BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……………../…………….. BỘ NỘI VỤ ...../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ NGUYỄN XUÂN LINH
SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TẠI TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
PHÚ YÊN - NĂM 2018
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……………../…………….. BỘ NỘI VỤ ...../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ NGUYỄN XUÂN LINH
SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TẠI TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI HUY KHIÊN
PHÚ YÊN - NĂM 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số
liệu khảo sát là khách quan, do bản thân trực tiếp thực hiện. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và chưa
được công bố.
Phú Yên, tháng 10 năm 2018
Tác giả Luận văn
Lê Nguyễn Xuân Linh
iii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành nhất
tới PGS.TS. Bùi Huy Khiên, công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia,
người thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, Phân viện Tây
Nguyên cùng các cán bộ, giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã
tạo điều kiện, nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong quá trình theo học
chuyên ngành Cao học Quản lý công tại Trường.
Trân trọng cảm ơn Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, các Sở, Ban ngành
có liên quan, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn, Ban Tổ chức Kiểm tra Tỉnh Đoàn
Phú Yên, Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy Đồng Xuân, các
anh, chị cán bộ Đoàn qua các thời kỳ, đồng nghiệp trong cơ quan Huyện
Đoàn Đồng Xuân, đã quan tâm giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác
giả hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xin được bày tỏ lòng tri ân đến gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên, chia sẻ và khích lệ tác giả trong suốt thời gian học tập và hoàn thành
Luận văn.
Phú Yên, tháng 10 năm 2018
Tác giả Luận văn
Lê Nguyễn Xuân Linh
iv
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài luận văn......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..............................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.....................................4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...............................................7
7. Kết cấu luận văn......................................................................................7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC .............................................................................................8
1.1. Các khái niệm......................................................................................8
1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước.............11
1.3. Tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước .........................................18
1.4. Nội dung tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
vào hoạt động quản lý nhà nước.................................................................20
1.5. Các yếu tố bảo đảm sự tham gia của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.......................................................29
Tiểu kết chương 1.......................................................................................33
v
Chương 2. THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH
NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN.....................................................................34
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Đoàn......................................34
2.2. Tình hình tham gia của cán bộ Đoàn ..................................................54
2.3. Đánh giá về thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn .............................74
Tiểu kết chương 2.......................................................................................80
Chương 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN .......................................81
3.1. Quan điểm tăng cường sự tham gia ....................................................81
3.2. Các giải pháp tăng cường sự tham gia ................................................83
3.3. Kiến nghị..............................................................................................100
Tiểu kết chương 3.......................................................................................102
KẾT LUẬN.................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................105
PHỤ LỤC....................................................................................................109
vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UVBCH Ủy viên Ban Chấp hành
UVBTV Ủy viên Ban Thường vụ
CNH Công nghiệp hóa
HĐH Hiện đại hóa
ĐVTN Đoàn viên, thanh niên
NXB Nhà xuất bản
HĐND Hội đồng Nhân dân
LHTN Liên hiệp Thanh niên
TNCS Thanh niên Cộng sản
TNTP Thiếu niên tiền phong
TTN Thanh thiếu nhi
UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
UBND Ủy ban Nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
QLNN Quản lý nhà nước
CBCC Cán bộ công chức
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC
Số Nội dung Trang
thứ tự 1. 2. 3. Sơ đồ 2.1 Khái lược về cơ cấu tổ chức Bảng 2.2: Thống kê chất lượng người hưởng lương ngân sách Bảng 2.3: Cán bộ Đoàn tham gia cấp ủy 36 50 61
v
Bảng 2.4: Cán bộ Đoàn tham gia Hội đồng Nhân dân 4. Phụ lục 1: Mẫu phiếu khảo sát số 1 5. Phụ lục 2: Tổng hợp kết quả khảo sát số 1 6. Phụ lục 3: Mẫu phiếu khảo sát số 2 7. Phụ lục 4: Tổng hợp kết quả khảo sát số 2 8. 9. Phụ lục 5: Mẫu phiếu khảo sát số 3 10. Phụ lục 6: Tổng hợp kết quả khảo sát số 3 63 109 111 114 115 116 117
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ, Người cho rằng “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” . Vì
thế, Người cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Cán bộ
là tiền vốn của đoàn thể”, “Cán bộ quyết định mọi việc” [26, tr269].
vi
Từ những luận điểm ấy, có thể thấy rõ cán bộ là một trong những vấn
đề chiến lược, quan trọng, quyết định sự thành bại của cách mạng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển, yêu cầu đổi mới
và xây dựng chính phủ kiến tạo, phục vụ và giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế sâu rộng. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng đặt ra trong giai đoạn này, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có một đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ đức và tài. Song thực trạng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay năng lực và phẩm chất chưa tương xứng với yêu cầu.
Năm 1931 Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dành trọn niềm tin vào thế hệ trẻ Việt Nam, Người khẳng định:
“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên”[25, tr185]. Trước lúc đi xa,
trong bản Di chúc Người đã không quên căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết, Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Vậy nên,
“Thanh niên chính là nguyên khí của quốc gia, là vận mệnh của dân tộc" [27,
tr172].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương: “Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển
trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ,
hoài bão, xung kích, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai trò
của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách”[19, tr162-163]. Từ đây,
nhận thấy rằng vai trò của tổ chức Đoàn trong thời đại hiện nay là tổ chức
nòng cốt và phụ trách giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao lòng tự hào dân
tộc, góp phần cổ vũ thế hệ trẻ sẽ cống hiến vì một đất nước Việt Nam phát vii
triển bền vững. Cán bộ làm công tác Đoàn sẽ là những người thực hiện tốt
nhiệm vụ trên để tổ chức Đoàn đảm đương được trọng trách của mình, do đó
chất lượng cán bộ Đoàn là một khâu hết sức quan trọng, cần có những con
người thực sự tâm huyết, có lý tưởng tốt, có uy tín cao, có trách nhiệm để
đảm đương tốt nhiệm vụ của Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giao phó.
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thể chế chính trị Nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp
(2013, sửa đổi) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”, Điều 6 Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22]. Điều
đó có nghĩa là nhân dân, trong đó có thanh niên có quyền tham gia xây dựng
Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và đề xuất với Nhà nước
nhựng vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Với đặc thù công tác mà đối tượng là thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
nên điều đương nhiên những cán bộ Đoàn sẽ là những người trẻ, khi hết tuổi
phát triển công tác mới thì đây sẽ là một nguồn cán bộ kế cận thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong tương lai thế nên chất lượng cán bộ
Đoàn là điều cần quan tâm và nâng cao chất lượng nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững đã đề ra. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng cán bộ Đoàn
không đồng đều, có hiện tượng vào tham gia công tác Đoàn nhằm làm bệ đỡ
cho bước nhảy trong tương lai, vẫn có những cán bộ Đoàn không thật sự là
“thủ lĩnh Đoàn”.
Từ những lý do trên, với tầm quan trọng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
trong hệ thống chính trị, cán bộ Đoàn đối với quá trình phát triển của tỉnh Phú
Yên nói riêng và Việt Nam nói chung, trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính
viii
Quốc gia, tác giả thực hiện luận văn “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Khoảng 20 năm trở lại đây, theo mức độ tìm hiểu của tác giả đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn về quản lý nhà nước về công
tác thanh niên, có một số đã xuất bản thành sách cũng có một số đề tài luận
văn, luận án đã được công bố có thể kể ra như sau:
Nguyễn Văn Trung, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (1997) “Chính
sách và quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở một số nước trên thế
giới”, đã trình bày vấn đề về chính sách thanh niên và tổ chức bộ máy cơ
quan quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở một số nước.
Lê Văn Cầu (1999) trong Luận án Tiến sĩ “Đổi mới đội ngũ cán bộ
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp huyện trong điều kiện hiện nay
(qua thực tế một số tỉnh Miền Trung)”, hay tác giả Nguyễn Thọ Ánh (2004)
trong bài viết Đổi mới công tác đào tạo cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
đăng trên tạp chí xây dựng Đảng số 10 đều cho rằng cần phải đổi mới công
tác đào tạo cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; cả hai tác giả đều đã đi sâu
phân tích và tổng kết thực tiễn đội ngũ cán bộ Đoàn nói chung, cấp huyện nói
riêng. Trên cơ sở thực tiễn, các tác giả đã đề xuất phương hướng và những
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn trong thời
kỳ mới. Các giải pháp của hai tác giả trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Vũ Trọng Kim, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999) trong “Quản
lý nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới”, đã trình bày kết quả
nghiên cứu về tình hình thanh niên về công tác thanh niên, chỉ ra một số nội
dung, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong
thời kỳ mới.
Đào Ngọc Dung (2005), trong đề tài luận văn thạc sĩ “Sự tham gia của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh
niên”, đề tài đã phân tích những tồn tại, hạn chế của tổ chức Đoàn TNCS Hồ ix
Chí Minh trong việc tham gia quản lý nhà nước đồng thời đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao sự hiệu quả tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên, tạo sự chuyển biến tích
cực về tình hình thanh niên về công tác thanh niên qua đó phát huy tiềm năng to
lớn của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Doãn Đức Hảo (2009) trong Luận văn Thạc sĩ Chính trị học “Xây dựng
đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở hiện nay” đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung
về đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở và nêu những định hướng đổi mới hoạt động
của tổ chức Đoàn cơ sở trong tình hình hiện nay. Qua đó chỉ ra những mặt
mạnh, mặt yếu, nguyên nhân thực trạng và rút ra bài học kinh nghiệm; dự báo
tình hình công tác Đoàn và phong trào TTN ở cấp cơ sở và đề xuất các giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở.
Lê Thị Thanh Bích (2016) trong Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng Bí thư
Đoàn cấp xã ở tỉnh Phú Yên hiê ̣n nay” dựa trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận
về chất lượng Bí thư Đoàn cấp xã, đánh giá thực trạng chất lượng Bí thư
Đoàn cấp xã trên địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ Bí thư Đoàn cấp xã trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu
cầu của công tác Đoàn và phong trào TTN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, phù hợp với đặc thù địa phương ở một tỉnh duyên hải miền Trung như
Phú Yên. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng trong việc xem xét chất lượng
cán bộ Đoàn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh nói riêng và công tác tham gia quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
nói chung.
Dựa trên cơ sở những nghiên cứu về công tác thanh niên, cán bộ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh đã được công bố nói trên, tác giả nhận thấy rằng với vai
trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác quản lý nhà nước ngày càng
quan trọng trong đó vai trò của cán bộ trẻ (cán bộ Đoàn hoặc cán bộ Đoàn
viên trẻ) tham gia ngày càng tích cực vào công tác quản lý nhà nước và sẽ là
động lực để phát triển chính phủ điện tử, đẩy mạnh công tác tham gia vào thời x
đại công nghệ 4.0 của nước ta nói chung và phát triển tỉnh Phú Yên nói riêng.
Đó là động lực, cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để tác giả bắt tay vào
nghiên cứu đề tài “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong
quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên”
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước và trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn vào hoạt động quản
lý nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán
bộ Đoàn vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào
hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại
tỉnh Phú Yên từ năm 2012 đến nay.
xi
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác Đoàn Thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích để lý giải tính cấp thiết và ý
nghĩa mà đề tài nghiên cứu đặt ra trong sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú
Yên. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn vào
hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên, phân tích nguyên nhân của
những hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp và kiến nghị.
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm lược nội dung sau mỗi
phần phân tích, đánh giá. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn
đề, tóm lược nội dung của từng mục và các kết luận từng chương của luận văn.
5.2.2 Phương pháp thống kê
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê để thống kê các số liệu về
thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào
hoạt động hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
5.2.3 Phương pháp điều tra xã hội học
Tác giả luận văn đã xây dựng bảng câu hỏi và tiến hành khảo sát bằng
phiếu hỏi ý kiến đối với cán bộ lãnh đạo tỉnh, huyện, các sở, ban, ngành (phát
ra 15 phiếu, thu lại 15 phiếu) và Ủy viên Ban chấp hành Tỉnh đoàn Phú Yên
(phát ra 26 phiếu, thu lại 26 phiếu). Dựa trên kết quả điều tra xã hội học và
các số liệu của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của tỉnh, luận văn
đưa ra kết luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:
xii
- Luận văn phân tích làm rõ cơ sở lý luận về vai trò tham gia của cán bộ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý
nhà nước.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý nhà
nước tại tỉnh Phú Yên trong những năm vừa qua.
- Luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động hoạt động quản lý
nhà nước tại tỉnh Phú Yên trong thời gian tới. Nếu thực hiện đồng bộ các giải
pháp này sẽ tăng cường và nâng cao chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn vào
hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho cán bộ Đoàn các cấp và cán bộ,
công chức nhà nước của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước.
Chương 2: Thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên.
xiii
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm thanh niên
Theo từ điển Tiếng Việt: “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi
trưởng thành”[34, tr871]. Khái niệm này bao gồm hai ý: thanh niên là người
có độ tuổi còn trẻ và đang trưởng thành. Thanh niên có thể được hiểu là một
nhóm nhân khẩu – xã hội đặc thù, bao gồm những người trong một độ tuổi
nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có
mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và
giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai của xã hội. Điều này cũng
có nghĩa: Thanh niên không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội
đặc thù, có độ tuổi nhất định, có những đặc điểm đặc trưng khác với các lứa
tuổi khác về tâm lý, sinh lý, có tâm tư, nguyện vọng, có nhu cầu và hoài bão,
khát vọng theo lứa tuổi và giới.
Theo Luật Thanh niên năm 2005 tại điều 1 quy định: “Thanh niên là
công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi” [35].
1.1.2. Khái niệm công tác thanh niên
Theo từ điển Tiếng Việt thì công tác được hiểu là “công việc của nhà
nước, của đoàn thể” hoặc “thực hiện công việc của nhà nước, của đoàn thể”
[34, tr458]. Như vậy, công tác thanh niên có thể được hiểu là công tác của nhà
nước, của đoàn thể hay thực hiện công việc của nhà nước, đoàn thể về thanh
niên. Khái niệm này đúng, tuy nhiên chưa phản ánh được tính mục đích của
công tác thanh niên. Tại Việt Nam, công tác thanh niên là một bộ phận quan
trọng trong công tác quần chúng, bao gồm toàn bộ những hoạt động của
Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng và tạo xiv
điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng thành, phát huy mọi tiềm năng của
lực lượng thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy,
cũng có thể hiểu công tác thanh niên là sự tác động tổng hợp của các chủ thể
xã hội và một đối tượng cụ thể là thanh niên theo những mục tiêu xác định.
Từ những phân tích trên đây, công tác thanh niên được hiểu là hoạt
động có mục đích của tổ chức tác động vào đối tượng thanh niên nhằm giáo
dục, bồi dưỡng, định hướng và phát huy thanh niên, đáp ứng những đòi hỏi
nào đó của thanh niên và của xã hội. Công tác thanh niên là một hoạt động xã
hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh
niên, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển của thanh niên và yêu cầu
phát triển của xã hội.
1.1.3. Khái niệm công tác Đoàn
Công tác Đoàn là tổng thể các mặt hoạt động của Đoàn, do cấp bộ
Đoàn tổ chức, có tác động đến các đối tượng thanh thiếu nhi, nhằm mục tiêu
là hình thành lý tưởng chính trị cho thanh niên (tức là mục tiêu chính trị) và
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội của thanh niên, đáp ứng nhu cầu xã hội
của xã hội (tức là mục đích xã hội), góp phần giáo dục thanh niên trở thành
những công dân tốt, những người đoàn viên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh ưu tú và phát triển thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Công
tác Đoàn do Đảng lãnh đạo, là một bộ phận quan trọng của công tác Đảng.
Quan hệ công tác thanh niên và công tác Đoàn: Có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Công tác Đoàn là một bộ
phận quan trọng của công tác thanh niên, thực chất, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác Đoàn trở thành nồng cốt trong công tác thanh niên.
1.1.4. Khái niệm về cán bộ Đoàn
Quy chế cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh do Ban Bí thư Trung ương
Đảng ban hành đã quy định cán bộ Đoàn là: Những người giữ chức danh Bí
thư chi đoàn, Phó bí thư, Bí thư Đoàn cấp cơ sở trở lên; Những người làm
việc trong các cơ quan chuyên trách của Đoàn và trực tiếp làm công tác Đoàn, xv
Hội, Đội, phong trào TTN từ cấp huyện và tương đương trở lên; Trợ lý thanh
niên, cán bộ Ban thanh niên trong Quân đội nhân dân; ủy viên Ban công tác
thanh niên các cấp trong Công an nhân dân; Cán bộ Đoàn chuyên trách là
những người được hưởng lương để chuyên làm công tác Đoàn, Hội, Đội,
phong trào TTN.
1.1.5. Khái niệm về quản lý nhà nước
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của
cả bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà
nước là hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục
tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói
chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính
chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ
công tác nội bộ của mình, chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát
nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật
cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ… Quản lý nhà nước
theo nghĩa hẹp còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý, được sử dụng các
quyền lực nhà nước như lập pháp hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong đó, QLNN mang tính quyền lực đặc biệt là
tính tổ chức cao, và có mục tiêu chiến lược, chương trình kế hoạch để thực
hiện mục tiêu, hơn cả là QLNN ở Việt Nam mang nguyên tắc tập trung dân
chủ. QLNN không có sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý mà nó luôn đảm bảo tính liên tục, ổn định trong tổ chức [23, tr185].
xvi
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về vai trò của thanh niên và sự tham gia của Đoàn thanh niên
vào hoạt động quản lý nhà nước
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và sự tham
gia của Đoàn thanh niên vào hoạt động quản lý nhà nước
1.2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và công tác
thanh niên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là hệ
thống tư duy, quan điểm lý luận của người về những vấn đề quan trọng: Nhìn
nhận, đánh giá vai trò, vị trí của thanh niên trong tiến trình lịch sử qua các
thời kỳ cách mạng; đường lối nội dung bồi dưỡng, giáo dục – đào tạo thanh
niên thành lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc nhiệm
vụ công tác thanh niên của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là của Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, đội dự bị tin cậy của Đảng. Ngay từ khi đất nước còn
trong đêm đen nô lệ, Người đã nêu tư tưởng: “Thức tỉnh thanh niên để đi đến
thức tỉnh dân tộc”[27, tr82], vào những năm đầu khi nước ta giành được độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh
niên”[27, tr275]. Người cho rằng sự phát triển trong tương lai của đất nước và
tiền đồ vẻ vang của dân tộc nằm trong tay thanh thiếu nhi. Vì thế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “thanh niên phải tham gia ý kiến vào công việc của
chính phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện từ bây giờ để sau
này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác những việc trọng đại của nước
nhà”[25, tr29].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của thanh niên trên cả hai bình
diện xã hội và mối quan hệ kết nối quá khứ với tương là không thể tách rời
nhau: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”[26, tr315].
xvii
Vai trò này vô cùng quan trọng quyết định vận mệnh dân tộc và giai cấp công
nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận thanh niên theo quan điểm phát
triển và toàn diện. Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải tránh thái độ thành
kiến, hẹp hòi, bảo thủ, cô độc đối với thanh niên. Bởi theo người, thanh niên
sống trong điều kiện mới tất yếu có những nhu cầu, lợi ích khác với cha, anh
họ, không nên xem xét thanh niên một cách cứng nhắc, trước sao nay vậy.
Người nói: “cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của thanh niên và
giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực”[26, tr312].
Nội dung bao quát của công tác thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là hình thành “lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa
chuyên”[26, tr489]. “Hồng” theo tư tưởng của Người là “quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”; còn
“Chuyên” là trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự.
Để thực hiện nội dung và mục đích của công tác thanh niên không có cách
nào khác là giáo dục và tổ chức thanh niên. Vấn đề quan trọng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu là phải tổ chức thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu
chung quanh Đảng. Tổ chức tập hợp thanh niên là điều kiện để giáo dục và
ngược lại phải tiến hành đào tạo, giáo dục thanh niên qua tổ chức. Phải kiên trì
xây dựng một tổ chức thanh niên cộng sản làm đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Người còn căn dặn: “Phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết nội bộ
thật chặt chẽ và phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên”[27, tr165].
Theo Người, củng cố tổ chức đoàn là điều kiện tiên quyết để mở rộng mặt
trận đoàn kết tập hợp thanh niên. Nhưng muốn củng cố tổ chức đoàn thì trước
hết phải “đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ” để thống nhất ý chí và hành động
trong nội bộ Đoàn, làm cho tổ chức Đoàn thật sự là tổ chức của những thanh
niên tiên tiến, có lý tưởng cách mạng và phấn đấu kiên định vì lý tưởng đó.
Trong công tác xây dựng đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý về việc phải
xviii
phát triển đoàn viên về số lượng đồng thời phải coi trọng việc nâng cao chất
lượng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn phải ra sức
đoàn kết, tập hợp thanh niên thành một mặt trận rộng lớn. Theo Người, đoàn
kết tập hợp thanh niên là mặt công tác lớn, một nhiệm vụ rất quan trọng của
Đoàn. Người yêu cầu tổ chức Đoàn phải nghiên cứu tìm ra những hình thức
và phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng
rãi và vững chắc. Các hình thức và phương pháp đó vừa thu hút rộng rãi thanh
niên tham gia nhưng phải được định hướng vững chắc, nghĩa là có mục tiêu
phấn đấu rõ ràng, có tính ổn định và triển vọng phát triển.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là
sự tổng kết lý luận và thực tiễn được nâng lên tầm cao qua các thời kỳ cách
mạng, đang và sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng, tổ chức
thanh niên thành lực lượng cách mạng, phát huy mọi tiềm năng to lớn của
thanh niên vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
vì hạnh phúc, tương lai tương sáng của tuổi trẻ.
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tham gia của Đoàn thanh niên
vào hoạt động quản lý nhà nước
Đoàn thanh niên có nhiệm vụ phải quan tâm, chăm sóc, giáo dục và
quản lý thanh niên đồng thời tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già:
Người dạy: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên
già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [26,
tr315]. Sự phát triển của đất nước, dân tộc trong tương lai nằm trong tay thanh
thiếu nhi do đó vai trò “Dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” là vô cùng quan
trọng, quyết định vận mệnh của dân tộc và vận mệnh của giai cấp công nhân.
Bên cạnh đó, “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên
già” phản ánh một tất yếu trong lịch sử không thể tránh khỏi, đó là sự bàn
giao thế hệ. Mỗi thế hệ cách mạng chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của
xix
mình trong một chặng đường nhất định. Thế hệ đó tất yếu phải được thế hệ đi
sau tiếp bước và dần dần thay thế.
Công tác thanh niên “Phải liên hệ với lực lượng của chính phủ”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của Nhà nước trong công tác thanh
niên. Ngay sau Cách mạng Tháng tám, Người đã chỉ thị thành lập Bộ thanh
niên rồi Nha thanh niên trong Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ luôn
nhắc nhở các Bộ, ngành của Chính phủ ban hành những chính sách nhằm giải
quyết các vấn đề thuộc lợi ích chính đáng của thanh niên. Sự tăng cường quản
lý nhà nước về thanh niên luôn luôn cần thiết, đòi hỏi sự tham gia của các cấp
chính quyền, các tổ chức, đặc biệt là của Đoàn thanh niên cộng sản với trách
nhiệm là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên.
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của cán
bộ Đoàn và Đoàn Thanh niên trong hoạt động quản lý nhà nước
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng về vai trò của cán bộ Đoàn và Đoàn
Thanh niên trong hoạt động quản lý nhà nước
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đặt niềm tin vào thanh niên,
phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên, để thanh niên
thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để phát huy tiềm năng to lớn
đó, Đảng ta luôn luôn chú ý tới việc giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện thế hệ
thanh niên để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng cao đẹp, có ý
thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khỏe, lao động giỏi, sống có
văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Vì
thế, công tác thanh niên luôn được xác định là nhiệm vụ ưu tiên thực hiện của
Đảng và cả hệ thống chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn ghi nhận, đề cao vai
trò của thanh niên, đặt trọn niềm tin vào thế hệ trẻ. Lịch sử đã khẳng định vai xx
trò và vị trí của thanh niên, thanh niên là rường cột, là tương lai của đất nước.
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết
chuyên đề quan trọng về công tác thanh niên: Ngày 9/02/1991, Bộ Chính trị
ban hành Nghị quyết số 25 – NQ/TW về “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên”, nghị quyết có tầm quan trọng đặc
biệt, là điểm khởi đầu cho đường lối đổi mới của Đảng về công tác thanh niên
thời kỳ đổi mới; Năm 1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII được ban hành đã khẳng định “Công tác thanh
niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng”, đây là bước chuyển biến có tính đột phá, căn
bản trong nhận thức, chủ trương của Đảng đối với công tác thanh niên. Tháng
7/2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25 -
NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nghị quyết tiếp tục
khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của thanh niên đối với tương lai của
dân tộc và tiền đồ của cách mạng Việt Nam: “Thanh niên là rường cột của
nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước…là nhân tố quyết định sự thành
bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế
và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 44)
xác định: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của
Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt
trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền
lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”[18].
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH không chỉ là yêu cầu khách quan của tình hình thanh
niên và yêu cầu phát triển của đất nước, mà còn là yêu cầu chủ quan tự thân
của Đảng với vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội. Phải xây dựng được một
thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức và nhân cách, có tri thức, sức khoẻ xxi
và tư duy năng động, tiếp nối được truyền thống hào hùng của cha anh đi
trước, xứng đáng là những thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định
con đường XHCN, có “tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”, góp phần đi đầu
trong thực hiện CNH, HĐH đất nước, là lực lượng hùng hậu, trung thành, kế
tục sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
1.2.2.2. Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản
lý nhà nước
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thực tế khách quan và yêu cầu của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1945, Hồ Chí Minh khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ theo
chế độ cộng hòa, điều đó có nghĩa là tất cả các cơ quan quyền lực của nhà
nước đều do dân cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, Quốc hội là cơ quan
quyền lực cao nhất do nhân dân bầu ra. Trong nhà nước Việt Nam, người dân
là người làm chủ, có quyền cao nhất và cái quyền đó được người dân thực
hiện trực tiếp thông qua việc bầu cử, giám sát, bãi nhiệm, miễn nhiệm các cơ
quan dân cử; lập các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình
tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức
chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, có trách nhiệm tham gia quản lý
nhà nước để thanh niên có điều kiện tốt nhất thực hiện quyền dân chủ của
mình.
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thể chế chính trị Nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp
(2013, sửa đổi) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”, Điều 6 Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22]. Điều
đó có nghĩa là nhân dân, trong đó có thanh niên có quyền tham gia xây dựng xxii
Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và đề xuất với Nhà nước
nhựng vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại điều 28, Hiến
pháp (2013, sửa đổi) “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của
cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia
quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản
hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”[22]. Điều đó cũng có nghĩa là với tư cách
là công dân, thanh niên có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Thanh
niên thực hiện và phát huy quyền dân chủ của mình thông qua hai hình thức
cơ bản là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là mọi thanh niên có quyền tham gia bình đẳng và trực
tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước thông qua việc đóng góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật và thực hiện chính sách, pháp luật; tham gia giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân, tham
gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội … theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trực tiếp của
thanh niên còn thể hiện ở quyền làm chủ thông qua các hình thức tự quản.
Trong tính đặc thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam, thanh niên còn
tham gia hoạt động quản lý nhà nước thông qua cơ chế dân chủ đại diện, thông
qua tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Thông qua hình thức dân chủ đại diện
này, ý chí, nguyện vọng chính đáng của thanh niên được phản ánh đến các cấp,
các ngành để giải quyết. Cũng thông qua đó, phương châm “Dân biết, Dân bàn,
Dân làm, Dân kiểm tra” được thực thi ở cơ sở.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được Đảng xác định là đội dự bị tin cậy của
Đảng, là tổ chức đại diện cho quyền lợi của thanh niên. Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh cũng được Nhà nước xác định trong Hiến pháp là bộ phận của hệ thống
chính trị. Tại điều 9, Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Công đoàn Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã xxiii
hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ
chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[22]. Như vậy, việc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
tham gia hoạt động quản lý nhà nước không chỉ với tư cách là tổ chức thay
mặt, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên mà còn với tư
cách là bộ phận của hệ thống chính trị.
1.3. Tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống
chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể
lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ
chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước
và xã hội. Vì là đại diện cho bộ phận dân số đất nước, mà lại là lực lượng dân
số trẻ, sở hữu nguồn lực lao động dồi dào tạo thành sức mạnh trong tương lai
của đất nước cho nên Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức
xã hội chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi.
Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước Dân chủ, của dân, do dân và vì
dân do đó mọi sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đều là nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân. Do đó, khi
là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lực lượng thanh niên nước nhà thì
nhu cầu tham gia quản lý nhà nước là nhu cầu chính đáng, cũng là quyền và
nghĩa vụ của Đoàn Thanh niên phải thực hiện trước lực lượng người dân mà
mình đang đại diện. Trong nhiều lứa tuổi của cuộc sống con người, lứa tuổi
thanh niên là lúc con người ta mong muốn được nắm bắt nhiều thông tin, xxiv
được thể hiện, khát khao cống hiến mạnh liệt, và là sự nỗ lực để tạo ra điểm
tựa vững chắc cho tương lai của con người đó. Do đó, nếu Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh không làm tốt công tác tham gia các hoạt động quản
lý nhà nước để qua đó tạo điều kiện cho thanh niên tham gia các hoạt động
quản lý nhà nước thì đã không thực hiện một trong những nhiệm vụ quan
trong nhất của tổ chức Đoàn, do đó sẽ bị đào thải khỏi vai trò là trường học xã
hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam, là lực lượng nòng cốt chính trị trong
phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên Việt Nam.
Tóm lại, qua các phân tích trên đây, có thể rút ra một số kết luận sau:
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý Nhà
nước về công tác thanh niên là cần thiết và khách quan, phù hợp với thể chế
chính trị cũng như đặc điểm đặc thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam, dựa trên
nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định, được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định.
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước là góp phần tích cực chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thanh niên, thúc đẩy công tác thanh niên của Đảng và Nhà nước, khẳng định
tính ưu việt của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và tham gia xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tham gia vào các hoạt động quản lý nhà
nước về công tác thanh niên nói riêng và các mảng công tác khác nói chung là
sự đảm bảo cho tính công bằng trong chính sách, pháp luật và thể chế, góp
phần đa dạng hóa nhiều góc nhìn nhằm giúp cho việc xây dựng chính sách,
pháp luật và thể chế mang tính bao quát và toàn diện hơn.
xxv
1.4. Nội dung tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước
1.4.1. Tham gia tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của
Nhà nước
Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật luôn có vị trí và
vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo dục, là trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức,
đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành
động của từng chủ thể trong xã hội. Đối với tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, công tác giáo dục pháp luật cho đoàn viên, thanh niên là
một trong những nội dung quan trọng không thể thiếu trong việc bồi dưỡng,
phát triển thanh, thiếu nhi Việt Nam; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục -
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, đại bộ phận thanh niên hiện nay có nhận thức và thái độ
chính trị đúng đắn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, kiên quyết chống lại
những biểu hiện sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình”. Tuy nhiên, bên cạnh
đó vẫn còn một bộ phận thanh niên thiếu ý chí phấn đấu, thờ ơ với các hoạt
động chính trị, các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội, một bộ phận thanh
niên có tư tưởng sống thực dụng, thiếu nghiêm túc trong thực hiện nghĩa vụ
công dân. Tình trạng thanh niên vi phạm pháp luật, mắc các tệ nạn xã hội
như: ma túy, cờ bạc… có chiều hướng diễn biến rất phức tạp vì tính chất và
thủ đoạn hoạt động ngày càng nghiêm trọng, tinh vi, xảo quyệt… Từ sự phân
tích đặc điểm trên cùng với việc ý thức được trách nhiệm, vai trò của mình, để xxvi
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong giai đoạn mới tổ chức Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh cần luôn chủ động nghiên cứu, tìm tòi những mô hình mới góp
phần xây dựng ý thức công dân; đảm bảo mọi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đều được phổ biến kịp thời, đầy đủ đến toàn
thể đoàn viên thanh niên phố, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và ý
thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của tuổi trẻ.
Thực tế cho thấy hiện nay việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, tuy đã có nhiều đổi mới song điều kiện phục vụ cho buổi tuyên truyền,
nhất là tuyên truyền trên hội nghị còn những hạn chế nhất định, nhiều nội dung
tuyên truyền, báo cáo viên pháp luật mang tính lý thuyết chưa đưa ra các tình
huống cụ thể để đoàn viên, thanh niên cùng xử lý, thực hành và nhận diện đúng
sai để hiểu vấn đề một cách thấu đáo. Cần thiết đa dạng các hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được
phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc. Việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật phải được thực hiện kịp
thời, có trọng tâm, có trọng điểm, xác định đối tượng cụ thể và gắn chặt với
nhiệm vụ chính trị, có thể tập trung tuyên truyền theo thời gian hoặc không
gian cụ thể,… Ngoài ra, chủ động lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật
trong các buổi sinh hoạt chủ điểm chi đoàn; tuyên truyền tại tại khu tập trung
đông người. Đồng thời, hiện đại hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Mặt khác, tăng cường hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông; phát huy kênh thông tin tuyên truyền thường xuyên thông qua
các cơ quan thông tin, … để tạo nên sự tương tác với đoàn viên, thanh niên
trong công tác giáo dục pháp luật, tránh tuyên truyền mang tính áp đặt, nhàm
chán, đơn điệu. Sử dụng mạng xã hội như một công cụ để góp phần nắm bắt
những diễn biến tình hình trong thanh niên, tuyên truyền, phổ biến pháp luật
thông qua các bộ ảnh, các đoạn phim ngắn đánh sâu vào nhận thức của thanh
niên, đây là cách nhanh nhất, ít tốn kém nhưng hiệu quả lại rất cao.
xxvii
Vấn đề tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chính trị tư tưởng cho đoàn
viên thanh niên trong giai đoạn mới là nhiệm vụ chính trị quan trọng bật nhất
của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh do đó lực lượng cán bộ Đoàn có bản
lĩnh chính trị vững vàng, “chịu” tiếp cận gần và nhanh với đoàn viên, thanh
niên là chìa khóa tiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, xem đó là một
trong những tiêu chí của cuộc vận động “Xây dựng hình mẫu cán bộ Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” và phong trào “3 trách nhiệm” (Trách
nhiệm với công việc, trách nhiệm với nhân dân, trách nhiệm với chính mình).
1.4.2. Tham gia xây dựng pháp luật và các cơ chế, chính sách của
Nhà nước
Tại điều 28, Hiến pháp (2013, sửa đổi) “1. Công dân có quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan
nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo
điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”[22]. Với tư
cách là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của thanh niên tổ chức
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có trách nhiệm tham gia xây dựng pháp luật và các
cơ chế, chính sách của Nhà nước. Theo đó, nghị quyết liên tịch về ban hành
quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban chấp hành Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2022 đã xác định vai trò của Trung
ương Đoàn trong việc phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ trực thuộc chính
phủ và chính phủ, trong đó có các nội dung quan trọng: Phối hợp, đẩy nhanh
tiến độ sửa đổi, bổ sung Luật Thanh niên 2005 sớm trình Quốc hội xem xét,
ban hành đồng thời nghiên cứu cơ chế, chính sách mới, hoàn thiện hệ thống
cơ chế để khuyến khích thanh niên khởi nghiệp, tạo điều kiện cho thanh niên
phát huy vai trò kiến thiết xã hội, nâng cao vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh
niên đây là bước tiếp hết sức quan trọng, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho
các hoạt động của thanh niên cũng như của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; Thông qua các cơ chế chính sách, cụ thể hóa thành hành động để xxviii
thúc đẩy tinh thần xung kích của thanh niên trong tham gia cải cách hành
chính nhà nước, xây dựng công sở văn minh – hiện đại góp phần xây dựng
Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động, phục vụ người dân và doanh
nghiệp; Song song với việc tạo điều kiện và khuyến khích cho thanh niên,
Đoàn Thanh niên các cấp phát huy trò nòng cốt của mình, Chính phủ đề nghị
Trung ương Đoàn tham gia nghiên cứu, đề xuất hoặc góp ý xây dựng, sửa đổi
bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách cho thanh niên
và công tác thanh niên đồng thời chỉ đạo UBND các cấp phối hợp với các cấp
bộ Đoàn tích cực tham gia vào việc xây dựng các chương trình, kế hoạch phát
triển công tác thanh niên; Tạo điều kiện cho các cấp bộ Đoàn tham gia kiểm
tra, giám sát, phản biện xã hội đối với các hoạt động hành chính, nhà nước
của Chính phủ, các bộ, ngành, UBND các cấp, phát huy mạnh mẽ vai trò này
của Đoàn thanh niên tức là phát huy vai trò làm chủ của nhân dân vì thanh
niên là một bộ phận quan trọng trong xã hội.
Cán bộ Đoàn khi tham gia vào công tác xây dựng pháp luật, chính sách
cần phải là người am hiểu, thấu tình đạt lý, có cách nhìn khách quan nhất, có
tư duy đi trước thời đại. Trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật là
việc của một nhóm người trực tiếp thực hiện nhưng khi thông qua thì nó sẽ
tác động đến nhiều đối tượng mà nó tác động một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, trong thời gian dài do đó chắc chắn sẽ bị chi phối bởi tư duy lợi ích hoặc
không thì sự phiến diện có thể ưu ái cho một nhóm đối tượng nào đó. Do vậy,
khi tham gia góp ý pháp luật, xây dựng cơ chế, chính sách từ trung ương đến
địa phương cần luôn luôn đề cao lợi ích của tổ chức mà mình đang đại diện
đó là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, trong đó có các nhóm đối tượng thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng, hơn hết là lợi ích của quốc gia, dân tộc nhằm góp phần
xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra, người cán bộ Đoàn là người trẻ
luôn luôn biết cập nhật kiến thức, những sự vận động của xã hội, học tập
những điều tiến bộ trong cơ chế, chính sách, pháp luật của những nơi khác
xxix
nhằm kịp thời tham mưu các cấp ủy đảng, chính quyền có sự điều chỉnh nhằm
phù hợp với xu thế mới.
1.4.3. Tham gia xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán
bộ, công chức
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “Cán bộ là cái gốc của
mọi việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Thực hiện lời dạy của Người, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng tới công tác tổ chức cán bộ, coi đây là khâu quan trọng nhất
trong việc thiết kế cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành của các tổ chức Đảng và
chính quyền, đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng ta luôn thấm
nhuần quan điểm “Đảng lãnh đạo thông qua công tác cán bộ”, cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, nhất thiết
nhiệm vụ nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ tổ chức phải được đặt
lên hàng đầu.
Một trong năm mục tiêu quan trọng của Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân và sự phát triển của đất nước”[13]; Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ
công vụ, công chức cũng xác định mục tiêu: xây dựng một nền công vụ “chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”. Tổ chức Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên, là trường học
xã hội chủ nghĩa, cán bộ Đoàn cần phải là những người tiên phong trong công
cuộc đổi mới, cần có thái độ tích cực trong học tập và nâng cao trình độ để đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, tiếp tục trau dồi bản
lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng nhằm luôn kiên định với mục tiêu của Đảng,
Bác Hồ và nhân dân đã chọn, ra sức bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ chế độ xã xxx
hội chủ nghĩa; Là những người trẻ, cần phải tiếp cận nhanh với sự biến chuyển
và vận động của xã hội, tích cực tham gia xây dựng chính phủ điện tử, sự phát
triển của thời đại khoa học công nghệ 4.0.
1.4.4. Tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và của địa phương
Để thanh niên tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội một cách chủ
động, tự giác, Đoàn tham gia phát động các phong trào thi đua trong lao đông
sản xuất, trong học tập, nghiên cứu, xung kích đi đầu trên các lĩnh vực hoạt
động kinh tế, đặc biệt là trong các ngành, nghề mới, các ngành mũi nhọn và
công nghệ cao và các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Căn cứ vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các
địa phương, Đoàn có kế hoạch hoạt động cụ thể để một mặt phát huy tính
sáng tạo của thanh niên, mặt khác có sự hỗ trợ cụ thể, thiết thực như: hỗ trợ
cho thanh niên về khoa học, công nghệ, cách thức làm ăn, tín chấp vay vốn
sản xuất… Đoàn Thanh niên không những giúp thành viên trong tổ chức
Đoàn, Hội tham gia phát triển kinh tế, mà còn tác động tích cực đến đông đảo
các lực lượng thanh niên thông qua các phong trào thanh niên làm kinh tế giỏi
trên phạm vi cả nước. Với mỗi đối tượng thanh niên, Đoàn tham gia với chính
quyền địa phương hoặc lãnh đạo Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị có các nội dung,
hình thức vận động khác nhau:
Trong thanh niên nông thôn: hoạt động của Đoàn Thanh niên chủ yếu
hướng vào tham gia xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học vào nông nghiệp, nông thôn,
phát triển các mô hình câu lạc bộ khuyến nông, hợp tác xã thanh niên, câu lạc
bộ khoa học kỹ thuật trẻ, hướng dẫn các cơ sở Đoàn đảm nhận các công trình
thanh niên, tổ chức các hoạt động tình nguyện tham gia cùng ngành công
nghiệp và chính quyền huyện, xã phòng chống thiên tai, lụt bão, cứu trợ, cứu
nạn, bảo vệ môi trường sinh thái…
xxxi
Trong thanh niên công nhân, công chức, viên chức: Đoàn Thanh niên
tham gia qua việc đẩy mạnh phong trào thi đua tay nghề giỏi, phong trào “3
trách nhiệm”… với mục đích giúp đoàn viên thanh niên nâng cao trình độ tay
nghề, chuyên môn, nghiệp vụ để tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, hạ
giá thành sản phẩm, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu phát huy sáng kiến,
cải tiến khoa học kỹ thuật, hướng dẫn đảm nhận các công trình thanh niên.
Trong thanh niên lực lượng vũ trang: Đoàn Thanh niên vận động và cổ
vũ các đơn vị kinh tế quốc phòng, các doanh nghiệp, các đơn vị quân đội tích
cực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có những đóng góp quan trọng trong
sản xuất, bảo quản, giữ gìn vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật của quân đội, tham
gia phát triển kinh tế - xã hội địa phương nơi đóng quân và các khu vực, địa
bàn khó khăn. Triển khai nhiều giải pháp góp phần xây dựng phong trào, tổ
chức các hoạt động tạo môi trường cổ vũ, phát huy tinh thần sáng tạo của
đoàn viên, thanh niên như phong trào “Thanh niên quân đội tiến quân vào
khoa học và công nghệ” và chương trình “Tuổi trẻ công an nhân dân tiến
quân vào khoa học công nghệ”.
Trong doanh nghiệp trẻ: Đoàn tham gia tạo môi trường, khuyến khích
hình thành đội ngũ doanh nhân trẻ, khuyến khích thanh niên tham gia sản xuất
kinh doanh, làm giàu, tích cực hỗ trợ các ý tưởng khởi nghiệp, tổ chức nhiều giải
thưởng và các hoạt động gặp gỡ tôn vinh doanh nghiệp trẻ tiêu biểu hàng năm.
1.4.5. Tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Thực hiện quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị
“về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội”. Theo đó, các đoàn thể chính trị - xã
hội chủ trì giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) đồng
thời chủ trì phản biện xã hội đối với các văn bản dự thảo về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực xxxii
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, chức
năng, nhiệm vụ của đoàn thể mình; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với những nội dung có liên quan. Đối tượng
giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, và cá nhân là các
cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Việc thực hiện trách nhiệm giám sát và phản biện xã hội của Mật trận
và các Hội, Đoàn thể nhằm mục đích và tính chất sau:
Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện
những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính
sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích
cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát,
chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng,
Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch
định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội.
Giám sát và phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tính xây dựng, tính khoa học và thực tiễn.
Đúng như phương châm mà Đảng ta đã xác định: Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân chính là thể
hiện tư tưởng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tại Đại hội lần thứ
XII, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy xxxiii
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên
quan đến lợi ích cuộc sống của nhân dân”[19, tr38].
Tuy nhiên, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” xét theo tổng
thể quy trình quản lý hay trong từng công đoạn cũng có nhiều vấn đề đặt ra.
Hiện nay, quyền của nhân dân còn bị hạn chế, trách nhiệm của Nhà nước, của
Đảng chưa cao, trên một số mặt, một số lĩnh vực “nhân dân chưa được
hưởng thụ đầy đủ, công bằng”. Điều này là trách nhiệm của toàn hệ thống
chính trị trong việc thực hiện nghiêm túc tính “dân chủ” trong điều hành,
lãnh đạo chỉ đạo của Đảng, tổ chức thực thi các chính sách của Nhà nước, và
đó cũng làm trách nhiệm trong việc thiếu phát huy tinh thần dân chủ trong các
bộ phận nhân dân là Đoàn viên, Hội viên mà các Hội, Đoàn thể chính trị xã
hội đang đại diện.
Ngoài việc cần được tiếp cận thông thực hiện nhiệm vụ giám sát và
phản biện xã hội. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cần thể hiện rõ hơn nữa vai trò
của mình trong việc khơi dậy quyền làm chủ của Đoàn viên, Thanh niên, cần
tổ chức nhiều diễn đàn, nhiều kênh thông tin để tiếp cận và truyền tải những ý
kến của thanh niên đến với các cơ quan chức năng, nêu lên tiếng nói của lớp
trẻ trong công cuộc dưng xây đất nước. Muốn thế, mỗi cán bộ Đoàn phải là
người tổng hợp truyền đạt thông tin từ Đoàn viên, Thanh niên lên cấp trên
cũng như là phản ánh một cách trung thực những ý kiến chính đáng với Đảng
ủy, UBND cùng cấp đồng thời có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tiến độ triển
khai thực hiện để trả lời cho Đoàn viên, Thanh niên biết, muốn thế cán bộ
Đoàn phải được trau dồi bản lĩnh, có chính kiến, mạnh dạn đưa ra những ý
kiến của cá nhân hoặc của Đoàn viên, Thanh niên nhờ mình gửi gắm đến cơ
quan chức năng, đồng thời cấp ủy cần tạo điều kiện một cách thực sự, khuyến
khích những ý kiến nhiều chiều để qua đó nhận xét, sàng lọc và sữa chữa
nhằm phát triển đơn vị, địa phương.
xxxiv
1.5. Các yếu tố bảo đảm sự tham gia của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà
nước xuất phát từ thể chế chính trị Nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp
(2013, sửa đổi) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”, Điều 6 Hiến pháp (2013, sửa đổi) “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[22]. Điều
đó có nghĩa là nhân dân, trong đó có thanh niên có quyền tham gia xây dựng
Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và đề xuất với Nhà nước
những vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tại điều 28, Hiến
pháp (2013, sửa đổi) “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của
cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia
quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản
hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”[22]. Điều đó cũng có nghĩa là với tư cách
là công dân, thanh niên có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Thanh
niên thực hiện và phát huy quyền dân chủ của mình thông qua 2 hình thức cơ
bản là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Luật Thanh niên 2005 (Điều 4) quy định về trách nhiệm của Nhà nước,
gia đình và xã hội đối với thanh niên: “1. Thanh niên là tương lai của đất
nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy
thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội; 2. Nhà nước có
chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển
thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân,
ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh…” và (Điều 16) quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong xxxv
quản lý nhà nước và xã hội: “….; 2. Được ứng cử, đề cử vào Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật; được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan, tổ chức về những vấn đề mà mình quan
tâm; tham gia góp ý xây dựng các chính sách, pháp luật liên quan đến thanh
niên và các chính sách, pháp luật khác”[35].
Luật Cán bộ, Công chức 2008 (Điều 4) quy định:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; …; 3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau
đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí
thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công
chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.[37]. Như vậy, Bí thư Đoàn các Xã,
Phường, Thị trấn và người làm công tác Đoàn từ cấp huyện trở lên được gọi
là Cán bộ (trừ những người làm việc trong các cơ quan của Đoàn theo dạng
hợp đồng công việc) và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 44) xác định: “Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ
sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên;
là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”[18]
Căn cứ quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị
"Về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ xxxvi
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội". Theo đó, các đoàn thể chính trị - xã
hội chủ trì giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mất quốc gia) đồng
thời chủ trì phản biện xã hội đối với các văn bản dự thảo về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, chức
năng, nhiệm vụ của đoàn thể mình; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với những nội dung có liên quan. Đối tượng
giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở và cá nhân là các
cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm
lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh
niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội”[20, tr2].
Từ những căn cứ, quy định trên đây khẳng định rằng sự tham gia của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước là một thực tế
khách quan và là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đoàn, đối với
Cán bộ Đoàn thì đây là quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ. Để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ đó, sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và cán bộ
Đoàn vào các hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành thông qua các hoạt
động cơ bản sau:
Tham gia vào việc thành lập các cơ quan nhà nước.
Tham gia nghiên cứu, dự báo tình hình thanh niên.
Tham gia xây dựng và phản biện xã hội đối với các dự thảo chính sách,
pháp luật; tham gia bàn bạc và quyết định các vấn đề liên quan đến thanh niên
và công tác thanh niên trong các cuộc họp, hội nghị của Chính phủ, HĐND, xxxvii
UBND các cấp; Tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước.
Vận động, hướng dẫn, tổ chức cho thanh niên xung kích thực hiện các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, phối hợp với các cấp, các ngành chăm lo giải
quyết các kiến nghị, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thanh niên.
Thực hiện các hoạt động đối ngoại về mặt nhà nước trong lĩnh vực
thanh niên.
Tiểu kết chương 1
Qua những phân tích, dẫn chứng, nêu các cơ sở lý luận về sự tham gia
của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước có thể
rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý Nhà
nước là cần thiết và khách quan, phù hợp với thể chế chính trị cũng như đặc
thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định,
được Hiến pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đây là nhiệm vụ quan trọng
của Đoàn, góp phần tích cực chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thanh niên, thúc đẩy công tác thanh niên của Đảng và Nhà nước, khẳng định
tính ưu việt của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Xác định vị trí, vai trò của cán bộ Đoàn vừa là lực lượng cán bộ kế cận
cho công tác xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tương lai, mặt khác là đại diện
cho tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan
trọng trong đó có nhiệm vụ tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, đóng
vai trò “Thủ lĩnh” thanh niên dẫn dắt các hoạt động phong trào, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng, lý tưởng sống cho thanh niên, thay mặt lực lượng thanh
niên thực hiện quyền và nghĩa vụ tham gia các hoạt động quản lý nhà nước
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng và góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Chất lượng của sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động
quản lý nhà nước phụ thuộc lớn vào chất lượng của cán bộ Đoàn.
xxxviii
Chương 2
THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên.
2.1.1. Tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Phú Yên
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
tỉnh Phú Yên
Tỉnh Phú Yên có diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.060 km2, trong đó đồi
núi chiếm 70% diện tích, địa hình dốc từ Tây sang Đông và bị chia cắt mạnh,
phía bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp tỉnh Khánh hòa, phía tây giáp
tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk. Tỉnh có 09 đơn vị hành chính, gồm 07 huyện Đồng
Xuân, Sông Hinh, Sơn Hòa, Tây Hòa, Phú Hòa, Đông Hòa, Tuy An, 01 thị xã
là Sông Cầu và 01 thành phố là Tuy Hòa. Dân số trung bình tính đến năm
2016 là 900.000 người, mật độ dân số khoảng 172 người/km 2. Tổng số lao
động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh Phú Yên là 498.710 người
(Trong đó, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là 295.236
người chiếm 59,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng là 81.789 người chiếm
16,4%; khu vực dịch vụ là 121.685 người chiếm 24,4% tổng số lao động làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân).
Hiện nay, thanh niên Phú Yên (16-30 tuổi) có 190.822 người chiếm tỷ
lệ 21,25% dân số toàn tỉnh, trong đó có 50.944 Đoàn viên và trên 87.000 Hội
xxxix
viên (Hội viên trực thuộc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh Phú Yên
quản lý), tỷ lệ đoàn kết tập hợp thanh niên là 50,7% [15].
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên (Tỉnh đoàn Phú
Yên) gồm có 19 cơ sở Đoàn và 02 đơn vị sự nghiệp trực thuộc gồm có:
09 cơ sở Đoàn các huyện, thị, thành phố.
03 cơ sở Đoàn các đơn vị lực lượng vũ trang (Đoàn công an tỉnh, Đoàn
Ban chỉ huy quân sự tỉnh, Đoàn Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh).
01 Đoàn khối các cơ quan tỉnh.
01 Đoàn khối doanh nghiệp tỉnh.
05 Đoàn trường Đại học, Cao đẳng (Đoàn trường Đại học Phú Yên,
Đoàn trường Học viện Ngân hàng phân viện Phú Yên, Đoàn trường Đại học
Xây dựng Miền trung, Đoàn trường Cao đẳng công thương miền trung, Đoàn
trường Cao đẳng Y tế).
02 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh đoàn: Trung tâm hoạt động Thanh
Thiếu nhi Phú Yên, Trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên Phú Yên.
Tỉnh đoàn Phú Yên có 06 Ban giúp việc, gồm có: Ban tổ chức kiểm tra,
Ban tuyên giáo, Ban đoàn kết tập hợp thanh niên, Ban thanh niên nông thôn
công nhân đô thị, Ban thanh thiếu nhi trường học, Văn phòng.
Toàn tỉnh có tổng cộng 338 cơ sở Đoàn (Đoàn các Xã, Phường, Thị
trấn; các chi Đoàn, Đoàn cơ sở trực thuộc 19 đơn vị Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn) trong đó 112 Đoàn các Xã, Phường, Thị trấn trực thuộc Đoàn các
Huyện, Thị, Thành phố; 55 cơ sở Đoàn trực thuộc các đơn vị Đoàn khối lực
lượng vũ trang; 136 Chi đoàn, Đoàn cơ sở trực thuộc Đoàn khối các cơ quan
và Đoàn khối Doanh nghiệp; 35 cơ sở Đoàn trực thuộc Đoàn khối các trường
Đại học, Cao đẳng.
xl
Tỉnh đoàn Phú Yên
19 Đoàn huyện, thị, thành phố và tương đương
Các Ban chuyên môn và đơn vị sự nghiệp
Biểu đồ 2.1.1: Khái lược về cơ cấu Tỉnh đoàn Phú Yên
338 cơ sở Đoàn
Sơ đồ 2.1. Khái lược về cơ cấu tổ chức của cơ quan Tỉnh đoàn Phú Yên
và hệ thống Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên
2.1.1.2. Hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh
Phú Yên
Đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, mở ra cho người trẻ nhiều
cơ hội phát triển. Vai trò tiên phong sáng tạo, tình nguyện của thanh niên trong
xây dựng và bảo vệ tổ quốc đang được khuyến khích và đề cao, cùng với đó là
những vấn đề của giới trẻ cũng đa dạng hơn, đặt ra nhiều thách thức cần sự quan
tâm và giải quyết của hệ thống chính trị trong đó có tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh. Lịch sử hình thành và phát triển của Đoàn Thanh niên cho thấy, chỉ khi
nào phong trào hành động cách mạng xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cuộc
sống, đáp ứng được niềm tin, kỳ vong của Đảng và nhân dân, phù hợp với lợi ích
chính đáng và khát vọng cao đẹp của thanh niên thì phong trào mới thực sự hiệu
quả, tổ chức Đoàn mới lớn mạnh và trưởng thành.
Trong nhiệm kỳ 2012 – 2017, dưới sự lãnh đạo, dìu dắt của Đảng và sự
giáo dục, rèn luyện của Đoàn Thanh niên, tuổi trẻ Phú Yên luôn nêu cao tinh
xli
thần yêu nước, sẵn sàng dấn thân vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân
tộc, tiếp nối truyền thống vẻ vang của cha anh, xung kích đi đầu trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Các phong trào hành động cách mạng của
tuổi trẻ tỉnh nhà được triển khai ngày càng sâu rộng, hiệu quả, đóng góp tích
cực vào sự phát triển của tỉnh nhà, được sự quan tâm và tạo điều kiện của các
cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp của mặt trận và các đoàn thể do đó
công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh nhà đã có những bước
chuyển biến tích cực, từng bước đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động sát với khả năng, nguyện vọng và quyền lợi của tuổi trẻ, qua đó tập hợp
ngày càng đông đảo đoàn viên, thanh thiếu nhi tích cực tham gia thực hiện
các phong trào hành động cách mạng, có nhiều sáng tạo và đột phá, để lại ấn
tượng tốt đẹp trong đời sống xã hội.
Đặc biệt, thông qua hai phong trào hành động cách mạng lớn của Đoàn
là “xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc” và
“đồng hành với thanh niên trong lập thân, lập nghiệp”, hơn 320.000 lượt
đoàn viên, thanh niên trong tỉnh đã thực hiện nhiều công trình, phần việc
thanh niên có ý nghĩa thiết thực như: Phối hợp làm mới 277km đường bê tông
nông thôn, lắp đặt gần 6.500 bóng điện thắp sáng đường quê, hẻm phố, đóng
góp hơn 38.000 ngày công lao động công ích; tạo điều kiện cho hàng nghìn
học sinh, sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ nghề nghiệp và
hướng nghiệp, giới thiệu việc làm…
Chất lượng tổ chức cơ sở, chất lượng cán bộ, chất lượng đoàn viên, hội
viên, đội viên được nâng lên, cơ sở Đoàn các cấp có nhiều đổi mớ trong hoạt
động, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; số thanh niên được
tập hợp, số đoàn viên, đội viên mới được kết nạp tăng qua các năm, góp phần
củng cố và phát huy vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Đoàn trong việc mở
rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh. Cùng với các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, đội ngũ
cán bộ Đoàn ngày càng được trẻ hóa, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, xlii
bản lĩnh chính trị ngày càng cao và trở thành nguồn cán bộ trẻ của Đảng,
chính quyền các cấp.
Trong nhiệm kỳ 2017 – 2022 và thời gian tới, công tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu nhi tỉnh nhà tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng
tâm sau:
Trước những biến động của tình hình trong nước và quốc tế, đòi hỏi
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải kiên trì, sáng tạo trong việc thực hiện chức
năng trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên. Các cấp bộ Đoàn tỉnh Phú
Yên tiếp tục thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận
thức, bản lĩnh chính trị của thanh niên và triển khai có hiệu quả việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với triển khai
thực hiện chương trình hành động của Đoàn thực hiện chỉ thị 42 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hóa cho thế hệ trẻ giai
đoạn 2015-2030”. Tiếp tục xây dựng và triển khai các tiêu chí, chuẩn mực
trong hành vi, lối sống, ứng xử của thanh thiếu nhi trên nền tảng giá trị cốt lõi
của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đề cao trách nhiệm nêu
gương, tự giác học trước, làm theo trước của cán bộ Đoàn chủ chốt các cấp.
Triển khai các giải pháp thiết thực, phù hợp để giáo dục truyền thống cách
mạng, lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc cho thanh thiếu nhi của tỉnh.
Nâng cao chất lượng nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, định hướng
dư luận xã hội trong thanh thiếu nhi. Bên cạnh việc tăng cường công tác tuyên
truyền miệng và nâng cao chất lượng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên ở cơ sở cần chú ý công tác tuyên truyền trên các diễn đàn mạng. Chú
trọng phát hiện, tuyên dương những tấm gương điển hình tiên tiến, người thật
việc thật để lan tỏa những gương sáng trong các tập thể thanh thiếu niên, góp
phần hình thành lớp thanh niên Phú Yên có trí thức, có văn hóa, có trách
xliii
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sẵn sàng dấn thân vì sự nghiệp phát
triển tỉnh nhà.
Phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò xung kích, sáng tạo của những
người trẻ tham gia phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích thanh niên trong lập
nghiệp, khởi nghiệp và tạo mọi điều kiện, cơ hội chăm lo thanh niên vươn lên
trong cuộc sống. Do đó, các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh sẽ tập trung triển
khai có hiệu quả 03 phong trào hành động cách mạng và 03 chương trình
đồng hành với thanh niên, là nền tảng để thực hiện nhiệm vụ thành công, các
chương trình, phong trào cần tập trung khắc phụ biểu hiện dàn trải, hình thức,
thiếu hấp dẫn, thiếu tính kiên trì. Phong trào phải thu hút đông đảo đoàn viên,
thanh niên tham gia, kết quả phải có tính bền vững, các chương trình phải
hướng đến hỗ trợ, chăm lo những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, thiết
thực nhất của thanh niên trong học tập, việc làm, khởi nghiệp, lập nghiệp, vui
chơi giải trí. Phú Yên có diện tích kéo dài dọc biển, số lượng người dân và
đơn vị hành chính gắn với biển cao do đó trong quá trình lao động, sản xuất,
nhiều thanh niên ngư dân của tỉnh đang là những cột mốc sống trên vùng biển
đảo, thiêng liêng của tổ quốc. Đoàn thanh niên tỉnh Phú Yên cần đặc biệt
quan tâm xây dựng các giải pháp để biến phong trào tuổi trẻ xung kích bảo vệ
tổ quốc, bảo vệ biên giới biển đảo là một điểm trọng tâm. Bên cạnh đó, phối
hợp chặt chẽ với các lực lượng xã hội, khai thác nguồn lực để tổ chức các
công trình thanh niên, các hoạt động phát triển thể chất, nâng cao đời sống
văn hóa tinh thần cho thanh niên, tiếp tục chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đào tạo nghề, hỗ trợ vay vốn để giúp thanh niên phát triển kinh tế.
Tập trung các giải pháp xây dựng Đoàn vững mạnh về tư tưởng chính trị,
tổ chức và hành động, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Kiên trì và nghiêm túc triển khai chương trình rèn luyện đoàn viên để
đảm bảo kết quả rèn luyện đoàn viên là sự phản ánh trung thực chất lượng đoàn
viên trên thực tế. Tính tiên phong, gương mẫu, bản lĩnh chính trị của đoàn viên
cần phải có giải pháp mới để bồi đắp, thúc đẩy để đoàn viên thực sự trở thành xliv
nồng cốt chính trị trong phong trào thanh thiếu nhi. Đồng thời, cần xây dựng và
triển khai các giải pháp đột phá nâng cao chất lượng đoàn cơ sở và chi đoàn.
Nâng cao chất lượng cán bộ đoàn, cần coi trọng công tác tạo nguồn, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn đáp ứng yêu cầu công tác trong thời kỳ mới,
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp trong tỉnh có chất lượng, có
nhiệt huyết, có uy tín, giỏi kỹ năng, nghiệp vụ, gắn bó với thanh niên, sâu sát
cơ sở, làm việc chủ động, sáng tạo, sẵn sàng đảm nhận việc mới, việc khó, thể
hiện rõ vai trò thủ lĩnh thanh niên và là hạt nhân của công tác đoàn kết, tập hợp
thanh niên các dân tộc trên địa bàn tỉnh Phú Yên, thực hiện chế độ đi cơ sở đối
với với cán bộ để nắm chắc tình hình thanh thiếu nhi.
2.1.2. Cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú
Yên
Thực hiện quyết định số 372-QĐ/TU ngày 14/3/2011 của BTV Tỉnh ủy
Phú Yên "Về việc ban hành quy chế cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tỉnh Phú Yên" áp dụng cho những đối tượng sau đây làm cán bộ
hoạt động trong hệ thống tổ chức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Phú Yên trực tiếp thực hiện công tác vận động, giáo dục thanh
thiếu nhi theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và Điều lệ Đoàn (gọi tắt là cán bộ Đoàn):
Là những người giữ chức danh bí thư, phó bí thư chi đoàn; bí thư, phó
bí thư đoàn cấp cơ sở trở lên.
Là những người làm việc trong các cơ quan chuyên trách của Đoàn và
trực tiếp làm công tác Đoàn, Hội, Đội, phong trào thanh thiếu nhi từ cấp
huyện và tương đương trở lên.
Là trợ lý Thanh niên trong các cơ quan quân sự tỉnh, Ủy viên Ban công
tác Thanh niên công an tỉnh.
Tiêu chuẩn chung của người cán bộ Đoàn được cụ thể hóa theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hàn Trung ương Đảng (khóa
VIII) là:
xlv
Có tinh thần yêu nước, trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện tốt chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung
thực, không cơ hội; nhiệt tình, năng động, sáng tạo, có khả năng tổ chức tập
hợp, gắn bó mật thiết và được đoàn viên, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và
nhân dân tính nhiệm.
Có trình độ hiểu biết và lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; trình độ học vấn, chuyên môn,
ngoại ngữ, tin học phù hợp với yêu cầu của vị trí công tác được giao, trưởng
thành từ phong trào Đoàn, Hội, Đội hoặc tham gia hoạt động phong trào thanh
thiếu nhi đã được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ, kiến thức công
tác thanh vận.
Có sức khỏe tốt, ngoại hình phù hợp với công tác thanh vận, tuổi cán bộ
Đoàn được quy định theo cương vị được giao và có thể hơn từ 1 đến 2 tuổi để
phù hợp với yêu cầu công tác cụ thể.
Là đoàn viên ưu tú (hoặc đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam) có lý lịch
rõ ràng (không vi phạm quy định số 57-QĐ/TW, ngày 03/5/2007 của Bộ
Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”).
Những trường hợp bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử chưa
đạt tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn theo quy định, nhưng có năng lực nổi
trội trong chỉ đạo thực tiễn, được cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi và nhân
dân tín nhiệm thì cần xem xét vận dụng một cách thích hợp; những trường
hợp này cần phải xin ý kiến thống nhất của cấp ủy đảng cùng cấp và đoàn cấp
trên trực tiếp trước khi quyết định.
Quy chế cũng nêu rõ tiêu chuẩn của cán bộ đoàn từ tỉnh đến cơ sở, cụ thể:
- Đối với cấp tỉnh:
+ Bí thư: Có trình độ từ đại học trở lên, trình độ lý luận chính trị cao
cấp hoặc cử nhân, có trình độ A một ngoại ngữ và trình độ A tin học ứng xlvi
dụng trở lên; Giữ chức vụ lần đầu không quá 35 tuổi và giữ chức vụ không
quá 40 tuổi; Đã kinh qua thực tiễn công tác một trong các cương vị: cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở tỉnh; phó bí thư hoặc bí thư đoàn cấp huyện hoặc trưởng,
phó các ban đơn vị trực thuộc Tỉnh Đoàn.
+ Phó Bí thư: Có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, trình độ lý
luận chính trị từ trung cấp trở lên; có trình độ A một ngoại ngữ, trình độ A tin
học ứng dụng trở lên; Giữ chức vụ lần đầu không quá 33 tuổi và giữ chức vụ
không quá 38 tuổi.
+ Ủy viên ban thường vụ: Tiêu chuẩn cơ bản như giữ chức vụ Phó Bí
thư nhưng giữ chức vụ lần đầu không quá 32 tuổi và giữ chức vụ không quá
37 tuổi.
+ Cán bộ chuyên trách: Có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên (hoặc
tốt nghiệp Trung cấp Thanh vận), trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên (tùy
thuộc vào vị trí, chức vụ công tác để có yêu cầu cụ thể), có trình độ A một ngoại
ngữ, trình độ tin học ứng dụng trở lên; Tuổi không quá 40 (trừ một số cán bộ
chuyên môn nghiệp vụ, theo nhiệm vụ phân công thực hiện theo tiêu chuẩn cán
bộ, công chức các cơ quan Đảng, đoàn thể, Nhà nước quy định.
- Đối với cấp huyện:
+ Bí thư: Chuyên môn từ đại học trở lên (đối với các huyện miền núi,
đối tượng chính sách có thể từ cao đẳng trở lên); trình độ lý luận chính trị từ
trung cấp hoặc tương đương trở lên, có trình độ A một ngoại ngữ trở lên (đối
với các huyện miền núi của tỉnh nói chung phải biết sử dụng ngôn ngữ dân
tộc thiểu số của huyện mình), có trình độ A tin học ứng dụng trở lên; Giữ
chức vụ lần đầu không quá 30 tuổi và giữ chức vụ không quá 35 tuổi; Đã
được rèn luyện trong phong trào thanh niên hoặc đã từng cán bộ cấp xã,
phòng, ban, đoàn thể cấp huyện, bí thư, phó bí thư Đoàn cơ sở.
+ Phó bí thư: Tiêu chuẩn cơ bản như giữ chức vụ Bí thư nhưng giữ
chức vụ lần đầu không quá 28 tuổi và giữ chức vụ không quá 33 tuổi.
xlvii
+ Cán bộ chuyên trách: Có khả năng tham mưu và hướng dẫn thực hiện
các nội dung, chương trình công tác cụ thể, có kỹ năng và nghiệp vụ công tác
thanh thiếu nhi, được bồi dưỡng kiến thức kỹ năng công tác thanh niên qua hệ
thống trường Đoàn; Có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, có trình độ
A một ngoại ngữ, trình độ A tin học ứng dụng trở lên và tuổi không quá 35.
- Đối với cấp xã, phường, thị trấn: Trình độ chuyên môn từ trung cấp trở
lên, giữ chức vụ không quá 35 tuổi; Đối với một số vùng đặc biệt khó khăn (các
xã miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số), đối tượng chính sách,
trình độ văn hóa nói chung từ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên, giữ chức vụ
không quá 37 tuổi; Có khả năng tổ chức các hoạt động cụ thể của Đoàn, có trình
độ, kỹ năng và nghiệp vụ công tác thanh thiếu nhi, được bồi dưỡng kỹ năng công
tác thanh niên qua các lớp bồi dưỡng do tỉnh, huyện tổ chức.
- Đối với cán bộ Đoàn trong trường học:
+ Đối với học sinh, sinh viên có học lực từ loại khá trở lên, đã được bồi
dưỡng chương trình lý luận chính trị tương đương sơ cấp (trừ học sinh trung
học phổ thông, trung học cơ sở).
+ Đối với cán bộ giáo viên: Trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên,
trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên, giữ chức vụ không quá 37 tuổi.
+ Đối với cán bộ Đoàn trường học đại học, cao đẳng tương đương cấp
huyện: Chuyên môn từ đại học trở lên, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp
hoặc tương đương trở lên, có trình độ A một ngoại ngữ trở lên, có trình độ A
tin học ứng dụng trở lên; Giữ chức vụ lần đầu không quá 30 tuổi và giữ chức
vụ không quá 35 tuổi; Đã được rèn luyện trong phong trào thanh niên khối
trường học.
- Đối với cán bộ Đoàn trong cơ quan, doanh nghiệp: Có trình độ
chuyên môn từ đại học trở lên, trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên; Giữ
chức vụ không quá 35 tuổi (đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước có thể tốt
nghiệp phổ thông trung học trở lên, đã được bồi dưỡng chương trình lý luận
chính trị tương đương sơ cấp và giữ chức vụ không quá 40 tuổi).
xlviii
- Đối với cán bộ Đoàn trong Quân đội, Công an: Vì có tính đặc thù
riêng nên trên cơ sở quy chế này và quy chế của Trung ương, Ban thường vụ
Tỉnh đoàn chủ trì phối hợp với cấp ủy các đơn vị Quân sự tỉnh, Bộ đội Biên
phòng tỉnh, Công an tỉnh xem xét quy định cụ thể.
Theo đặc thù công tác của cán bộ Đoàn là có quy định độ tuổi, do đó
quy chế cũng quy định rõ về công tác quy hoạch và bố trí sử dụng cán bộ
Đoàn cụ thể như sau:
Công tác quy hoạch cán bộ Đoàn gắn với công tác quy hoạch cán bộ
của cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và do cấp ủy Đảng các cấp
chủ trì. Nội dung, quy trình thực hiện công tác quy hoạch cán bộ đoàn được
tiến hành theo quy định chung của Đảng, hằng năm rà soát đề điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch: Cấp ủy Đảng, BTV Đoàn các cấp có trách nhiệm xây dựng,
quản lý quy hoạch chức danh cán bộ Đoàn cấp mình.
Khi thực hiện quy hoạch các chức danh lãnh đạo Tỉnh đoàn, nếu có liên
quan đến nguồn nhân sự đoàn cấp huyện, các đơn vị trực thuộc Tỉnh đoàn, thì
Ban thường vụ Tỉnh đoàn phải trao đổi, thảo luận với Ban thường vụ huyện
ủy, thị ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy để thống nhất. Ban thường
vụ các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy và Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy khi điều
động, bố trí cán bộ chủ chốt Đoàn cấp huyện và đoàn trực thuộc Tỉnh đoàn
cần trao đổi thống nhất với Ban thường vụ Tỉnh đoàn trước khi thực hiện.
Trường hợp không thống nhất thì Ban thường vụ Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy
và Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy cân nhắc, quyết định và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình.
Trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất và năng lực cán bộ đoàn, cấp ủy
Đảng, tập thể lãnh đạo bố trí, sử dụng phù hợp với trình độ, năng lực, sở
trường và chiều hướng phát triển của cán bộ.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ trong cơ quan chuyên trách của Đoàn ở cấp
nào thì do Ban thường vụ Đoàn cấp đó chủ động phân công, đồng thời báo
xlix
cáo cấp ủy Đảng cùng cấp, đối với cán bộ chủ chốt Ban thường vụ Đoàn báo
cáo cấp ủy Đảng xem xét, quyết định.
Ban thường vụ Đoàn chủ động hoặc tham mưu, đề xuất cấp ủy Đảng,
tập thể lãnh đạo để xem xét, bố trí, sắp xếp công tác cho cán bộ chuyên trách
theo phân cấp quản lý cán bộ khi cán bộ hết tuổi tham gia công tác đoàn hoặc
đã hoàn thành nhiệm vụ công tác đoàn phù hợp với trình độ, năng lực và quy
hoạch cán bộ đã được phê duyệt.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ Đoàn phải xuất phát từ nhu cầu công tác,
tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ Đoàn phát huy năng lực, sở trường và thực
hiện nhiệm vụ theo chức trách được phân công.
Việc luân chuyển thực hiện đối với cán bộ Đoàn chuyên trách, giữ chức
vụ từ ủy viên BCH Đoàn cấp huyện trở lên trong quy hoạch nhằm đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ Đoàn. Khi có yêu cầu nhiệm
vụ, tổ chức Đoàn cấp trên thực hiện việc tăng cường cán bộ xuống công tác ở
tổ chức đoàn cấp dưới.
Luân chuyển, điều động phải gắn với quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
đánh giá cán bộ. Thời gian luân chuyển mỗi lần từ 02 đến 03 năm.
Ban thường vụ Đoàn các cấp chủ động báo cáo, đề xuất với cấp ủy
đảng trong việc thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ đoàn theo quy địn về
phân cấp quản lý cán bộ.
Ngoài ra, công tác cán bộ đoàn còn có một số quy định về chế độ chính
sách theo quy chế như sau:
- Đối với cán bộ Đoàn chuyên trách:
+ Cán bộ Đoàn có thời gian công tác Đoàn, Hội, Đội từ 3 năm liên tục
trở lên và hoàn thành tốt nhiệm vụ, khi thi tuyển công chức được cộng điểm
ưu tiên.
+ Độ tuổi đi học tại chức về lý luận chính trị đối với cán bộ Đoàn có
thể ít hơn 5 tuổi so với các đối tượng khác.
l
+ Cán bộ Đoàn thực hiện việc luân chuyển công tác được hưởng chế độ
trợ cấp theo quy định chung, được bảo lưu phụ cấp trong thời gian luân chuyển.
+ Cán bộ Đoàn là đảng viên nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có khả
năng, triển vọng phát triển, đã qua rèn luyện, thử thách trong thực tiễn công
tác Đoàn, Hội, Đội, phong trào thanh thiếu nhi, được xem xét giới thiệu để
bầu vào cấp ủy đảng. Bí thư, phó bí thư Đoàn từ cấp cơ sở trở lên, đạt tiêu
chuẩn cấp ủy viên thì được cơ cấu để bầu vào cấp ủy Đảng cùng cấp.
+ Được bố trí công tác phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ sau khi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cán bộ Đoàn.
- Đối với cán bộ Đoàn không chuyên trách:
+ Được hỗ trợ về kinh phí, cơ sở vật chất và tạo điều kiện về thời gian
cho hoạt động Đoàn.
+ Được xem xét và quan tâm cử đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công
tác đoàn, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ.
Quy chế về cán bộ Đoàn tỉnh Phú Yên do Ban thường vụ Tỉnh ủy ban
hành đã góp phần chuẩn hóa lực lượng cán bộ Đoàn và tạo điều kiện thuận lợi
cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh yên tâm công tác, cống hiến cho hoạt động Đoàn
và phong trào thanh thiếu nhi.
Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Quy chế Cán bộ Đoàn, tình hình đội
ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã có nhiều chuyển biến tích cực,
cụ thể:
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống: Đội ngũ cán bộ Đoàn hiện
nay luôn có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước, có thái độ dứt khoát, cương quyết
trước những hiện tượng xuyên tạc, làm trái với đường lối, quan điểm của
Đảng, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, phát huy tính tiền phong,
gương mẫu trong đạo đức, lối sống, trách nhiê ̣m nêu gương, dám nghĩ dám
làm, chủ động, sáng tạo hoàn thành tốt nhiê ̣m vụ.
li
Về trình độ: Sau khi thực hiện Quy chế Cán bộ Đoàn, đội ngũ cán bộ
Đoàn đã được quan tâm cử đi học hoặc tạo điều kiện đi học để nâng cao trình
độ, tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn, chức danh, yêu cầu
vị trí công tác, chuẩn hóa được trình độ chuyên môn. Đến nay, đã xây dựng
được đội ngũ cán bộ Đoàn có trình độ chuyên môn đáp ứng được theo Quy
chế Cán bộ Đoàn, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đơn vị.
Đa số các đồng chí cán bộ Đoàn đều trưởng thành từ phong trào Đoàn,
Hội, Đội hoặc đã tham gia hoạt động phong trào TTN ở các trường Đại học,
Cao đẳng hoặc đã được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ, kiến thức
công tác thanh vận. Thông qua các lớp tập huấn kỹ năng nghiê ̣p vụ, đội ngũ
cán bộ Đoàn đã được trang bị thêm nhiều kỹ năng, nghiệp vụ, các mô hình
đoàn kết tập hợp thanh niên phù hợp với tình hình thanh niên trong giai đoạn
hiện nay, góp phần đẩy mạnh công tác đoàn kết tập hợp thanh niên, nâng cao
chất lượng đoàn viên, sinh hoạt chi Đoàn tại địa bàn dân cư, từng bước nâng
cao năng lực công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong thời gian tới.
Công tác quy hoạch: thường xuyên được quan tâm, nhất là từ sau Đại
hội Đoàn tỉnh Phú Yên lần thứ VIII (nhiê ̣m kỳ 2012 -2017) đến nay, vai trò
tham mưu cho cấp ủy Đảng trong việc quy hoạch đào tạo, luân chuyển, bố trí,
sử dụng cán bộ ngày càng được phát huy. Trong đó đặc biệt chú trọng đến lực
lượng cán bộ trẻ, khỏe, có năng lực đã kinh nghiệm qua thực tiễn công tác ở
tại cơ sở, những đồng chí đang giữ chức vụ Phó Bí thư Đoàn, ủy viên BTV,
ủy viên BCH Đoàn các cấp; số cán bộ đưa vào quy hoạch lần đầu chủ yếu ở
độ tuổi dưới 25 và hàng năm, đều có bổ sung quy hoạch cán bộ dự nguồn,
chức danh chủ chốt được quy hoạch từ 02 - 03 đồng chí. Cùng với công tác
quy hoạch, hàng năm đã xem xét đưa ra khỏi danh sách quy hoạch những
đồng chí cán bộ không đảm bảo tiêu chuẩn cũng như được Đảng điều động
phân công nhiệm vụ khác để bổ sung nguồn cán bộ trẻ đảm bảo các tiêu
chuẩn quy định, có năng lực công tác; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn, lii
chức danh, yêu cầu vị trí công tác, khả năng của cán bộ Đoàn với vị trí được
quy hoạch, bổ nhiệm.
Công tác bố trí, sử dụng, luân chuyển, điều động, kiện toàn đội ngũ
cán bộ Đoàn: từ khi thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn đến nay đã có những
bước chuyển biến đáng kể, đã được cấp ủy Đảng cùng cấp quan tâm bố trí sử
dụng những cán bộ Đoàn có đủ tiêu chuẩn, đảm đương tốt nhiệm vụ và đảm
bảo tính ổn định, kế thừa và phát triển. Mạnh dạn giới thiệu cán bộ trẻ, có
triển vọng, đã qua thử thách rèn luyện trong thực tiễn công tác Đoàn và phong
trào TTN đảm nhiệm chức vụ chủ chốt, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho
cán bộ Đoàn cơ sở phát huy năng lực của mình. Cho đi đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ đối với những cán bộ có trình độ và năng lực hạn chế. Cán
bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh dần được trẻ hóa, đặc biệt là độ tuổi của các chức
danh chủ chốt trong hệ thống Đoàn giữ chức vụ lần đầu đã áp dụng theo Quy
chế Cán bộ Đoàn.
Việc điều động và luân chuyển công tác đối với những đồng chí cán bộ
Đoàn đã hết tuổi theo quy định được cấp ủy quan tâm kịp thời. Từ năm 2012
đến nay, các cấp ủy Đảng đã có quyết định điều động 67 đồng chí cán bộ
đoàn các cấp về công tác tại các cơ quan Đảng, mặt trận và các đoàn thể trên
địa bàn tỉnh trong đó có 38 đồng chí chuyển về các cơ quan chính quyền như
phụ lục 1 đã khảo sát. Hầu hết các đồng chí cán bộ Đoàn khi luân chuyển,
điều động đã được trưởng thành, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác mới, được
cân nhắc đề bạc ở các chức vụ cao hơn. Đồng thời, do công tác quy hoạch cán
bộ đảm bảo nên kịp thời tham mưu cho cấp ủy Đảng bổ sung, kiện toàn các vị
trí công tác mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Chế độ, chính sách: BTV Đoàn các cấp luôn tích cực chủ động đề
xuất các cấp có thẩm quyền thường xuyên xem xét và tạo điều kiện cho cán
bộ làm công tác Đoàn. Đặc biệt là cán bộ Đoàn ở cơ sở, đưa nội dung của việc
thực hiện Quy chế Cán bộ Đoàn vào chương trình công tác Đoàn và phong trào
TTN hàng năm; Chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm và thường xuyên liii
giám sát, kiểm tra việc thực hiện, kịp thời biểu dương khen thưởng những tập
thể, cá nhân làm tốt việc thực hiện quy chế và nhân rộng các điển hình; giải
quyết kịp thời chế độ chính sách cho cán bộ Đoàn đúng theo quy định của
Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết số 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Chiến lược phát triển thanh niên, Quy chế
Cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Quy chế phối hợp giữa Đoàn thanh niên
và các cấp chính quyền, đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn tỉnh luôn nhận
được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng cùng cấp, sự phối hợp của chính
quyền và các ban ngành, đoàn thể trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được
giao. Cấp ủy, chính quyền và các ban ngành, đoàn thể luôn muốn trẻ hóa đội
ngũ cán bộ của địa phương, đơn vị mình từ nguồn cán bộ Đoàn.
Bảng 2.2. Thống kê chất lượng số người hưởng lương thuộc tổ chức
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên (tính đến hết ngày 31/12/2017)
ĐTN cấp cơ sở ĐTN cấp huyện và tương đương
TT
ĐTN cấp tỉnh Tổng số (Người )
Đoàn cấp xã, phường, thị trấn Đoàn tương đương cấp huyện Đoàn cơ sở các khối khác Đoàn cấp huyện, thị xã, thành phố
liv
43 34 0 1 8 11 4 2 40 46 23 14 2 7 23 1 0 31 340 219 53 3 65 98 42 29 257 38 14 24 0 0 9 6 14 156 112 0 0 44 47 23 25 133 57 36 15 0 6 8 8 2 39
0 38 209 38 52 2 0 3 37 3 1 2 0 20 17 0 1 0 0 1 85 25 45 0 0 8 39 7 3 0
16 141 126 12 4 28 3 20 17 1 12 21 0 86 27 0 19 33
1. Tổng số người hưởng lương ngân sách - Công chức - Viên chức - Hợp đồng 68 - Hợp đồng khác - Nữ - Nữ lãnh đạo - Dân tộc thiểu số - Số đảng viên 2. Phân tích tổng số người theo: a- Học hàm, học vị, trình độ chuyên môn: 0 - Tiến sĩ - Thạc sĩ 6 31 - Đại học 3 - Cao đẳng - Trung cấp 2 0 - Sơ cấp,… b- Trình độ lý luận chính trị: - Cao cấp, cử nhân - Trung cấp - Sơ cấp c- Độ tuổi: - Đến 30 tuổi - Từ 31-40 tuổi - Từ 41-50 tuổi 164 156 10 19 17 10 27 16 0 15 13 0 60 96 0 43 14 0
(Nguồn Ban tổ chức kiểm tra Tỉnh đoàn, năm 2018)
Căn cứ theo số liệu tổng hợp từ bảng 2.2. ta có thể rút ra một số nội
dung sau:
Tổng số lượng cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh là 340 đồng chí, trong đó
257/340 (chiếm tỷ lệ 75,6%) cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, trong đó 100% cán bộ Đoàn chủ chốt là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, được Đảng giáo dục và rèn luyện, trưởng thành từ thực
tế, có tinh thần giác ngộ cách mạng cao và tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc; thường xuyên được tuyên truyền, giáo dục,
học tập nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, bồi đắp lòng yêu nước và lòng
lv
tự hào dân tộc; không ngừng học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp
ứng sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác Đoàn và
phong trào TTN của địa phương.
Tỷ lệ nữ là cán bộ Đoàn chiếm tỷ lệ 29% (98/340) và tỷ lệ nữ lãnh
đạo công tác Đoàn chiếm tỷ lệ 12,3% (42/340), đây đều là hai tỷ lệ tương đối
thấp cần phải tính toán tăng lên, đành rằng hoạt động công tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu nhi là công tác rất vất vả, cần phải đi cơ sở nhiều, phải giao
tiếp và thời gian công việc không ổn định thường sẽ khó khăn, vất vả hơn cho
cán bộ Đoàn là phụ nữ, tuy nhiên cần phải hài hòa tỷ lệ vì phụ nữ luôn có ưu
thế trong việc giao tiếp, tiếp cận đoàn viên, thanh niên để trao đổi tâm sự, phụ
nữ luôn rất cẩn thận và tỉ mỉ nên sẽ rất phù hợp đối với công tác quản lý hồ sơ
đoàn vụ, đoàn tịch…
Về phân tích số liệu theo trình độ, có thể thấy rằng số lượng cán bộ
Đoàn có trình độ từ đại học đến thạc sỹ chiếm đa số 72,6% (247/340) đây là
điều đáng phấn khởi khi thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn tỉnh Phú Yên từ năm
2013 đến nay, trình độ của cán bộ Đoàn đã được nâng lên tuy nhiên các cấp
ủy Đảng cần hết sức lưu ý trong quá trình bổ nhiệm vị trí khác khi cán bộ
đoàn trưởng thành, vì theo đúng chuyên môn nghiệp vụ thì họ sẽ dễ dàng phát
huy tốt, thích ứng nhanh với môi trường làm việc mới.
Về trình độ chính trị, tỷ lệ cán bộ Đoàn được đào tạo trung cấp là
41,5% (141/340) và sơ cấp là 37% (126/340) đây là một tỷ lệ chưa hợp lý đối
với lực lượng cán bộ Đoàn, cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo lý luận chính
trị từ trung cấp đến cao cấp cho lớp cán bộ trẻ này vì khi được quan tâm, sắp
xếp được đào tạo giáo dục sớm thì lớp cán bộ kế cận sẽ luôn vững vàng về tư
tưởng chính trị, có lập trường kiên định, bên cạnh đó việc được đào tạo nâng
cao về trình độ lý luận chính trị thì sẽ góp phần cho công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, thanh niên của người cán bộ đoàn
được hiện quả hơn.
lvi
Về độ tuổi, số cán bộ từ 31 tuổi đến 40 tuổi chiếm tỷ lệ 46%
(156/340) trong đó ở khối Xã, Phường, Thị trấn 61,5% (96/156, tỷ lệ giữa số
cán bộ khối Xã, Phường, Thị trấn so với tổng số cán bộ Đoàn toàn tỉnh), điều
này đặt ra thách thức lớn cho cấp ủy các địa phương ở cơ sở, cần phải có kế
hoạch để chuẩn bị bố trí cho lực lượng cán bộ Đoàn sẽ trưởng thành trong
thời gian sắp tới (hết tuổi theo Quy chế cán bộ đoàn), mặc khác đây cũng là
thuận lợi khi cấp cơ sở có lớp cán bộ kế cận dồi dào trong điều kiện đại hội
Đảng các cấp nhiệm kỳ (2020-2025) sắp diễn ra, các cấp ủy Đảng cần hết sức
quan tâm đến lực lượng kế cận này, đồng thời các cấp bộ Đoàn cũng chuẩn bị
sẵn sàng các phương án trong quy hoạch để kịp thời tham mưu cho cấp ủy
Đảng những phương án nhân sự mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác
đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong thời kỳ mới.
Theo kết quả khảo sát tại phiếu số 1 về nội dung “Đánh giá chất
lượng sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý nhà
nước tại tỉnh Phú Yên” được gửi cho lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành và UBND
các huyện thị thành phố những đơn vị có Cán bộ Đoàn chuyển đến công tác
sau khi thôi nhiệm vụ, chỉ tính đối với cán bộ làm việc từ 06 tháng trở lên,
giai đoạn từ năm 2012 - 2017. Kết quả, trong tổng số lượng cán bộ Đoàn
được thuyên chuyển công tác là 38 đồng chí cho thấy rằng:
Về trình độ: đại học là 73,7%, cao đẳng là 26,3% tuy nhiên khi nhận
công tác mới thì có đến 57,9% số cán bộ phải được cho đi đào tạo lại nhằm
phù hợp với điều kiện công tác mới, đây có thể là sự lãng phí trong đào tạo
dành cho cán bộ trẻ, điều này đặt ra vấn đề khi thuyên chuyển công tác cán bộ
Đoàn thì cần xem xét kỹ chuyên môn của họ để tạo điều kiện cho họ công tác
sau này, khỏi mất thời gian và tiền bạc để đào tạo lại.
Về trình độ chính trị: Có 68,4% có trình độ trung cấp và 31,6% có
trình độ cao cấp, không có trình độ sơ cấp điều này cho thấy rằng trong quá
trình công tác của cán bộ Đoàn thì các cấp ủy Đảng luôn bố trí sắp xếp để họ
lvii
được tham gia các lớp đào tạo về chính trị nhằm chuôi rèn bản lĩnh chính trị,
giữ vững lập trường cách mạng.
Về mức độ hoàn thành nhiệm vụ và thái độ làm việc: Thì các đơn vị
mới tiếp nhận cán bộ Đoàn đều đánh giá cao hiệu quả công việc của các cán
bộ Đoàn được chuyển đến với mức đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và
thái độ làm việc rất tốt đề trên 50%, điều này thể hiện trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ là cán bộ đoàn, họ đã được đào tạo trong môi trường năng
động, trau dồi bản lĩnh và có tinh thần phấn đấu luôn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
Trong khuôn khổ của khảo sát theo phiếu khảo sát số 1, tác giả cũng đã
tiếp nhận 02 nhóm ý kiến cơ bản như sau:
Nhóm 1: Cán bộ Đoàn sau khi được chuyển công tác về cơ quan quản
lý nhà nước có khả năng tiếp cần công việc nhanh, tinh thần làm việc năng
nổ, có khả năng làm khá tốt ở nhiều nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên, đôi khi
thiếu sự kiềm chế trong khi tiếp xúc với người dân, ít mạnh dạn có ý kiến
trong các cuộc họp.
Nhóm 2: Chuyên môn công tác thiếu tính chuyên sâu, cần phải đào tạo
thêm về chuyên môn. Có bản lĩnh chính trị tương đối vững vàng, sẵn sàng
nhận nhiều nhiệm vụ mà cơ quan giao cho. Có mối quan hệ tốt với đồng
nghiệp xung quanh, luôn nhiệt tình trong công việc, sẵn sàng giúp đỡ đồng
nghiệp và nhân dân.
2.2. Tình hình tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
2.2.1. Tham gia tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của
Nhà nước cho đoàn viên, thanh niên trên địa bàn tỉnh
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm
thực hiện và tiếp tục phối hợp với các ban, ngành trong tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, quốc phòng an ninh, ý thức bảo vệ chủ quyền biển
đảo, biên giới quốc gia với nhiều mô hình mới thiết thực, góp phần nâng cao lviii
ý thức cho đoàn viên, thanh thiếu nhi như tổ chức các hội thi Rung chuông
vàng tìm hiểu luật an toàn giao thông, phiên tòa giả định, tuyên truyền lưu
động … tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý các văn bản dự
thảo pháp luật, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2013, toàn tỉnh đã tổ
chức 7290 hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, thu hút gần
2,2 triệu lượt đoàn viên, thanh thiếu nhi tham gia, nhận cảm hóa và giúp đỡ
1015 thanh niên chậm tiến, trong đó 450 thanh niên trở nên tiến bộ và tham
gia sôi nổi vào các hoạt động cộng đồng.
Công tác giáo dục pháp luật, tuyên truyền chính sách của nhà nước luôn
được các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh gắn liền với các hoạt động giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho đoàn viên, thanh niên. Phương thức
giáo dục của Đoàn ngày càng được đổi mới, trong nhiệm kỳ (2012-2017) các
cấp bộ Đoàn đã tích cực nghiên cứu, ứng dụng các mô hình, phương thức giáo
dục mới để tăng tính hấp dẫn đối với thanh thiếu nhi, trong đó chú trọng phát
huy nhân tố tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi đoàn viên, thanh thiếu nhi. Đặc
biệt, thường xuyên tổ chức các hoạt động góp phần định hướng giá trị đạo
đức, lối sống cho thanh niên thông qua gương “người thật, việc thật”, những
điển hình tiên tiến, tấm gương sáng trên các lĩnh vực, đối tượng. Các chương
trình hành động cách mạng của Đoàn là môi trường rèn luyện tích cực đối với
sự phát triển nhân cách, đạo đức và định hướng lối sống của thanh thiếu nhi
qua đó giúp cho họ tự tin hơn trong cuộc sống, rèn luyện bản lĩnh trưởng
thành hơn, tính tự nguyện tham gia các hoạt động xã hội, tinh thần trách
nhiệm với cộng đồng, lòng nhân ái, tương thân tương trợ lẫn nhau trong thanh
niên ngày càng rõ nét.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được
các cấp bộ Đoàn triển khai đồng bộ, thường xuyên gắn với thực hiện Chỉ thị
số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số lix
05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, phù hợp với từng đối
tượng, nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị với nhiều hình
thức khác nhau. Qua đó, đã xuất hiện các mô hình hay, cách làm tốt, gương
người tốt, việc tốt, gương thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác được tuyên
dương các cấp, góp phần cổ vụ, động viên tạo động lực để thanh thiếu niên
rèn luyện, phần đấu và trường thành, trong nhiệm kỳ qua đã có gần 2.000 tập
thể, cá nhân được tuyên dương cấp cơ sở, 481 tập thể, cá nhân được tuyên
dương cấp huyện, 41 tập thể và 91 cá nhân được tuyên dương cấp tỉnh, 09 cá
nhân được tuyên dương cấp toàn quốc.
Các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh triển khai thực hiện đầy đủ Chỉ thị số
42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống văn hóc cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030”, đẩy mạnh
thực hiện đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, giai đoạn 2015-2020”, Nghị quyết số
02-NQ/TWĐTN ngày 22/8/2013 của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
khóa X về “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2013-2017”. Qua đó, đã góp phần nâng
cao bản lĩnh chính trị, thúc đẩy hoàn thiện đức - trí - thể - mỹ cho đoàn viên,
thanh niên đồng thời tổ chức thực hiện có hiểu quả các chính sách, pháp luật
mà nhà nước ban hành góp phần ổn định tình hình chính, an toàn trật tự xã
hội trên địa bàn toàn tỉnh. Bên cạnh công tác giáo dục là nhiệm vụ chính trị
hàng đầu của tổ chức Đoàn, các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh luôn tổ chức
thực hiện có hiệu quả công tác nắm bắt, phản ánh tình hình tư tưởng và dư
luận xã hội trong thanh niên, kịp thời tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều
vấn đề phức tạp phát sinh ở cơ sở, hiện nay có 19 tổ nắm bắt dư luận xã hội
trong thanh niên trong đó có 18 tổ cấp huyện và 01 tổ cấp tỉnh với hơn 300
thành viên là cán bộ, đoàn viên, thành lập 150 trang facebook Đoàn - Hội - lx
Đội cấp tỉnh, huyện, cơ sở tuyên truyền hoạt động Đoàn và phong trào thanh
thiếu nhi.
Ngoài ra, các cấp bộ Đoàn luôn xác định bồi dưỡng truyền thống, lý
tưởng cách mạng từ đó khơi dậy lòng yêu nước trong lớp trẻ thì việc thực
hiện chính sách, pháp luật sẽ gắn liền và được thực hiện một cách tự nhiên,
hiệu quả do đó các cấp bộ đoàn toàn tỉnh thường xuyên triển khai các hoạt
động giáo dục truyền thống bằng các hình thức như hội thi tìm hiểu lịch sử,
đưa đoàn viên thanh niên về các địa danh lịch sử, những việc làm cụ thể như
nhận chăm sóc, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, tổ chức động viên thăm
hỏi gia đình thương bệnh binh, thân nhân các gia đình liệt sỹ, người có công
với cách mạng, tu tạo mộ nghĩa trang liệt sỹ, thắp nên tri ân nhân kỷ niệm
ngày Thương binh Liệt sỹ…
Trong nhiệm kỳ 2012-2017, đã có hơn 2.700 hoạt động giáo dục truyền
thống được tổ chức thu hút khoảng 1,3 triệu đoàn viên, thanh thiếu nhi tham
gia. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống được triển khai thực hiện hiểu quả
bằng nhiều giải pháp phong phú, sáng tạo, hấp dẫn làm chuyển biến sâu sắc
về tư tưởng, nhận thức, hành động trong cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Cuộc
vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới” gắn
với thực hiện Chỉ thị số 01-CT/TWĐ ngày 17/5/2013 của Ban Thường vụ
Trung ương Đoàn về “Tăng cường rèn luyện lề lối tác phong làm việc của
cán bộ Đoàn”, Chỉ thị số 23-CT/TU ngày 03/6/2013 của Ban thường vụ Tỉnh
ủy về “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động của các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh” tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, qua đó góp
phần định hình giá trị nhân cách, nhân ái, tinh thần sẽ chia, nghĩa tình và trách
nhiệm với cộng đồng trong cán bộ đoàn, đoàn viên, thanh thiếu nhi. Tổ chức
Đoàn đã chủ động phối hợp với các trường trong giáo dục đạo đức, lối sống,
ứng xử văn minh, phòng chống bạo lực học đường, tệ nạn xã hội và các hành
vi lệch chuẩn cho học sinh, sinh viên.
lxi
Nhờ công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đẩy mạnh, xem trọng
công tác giáo dục đạo đức lối sống nên đã góp phần hỗ trợ đắc lực cho công
tác giáo dục pháp luật và chính sách trong đoàn viên, thanh niên. Có thể dễ
nhận thấy rằng, hiện nay phần lớn đoàn viên, thanh niên đều được tiếp cận với
nhiều nguồn thông tin, những chủ trương và chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước luôn được cập nhật thường xuyên thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng và trong đó vai trò tuyên truyền, giáo dục của Đoàn
Thanh niên góp phần quan trọng, từ đó làm cho số lượng thanh niên am hiểu
về pháp luật ngày càng được nâng cao.
Cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cấp tỉnh Phú Yên thường xuyên
được quan tâm, cho tham gia học tập nhiều lớp giáo dục pháp luật và phổ biến
chính sách mới, trong 5 năm qua đã có hơn 3.500 lượt cán bộ Đoàn tham gia
học tập hơn 300 lớp tập huấn, phổ biến chính sách pháp luật. Và việc triển
khai thực hiện Chỉ thị số 01-CT/TWĐ ngày 17/5/2013 của Ban Thường vụ
Trung ương Đoàn về “Tăng cường rèn luyện lề lối tác phong làm việc của
cán bộ Đoàn”, Chỉ thị số 23-CT/TU ngày 03/6/2013 của Ban thường vụ Tỉnh
ủy về “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động của các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh” được quán triệt nghiêm túc đến tất cả cán bộ
Đoàn trong toàn tỉnh, nhằm nêu gương cho đoàn viên, thanh thiếu nhi. Mỗi
cán bộ Đoàn là một báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật và chính
sách, mỗi hành động tuân thủ đúng pháp luật của người cán bộ Đoàn là
phương pháp tuyên truyền trực quan tốt nhất cho đoàn viên, thanh thiếu nhi
và nhân dân, cán bộ Đoàn luôn phải biết, nắm vững chính sách, pháp luật cơ
bản để có thể tuyên truyền một cách dễ hiểu nhất cho nhân dân, đoàn viên,
thanh thiếu nhi.
Theo kết quả khảo sát từ phiếu khảo sát số 2 về “Chất lượng tham gia
của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh trong việc tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên trên địa bàn tỉnh” dành cho
UVBCH Tỉnh đoàn nhận được kết quả rằng 88,5% phiếu đánh giá rất tốt và lxii
11,5% phiếu đánh giá tốt cho thấy theo sự nhìn nhận của các đồng chí
UVBCH Tỉnh đoàn rằng cán bộ đoàn trong toàn tỉnh làm tốt việc tuyên
truyền, phổ biến chính sách pháp luật nhà nước cho đoàn viên, thanh niên
trong toàn tỉnh, với tỷ lệ phiếu đánh giá rất cao trên 88,5% thì phản ánh sự
đánh giá rất cao chất lượng cán bộ Đoàn hiện nay trong công tác này.
Tuy nhiên, tại kết quả khảo sát phiếu khảo sát số 3 về “chất lượng
tham gia của cơ sở Đoàn trong toàn tỉnh trong việc tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên trên địa bàn tỉnh” các
đồng chí UVBCH Tỉnh đoàn chỉ đánh giá có 76,9% cơ sở Đoàn thực hiện tốt
nhiệm vụ, trong khi đó có 15,4% đánh giá cơ sở Đoàn chưa thực hiện tốt
nhiệm vụ này. Điều này cho thấy rằng ở những cơ sở Đoàn có cán bộ Đoàn
chưa tích cực tham gia tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà
nước cho đoàn viên, thanh niên thì nơi ấy các cơ sở Đoàn cũng không thực
hiện được tốt nhiệm vụ của đơn vị mình.
2.2.2. Tham gia xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ
cán bộ, công chức ở địa phương
Đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới và ngày càng hội nhập
sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, do đó nguồn nhân lực hành chính cũng có
những đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, trong thời gian qua đội ngũ
cán bộ công chức đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng và phát triển đất
nước, đặc biệt là từ khi nước ta chuyển sang quản lý nền kinh tế theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tỉnh Phú Yên
cũng đang trong giai đoạn hội nhập và bức phá, phát triển với nhiều thành
công nổi bật được ghi nhận trong nhiều năm qua, đội ngũ cán bộ công chức
dần được trẻ hóa, đảm bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, phù hợp vị trí việc làm
hơn, do đó vai trò của Đoàn Thanh niên trong việc bồi dưỡng về chính trị tư
tưởng, đạo đức lối sống, hỗ trợ thêm về chuyên môn nghiệp vụ để đội ngũ cán
lxiii
bộ, công chức trẻ đủ bản lĩnh, tự tin trong quá trình hội nhập và phát triển là
điều cần thiết.
Công tác nâng cao chất lượng đoàn viên, đặc biệt là đoàn viên trẻ là cán
bộ công chức, lực lượng vũ trang được BTV Tỉnh đoàn quan tâm. Chương
trình rèn luyện đoàn viên trong thời kỳ mới với 5 tiêu chí rèn luyện, 10 tiêu
chí hành động được triển khai thực hiện, trên cơ sở đó BTV Tỉnh đoàn tiếp
tục ban hành chương trình rèn luyện đoàn viên giai đoạn 2015-2017 với nội
dung theo từng đối tượng, hiện nay toàn tỉnh có 50. 944 đoàn viên, tỷ lệ đoàn
viên tham gia chương trình rèn luyện đoàn viên đạt trên 85% trong đó đoàn
viên xuất sắc, khá đạt 97,6%, đoàn viên trung bình là 2,4% [8, tr41].
Chương trình sinh hoạt đoàn nơi cư trú được quan tâm triển khai, bước
đầu tạo sự gắn kết giữa đoàn viên, thanh niên khối công nhân viên chức, lực
lượng vũ trang và trường học với đoàn viên, thanh niên ở địa bàn dân cư, tiêu
biểu là mô hình đoàn viên, thanh niên công nhân viên chức, lực lượng vũ
trang về sinh hoạt nơi cư trú của Thị đoàn Sông Cầu, mô hình Hành trình
Xanh hướng về cơ sở và Bốn cùng cơ sở của Huyện đoàn Sơn Hòa; mô hình
Sinh hoạt chi đoàn luân phiên, sinh hoạt theo cụm của Huyện đoàn Đồng
Xuân …, công tác quản lý đoàn viên được chú trọng cả 3 mặt là tư tưởng, tổ
chức và chuyên môn. Nhằm đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở Đoàn chưa đạt
yêu cầu, BTV Tỉnh đoàn đã phân công Ban, cán bộ phụ trách địa bàn, thường
xuyên bám sát cơ sở, nhất là phân công UVBCH Tỉnh đoàn giúp đỡ các cơ sở
Đoàn khó khăn, chưa đạt vững mạnh kết quả có 1 đơn vị từ vững mạnh đã đạt
vững mạnh xuất sắc, 2 đơn vị từ trung bình đạt vững mạnh, 5 đơn vị từ khá
đạt vững mạnh, 1 đơn vị từ trung bình đạt khá [8, tr43]. Tổ chức các hoạt
động hướng về cơ sở, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu kết nghĩa giữa các
huyện, thị, thành đoàn và đoàn trực thuộc từ đó đã đẩy mạnh cũng như hỗ trợ
nguồn lực tổ chức các phong trào đoàn tại các huyện còn nhiều khó khăn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
trong tình hình mới được đầu tư chỉ đạo thực hiện từ công tác tuyển dụng, quy lxiv
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đến bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ. Chú trọng
việc trẻ hóa và chuẩn hóa cán bộ Đoàn, đổi mới chất lượng và hình thức đào
tạo kỹ năng, nghiệp vụ công tác, góp phần đáp ứng yêu cầu theo Quy chế cán
bộ Đoàn. Công tác tham mưu, tạo nguồn và bố trí sử dụng nguồn cán bộ trẻ đi
vào nề nếp, tạo ra bước chuyển cán bộ quan trọng trong công tác quy hoạch,
đào tạo cán bộ, đảm bảo yêu cầu của Đảng về điều động cán bộ. Các cấp bộ
Đoàn thường xuyên tổ chức các hội thi, góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, tuyên dương 82 cán bộ Đoàn tiêu biểu xuất sắc, giới
thiệu đề nghị tuyên dương 10 Bí thư Chi đoàn giỏi [8, tr52].
Công tác tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn thể
nhân dân được triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú thông qua
các hoạt động tuyên truyền, giáo dục của Đoàn. Đặc biệt, trong thời gian diễn
ra Đại hội Đảng các cấp, các cấp bộ Đoàn đã tổ chức nhiều đợt tuyên truyền,
nắm bắt dư luận trong đoàn viên, thanh niên và phối hợp lực lượng vũ trang
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện Nghị quyết 25-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, thông qua đẩy mạnh
cuộc vận động “Đoàn viên, thanh niên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam”, các cấp bộ Đoàn tập trung nâng cao chất lượng công tác
giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp, nâng cao chất lượng
Đảng viên mới. Trong nhiệm kỳ, đã giới thiệu 9.458 đoàn viên ưu tú cho
Đảng xem xét và kết nạp 6.678 đoàn viên ưu tú vào đảng, chiếm tỷ lệ 70,6%
đảng viên [8, tr55] kết nạp vào Đảng tại tỉnh Phú Yên.
Trong xây dựng chính quyền, các tổ chức Đoàn từ tỉnh đến cơ sở đã tổ
chức tuyên truyền, vận động đoàn viên, thanh niên gương mẫu thực hiện
chính sách, pháp luật, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bầu cử
Quốc hội khóa XIV, giới thiệu đại biểu đại diện tham gia ứng cử vào các cơ
quan Nhà nước các cấp. Nhiều đồng chí cán bộ Đoàn đã được tín nhiệm, giao
trọng trách tại nhiều vị trí quan trọng của bộ máy chính quyền các cấp. Trong
tham gia xây dựng các đoàn thể nhân dân, các cấp bộ Đoàn vận động đoàn lxv
viên, thanh niên thực hiện tốt nhiệm vụ thành viên của các tổ chức, phối hợp
chặt chẽ với các đoàn thể khác trong việc tổ chức các phong trào quần chúng
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh, chính trị trật tự an toàn xã
hội, xây dựng đời sống văn hóa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bảng 2.3. Cán bộ Đoàn tham gia vào cấp ủy các cấp tỉnh Phú Yên
nhiệm kỳ 2015 – 2020 (tính đến tháng 6/2018)
Đơn vị/Nội dung phân tích Số lượng người + Phụ nữ + Dân tộc thiểu số + Tôn giáo Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã 77 8 19 2 9 2 0 0 1 0 0 0
(Nguồn Ban Tổ chức Kiểm tra Tỉnh đoàn, năm 2018)
Căn cứ số liệu cán bộ Đoàn tham gia vào cấp ủy cho thấy được sự phấn
đấu và được các cấp ủy Đảng ghi nhận của lực lượng cán bộ Đoàn trong toàn
tỉnh (Chỉ thống kê số lượng cán bộ Đoàn ở cấp huyện, thị, thành phố không
tính cán bộ Đoàn tương đương cấp huyện):
Cấp tỉnh, đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn được bổ sung tham gia BCH Đảng
bộ Tỉnh từ giữa năm 2017 (nhiệm kỳ 2012-2017 của Đoàn Thanh niên có sự
thay đổi nhân sự Bí thư Tỉnh đoàn từ năm 2016, đồng chí Bí thư Tỉnh đoàn
được điều động về nhận nhiệm vụ Bí thư Huyện ủy Đông Hòa do đó đến
tháng 5/2017 BCH Đảng bộ Tỉnh quyết định bổ sung đồng chí Bí thư Tỉnh
đoàn đương nhiệm vào chức danh UVBCH Tỉnh ủy)
Cấp huyện, có 8/9 đồng chí Bí thư huyện, thị, thành đoàn đương nhiệm
được bầu vào chức danh UVBCH huyện, thị, thành ủy, chỉ có 01 đồng chí
mới nhận nhiệm vụ Bí thư Huyện đoàn Sông Hinh từ cuối năm 2017 chưa
được bầu, tuy nhiên số lượng Bí thư Huyện đoàn là nữ chiếm tỷ lệ thấp chỉ
(2/8) đạt 25%, về số lượng đồng bào dân tộc thiểu số cũng chiếm tỷ lệ (2/8)
đạt 25%, tuy nhiên đây là một tỷ lệ cao vì trên địa bàn tỉnh Phú Yên chỉ có 3
huyện/9 huyện, thị, thành phố là có đồng bào dân tộc thiểu số là Đồng Xuân,
Sơn Hòa, Sông Hinh.
lxvi
Cấp xã, có 77/112 đồng chí Bí thư Đoàn các xã, phường, thị trấn đương
nhiệm được bầu vào chức danh UVBCH Đảng bộ xã, phường, thị trấn chiếm
tỷ lệ 68% đây là tỷ lệ tương đối cao, trong đó chỉ có 19/77 đạt (25%) đồng chí
là nữ đây là tỷ lệ thấp.
Bảng 2.4. Cán bộ đoàn tham gia vào Hội đồng Nhân dân các cấp
tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2016 - 2021 (tính đến tháng 6/2018)
Đơn vị/Nội dung phân tích Số lượng người + Phụ nữ + Dân tộc thiểu số + Tôn giáo Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã 7 1 2 0 54 11 6 0 0 0 0 0
(Nguồn Ban Tổ chức Kiểm tra Tỉnh đoàn, năm 2018)
Theo số liệu tổng hợp về cán bộ đoàn tham gia Hội đồng Nhân dân các
cấp trong toàn tỉnh cho thấy rằng số lượng cán bộ Đoàn tham gia còn chiếm
tỷ lệ thấp trên tổng số lượng cán bộ Đoàn các cấp của tỉnh, chỉ có ở cấp huyện
chiếm tỷ lệ cao 77,7% (có 7/9 huyện).
Căn cứ kết quả khảo sát tại phiếu khảo sát số 2 và số 3 dành cho
UVBCH Tỉnh đoàn cho thấy rằng đối với cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh tham
gia việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức
ở địa phương nhìn chung là tốt (57,7% đánh giá rất tốt, 42,3% đánh giá tốt)
do hiện nay chất lượng cán bộ Đoàn được quan tâm, đào tạo tương đối tốt.
Tuy nhiên, vẫn còn cơ sở Đoàn được đánh giá về việc thực hiện nhiệm vụ này
là chưa tốt (11,5%) và tỷ lệ các cơ sở Đoàn được đánh giá rất tốt cũng hạn chế
(38,5%), điều này cho thấy chất lượng cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh là chưa
lxvii
được đồng đều mặc dù nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và
đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nhau, nhưng theo tác giả về chất lượng cán bộ Đoàn vẫn chiếm phần
quan trọng.
2.2.3. Tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương
Trong nhiệm kỳ 2012-2017, Đoàn Thanh niên các cấp trong toàn tỉnh
đã phát huy vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên trong phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đóng góp tích cực vào quá
trình phát triển của tỉnh, đồng thời tạo môi trường thực tiễn, phong phú, rộng
lớn để giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh niên.
Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế trong nhiệm
kỳ các cấp bộ Đoàn đã triển khai cho đoàn viên, thanh niên tham gia các dự
án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đoàn viên, thanh niên khối nông
thôn tập trung thực hiện hiệu quả phong trào “Tuổi trẻ Phú yên chung tay xây
dựng nông thôn mới”, trong đó tập trung xây dựng các công trình, phần việc
thanh niên tại các xã khó khăn, miền núi, nổi bật là công trình thắp sáng
đường quê và bê tông hóa giao thông nông thôn (trong nhiệm kỳ đã thực hiện
làm mới 277km đường bê tông nông thôn, tu sửa 6,9km đường bê tông bị hư
hỏng; lắp đặt mới 6.417 bóng đèn với tổng chiều dài đoạn đường được chiếu
sáng là 331km. Các công trình, phần việc đã thu hút 100% các cơ sở Đoàn
trong toàn tỉnh và 25.674 đoàn viên, thanh niên tham gia với tổng giá trị 17,8
tỷ đồng).
Phối hợp với các ban, ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn
chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, hướng dẫn hỗ trợ thành lập 32 câu
lạc bộ, 07 tổ hợp tác phát triển kinh tế trong thanh niên. Đoàn viên, thanh niên
khối công chức, viên chức tiếp tục thực hiện hiện quả phong trào “3 trách
nhiệm” (Trách nhiệm với công việc – Trách nhiệm với nhân dân – Trách
nhiệm với bản thân mình); Đoàn viên, thanh niên khối đô thị thực hiện phong lxviii
trào “Thanh niên tham gia xây dựng văn minh đô thị”; Đoàn viên, thanh niên
khối công nhân thực hiện phong trào thi đua “4 nhất” (Chất lượng nhất –
Tiến độ nhanh nhất – An toàn cao nhất – Tiết kiệm nhất).
Công tác xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng có bước phát
triển mới, không ngừng mở rộng về quy mô gắn với triển khai thực hiện các
Chiến dịch thanh niên tình nguyện Hè, Chiến dịch tình nguyện “Mùa hè
xanh” với sự tham gia của 3.000 lượt hội viên, thanh niên tình nguyện thuộc
đội hình chuyên cấp tỉnh và khoảng 20.000 lượt thanh niên tình nguyện tại
chỗ chi viện về thôn, buôn khó khăn, đồng báo dân tộc thiểu số, qua đó đã
thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sở (đã đóng góp 38.217 ngày công lao động cho xã
hội, ôn tập hè cho hơn 10.000 lượt học sinh, đảm nhận thực hiện 208 công
trình phần việc thanh niên). Chiến dịch “Kỳ nghỉ hồng” (dành cho lực lượng
đoàn viên là cán bộ, công nhân viên chức), “Hành quân xanh” (dành cho
đoàn viên là lực lượng vũ trang), “Hoa phượng đỏ” (dành cho lực lượng đoàn
viên là giáo viên và học sinh) được triển khai thực hiện các hoạt động tình
nguyện, các công trình phần việc ý nghĩa tại các xã khó khăn của tỉnh đã được
dư luận xã hội, bà con nhân dân, các cấp lãnh đạo đánh giá cao.
Cuộc vận động “Tuổi trẻ Phú Yên chung tay xây dựng nông thôn mới
và văn minh đô thị” tiếp tục được chú trọng, triển khai với nhiều mô hình,
công trình ý nghĩa, như các công trình bê tông hóa giao thông nông thôn, thắp
sáng đường quê, tuyến đường sáng - xanh - sạch - đẹp, đoạn đường thanh niên
tự quản… (đã thực hiện 3.614 công trình, phần việc thanh niên, thu hút hơn
320.000 lượt đoàn viên thanh niên tham gia, giá trị làm lợi các công trình,
phần việc trên 56,5 tỷ đồng.
Ngoài các công trình phần việc tình nguyện được tổ chức, triển khai
thực hiện rộng khắp trong toàn tỉnh, BTV Tỉnh đoàn luôn chủ trương đồng
hành cùng thanh niên trong lập thân, lập nghiệp và trong học tập để góp phần
phát triển kinh tế xã hội địa phương là nhiệm vụ quan trong. Các phong trào lxix
đồng hành với thanh niên trong học tập được tổ chức thường xuyên tạo môi
trường rèn luyện, thi đua học tốt, nghiên cứu khoa học cho học sinh, sinh
viên. Nhiều diễn đàn học tốt, câu lạc bộ học thuật hướng dẫn phương pháp
học tập ở các bậc học được tổ chức nhằm khuyến khích, cỗ vũ đoàn viên là
học sinh, sinh viên phát triển khả năng học thuật, ứng dụng vào thực tế, tạo ra
nhiều sản phẩm cho xã hội. Hội thi tin học trẻ, Sáng tạo khoa học trẻ, Ngày
hội thiết kế robot và chia sẽ ý tưởng sáng tạo… được tổ chức hàng năm nhằm
phát hiện, bồi dưỡng tài năng trẻ, động viên thanh thiếu nhi không ngừng học
tập, trau dồi kiến thức, đưa công nghệ ứng dụng vào cuộc sống. Phong trào
“Sinh viên 5 tốt”, “Học sinh 3 rèn luyện”, “Khi tôi 18” được triển khai mạnh
mẽ (từ năm 2012 – 2017, Phú Yên có 02 sinh viên đạt danh hiệu “Sinh viên 5
tốt” cấp trung ương, 52 sinh viên đạt danh hiệu “Sinh viên 5 tốt” cấp tỉnh, 2
tập thể đạt danh hiệu “Tập thể sinh viên 5 tốt” cấp tỉnh. Các hoạt động giúp
đỡ học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ học sinh, sinh viên vay
vốn được đẩy mạnh đã góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện
của học sinh, sinh viên (tổng số vốn hỗ trợ học sinh, sinh viên vay là hơn 12
tỷ đồng).
Hoạt động hỗ trợ thanh niên ngoài trường học học tập, nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ thông qua các câu lạc bộ ngoại ngữ, tin
học, tự học tập nâng cao trình độ cho thanh niên được duy trì hoạt động.
Chương trình đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp, việc làm được các
cấp bộ Đoàn quan tâm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho thanh niên về
nghề nghiệp, việc làm trên các kênh thông tin của Đoàn.
Các chương trình tư vấn hướng nghiệp được Trung tâm Dịch vụ việc
làm Thanh niên chủ trì tổ chức tại tất cả các địa phương mỗi năm thu hút hơn
10.000 thanh niên tham gia, tổ chức đào tạo nghề cho 105 thanh niên, giới
thiệu cho 11.375 thanh niên có việc làm ổn định với mức lương khá, hướng
dẫn, làm thủ tục cho 96 thanh niên xuất khẩu lao động tại các thị trường Nhật
Bản, Hàn Quốc, Malaysia, chương trình tư vấn mùa thi được Tỉnh đoàn phối lxx
hợp với báo Thanh niên và báo Tuổi trẻ tổ chức tại tất cả các huyện, thị, thành
phố trong toàn tỉnh với chất lượng ngày một nâng cao, đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng của học sinh.
Tăng cường tư vấn, hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp, khuyến
khích và vận động thanh niên chủ động tự tạo việc làm, giúp nhau lập nghiệp,
góp vốn và liên kết trong sản xuất kinh doanh, vào cuối năm 2017 BTV Tỉnh
đoàn đã tổ chức “Ý tưởng sáng tạo - khởi nghiệp” với sự đồng hành của
nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài tỉnh, tại đây đã hỗ trợ và cấp vốn đầu
tư cho 12 dự án có tính khả thi của thanh niên, với tổng kinh phí đã hỗ trợ là
850 triệu đồng. Các cấp bộ Đoàn tích cực tham mưu cấp ủy, chính quyền tạo
cơ chế khuyến khích học nghề, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, tạo việc làm
cho thanh niên tại các địa phương hoặc tạo điều kiện xuất khẩu lao động nước
ngoài. Hỗ trợ thanh niên tiếp cận với các nguồn vốn từ Trung ương đến địa
phương, qua đó góp phần tăng cường công tác hỗ trợ xây dựng và thành lập
các dự án, các tổ kinh tế hợp tác thanh niên… Tính đến nay tổng dư nợ ủy
thác cho thanh niên là 112 tỷ đồng.
Với những kết quả mà các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh đã tích cực triển
khai thực hiện trong nhiệm kỳ 2012-2017 đã mang đến những hiệu quả, góp
phần phát triển tỉnh Phú Yên đặc biệt là những vùng nông thôn, vùng khó
khăn có nhiều thay đổi với nhiều công trình thiết thực, nhiều con đường đã
được bê tông hóa và thắp sáng góp phần thuận lợi trong giao thương, đảm bảo
an ninh trật tự qua đó góp phần phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương.
Tuy nhiên, với nguồn lực và sự tạo điều kiện lớn của các cấp ủy và
chính quyền các địa phương thì sự kỳ vọng vào tổ chức Đoàn góp phần phát
triển kinh tế - xã hội còn chưa được đáp ứng, điều đó phản ánh qua kết quả
khảo sát tại phiếu khảo sát số 3 đối với sự “Tham gia các cơ sở Đoàn trực
thuộc Tỉnh đoàn trong việc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương”, các đồng chí UVBCH Tỉnh đoàn đánh giá
rằng chỉ có 30,8% ý kiến cho rằng các đơn vị đã làm rất tốt, 57,7% ý kiến cho lxxi
rằng các đơn vị làm tốt và 11,5% ý kiến cho rằng các đơn vị đã làm chưa tốt,
và theo trao đổi riêng thì nhận thấy đa phần ý kiến đều cho rằng các tổ chức
Đoàn cần chú trọng đến việc hỗ trợ thanh niên trong việc làm, đây là tiền đề
rất quan trọng nhằm xóa đói giảm nghèo và đặc biệt cần chú ý đến tạo việc
làm cho thanh niên ngay trên mảnh đất của quê hương, giúp thanh niên không
phải đi xa để mưu sinh đồng thời cũng giúp cho các cơ sở Đoàn đảm bảo
được lực lượng sinh hoạt Đoàn.
Đạt được những bước đầu trong việc tổ chức Đoàn thanh niên tham gia
vào phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, trong đó có phần đóng góp của
cán bộ Đoàn nhờ sự nổ lực, năng động vận động kinh phí xã hội hóa và cũng
là những người đi đầu trong việc triển khai các công trình phần việc, từ đó tạo
hiệu ứng khích lệ đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia.
Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát phiếu số 3 thì kết quả cho thấy rằng
bên cạnh mặt làm được cũng còn nhiều cán bộ đoàn chưa thể hiện rõ được vai
trò thủ lĩnh của mình, đã có 50% các đồng chí UVBCH đánh giá rằng cán bộ
Đoàn chưa làm tốt nhiệm vụ này, có 30,8% đánh giá tốt và có 19,2% đánh gia
là rất tốt. Và cũng theo trao đổi riêng thì đa phần ý kiến cho rằng các cán bộ
Đoàn hiện nay chưa nắm bắt được những phần việc cần chủ động tổ chức
thực hiện để phát triển địa phương còn chờ vào sự chỉ đạo của cấp ủy đảng,
gợi ý của chính quyền, nhân dân, bên cạnh đó một số cán bộ Đoàn thực sự
ngại công tác vận động xã hội hóa, còn suy nghĩ “Mình là cán bộ nhà nước,
việc gì phải đi xin…” và còn trong việc phát triển kinh tế riêng thì chưa là
"đầu tàu" để dẫn dắt thanh niên, trong toàn tỉnh chỉ có 2 cán bộ Đoàn cấp
huyện có làm kinh tế riêng với thu nhập trên 20 triệu/tháng.
2.2.4. Tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng
Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức
Thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị "Về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội" và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày lxxii
12/12/2013 của Bộ Chính trị ''Về việc ban hành quy định về việc mặt trận và
các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền''. Trong 5 năm qua, các cấp bộ đoàn trong toàn tỉnh đã triển
khai thực hiện đạt một số kết quả sau:
2.2.4.1. Về công tác giám sát
- Đối với cấp tỉnh:
+ Chủ trì giám sát 1 cuộc giám sát chuyên đề vào tháng 5/2018 với nội
dung: Giám sát việc triển khai thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh tỉnh Phú Yên (từ năm 2011 đến nay) tại các đơn vị: Huyện ủy Phú Hòa
và Đảng ủy xã Hòa Hội - huyện Phú Hòa, Thị ủy Sông Cầu và Đảng ủy
phường Xuân Yên - thị xã Sông Cầu, Huyện ủy Sông Hinh và Đảng ủy xã
Đức Bình Tây - huyện Sông Hinh.
+ Phối hợp giám sát với các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó BTV
Tỉnh đoàn đã cử lãnh đạo cơ quan tham gia các đoàn giám sát của Uỷ ban
MTTQ VN tỉnh. Trong 5 năm qua, đã tham gia 06 đợt giám sát với các
chuyên đề: Bảo vệ môi trường; Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử
Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021; Giám sát công trình giải
phóng mặt bằng và bồi thường hỗ trợ tái định cư một số công trình trọng
điểm; Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới; Công tác quản lý Nhà
nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Đối với cấp huyện:
+ Có 02/9 huyện, thị, thành phố chủ trì tổ chức các đoàn giám sát trong
5 năm qua với tất cả là 03 nội dung, đó là: Thị Đoàn Thị xã Sông Cầu giám
sát về công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; Huyện đoàn Sông Hinh
giám sát về thực hiện quy chế cán bộ đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên
và chương trình phát triển thanh niên huyện Sông Hinh.
+ Phối hợp với Uỷ ban MTTQ VN các huyện thị, thành phố và các tổ
chức chính trị xã hội đã tổ chức 77 đợt giám sát tập trung 6 chuyên đề, đó là:
Công tác huy động Quỹ vì người nghèo; Chương trình mục tiêu quốc gia lxxiii
nông thôn mới; Kết quả giải quyết kiến nghị của người dân trong đền bù, giải
phóng mặt bằng; Thực hiện chế độ chính sách với thanh niên xung phong; Xử
lý rác thải, vệ sinh môi trường; Kết quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân
và tổ giám sát đầu tư cộng đồng.
- Đối với cấp xã: ĐTN các Xã, Phường, Thị trấn không chủ trì tổ chức
giám sát, chỉ tham gia phối hợp giám sát. Trong 5 năm qua, ĐTN các Xã,
Phường, Thị trấn đã tham gia 277 đợt giám sát, tập trung các chuyên đề: Xây
dựng mới, chỉnh trang, sữa chữa nhà văn hóa thôn, các khu thể thao tập trung;
Xây dựng đường bê tông nông thôn; Giám sát thực hiện các tiêu chí xây dựng
nông thôn mới; Lựa chọn nhân sự hiệp thương đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021 và quy trình hiệp thương nhân sự bầu cử ban nhân dân thôn
nhiệm kỳ 2014-2017 và nhiệm kỳ 2017-2019; Giám sát việc cấp phát quà tết,
quà cứu trợ, xét hộ nghèo và các chế độ hỗ trợ khác cho nhân dân; Giám sát
công tác hòa giải ở cơ sở. Tham gia 109 đợt giám sát thông qua các hoạt động
của Ban thanh tra nhân dân và 146 đợt giám sát thông qua hoạt động của Ban
giám sát đầu tư cộng đồng.
2.2.4.2. Về công tác phản biện xã hội
Các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh chưa chủ trì tổ chức phản biện xã hội.
Tham gia các Hội nghị phản biện do UBMTTQ VN cấp tỉnh tổ chức và
có ý kiến góp ý dự thảo các văn bản có nội dung liên quan đến lĩnh vực Thanh
thiếu nhi. Đoàn cấp huyện đã tham gia 42 hội nghị phản biện do UBMTTQ
VN cấp huyện tổ chức. Các nội dung tham gia phản biện như: Chương trình
hành động của cấp ủy; Đề án về việc sáp nhập thôn, buôn, khu phố; Phản biện
về kế hoạch của cấp ủy về thực hiện Kế hoạch số 53-KH/TU, ngày 05/3/2018
của Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết TW6 khóa XII “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả”; Quy hoạch phát triển ngành nghề nuôi trồng thủy
sản; Đề án nhân dân làm, nhà nước hỗ trợ để xây dựng cơ sở hạ tầng; Dự thảo
Nghị quyết về sắp xếp các trường đạt chuẩn.
lxxiv
2.2.4.3. Về công tác góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
- Đối với cấp tỉnh:
Đã tổ chức được 15 hội nghị, cuộc họp góp ý và 5 dự thảo văn bản của
Trung ương, của tỉnh, tổ chức xem và góp ý vào 79 văn bản do Tỉnh ủy,
UBND tỉnh và các ban, ngành dự thảo, tổ chức 4 chương trình đối thoại trực
tiếp với lãnh đạo tỉnh cụ thể:
+ BTV Tỉnh đoàn tham gia góp ý các Đề án, quy định, quy chế của
Tỉnh ủy, các kế hoạch, chương trình của UBND tỉnh, nghị quyết HĐND tỉnh,
các báo cáo chuyên đề về các nội dung liên quan đến đoàn viên, Thanh thiếu
nhi bằng 2 hình thức: Góp ý tại Hội nghị do Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các sở,
ban, ngành chủ trì và góp ý trực tiếp vào dự thảo văn bản.
+ Tổ chức lấy ý kiến cán bộ, đoàn viên thanh niên về góp ý xây dựng
các dự thảo Luật đất đai sửa đổi và các quy chế, quy định, thông tư, đề án, kế
hoạch, nghị quyết từ trung ương đến địa phương thông qua các hình thức như:
Góp ý trực tiếp tại diễn đàn, góp ý bằng văn bản, thông qua Website Tỉnh
Đoàn Phú Yên thu hút đông đảo ĐVTN tham gia.
+ Tổ chức lấy ý kiến của hơn 3.500 cán bộ, đoàn viên, hội viên, thanh
niên trong toàn tỉnh về dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp; Triệu tập tất
cả BCH Tỉnh đoàn tham gia hội nghị lấy ý kiến góp ý vào dự thảo văn kiện
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, nhiệm
kỳ 2015-2020 do Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với UBMTTQ VN tỉnh tổ
chức.
+ Tổ chức diễn đàn Đảng với Thanh niên - Thanh niên với Đảng với sự
tham gia của 300 cán bộ đoàn năm 2015. Tại diễn đàn, cán bộ Đoàn đối thoại
trực tiếp với lãnh đạo tỉnh về công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm,
chính sách vay vốn, cơ chế chính sách học tập nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, chế độ chính sách thu hút nhân tài, sử
dụng cán bộ trẻ, các thiết chế văn hóa xã hội cho thanh niên… các vấn đề đặt
ra tại diễn đàn đã được các đồng chí lãnh đạo tỉnh trực tiếp tư vấn, nghiêm túc lxxv
tiếp thu ý kiến để đưa vào những chương trình phát triển kinh tế xã hội tỉnh
nhà trong giai đoạn mới. Đặc biệt, vào năm 2016 BTV Tỉnh đoàn đã tổ chức
chương trình đối thoại giữa đồng chí Bí thư Tỉnh ủy với hơn 400 cán bộ, công
chức, viên chức trẻ của tỉnh, đã có những vấn đề cấp thiết và lâu dài đối với
thanh thiếu nhi tỉnh nhà được đặt ra tại chương trình và được trực tiếp đồng
chí Bí thư Tỉnh ủy chia sẽ, cùng tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn.
+ BTV Tỉnh đoàn phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên tổ
chức diễn đàn cử tri trẻ với đại biểu Quốc Hội khóa XIV năm 2017, với sự tham
gia của 300 ĐVTN, tại chương trình đã có 39 vấn đề mà tuổi trẻ của tỉnh quan
tâm gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh xoay quanh các nội dung như: Nhu cầu
khởi nghiệp, lập nghiệp của thanh niên, công tác hỗ trợ vay vốn cho thanh niên,
chế độ chính sách với thanh niên đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là chế độ cử
tuyển, tình trạng và cách xử lý các vụ xâm hại trẻ em, tình trạng vệ sinh an toàn
thực phẩm, bạo lực học đường, giải pháp giúp nông dân khắc phục tình trạng
được giá mất mùa, mức đóng bảo hiểm xã hội quá cao gây khó khăn cho người
lao động, các dự án lớn của tỉnh đã và đang được triển khai…
- Đối với cấp huyện: Tổ chức 52 hội nghị góp ý dự thảo các văn bản
của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương có liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, thanh niên và tổ chức đoàn. Tổ chức cho
đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý vào dự thảo văn kiện đại hội Đảng các
cấp, phối hợp tổ chức được 27 diễn đàn Đảng với Thanh niên - Thanh niên
với Đảng, đối thoại trực tiếp với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa
phương qua đó đã có hơn 2.000 lượt ĐVTN có dịp được tham gia và đóng
góp hơn 800 ý kiến về các vấn đề kinh tế xã hội của địa phương, về giải quyết
việc làm, vay vốn trong thanh niên, các khu vui chơi giải trí dành cho Thanh
thiếu nhi … đồng thời ĐVTN cũng được trực tiếp lắng nghe, nắm bắt những
vấn đề về công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng, thông tin về các chính sách
pháp luật qua đó tạo mối liên hệ giữa người đứng đầu cấp ủy đối với ĐVTN
nói riêng và nhân dân nói chung.
lxxvi
- Đối với cấp xã: Tổ chức các cuộc họp góp ý dự thảo văn kiện đại hội
Đảng bộ xã, phường, thị trấn, chủ trì và phối hợp với các ban, ngành địa
phương tham mưu cấp ủy, chính quyền tổ chức 303 cuộc gặp gỡ, đối thoại
giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân, đoàn viên thanh niên
về những vấn đề về quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đoàn viên, thanh
niên, những khúc mắc do liên quan đất đai kéo dài (tiến độ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, đền đù, giải tỏa của một số dự án, quy hoạch treo),
xây dựng trái phép, lấn chiếm sông, suối, cống rãnh làm ảnh hưởng đến hệ
thống thoát nước… có hơn 3.000 ý kiến đóng góp của ĐVTN và người dân
tại các buổi đối thoại.
Từ khi có Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị về việc “Ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc “Ban hành quy định về việc mặt trận và
các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền” đã tạo ra hành lang quan trọng trong điều hành, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua các tổ chức chính trị
xã hội đại diện cho các tầng lớp nhân dân, bản thân tác giả nhận thấy đây là
các quyết định cực kỳ quan trọng nhằm chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền làm chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau việc tham gia của các tổ chức chính trị xã
hội chưa thật sự đáp ứng được các yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Đối với Đoàn Thanh niên tỉnh Phú Yên thì theo kết quả khảo sát tại
phiếu khảo sát số 3 về “Tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội, góp ý
xây dựng Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức” đã có 30,8% ý
kiến đánh gia tốt, trong khi đó lại có đến 69,2% ý kiến các đồng chí trong
BCH Tỉnh đoàn cho rằng các cơ sở Đoàn thực hiện chưa tốt nhiệm vụ này và
đây là nội dung khảo sát duy nhất mà không có ý kiến nào cho rằng là rất tốt.
Tương tự như vậy, đối với cuộc khảo sát về cán bộ Đoàn trong việc thực hiện lxxvii
các quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị cũng không có ý kiến nào đánh
giá rằng cán bộ Đoàn trong tỉnh đã thực hiện rất tốt nhiệm vụ này, có 61,5% ý
kiến đánh giá thực hiện chưa tốt và chỉ có 38,5% ý kiến đánh giá tốt.
Kết quả khảo sát cũng như nhìn nhận chủ quan của tác giả cho thấy
rằng, mặc dù hành lang về cơ chế đã có đầy đủ nhưng ở khâu tổ chức thực
hiện còn nhiều lấn cấn, vướn mắc, chất lượng cán bộ Đoàn trong việc thực
hiện nhiệm vụ này không cao dẫn đến chưa thể đại diện cho tiếng nói của
đoàn viên, thanh niên, chưa có kiến thức đủ sâu để thực hiện kiểm tra, giám
sát và phản biện, còn ngại va chạm, e dè trong công tác…
2.3. Đánh giá về thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi
trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã có những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt,
đưa tổ chức Đoàn trở thành tổ chức góp phần quan trọng thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị tại địa phương. Nhiều phong trào Đoàn, phong trào thanh thiếu
nhi được các cấp bộ Đoàn khởi xướng với nhiều mô hình, cách làm hay, sáng
tạo, khắc phục những khó khăn thách thức đối với công tác Đoàn, công tác
thanh niên.
Công tác tổ chức cán bộ Đoàn được kiện toàn từ tỉnh, huyện đến cơ sở,
các phong trào được triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh, xuất hiện nhiều
gương cán bộ Đoàn tiêu biểu trên các lĩnh vực. Công tác bồi dưỡng, giới thiệu
Đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp đảm bảo đúng quy trình và chất
lượng, khẳng định việc rèn luyện trong tổ chức Đoàn là môi trường lý tưởng
để rèn luyện và trưởng thành, nhiều cán bộ Đoàn khi hết nhiệm vụ công tác
Đoàn được sự tín nhiệm của nhân dân, được Đảng phân công giữ các vị trí
quan trọng trong công tác Đảng, chính quyền.
Việc đổi mới phong cách và phương pháp làm việc theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh luôn được các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh nghiêm túc triển lxxviii
khai gắn với thực hiện Chỉ thị số 01 của BTV Trung ương Đoàn về “Tăng
cường rèn luyện tác phong, thực hiện lề lối công tác của cán bộ Đoàn” đã đổi
mới từ phong cách làm việc đến công tác chỉ đạo cơ sở. Đặc biệt, thực hiện
Chỉ thị 23 của BTV Tỉnh ủy, ngày 03/6/2013 “Về việc tăng cường kỷ luật, kỷ
cương hành chính trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh”,
đô ̣i ngũ cán bộ Đoàn đã thực hiện nghiêm túc giờ giấc làm việc, không uống
rượu, bia trong giờ hành chính và giờ nghỉ trưa của ngày làm việc, nâng cao
chất lượng công tác tham mưu góp phần xây dựng hình ảnh cán bộ Đoàn
gương mẫu, thân thiện, nói đi đôi với làm.
Nguyên nhân quan trọng nhất của những ưu điểm trên: Là do sự ra đời
của Quy chế Cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh do BTV Tỉnh ủy ban hành,
đây là cơ sở quan trọng để các cấp ủy Đảng quan tâm hơn nữa đến công tác
đào tạo cán bộ Đoàn đồng thời quy hoạch, bố trí sử dụng. Các cấp bộ Đoàn
trong toàn tỉnh đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy
Đảng, chính quyền và sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi của các ban ngành,
đoàn thể trong tỉnh; luôn chủ động tham mưu trong việc triển khai thực hiện
Quy chế Cán bộ Đoàn, đồng thời làm tốt quy trình về công tác cán bộ Đoàn
các cấp, do đó hiện nay đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp trong toàn tỉnh cơ bản
đảm bảo theo tiêu chuẩn Quy chế Cán bộ Đoàn quy định.
2.3.2. Những hạn chế
2.3.2.1. Hạn chế đối với tổ chức Đoàn trong việc tham gia quản lý nhà
nước trên địa bàn tỉnh Phú Yên
Một số nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục của Đoàn chưa phong
phú và đi vào chiều sâu, còn nặng về tính hình thức, coi trọng số lượng hơn chất
lượng. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chưa đủ bản lĩnh để tiếp cận các
đối tượng thanh niên khác nhau, các tổ nắm bắt dư luận xã hội hoạt động hiệu
quả không cao. Chưa có hình thức hiệu quả để nhân rộng các gương điển hình,
hoặc có chăng thì sức ảnh hưởng và lan tỏa còn hết sức hạn chế.
lxxix
Một số nội dung của hai phong trào cách mạng của Đoàn được triển
khai chưa đồng bộ, hiệu quả chưa rõ nét nhất là việc tham mưu xây dựng cơ
chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích tài năng trẻ, hỗ trợ thanh niên phát triển
kinh tế, nghiên cứu khoa học, ứng dụng phát triển công nghệ mới. Chưa có
nhiều giải pháp hiệu quả trong đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh
niên, việc chăm lo bảo vệ quyền lợi cho thanh niên đi làm ăn xa, thanh niên
công nhân, lao động tự do, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên khuyết tật
chưa phù hợp với yêu cầu chung hiện nay.
Có biểu hiện quá tải các hoạt động dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm,
có nghĩa là đi đến đâu cũng thấy sự xuất hiện của Đoàn Thanh niên nhưng
mức độ ảnh hưởng không sâu, làm chiếu lệ đại khái, vô tình gây phản ứng
ngược từ bà con nhân dân.
Công tác kiểm tra, rà soát, quản lý đoàn viên, thanh niên ở một số đơn
vị chưa sâu sát. Công tác xây dựng tổ chức Đoàn, Hội và mở rộng mặt trận
đoàn kết, tập hợp thanh niên tín đồ tôn giáo, thanh niên công nhân trong
doanh nghiệp ngoài Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Việc triển khai đoàn viên
tham gia sinh hoạt Đoàn tại nơi cư trú thực hiện chưa hiệu quả. Công tác giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét, kết nạp ở một số cơ sở Đoàn còn
thiếu sự chủ động, chất lượng đoàn viên còn có biểu hiện xem nhẹ vì bị chi
phối bởi chỉ tiêu.
Công tác phối hợp giữa Đoàn Thanh niên với các ngành, các cấp trong
công tác thanh niên ở một số cơ sở Đoàn chưa đạt hiệu quả cao, một số nơi
xem nhiệm vụ công tác thanh niên đơn thuần là của tổ chức Đoàn. Việc xây
dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chương trình công tác của Đoàn
chưa thật sự đổi mới thường xuyên bị đa vào tình trạng hành chính hóa, nặng
tính hình thức, chưa gắn với nhiệm vụ chính trị thực tế của địa phương, đơn vị.
Cơ sở vật chất, thiết chế văn hóa phục vụ cho Thanh thiếu nhi còn ít và
thiếu tính đồng bộ, việc huy động các nguồn lực xã hội chưa thật sự hiệu quả.
Công tác phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức các đợt lxxx
giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trương, chính sách chưa được chủ
động và thường xuyên. Tổ chức Đoàn nói riêng và các tổ chức chính trị - xã
hội nói chung, đôi khi chưa thể hiện được vai trò đại diện cho các tầng lớp
nhân dân của mình, chưa thật sự nói lên tiếng nói của bộ phận mà mình đại
diện, có lúc còn nói theo và làm theo chính quyền thiếu tính giám sát, kiểm
tra và phản biện chính quyền.
2.3.2.2. Hạn chế đối với cán bộ Đoàn trong việc thực hiện nhiệm vụ và
tham gia quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Yên
Năng lực của cán bộ Đoàn trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị
còn hạn chế so với yêu cầu, vẫn còn có một bộ phận cán bộ Đoàn các cấp
(chủ yếu tập trung ở cấp xã, phường, thị trấn) năng lực tham mưu, lãnh đạo
điều hành còn hạn chế, trình độ thấp, nói nhiều hơn làm, thiếu nhiệt huyết,
trách nhiệm, kỹ năng hoạt động trong công tác Đoàn, chưa thật sự gần gũi
thanh niên. Có không ít cán bộ Đoàn coi công tác Đoàn, tổ chức Đoàn là
“Trạm trung chuyển” trên con đường chính trị, là bệ phóng cho những vị trí,
chức vụ cao hơn, vẫn còn đó nhiều cán bộ Đoàn là “Con ông cháu cha”;...
Ðây là những nguyên nhân khiến hoạt động của Ðoàn Thanh niên chưa hấp
dẫn, không thu hút được thanh niên tham gia.
Công tác lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ Đoàn nhất là các vị trí cán bộ
Đoàn chủ chốt từ cơ sở, vẫn có một số địa phương thực hiện chưa đảm bảo
theo quy định của Quy chế Cán bộ Đoàn. Có những đồng chí được bố trí, sắp
xếp để vào làm cán bộ Đoàn rồi từ đó làm “Bệ phóng” để phát triển lên các
chức vụ cao hơn nên không được đào tạo bài bản về công tác thanh vận, thiếu
kiến thức để tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, không được sự tín nhiệm của tổ chức Đoàn cấp dưới,
ngại tiếp xúc với thanh niên do đó không triển khai được phong trào của Đoàn
đến với thanh niên; trình độ lý luận chính trị chưa được các cấp ủy ở một số
địa phương quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đúng mức.
Sự tổng hợp của các nguyên nhân trên hoặc một nguyên nhân đơn lẻ
lxxxi
dẫn đến công tác trưởng thành cho cán bộ Đoàn quá tuổi vẫn gặp nhiều khó
khăn, hiện có một số cán bộ Đoàn chưa thể trưởng thành Đoàn và luân
chuyển sang công tác phù hợp. Mặt khác, tình trạng khó khăn “Đầu ra” cho
cán bộ Đoàn quá tuổi là do cơ chế luân chuyển cán bộ ở các địa phương còn
nhiều khó khăn, biên chế được giao theo quy định, nếu không có cán bộ nghỉ
hưu theo chế độ thì không thể luân chuyển cán bộ Đoàn đã quá tuổi vào vị trí
công tác phù hợp, bên cạnh đó vẫn có một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa
thật sự quan tâm đúng mức đến công tác cán bộ Đoàn, thiếu đội ngũ cán bộ kế
cận dành cho công tác Đoàn.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan
Do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, tiềm lực kinh tế của địa
phương chưa mạnh, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao.
Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch “Diễn biến hòa bình”
làm lung lay ý chí, bản lĩnh chính trị, có biểu hiện của lối sống thực dụng,
thích hưởng thụ, xa rời ý chí chính trị của một bộ phận cán bộ Đoàn và lực
lượng Thanh thiếu nhi hiện nay. Sự tác động tiêu cực của cuộc cách mạng
internet, áp lực trong học tập, làm việc, thu nhập và những vấn đề của xã hội
hiện đại đã và đang ảnh hưởng đến khả năng được đáp ứng nhu cầu vui chơi,
giải trí và rèn luyện của thanh niên.
2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền có lúc, có nơi chưa thật sự quan tâm
đúng mức, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc đối với công tác thanh niên, có đôi khi
là sự xem nhẹ, coi công tác thanh niên là nhiệm vụ của tổ chức Đoàn.
Một số cơ sở Đoàn thiếu chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính
quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp triển khai thực hiện công tác Đoàn
và phong trào Thanh thiếu nhi.
lxxxii
Năng lực thực tiễn của một số cán bộ Đoàn trong công tác tham mưu,
chỉ đạo, tổ chức hoạt động còn hạn chế. Việc triển khai, thực hiện các Nghị
quyết, Chương trình công tác thiếu sự theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, tổng kết
rút kinh nghiệm kịp thời; thiếu tính sáng tạo trong vận dụng và cụ thể hóa các
chủ trương của Đảng, đôi khi còn chậm. Công tác tổ chức tập huấn nâng cao
kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, luân chuyển cán bộ ở nhiều cơ sở
Đoàn chưa thật sự được quan tâm đúng mức, chưa đảm bảo nguồn cán bộ thay
thế, có lúc, có nơi bị động làm ảnh hưởng đến hiệu quả phong trào chung.
Trong công tác phát triển Đảng viên mới, tổ chức Đoàn chỉ mới dừng
lại ở việc phát hiện, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng mà chưa thật sự chú
trọng tạo môi trường thử thách, rèn luyện để đoàn viên có đủ điều kiện trở
thành đảng viên.
Điều kiện kinh phí, cơ sở vật chất, nguồn lực phục vụ hoạt động công
tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi còn gặp nhiều khó khăn. Chế độ,
chính sách đãi ngộ cho cán bộ Đoàn còn bất cập, chưa động viên và thu hút
được những cán bộ có năng lực, tâm huyết làm việc trong hệ thống tổ chức,
đội ngũ của Đoàn.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, với nội dung thực trạng tham gia của cán bộ Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động động quản lý Nhà nước tại
tỉnh Phú Yên, luận văn đã nêu:
Khái quát về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Đoàn Thanh
niên tỉnh Phú Yên.
Về công tác cán bộ của Đoàn Thanh niên tỉnh Phú Yên trong đó tập
trung giới thiệu Quyết định 372-QĐ/TU ngày 14/3/2011 của BTV Tỉnh ủy lxxxiii
Phú Yên ''Về việc ban hành quy chế cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tỉnh Phú Yên'', trong đó đã có đánh giá một số kết quả bước đầu đạt
được khi thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn trong thời gian qua ngoài ra phân
tích, đánh giá các số liệu về cán bộ Đoàn Thanh niên tỉnh Phú Yên.
Nêu kết quả công tác Đoàn và phong trào Thanh Thiếu nhi tỉnh Phú
Yên đạt được giai đoạn từ 2012-2017, có kết hợp phân tích các kết quả khảo
sát. Từ những phân tích, đánh giá và tổng hợp những kết quả đạt được, luận
văn đã rút ra những mặt hạn chế và nguyên nhân làm cơ sở quan trọng để tập
trung đưa ra giải pháp trong chương 3 của luận văn.
lxxxiv
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CÁN BỘ ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VÀO HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm tăng cường sự
tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào
hoạt động quản lý nhà nước và phương hướng cụ thể nhằm tăng
cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh vào hoạt động quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên
3.1.1. Quan điểm
Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khóa X) đã tiến hành tổng
kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của BCH
Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, hội nghị đã kết luận về việc đẩy mạnh việc thực hiện Chiến
lược cán bộ từ nay đến năm 2020”, trong đó quán triệt sâu sắc các quan điểm
và mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ và xác định cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng.
Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với
nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở
nước ngoài; Xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ
chế, chính sách, với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Mục tiêu cần đạt được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục,
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ lxxxv
mới.
Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2017-2022)
đã xác định phương hướng: “Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh, trọng tâm là chất lượng cơ sở, chất lượng
đội ngũ cán bộ Đoàn và mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên. Phát
huy vai trò đội dự bị tin cậy của Đảng, là lực lượng trung kiên, gần Đảng
nhất, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị; đề cao trách nhiệm chăm sóc, giáo dục thiếu nhi; mở rộng, nâng cao hiệu
quả công tác quốc tế thanh niên”[5, tr16]. Đối với công tác tổ chức xây dựng
Đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục xác định “Chất lượng cơ sở là
trọng tâm; cán bộ là then chốt; đoàn kết, tập hợp thanh niên là nhiệm vụ
hàng đầu” [5, tr21]. Trong công tác xây dựng Đoàn phải nắm vững nguyên
tắc bám sát thực tiễn, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu đổi mới.
Trong công tác cán bộ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ
và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới: Nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, vai trò thủ lĩnh trong tập
thể thanh niên của cán bộ Đoàn các cấp. Tiếp tục tham mưu hướng dẫn và tổ
chức thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn đảm bảo sát với tình hình thực tiễn. Chú
trọng đồng bộ các khâu từ tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh
giá, bố trí, luân chuyển cán bộ; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng nguồn
cán bộ đầu vào của các cấp bộ Đoàn. Đầu tư tạo bước đột phá trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, trọng tâm là quy định và thực hiện đào tạo
cán bộ đoàn theo chuẩn chức danh công tác.
3.1.2. Phương hướng cụ thể
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên lần thứ IX
(nhiệm kỳ 2017-2022), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ XI, đồng thời triển khai phổ biến, quán triệt nghị quyết
tới toàn thể cán bộ, ĐVTN. Về quan điểm công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
Đoàn cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản như sau:
lxxxvi
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, lòng say mê, có kỹ
năng nghiệp vụ cao và được ĐVTN tín nhiệm.
Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn xuất phát từ phong trào thực tiễn và từ
đó tuyển chọn, bổ sung đội ngũ cán bộ Đoàn, chú ý đến chất lượng công việc.
Bảo đảm đủ cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, huyện và cơ sở, phát huy tốt đội
ngũ cộng tác viên.
Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn từ tỉnh đến cơ sở có trình độ, năng lực
chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định của Quy
chế cán bộ Đoàn, các nghị quyết, chương trình hành động của BTV Tỉnh ủy;
chú trọng công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, quản
lý, sử dụng và luân chuyển cán bộ, trong đó quy định cụ thể về điều kiện, tiêu
chuẩn, quy trình, tổ chức thi tuyển, chú trọng cán bộ trẻ trưởng thành từ cơ sở,
thực tiễn; chủ động tham mưu với cấp ủy Đảng để lựa chọn, bố trí, quy hoạch
theo đúng tiêu chuẩn quy định; mở lớp đào tạo nguồn cán bộ Đoàn cơ sở;
tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đơn vị để luân chuyển,
giải quyết đầu ra cho cán bộ Đoàn lớn tuổi.
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, đào tạo cán bộ về nghiệp vụ công
tác Đoàn, Hội, Đội về trình độ chính trị và nghiệp vụ. Tiếp tục nghiên cứu đề
xuất với các cấp ủy Đảng, chính quyền từng bước tháo gỡ và có chế độ chính
sách hợp lý cho cán bộ Đoàn, Hội, Đội các cấp nhất là ở cơ sở.
3.2. Giải pháp tăng cường sự tham gia của cán bộ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý Nhà nước tại tỉnh
Phú Yên
3.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và
Đoàn Thanh niên về vai trò của Đoàn trong tham gia vào hoạt động quản
lý Nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo Đảng ta luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò quan
trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của lxxxvii
Đảng và dân tộc. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên” tiếp tục khẳng định thanh niên là
lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương
lai, vận mệnh dân tộc, là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhận
những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên
là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng
tạo, muốn tự khẳng định mình.
Tuy nhiên, không phải lúc nào xã hội và các cấp ủy Đảng cũng có nhận
thức đầy đủ về vai trò, vị trí của thanh niên và tâm quan trọng của công tác
lãnh đạo Đoàn Thanh niên. Có nơi, có lúc các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên
coi thanh niên là lớp người non trẻ, “Ngựa non háu đá”, không dám giao
nhiệm vụ vì không tin tưởng. Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự biến đổi
nhanh chóng của tình hình đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai
trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do đó, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của thanh niên là một yếu tố rất
quan trọng để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên và Đoàn
thanh niên trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí
của thanh niên nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với thanh
niên và Đoàn thanh niên cần thực hiện tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng
về vai trò, vị trí của thanh niên và công tác thanh niên trong tình hình mới.
Cần nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về thanh niên và công tác
thanh niên. Trên cơ sở đó thống nhất trong nhận thức của cấp ủy đảng, của
cán bộ đảng viên và của chi ủy trong đánh giá, nhìn nhận vị trí, vai trò của
thanh niên và xác định rõ trách nhiệm của từng cấp ủy, từng chi bộ, đảng bộ,
cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, chăm lo xây
dựng, củng cố tổ chức đoàn. Coi việc xây dựng tổ chức Đoàn làm hạt nhân lxxxviii
đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên cũng quan trọng như xây
dựng tổ chức Đảng. Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên là một bộ phận
quan trọng, không thể tách rời, phong trào thanh niên luôn gắn liền với sự
lãnh đạo của Đảng, qua đó thanh niên phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.
Qua các phong trào, Đoàn sẽ làm tốt hơn việc tập hợp thanh niên, bổ sung lực
lượng và sức chiến đấu cho Đảng.
Thứ hai, đẩy mạnh việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục thanh
niên. Thực tế xã hội cho thấy, thanh niên với những đặc trưng về lứa tuổi, sức
khoẻ tâm lý và nhận thức, thường có các hành vi, lối sống, quan niệm, cảm
thụ và sáng tạo văn hoá riêng mà không phải lúc nào cũng được thừa nhận, lối
sống hay văn hoá thanh niên là một hiện tượng văn hoá đặc biệt gắn liền với
tuổi trẻ trong đó sự sáng tạo và đổi mới luôn là những đặc trưng cơ bản, nó
làm nên bản chất của văn hoá thanh niên. Bên cạnh sự định hướng cho thanh
niên tới những sự cảm thụ văn hoá lành mạnh, cần phải tin tưởng vào bản chất
tốt đẹp của thanh niên, tạo ra môi trường thuận lợi để giao nhiệm vụ và giúp
thanh niên vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Cần đẩy mạnh thực
hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, xử lý nghiêm minh cán bộ đảng viên thoái hóa, biến
chất, vi phạm pháp luật, tạo môi trường chính trị và đạo đức lành mạnh củng
cố niềm tin cho thanh niên. Phải phấn đấu để mỗi cán bộ, đảng viên là một
tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm để thanh niên học tập
và noi theo.
Thứ ba, phát huy vai trò xung kích của thanh niên và Đoàn thanh niên
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng phải lãnh đạo Đoàn Thanh niên,
Hội Liên hiệp thanh niên tạo ra những hoạt động sôi nổi, thiết thực nhằm
cuốn hút thanh niên, từ trong thực tiễn thanh niên sẽ được dịp rèn luyện và thể
hiện khả năng của mình, phát huy vai trò xung kích lao động sáng tạo nhằm
phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của thanh niên trong lao động, định
hướng Đoàn thanh niên phát triển thanh niên tình nguyện theo hướng đa dạng lxxxix
về nội dung, nâng cao về chất lượng, phát huy vai trò xung kích của thanh
niên trong bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội,
chủ động nắm bắt thông tin, chuẩn bị về ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế,
bản lĩnh chính trị văn hóa, nâng cao năng lực hội nhập…
Thứ tư, đổi mới cách nhận thức, đánh giá phiến diện về thanh niên và
Đoàn thanh niên. Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò quyết định của thanh niên
trong tiến trình lịch sử, nhận rõ khả năng cách mạng to lớn của thanh niên, có
thể “dời non”, “lấp biển"” hết lòng tin yêu thanh niên, song Người luôn đặt
thanh niên trong tư cách là một chủ thể đang phát triển, đang được tiếp tục
hoàn thiện. Khi nắm được những đặc điểm chung và riêng của thanh niên, sẽ
hiểu thanh niên hơn, từ đó tạo tiền đề nhận thức, dự báo những mặt tiêu cực,
tích cực để động viên, nhắc nhở, thức tỉnh, để họ phát huy những mặt tốt,
khắc phục, ngăn ngừa những mặt còn hạn chế hiệu quả hơn. Lãnh đạo Đảng,
Đoàn các cấp, chính quyền, các đoàn thể cần cộng đồng trách nhiệm, làm tốt
công tác thanh niên, từ đó tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và đề ra các
chương trình kế hoạch, giáo dục, bồi dưỡng thanh niên nhằm tạo ra một đội
ngũ thanh niên – những chủ nhân tương lai trưởng thành qua phong trào học
tập, tu dưỡng rèn luyện và nghiên cứu khoa học. Thông qua phong trào thanh
niên tổ chức Đoàn trưởng thành và lớn mạnh và ngược lại tổ chức Đoàn vững
mạnh sẽ tạo động lực thúc đẩy phong trào thanh niên lên tầm cao mới.
Thứ năm, bản thân thanh niên tự nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí
của mình từ đó xác định nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình, xã hội.
Hiện nay, một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít
quan tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực
dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc, nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này là sự tác động của môi trường sống, đề cao cái tôi của mình, đặt lợi ích cá
nhân của mình lên trên lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, đòi hỏi nhiều mà
cống hiến thì ít. Trước những thuận lợi và khó khăn, thanh niên Việt Nam
nhận thức sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò và sứ mệnh của mình, nâng cao ý xc
thức trách nhiệm, không ngừng nỗ lực, phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện
nâng cao trình độ tri thức, đạo đức cách mạng, trau dồi bản lĩnh đi đầu trong
cuộc đấu tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên làm chủ, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. trước nhân dân.
Đây chính là thể hiện sự đổi mới trong nhận thức của thanh niên và tổ chức
Đoàn thanh niên hiện nay.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật của Nhà nước và của chính quyền tỉnh cho đoàn viên, thanh niên trên
địa bàn tỉnh
Thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho quyền làm
chủ của công dân được đảm bảo, từ đó giúp cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên
và nhân dân nâng cao hiểu biết pháp luật, có niềm tin và sử dụng pháp luật để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Với mục đích nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên, thực hiện
hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm xây dựng một thế hệ trẻ
thanh, thiếu niên có ý thức chấp hành pháp luật tốt, có hiểu biết pháp luật để
tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và xã hội, cần tiến hành thực hiện
những giải pháp cụ thể một cách tích cực, đồng bộ và hệ thống như sau:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hê ̣ thống pháp luâ ̣t về thanh
thiếu niên, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự hình thành, phát triển và
giáo dục nâng cao ý thức của thanh thiếu niên. Theo đó, Nhà nước và các cấp
chính quyền địa phương cần xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, văn
bản quy phạm pháp luật đồng bộ, phù hợp và kịp thời nhằm định hướng, điều
chỉnh quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật của thanh thiếu niên.
Trước hết, đó là sự đảm bảo về mặt pháp luật để nhân dân nói chung và đoàn
viên, Thanh thiếu niên nói riêng được biết, được bàn, được kiểm tra, giám sát
những công việc, những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của
chính họ và đối với công việc chung của đất nước, của xã hội.
xci
Thứ hai, cần tiếp tục nâng cao nhận thức và nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên, Thanh thiếu
niên nói riêng. Huy động sự vào cuộc và phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị, tăng cường sự phối hợp thường xuyên để bảo đảm sự chỉ đạo, thực
hiện thống nhất, đồng bộ các nhiệm vụ quản lý Nhà nước có liên quan đến
việc giáo dục Thanh thiếu niên. BTV Tỉnh Đoàn cần có sự phối hợp thường
xuyên của một số ngành có vai trò, trách nhiệm chính như Nội vụ, Tư pháp,
Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội trong chỉ đạo, thực
hiện nhiệm vụ về công tác thanh niên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
dạy nghề và giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, hoạt động Đoàn, Hội, Đội.
Thứ ba, đổi mới nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện địa bàn. Chú
trọng gắn giáo dục pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
văn hóa; phải coi đây là những yếu tố thống nhất, không tách rời trong thực
hiện giáo dục toàn diện cho thanh thiếu niên, cả về tư tưởng chính trị, lý
tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa, lối sống theo pháp luật. Chú
trọng nhân rộng một số mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả, phù
hợp, thiết thực với thanh thiếu niên.
Thứ tư, xây dựng, củng cố đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật trong hệ thống tổ chức Đoàn. Bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng
lực, chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ Đoàn, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Quan tâm đầu tư
kinh phí, cơ sở vật chất, các điều kiện khác và tăng cường, huy động các
nguồn lực xã hội đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói
chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho Thanh thiếu niên nói riêng.
xcii
3.2.3. Tạo điều kiện, cổ vũ cán bộ Đoàn của tỉnh tham gia xây dựng
tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương
Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, do đó cán bộ Đoàn và những Đoàn
viên, Thanh niên đang làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước đóng vai
trò quan trọng trong công tác cải cách nền hành chính nước ta, đáp ứng được
các yêu cầu và nhiệm vụ trong thời đại CNH, HĐH đất nước. Thực trạng cán
bộ Đoàn của tỉnh tham gia xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ
cán bộ, công chức ở địa phương được nêu ở phần trên của luận văn cũng đã
chỉ ra những mặt đã làm được, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc
phục theo một số giải pháp sau:
Thứ nhất, chú trọng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn.
Nâng cao năng lực tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ Đoàn;
xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có năng lực lãnh đạo, quản lý
đáp ứng vị trí, nhiệm vụ công tác, đạt tiêu chuẩn chức danh ở các cấp. Cần
căn cứ quy hoạch đã được phê duyệt có trách nhiệm tham mưu, đề xuất, giới
thiệu cán bộ để cấp ủy Đảng có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch.
Thực tế đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp hiện nay ít người được đào tạo bài bản
công tác thanh vận nên việc cán bộ Đoàn yếu về kỹ năng, nghiệp vụ hoạt động
Đoàn cũng là điều dễ hiểu. Do đó, đội ngũ cán bộ Đoàn hiện nay cần phải được
đào tạo, bồi dưỡng về chuyên ngành thanh vận, được bồi dưỡng về kỹ năng,
nghiệp vụ, bản lĩnh người cán bộ phong trào nhằm tạo phục vụ công tác Đoàn
đồng thời tạo nguồn để sau này cán bộ Đoàn trưởng thành và phát triển thì tùy
vào năng lực chuyên môn của cán bộ Đoàn, cấp ủy Đảng nên có hướng quy
hoạch lâu dài từ đó có định hướng bồi dưỡng bổ sung kiến thức để phù hợp với
nhiệm vụ mới.
Nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả đội ngũ giảng viên, báo cáo
viên phục vụ tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, báo cáo viên phải
là cán bộ có trình độ, kinh nghiệm hoạt động Đoàn, có khả năng và phương xciii
pháp giảng dạy, truyền đạt. Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng bổ sung
kiến thức hoặc cử giảng viên, báo cáo viên đi đào tạo nâng cao trình độ,
nghiệp vụ giảng dạy theo phương pháp mới.
Thứ hai, thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ Đoàn. Thường xuyên
nhận xét, đánh giá dân chủ, công khai cán bộ trong quy hoạch chức danh cán
bộ Đoàn chủ chốt để kịp thời điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp,
mạnh dạn đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không bảo đảm theo tiêu
chuẩn. Công tác quy hoạch cán bộ Đoàn một số địa phương đặt trong quy
hoạch tổng thể đội ngũ cán bộ của cấp ủy, đảm bảo sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng trong quản lý, sử dụng cán bộ Đoàn.
Theo Quy chế cán bộ Đoàn thì cán bộ Đoàn được giới hạn trong một độ
tuổi nhất định. Do đó, các cấp ủy Đảng cần thường xuyên chỉ đạo cho cấp bộ
Đoàn cùng cấp thực hiện tốt nhiệm vụ quy hoạch đồng thời phối hợp với Đoàn
cấp trên phê duyệt quy hoạch nhằm sẵn sàng nguồn cán bộ dự bị làm công tác
thanh niên khi cán bộ Đoàn đã hết tuổi hoặc luân chuyển công tác khác cũng
như có quy hoạch để luân chuyển công tác cho cán bộ Đoàn hết tuổi.
Thứ ba, quan tâm công tác bố trí, sử dụng, luân chuyển, điều động cán
bộ Đoàn. Thực hiện đảm bảo đúng qui định, đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở
trường; đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc sẽ tạo cơ hội cho
cán bộ Đoàn rèn luyện, bồi dưỡng, thúc đẩy tinh thần làm việc tích cực, phấn
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, trưởng thành nhanh, toàn diện về mọi mặt. Kiên
quyết thay đổi ngay những cán bộ Đoàn kém về năng lực và phẩm chất, thiếu
tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật. Bố trí, bổ nhiệm, luân chuyển
cán bộ Đoàn phải góp phần kiện toàn bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền và
các đoàn thể tại địa phương, bởi vì họ là bộ khung, là nòng cốt của hệ thống
bộ máy tổ chức. Sau khi bố trí, phân công công tác cho cán bộ Đoàn phải luôn
theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra công tác của cán bộ chủ chốt đó, nếu cán bộ
có khuyến điểm thì tổ chức, người lãnh đạo giúp đỡ họ sữa chữa ngay để cán
bộ yên tâm, tự tin trong công tác và công tác đạt kết quả cao.
xciv
Đoàn Thanh niên các cấp cần thể hiện rõ vai trò của mình trong công
tác chủ động tham mưu cấp ủy Đảng trao đổi, thống nhất với Đoàn cấp trên
trong điều động, luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ Đoàn khi hết tuổi tham
gia công tác Đoàn hoặc đã hoàn thành nhiệm vụ công tác Đoàn phù hợp với
trình độ, năng lực và quy hoạch cán bộ đã được phê duyệt theo quy định.
Thứ tư, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ Đoàn.
Tuy chính sách tiền lương được cải tiến, có nhận được phụ cấp 30%
như các đoàn thể chính trị xã hội khác nhưng khối lượng công việc của cán bộ
Đoàn ngày càng tăng lên, không chỉ làm việc trong giờ hành chính, mà
thường xuyên phải tổ chức các hoạt động phong trào ngoài giờ hành chính,
thường xuyên đi về cơ sở trong khi đó chế độ chính sách còn hạn hẹp, nên
người có trình độ năng lực không muốn về làm cán bộ Đoàn, điều đó một
phần đã chứng minh, vì sao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn nâng lên chậm.
Làm cán bộ Đoàn đặc biệt là cán bộ Đoàn chủ chốt không chỉ vì sự nhiệt tình,
lòng yêu mến công tác Đoàn và phong trào thanh niên, mà ở khía cạnh nào
đó, đây còn là một nghề nghiệp đối với họ, nhất là trong thời buổi kinh tế khó
khăn hiện nay. Do đó, người cán bộ Đoàn cũng phải được hưởng những chế
độ, chính sách thỏa đáng với cương vị, nhiệm vụ mà họ đảm nhiệm, có vậy họ
mới toàn tâm, toàn trí với công tác chuyên môn.
Các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh từ tỉnh, huyện đến cơ sở cần tiếp tục
đề xuất các cấp có thẩm quyền thường xuyên xem xét và tạo điều kiện cho
cán bộ làm công tác Đoàn. Đặc biệt, là cán bộ Đoàn ở cơ sở có chính sách về
trợ cấp, kinh phí hoạt động đối với các chức danh chủ chốt ở phường, xã, góp
phần giải quyết khó khăn về đời sống cho cán bộ Đoàn cấp cơ sở. Tham mưu
về chính sách riêng về vấn đề học tập đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị,
nghiệp vụ, kỹ năng công tác và các chế độ chính sách khác.
xcv
3.2.4. Khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ Đoàn của tỉnh tham gia
vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
Thông qua giải pháp này, cán bộ Đoàn nói riêng và thanh niên nói
chung sẽ đóng góp sức trẻ của mình vào sự phát triển kinh tế, mà cán bộ Đoàn
sẽ là những người tiên phong và với vai trò cầu nối giữa Đảng và chính quyền
với Thanh niên thì chính hoạt động này sẽ góp phần đẩy mạnh sự tham gia
của cán bộ Đoàn vào hoạt động quản lý nhà nước tỉnh nhà.
Vấn đề quan trọng để tăng cường sự tham gia của tổ chức Đoàn, cán bộ
Đoàn vào hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về công
tác thanh niên nói riêng đó là phát huy một cách hiệu quả tính trẻ, năng động,
sáng tạo, xung kích của tổ chức Đoàn, cán bộ Đoàn và đoàn viên, thanh niên.
Do đó, tổ chức Đoàn cần vận động đoàn viên, thanh niên tham gia mạnh mẽ
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng
của đất nước. Sự tham gia của tổ chức Đoàn và cán bộ Đoàn vào các hoạt
động phát triển kinh tế xã hội của tỉnh có thể nhìn từ hai vấn đề đó là tổ chức
các phong trào tình nguyện trong thanh niên; đồng hành với thanh niên trong
lập thân lập nghiệp. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được và khắc
phục những hạn chế trong thời gian tới cần triển khai các giải pháp sau:
Đẩy mạnh các phong trào tình nguyện trong thanh niên:
Thứ nhất, khơi dậy lòng yêu nước của đoàn viên, thanh niên. Tiếp tục
đẩy mạnh công tác giáo dục cho đoàn viên, thanh niên có nhận thức sâu sắc
về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với đất nước, sự phát triển của đất nước trong
tương lai từ đó khơi gợi lòng yêu nước của đoàn viên, thanh niên.
Thứ hai, đa dạng hóa phương thức tổ chức các phong trào thanh niên
tình nguyện. Đây là nhân tố đảm bảo để phong trào ngày càng phát triển, cần
triển khai có hiệu quả các nguồn lực trong thanh niên và xã hội để tạo sức
mạnh tổng hợp phát triển phong trào.
Thứ ba, cần quan tâm đến chính sách cụ thể đối với đoàn viên, thanh niên
tham gia phong trào. Tổ chức Đoàn cần thể hiện rõ vai trò là cầu nối để bất cứ xcvi
một thanh niên có nhu cầu tình nguyện nào, vào thời điểm nào, lĩnh vực hoạt
động gì cũng có thể tham gia hoạt động tình nguyện; xây dựng các đội hình tình
nguyện chuyên sâu, chuyên đề nhằm đẩy hoạt động tình nguyện có trọng tâm,
trọng điểm. Đồng thời, các tổ chức Đoàn cần kịp thời phát hiện, biểu dương,
nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thanh niên tình nguyện.
Thứ tư, chú trọng vai trò dẫn dắt, tiên phong của người cán bộ Đoàn.
Không thể yêu cầu các cán bộ Đoàn luôn luôn cùng làm với các đoàn tình
nguyện, phong trào tình nguyện khác nhau; nhưng ở đây là vai trò dẫn dắt,
lãnh đạo, người cán bộ Đoàn cần định hướng, tạo cảm hứng cho thanh niên
tình nguyện, luôn đồng hành cùng các hoạt động tình nguyện, kịp thời tháo gỡ
khó khăn, là cầu nối giữa các đoàn tình nguyện với địa phương để xác định rõ
nhu cầu cần hỗ trợ từ đó có hướng làm việc phù hợp. Ngoài ra, các tổ chức
Đoàn và cán bộ Đoàn cần tỉnh táo trong quá trình thực hiện phong trào, không
để các đối tượng xấu lợi dụng các phong trào tình nguyện đang được tổ chức
rộng khắp trà trộn gây rối loạn, bất ổn và các mục đích xấu khác.
Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp:
Thứ nhất, tạo nguồn vốn ban đầu cho thanh niên lập thân lập nghiệp.
Đa số thanh niên hiện hay có chiều hướng di chuyển về các thành phố lớn để
lập nghiệp với phần lớn là làm các công việc phổ thông, có một lý do quan
trọng là thanh niên nông thôn không có vốn để đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Do đó, tổ chức Đoàn các cấp cần phối hợp chặc chẽ hơn nữa với Ngân hàng
Chính sách xã hội, chủ động làm cầu nối để thanh niên có nhu cầu tiếp cận
các nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi của nhà nước.
Thứ hai, trong quá trình phát triển kinh tế cần chú trọng đào tạo trình
độ, kiến thức, kỹ năng của đoàn viên, thanh niên trong quá trình phát triển
kinh tế, nhân rộng các mô hình hiệu quả. Cần thường xuyên phối hợp với các
sở, ban, ngành tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho
đoàn viên thanh niên nhất là đoàn viên, thanh niên nông thôn, ở các vùng sâu,
vùng xa còn gặp nhiều khó khăn về việc tiếp cận với thông tin, kỹ thuật. Kết xcvii
hợp hiệu quả công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, các thông tin công tác khuyến nông, khuyến lâm, thông tin công tác
Đoàn, tài liệu khoa học kỹ thuật, phổ biến các kiến thức về chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi, phương pháp xây dựng các mô hình kinh tế, bảo vệ môi
trường. Hàng năm, nên tổ chức gặp mặt các điển hình thanh niên sản xuất,
kinh doanh giỏi để biểu dương những gương thanh niên vượt khó vươn lên
lập thân lập nghiệp, nhằm phổ biến cách làm hay để thanh niên học tập, thi
đua xung kích tham gia phát triển kinh tế đồng thời nhân rộng các mô hình,
phương pháp làm kinh tế để giới thiệu cho thanh niên cùng học tập và vươn
lên.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giới thiệu việc làm cho thanh niên. Tổ
chức tìm hiểu và phân tích kỹ từng đối tượng thanh niên để có hướng tư vấn,
giới thiệu việc làm cho phù hợp. Bên cạnh đó, làm việc cụ thể đối với công ty
tuyển dụng về môi trường làm việc, môi trường sống, chế độ đãi ngộ và chịu
trách nhiệm trong công tác tư vấn để tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng, đảm bảo
cho thanh niên khi được tư vấn, giới thiệu thì có thể tiếp cận ngay được với
công việc làm, không triển khai mang nặng hình thức tuyên truyền như hiện
nay. Chú trọng thị trường xuất khẩu lao động, có rất nhiều thanh niên mong
muốn được tham gia các thị trường lao động có thu nhập cao như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Qatar… nhưng khó tiếp cận vì lý do về nguồn kinh phí lúc đầu và
nước bạn không tuyển dụng do người lao động khi hết hạn hợp đồng lao động
không chịu về nước, Đoàn Thanh niên các cấp cần làm tốt công tác tuyên
truyền, vận động các gia đình có con em đang lao động bất hợp pháp tại các
nước bạn về nước để mở cửa lại thị trường lao động, bên cạnh đó tích cực
tham mưu cơ chế, chính sách ưu đãi cho thanh niên vay thông thoáng hơn để
tạo điều kiện về kinh tế tham gia xuất khẩu lao động.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ chương trình đồng hành với thanh niên lập
thân, lập nghiệp và đồng hành với thanh niên trong học tập và nghiên cứu,
khoa học. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ các ý tưởng sáng tạo, nghiên cứu xcviii
khoa học trong học sinh nhằm tạo ra những sản phẩm có ích cho xã hội, bên
cạnh đó là định hướng nghề nghiệp việc làm. Tích cực tuyên truyền, tư vấn để
loại bỏ ý nghĩ đã thấm nhuần trong xã hội là trọng thầy khinh thợ, cần phải có
cách nhìn phù hợp với cuộc sống xã hội hiện nay, tùy vào năng lực của từng
em sẽ có định hướng nghề nghiệp việc làm phù hợp, chú trọng hỗ trợ thanh
niên học nghề kỹ thuật cao và chuyên sâu, có am hiểu về công nghệ thông tin.
Thứ năm, tổ chức Đoàn, cán bộ Đoàn cần thực sự là tiên phong và
đồng hành với thanh niên. Thường xuyên được học tập, tập huấn các xu thế
thay đổi của xã hội về nghề nghiệp việc làm, tích cực tìm ra hướng đi mới
giúp thanh niên tự làm giàu trên mảnh đất quê hương; Làm tốt công tác kết
nối thanh niên đi làm ăn xa của địa phương nhằm có phương án hỗ trợ hiệu
quả khi gặp khó khăn. Cán bộ Đoàn cần tích cực vươn lên làm giàu, mạnh
dạn tổ chức làm kinh tế để đóng vai trò dẫn dắt, đặc biệt là các cán bộ Đoàn ở
cơ sở thông qua những kiến thức được đào tạo, bồi dưỡng cần không ngừng
sáng tạo, tìm tòi, học hỏi để cùng làm ăn kinh tế với thanh niên địa phương.
3.2.5. Cán bộ Đoàn tích cực tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện
xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức
Trước hết các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh cần làm tốt công tác kiểm
tra, giám sát nội bộ với cán bộ Đoàn nói riêng và tổ chức Đoàn cấp dưới nói
chung, đây là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục, thông qua đó sẽ làm vững
mạnh thêm tổ chức Đoàn và kịp thời phát hiện những thiếu sót của cán bộ
Đoàn để có biến pháp chấn chỉnh, đào tạo bồi dưỡng nhằm xây dựng thế hệ
cán bộ trẻ trong tương lai được tốt và hoàn thiện hơn:
Thứ nhất, thường xuyên, liên tục tiến hành kiểm tra, giám sát, quản lý
cán bộ Đoàn. Tăng cường, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của ĐVTN,
nhân dân đối với cán bộ Đoàn đặc biệt là cán bộ Đoàn chủ chốt, người đứng
đầu tổ chức cơ sở Đoàn, của cơ sở Đoàn cấp dưới đối với cơ sở Đoàn cấp trên
và ngược lại, không chờ khi có khuyết điểm, vi phạm nghiêm trọng các quy
định, chính sách Nhà nước mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Kiểm tra phải có kết xcix
luận cụ thể, rõ ràng, không né tránh sai phạm, thông qua đó nếu phát hiện có
vi phạm phải kịp thời xử lý nghiêm minh để giáo dục, đồng thời thông qua
kiểm tra để uốn nắn, giúp cán bộ Đoàn và tổ chức Đoàn sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm, sai phạm nhằm đạt được mục đích là nâng cao chất lượng của
đội ngũ cán bộ, tổ chức Đoàn từ cơ sở tạo niềm tin cho đoàn viên, thanh niên.
Thứ hai, định kỳ hàng năm, các cấp bộ Đoàn có kế hoạch kiểm tra,
giám sát BCH, BTV Đoàn cấp dưới. Các nội dung kiểm tra, giám sát đó là việc
thực hiện Quy chế cán bộ Đoàn, công tác tổ chức cán bộ Đoàn, việc thực hiện
các nhiệm vụ công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi. Qua kiểm tra, giám
sát kịp thời chấn chỉnh những sai phạm cũng như đúc kết kinh nghiệm tổ chức
hoạt động Đoàn trong thực tiễn để có biện pháp nhân rộng. Cần có hình thức
biểu dương, khen thưởng kịp thời các cán bộ Đoàn có thành tích xuất sắc trong
sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, trong công tác xây dựng Đoàn, Hội,
Đội, phong trào TTN. Bên cạnh đó, nếu mắc khuyết điểm thì tùy theo mức độ
vi phạm phải chịu hình thức kỷ luật của Đoàn, kỷ luật của Đảng, của chính
quyền theo quy định.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho tiếng nói của đoàn
viên, Thanh thiếu nhi, là một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân thì việc thực
hiện các Quyết định số 217 và 218 của Bộ Chính trị là nhiệm vụ chính trị trọng
tâm của tổ chức Đoàn, qua đó phát huy quyền làm chủ của đoàn viên, Thanh
thiếu nhi, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị vững mạnh. Tuy nhiên,
đây có thể nói là khâu yếu nhất của tổ chức Đoàn, cán bộ Đoàn toàn tỉnh hiện
nay, công tác kiểm tra, giám sát chưa thể hiện rõ nét, công tác phản biện xã hội
thì chưa có những ý kiến thật sự trọng lượng, đúng trọng tâm cần phản biện do
đó chất lượng chưa cao. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao nâng cao
hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội;
phát huy vai trò chủ động của tổ chức Đoàn, cán bộ Đoàn trong công tác kiểm
tra, giám sát, phản biện xã hội bên cạnh đó tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy, sự
đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện của chính quyền, trân trọng sự hỗ trợ, đóng góp c
và giúp đỡ của đoàn viên, thanh niên. Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát, phản biện xã hội đối với chính quyền và góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng Chính quyền cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc
trong các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội, trong cán bộ, đảng viên đặc biệt là xác định rõ quyền và
trách nhiệm của cán bộ Đoàn, tổ chức Đoàn về việc thực hiện quy định về
giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đúc
kết kinh nghiệm, cách làm thiết thực từ các tổ chức Đoàn trong toàn hệ thống
từ Trung ương đến địa phương, từ các đơn vị bạn để có hình thức học tập,
nhân rộng và tổ chức thực hiện. Có chương trình phối hợp cụ thể với các cơ
quan truyền thông tạo ra sức mạnh công khai của công tác kiểm tra, giám sát
và phản biện xã hội. Tổ chức nhiều buổi sinh đoàn Đoàn, Hội, Đội chuyên đề
nhằm tiếp thu những ý kiến đề xuất của đoàn viên, thanh niên qua đó có thêm
tư liệu để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội đúng
trọng tâm, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng đông đảo đoàn viên, thanh
thiếu nhi.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng các cấp trong hoạt động
giám sát, phản biện xã hội. Sự quan tâm của cấp ủy quyết định hiệu quả hoạt
động giám sát, phản biện xã hội, sự quan tâm đó thể hiện bằng những việc cụ
thể: Tăng cường chỉ đạo thực hiện tốt quy chế phối hợp, thống nhất hành
động giữa các tổ chức chính trị - xã hội với chính quyền các cấp, các ngành
nhằm tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị - xã hội trong thực hiện
nhiệm vụ chung; bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng về bản lĩnh chính trị để cán bộ Đoàn có đủ khả năng thực hiện công tác
giám sát, phản biện xã hội; định kỳ nghe và góp ý kiến vào báo cáo kết quả
giám sát đồng thời chỉ đạo UBND, các cơ quan liên quan thực hiện những
kiến nghị chính đáng của các đoàn giám sát một cách đầy đủ và nghiêm túc,
có thông tin phản hồi về công việc đã thực hiện với đoàn giám sát, cấp ủy ci
biết. Thực hiện nghiêm túc quy định người đứng đầu cấp ủy, UBND các cấp
gặp gỡ, đối thoại, lắng nghe ý kiến của đoàn viên, thanh niên, cán bộ Đoàn
các cấp. Chính tổ chức cấp ủy Đảng cũng cần phải nghiêm túc, cầu thị tiếp
thu những ý kiến đóng góp của tổ chức Đoàn, đồng thời chịu sự giám sát của
tổ chức Đoàn nói riêng và các tổ chức chính – trị xã hội nói chung. Định kỳ tổ
chức sơ, tổng kết nhằm nhân rộng cách làm hay, có hiệu quả và rút kinh
nghiệm, đề ra phương hướng tiếp theo.
Thứ ba, UBND các cấp và các ban ngành, các đơn vị cần xem công tác
kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội là góp
phần làm cho đơn vị, địa phương mình mạnh hơn, ngăn ngừa những sai
phạm, cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Do đó, cần có
chương trình phối hợp cụ thể trong công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã
hội hàng năm, quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện chức năng
kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội. Hướng dẫn sử dụng kinh phí, bảo đảm
điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội, phân rã đều cho
các tổ chức chính trị - xã hội chứ không tập trung về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp như hiện nay. Tiếp thu, trả lời kịp thời những kiến nghị của
các tổ chức Đoàn.
Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, kỹ
năng cho cán bộ Đoàn để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, phản biện
xã hội. Do đó, cần tổ chức các lớp tập huấn và hướng dẫn nghiệp vụ giám sát
và phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ Đoàn. Trong đó tập trung hướng dẫn
quy trình, kinh phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội.
Thường xuyên quan tâm đến chất lượng nhân sự tham gia các Ban tư vấn, Tổ
tư vấn và Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Vận
động đoàn viên, thanh niên giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất
là liên quan đến cơ chế, chính sách, chế độ, tích cực tham gia xây dựng nông
thôn mới và văn minh đô thị… Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế bảo vệ
những người dám giám sát, phát hiện, kiến nghị và đấu tranh với sai phạm để cii
giúp cho người dân, đoàn viên, thanh niên yên tâm trong công tác kiểm tra,
giám sát và tố giác tội phạm. Có hình thức tuyên dương, khen thưởng kịp thời
các tổ chức, cá nhân có tinh thần tham gia kiểm tra, giám sát tốt ở cơ sở.
Thứ năm, tổ chức Đoàn cần chủ động xây dựng chương trình kiểm tra,
giám sát. Hằng năm, các tổ chức Đoàn cần chủ động xây dựng kế hoạch kiểm
tra, giám sát liên quan đến các văn bản, chỉ đạo dành cho công tác thanh niên
đồng thời phối hợp chặt chẽ với Ủy ban MTTQVN và các tổ chức chính trị -
xã hội các cấp lựa chọn nội dung vấn đến bức xúc có liên quan đến quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, đoàn viên và nhân dân để xây dựng kế
hoạch trình cấp ủy trực tiếp phê duyệt và chỉ đạo tổ chức thực hiện, cần lựa
chọn phương pháp kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội phù hợp. Việc tổ
chức các đoàn kiểm tra, giám sát và triển khai thực hiện cần chỉ rõ nội dung
chủ trì, rõ nội dung phối hợp, tổ chức các đoàn hợp lý về thời gian và địa
điểm. Tăng cường giám sát các vụ việc trong giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố
cáo, công khai kết luận thanh tra…, chú trọng đến tham khảo ý kiến của
người dân, đoàn viên, thanh niên về mức độ hài lòng của phương án xử lý đã
được đưa ra.
Thứ sáu, chú trọng công tác cán bộ trong việc thực hiện chức năng
kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội. Người cán bộ Đoàn cần phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đầy đủ kiến thức, có cách nhìn đa chiều, có cách làm
việc tỷ mỹ, gọn gàng, có mối quan hệ tốt với đoàn viên, thanh niên do đó
không phải bất kỳ người cán bộ Đoàn nào cũng thực hiện được nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội mặc dù tất cả tổ chức Đoàn đều thực hiện
chức năng kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội. Cần phải có sự lựa chọn
người cán bộ Đoàn cho phù hợp, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm,
đưa họ tham gia với các đoàn phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội để
đúc kết, rút kinh nghiệm thực tiễn trước khi chủ trì thực hiện chức năng kiểm
tra, giám sát, phản biện xã hội. Cần có cách đánh giá cán bộ Đoàn trong việc
ciii
thực hiện nhiệm vụ này cho phù hợp, vì đây là nhiệm vụ mang tính đụng
chạm cao đến “Lợi ích” của các cá nhân, tổ chức.
Thứ bảy, trong công tác giám sát cần nghiên cứu, xem xét các văn bản
liên quan đến hoạt động, nội dung giám sát; Trong công tác phản biện xã hội
cần tổ chức hội nghị, gửi dự thảo văn bản phản biện đến các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện xã hội hoặc tổ chức đối
thoại trực tiếp với cơ quan có vấn đề cần được phản biện xã hội. Cần huy
động ý kiến của các chuyên gia, các cán bộ Đoàn qua các thời kỳ có nhiều
kinh nghiệm và kiến thức liên quan bằng các hình thức như tư vấn, phản biện
về quy trình và kết quả giám sát, hậu kiểm kết quả xử lý các kiến nghị giám
sát… qua đó, tạo được bước đột phá trong hoạt động giám sát và phản biện xã
hội. Sau khi kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội cần phải theo dõi, đôn đốc
các cơ quan có thẩn quyền giải quyết các đề xuất, kiến nghị của đoàn giám
sát, thực hiện tiếp nhiệm vụ lấy ý kiến của đối tượng bị tác động xem cách
giải quyết đó đã mang đến sự hài lòng hay chưa.
Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội chính là
thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, đoàn viên, thanh niên một cách
thực chất, qua đó xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác nắm bắt thông tin, truyền đạt đến các cấp
có thẩm quyền
Hoạt động của các tổ nắm bắt dư luận xã hội đã được thành lập cần
được củng cố và kiện toàn một cách nghiêm túc, đảm bảo đầy đủ cơ cấu, hoạt
động đi vào thực chất theo quy chế cụ thể. Đây là một đội hình được thành
lập và rải toàn tỉnh, có nhiệm vụ nắm bắt thông tin một cách nhanh nhất nhằm
có báo cáo kịp thời và tham mưu hướng giải quyết các tình huống phát sinh.
Tăng cường tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên, cán bộ Đoàn giao lưu
và học tập kinh nghiệm lẫn nhau, tích cực tìm kiếm những điều hay, mới để
áp dụng cho địa phương, sử dụng tốt ưu điểm nhạy bén với tình hình mới của
civ
tuổi trẻ, từ đó áp dụng vào tình hình thực tế của địa phương một cách có chọn
lọc theo một phương pháp riêng.
Áp dụng công nghệ thông tin một cách triệt để, sử dụng các trang mạng
xã hội và các trang thông tin điện tử để trao đổi nắm bắt thông tin, học hỏi và
sàn lọc những điều hay, tốt cũng như loại bỏ những tạp chất, ra sức ngăn chặn
những tác động xấu.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với Ban thường vụ Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Chỉ đạo, định hướng cho Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam xây
dựng thêm nhiều mã ngành bậc đại học phù hợp với công tác thanh niên, nằm
trong hệ thống giáo dục đào tạo quốc gia để dần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
Đoàn. Cần quan tâm tiếp tục nghiên cứu, đề xuất ban hành những chính sách
đãi ngộ xứng đáng nhằm khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ Đoàn các
cấp yên tâm công tác, tích cực gắn bó, dành hết tâm huyết cho công tác Đoàn
trong vai trò “Thủ lĩnh” của mình.
Xây dựng chương trình công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi
hàng năm chú trọng đến nội dung tổ chức Đoàn, cán bộ Đoàn tham gia công tác
kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội, Đoàn tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ban thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên
Chỉ đạo các cấp ủy Đảng, hệ thống chính trị trong toàn tỉnh quan tâm
đến công tác thanh niên, hỗ trợ, giúp đỡ, phát huy vai trò của thanh niên, tổ
chức Đoàn Thanh niên trong quá trình xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
Tổ chức sơ kết việc thực hiện quyết định 372-QĐ/TU ngày 14/3/2011
của BTV Tỉnh ủy Phú Yên về việc ban hành quy chế cán bộ Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên, từ đó đúc kết kinh nghiệm, kịp thời bổ
sung những thiếu sót trong quá trình tổ chức thực hiện.
Chỉ đạo các cấp ủy Đảng không chỉ quan tâm đến đội ngũ cán bộ Đoàn,
cv
mà cần quan tâm luân chuyển khi cán bộ Đoàn lớn tuổi. Chỉ đạo cấp ủy Đảng
các cấp cần tôn trọng giới thiệu cán bộ ứng cử của tổ chức Đoàn cùng cấp và
thực hiện nghiêm túc quy trình thỏa thuận đối với BTV Đoàn cấp trên về nhân
sự cán bộ Đoàn chủ chốt.
3.3.3. Kiến nghị đối với Ban thường vụ các Huyện, Thị, Thành ủy
trên địa bàn tỉnh Phú Yên
Thường xuyên quan tâm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Đoàn, tổ
chức thực hiện bồi dưỡng, đào tạo các kỹ năng chuyên môn, lý luận chính trị
và kiến thức quản lý Nhà nước cho cán bộ Đoàn.
Quan tâm đến hoạt động của các tổ chức Đoàn cơ sở, kịp thời chỉ đạo
về công tác nhân sự thực hiện nghiêm Quyết định số 372-QĐ/TU ngày
14/3/2011 của BTV Tỉnh ủy Phú Yên ''Về việc ban hành quy chế cán bộ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên''; Chỉ đạo UBND cùng
cấp tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động công tác Đoàn và
phong trào Thanh Thiếu nhi, nhất là việc xây dựng các thiết chế văn hóa, thể
dục thể thao, vui chơi giải trí, nhà thiếu nhi trên địa bàn.
3.3.4. Kiến nghị Ủy ban nhân dân các cấp
Thực hiện nghiêm túc quy chế phối hợp với Đoàn Thanh niên các cấp.
Quan tâm đến công tác giải quyết việc làm cho thanh niên.
Tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên các cấp thực hiện chức năng tham
gia quản lý Nhà nước nói chung và công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã
hội nói chung.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, định hướng phương hướng và giải pháp tăng cường sự
tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào hoạt động quản lý Nhà
nước tại tỉnh Phú Yên, luận văn đã tập trung làm rõ:
Nêu lên quan điểm chung và phương hướng cụ thể nhằm đẩy mạnh công
tác tham gia của cán bộ Đoàn vào hoạt động quản lý Nhà nước.
Đưa ra hệ thống các giải pháp cơ bản dành cho từng chuyên đề tham gia
cvi
vào hoạt động quản lý Nhà nước của cán bộ Đoàn và tổ chức Đoàn. Từ đó có
kiến nghị, đề nghị với các cấp ủy Đảng, UBND các cấp và Trung ương Đoàn.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nêu trên, trong đó yếu tố quan trọng
nhất không thể thiếu vẫn là ý thức tự học, tự rèn luyện, tình nguyện cống hiến,
chịu khó và đam mê với phong trào, tinh thần trách nhiệm với tổ chức Đoàn,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân của cán bộ Đoàn thì chất lượng tham gia
vào hoạt động quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên sẽ được nâng lên qua đó
góp phần nâng cao vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong hệ
thống chính trị, trong nhân dân và đoàn viên, thanh niên tỉnh Phú Yên.
KẾT LUẬN
Chất lượng cán bộ Đoàn là yếu tố quyết định sự phát triển của tổ chức
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Trong việc thực hiện nhiệm vụ tham gia quản lý
Nhà nước, thì việc nâng cao chất lượng cán bộ Đoàn càng có ý nghĩa quan
trọng. Cho nên việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn trên địa bàn
tỉnh Phú Yên theo hướng đủ trình độ, năng lực trong tập hợp đoàn kết thanh
niên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác hiện tại và thời gian tới là vấn đề
cấp thiết hiện nay.
Về cơ bản đội ngũ cán bộ Đoàn của tỉnh luôn gương mẫu đi đầu trong
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chủ động, sáng tạo trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo, tham mưu và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch, chương trình
công tác Đoàn và phong trào TTN, tích cực tham gia vào các hoạt động quản
lý Nhà nước. Nhưng trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường, các thế lực
thù địch đang ra sức thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật
đổ, an ninh chính trị tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường; đội ngũ cán bộ Đoàn
trên địa bàn tỉnh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng công tác còn hạn chế, thông tin chưa được cấp nhật kịp
thời, việc bố trí, sử dụng cán bộ Đoàn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, … là
những vấn đề đang làm ảnh hưởng đến chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn
nói riêng và tổ chức Đoàn nói chung vào hoạt động quản lý Nhà nước và các cvii
hoạt động chính trị của đơn vị trên tỉnh.
Từ những vấn đề trên, trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực
trạng chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn, phương thực hoạt động của các tổ
chức cơ sở Đoàn trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện nay, Luận văn đã đánh giá
được thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm góp phần tăng cường sự
tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước của cán bộ Đoàn và tổ chức Đoàn
trên địa bàn tỉnh, đáp ứng yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào TTN thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phù hợp với đặc thù địa phương.
Để nâng cao chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn và tổ chức Đoàn vào
hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh đồng thời nâng cao hiệu quả
hoạt động công tác Đoàn, phong trào thanh thiếu nhi trong thời gian tới cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp đã đề xuất, ưu tiên các giải pháp đột phá, chú
trọng giải pháp từ phía cấp ủy Đảng và giải pháp từ phía người cán bộ Đoàn.
Với ý nghĩa đó, tác giả mong muốn kết quả của Luận văn sẽ giúp hệ
thống tổ chức Đoàn trong toàn tỉnh có sự đánh giá, nhìn nhận về những ưu
điểm và hạn chế của đội ngũ cán bộ Đoàn trong thời gian qua; vận dụng các
giải pháp khả thi, xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn hoạt động hiệu quả, tích cực
trở thành khâu trung gian, là cầu nối giữa tổ chức Đoàn và đoàn viên, Thanh
thiếu nhi trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Mặt khác, các cấp
bộ Đoàn, cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh cần tự nhìn nhận lại vai trò, vị trí của
mình trong việc thực hiện nhiệm vụ tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước
và nhiệm vụ chính trị khác được Đảng và Nhà nước giao phó, xem đây là
công tác thường xuyên của đơn vị, là nhiệm vụ chiến lược để xây dựng tổ
chức Đoàn ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng vào việc đưa công tác
Đoàn và phong trào TTN tỉnh Phú Yên ngày càng phát triển, cùng chung tay
với toàn hệ thống chính trị, nhân dân góp sức xây dựng tỉnh Phú Yên ngày
càng giàu đẹp và văn minh.
Với nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra trong việc thực hiện
nhiệm vụ tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước của cán bộ Đoàn và tổ cviii
chức cơ sở Đoàn trong toàn tỉnh. Bản thân tác giả đã cố gắng đánh giá bao
quát, nêu một cách sát nhất với thực trạng và từ đó đưa ra những giải pháp có
tính khả thi cao tại địa phương. Nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế cần có những nghiên cứu sâu và ở cấp độ cao hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Về ban hành Quy chế Cán bộ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Quyết định số 289-QĐ/TW.
2. Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2009), Về Hướng
dẫn triển khai phong trào 3 trách nhiệm trong cán bộ, công chức trẻ.
3. BCH Trung ương Đảng (1993), Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
14/01/1993 của BCH Trung ương Đảng khóa VII về “Công tác thanh niên
trong tình hình mới”.
4. BCH Trung ương Đảng (1993), Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
25/7/2008 tại hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương Đảng khóa X về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
5. BCH Trung ương Đoàn khóa X (2017), Báo cáo chính trị trình Đại hội
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc, khóa XI, nhiệm kỳ 2017-2022.
6. BCH Trung ương Đoàn (2013), Kết luận số 03-KL/TWĐTN ngày
26/9/2013 của BCH Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khóa X về việc
“tổ chức cuộc vận động xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời
kỳ mới”.
7. BTV Tỉnh ủy Phú Yên (2011), Quyết định số 372-QĐ/TU ngày
14/3/2011 của BTV Tỉnh ủy Phú Yên về việc “ban hành quy chế cán bộ
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên”.
8. BCH Tỉnh đoàn Phú Yên khóa VIII (2017), Báo cáo chính trị trình Đại
hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên, khóa IX, nhiệm kỳ 2017-2022. cix
9. BTV Tỉnh đoàn Phú Yên (2017), Báo cáo số 664-BC/TĐTN-TCKT
ngày 08/8/2017 của BTV Tỉnh đoàn Phú Yên về việc “Tổng kết thực hiện
nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
10. BTV Tỉnh đoàn Phú Yên (2018), Báo cáo số 112-BC/TĐTN-TCKT
ngày 16/10/2018 của BTV Tỉnh đoàn Phú Yên về việc “Kết quả thực hiện
quyết định số 217-QĐ/TW, quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa
XI)”.
11. Bộ chính trị (2013), Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị về việc “ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội”.
12. Bộ chính trị (2013), Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị về việc “ban hành quy định về việc mặt trận tổ quốc Việt Nam, các
Đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền”.
13. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính
Phủ về “ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011-2020”.
14. Chính phủ - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2017), Nghị quyết
liên tịch ban hành quy chế phối phối hợp công tác của Chính phủ và Ban chấp
hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2022.
15. Cục thống kê tỉnh (2016), Báo cáo số 72 về điều tra dân số Cục thống
kê tỉnh Phú Yên 2016.
16. Doãn Đức Hảo (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học
17. Đại hội Đảng toàn quốc (2006), Văn kiện Đại hội Đảng khóa X, nhiệm
kỳ 2006 – 2010.
18. Đại hội Đảng toàn quốc (2015), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
cx
khóa XII.
19. Đại hội Đảng toàn quốc (2015), Văn kiện Đại hội Đảng khóa XII,
nhiệm kỳ 2015-2020.
20. Đại hội Đoàn toàn quốc (2017), Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
khóa XI.
21. Đào Ngọc Dung (2005), Sự tham gia của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vào
hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Luận văn thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia.
22. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi 2013.
23. Học viện Hành chính (2013), Tài liệu chuyển đổi cao học, Tài liệu
chuyển đổi cao học chuyên ngành Hành chính công.
24. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 4. Nxb Chính trị quốc gia.
25. Hồ Chí Minh tuyển tập (1980), tập 2. Nxb Sự thật.
26. Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên (1980). Nxb Thanh niên.
27. Hồ Chí Minh toàn tập (2004), tập 5. Nxb Chính trị quốc gia.
28. Hồ Chí Minh (1945), Tuyên ngôn độc lập.
29. Lê Thị Thanh Bích (2016), Chất lượng Bí thư Đoàn cấp xã ở tỉnh Phú
Yên hiê ̣n nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính quốc gia.
30. Lê Văn Cầu (1999), Đổi mới đội ngũ cán bộ Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh cấp huyện trong điều kiện hiện nay (qua thực tế một số tỉnh
Miền Trung), Luận án Tiến sĩ.
31. Lê Văn Ri (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác
thanh niên, Tạp chí xây dựng Đảng số 10/2011.
32. Nguyễn Thọ Ánh (2004), Đổi mới công tác đào tạo cán bộ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10/2004.
33. Nguyễn Văn Trung (1997), Chính sách và quản lý nhà nước về công
tác thanh niên ở một số nước trên thế giới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Như Ý(1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn Hóa Thông
tin.
cxi
35. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (2005),
Luật Thanh niên, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
36. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (2005),
Luật Giáo dục, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
37. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (2005),
Luật Cán bộ Công chức, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
38. Vũ Trọng Kim (1999), Quản lý Nhà nước về công tác thanh niên, Nxb
Chính trị Quốc gia.
cxii
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mẫu phiếu khảo sát đánh giá chất lượng sự tham gia của cán
bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên dành
cho lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành và UBND các huyện thị thành phố, những
đơn vị có Cán bộ Đoàn chuyển đến công tác sau khi thôi nhiệm vụ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
………., ngày ……. tháng….. năm 2018
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 1
Đánh giá chất lượng sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh trong quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên
(Phiếu dành cho Lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành và UBND các huyện thị
thành phố, những đơn vị có Cán bộ Đoàn chuyển đến công tác sau khi thôi
nhiệm vụ, chỉ tính đối với cán bộ làm việc từ 06 tháng trở lên, giai đoạn từ
năm 2012 - 2017)
----------
Nhằm chuẩn bị các nội dung cho đề tài “Sự tham gia của cán bộ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên”, xin gửi đến
các đồng chí phiếu khảo sát ý kiến đánh giá sự tham gia của cán bộ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý Nhà nước. Những thông tin mà các đồng
chí cung cấp chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học, rất mong nhận
được sự hợp tác và giúp đỡ.
Câu 1. Số lượng cán bộ Đoàn chuyển về công tác tại cơ quan đồng
chí?.
………………….. (Đơn vị chuyển đến ……………………………….)
Câu 2. Trình độ chuyên môn của các cán bộ Đoàn đang công tác tại cơ
quan đồng chí?
cxiii
Trung cấp: … ./…....đồng chí. Cao đẳng: ……../……..đồng chí.
Đại học: ……./…….đồng chí. Trên đại học: …../……..đồng chí.
Câu 3. Trình độ lý luận chính trị của các cán bộ Đoàn đang công tác tại
cơ quan đồng chí?
Sơ cấp: ……./……..đồng chí. Trung cấp: ……/……..đồng chí.
Cao cấp: .…./……..đồng chí. Cử nhân: ……/……..đồng chí.
Câu 4. Số lượng đồng chí cán bộ Đoàn đang công tác tại cơ quan đồng
chí phải cho đi đào tạo lại để đáp ứng nhiệm vụ công tác?
……./……..đồng chí.
Câu 5. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cán bộ Đoàn đang công
tác tại cơ quan đồng chí?
Không hoàn thành nhiệm vụ: ……./……..đồng chí.
Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực: ……/……..đồng
chí.
Hoàn thành tốt nhiệm vụ: .…./……..đồng chí.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: .…./……..đồng chí.
Câu 6: Thái độ làm việc của các cán bộ Đoàn đang công tác tại cơ
quan đồng chí?
a. Rất tốt: .... b. Tốt:... c. Bình thường:.... d. Chưa tốt:....
Câu 7: Khả năng được xem xét bố trí chức vụ cao hơn trong nhiệm kỳ
tới?
……./……..đồng chí.
Nhận xét, đánh giá chung về chất lượng cán bộ Đoàn đang công tác
tại cơ quan của đồng chí:…………………………………………………….
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………….
cxiv
Phụ lục 2: Tổng hợp kết quả phiếu khảo sát số 1
Nội dung khảo
sát/ Đơn vị Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7
khảo sát UBND huyện Đại học: 2 Trung cấp: 1; Hoàn thành xuất Tốt: 2 2 1 1
Đồng Xuân UBND Thành 5 Cao đẳng: 3; Cao cấp: 1 Trung cấp: 3; 3 sắc nhiệm vụ: 2 Hoàn thành tốt Tốt: 5 2
phố Tuy Hòa Đại học: 2 Cao cấp: 2 nhiệm vụ: 2;
Hoàn thành xuất
UBND Thị xã Đại học: 1; Trung cấp: 2 2 2 sắc nhiệm vụ: 3 Hoàn thành tốt Tốt: 2 0
Sông Cầu UBND huyện 4 Cao đẳng: 1 Cao đẳng: 3; Trung cấp: 4 3 nhiệm vụ: 2 Hoàn thành xuất Tốt: 2; Rất tốt: 2 2
Đông Hòa UBND huyện 3 Đại học: 1 Đại học: 3 Trung cấp: 2; 1 sắc nhiệm vụ: 4 Hoàn thành tốt Tốt: 3 1
Tây Hòa UBND huyện 2 Đại học: 2 Cao cấp: 1 Trung cấp: 2 1 nhiệm vụ: 3 Hoàn thành xuất Tốt: 1; Rất tốt: 1 1
Sông Hinh UBND huyện 4 Cao đẳng: 2; Trung cấp: 2; 2 sắc nhiệm vụ: 2 Hoàn thành xuất Rất tốt: 4 1
Sơn Hòa UBND huyện 3 Đại học: 2 Đại học: 3 Cao cấp: 2 Trung cấp: 2; 1 sắc nhiệm vụ: 4 Hoàn thành tốt Tốt: 3; Rất tốt: 1 2
Tuy An Cao cấp: 1 nhiệm vụ: 3
1 Sở LĐTB và Đại học: 1 Cao cấp: 1 Hoàn thành xuất Rất tốt: 1 0 1
3 Xã Hội Sở Kế hoạch Đại học: 3 Trung cấp: 3 Rất tốt: 2; Tốt: 1 sắc nhiệm vụ: 1 Hoàn thành tốt 3 2
1 Đầu tư Sở Khoa học Đại học: 1 Trung cấp: 1 Tốt: 1 nhiệm vụ: 3 Hoàn thành tốt 1 0
Công nghệ nhiệm vụ: 1
4 2 1 Sở VHTT&DL Cao đẳng: 1; Trung cấp: 2; Hoàn thành xuất Rất tốt: 1; Tốt: 3
1 Sở Nội Vụ Đại học: 3 Đại học: 1 Cao cấp: 2 Cao cấp: 1 sắc nhiệm vụ: 4 Hoàn thành xuất Rất tốt: 1 0 1
3 Ủy ban mặt Đại học: 3 Trung cấp: 2; sắc nhiệm vụ: 1 Hoàn thành tốt Tốt: 3 2 1
trận TQ VN Cao cấp: 1 nhiệm vụ: 3
tỉnh
Tổng hợp kết quả khảo sát:
- Số cán bộ Đoàn chuyển công tác: 38 đồng chí.
- Trình độ chuyên môn:
+ Đại học: 28/38 (73,7%)
+ Cao đẳng: 10/38 (26,3%)
- Trình độ lý luận chính trị:
+ Cao cấp: 12/38 (31,6%)
+ Trung cấp: 26/38 (68,4%)
- Số cán bộ phải đào tạo lại phù hợp với chuyên môn công tác mới: 22/38
(57,9%)
- Mức độ hoàn thành nhiệm vụ:
+ Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 21/38 (55,3%)
+ Hoàn thành tốt nhiệm vụ: 17/38 (44,7%)
- Thái độ thực hiện nhiệm vụ:
+ Rất tốt: 20/38 (52,6%)
+ Tốt: 18/38 (47,4%)
Các nhóm ý kiến nhận xét, đánh giá chung về chất lượng cán bộ Đoàn đang
công tác tại cơ quan:
- Nhóm 1: Cán bộ Đoàn sau khi được chuyển công tác về cơ quan quản lý nhà
nước có khả năng tiếp cần công việc nhanh, tinh thần làm việc năng nổ, có khả năng
làm khá tốt ở nhiều nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên, đôi khi thiếu sự kiềm chế trong
khi tiếp xúc với người dân, ít mạnh dạn có ý kiến trong các cuộc họp.
- Nhóm 2: Chuyên môn công tác thiếu tính chuyên sâu, cần phải đào tạo thêm
về chuyên môn. Có bản lĩnh chính trị tương đối vững vàng, sẵn sàng nhận nhiều
nhiệm vụ mà cơ quan giao cho. Có mối quan hệ tốt với đồng nghiệp xung quanh,
luôn nhiệt tình trong công việc, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp và nhân dân.
Phụ lục 3: Mẫu phiếu khảo sát đánh giá chất lượng sự tham gia của cán bộ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên dành cho các
đồng chí UV BCH Tỉnh đoàn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
………., ngày ……. tháng….. năm 2018
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 2
Đánh giá chất lượng sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
trong quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên
(Phiếu dành cho các đồng chí là Ủy viên BCH Tỉnh đoàn)
----------
Nhằm chuẩn bị các nội dung cho đề tài “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên”, xin gửi đến các đồng chí phiếu khảo sát ý kiến đánh giá sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong quản lý Nhà nước. Những thông tin mà các đồng chí cung cấp chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học, rất mong nhận được sự hợp tác và giúp đỡ.
Câu 1. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên
trên địa bàn tỉnh:
a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 2. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức ở địa
phương:
a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 3. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương:
a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 4. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong kiểm tra,
giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ,
công chức: a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Trân trọng cảm ơn!
Phụ lục 4: Tổng hợp kết quả phiếu khảo sát số 2
Câu 1. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên
trên địa bàn tỉnh:
Đã có 23/26 (88,5%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 3/26 (11,5%) phiếu đánh giá tốt.
Câu 2. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức ở địa
phương:
Đã có 15/26 (57,7%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 11/26 (42,3%) phiếu đánh giá tốt.
Câu 3. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong toàn tỉnh
trong việc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương:
Đã có 5/26 (19,2%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 8/26 (30,8%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 13/26 (50%) phiếu đánh giá chưa tốt.
Câu 4. Theo đồng chí chất lượng tham gia của cán bộ Đoàn trong kiểm tra,
giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ,
công chức:
Đã có 10/26 (38,5%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 16/26 (61,5%) phiếu đánh giá chưa tốt.
Phụ lục 5: Mẫu phiếu khảo sát đánh giá chất lượng sự tham gia của các cơ sở
Đoàn trực thuộc Tỉnh đoàn trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Yên dành cho các
đồng chí UV BCH Tỉnh đoàn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
………., ngày ……. tháng….. năm 2018
PHIẾU KHẢO SÁT Đánh giá chất lượng sự tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh đoàn
trong quản lý nhà Nước tại tỉnh Phú Yên
(Phiếu dành cho các đồng chí là Ủy viên BCH Tỉnh đoàn)
----------
Nhằm chuẩn bị các nội dung cho đề tài “Sự tham gia của cán bộ Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh trong quản lý Nhà nước tại tỉnh Phú Yên”, xin gửi đến các đồng chí
phiếu khảo sát ý kiến đánh giá sự tham gia của các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh đoàn
trong quản lý Nhà nước. Những thông tin mà các đồng chí cung cấp chỉ dùng cho
mục đích nghiên cứu khoa học, rất mong nhận được sự hợp tác và giúp đỡ.
Câu 1. Theo đồng chí chất lượng tham gia của các cơ sở Đoàn trực thuộc
Tỉnh đoàn trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước cho
đoàn viên trên địa bàn tỉnh:
a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 2. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức
ở địa phương:
a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 3. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong việc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương: a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Câu 4. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền
và đội ngũ cán bộ, công chức: a. Rất tốt b. Tốt c. Chưa tốt
Trân trọng cảm ơn!
Phụ lục 6: Tổng hợp kết quả phiếu khảo sát số 3
Câu 1. Theo đồng chí chất lượng tham gia của các cơ sở Đoàn trực thuộc
Tỉnh đoàn trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước cho
đoàn viên trên địa bàn tỉnh:
Đã có 20/26 (76,9%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 2/26 (7,7%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 4/26 (15,4%) phiếu đánh giá chưa tốt.
Câu 2. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong việc xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức
ở địa phương:
Đã có 10/26 (38,5%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 12/26 (46,1%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 3/26 (11,5%) phiều đánh giá chưa tốt.
Câu 3. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong việc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương:
Đã có 8/26 (30,8%) phiếu đánh giá rất tốt.
Đã có 15/26 (57,7%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 3/26 (11,5%) phiếu đánh giá chưa tốt.
Câu 4. Theo đồng chí chất lượng tham gia các cơ sở Đoàn trực thuộc Tỉnh
đoàn trong việc tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
chính quyền địa phương và đội ngũ cán bộ, công chức:
Đã có 8/26 (30,8%) phiếu đánh giá tốt.
Đã có 18/26 (69,2%) phiếu đánh giá chưa tốt.