viên, khuyến khích những sáng kiến, cải tiến trong quản lý nhà nước
Khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức nâng cao tính chủ động, sáng
tạo trong công việc ngoài những biện pháp khích lệ, động viên thì biện pháp
khen thưởng cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu cần được áp dụng
và quan tâm thực hiện thường xuyên đối với mỗi cấp, mỗi ngành. Với mục
tiêu thúc đẩy tính năng động, sáng tạo, phát huy tinh thần trách nhiệm cao
trong công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, các cơ quan, đơn vị xây dựng
cơ chế khen thưởng cho các cá nhân có thành tích nhằm kịp thời khích lệ,
động viên đồng thời tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, nhân rộng trong cơ quan, thúc
đẩy hình thành phong trào thi đua thiết thực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được phân công.
Để nâng cao hiệu quả công tác của cán bộ cấp cơ sở thì việc thường
xuyên thực hiện cơ chế khen thưởng, khuyến khích, động viên kịp thời sẽ
mang lại hiệu quả cao trong công tác. Nếu sự sáng tạo của mỗi cán bộ, công
chức thực hiện có hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi thì chắc chắn hiệu quả
điều hành, quản lý nhà nước về kinh tế cũng sẽ được nâng lên. Tuy nhiên,
chính quyền cấp xã phải định hướng sự sáng tạo trong tham mưu quản lý của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đặt trong khuôn khổ pháp luật, làm sao
để thực hiện công tác chuyên môn tốt nhưng không vi phạm pháp luật, hiệu
quả quản lý được nâng cao hơn, không làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung
của tổ chức. Sự sáng tạo này có thể là việc cải tiến phương pháp làm việc, quy
trình quản lý, giải quyết hồ sơ của công dân, quy trình ra quyết định hành
chính của Ủy ban nhân dân xã…tất cả những việc làm đó sẽ góp phần trực
tiếp vào việc quy định hiệu quả cao hay thấp của công tác quản lý nhà nước
tại địa phương.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cần quan tâm:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác thi
đua - khen thưởng; quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của
78
Đảng, các quy định của Nhà nước về thi đua, khen thưởng để vận dụng một
cách cụ thể, sáng tạo vào thực tiễn tại đơn vị, cơ quan, từ đó có sự lãnh đạo,
chỉ đạo đúng đắn, kịp thời làm cho công tác thi đua - khen thưởng bắt nhịp
được với thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò to lớn của quần chúng Nhân
dân, thực hiện được nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về công tác thi đua - khen thưởng và quản
lý Nhà nước đối với công tác thi đua - khen thưởng. Phải bám sát và thực hiện
đúng nguyên tắc khen thưởng: "kịp thời, chính xác, công bằng, công khai";
trong đó chú trọng khen thưởng đối tượng là người lao động trực tiếp. Tuyên
truyền trên hệ thống đài truyền thanh, trong các cuộc họp, hội nghị của cơ
quan, đơn vị về nội dung Luật Thi đua - Khen thưởng và các quy định, chính
sách về thi đua - khen thưởng của Nhà nước và của đơn vị.
Thứ ba, Đẩy mạnh xây dựng và nêu gương các điển hình tiên tiến, kịp
thời khen thưởng, động viên các cá nhân, tập thể có thành tích nổi bật, tạo ra
những tấm gương sáng trong hoạt động của cơ quan, đơn vị. Tăng cường sự
phối hợp giữa các đơn vị, các ngành, các cấp trong công tác thi đua - khen
thưởng. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, từng cơ quan, đơn
vị tham gia phong trào thi đua và thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác
thi đua - khen thưởng, thường xuyên đổi mới phong trào thi đua - khen
thưởng, nhất là quan tâm đổi mới hình thức tổ chức phát động thi đua, đăng
ký thi đua hàng năm nhằm đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh phô trương,
hình thức. Mục tiêu thi đua phải gắn với nhiệm vụ công việc hàng ngày và
gắn liền với mục đích, yêu cầu chung của từng đợt phát động thi đua để
hướng cán bộ, công chức, người lao động và Nhân dân vào mục tiêu đó mà
phấn đấu đạt kết quả tốt. Thực hiện khen thưởng thường xuyên, đột xuất kịp
thời nhằm tạo sự động viên, khích lệ trong công tác.
Do đó, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, cấp xã
phải quan tâm thực hiện tốt hoạt động thi đua, khen thưởng đảm bảo khen
thưởng đúng người, đúng việc nhằm tạo sự khuyến khích, động viên cán bộ,
79
công chức, viên chức thực hiện, điều này sẽ góp phần tăng tính chủ động của
cán bộ, công chức, viên chức trong công việc, không trông chờ, ỷ lại vào sự
chỉ đạo của cấp trên.
3.2.3. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” và Kết luận số 37-KL/TW, ngày 02 tháng 2 năm 2009 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến
lược cán bộ từ nay đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu của công tác cán bộ là
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt
là cán bộ đứng đầu có phẩm chất năng lực tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng
trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân; đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, nhằm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính
vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực là
nhiệm vụ quan trọng của mỗi địa phương. Khi trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở được nâng lên thì công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng ở cấp xã sẽ được nâng lên. Để
thực hiện được điều này cần phải quan tâm một số nội dung quan trọng sau:
Thứ nhất, thông qua thi tuyển để tiến hành bổ nhiệm cán bộ có trình
độ năng lực đáp ứng yêu cầu trong việc lãnh đạo, quản lý, điều hành ở một
số chức danh của chính quyền địa phương
Đây là cách làm mới, nếu huyện Hòa Thành thực hiện được sẽ mang
tính đột phá trong công tác tuyển dụng đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở,
áp dụng chế độ thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo như: Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Hiện tại công chức xã đã thực hiện chế độ
thi tuyển theo quy định tại Nghị quyết 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12
năm 2011 của Chính phủ “về công chức xã, phường, thị trấn”, việc thi tuyển
80
chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân hiện vẫn chưa có cơ chế
hướng dẫn thực hiện, ưu điểm của phương pháp này:
Một là, thực hiện mô hình thi tuyển cán bộ lãnh đạo sẽ sàng lọc được
những cán bộ không đủ trình độ, thiếu kiến thức quản lý nhà nước, hạn chế về
năng lực lãnh đạo quản lý và điều hành công việc tại địa phương.
Hai là, thông qua thi tuyển sẽ lựa chọn được những cán bộ thật sự có
tâm huyết và tận tụy với công việc, nhạy bén trong lãnh đạo, điều hành và xử
lý tốt các tình huống quản lý hành chính nhà nước tại địa phương.
Ba là, việc thi tuyển sẽ khắc phục được nhược điểm về tư tưởng cục bộ
địa phương, họ hàng thân thích, khắc phục những hạn chế về năng lực gây
ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành quản lý công việc của địa phương.
Tuy nhiên việc thi tuyển cán bộ quản lý cấp cơ sở cũng có một số hạn
chế, thiếu sót nhất định:
Một là, cán bộ trúng tuyển sẽ khó đánh giá được chính xác về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống của người cán bộ đó, điều này sẽ gây khó khăn,
vướng mắc trong công tác bảo vệ đảng, bảo vệ chính trị nội bộ.
Hai là, hoạt động thi tuyển cán bộ quản lý sẽ dẫn đến tình trạng cán bộ
đó chưa được tín nhiệm cao của người dân cũng như của cán bộ, công chức
tại địa phương, điều này ngược lại với việc áp dụng hình thức dân bầu trực
tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”.
Ba là, hoạt động thi tuyển cán bộ quản lý sẽ không còn phù hợp, trái
với quy định về bầu cử Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân theo quy định
tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị định số
08/2016/NĐ-CP, ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ “quy định số
lượng Phó chủ tịch UBND và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi
nhiệm, điều động, cách chức thành viên UBND”.
81
Với những ưu điểm và khuyết điểm nêu trên, mục tiêu để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về kinh tế nên thực hiện theo các đề xuất
trên và tìm biện pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm cụ thể:
Để đánh giá về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của người thi tuyển
phải thực hiện kỹ quy trình các bước về thẩm định, xem xét hồ sơ cá nhân,
thành phần gia đình xuất thân và ràng buộc tiêu chuẩn phải là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam; có thâm niên công tác, trình độ năng lực chuyên môn khi
tham gia thi tuyển, đồng thời phải có quy chế cụ thể xét tuyển hồ sơ ban đầu
đối với người dự thi.
Về trường hợp tín nhiệm của Nhân dân và cán bộ, công chức ở cơ
quan, đơn vị đối với người trúng tuyển, chúng ta có thể kết hợp giữa việc thi
tuyển và việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Nhân dân và cán bộ, công chức
đối với những người này. Do đó phải có quy chế cụ thể về tổ chức lấy phiếu
tín nhiệm, nếu tỉ lệ tín nhiệm không cao thì phải có cơ chế thực hiện từ chức.
Thứ hai, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý hành chính
nhà nước cho cán bộ hiện đang công tác
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là giải pháp chủ yếu hiện
nay đang được chính quyền cơ sở thực hiện, bởi đây là cách thức hợp lý nhằm
tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn theo quy định.
Hiện tại ở cấp xã số người tốt nghiệp hệ chính quy trình độ cao đẳng, đại học
khá ít, hơn 80% cán bộ, công chức xã tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại
học thuộc các hệ tại chức, vừa học vừa làm. Như vậy hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng góp phần rất quan trọng nhằm giúp cán bộ, công chức đạt chuẩn và
trang bị phần nào kiến thức chuyên môn cho công tác hiện nay ở địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng góp phần rất quan trọng trong việc trang bị kiến
thức quản lý, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả công việc, năng lực quản lý
hành chính nhà nước. Để thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 01 tháng 9 năm 2017
82
của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”, mỗi xã
cần chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn phù
hợp với công tác quy hoạch của địa phương, nhằm chuẩn bị nguồn cán bộ đạt
chuẩn theo yêu cầu bố trí nhân sự các chức danh lãnh đạo, quản lý quy định.
Thứ ba, tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo nhằm trang bị kỹ năng,
kinh nghiệm cũng như các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế cho
cán bộ, công chức cấp xã
Tập huấn, tổ chức hội thảo về kiến thức quản lý nhà nước cũng như
trao đổi kinh nghiệm về thực hiện những tình huống quản lý hành chính nhà
nước về kinh tế là những việc làm nhằm giúp cán bộ, công chức có thể nâng
cao hơn về trình độ quản lý của mình. Thông qua những hoạt động này, từng
cán bộ, công chức sẽ trao đổi những kiến thức quản lý, kinh nghiệm của mình
để cùng nhau thảo luận, góp ý, phân định đúng sai theo quy định của pháp
luật nhằm thực thi công vụ đạt hiệu quả cao. Với tầm quan trọng đó, để nâng
cao trình độ, kiến thức quản lý nhà nước về kinh tế của đội ngũ cán bộ, công
chức xã ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng cần quan tâm đến công tác tập huấn
nghiệp vụ và tổ chức hội thảo nhằm trang bị kỹ năng, kinh nghiệm của đội
ngũ cán bộ, công chức xã.
3.2.4. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý
nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
Thứ nhất, thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt động quản lý hành
chính nhà nước của cấp xã
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về “đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn” đã khẳng định các tổ chức trong hệ thống chính trị
từ trung ương đến cấp huyện phải đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo,
khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, hướng mạnh về cơ sở, thôn, xóm, ấp, bản,
tăng cường đi sát, làm việc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu nguyện
vọng của Nhân dân, cùng với cơ sở giải quyết các vướng mắc cho dân.
83
Hoạt động kiểm tra công tác quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở được
thực hiện thường xuyên hơn hoạt động thanh tra. Kiểm tra có thể được tổ
chức thành đoàn để tiếp cận cơ sở thực hiện hoặc cũng có thể giao cho từng
cá nhân riêng lẽ thực hiện về một nội dung nào đó do Ủy ban nhân dân huyện
phân công. Thực hiện có hiệu quả nội dung này cấp dưới sẽ quan tâm chú ý
hơn, có ý thức tốt hơn về vị trí, vai trò, chức năng, trách nhiệm của mình
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ đó sẽ chủ động hơn trong
thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động thanh tra do Ủy ban nhân dân huyện giao cho
cơ quan thanh tra huyện thực hiện nội dung chủ yếu là thanh tra hoạt động
quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói
riêng. Thanh tra được tiến hành theo chương trình, kế hoạch hoặc thanh tra
đột xuất về quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương. Hoạt động thanh tra thường được tổ chức trên lĩnh vực tài chính ngân
sách của địa phương.
Với tầm quan trọng và vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra như đã
nêu trên thì đây cũng là một trong những giải pháp thiết thực góp phần tăng
hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cơ sở.
Để phát huy tối đa hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, cấp huyện cần
phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên, không phải đến lúc có vấn đề sai phạm
mới tiến hành thanh tra kiểm tra, nhằm kích thích sự chủ động, tích cực trong
việc quản lý của cấp dưới. Để làm được điều này, các chương trình, kế hoạch
do Ủy ban nhân dân huyện phổ biến, triển khai đến cấp xã nhất là những nội
dung có liên quan đến hoạt động kinh tế cần phải đảm bảo sự kiểm tra thường
xuyên quá trình tổ chức thực hiện, đòi hỏi Ủy ban nhân dân huyện phải có đủ
nguồn lực và cách thức tiến hành một cách khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo
thực hiện thật sự có hiệu quả, chất lượng.
Thứ hai, tạo điều kiện tối đa để Nhân dân thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương
84
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) về “đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước” đã đề ra các chủ trương, giải pháp về giải quyết tốt
mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với Nhân dân, huy động sự
tham gia có hiệu quả của Nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của cơ
quan hành chính nhà nước. Tập trung cải cách theo hướng đơn giản, minh
bạch, công khai về thủ tục hành chính, xem đây là một giải pháp quan trọng
để phòng, chống tham nhũng, khắc phục tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ
của cơ quan nhà nước. Xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định về quyền
được thông tin của người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát
hoạt động của cơ quan hành chính.
Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, Nhân dân giám
sát hoạt động của chính quyền và phản ánh những thiếu sót, bất hợp lý về
công tác quản lý hành chính của chính quyền. Tuy nhiên vấn đề là cơ chế tạo
điều kiện cần được quan tâm thực hiện phù hợp, có hiệu quả để người dân
tham gia phản ánh và mức độ, sự tiếp thu của chính quyền đối với những
phản ánh đó nhằm đưa ra các điều chỉnh trong hoạt động. Mỗi địa phương
phải nghiêm túc tạo điều kiện tối đa để người dân trực tiếp tham gia cùng nhà
nước, nhằm thực hiện giám sát việc quản lý hành chính của nhà nước.
Cơ chế để người dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đó là: Ủy ban nhân dân xã tiếp thu, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị
của người dân về những hạn chế, thiếu sót trong quá trình quản lý. Từ đó, Ủy
ban nhân dân xã tiến hành điều chỉnh hoạt động quản lý của mình được tốt
hơn và phản hồi, phúc đáp lại cho Nhân dân biết kết quả khắc phục, qua đó
giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng được chặt chẽ hơn. Đồng
thời, phải có cơ chế xin lỗi người dân nếu thực hiện hành vi sai, gây thiệt hại
đến quyền lợi của Nhân dân; thực hiện nghiêm túc luật bồi thường trách
nhiệm nhà nước để từ đó góp phần nâng cao ý thức thực thi công vụ.
85
Như vậy, ý thức được tầm quan trọng của Nhân dân trong việc tham gia
vào quá trình quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, nên có cơ chế cụ thể
nhằm tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào hoạt động giám sát việc thực
thi pháp luật của chính quyền cấp xã. Cơ chế này phải được công khai hóa để
nhân dân nhận thức được thẩm quyền của mình khi thực hiện, tham gia cùng
với nhà nước thực hiện việc quản lý hành chính thật sự đạt hiệu quả cao.
3.2.5. Đầu tƣ trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho
hoạt động quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, tuy nhiên cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý cũng là
yếu tố vô cùng quan trọng. Cơ sở vật chất bao gồm các trang thiết bị, phương
tiện, dụng cụ chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, đây là điều kiện cần thiết và không thể thiếu trong hoạt động quản
lý, cụ thể: máy vi tính, máy ghi âm, máy photocopy, máy in, dụng cụ hỗ trợ
lấy mẫu xét nghiệm,... Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành
chính ngoài những vấn đề đã nêu trên thì việc trang bị đầy đủ cơ sở vật chất
cho hoạt động quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý được tốt hơn.
Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển rất đa dạng và phong phú như
hiện nay, để thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội nói chung, trong công tác
quản lý cần phải trang bị đầy đủ phương tiện làm việc phù hợp để đảm bảo
công việc được thực hiện đạt kết quả tốt nhất.
Cơ sở vật chất đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý hành
chính, phục vụ cho người quản lý cũng như người tác nghiệp có đủ điều kiện
để thực thi nhiệm vụ, bởi hiện tại các xã mới chỉ trang bị phương tiện là máy
vi tính, máy ghi âm, ghi hình chứ chưa trang bị các công cụ hỗ trợ khác như
đo lường chất lượng sản phẩm, kiểm tra chất lượng về môi trường,…Để trang
bị phương tiện phục vụ cho công tác quản lý thì có 02 phương thức thực hiện
đó là: bố trí ngân sách tự trang bị phương tiện làm việc; sự hỗ trợ phương tiện
86
từ cơ quan chuyên môn cấp trên theo chương trình kế hoạch hỗ trợ hàng năm
để thực thi nhiệm vụ.
3.2.6. Kinh nghiệm thực hiện các biện pháp quản lý nhà nƣớc về
kinh tế có thể áp dụng tại địa phƣơng
Hoạt động quản lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước cấp xã
được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Tuy nhiên làm sao để đạt
được hiệu quả cao trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế, qua nghiên cứu
có nhiều địa phương có cách làm hay và sáng tạo trên cơ sở quy định của
pháp luật, chủ động vận dụng thực hiện những cách làm cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong công tác vận động nhân dân xây dựng các công trình
công cộng tại địa phương. Các xã trên địa bàn huyện Dương Minh Châu giáp
ranh với huyện Hòa Thành thực hiện công tác vận động nhân dân làm đường
giao thông nông thôn có sự hỗ trợ vốn nhà nước 50%, nhân dân 20-30%,
ngoài ra còn vận động các đơn vị mạnh thường quân tài trợ thực hiện. Điểm
sáng tạo của huyện là sau khi công trình hoàn thành, xã giao cho các hội đoàn
thể của xã, các ngành của Ủy ban nhân dân phối hợp với ấp quản lý và bảo
quản công trình, các đơn vị này có trách nhiệm theo dõi, quản lý và vận động
Nhân dân tu bổ khi công trình bị hư hỏng, xuống cấp. Đây là cách làm hay
của huyện, xã có thể giảm bớt được việc quản lý nhằm tập trung giải quyết
những công việc hành chính khác, còn công tác theo dõi, bảo quản các công
trình này được các hội đoàn thể theo dõi và kịp thời báo cáo lại cho Đảng ủy-
Ủy ban nhân dân xã nhằm có hướng chỉ đạo thực hiện tốt hơn.
Thứ hai, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ phục vụ cho
công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói
riêng, có thể áp dụng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng của tỉnh Bình Dương
như đề án tuyển chọn và đào tạo hàng năm hơn 150 cán bộ trẻ làm lãnh đạo
chủ chốt cấp ủy, chính quyền xã, đây là một trong những chương trình đột
phá để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
87
quản lý. Để thực hiện được nội dung trên, kinh nghiệm đặt ra là phải áp dụng
các giải pháp:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về phát triển nguồn ngân lực,
nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ công việc trong tình hình mới.
Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm khuyến khích, thu
hút nhân tài có trình độ cao tham gia vào bộ máy nhà nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đồng thời có cơ chế, chính sách thu
hút người có trình độ cao về địa phương công tác.
Ba là, đổi mới phương pháp tuyển dụng, mở rộng đối tượng, đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Đẩy mạnh thực
hiện cơ chế, chính sách luân chuyển cán bộ trẻ về cơ sở, nhằm tạo điều kiện
đào tạo, tích lũy kinh nghiệm, qua đó đánh giá năng lực, trình độ để có thể
xem xét đề bạt, bổ nhiệm chức vụ cao hơn.
Bốn là, xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích về kinh tế
đối với cán bộ cấp xã phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Cụ thể
như ngoài hỗ trợ tiền học phí, tiền ăn, ở, đi lại nên xem xét cấp thêm kinh phí
cho việc đi thực tế, viết luận văn tốt nghiệp, tiền thưởng cho kết quả học tập
tốt đảm bảo phù hợp với tình hình giá cả thị trường hiện nay, nhằm khích lệ,
động viên kịp thời đối với cán bộ, công chức.
Năm là, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong diện quy hoạch và cán bộ đương chức cấp xã tại Trường chính trị tỉnh
theo phương châm: lý luận gắn với thực tiễn, học đi đối với hành; giáo dục
đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, xử lý tình
huống,…Trang bị phương tiện, điều kiện cần thiết để cán bộ chủ chốt cấp xã
hoàn thành nhiệm vụ được giao như: máy tính, thiết lập các trang web nội bộ,
internet để có thể cập nhật các văn bản của Đảng, Nhà nước, chủ trương chính
88
sách cấp trên và các thông tin cần thiết một cách nhanh chóng, kịp thời phục
vụ tốt cho nhiệm vụ quản lý nhà nước tại địa phương.
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Đối với Quốc Hội và Chính phủ
-Cần nghiên cứu, khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản pháp luật qui
định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quản lý hành
chính nói chung, thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước về kinh tế nói
riêng đối với cán bộ, công chức cấp xã.
-Nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thi tuyển các chức
danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã kết hợp với cơ chế bầu tín
nhiệm đối với các chức danh này.
3.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện
-Rà soát, thực hiện phân cấp mạnh mẽ về công tác quản lý hành chính
nhà nước cho chính quyền cơ sở phù hợp với khả năng và quyền hạn nhất
định, tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở có ý thức chủ động trong thực hiện
nhiệm vụ quản lý của mình.
-Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức về thực hiện chức
năng thẩm quyền của mình khi thực thi công vụ phù hợp với từng nhóm đối
tượng.
-Hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc cơ chế kiểm tra, đánh giá hoạt
động quản lý hành chính nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành, nhất là chính quyền
cấp cơ sở. Lưu ý hoạt động kiểm tra, giám sát này phải được đổi mới với
những hình thức phù hợp, phân quyền kiểm tra, giám sát cho các cơ quan theo
hướng hợp lý.
-Tạo điều kiện trang bị đầy đủ các trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ
chuyên môn nghiệp vụ dành cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhất
là trang bị các công cụ hỗ trợ khác như đo lường chất lượng sản phẩm, kiểm
89
tra chất lượng về môi trường,…để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước về kinh tế, qua đó góp phần thực thi nhiệm vụ đạt kết quả tốt.
90
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trong Chương 3, trên cơ sở khung lý thuyết ở Chương 1, qua phân tích,
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước ở Chương 2 và trên cơ sở quan điểm,
phương hướng về quản lý hành chính nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Luận văn đã đề xuất 06 nhóm giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới. Cụ thể như sau:
Một là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Hai là, Khắc phục sự trông chờ chỉ đạo của cấp trên, khuyến khích tính
chủ động, sáng tạo trong quản lý nhà nước về kinh tế.
Ba là, Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về kinh tế.
Bốn là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà
nước về kinh tế.
Năm là, Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước về kinh tế.
Sáu là, Các biện pháp quản lý hành chính nhà nước có thể áp dụng ở tại
địa phương.
Ngoài ra, Luận văn còn kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội về hoàn
thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế. Kiến nghị với UBND tỉnh và UBND
huyện về thực hiện tăng cường kiểm tra giám sát, trang bị cơ sở vật chất, đánh
giá hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã trong thực hiện cơ chế,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
91
KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã là yêu cầu tất yếu
khách quan trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
như hiện nay ở Việt Nam. Mặt khác, nhu cầu nâng cao đời sống của Nhân dân
và xu thế đô thị hóa, phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp nông thôn, xây
dựng nông thôn mới là thực tiễn khách quan, luôn được Đảng và nhà nước ta
quan tâm, chỉ đạo thực hiện.
Thông qua nghiên cứu lý luận, cơ sở pháp lý và từ thực tiễn quản lý hành
chính nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh, tác giả đã hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu luận văn với những kết quả
chủ yếu như sau:
Thứ nhất, Xây dựng khung lý thuyết quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.
Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước về
kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Thứ ba, Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi và đặc thù nhằm
hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành,
tỉnh Tây Ninh. Cụ thể các giải pháp như sau:
-Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
-Khắc phục sự trông chờ chỉ đạo của cấp trên, khuyến khích tính chủ
động, sáng tạo trong quản lý nhà nước về kinh tế.
-Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về kinh tế.
-Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước về
kinh tế.
-Đầu tư trang bị cơ sở vật chất, kinh phí đầy đủ phục vụ cho hoạt động
quản lý nhà nước về kinh tế.
-Các biện pháp quản lý hành chính nhà nước có thể áp dụng ở tại địa
phương.
92
Từ những căn cứ khoa học, qua nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước
về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Các giải pháp
nêu trên nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
2. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015.
3. Luật cán bộ công chức năm 2008.
4. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
5. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ
quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.
6. Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 5 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ
quy định về công chức xã, phường, thị trấn.
7. Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 04 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về ban hành Quy chế làm việc mẫu của
UBND xã, phường, thị trấn.
8. Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn quy định cụ thể đối với
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
9. Quyết định số 26/2009/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 5 năm 2009 của
UBND tỉnh Tây Ninh quy định về phát triển ngành nghề truyền thống
giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020.
10. Quyết định số 38/2010/QĐ-UBND, ngày 5 tháng 8 năm 2010 của UBND
tỉnh Tây Ninh về việc quy định chức danh, số lượng, một số chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
11. Quyết định số 66/2013/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 12 năm 2013 của
UBND tỉnh Tây Ninh về việc quy định chức danh, bố trí các chức
danh và chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
94
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ấp, khu phố trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh.
12. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Chính quyền cấp xã và quản lý
nhà nước ở cấp xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), “Nghiên cứu phân cấp quản lý Nhà nước
về đầu tư công ở Việt Nam”.
14. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực kinh tế, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đào Đăng Kiên (2012), “Kết quả bước đầu thực hiện NQ11/2011/NQ-CP
về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã
hội”, Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội, số 17 (Tháng 2
năm 2011).
16. Đào Đăng Kiên (2012), “Đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ cấp xã-
Yêu cầu cần thiết khách quan trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Khoa học Chính trị số 6, năm 2012.
17. Trần Lưu Quang (2014), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tây Ninh”, Tạp
chí Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội, số 89, trang 34.
18. Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2014,
2015 và 2017.
19. Đào Viết Hiền (2005), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến
sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Hoàng Thị Dung (2016), Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt của chính
quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Văn Hiệp (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp xã ở tỉnh Hậu Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính
Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Văn Sỹ năm (2016) “Hoạt động của chính quyền xã từ thực tiễn
95
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia, Hà Nội.
23. Dương Bạch Long (2011), Chính quyền cấp xã và việc tổ chức, điều hành
hoạt động Ủy ban nhân dân cấp xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
sự thật, Hà Nội.
24. Đinh Văn Mậu (2007), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã về
quản lý nhà nước, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
25. Bùi Tiến Quý, Dương Danh Mỵ (2000), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đinh Ngọc Giang (2011), Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Thành (2012), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt
Nam”, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội.
28. Lê Sỹ Thiệp (2014), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
29. Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2010), Quản lý nhà nước về kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.