BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------ BỘ NỘI VỤ ----/----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ NGUYÊN ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI
NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG – TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------ BỘ NỘI VỤ ----/----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ NGUYÊN ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI
NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG – TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Dương Đức Chính.
Luận văn cao học này là sản phẩm của sự tìm tòi, nghiên cứu và
trình bày của bản thân tôi về đề tài luận văn. Các số liệu, thông tin, quan
điểm, quan niệm của các đề tài và các nhà nghiên cứu khác được trích
dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc đúng theo quy định. Kết
quả đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực và chưa
được dùng để bảo vệ một học vị nào khác.
Học viên Lê Nguyên Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
về ưu đãi người có công với cách mạng - từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội”, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên
của nhiều cá nhân và tập thể cán bộ thuộc Phòng LĐTBXH quận Hoàn
Kiếm, phòng Chính sách người có công của Sở LĐTBXH thành phố Hà
Nội. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân,
tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo Học viện Hành chính
Quốc gia, cùng tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, cán bộ quản lý
của Học viện đã tận tình truyền đạt những kiến thức khoa học quý báu,
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Dương Đức Chính đã tận tình
hướng dẫn bản thân tôi nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn này.
Trong quá trình thực hiện luận văn chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót, rất mong được sự thông cảm và chia sẻ của các
Quý thầy, cô giáo và người đọc.
Xin chân thành cảm ơn./.
Học viên
Lê Nguyên Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………..…. 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI
CÁCH MẠNG ……………………………………………………..…… 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu
đãi người có công với cách mạng và các khái niệm có liên quan……… 11
1.1.1. Khái niệm về quản lý……………………………………………… 11
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật …………….………… 13
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với người có công với cách mạng 14
1.1.4. Khái niệm về người có công với cách mạng …………………….. 15
1.1.5. Khái niệm về chính sách ưu đãi đối với người có công với cách
mạng …………………………………………………………………………… 18
1.1.6. Các nhân tố liên quan việc thực thi chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng ………………………………………………………… 20
1.2. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công
với cách mạng ………………………………………………………………… 24
1.2.1. Xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật của nhà nước về ưu đãi
người có công với cách mạng..................................................................... 25
1.2.2. Tổ chức thực thi pháp luật của nhà nước về ưu đãi người có công
33 với cách mạng ……………………………………………………………………
1.2.3. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá về quản lý nhà
nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng………… 38
1.3. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người
có công với cách mạng ……………………………………………………… 40
1.3.1. Vì sao phải quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có
công với cách mạng …………………………………………………………… 40
1.3.2. Sự cần thiết xây dựng chính sách quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công ………………………………………………… 42
1.3.3. Sự cần thiết triển khai thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật
44 về ưu đãi người có công với cách mạng ......................................................
Kết luận Chương 1 ……………………………………………………………… 47
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỘ ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ
CÔNG VỚI CÁCH MẠNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG
PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
48 TẠI QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI………………….
2.1. Thực trạng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng trên toàn
quốc và quản lý nhà nước về chế độ ưu đãi người có công với cách mạng
trên toàn quốc …………………………………………………………………… 48
2.1.1. Thực trạng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng trên toàn
quốc ……………………………………………………………………………… 48
2.1.2. Thực trạng quản lý chế độ ưu đãi người có công với cách mạng
trên toàn quốc …………………………………………………………………… 54
2.1.3. Ưu điểm và hạn chế……………………………………………………… 56
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về chế độ ưu đãi người có công với
cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ………………….. 61
2.2.1. Khái quát về quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội………....…… 61
2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Lao động-Thương
binh và Xã hội quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội …………………… 62
2.2.3. Tình hình người có công với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội …………………………………………………….……… 63
2.2.4. Thực trạng về công tác chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi người có công
65 tại quận Hoàn Kiếm ……………………………………………….……………
2.2.5. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”……………………………………… 70
2.2.6. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá công
75 tác quản lý người có công tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội …
2.2.7. Đánh giá kết quả thực hiện quản lý nhà nước về chế độ ưu đãi
76 người có công trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ……
Kết luận chương 2………………………………………………………….….... 82
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ
ƢU ĐÃI VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU
ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TẠI QUẬN HOÀN
83 KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ………………..
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về ưu đãi đối với
83 người có công với cách mạng ....................................................................
84 3.1.1. Cải cách về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công…… …
3.1.2. Cải cách về chế độ trợ cấp đối với người có công ………………… 87
88 3.1.3. Cải cách về chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp đối với người có công
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ưu đãi
người có công với cách mạng trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố
90 Hà Nội giai đoạn 2020 - 2025 ...................................................................
3.2.1. Thực hiện việc tuyên truyền về chính sách ưu đãi đối với người có
90 công ………………………………………………………………………………
3.2.2. Nâng cao công tác chỉ đạo, hướng dẫn thiết lập hồ sơ đề nghị giải
91 quyết chính sách người có công với cách mạng ……….……………………
3.2.3. Phân công nhiệm vụ cụ thể gắn liền với với trách nhiệm trong việc
92 thẩm định hồ sơ người có công tại quận Hoàn Kiếm ………………………
3.2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý các chế độ
94 chính sách người có công …………………………………….…………..……
3.2.5. Đổi mới các hình thức chăm sóc người có công với cách mạng,
95 các phòng trào “Đền ơn đáp nghĩa” …………………………………..……
3.2.6. Đẩy mạnh và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội… 96
3.2.7. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, uốn
nắn, xử lý các vi phạm trong giải quyết chính sách ưu đãi đối với người
97 có công với cách mạng …………………………………………………………
Kết luận chương 3……………………………………………………….……… 98
99 KẾT LUẬN ……………..………………….…………………………..
101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………….……………………...….
105 PHỤ LỤC ……………………………………………………………....
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐHH chất độc hoá học
HĐKC hoạt động kháng chiến
HĐCM hoạt động cách mạng
LĐTBXH Lao động - Thương binh và Xã hội
KT-XH kinh tế - xã hội
NCC người có công
NĐ Nghị định
QLNN quản lý nhà nước
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Số liệu người có công cả nước đã được xác nhận 49
Bảng 2.2. Số lượng NCC tại quận Hoàn Kiếm đã được xác nhận 63
64
Bảng 2.3: Số lượng NCC tại quận Hoàn Kiếm đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng
Bảng 2.4. Kinh phí ngân sách được phân bổ các năm 68
Bảng 2.5. Số lượng NCC và thân nhân, người phục vụ NCC 72
được mua Bảo hiểm y tế
Bảng 2.8. Thống kê chi tiền quà đến đối tượng người có công 2019 74
Bảng 2.9. Thực hiện phong trào Đền ơn đáp nghĩa 74
Biểu 2.1. Biểu đồ ngân sách được phân bổ qua các năm 69
Biểu 2.2. Biểu đồ đánh giá mức độ quản lý chi trả trợ cấp ưu đãi tại 69
quận Hoàn Kiếm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, biết bao
thế hệ người Việt Nam với tinh thần yêu nước thương nòi, ý chí kiên cường
bất khuất và lòng thủy chung, nhân hậu, đã đem máu xương, công sức, của cải
của mình để gìn giữ độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Kế thừa truyền thống
quý báu đó của dân tộc ta, trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã viết nên trang sử vẻ vang trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm để giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; trong cuộc chiến
tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, dân tộc ta đã phải chịu
những hy sinh, tổn thất nặng nề. Ngày nay trong xây dựng hòa bình, vẫn có
những người con của dân tộc ta phải hy sinh hoặc chịu thương tật để bảo vệ
cuộc sống bình yên của nhân dân và sự phồn vinh của đất nước.
Chính vì vậy, ưu đãi người có công (NCC) với cách mạng là tôn vinh,
biết ơn, đền đáp công lao, đền ơn trả nghĩa đối với những người và gia đình
đã cống hiến, đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng quang vinh của
Đảng, của dân tộc. Đây là đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, là
làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về ưu đãi người có công, kế thừa truyền
thống đạo lý cao đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ
người trồng cây”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng và nêu lên tư
tưởng về ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng qua các kỳ Đại hội đều ghi nhận về ưu đãi xã
hội đối với người có công. Ban chấp hành Trung ương các khóa đều ban hành
Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận về công tác đền ơn đáp nghĩa, về tăng cường sự
1
lãnh đạo của Đảng đối với công tác ưu đãi người có công với cách mạng.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, ưu đãi xã hội đối với NCC là một nguyên
tắc Hiến định ghi nhận ở Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Trong suốt các thời kỳ kháng chiến, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước, vấn đề ưu đãi xã hội đối với NCC với
cách mạng ở nước ta luôn gắn liền với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công bằng
xã hội.
Chính sách ưu đãi NCC có ý nghĩa quan trọng, thể hiện đặc trưng và ưu
việt của chế độ chính trị của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung và phát triển năm 2011 của Đảng
đã khẳng định “Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công
với nước” là một nhiệm vụ quan trọng. Tại Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản
XI (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng) nêu rõ định hướng thực hiện
chính sách ưu đãi NCC: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước
chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia
đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách NCC, đặc biệt
là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung
phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến
khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình
của dân cư tại địa bàn” [40].
Theo đó, hệ thống ngành dọc quản lý bằng pháp luật và thực thi chính
sách ưu đãi đối với NCC được phân cấp từ trung ương (cấp Bộ) đến Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp tỉnh Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH)
đến UBND cấp huyện (phòng LĐTBXH) đến UBND cấp xã theo quy định tại
Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ [15].
2
Những kết quả đạt được trong thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi NCC đã góp phần quan trọng bảo đảm, nâng cao đời sống
tinh thần, vật chất của NCC và gia đình họ; tạo nên đồng thuận và ổn định
chính trị - xã hội của đất nước. Tuy vậy, thực tế thực hiện chính sách ưu
đãi NCC trong thời gian qua cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, như: diện
đối tượng NCC, điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận NCC chưa phù hợp; chế độ
trợ cấp thiếu khoa học bất hợp lý chưa phù hợp với thực tiễn xã hội; Công
tác quản lý Nhà nước về ưu đãi NCC còn nhiều điểm yếu kém cả về tổ
chức bộ máy, công chức công vụ, chậm đổi mới cải cách thủ tục hành
chính, dịch vụ công ở lĩnh vực NCC. Trách nhiệm quản lý của các Bộ,
ngành, địa phương còn bộc lộ nhiều hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra
chưa thường xuyên.
Từ thực trạng trên tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công với cách mạng - từ thực tiễn quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội” để nghiên cứu, đánh giá và để có cái nhìn khách
quan, có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào chưa hợp lý,
nhằm thúc đẩy sự tiến bộ trong việc xây dựng hành lang pháp lý trong quản lý
nhà nước về chính sách ưu đãi NCC và trong việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật tại đơn vị hành chính cấp huyện (quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội) trong công tác thực thi chính sách ưu đãi đối với NCC.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng đã có một số đề tài khoa học,
luận án, luận văn đề cập liên quan đến một vài khía cạnh của lĩnh vực đời
sống NCC với cách mạng ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau:
Các đề tài nghiên cứu khoa học:
3
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số CT 2015-01-07) “Cơ sở thực
tiễn xác định các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu trong lĩnh vực trợ giúp xã hội
giai đoạn 2016-2020” - Chủ nhiệm: Nguyễn Văn Hồi. Đề tài tập trung chủ
yếu hướng vào nhóm cư dân thiệt thòi, yếu thế thường bị tổng thương. Họ
không có khả năng bảo đảm được nhu cầu tối thiểu của cuộc sống.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số CB 2013-06-01) “Chính sách
đối với người bị nhiễm chất độc hóa học/Dioxin - thực trạng và giải pháp” - Chủ
nhiệm: Tạ Vân Thiều. Đề tài tập trung chính sách đối với tình trạng người
khuyết tật (nạn nhận chất độc hóa học) và chính sách đối với NCC (người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học), cụ thể chăm sóc y tế, ưu tiên trong
lao động, học tập,…
Các bài nghiên cứu đăng trên báo, tạp chí:
- Lê Tấn Dũng - Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội “Thực
hiện chính sách người có công - Kết quả và những vấn đề đặt ra” đăng trên trang
Văn hóa-Xã hội - Tạp chí Cộng sản, tháng 9-2019.
- Đặng Danh Hưng, Trưởng phòng Thương binh, liệt sĩ và người có công,
Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng “Một số vấn đề về chính
sách ưu đãi người có công với cách mạng” đăng trên trang Thông tin điện tử -
Hội đồng lý luận Trung ương, 2019.
- Thu Hương - Hội phụ nữ quận Hoàn Kiếm, Phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa” tại quận Hoàn Kiếm, đăng trên Báo Phụ nữ Thủ đô, 2018.
- Web: Thủ tục hành chính giải quyết chính sách ưu đãi đối với người có
công: http://hoankiem.generitas.vn/thu-tuc-hanh-chinh.
- Chí Tâm “Hoàn Kiếm đẩy mạnh phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" - Báo
Lao động Xã hội, 2019.
4
- Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH, trả lời phỏng vấn về nội dung
“Góp phần xoa dịu nỗi đau” do phóng viên Thu Hà Lan Phương - Báo Đại
Đoàn kết thực hiện, 2017
- Lê Minh Long - “Chặn trục lợi chính sách người có công” - đăng trên Báo
Đại Đoàn kết, 2019
Các luận án, luận văn đã bảo vệ:
- Tác giả Phạm Hải Hưng, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính quốc gia (2007), đề tài “ Nâng cao năng lực của cơ quan
Hành chính nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách
mạng ở nước ta hiện nay". Luận văn đã phân tích thực trạng thực hiện và tổ
chức thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cơ quan Hành chính nhà nước trong thực hiện
pháp luật đối với người có công ở nước ta hiện nay.
- Tác giả Ngô Công Viên, Luận văn Quản lý hành chính công, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2015), đề tài "Nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Điện Biên,
giai đoạn 2015 - 2018". Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện các chính sách,
chế độ ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với người có công với cách mạng tại
tỉnh Điện Biên những năm qua, luận văn đã đề ra phương hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
trên địa bàn tỉnh. Tạo điều kiện để người có công tiếp cận, nắm bắt, hiểu rõ
các quy định về chính sách, cung cấp các giấy tờ, thủ tục liên quan để hoàn
thiện hồ sơ giải quyết chính sách được nhanh gọn, thuận lợi, dễ dàng.
- Tác giả Đỗ Huyền Trang, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, Đại học
Lao động – Xã hội (2017), đề tài “Hoạt động chăm sóc sức khỏe người có
công với cách mạng tại phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
5
Ninh”. Luận văn đi sâu tìm hiểu, đánh giá về hoạt động chăm sóc sức khỏe người
có công với cách mạng tại phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách ưu đãi xã
hội với đối tượng người có công trên địa bàn, hướng họ đến một cuộc sống an
toàn, tốt đẹp hơn.
- Tác giả Nguyễn Văn Vân, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách
công, Học viện Khoa học Xã hội, đề tài “Thực hiện chính sách người có công
với cách mạng từ thực tiễn huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng” (2016), đã
đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá thực trạng thực thi chính
sách người có công với cách mạng, nêu lên những giải pháp nhằm khắc phục
những tồn tại hạn chế, tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách người có công với
cách mạng trên địa bàn huyện Hòa Vang.
- Tác giả Phan Hoài Nam, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách
công, Học viện Chính sách và phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), đề
tài: “Thực hiện chính sách người có công với cách mạng tại tỉnh Điện Biên”.
Luận Văn tập trung nghiên cứu thực tiễn chế độ ưu đãi đối với người có công
là dân tộc; đồng thời, nâng cao mức sống, ổn định đời sống cho các hộ gia
đình người có công trên toàn tỉnh Điện Biên.
- Tác giả Đoàn Quốc Bảo, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện
Chính trị Quốc gia (2019), đề tài: “Thanh tra việc thực hiện chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Luận văn tập
trung nghiên cứu thực trang thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi
người có công trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ năm 2014 – 2018 và đề xuất
tăng cường thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công tại
tỉnh Bắc Kạn đến năm 2025.
6
- Đề án “Ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực người có công”
của cơ quan Cục Người có công - Trung tâm thông tin thuộc Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, 2018.
Các công trình nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn nêu trên chỉ
tiếp cận ở khía cạnh tác động của chính sách an sinh xã hội tại vùng miền
có ảnh hưởng đến đời sống của gia đình NCC và nạn nhân chiến tranh; tìm
hiểu về vấn đề chăm sóc sức khỏe, về thực trạng đời sống người có công,
đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật đối với NCC hay đánh giá hiệu
quả của việc thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng nhưng chưa
có đề tài nào đi sâu vào việc quản lý thực thi chính sách ưu đãi với NCC tại
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, bên cạnh đó cũng chưa có đề tài nào
nghiên cứu để có thể đưa ra các giải pháp để thực hiện tốt hơn các chính
sách ưu đãi NCC…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn trong việc triển khai thực hiện
công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công với
cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, đề xuất phương
hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận đối tượng NCC như: Điều kiện, tiêu
chuẩn xác nhận đối tượng NCC, trong đó có hệ thống văn bản chính sách
pháp luật về việc xác nhận đối tượng NCC hưởng ưu đãi; việc tổ chức xác
nhận đối tượng NCC ở các cấp, các ngành, các địa phương.
7
- Nghiên cứu về chế độ trợ cấp ưu đãi đối với NCC: Đánh giá chế độ trợ
cấp hàng tháng đối với NCC; Đánh giá chế độ trợ cấp một lần đối với NCC.
- Về chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp, trong đó có ưu đãi về giáo dục đào tạo
nghề, hỗ trợ việc làm đối với NCC và thân nhân của họ; chế độ bảo hiểm y tế;
chế độ chăm sóc sức khỏe (điều dưỡng, chỉnh hình phục hồi chức năng, bảo
hiểm y tế,...); hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với hộ gia đình NCC; tìm kiếm, quy
tập hài cốt liệt sĩ, thăm viếng, di chuyển hài cốt liệt sĩ.
- Nêu khái quát một số đặc điểm tình hình chung của quận Hoàn Kiếm;
tập trung phân tích, đánh giá đúng thực trạng ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân trong công tác quản lý nhà nước về ưu đãi người có công trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Xác định phương hướng, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp để bổ
sung, hoàn thiện hệ thống chính sách và thực hiện quản lý nhà nước bằng
pháp luật về ưu đãi NCC với cách mạng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm: các diện đối tượng NCC theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi
người có công, là cơ sở lý luận và thực tiễn để đánh giá việc quản lý chính
sách của cơ quan quản lý nhà nước và các yếu tố ảnh hưởng, đề xuất một số
giải pháp nhằm đạt hiệu quả trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
chính sách ưu đãi NCC nói chung và tại quận Hoàn Kiếm nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện các chế độ, chính
sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với NCC với cách mạng và thân nhân
của họ tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
8
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện quản lý chính
sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội từ năm 2012 đến năm 2019 và đề xuất giải pháp giai đoạn 2020 - 2025.
- Về nội dung: Quản lý nhà nước bằng pháp luật về thực hiện chính
sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên các cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, nhà nước được thể
chế trong các văn kiệm, nghị quyết của đảng, các văn bản quy phạm pháp
luật của nhà nước
- Cơ sở phân tích thực tiễn: là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên
môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được
công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ
cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu: Các chính sách của nhà nước cũng như
địa phương về người có công, các báo cáo tổng kết về công tác thực hiện
chính sách đối với NCC của phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội và các bài viết có liên quan đến công tác chính sách an sinh xã hội
của quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Dựa vào các nguồn thông tin được thu thập, tổng hợp thành các
bảng biểu số liệu làm cơ sở cho việc đánh giá chính sách:
+ Phương pháp thu thập tài liệu
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh số liệu:
+ Phương pháp phân tích số liệu
9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: Luận văn tổng hợp, phát triển cơ sở lý luận về chính
sách ưu đãi đối với NCC. Qua đó xác định nghiên cứu mở rộng chính
sách, cơ chế bảo đảm việc thụ hưởng của NCC; thực trạng và giải pháp
hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý giải quyết chế độ ưu đãi NCC của Nhà
nước và địa phương phù hợp với điều kiện thực tế.
Về thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng triển khai, thực hiện
chính sách, chế độ ưu đãi NCC tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Đề xuất một số giải pháp cho quản lý, tổ chức thực hiện hiệu quả chính
sách NCC giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người quản lý thực thi
chính sách bằng pháp luật, trên cơ sở hướng tới mục tiêu quan tâm, chăm
lo, tạo điều kiện tốt nhất cho NCC.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công với cách mạng
Chương 2: Thực trạng về chế độ ưu đãi người có công với cách
mạng và quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công với
cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện chế độ ưu đãi và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng tại quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý nhà nƣớc bằng pháp luật
về ƣu đãi ngƣời có công với cách mạng và các khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về quản lý
Từ khi xã hội loài người được hình thành, hoạt động tổ chức, quản
lý đã được quan tâm. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao
động nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Đó là hoạt động giúp cho người
đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong
cộng đồng nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn
đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ
quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một
dàn nhạc phải có nhạc trưởng”. Tức theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các
lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở
đây Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý. Theo
quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay: Quản lý là
sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra
và đúng với ý chí của người quản lý.
11
Quản lý là một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều dạng. Trong đó, quản
lý xã hội là dạng quản lý phức tạp nhất, bao gồm nhiều lĩnh vực như: quản lý
nhà nước, quản lý hành chính công, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý
ngành. Quản lý nói chung theo nghĩa tiếng Anh là Administration, vừa có
nghĩa quản lý (hành chính, chính quyền), vừa có nghĩa quản trị (kinh doanh) –
(trong văn bằng Thạc sĩ quản trị kinh doanh của MBA Master of Business
Administration).
Trong thực tế, khi dùng theo thói quen, chúng ta coi thuật ngữ "quản lý"
gắn liền với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý ở khu vực công, tức là
quản lý ở tầm vĩ mô. Xét về từ ngữ, thuật ngữ “quản lý" (tiếng Việt gốc Hán)
có thể hiểu là hai quá trình tích hợp vào nhau; quá trình "quản" là sự coi sóc,
giữ gìn, duy trì ở trạng thái "ổn định"; quá trình “ lý" là sửa sang, sắp xếp, đổi
mới để đưa tổ chức vào thế “phát triển”.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, ví dụ:
- Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra,
Nguyễn Minh Đạo, Cơ sở khoa học quản lý, nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1997.
- Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và
hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
nguồn lực của tổ chức, Khoa học quản lý, tập I, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội 2001.
Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và
cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Vì thế chủ thể phải
hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. Chủ thể có thể
là một người, một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người (một hoặc
12
nhiều người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật. Tóm lại: Quản lý là một quá
trình tác động, gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một
cách hợp quy luật nhằm đạt được mục tiêu chung.
Như vậy, quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động theo cách nào còn tuỳ
thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các lĩnh vực khác nhau cũng như
cách tiếp cận của người nghiên cứu.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật
Quản lý nhà nước (QLNN) là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi hoạt động
của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con
người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
QLNN là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu
bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối
nội đối ngoại của nhà nước chủ quan của quản lý nhà nước là tổ chức hay
mang quyền lực nhà nước trong quá trình hoạt động tới đối tượng quản lý.
Chủ thể QLNN bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các
cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý.
Khách thể của QLNN: Là trật tự quản lý nhà nước. Quản lý hành
chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực hiện
trước hết và uỷ quyền các cơ quan hành chính nhà nước .
QLNN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Các lĩnh vực quản lý luôn
thay đổi; do đó phải linh hoạt, để áp dụng pháp luật đối với từng trường
hợp cụ thể.
13
QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng
quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN được xem là
một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là
hoạt động chức năng đặc biệt. QLNN được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: QLNN là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ
hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: QLNN chỉ bao gồm hoạt động hành pháp, có thể hiểu là
quản lý hành chính nhà nước như sau: quản lý hành chính Nhà nước là hoạt
động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công
dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển
các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp
pháp của các công dân.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với người có công với cách mạng
QLNN đối với NCC với cách mạng là quá trình xây dựng và ban hành
các văn bản mang tính chất quy phạm phạm luật để thực thi chính sách ưu
đãi đối với NCC với cách mạng, như từ quản lý số lượng NCC, đặc điểm,
tình hình đời sống của NCC, xác định tiêu chuẩn xác nhận NCC, cho đến
công tác tổ chức, điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước,
nhằm thực hiện tốt trách nhiệm của nhà nước trong việc đãi ngộ, ưu tiên
đặc biệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần đối với những công dân có
những hy sinh, cống hiến với đất nước để thực hiện tốt hơn chính sách an
sinh xã hội chung trong cả nước.
14
1.1.4. Khái niệm về người có công với cách mạng
Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã làm nên biết bao chiến công
hiển hách, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, bảo vệ xây dựng Tổ quốc
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Mỗi giây phút chúng ta được sống trong hòa
bình, hạnh phúc, no ấm chính là nhờ vào công lao của các chiến sĩ, của đồng
bào đã chiến đấu anh dũng hy sinh hoặc để lại một phần xương máu ở chiến
trường để giành độc lập cho dân tộc, họ đã đánh đổi cả xương máu và nước
mắt vì nền độc lập của dân tộc. Hòa bình đã trở lại nhưng nỗi đau chiến tranh
vẫn khắc khoải đè nặng lên vai những người lính mang thương tật trở về,
người ở lại mang trong tim một nỗi đau khôn nguôi, những người mẹ Việt
Nam anh hùng có lẽ đã cạn nước mắt để trông ngóng những người con mãi
nơi xa và có những anh hùng đã mãi mãi nằm lại nơi đất Mẹ.
Thực hiện nhiệm vụ chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
thân nhân của họ không chỉ là nhiệm vụ, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước
mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Điều này thể hiện truyền thống “Uống
nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc và tình yêu thương
giữa con người với nhau. Để ghi nhớ công ơn của những người con ưu tú của
dân tộc, năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL lấy ngày
27/7 hàng năm là ngày để nhân dân ta tỏ lòng “Hiếu nghĩa bác ái” và lòng yêu
mến đối với các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh (sau này là ngày
thương binh liệt sĩ). Từ đó đến nay, dù trong hoàn cảnh nào, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đã làm hết sức mình chăm sóc thương binh, bệnh binh và thân
nhân các liệt sĩ [19]
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhà nước có những chính sách và việc
làm thích hợp để có sự đãi ngộ xứng đáng đối với những NCC đang còn sống
15
và thân nhân của những người đã hy sinh. Chính sách không chỉ giúp cho
NCC yên ổn về đời sống vật chất, vui vẻ về tinh thần mà còn tôn vinh, khen
thưởng và ghi nhận công lao với những danh hiệu cao quý, mang ý nghĩa
chính trị sâu sắc, thể hiện niềm tin của nhân dân nói chung và NCC nói riêng
vào Đảng và nhà nước.
Về cụm từ người có công chỉ xuất hiện từ khi Pháp lệnh Ưu đãi người có
công số 26/2005/PL- UBTVQH11 ngày 29/6/2005 sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi
người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh,
người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày
29/8/1994 nhưng cho tới nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ
khái niệm người có công mà chỉ định nghĩa từng loại đối tượng khi có một
quyết định pháp luật của người có thẩm quyền được nhà nước giao công nhận
họ theo tiêu chí quy định hiện hành trong từng thời kỳ.
Như vậy, NCC là một khái niệm xuất hiện trong lịch sử đấu tranh giành
độc lập và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta và được hiểu theo 2 nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng, người có công là những người đã tự nguyện hiến dâng
cuộc đời mình cho việc đại nghĩa, cho sự nghiệp của đất nước. Họ có những
đóng góp, những cống hiến xuất sắc phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân
tộc. Người có công gồm những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng,
dân tộc, nam nữ tuổi tác, miễn là họ có những hành động quả cảm có lợi cho
dân tộc
Theo nghĩa hẹp, khái niệm người có công để chỉ những cá nhân, không
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ,…có những đóng góp, cống
hiến, hy sinh trong các cuộc kháng chiến dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật.
16
Tiêu chí cơ bản để xác định người có công đó là phải có đóng góp, cống
hiến xuất sắc vì lợi ích dân tộc. Những đóng góp, những cống hiến của họ có
thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có
thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, khái niệm NCC được hiểu là: “Người có công là người không
biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác,…có những cống hiến, sức lực, tài
năng, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, độc lập dân tộc hay
đem lại thành tích vẻ vang cho đất nước được cơ quan có thẩm quyền công
nhận theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng số
04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCC
với cách mạng thì người có công bao gồm 12 diện đối tượng:
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến
ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
c) Liệt sĩ ;
d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
g) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
h) Bệnh binh;
i) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
17
l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
m) Người có công giúp đỡ cách mạng.”
1.1.5. Khái niệm về chính sách ưu đãi đối với người có công với
cách mạng
Khái niệm thuật ngữ chính sách được sử dụng rộng rãi trên sách báo,
trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội như chính
sách kinh tế, chính sách xã hội, có thể thấy chính sách được hiểu theo nhiều
cách khác nhau và được thể hiện trong các sách cũng như những tài liệu.
Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển
học xuất bản năm 1997 (Hoàng Phê chủ biên) và Từ điển Bách khoa Việt
Nam mở cũng đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện
trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [43].
Chính sách là một phần không thể thiếu trong hệ thống quản lý của nhà
nước, chính sách vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Chính
sách trước hết mang tính chất chính trị thể hiện rõ nhất tính nhà nước.
Về mặt bản chất, chính sách là kết tinh ý chí của chủ thể về phương
thức tác động đến các đối tượng nên cũng được coi là một dạng thức vật chất
đặc biệt, vì vậy chính sách cũng cần phải có chức năng nhất định để tồn tại.
Chức năng của chính sách chỉ được hiện thực hóa khi nó tham gia vào quá
trình vận động, triển khai thực thi trong đời sống xã hội.
18
Thực thi chính sách: là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
trong quá trình chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu định hướng của Nhà nước. Trong quá trình thực thi chính sách,
các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ và con người được đưa
vào các hoạt động có tính định hướng để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Thực thi chính sách để khẳng định tính đúng đắn của chính sách có
nghĩa là chính sách này được thực thi triển khai rộng rãi trong đời sống xã
hội và được xã hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh tính đúng đắn của
chính sách này và ngược lại.
Thực thi chính sách công có thể hiểu là quá trình đưa chính sách công
vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các quy định, thủ tục,
chương trình hoặc dự án và thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu
chính sách. Hay nói cách khác là toàn bộ quá trình chuyển kết quả ý chí chính
trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan
đến nhau, bao hàm trong đó định hướng, mục tiêu và cách thức giải quyết
những vấn để công trong xã hội. ủa chủ thể trong chính sách thành hiện thực
với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng
Tổ chức thực thi chính sách có vị trí rất quan trọng, nó là một khâu
hợp thành chu trình chính sách, nếu khuyết thiếu công đoạn này thì chu trình
chính sách không thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối các bước trong chu
trình chính sách thành một hệ thống, nhất là với thực thi chính sách, bước
này là bước quan trọng không thể thiếu vì nó là khâu hiện thực hoá chính sách
vào đời sống xã hội. Chúng ta đều nhận thấy hoạch định một chính sách tốt là
hết sức khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn nhưng cho dù chính sách có
tốt đến mấy nhưng không được tổ chức thực thi hay thực thi kém thì nó cũng
không mang lại hiệu quả.
19
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là một chính sách đặc
biệt, thể hiện sâu sắc bản chất ưu việt của xã hội ta, có liên quan tới nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, lịch sử,
pháp lý và truyền thống đạo lý của dân tộc. Đảng và Nhà nước ta tổ chức
nghiên cứu, hoạch định ban hành hệ thống chính sách, chế độ và tổ chức thực
hiện, kiểm tra việc thực hiện đến từng đối tượng tùy điều kiện kinh tế - chính
trị - xã hội ở từng giai đoạn mà Nhà nước điều chỉnh chế độ ưu đãi xã hội
theo hướng nâng cao và cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho
người có công thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
đối với sự hy sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp một phần nào đó
cho họ về đời sống vật chất cũng như tinh thần.
Từ những luận biện trên, có thể định nghĩa về chính sách ưu đãi người
có công với cách mạng: Chính sách người có công với cách mạng là chính
sách quan trọng về vai trò và chức năng, sử dụng các biện pháp khác nhau để
xây dựng và triển khai đưa các chính sách người có công với cách mạng vào
cuộc sống.
1.1.6. Các nhân tố liên quan việc thực thi chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng
Bất kỳ một chính sách nào đều trải qua quá trình tổ chức, thực thi, quá
trình triển khai thực hiện chính sách diễn ra trong một thời gian dài, liên quan
đến nhiều cơ quan, tổ chức, nhiều địa phương và nhiều nhóm đối tượng thụ
hưởng, do đó kết quả của việc tổ chức thực thi chính sách bị tác động bởi
nhiều yếu tố.
Về yếu tố khách quan: Tính chất của vấn đề chính sách, môi trường
thực thi chính sách, mối quan hệ giữa các đối tượng trong quá trình thực thi
20
chính sách, tiềm lực của các nhóm đối tượng và đặc tính của các đối tượng
chính sách.
Về yếu tố chủ quan: Ảnh hưởng của năng lực cán bộ thực thi chính
sách công, việc tuân thủ quy trình thực thi chính sách, các điều kiện vật chất
để thực thi chính sách và sự đồng tình, ủng hộ của người dân.
Chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng của Đảng và
Nhà nước trong hơn 70 năm qua được ban hành, bổ sung, sửa đổi và hoàn
thiện. Chính sách đó đã nhanh chóng được thực hiện tạo ra sức mạnh tổng
hợp về chính trị, kinh tế và xã hội, sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước, nhân
dân và bản thân NCC với cách mạng, có tác động sâu sắc đến toàn xã hội,
cùng với Nhà nước chăm lo cho NCC với cách mạng, phát huy truyền thống,
đạo lý của dân tộc "uống nước nhớ nguồn, "Đền ơn đáp nghĩa" trong thời kỳ
đổi mới.
1.1.6.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong
việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, cùng với
sự phát triển KT-XH của đất nước, Đảng hết sức quan tâm đến việc thực hiện
chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Tại phần
thứ hai, những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995
trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI trình tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nhấn mạnh: "Quan tâm chăm
sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng vừa
là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân, sớm ban hành
chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống
thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng”.
21
Xuyên suốt trong mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng, Đảng và nhà
nước ta luôn coi công tác thương binh, liệt sĩ và NCC là vấn đề chính trị, tư
tưởng, tình cảm và xã hội. Đảng ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển, trong đó việc tạo điều kiện phát huy đối với
NCC có ý nghĩa sâu sắc trong chiến lược con người.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các hệ
thống chính sách, pháp luật ưu đãi NCC từng bước hoàn thiện và phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH) từng thời kỳ; qua đó đối tượng NCC ngày
càng mở rộng, chế độ ưu đãi ngày một nâng cao, gắn liền với sự bảo đảm
công bằng và sự đồng thuận của toàn xã hội. Ðến nay, việc xác nhận các đối
tượng NCC với cách mạng đã cơ bản hoàn thành; chế độ, chính sách cho đối
tượng này ngày càng được hoàn thiện, bám sát thực tế, làm cơ sở cho các
phong trào xã hội Đền ơn đáp nghĩa phát triển rộng khắp trong cả nước và đi
vào chiều sâu, từng bước giải quyết một cách cơ bản những nhu cầu bức thiết
về đời sống của các gia đình thương binh liệt sĩ và NCC .
1.1.6.2. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất để thực hiện chính sách
ưu đãi người có công với cách mạng
Chính sách ưu đãi đối với NCC là đường lối, chủ trương nhất quán của
Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với NCC với đất
nước nhằm mục đích ghi nhận công lao đóng góp, sự hy sinh to lớn của họ,
đồng thời bù đắp phần nào đời sống vật chất và tinh thần đối với NCC và thân
nhân, ghi nhận lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội đối với
NCC và thân nhân của họ, góp phần vào việc ổn định chính trị - xã hội của
quốc gia. Chính vì vậy, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số
04/2012/UBTVQH13 đã nêu rõ “Các chế độ ưu đãi người có công với cách
mạng và thân nhân của họ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã
22
hội của đất nước trong từng thời kỳ; Hàng năm nhà nước dành phần ngân
sách bảo đảm thực hiện các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và
thân nhân của họ””[39]
1.1.6.3. Sự ủng hộ, đồng tình của người dân và trực tiếp là các đối
tượng trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Phong trào toàn dân chăm sóc thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ có vị
trí quan trọng trong việc ổn định và nâng cao đời sống của một bộ phận
NCC. Nó không chỉ góp phần bù đắp những thiếu hụt của các gia đình chính
sách về vật chất và tinh thần mà còn cùng với chính sách của Đảng, Nhà
nước tạo nên mặt bằng chung cho phù hợp với từng loại đối tượng. Làm tốt
việc này, không chỉ kế thừa, khơi dậy giá trị nhân văn, tinh thần của dân tộc,
mà còn góp phần giáo dục lòng yêu nước, giữ vững niềm tự hào dân tộc,
củng cố hậu phương quân đội, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trong
việc trân trọng, giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc trong
sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Sự tham gia của các ngành, đoàn thể và cả hệ thống chính trị, sự vào
cuộc của cộng đồng dân cư có ý nghĩa quan trọng trong hiệu quả của việc
thực hiện chính sách, giúp bản thân đối tượng hưởng chính sách và gia đình
họ được chăm sóc, được đảm bảo một cách đầy đủ, chu đáo những chế độ đãi
ngộ của Nhà nước, giúp cho họ phát huy tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực
khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Tóm lại, chính sách NCC với cách mạng muốn triển khai thực hiện tốt
vào đời sống xã hội cần phải có sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và chính
đối tượng thụ hưởng chính sách.
23
1.1.6.4. Năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ công chức trong việc
thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Năng lực là là sự liên kết mang tính tổng hợp giữa kiến thức, kỹ năng và
thái độ, có ảnh hưởng đến công việc; chúng tương quan lẫn nhau trong quá
trình thực thi nhiệm vụ. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức hành
chính bao gồm nhiều yếu tố, như trình độ, năng lực được đào tạo, kỹ năng, kinh
nghiệm trong công tác cũng như tinh thần, thái độ thực thi công vụ.
Trong quá trình thực thi chính sách ưu đãi NCC với cách mạng, cần đặc
biệt quan tâm đến năng lực cán bộ công chức, vì đây là yếu tố có vai trò quyết
định đến kết quả của tổ chức thực hiện chính sách. Các cán bộ, công chức khi
được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng
cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật trong lĩnh vực này
mới đạt hiệu quả thực hiện chính sách. Cán bộ, công chức có đạo đức, năng lực
thực tế thì thực hiện chính sách tốt và ngược lại. Trong thực tế, năng lực thiếu
dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền đưa ra những kế hoạch dự kiến không sát
thực tế, hiệu lực không có, nguồn lực huy động bị lãng phí, hiệu quả làm biến
dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện.
1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc bằng pháp luật về ƣu đãi ngƣời có
công với cách mạng
Xuyên suốt trong mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng, Đảng và nhà
nước ta luôn coi công tác thương binh, liệt sĩ và NCC là vấn đề chính trị, tư
tưởng, tình cảm và xã hội. Đảng ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển, trong đó việc tạo điều kiện phát huy đối với
NCC có ý nghĩa sâu sắc trong chiến lược con người.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các hệ thống
chính sách, pháp luật ưu đãi NCC từng bước hoàn thiện và phù hợp với điều
24
kiện KT-XH từng thời kỳ; qua đó đối tượng NCC ngày càng mở rộng, chế độ
ưu đãi ngày một nâng cao, gắn liền với sự bảo đảm công bằng và sự đồng
thuận của toàn xã hội. Ðến nay, việc xác nhận các đối tượng NCC với cách
mạng đã cơ bản hoàn thành; chế độ, chính sách cho đối tượng này ngày càng
được hoàn thiện, bám sát thực tế, làm cơ sở cho các phong trào xã hội Đền ơn
đáp nghĩa phát triển rộng khắp trong cả nước và đi vào chiều sâu, từng bước
giải quyết một cách cơ bản những nhu cầu bức thiết về đời sống của các gia
đình thương binh liệt sĩ và NCC .
1.2.1. Xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật của nhà nước về ưu
đãi người có công với cách mạng.
Thể chế về chính sách ưu đãi NCC với cách mạng là hệ thống các văn
bản pháp luật về lĩnh vực NCC. Đó là tổng thể các quy tắc, quy định do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Đây
là cơ sở quan trọng đầu tiên để xây dựng chính sách có liên quan đến lĩnh vực
ưu đãi người có công mà chủ thể là nhà nước.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở đã đưa ra khái niệm về chính
sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường
lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định,
trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa…”.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà
lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
25
- Chính sách xã hội: Là một hệ thống những quan điểm, chủ trương,
phương hướng, biện pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác
được thể chế hoá để giải quyết những vấn đề xã hội mà trước hết là những
vấn đề xã hội gay cấn nhằm bảo đảm sự an toàn và phát triển xã hội. Chính
sách xã hội là chính sách đối với con người, tìm cách tác động vào các hệ
thống quan hệ xã hội (quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội, quan hệ các
nhóm xã hội khác nhau) tác động vào hoàn cảnh sống của con người và của
các nhóm xã hội, (bao gồm điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt) nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm và thiết lập được công bằng xã hội
trong điều kiện xã hội nhất định.
- Chính sách công: Cho đến nay, có không ít định nghĩa khác nhau về
chính sách công, trong đó có một số định nghĩa khá phức tạp và bao hàm
tương đối rộng các chức năng và hoạt động, nhưng nhìn chung lại thì chính
sách công (theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995, trang 475) nêu: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa...”.
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa
chọn mục tiêu và giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính
sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền; Là vấn
đề chính sách và mục tiêu chính sách, các giải pháp và công cụ chính sách; Là
thái độ chính trị của Đảng cầm quyền. Chính sách công được coi là sản phẩm
của quá trình chính trị. Chính sách công luôn mang tính chất thực tiễn, tính
chất đa ngành, liên ngành, xuyên ngành và tính chuẩn tắc, ...
26
Do vậy, từ nhận định trên có thể thấy rằng chính sách ưu đãi NCC được
kế tục truyền thống của cha ông, ngay từ khi đất nước mới giành được độc
lập, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xây dựng chính sách ưu đãi xã hội, đặc biệt
là chính sách ưu đãi người có công với đất nước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc và trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Được chia thành các giai đoạn
như sau:
- Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Sau khi giành được chính quyền, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải bắt tay ngay vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Thời kỳ này đất nước gặp muôn vàn khó khăn, nhưng
Đảng, Chính phủ sớm thiết lập một số văn bản pháp luật ưu đãi một số đối
tượng có công như: thương binh, gia đình liệt sĩ, đồng thời động viên toàn dân
lấy lên phong trào toàn dân chăm sóc giúp đỡ các đối tượng này. Ngày
16/2/1947 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 20/SL
“Về chế độ hưu bổng, thương tật đối với thương binh, tử sĩ”. Đây là văn bản
pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định về
những ưu đãi đối với người có công với cách mạng [19].
Sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948
về “Hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”, quy định về tiêu
chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng tử sĩ, thực hiện chế độ lương hưu
thương tật đối với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình tử sĩ.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1954, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
153 văn bản như: Sắc lệnh, Nghị định, thông tư, thông lệnh, quyết định nhằm
thể chế, quản lý chính sách ưu đãi có liên quan quy định những vấn đề về
thương binh, tử sĩ…và những ưu đãi dành cho thân nhân của họ. Đồng thời,
Đảng, Nhà nước cũng khuyến khích, động viên toàn dân dấy lên phong trào
giúp đỡ, chăm sóc đối tượng này như phong trào đón thương binh về làng,
27
giúp binh sĩ tử nạn, lập quỹ tình nghĩa… Nghị định số 51/TB-NĐ ngày
27/7/1949 và Nghị định số 367/TB-NĐ ngày 30/08/1950 thì Nhà nước sẽ tổ
chức các trại an dưỡng để thu nhận và chăm sóc thương binh, bệnh binh (đây
là văn bản pháp luật để thành lập các Trung tâm điều dưỡng người có công
trong cả nước); Thông tư 20/TT ngày 14/7/1951 quy định việc trao bằng Tổ
quốc ghi ơn tử sĩ (đây là văn bản pháp luật đầu tiên về cấp Bằng Tổ quốc ghi
công đối với liệt sĩ),…
Về tiêu chuẩn để xác định thương binh, tử sĩ; quy định trợ cấp hằng
tháng đối với thương binh, thân nhân tử sĩ, việc huấn luyện nghề, sắp xếp việc
làm, các chính sách ưu tiên đối với thương binh; gia đình tử sĩ được tặng
"Bảng Tổ quốc ghi ơn", thương binh được cấp Huy hiệu Thương binh; tổ
chức các Trại an dưỡng để thu nhận và chăm sóc thương binh, bệnh binh;
đồng thời tháng 7-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào "Đón
thương binh về làng" chăm sóc; lập quỹ nghĩa thương; tổ chức bộ máy Bộ
Thương binh - Cựu binh. Thành lập trong mỗi khu kháng chiến một Sở
Thương binh - Cựu binh, trong mỗi tỉnh hoặc liên tỉnh một Ty Thương binh -
Cựu binh.
Như vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù hoàn
cảnh đất nước còn nghèo, nhưng Nhà nước đã ban hành một số văn bản thể
chế chính sách theo pháp luật quy định sự ưu đãi đối với thương binh, gia
đình liệt sĩ, đồng thời đề ra chủ trương hết sức đúng đắn là toàn dân tham gia
chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ.
- Giai đoạn từ 1955 đến 1975: thời kỳ này Đảng, nhà nước ta đã ban
hành trên 600 văn bản, trong các văn bản ban hành trong thời kỳ này đáng chú
ý nhất là Nghị định số 16/CP ngày 30/10/1964 kèm theo bản Điều lệ tạm thời
về chế độ đãi ngộ với quân nhân, thanh niên xung phong, dân quân du kích
28
với việc quy định chế độ thương tật mới là 8 hạng, mức khởi điểm là 21%.
Quy định chế độ tiền tuất mới gồm tuất hàng tháng và tuất một lần đối với gia
đình và thân nhân liệt sĩ. Đồng thời, để phù hợp với tình hình thực tế của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản thể
hiện trách nhiệm đối với người có công như: Văn bản quy định những ngành
nghề dành để sắp xếp thương binh vào làm việc, các cơ quan xí nghiệp phải
nhận thương binh theo tỷ lệ 5% biên chế; quy định chế độ ưu đãi trong giáo
dục - đào tạo, trong y tế, được miễn, giảm giá vé tàu xe…đánh giá đúng và
động viên kịp thời sự đóng góp của nhân dân, pháp luật ưu đãi người có công
đã bổ sung các đối tượng mới đó là: Chế độ đối với các gia đình liệt sĩ, gia
đình quân nhân từ trần, mất tích miền Nam, tập kết ra Bắc (Thông tư số
41/NV ngày 01/9/1962); Chế độ đối với dân công thời chiến (nghị định số
77/CP ngày 26/04/1966); Chế độ ưu đãi đối với lực lượng vận tải nhân dân
(theo Quyết định số 84/CP ngày 04/5/1966); Chế độ cán bộ y tế làm nhiệm vụ
cấp cứu phòng không (Nghị định số 111/CP ngày 28/6/1973).
Sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với người có công trong giai
đoạn này đã góp phần to lớn, ổn định hậu phương, động viên cán bộ chiến sĩ
và nhân dân hăng hái trong chiến đấu, hết lòng chi viện sức người, sức của
cho tiền tuyến lớn miền Nam, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
- Giai đoạn từ 1976 đến 1985: Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước
đã ban hành trên 700 văn bản quy định thể chế chính sách ưu đãi người có
công, bổ sung đối tượng, tiêu chuẩn xác nhận thương binh, bệnh binh, liệt sĩ
trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Trên cơ
sở đó, chính sách ưu đãi người có công trong giai đoạn này đã khắc phục
được một số bất hợp lý, hình thành hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực
thống nhất trong cả nước.
29
Trong cuộc sống yên bình của đất nước đã được độc lập, thống nhất, cả
nước đã dấy lên phong trào đi tìm "địa chỉ đỏ", tìm đồng đội thân yêu. Trong
thời gian này đã có hơn 60 vạn hài cốt liệt sĩ được đưa vào gần 3.000 nghĩa
trang liệt sĩ, ở 159 huyện và có gần 1.000 bia ghi tên liệt sĩ được xây dựng.
Có thể khẳng định trong giai đoạn 1976-1985, trong điều kiện đất nước
vừa có hòa bình lại phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979), song Nhà nước đã ban
hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công,
khắc phục được một số bất hợp lý, hình thành một số văn bản pháp quy có
hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, giải quyết một khối lượng lớn
công việc do hậu quả chiến tranh để lại.
Tuy nhiên, còn tản mạn, chắp vá, nội dung còn rườm rà, phức tạp, hạn
chế trong việc giải quyết các vấn đề mang tính cơ bản, lâu dài của chế độ ưu
đãi người có công. Cũng chính trong giai đoạn này, nhà nước đã khuyến
khích nhân dân địa phương nếu phát hiện hài cốt liệt sĩ thì thông báo chính
quyền địa phương để quy tập hài cốt vào nghĩa trang liệt sĩ; Khi kết thúc
chiến tranh tại Lào, Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam rút về nước,
đồng thời nhà nước có chủ trương tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ mang về
đất mẹ nhưng do thiếu kinh nghiệm, văn bản pháp luật hướng dẫn không cụ
thể, cũng một phần đất nước đang tập trung cho công cuộc xây dựng lại nền
kinh tế nên dẫn đến tình trạng nhiều mộ liệt sĩ còn thiếu thông tin như hiện
nay tại các nghĩa trang liệt sĩ trong toàn quốc.
- Giai đoạn từ 1986 đến 1994: Đây là giai đoạn có ý nghĩa đối với sự
phát triển của chế độ ưu đãi xã hội nước ta. Trong bối cảnh lịch sử đất nước ta
từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chế độ ưu đãi
đối với người có công đã có những thay đổi rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu
30
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ưu đãi xã hội theo cơ chế mới.
Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản chính sách về chế độ ưu đãi, đánh
dấu bước chuyển biến quan trọng quyết định đến mọi đời sống của người có
công thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đáng chú ý là nghị định số
236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng bổ sung, xóa bỏ sự khác
biệt trong các quy định ưu đãi do lịch sử để lại. Cùng với sự chuyển đổi này,
việc điều chỉnh bằng pháp luật các mối quan hệ xã hội cũng được thay đổi
cho phù hợp với cơ chế mới. Chính sách ưu đãi người có công theo đó cũng
được thay đổi, bổ sung cho hợp lý hơn (Quyết định số 79/HĐBT ngày
05/7/1989, Quyết định số 8/HĐBT ngày 05/01/1990, Nghị định số 27/CP
ngày 23/04/1993…).
Những năm cuối của giai đoạn này, đất nước đã dần ổn định, nền kinh
tế đã có sự phát triển, những mâu thuẫn xã hội của nền kinh tế thị trường trở
nên mạnh mẽ, đòi hỏi Nhà nước phải có sự quan tâm hơn nữa đến chính sách
người có công. Nổi bật nhất là vào ngày 29/8/1994 Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành 02 văn bản rất quan trọng đối với chính sách người có công,
đó là Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng; Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt
Nam anh hùng”. Tiếp theo đó Nhà nước đã ban hành một số Nghị định,
Thông tư… để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh trên cũng như hoàn thiện hơn
những quy định về ưu đãi người có công. Hai quy định này đã đánh dấu cho
sự phát triển, tiến bộ của pháp luật ưu đãi người có công trong hệ thống các
chính sách, pháp luật.
- Giai đoạn từ 1995 đến nay: Từ năm 1995 đến nay, công cuộc đổi mới
đất nước đạt nhiều thành tựu. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung đất
nước ta đang phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Đảng, Nhà nước đã có sự
31
quan tâm sâu sắc đến mọi mặt đời sống của nhân dân, hệ thống chính sách,
pháp luật đang ngày dần hoàn thiện. Chính sách mở cửa, hội nhập đem lại
chính sách đối với người có công nâng cao đời sống của người dân ngày càng
tốt hơn. Trong giai đoạn này có một số điểm nổi bật, đánh dấu sự phát triển
của pháp luật ưu đãi người có công. Ngày 29/6/2005 Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số
26/2005/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có hiệu lực kể từ
ngày 01/10/2005 (thay thế cho Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
năm 1994 - được sửa đổi năm 2000 và năm 2002). Pháp lệnh này đã mở rộng
thêm một số đối tượng được hưởng ưu đãi (từ 7 lên đến 12 nhóm với 12 đối
tượng, không chỉ bao gồm những người có công với cách mạng mà còn bao
gồm cả thân nhân của họ);
Trong công cuộc đổi mới đất nước, song song với việc phát triển nhà
nước ta cũng đã quan tâm đặc biệt đối với đối tượng chính sách và cũng đã
tiếp tục ban hành: Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp Lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng, có hiệu lực kể từ ngày 01/09/2012; Nghị
định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Thông số
05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản
lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân.
Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung một số điều và điều chỉnh mức trợ cấp cho phù
hợp cho tình hình thực tế.
Tóm lại, dù ở bất kỳ thời kỳ, chế độ nào thì việc quản lý một đối tượng
hay nhiều dạng đối tượng, nhất là đối tượng người có công, cần thể chế bằng
chính sách pháp luật của nhà nước. Với chức năng của mình, Nhà nước ban
hành chính sách Ưu đãi xã hội và triển khai thực hiện chúng một cách tốt
32
nhất, hiệu quả nhất. Nhà nước đóng vai trò vừa là người lãnh đạo, thực hiện
vừa là người định hướng cho việc triển khai pháp luật, chính sách về ưu đãi
xã hội, huy động tối đa nguồn lực từ cộng đồng, xã hội để giúp đảm bảo cho
người có công được hưởng những quyền lợi của mình, cải thiện cuộc sống
của họ, giúp họ vượt qua khó khăn vươn lên và tiếp tục cống hiến cho đất
nước trong công cuộc đổi mới xây dựng tổ quốc.
Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua ngày 29/8/1994. Từ đó đến nay, Pháp lệnh
đã được sửa đổi qua các năm 1998, 2000, 2002, 2005, 2007, 2012, 2018 và
được đổi tên thành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Pháp lệnh
là văn bản pháp lý quan trọng thể chế hóa chủ trương, đường lối chỉ đạo của
Đảng về công tác người có công với cách mạng, là nền tảng pháp lý cho các
cấp chính quyền tổ chức triển khai chăm lo đời sống vật chất, tinh thần người
có công và thân nhân người có công với cách mạng.
1.2.2. Tổ chức thực thi pháp luật của nhà nước về ưu đãi người có
công với cách mạng
1.2.2.1. Chủ trương của Đảng, sự quản lý của nhà nước trong việc thực
thi chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
khái quát sâu sắc quan điểm và chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với
vấn đề có tầm chiến lược này: ...“Phải đối đãi với những người, những gia
đình liệt sĩ và thương binh như là những người đã có cống hiến rất lớn, rất lớn
đối với sự nghiệp cách mạng, đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân
dân..; đó là một vấn đề rất quan trọng.., một vấn đề chính trị, một vấn đề tư
33
tưởng, một vấn đề tình cảm, một vấn đề xã hội, một trong những vấn đề lớn
của nước ta…, một vấn đề của tất cả chúng ta, một vấn đề lớn của Đảng ta,
Nhà nước ta, của các tổ chức quần chúng, một vấn đề của các cơ quan có
trách nhiệm ở Trung ương và của cơ quan có trách nhiệm ở địa phương, của
tỉnh, của huyện, của xã. Một vấn đề mà không cho phép một người Việt Nam
nào không quan tâm, nếu người Việt Nam đã quan tâm đến sự nghiệp cách
mạng của nước ta, của dân ta, quan tâm đến sự nghiệp chống Mỹ cứu nước
của chúng ta hiện nay...”.
Ngày 19/7/2017 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 14 -
CT/TW, trong đó có nêu rõ: “Thời gian qua, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị
số 07 của Ban Bí thư khoá X về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác
thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào "Đền ơn đáp nghĩa"; công
tác người có công với cách mạng đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính
quyền triển khai thực hiện và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống
pháp luật, chính sách về người có công với cách mạng từng bước được hoàn
thiện; đối tượng chính sách người có công với cách mạng được mở rộng” [1].
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý chính sách ưu đãi
NCC với cách mạng vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận NCC với
cách mạng vẫn chưa được xác nhận (do không có giấy tờ gốc chứng minh); số
liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt hoặc chưa xác định được danh tính còn nhiều;
việc huy động, bố trí các nguồn lực thực hiện chính sách ưu đãi NCC còn hạn
chế; một số nghĩa trang, công trình ghi công liệt sĩ xuống cấp chưa được quan
tâm tu bổ, tôn tạo; đời sống của một bộ phận gia đình NCC với cách mạng
còn nhiều khó khăn, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số;
tình trạng khai man hồ sơ, trục lợi chính sách vẫn còn xảy ra, gây bức xúc
trong xã hội” [1].
34
1.2.2.2. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất để thực thi chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng
Chính sách ưu đãi đối với NCC là đường lối, chủ trương nhất quán của
Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với NCC với đất
nước nhằm mục đích ghi nhận công lao đóng góp, sự hy sinh to lớn của họ,
đồng thời bù đắp phần nào đời sống vật chất và tinh thần đối với NCC và thân
nhân, ghi nhận lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội đối với
NCC và thân nhân của họ, góp phần vào việc ổn định chính trị - xã hội của
quốc gia. Thực hiện trợ cấp, ưu đãi NCC đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ
động của các ngành, các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị đồng bộ từ
cơ chế chính sách đến tổ chức, bộ máy triển khai thực hiện chính sách; nguồn
lực đầu tư, bao gồm: nhân lực, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, tài chính, trong
đó nguồn lực tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, chính sách ưu đãi NCC được thực hiện thông qua 02 nguồn
lực tài chính đó là nguồn ngân sách nhà nước và nguồn xã hội hóa. Trong đó
nguồn ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đây là nguồn chi thường
xuyên đảm bảo ổn định, ngoài ra còn có một số nội dung như chi đầu tư phát
triển, chi hỗ trợ NCC về nhà ở. Ngân sách nhà nước thực hiện chi chính là trợ
cấp, phụ cấp cùng với chế độ bảo hiểm y tế và các ưu đãi khác (trang cấp thiết
bị, điều dưỡng, nhà ở, quà, ưu đãi giáo dục, công tác mộ, nghĩa trang, việc
làm, vay vốn...).
Ngoài ngân sách trung ương, các địa phương đã bố trí thêm kinh phí từ
nguồn ngân sách địa phương để thực hiện chính sách đối với NCC. Cùng với
nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước, chủ trương xã hội hóa cũng đã thu
được kết quả tích cực như: Năm phong trào tình nghĩa được triển khai trên
toàn quốc, bao gồm: huy động quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; tặng sổ tiết kiệm tình
35
nghĩa; xã, phường làm tốt công tác tình nghĩa; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng; xây dựng và sửa chữa nhà tình nghĩa.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách và tổ chức thực hiện kịp thời các chính sách ưu đãi đối với
NCC nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống các văn bản chính sách
không ngừng được sửa đổi hoàn thiện sát với thực tế, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.2.3. Thưc thi chính sách ưu đãi người có công trong đội ngũ cán bộ
công chức quản lý lĩnh vực ngành
Thể chế chính sách pháp luật ưu đãi NCC là một hệ thống các văn bản
pháp luật về lĩnh vực người có công. Đó là tổng hợp các quy tắc, quy định do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.
Đối với ngành LĐTBXH là cơ quan quản lý nhà nước pháp quyền, thể
hiện ở đội ngũ cán bộ công chức thực thi đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình mà pháp luật đã quy định nên năng lực của họ, sự liên kết mang tính
tổng hợp giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ, có ảnh hưởng đến hiệu quả của
thực thi chính sách; chúng tương quan lẫn nhau trong quá trình thực thi nhiệm
vụ. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức hành chính bao gồm
nhiều yếu tố, như trình độ, năng lực được đào tạo, kỹ năng, kinh nghiệm trong
công tác cũng như tinh thần, thái độ thực thi công vụ.
Trong quá trình thực thi chính sách ưu đãi NCC với cách mạng, cần đặc
biệt quan tâm đến năng lực cán bộ công chức, vì đây là yếu tố có vai trò quyết
định đến kết quả của tổ chức thực hiện chính sách. Các cán bộ, công chức khi
được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng
36
cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật trong lĩnh vực này
mới đạt hiệu quả thực hiện chính sách. Cán bộ, công chức có đạo đức, năng lực
thực tế thì thực hiện chính sách tốt và ngược lại. Trong thực tế, năng lực thiếu
dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền đưa ra những kế hoạch dự kiến không sát
thực tế, hiệu lực không có, nguồn lực huy động bị lãng phí, hiệu quả làm biến
dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện.
1.2.2.4. Thực thi chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trong
nhân dân
Phong trào toàn dân chăm sóc thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ có vị trí
quan trọng trong việc ổn định và nâng cao đời sống của một bộ phận NCC. Nó
không chỉ góp phần bù đắp những thiếu hụt của các gia đình chính sách về vật
chất và tinh thần mà còn cùng với chính sách của Đảng, nhà nước tạo nên mặt
bằng chung cho phù hợp với từng loại đối tượng. Làm tốt việc này, không chỉ
kế thừa, khơi dậy giá trị nhân văn, tinh thần của dân tộc, mà còn góp phần giáo
dục lòng yêu nước, giữ vững niềm tự hào dân tộc, củng cố hậu phương quân
đội, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trong việc trân trọng, giữ gìn, phát huy
giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Sự tham gia của các ngành, đoàn thể và cả hệ thống chính trị, sự vào
cuộc của cộng đồng dân cư có ý nghĩa quan trọng trong hiệu quả của việc
thực hiện chính sách, giúp bản thân đối tượng hưởng chính sách và gia đình
họ được chăm sóc, được đảm bảo một cách đầy đủ, chu đáo những chế độ đãi
ngộ của Nhà nước, giúp cho họ phát huy tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực
khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Tóm lại, chính sách NCC với cách mạng muốn triển khai thực hiện tốt
đi vào đời sống xã hội thì ngoài sự chỉ đạo, lãnh đạo Đảng, quy định pháp luật
37
của nhà nước, cần phải có sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và chính đối
tượng được thụ hưởng chính sách.
1.2.3. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá về quản lý
nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng
Thanh tra mang tính quyền lực nhà nước, thanh tra là một chức năng
của quản lí nhà nước, tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra luôn
gắn bó chặt chẽ với quyền uy và phục tùng. Tính quyền lực của hoạt động
thanh tra thể hiện qua việc ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với tất cả
các đối tượng bị thanh tra. Chủ thể tiến hành thanh tra phải tác động tích cực
nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Tính quyền lực Nhà nước của hoạt
động thanh tra thể hiện rõ khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ thể tiến
hành thanh tra đều có nhiệm vụ, quyền hạn được xác định và khả năng thực
hiện những quyền hạn đó. Trong những trường hợp cần thiết được phép áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Quản lý nhà nước không thể tách rời hoạt động thanh tra. Nội dung cơ
bản của quản lý nhà nước bao gồm 3 mặt thống nhất chặt chẽ với nhau: Ban
hành quyết định quản lý; Tổ chức, phân công, chỉ đạo việc thực hiện các
quyết định quản lý; Kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý.
Lênin đã từng nói: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra; quản lý thanh
tra là một chứ không phải là hai”. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
ở đâu có Nhà nước thì ở đó có thanh tra, kiểm tra, giám sát. Trong mối quan
hệ giữa quản lý nhà nước và thanh tra thì quản lý Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, chi phối tất cả mọi hoạt động của thanh tra. Nhà nước đưa ra chủ trương
chính sách, nắm bắt tình hình, dự đoán sự phát triển của tình hình; Lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác phối hợp, thanh tra, kiểm tra.
38
Nhà nước quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, sử dụng
thông tin kết quả thanh tra để phục vụ công tác quản lý điều hành. Thanh tra
chịu sự tác động, chi phối của quản lý nhà nước. Đối tượng quản lý nhà nước
cũng là đối tượng thanh tra. Quản lý nhà nước sẽ không đạt được hiệu quả
nếu thiếu thanh tra. Thanh tra cũng tác động trở lại quản lý nhà nước, trong
quá trình hoạt động thanh tra không chỉ phát hiện ra những sai lệch trong
quản lý nhà nước mà qua những kết luận và kiến nghị của cơ quan thanh tra
còn là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét lại cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật.
Ngoài ra, tính độc lập trong hoạt động thanh tra còn thể hiện ở chính sự
độc lập của cơ quan thanh tra trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình; khi ra các quyết định, phải tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình
trong hoạt động thanh tra; với các cuộc thanh tra theo thẩm quyền hoặc theo
chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt tự mình tổ chức; độc lập trong việc
áp dụng biện pháp nghiệp vụ thanh tra; về tài chính, vật chất, phương tiện và
các điều kiện khác, không bị phụ thuộc vào đối tượng thanh tra về nới ăn, ở,
phương tiện đi lại…
Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về người có công với cách
mạng trong phạm vi ngành được quy định tại Điều 34a, Pháp lệnh Ưu đãi
người có công với cách mạng hiện hành.
Chính vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá chuyên
ngành thực thi chính sách ưu đãi đối với người có công có thanh tra Bộ, Sở,
có chức năng thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy tắc, quy phạm quản lý
của ngành. Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của thanh việc thực hiện
chính sách ưu đãi người có công với các mạng được quy định cụ thể tại Nghị
định số 110/2017/NĐ-CP ngày 04/10/2017 của Chính phủ về Tổ chức và hoạt
39
động Thanh tra ngành LĐTBXH và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó,
Thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là
hoạt động của thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với
việc thực hiện các quy định về đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn, trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thực hiện các chế độ chính sách ưu đãi
người có công với cách và thân nhân của họ.
1.3. Sự cần thiết phải quản lý nhà nƣớc bằng pháp luật về ƣu đãi
ngƣời có công với cách mạng
1.3.1. Vì sao phải quản lý nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có
công với cách mạng
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước đều có
những điều khoản quy định quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm
bảo được các quyền và lợi ích của công dân pháp luật còn có những điều
khoản quy định mọi hành vi xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân mà còn quy định cả cơ chế pháp lý,
các quy định pháp luật thủ tục để thực hiện các quyền và lợi ích, hợp pháp của
công dân, các quyền và lợi ích đó được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả
các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các cuộc cải cách, điều chỉnh pháp luật và cải
cách bộ máy nhà nước đều hướng tới mục tiêu là bảo vệ một cách tốt nhất các
quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Pháp luật là cơ sở để xây dựng, hoàn thiện hệ thống bộ máy nhà nước
và nhằm thực thi quyền lực nhà nước đó. Bộ máy nhà nước luôn phải được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh những quy định của hiến
pháp mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo
40
những văn bản pháp luật nhất định. Việc tổ chức bộ máy nhà nước theo pháp
luật sẽ đảm bảo được tính chính xác, chặt chẽ, tính thống nhất cao trong tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời cũng thể hiện tầm quan
trọng của hoạt động quản lý nhà nước tạo ra sức mạnh tổng hợp, có tổ chức
của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp
luật cũng tránh được hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc tuỳ tiện, lạm
quyền, tạo ra một cơ chế đồng bộ thực hiện có hiệu quả quyền lực nhân dân.
Pháp luật là công cụ quản lý xã hội của nhà nước, do nhà nước đặt ra
nhưng trong xã hội văn minh nhà nước cũng phải tự hạn chế bởi pháp luật,
chịu phục tùng, phải thi hành pháp luật do chính mình đặt ra. Có như vậy mới
bảo vệ được quyền của công dân, tránh sự lạm quyền, bảo đảm sự công bằng
và sự phát triển bình thường của nhà nước. Pháp luật chỉ có thể hiện được
trong đời sống khi có sự đảm bảo của nhà nước.
Pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng,
nhà nước, pháp luật cũng là công cụ để cải tạo xã hội trong mọi lĩnh vực
nhằm mục đích cho nhân dân sự tự do, hạnh phúc.
Tóm lại, nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, tạo ra một trật
tự xã hội phù hợp với ý chí nhà nước, mang lại đời sống hạnh phúc cho nhân
dân. Nhà nước ra đời có nhiệm vụ và đòi hỏi sự tôn trọng, thực hiện nghiêm
minh của mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Pháp luật còn là công cụ bảo
vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân. Muốn bảo vệ lợi ích
nhà nước, xã hội, nhân dân, Nhà nước phải dựa trên căn cứ pháp lý và theo
những trình tự thủ tục luật định.
41
1.3.2. Sự cần thiết xây dựng chính sách quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công
Trong xã hội hiện nay, Nhà nước phải thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật bởi pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ
trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và
được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Hệ thống pháp
luật là tổng thể các quy định do nhà nước ban hành, tạo thành một hệ thống
thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn bản quản lý nhà nước
(văn bản pháp quy dưới luật).
Việc xây dựng chính sách quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với chính
sách ưu đãi người có công phải phù hợp và bảo đảm thực hiện đúng đường lối
đổi mới của Đảng, pháp luật nhà nước.
Sở dĩ phải quản lý nhà nước về ưu đãi người có công bằng pháp luật là
bởi vì: Pháp luật là các quy định chuẩn mực về những việc được làm, những
việc phải làm và những việc không được làm, nhằm đảm bảo an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Quản lý
nhà nước bằng pháp luật về ưu đãi người có công phải thực hiện đồng bộ các
nội dung về xây dựng hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và xử
lý các vi phạm pháp luật về về ưu đãi người có công, như sau:
Thứ nhất, pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Việc
ban hành pháp luật của Nhà nước được tiến hành thông qua những trình tự thủ
tục chặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, các tổ chức và các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa
học, chặt chẽ, chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
42
- Thứ hai, pháp luật do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước
và nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhân dân thông qua nhà nước để
nâng ý chí của mình lên thành ý chí của nhà nước dưới dạng quy tắc xử sự
chung do chính quyền nên được Nhà nước và nhân dân tự giác thực hiện.
Ngoài ra, pháp luật có những chế tài nghiêm khắc để đảm bảo thực hiện pháp
luật nghiêm minh như phạt tiền, phạt tù, tù chung thân, tử hình…với sự đảm
bảo của Nhà nước pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
- Thứ ba, pháp luật chủ yếu bao gồm các quy tắc xử sự chung, được thể
hiện trong những hình thức xác định, có kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt
ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất
nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Do đó, pháp luật có
tính khái quát cao, là khuôn mẫu để các tổ chức, cá nhân thực hiện.
- Thứ tư, pháp luật mang tính bắt buộc chung, không phải chỉ áp dụng
cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho toàn xã hội, tất cả các tổ chức và
cá nhân liên quan.
- Thứ năm, pháp luật có phạm vi rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội
đều được pháp luật điều chỉnh.
- Thứ sáu, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức, tạo sự thống
nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.
Trong đời sống pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội,
pháp luật không chỉ là một công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội
hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh hoá
đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Hiện nay, việc
tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan
nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh.
43
Với chính sách đặc biệt, phương pháp quản lý bằng pháp luật người có
công cũng được các quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên giám sát việc thực hiện và kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện tốt chính sách, chế độ người có công với cách mạng.
Tóm lại, sự cần thiết xây dựng chính sách quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công là nhà nước ban hành pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của từng
người dân và của toàn xã hội được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật, bao
gồm: Hiến pháp, các đạo luật, bộ luật, Nghị quyết của Quốc hội (hoặc Nghị
viện), Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh quyết định
của Chủ tịch nước (hoặc Tổng thống); nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân các cấp.
1.3.3. Sự cần thiết triển khai thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công với cách mạng
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục; bảo đảm trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng, áp dụng
đúng đắn pháp luật; Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trong
lĩnh vực người có công của cơ quan quản lý nhà nước.
Trước hết phải thể chế hóa đường lối đổi mới nói chung, đổi mới phương
thực triển khai hoạt động quản lý nhà nước nói riêng thành các quy định trong
hệ thống pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm cho quản lý nhà nước bằng
pháp luật về ưu đãi người có công.
Chính vì vậy, việc thể chế quản lý chính sách ưu đãi NCC hiện đang
thực hiện phân cấp, phân quyền về đơn vị hành chính và tổ chức, hoạt động
của chính quyền địa phương theo Luật số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 của
44
Quốc hội, tại Điều 13. Phân cấp cho chính quyền địa phương: “Căn cứ vào
yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa
phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp
cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một
cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm
quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Do đó, khi triển khai thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính
sách ưu đãi NCC tại các đơn vị hành chính trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã, là tác động có mục đích bằng quyền lực nhà nước thông qua pháp luật,
vì hoạt động này đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ các nội dung
của quản lý nhà nước bằng pháp luật
Thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính sách ưu đãi
NCC phải nâng cao năng lực và hiệu quả của hệ thống bộ máy quản lý nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp
luật về ưu đãi người có công đòi hỏi đổi mới cả hệ thống quản lý của nhà
nước bao gồm: các chính sách, luật pháp; công cụ đòn bẩy kinh tế, phương
pháp quản lý; tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý; cơ chế điều hành, phối kết
hợp giữa các bộ phận có liên quan từ trung ương đến địa phương.
Quản lý nhà nước về chính sách ưu đãi NCC phải có kế hoạch, bước đi
phù hợp điều kiện kinh tế, chính trị của đất nước trong từng thời kỳ; bảo đảm
phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa; phù hợp điều kiện, phong tục tập quán của từng vùng miền; từng
bước hội nhập với khu vực và quốc tế.
Để triển khai thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính sách
ưu đãi NCC phải căn cứ các quy định của pháp luật về NCC, nhất là mục
đích, nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nội dung đã được pháp luật
45
quy định; đồng thời căn cứ vào những yêu cầu của công tác quản lý, các quy
định để triển khai, xem xét, xử lý, kiến nghị, kết luận.
Hoạt động triển khai thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính
sách ưu đãi NCC có tính chất đặc thù riêng, tránh nhầm lẫn chính sách ưu đãi
NCC với chính sách bảo trợ xã hội, mà phải hiểu nó nằm trong nhóm an sinh
xã hội nhưng hoạt động quản lý chính dựa trên thành tích, công sức đóng góp
của chính họ, quá trình diễn biến của từng thời kỳ lịch sử, điều kiện kinh tế xã
hội của đất nước từng thời điểm để hướng dẫn triển khai diện rộng hay hẹp.
Muốn triển khai rộng rãi thực hiện có hiệu quả về công tác NCC thì nhà
nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật, làm cho dân biết pháp luật, biết
quyền lợi và nghĩa vụ của mình, nhất là thực hiện đúng việc phân cấp quyền
hạn cho các cấp, các ngành, tránh chồng chéo. Do đó, nhà nước phải công bố
công khai, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật, tiến hành nhiều biện
pháp thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện báo,
đài, truyền hình; đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, xây dựng tủ sách
pháp luật ở xã, phường, thị trấn, các cơ quan, trường học,… để “dân biết” và
“dân làm” theo pháp luật.
46
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tại Chương 1, Luận văn đã tập trung chủ yếu đề cập, phân tích vấn đề
có tính chất lý luận về một số nội dung sau:
Một là, một số khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước bằng pháp luật; khái
niệm về NCC và quá trình xây dựng thể chế chính sách NCC qua các thời kỳ.
Hai là, phân tích cơ sở lý luận việc thực thi triển khai, quản lý chính
sách ưu đãi NCC bằng pháp luật. Những yếu tố tác động đến chất lượng, nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước về thực hiện chính sách ưu đãi NCC với
cách mạng để có cách nhìn một cách khái quát nhất trong việc tổ chức triển
khai, thực hiện chính sách người có công với sự đồng tình, ủng hộ trong nhân
dân và liên quan trực tiếp đến đối tượng NCC.
Như vậy, qua hệ thống lý luận ở Chương 1 sẽ là cơ sở cho việc nghiên
cứu Chương quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính sách ưu đãi đối với
NCC với cách mạng và đánh giá việc thực hiện chính sách ưu đãi NCC với
cách mạng tại Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
47
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỘ ƢU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ ƢU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TẠI
QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng chế độ ƣu đãi với cách mạng trên toàn quốc và
quản lý nhà nƣớc về chế độ ƣu đãi ngƣời có công với cách mạng trên
toàn quốc
2.1.1. Thực trạng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng trên
toàn quốc
Quan điểm, chủ trương của Đảng đối với NCC với cách mạng luôn là
một chủ trương nhất quán của từ khi Bác Hồ lấy ngày 27/7 là ngày Thương
binh - Liệt sĩ. Khi đất nước thống nhất, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
(năm 1976) đã khẳng định: “Săn sóc và giúp đỡ chu đáo anh, chị, em thương
binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng là một nhiệm vụ to
lớn của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể, của các ngành, các cấp và của
toàn dân,…” .
Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, ngày 19/7/2017 Ban Bí thư
Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 14-CT/TW với mục tiêu: “Thực hiện
tốt hơn nữa công tác người có công với cách mạng; phấn đấu đến năm 2020,
100% gia đình người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn
mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú” [1].
Vì vậy, quản lý về pháp luật đối với chính sách ưu đãi NCC, nhà nước
đóng vai trò vừa là người lãnh đạo, định hướng cho việc triển khai, thực hiện
48
bằng hệ thống văn bản pháp quy hiện hành như: Pháp lệnh số
04/2012/PLUBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp Lệnh ưu đãi người có công với cách mạng,
có hiệu lực kể từ ngày 01/09/2012 (Pháp lệnh hiện hành); Nghị định số
31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; .Thông số
05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ;
Thông tư số 101/2018/TT-BTC ngày 14/11/2018 của Bộ Tài chính quy định
quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến do ngành LĐTBXH quản
lý; Nghị định số 58/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định mức trợ cấp, phụ
cấp ưu đãi đối với NCC với cách mạng,…
Đến nay cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu NCC với cách mạng.
Tuy nhiên, tính đến nay chỉ còn trên 1,4 triệu đối tượng NCC và thân nhân
đang hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi hàng tháng của nhà nước. Cụ thể:
Bảng 2.1: Số liệu NCC cả nước đã được xác nhận
TT Tên đối tƣợng Số lƣợng
1 Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 9.184
Người hoạt hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945
2 đến trước tổng khởi nghĩa 19/8/1945 16.500
3 Liệt sĩ 1.202.204
4 Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 650.000
5 Bệnh binh 195.000
49
7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng 132.275
Anh hùng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong
8 thời kỳ kháng chiến 1.300
9 Người HĐKC bị địch bắt tù, đày 111.303
10 Người HĐKC giải phóng dân tộc 4.208.673
11 Người HĐKC bị nhiễm chất độc hóa học 320.000
12 Người có công giúp đỡ cách mạng 1.898.199
14 Thân nhân người có công (người hưởng tuất hàng tháng) 501.700
Cộng 9.246.338
(Nguồn: Bộ LĐTBXH tháng 9/2019)
Cả nước hiện có gần 7.000 các công trình ghi công liệt sĩ, trong đó có
237 đài tưởng niệm liệt sĩ, 3.540 nhà bia ghi tên liệt sĩ và 3.077 nghĩa trang
liệt sĩ với tổng số mộ có trong nghĩa trang là trên 780.522 (trong đó mộ có đủ
thông tin là 477.294, thiếu thông tin là 303.228); mộ do gia đình quản lý là
156.904; còn 208.824 hài cốt liệt sĩ chưa phát hiện, tìm kiếm quy tập được.
Nhiều công trình ghi công liệt sĩ trở thành công trình liệt sử văn hoá, có sức
thuyết phục lớn về mỹ thuật, đạo đức, giáo dục (Đền liệt sĩ Bến Dược, Đài
tưởng niệm liệt sĩ Thái Nguyên, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn).
Các phong trào tình nghĩa, xã hội hoá chăm sóc người có công với cách
mạng ngày càng đẩy mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực. Đến nay, Quỹ
“Đền ơn đáp nghĩa” đã huy động được gần 1.900 tỷ đồng, xây dựng mới
277.861 và sửa chữa 128.092 căn nhà tình nghĩa, 100% Bà mẹ Việt Nam anh
hùng còn sống đều được chăm sóc, phụng dưỡng đến cuối đời, 95% xã,
phường được công nhận là xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và
50
người có công, có 95% người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức
sống người dân nơi cư trú [5].
2.1.1.1. Chế độ trợ cấp, phụ cấp hàng tháng và trợ cấp một lần:
Tại thời điểm năm 1994, chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi NCC được
điều chỉnh gắn liền với chế độ tiền lương. Từ năm 2005, thực hiện đề án
cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi NCC, chế
độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công đến nay đã qua 10 lần
điều chỉnh, từng bước khắc phục những hạn chế về mức chuẩn trợ cấp ưu
đãi người có công. Về nguyên tắc mức chuẩn trợ cấp đã được điều chỉnh
độc lập với chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phù hợp với sự đáp ứng của
ngân sách nhà nước, góp phần từng bước cải thiện nâng cao đời sống của
người có công, cụ thể: Năm 2005, theo Nghị định 147/2005/NĐ-CP mức
chuẩn để xác định mức trợ cấp là 355.000 đồng và đến nay thực hiện theo
Nghị định 58/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ thì mức chuẩn
trợ cấp ưu đãi người có công là 1.624.000 đồng (tăng thêm 767 tỷ đồng so
với kinh phí cấp 2018).
Hiện cả nước có trên 1,47 triệu NCC và thân nhân đang hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng với tổng kinh phí khoảng trên 30.000 tỷ đồng/năm. Trong
10 năm gần đây (từ năm 2009-2019), tổng kinh phí trợ cấp là 133.306 tỷ đồng
trong đó, kinh phí trợ cấp hàng tháng khoảng 120.747 tỷ đồng, kinh phí trợ
cấp 1 lần khoảng 12.600 tỷ đồng. Tổng kinh phí thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi
người có công với cách mạng hàng năm khoảng trên 30.000 tỷ đồng.
2.1.1.2. Chế độ bảo hiểm y tế, điều dưỡng phục hồi sức khỏe
Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng số 04/2012/UBTVQH13 ngày
16/7/2012 đã quy định: Nhà nước mua Bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh
theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm y tế đối với người có công với
51
cách mạng và thân nhân của họ (bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng,
con từ 6 tuổi đến mười tám tuổi hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp tục đi
học hoặc bị khuyết tật nặng trở lên; người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ
còn nhỏ; người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng; người phục vụ thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh, người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên), với số kinh phí chi trả cho chế độ này cho trên 800.000
ngàn đối tượng (ngoài thân nhân người có công đã được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế theo quy định của Luật Bảo hiểm Y tế) với kinh phí khoảng gần
400 tỷ đồng/năm. Đồng thời, Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày
16/7/2012 cũng bổ sung về trách nhiệm của cơ quan y tế trong việc hướng
dẫn việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm y tế đối với NCC với cách
mạng và thân nhân của họ.
Năm 2006, ngân sách Trung ương dành cho chế độ bảo hiểm y tế đối
với người có công với cách mạng khoảng 369 tỷ đồng, đến năm 2019, số kinh
phí này là 1.327 tỷ đồng, tăng gấp 3,5 lần (tăng 958 tỷ đồng).
Chế độ điều dưỡng luân phiên đối với NCC đã được giảm từ 5 năm
sang 2 năm một lần đã được thực hiện từ ngày 01/01/2013, kinh phí tăng thêm
là 498.000 triệu đồng/năm nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày
càng cao của NCC với cách mạng.
Năm 2006, ngân sách Trung ương chi điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe
cho người có công với cách mạng khoảng 126,8 tỷ đồng, đến năm 2019, số
kinh phí này là 837,8 tỷ đồng, tăng gấp 6,6 lần (tăng 711 tỷ đồng).
2.1.1.3. Chế độ hỗ trợ nhà ở cho người có công
Thực hiện Nghị quyết số 494/NQ-UBTVQH13 ngày 18/5/2012 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
52
22/2013/QĐ-TTg về hỗ trợ NCC với cách mạng về nhà ở. Sau khi Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, Bộ Xây dựng đã ban
hành Thông tư số 09/2013/TT-BXD ngày 01/7/2013 hướng dẫn thực hiện
Quyết định này, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 98/2013/TT-
BTC ngày 24/7/2013 hướng dẫn quản lý, cấp phát và thanh, quyết toán vốn
hỗ trợ nhà ở.
Tính đến nay, cả nước có 116.967 hộ đã hoàn thành hỗ trợ (61.080 hộ
xây mới và 55.887 hộ sửa chữa), đang triển khai hỗ trợ cho 6.787 hộ (2.334
hộ xây mới và 4.453 hộ sửa chữa). Kinh phí đã hỗ trợ xây mới và sửa sữa nhà
ở cho NCC từ 2012 đến nay khoảng 8.810 tỷ đồng (ngân sách Trung ương
khoảng 8.140 tỷ đồng, ngân sách địa phương khoảng 670 tỷ đồng).
2.1.1.4. Công tác mộ, nghĩa trang liệt sĩ, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác
định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin
Hiện nay, Bộ LĐTBXH đang tiến hành khảo sát thực trạng các nghĩa
trang liệt sĩ ở các tỉnh phía Bắc để hoàn thiện Đề án quy hoạch hệ thống nghĩa
trang, công trình ghi công liệt sĩ 07 tỉnh biên giới phía Bắc; đồng thời xây
dựng Đề án quy hoạch hệ thống hơn 3.077 nghĩa trang liệt sĩ.
Đối với công tác tổ chức tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ: Từ năm 2005
đến nay đã tìm kiếm, quy tập được trên 70.500 hài cốt liệt sĩ, trong đó ở Lào:
16.613 hài cốt liệt sĩ; Campuchia: 15.148 hài cốt liệt sĩ; trong nước: 38.778
hài cốt liệt sĩ. Công tác giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị quân đội trong
chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đã cơ bản hoàn
thành; được chuẩn hóa và tích hợp trên phần mềm điện tử, tổng số 28.164 đơn
vị (cấp đại đội và tương đương) được giải mã với 212.731 dòng thông tin giải
mã, 116.150 phiếu cung cấp thông tin giải mã, 185.264 thông tin giải mã và
32.638 thông tin về liệt sĩ.
53
Theo Thông báo số 15/TB-VPCP ngày 13/01/2020 của Văn phòng
Chính phủ: trong năm 2019 đã tìm kiếm quy tập được 1.625 hài cốt liệt sĩ
(trong nước: 591; Lào: 239; Campuchia: 795); xác định danh tính hài cốt liệt
sĩ bằng phương pháp thực chứng 121 liệt sĩ, giám định ADN ty thể 496
trường hợp, trong đó chỉ xác định được danh tính 31 liệt sĩ.
Hiện còn hơn 200.000 hài cốt liệt sĩ chưa được quy tập, hơn 300.000
hài cốt liệt sĩ đã được quy tập nhưng chưa xác định được danh tính. Ngày
14/01/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 150/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, giao Bộ
LĐTBXH là cơ quan thường trực và Quyết định số 1237/QĐ-TTg ngày
27/7/2013 phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm
2020 và các năm tiếp theo, giao Bộ Quốc phòng là cơ quan thường trực.
Nhưng đến ngày 10/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
515/QĐ-TTg về kiện toàn Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập và xác
định danh tính hài cốt liệt sĩ thành một Ban Chỉ đạo mà Trưởng Ban là Phó
Thủ tướng Chính phủ.
2.1.2. Thực trạng quản lý chế độ ưu đãi người có công với cách
mạng trên toàn quốc.
2.1.2.1. Quản lý chi trả chế độ ưu đãi người có công (cấp phát tiền trợ
cấp hàng tháng, trợ cấp một lần, trợ cấp mỗi năm 1 lần, cho người có công
hoặc thân nhân của họ được điều chỉnh bằng Pháp lệnh, Nghị định hướng dẫn
Pháp lệnh và Nghị định quy định trợ cấp Ưu đãi người có công với cách mạng
do Chính phủ quy định).
Quản lý chi trả chế độ ưu đãi là các hoạt động có tổ chức, theo quy định
của pháp luật để thực hiện công tác chi trả các chế độ ưu đãi. Các hoạt động
đó được thực hiện bằng hệ thống pháp luật của nhà nước và bằng các biện
54
pháp hành chính, tổ chức, kinh tế của các cơ quan chức năng nhằm đạt được
mục tiêu chi đúng đối tượng, chi đủ số lượng và đảm bảo đến tận tay đối
tượng thụ hưởng đúng thời gian quy định.
Đứng trước yêu cầu về đổi mới công tác chi trả trợ cấp ưu đãi NCC với
cách mạng theo phương thức hiện đại, nâng cao hiệu quả trong công tác quản
lý, tạo sự minh bạch cũng như giảm tải áp lực cho cán bộ xã, phường, Bộ
LĐTBXH đã thực hiện thí điểm mô hình chi trả trợ cấp ưu đãi người có công
qua hệ thống bưu điện. Từ năm 2016 - 2019, cả nước có 20 tỉnh, thành phố đã
triển khai theo mô hình 3 bên thông qua việc ký Hợp đồng trách nhiệm chi trả
giữa Phòng LĐTBXH cấp huyện, Ủy ban nhân dân xã và cán bộ chi trả. Theo
đại diện Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, hàng tháng, bưu điện đã tổ chức
3.592 điểm chi trả trên tổng số 2.703 xã, phường, bố trí 3.242 nhân viên để
thực hiện chi trả cho gần 360.000 người hưởng với số tiền hơn 620 tỷ đồng.
Việc chi trả đáp ứng được các yêu cầu của ngành LĐTBXH là chi trả
đúng đối tượng, chi đủ số tiền, đúng thời gian quy định, đảm bảo an toàn về
tiền mặt tại tất cả các địa phương thí điểm. Công tác triển khai được ứng dụng
công nghệ thông tin, giúp cho việc khai thác và quản lý an toàn, nhanh chóng,
mang lại hiệu quả cho các bên và đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính.
2.1.2.2. Vai trò quản lý chi trả chế độ ưu đãi đối với người có công
- Đối với đối tượng thụ hưởng: trực tiếp nhận được quyền lợi của cá
nhân do công sức đóng góp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc sẽ ý thức được quyền
lợi và trách nhiệm của mình.
- Đối với người đảm nhiệm công việc quản lý: Thực hiện nguyên tắc
chi đúng đối tượng được thụ hưởng, đủ số lượng và kịp thời; đồng thời đảm
đảm bảo an toàn, tiết kiệm và hiệu quả.
55
Hàng năm, Bộ LĐTBXH phối hợp với Bộ Quốc phòng và các cơ quan
liên quan tổ chức kiểm tra, thanh tra thực hiện chính chế độ ưu đãi NCC với
cách mạng tại các địa phương, chỉ đạo các Sở LĐTBXH thường xuyên rà
soát, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật ưu đãi NCC trên địa bàn.
2.1.2.3. Thực trạng về quản lý hồ sơ để hưởng chế độ trợ cấp
Từ năm 2011 đến năm 2018, kết quả thanh tra việc thực hiện chính
sách ưu đãi NCC của Bộ LĐTBXH đã kiểm tra 75.191 hồ sơ phát hiện
9.371 hồ sơ có sai phạm hoặc nghi vấn sai phạm cần phải xác minh hoặc
trưng cầu giám định kỹ thuật hình sự, kiến nghị đình chỉ trợ cấp trên 1000
đối tượng, số tiền phải thu hồi 216,8 tỷ đồng; các cơ quan chức năng đã
điều tra, truy tố đưa ra xét xử 49 vụ, gồm 171 bị cáo, trong đó phạt tù là 45
người, cho hưởng án treo 124 người. (nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2019
của Thanh tra Bộ LĐTBXH)
Năm 2019: Thanh tra Bộ LĐTBXH đã kiểm tra 33.784 hồ sơ người
hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hoá học, phát hiện
6.915 hồ sơ có sai sót hoặc nghi vấn sai sót. Kết luận có 1.230 trường hợp
không đủ điều kiện tiếp tục hưởng chế độ chất độc hoá học và kiến nghị đình
chỉ trợ cấp, yêu cầu thu hồi số tiền đối tượng đã hưởng sai nộp ngân sách nhà
nước là 134,180 tỷ đồng. (nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2019 của Thanh tra Bộ
LĐTBXH)
Tuy nhiên, từ thực tiễn việc thi hành kết luận thanh tra tại các địa
phương, Bộ LĐTBXH nhận được nhiều báo cáo của các địa phương về những
khó khăn vướng mắc trong việc thu hồi số tiền trợ cấp đã hưởng sai đối với
các đối tượng bị đình chỉ, cắt trợ cấp do đa phần đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ
cận nghèo, đối tượng nay đã chết hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo,…không
có khả năng hoàn trả số tiền đã hưởng sai của ngân sách Nhà nước.
56
2.1.3. Ưu điểm và hạn chế
2.1.3.1. Ưu điểm:
Từ khi có chính sách NCC đến nay, tuy điều kiện đất nước từng thời kỳ
có những khó khăn khác nhau, nhưng tất cả hệ thống chính trị từ Trung ương
đến địa phương đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của tổ chức và đề
cao trách nhiệm quản lý trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công
bằng pháp luật.
Phân cấp quản lý nhà nước đối với NCC với cách mạng được phân định
thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù
hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực
tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt
động QLNN.
Đối với công tác tài chính, mô hình chi trả chế độ ưu đãi NCC qua bưu
điện đã tách bạch trong việc chi trả và tham mưu hồ sơ hưởng chế độ chính
sách cho đối tượng, tránh được những rủi ro có thể xảy ra, trong việc thực
hiện chính sách đối với NCC với cách mạng. Đồng thời, đảm bảo an toàn các
nguồn tiền chi trả do cơ quan lao động quản lý, công tác an toàn tiền mặt tuân
thủ theo quy trình nghiêm ngặt, chuyên nghiệp, nguồn tiền chi trả được quản
lý chặt chẽ, đảm bảo an toàn.
Tổ chức thực hiện quản lý chế độ ưu đãi đối với NCC với cách mạng,
thông qua kiểm tra, thanh tra để phát hiện ra những khiếm khuyết của chế độ
chính sách pháp luật để đề xuất điều chỉnh; phát hiện những sai phạm trong
thực thi chính sách để xử lý, điều chỉnh kịp thời.
Trong lĩnh vực thực hiện quản lý chính sách ưu đãi NCC với cách mạng,
những vụ việc liên quan đến khiếu nại, tố cáo về những sai phạm trong thực
hiện chế độ, chính sách, đến việc xác nhận NCC ảnh hưởng rất lớn đến trật tự
57
xã hội, tư tưởng chính trị, đặc biệt là ảnh hưởng đến việc giáo dục truyền
thống cách mạng đối với thế hệ trẻ và quan trọng hơn hết sẽ làm mất lòng tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào đội ngũ cán bộ, công chức.
2.1.3.2. Hạn chế:
* Hạn chế về chế độ chính sách:
- Về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận NCC
+ Xác nhận liệt sĩ đối với trường hợp thương binh chết do vết thương
tái phát chưa phù hợp vì hầu hết thương binh hiện nay chết do tuổi già chứ
không phải do vết thương tái phát;
+ Xác nhận bệnh binh đối với người có 15 năm công tác thuộc lực
lượng quân đội và công an nhưng bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở
lên trong thời kỳ hiện nay chưa công bằng so với diện các cán bộ công chức
các ngành khác;
+ Xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
căn cứ một trong 17 bệnh, tật trong đó có bệnh lý tiểu đường tuyp 2 là không
chính xác về mặt khoa học và thực tế đời sống. Vì hiện nay trên thế giới được
Hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF) thống kê với con số hơn 425 triệu
người, nghĩa là cứ 11 người thì có 1 người mắc bệnh tiểu đường và nguyên
nhân gây bệnh tiểu đường hiện vẫn chưa rõ, mặc dù nhiều người tin rằng yếu
tố di truyền và môi trường đóng một vai trò trong việc gây ra;
+ Công tác xác nhận NCC còn tồn đọng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu đề ra do hầu hết họ không còn giấy tờ gốc.
- Về chế độ trợ cấp ưu đãi đối với NCC:
Mặc dù Pháp lệnh Ưu đãi người có công luôn đề cập đến chế độ ưu đãi
được điều chỉnh phù hợp với điều kiện, kinh tế - xã hội của đất nước trong
58
từng thời kỳ. Tuy nhiên, chế độ trợ cấp một lần theo Nghị định 147/2005/NĐ-
CP đến nay thực hiện theo Nghị định số 58/2019/NĐ-CP thì chế độ trợ cấp
đối với người hoạt động cách mạng vẫn chỉ là 120.000đồng/1 thâm niên và hỗ
trợ chi phí lễ báo tử cho liệt sĩ vẫn ở mức 1.000.000 đồng. Chế độ điều dưỡng
người có công tập trung mức 2.200.000/người và tại nhà mức
1.100.000/người từ năm 2013 theo Nghị định số 31/2013/NĐ-CP đến nay vẫn
không thay đổi.
Các văn bản quản lý nhà nước hướng dẫn thực thi chế độ trợ cấp, ưu
đãi khác ngoài trợ cấp còn chồng chéo, thiếu thống nhất thể hiện ở nhiều loại
văn bản quy định khác nhau cho một đối tượng người có công. Trong đó,
chưa có biện pháp chế tài thu hồi số tiền đã chi cho đối tượng người có công
hưởng sai chế độ do hoàn cảnh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc đã chết
hoặc đang bị bệnh hiểm nghèo,... như: Nghị định số 31/2013/NĐ-CP; Nghị
định số 58/2019/NĐ-CP; Nghị định 56/2013/NĐ-CP; Thông tư 05/2014/TT-
BLĐTBXH; Thông tư 101/2018/TT-BTC,…
Chế độ trợ cấp trong các nhóm đối tượng còn thiếu bình đẳng thể hiện
tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP hiện
hành như: Thân nhân của ba liệt sĩ trở lên được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng
tháng bằng ba lần mức chuẩn; Người HĐKC bị phơi nhiễm chất độc hóa
học/dioxin làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên sẽ được hưởng
chế độ trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động
theo các mức từ 21% đến 40%, từ 41% đến 60%, từ 61% đến 80% và từ
81% trở lên. Đa số các đối tượng này mắc bệnh như bệnh thần kinh ngoại
biên cấp và bán cấp tính, tiểu đường, rối loạn tâm thần mức độ vừa... Những
đối tượng này vẫn lao động và sinh hoạt bình thường, nếu được điều trị và
phục hồi chức năng tốt thì bệnh sẽ giảm. Trong đó đối tượng là bệnh binh vì
59
bị mắc bệnh có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 41% trở lên mới được hưởng trợ
cấp hàng tháng.
- Về trang cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình phục hồi chức
năng mặc dù đã thực hiện theo tiền tệ hóa nhưng còn chưa phù hợp với thực
tiễn và phương thức tổ chức thực hiện, niên hạn sử dụng đối với một trang
cấp dụng cụ quá dài (Thông tư số 101/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính).
- Về công tác sửa chữa, tu bổ, tôn tạo các công trình ghi công liệt sĩ,
nghĩa trang liệt sĩ mặc dù đã được Nhà nước quan tâm, bố trí kinh phí hàng
năm nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu, vẫn còn tình trạng một số nghĩa
trang xuống cấp, hư hại chậm được sửa chữa, tôn tạo do mức kinh phí bố trí
thấp, dàn trải giữa các địa phương (Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-
BLĐTBXH-BTC).
* Hạn chế về công tác quản lý chính sách ưu đãi NCC:
- Về thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng thành chính sách
pháp luật: Đã từng bước được hoàn thiện theo hệ thống quản lý văn bản quy
phạm từ trung ương đến địa phương nhưng vẫn còn nhiều bất cập, phải sửa
đổi, bổ sung nhiều lần (cụ thể: Pháp lệnh ưu đãi Người có công đã phải sửa
đổi 7 lần từ 1998 đến nay).
- Về công tác tuyên truyền, phổ biến: Các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với người có công và thân nhân của họ đã được triển
khai rộng khắp nhưng hình thức còn đơn điệu, chưa phong phú, chỉ tập trung
vào dịp 27/7 hàng năm.
- Về cải cách thủ tục hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế,
còn nhiều hạn chế, hiện công tác quản lý hồ sơ NCC vẫn lưu trữ trên hệ cơ sở
MS Access, không có giao diện nhập liệu, chưa có hệ thống liên kết online từ
trung ương đến địa phương. Công tác quản lý hồ sơ NCC hiện nay chậm đổi
60
mới khi ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực thi chính sách ưu
đãi NCC với cách mạng theo Quyết định 708/QĐ-TTg ngày 25/5/2018 của
Thủ tướng Chính phủ.
- Về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách
NCC còn thiếu thường xuyên; việc phát hiện sai sót và xử lý các vi phạm có
lúc, có nơi thiếu triệt để. Công tác cải cách hành chính gắn với phòng, chống
tham nhũng trong việc xác lập hồ sơ hưởng chế độ và quản lý đối tượng NCC
tại một số địa phương còn chưa được chú trọng; chưa có chế tài nghiêm minh
đối với những người khai man, làm giả hồ sơ hoặc xác nhận sai sự thật để
hưởng chế độ vẫn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về chế độ ƣu đãi ngƣời có công
với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
2.2.1. Khái quát về quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Quận Hoàn Kiếm là quận nằm ở vị trí trung tâm thủ đô Hà Nội, có vị trí
địa lý: phía bắc và tây bắc giáp quận Ba Đình, phía tây giáp các quận Ba
Đình và Đống Đa; phía nam giáp quận Hai Bà Trưng; phía đông giáp
quận Long Biên với ranh giới là sông Hồng. Quận Hoàn Kiếm có diện tích 5,29 km2, là quận có diện tích nhỏ nhất thành phố Hà Nội. Quận Hoàn Kiếm
là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông đường sắt, đường thuỷ và đường bộ.
Đây là điều kiện thuận lợi giúp quận có thể giao lưu, trao đổi hàng hoá, là tiền
đề cho sự phát triển kinh tế, văn hoá và du lịch. Quận Hoàn Kiếm cũng là nơi
tập trung nhiều các cơ quan quản lý nhà nước cấp Bộ, Ban, Ngành và cũng là
địa điểm nhiều đại sứ quán của các nước. Có thể nói, cùng với quận Ba Đình,
quận Hoàn Kiếm là trung tâm hành chính, chính trị cũng như là trung tâm
thương mại lớn của thành phố Hà Nội.
61
Quận Hoàn Kiếm có 18 đơn vị hành chính bao gồm 18 phường: Chương
Dương, Cửa Đông, Cửa Nam, Đồng Xuân, Hàng Bạc, Hàng Bài, Hàng Bồ,
Hàng Bông, Hàng Buồm, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Mã, Hàng Trống, Lý
Thái Tổ, Phan Chu Trinh, Phúc Tân, Trần Hưng Đạo, Tràng Tiền.
2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Lao động-
Thương binh và Xã hội quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân quận Hoàn Kiếm quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao
động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo
hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có
công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng,
chống tệ nạn xã hội. Phòng LĐTBXH có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản; chịu sự chỉ đạo, quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân quận Hoàn
Kiếm; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp
vụ của Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội [10].
Lĩnh vực chính sách NCC với cách mạng là một trong những nhiệm vụ,
quyền hạn của Phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm: Trình UBND quận ban
hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm;
chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính
nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao; Hướng dẫn và chủ trì
phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn thực hiện pháp luật, chính
sách, chế độ ưu đãi, chăm sóc NCC. Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực
hiện các chính sách, chế độ với thương binh, gia đình liệt sĩ, người và gia đình
có công với cách mạng. Kiểm tra thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội. Quản lý
các các công trình ghi bia, ghi công trên địa bàn quận. Phối hợp với các
ngành, các đoàn thể trên địa bàn quận, chỉ đạo xây dựng phong trào toàn dân
62
chăm sóc giúp đỡ các đối tượng chính sách xã hội bằng các hình thức: chăm
sóc đời sống, vật chất, tinh thần, thăm hỏi động viên thương bệnh binh, gia
đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng; bảo đảm ngân sách, hướng dẫn,
kiểm tra việc sử dụng ngân sách thực hiện chế độ ưu đãi NCC với cách mạng
Tính đến thời điểm tháng 12/2019, phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm có
10 người, có trình độ cử nhân chuyên ngành công tác xã hội, luật, kế toán, cụ
thể: 01 trưởng phòng và 02 phó phòng; 03 kế toán viên; 01 chuyên viên phụ
trách công tác giảm nghèo; 01 chuyên viên phụ trách trẻ em; 01 chuyên viên
phụ trách công tác lao động, việc làm và bảo hiểm thất nghiệp; 01 chuyên
viên phụ trách công tác NCC, bảo trợ xã hội.
2.2.3. Tình hình người có công với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội
Bảng 2.2: Số lượng NCC tại quận Hoàn Kiếm đã được xác nhận
Đối tượng
Đã xác nhận 48 157 TT 1 2
3 4 5 6 7 8 9
Người HĐCM trước ngày 01/01/1945 Người HĐCM từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 Liệt sĩ Bà mẹ Việt Nam anh hùng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh Bệnh binh - Người HĐKC bị nhiễm với CĐHH - Con của Người HĐKC bị nhiễm với CĐHH
1.509 75 1 4 1.144 106 208 54 106 24 36.933 40.369 Tổng số
10 Người bị địch bắt tù, đày 11 Người có công giúp đỡ cách mạng 12 Người HĐKC giải phóng dân tộc (Nguồn: phòng LĐTBXH quận, tháng 5/2019)
63
Bảng 2.3: Số lượng người có công tại quận Hoàn Kiếm
đang hưởng trợ cấp hàng tháng
TT Đối tượng Năm Năm Năm
2017 2018 2019
Người HĐCM trước ngày 01/01/1945 36 30 27 1
Người HĐCM từ ngày 01/01/1945 đến ngày 118 115 105 2
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Thân nhân Liệt sĩ 383 362 317 3
Bà mẹ Việt Nam anh hùng 7 5 3 4
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 2 2 2 5
Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến 5 4 4 6
Thương binh, người hưởng chính sách như 882 850 801 7
thương binh
Bệnh binh 89 88 86 8
- Người HĐKC bị nhiễm với CĐHH 176 179 181 9
- Con của Người HĐKC bị nhiễm với CĐHH 43 43 43
10 Người bị địch bắt tù, đày 91 91 89
12 Người có công giúp đỡ cách mạng 0 0 0
13 Thân nhân đang hưởng tuất của thương binh, 356 387 393
bệnh binh, CĐHH,…
Tổng số 2188 2156 2051
(Nguồn: phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, tháng 11/2019)
64
2.2.4. Thực trạng về công tác chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi người có
công tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Đối NCC được nhận chế độ trợ cấp ưu đãi đã góp phần không nhỏ trong
chi tiêu hàng tháng hay nói cách khác là bù đắp một phần cho những thiệt thòi
mất mát của NCC và gia đình họ, đó là sự kế tiếp truyền thống tốt đẹp của
dân tộc là “Uống nước nhớ nguồn”, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
NCC nói riêng, thực hiện chính sách an sinh trong toàn xã hội nói chung.
Tùy theo mức độ cống hiến và tình trạng thương tật, bệnh tật của NCC
mà nhà nước ta hỗ trợ mức trợ cấp nhằm đảm bảo đời sống cho đối với người
có công, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cũng như mức sống trung bình
của cộng đồng dân cư. Do vậy, việc thực hiện quản lý chi trả trợ cấp, phụ cấp
cho người có công là yêu cầu trong công tác quản lý chi đúng số tiền và đúng
thời gian quy định. Trong nhiều năm qua, các cán bộ của quận đã hướng dẫn
đến các cán bộ các phường thực hiện với nhiều hình thức vận động toàn thể
cộng đồng tham gia có hiệu quả vào chương trình ổn định đời sống vật chất,
tinh thần cho đối với người có công.
Hàng tháng, từ ngày 05 đến ngày 07 chi trả trợ cấp cho đối tượng chính
sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận đồng loạt thực hiện tại
trụ sở UBND phường để tiết kiệm thời gian đi lại cho các đối tượng, đặc biệt
là các đối tượng chính sách già yếu, đi lại khó khăn thì ủy quyền cho người
thân trong gia đình nhận theo quy định hiện hành.
Theo báo cáo của phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm thì quận phải xây
dựng kế hoạch thực hiện chi trả chế độ trợ cấp thường xuyên cho hơn 2.000
người có công với số tiền hơn 50 tỷ đồng; thực hiện chi trợ cấp 1 lần tới 378
đối tượng với tổng số tiền trên 820 triệu đồng; chi trả thờ cúng cho thân nhân
liệt sĩ 1 năm/1 lần (mức 500.000 đồng) theo Nghị định 31/2013/NĐ-CP với
65
tổng số tiền gần 1,3 tỷ đồng; tổ chức chuyển quà Tết của Chủ tịch nước, của
thành phố Hà Nội và của quận tới 48.932 lượt người [27].
Hàng năm vào tháng 11, phòng LĐTBXH phải lập dự toán chi các chế
độ ưu đãi người có công cho năm tiếp theo gồm: Bản dự toán giá trị thực hiện
trên cơ sở tính toán theo các chuẩn mực theo quy định hiện hành và bản kế
hoạch chi trả các chế độ ưu đãi do nguồn kinh phí Trung ương, đảm bảo ngân
sách cấp đủ lượng tiền để chi trả cho các đối tượng thụ hưởng.
Khi tiến hành lập dự toán chi phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm căn cứ
báo cáo tình hình thực tế đối tượng do các phường báo cáo gửi lên để xác
định mức hưởng theo thang bảng mức trợ cấp của từng đối tượng và phải
được xây dựng tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định để dự toán chi (kèm
Bản thuyết minh dự toán năm ….) gửi Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội theo
đúng quy định gồm: - Báo cáo về tổng số đối tượng đang hưởng trợ cấp ưu
đãi hàng tháng. - Đánh giá tình hình thực hiện phân bổ, giao và chấp hành dự
toán. - Thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra (nếu có). -
Những khó khăn, vướng mắc trong quá thực hiện các nhiệm vụ, cơ chế, chính
sách và chế độ chi tiêu; kiến nghị giải pháp khắc phục. - Căn cứ đối tượng
đang hưởng trợ cấp năm trước và dự kiến biến động tăng, giảm trong năm tiếp
theo để dự toán kinh phí thực hiện.
- Kinh phí chi trả trợ cấp thường xuyên:
Kinh phí chi trả trợ cấp hàng tháng và các khoản trợ cấp 1 lần theo
chế độ thường xuyên: Căn cứ Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày
09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Nghị định số
56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà
66
nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ: số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008, số 53/2010/QĐ-TTg ngày
20/8/2010, số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011... và tình hình quản lý đối
tượng thực tế tại địa phương tại thời điểm báo cáo để xây dựng dự toán
kinh phí thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm
2020; mức trợ cấp, phụ cấp căn cứ theo Nghị định số 58/2019/NĐ-CP ngày
01/7/2019 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với
người có công với cách mạng, tính đủ 12 tháng.
- Kinh phí chi trả trợ cấp một lần
Xây dựng dự toán thực hiện trên cơ sở số hồ sơ của đối tượng còn tồn
đọng, tiến độ duyệt hồ sơ và các định mức chi trả theo quy định hiện hành và
dự kiến số đối tượng mới, kinh phí thực hiện các chế độ trợ cấp 1 lần theo
Quyết định số 290/QĐ-TTg, Quyết định số 59/QĐ-TTg; Quyết định số
62/QĐ-TTg, Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ, Nghị định số 23/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính
phủ, Nghị định số 56/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ...
Thống kê mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công (do ngân sách nhà
nước đảm bảo):
- Năm 2012, quy định mức chuẩn trợ cấp ưu đã NCC với cách mạng là
1.110.000 đồng (Nghị định số 47/2012/NĐ-CP ngày 28/5/2012).
- Năm 2013 tăng từ 1.110.000 đồng lên 1.220.000 đồng, (Nghị định số
101/2013/NĐ-CP ngày 04/9/2013).
- Năm 2015, tăng từ 1.220.000 đồng lên 1.318.000 đồng (Nghị định số
20/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015).
67
- Năm 2017, tăng từ 1.318.000 đồng lên 1.417.000 đồng (Nghị định số
70/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017).
- Năm 2018, tăng từ 1.417.000 đồng lên 1.515.000 đồng (Nghị định số
99/2018/NĐ-CP ngày 12/7/2018).
- Năm 2019, tăng từ 1.515.000 đồng lên 1.624.000 đồng (Nghị định số
58/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019).
Nhìn chung, mức chuẩn để tính trợ cấp ưu đãi NCC tăng lên hàng năm
thì nguồn kinh phí thực hiện trợ cấp cho đối tượng này tại quận Hoàn Kiếm
nói riêng cũng được nâng lên, đáp ứng một phần nguyện vọng của NCC, phù
hợp với sự phát triển chung của đất nước.
Hàng năm, căn cứ vào số lượng đối tượng NCC do quận Hoàn Kiếm
đang quản lý để Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội phân bổ kinh phí thực hiện
chi trả chế độ trợ cấp cho NCC và thân nhân của họ theo quy định tại các văn
bản pháp luật nhà nước hiện hành tại thời điểm chi.
Bảng 2.4. Kinh phí ngân sách được phân bổ các năm (tính tròn số)
Năm Kinh phí thực hiện (triệu đồng)
2013 35.431
2014 36.177
2015 45.219
2016 42.978
2017 42.978
2018 49.500
2019 51.890
(Nguồn: phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, tháng 12/2019)
68
Biểu 2.1. Biểu đồ ngân sách được phân bổ qua các năm
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Thực trạng về công tác quản lý thực hiện chi trả trợ cấp ưu đãi đến tay
người có công trong toàn quận (đánh giá theo 3 mức, theo báo cáo của các
phường gửi quận trong các năm).
Biểu 2.2. Biểu đồ đánh giá mức độ quản lý chi trả trợ cấp ưu đãi tại quận Hoàn Kiếm
Nguồn: tác giả điều tra thực tế tháng 12/2019
hiệu quả
chưa hiệu quả
không hiệu quả
69
2.2.5. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
Những năm qua, phong trào đền ơn đáp nghĩa tại quận Hoàn Kiếm đã
trở thành một nghĩa cử cao đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có sức lan
tỏa, được nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tích cực hưởng ứng
và đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Đây là một trong những nhiệm vụ chính
trị quan trọng được Đảng bộ và chính quyền quận Hoàn Kiếm thường xuyên
quan tâm thực hiện nhằm tri ân các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
người có công với cách mạng.
Thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng, quận Hoàn Kiếm đã
ban hành 25 kế hoạch để triển khai và đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên
truyền. Theo báo cáo về công tác phong trào chăm sóc thương binh, gia đình
liệt sĩ và NCC của phòng LĐTBXH quận trong những năm qua (nguồn phòng
LĐTBXH quận tháng 12/2019), kết quả:
2.2.5.1. Công tác vận động ủng hộ Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”: Trong
các năm từ 2015-2019 đã thực hiện:
- Vận động quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” được trên 2,5 tỷ đồng, riêng năm
2019 vận động ủng hộ được: 1.756 triệu đồng.
- Tặng 3.050 sổ tiết kiệm trị giá 3,55 tỷ đồng. trong đó: trên 1.000
thương binh, gia đình liệt sĩ, Bà nẹ Việt Nam Anh hùng được trao tặng sổ tiết
kiệm trị giá 1,6 tỷ đồng (mức từ 1-5 triệu đồng/sổ). Riêng năm 2019, tặng 894
sổ tiết kiệm với tổng trị giá 950 triệu đồng (trong đó tặng 28 sổ tiết kiệm mức
5 triệu đồng/1 sổ cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình thương binh có
hoàn cảnh khó khăn); tặng 129 suất học bổng cho con NCC đang đi học (mức
1 triệu đồng/sổ);
- Tặng trên 8.064 suất quà từ các nguồn với số tiền trên 5,2 tỷ đồng.
(trong đó, tặng trên 6.000 suất quà tới các thương binh và gia đình liệt sĩ).
70
- Phụng dưỡng 100% các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống (hiện
quận chỉ còn 03 mẹ còn sống), vận động 03 đơn vị nhận phụng dưỡng đến
cuối đời (mức từ 1-3 triệu đồng/tháng/mẹ).
- Tặng 14 xe lăn cho thương binh có nhu cầu (mức 4 triệu đồng/xe).
- 100% xã phường làm tốt công tác thương binh liệt sĩ.
- 100% hộ gia đình NCC có mức sống trung bình trở lên.
2.2.5.2. Công tác chăm sóc sức khoẻ
Thành phố Hà Nội hiện có 5 trung tâm điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe
NCC, trong đó có 4 trung tâm điều dưỡng luân phiên và 1 trung tâm thực hiện
nuôi dưỡng và điều dưỡng. Các trung tâm này đều được trang bị cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại, tiện nghi đáp ứng nhu cầu phục vụ bình quân
hàng năm khoảng trên 18.000 lượt đối tượng.
Để đảm bảo chất lượng điều dưỡng, quận cũng hướng dẫn sử dụng kinh
phí theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP và quy trình thủ
tục, thời gian điều dưỡng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
13/2014/TTLT/BLĐTBXH-BTC, cụ thể như: Thời gian điều dưỡng tại các
Trung tâm là 6 ngày/đợt (không kể thời gian đi và về), mức chi là 2.220.000
đồng/người/lượt. Đối với điều dưỡng tại nhà, mức chi là 1.110.000
đồng/người/lượt, phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm tổ chức chi trả đến tận
tay đối tượng và thanh quyết toán theo quy định, hoàn thành trong tháng 12
hàng năm.
Trong 5 năm (từ 2015-2019), Phòng LĐTBXH quận đã ổ chức điều
dưỡng luân phiên cho 4.371 lượt người có công và phối hợp với các cơ sở y tế
khám sức khỏe miễn phí cho 1.800 NCC với tổng số tiền gần 200 triệu đồng.
71
Thực hiện cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cho hơn 7000 lượt đối tượng NCC với
tổng kinh phí 4.359 triệu đồng.
Bảng 2.5. Số lượng người được mua thẻ Bảo hiểm y tế
Đơn vị: thẻ, tiền triệu đồng
TT Năm thực hiện Số thẻ được cấp Số tiền
1 Năm 2015 1197 678.699
2 Năm 2016 1278 793.638
3 Năm 2017 1529 878.294
4 Năm 2018 1522 980.525
5 Năm 2019 1513 1.028.770
Tổng 7039 4.359.927
(Nguồn: phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, tháng 7/2019)
2.2.5.3. Công tác hỗ trợ sửa chữa nhà ở
Công tác vận động hỗ trợ sửa chưa nhà ở từ các nguồn căn cứ theo
Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
hỗ trợ NCC với cách mạng có khó khăn về nhà ở.
Để nâng cao đời sống hộ gia đình NCC, ngoài việc thực hiện tốt các
chính sách, chế độ ưu đãi theo quy định thì công tác hỗ trợ cải thiện nhà ở đối
với những hộ có khó khăn về nhà ở được xem là bước đột phá của UBND
quận Hoàn Kiếm với nỗ lực và quyết tâm cao nhất; đảm bảo phân bổ công
bằng, minh bạch đúng đối tượng, đúng mục đích và hợp lý các nguồn lực hỗ
trợ; phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu đề ra; tránh thất thoát, tiêu cực.
72
Trong những năm qua, quận Hoàn Kiếm đã vận động trên 10 tỷ đồng
để hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho hộ gia đình NCC. Trong đó:
- Năm 2016 cho 73 hộ gia đình NCC trị giá trên 2,765 triệu đồng.
- Năm 2017 cho 113 hộ gia đình NCC, trị giá trên 3 tỷ đồng
- Năm 2018 cho 116 hộ gia đình NCC, trị giá trên 3 tỷ đồng
- Năm 2019 cho 20 hộ NCC, trị giá trên 550 triệu đồng
2.2.5.4. Công tác mộ nghĩa trang liệt sĩ
Hiện nay, theo số liệu thống kê trên hệ thống quản lý mộ, nghĩa trang
liệt sĩ thì tổng số nghĩa trang liệt sĩ tại thành phố Hà Nội là 341 (quận Hoàn
Kiếm không có nghĩa trang liệt sĩ). Tổng số mộ liệt sĩ trong nghĩa trang:
51.366, trong đó: 169 mộ có đầy đủ thông tin, 47.499 mộ có một phần thông
tin và 3698 mộ không có thông tin. [43]
Năm 2018 -2019, quận Hoàn Kiếm đã tu bổ, sửa chữa 16 nhà bia ghi
tên liệt sĩ; đầu tư xây 01 nhà bia ghi tên liệt sĩ với tổng số tiền gần 3 tỷ đồng.
2.2.5.5. Công tác khác
Hàng năm quận Hoàn Kiếm đã phối hợp với UBND 18 phường để thực
hiện việc tổ chức chi trả chế độ đến tận tay NCC:
- Chi trả trợ cấp ưu đãi NCC với tổng số tiền hơn 50 tỷ đồng.
- Chi trợ cấp ăn thêm lễ tết tới 45 NCC với số tiền gần 100 triệu đồng;
- Chi ưu đãi giáo dục cho 50 trường hợp với số tiền gần 200 triệu đồng
- Chi trợ cấp đột xuất mức 2.000.000 đồng/người tới 100% thương binh
nặng có hoàn cảnh khó khăn…
Chỉ tính riêng tiền chuyển phát quà của các cấp, năm 2019 quận Hoàn
Kiếm đã thực chi với bảng chi tiết:
73
Bảng 2.6. Thống kê chi tiền quà đến đối tượng NCC năm 2019
TT Loại quà Lượt hưởng Tổng tiền Nguồn tiền
/người /đồng
Quà Chủ tịch nước 2.779 597.200.000 Ngân sách 1
Quà thành phố 37.906 14.905.200.000 Ngân sách 2
Quà quận 6.973 2.471.684.000 Ngân sách và 3
xã hội hóa
4 Quà phường 2.067 726.890.000 xã hội hóa
(Nguồn: phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, tháng 12/2019)
Bảng 2.7. Thực hiện phong trào Đền ơn đáp nghĩa
Đơn vị Kế Thực Tỷ lệ TT Chỉ tiêu tính hoạch hiện (%)
Vận động ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa đồng 1.300 1.756 135 -
Hỗ trợ tu sửa, nâng cấp nhà ở - - - -
+ Tổng số 18 20 111
* Xây dựng nhà - - -
* Sửa chữa nhà 18 20 111
+ Tổng kinh phí xây dựng và sửa chữa đồng
Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa sổ 300 894 298 -
Tổng kinh phí đồng
74
triệu/ Tu sửa các công trình ghi công liệt sĩ 16 16 100 - đồng
Tổng kinh phí
Hỗ trợ nâng mức sống hộ gia đình người hộ - - - - có công (thoát hộ cận nghèo)
Điều dưỡng người có công người 165 165 100 -
người - - - + Tại trung tâm
người + Tại gia đình - - -
(Nguồn: phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm, tháng 12/2019)
2.2.6. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá công
tác quản lý người có công tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Hàng năm, Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội (đơn vị chịu trách nhiệm
quản lý, chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ chính sách ưu đãi người
có công) tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ việc thực hiện quản lý chính sách
NCC ở địa bàn quận để triển khai tổ chức thực hiện đúng các văn bản pháp
luật và các quy định, hướng dẫn của Trung ương, thành phố. Nhất là công tác
quản lý đối tượng, chi trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng; chế độ quà các ngày lễ,
tết của Trung ương, thành phố và của quận; chính sách về hỗ trợ về nhà ở...
Riêng năm 2019, quận đã tổ chức 4 hội nghị tập huấn triển khai các văn
bản mới về thực hiện chính sách người có công tới các phòng, ban, đơn vị liên
quan và UBND 18 phường. Tổ chức 36 buổi kiểm tra công tác chi trả tại 18
phường (mỗi phường kiểm tra 2 lần/1 năm).
Việc kiểm tra đôn đốc thực hiện quản lý chính sách người có công nói
chung và việc thực hiện chi trả trợ cấp ưu đãi người có công nói riêng luôn
75
tiến hành thông qua các cơ chế kiểm tra khác nhau, đồng thời có sự giám sát
của các tổ chức xã hội khác theo quy định của pháp luật.
Đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm được tiến hành liên tục trong thời
gian duy trì chính sách. Trong quá trình này có thể đánh giá từng phần hay
toàn bộ chính sách là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo cho các bên tham gia
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đồng thời đảm bảo quyền lợi của người có
công cũng như, tránh tình trạng trục lợi ngân sách nhà nước.
Ban tiếp công dân quận, thanh tra quận chủ động phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan, đơn vị liên quan để cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn, đào tạo
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ do thành phố tổ chức; hàng năm,
Thanh tra quận chủ trì tham mưu mở các lớp tập huấn về công tác tiếp công
dân, xử lý đơn thư cho cán bộ, công chức cho cán bộ, công chức làm công tác
tiếp công dân, xử lý đơn tại các đơn vị thuộc quận.
Nhìn chung, qua công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá định kỳ
hàng tháng, quý, năm, cho thấy địa phương đã có nhiều nỗ lực trong công tác
quản lý đối tượng, thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi đối với người có
công, công tác chi trả được tổ chức tốt, chi trả đúng đối tượng, đúng chính
sách và đúng thời gian quy định.
2.2.7. Đánh giá kết quả thực hiện quản lý nhà nước về chế độ ưu đãi
người có công trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Theo báo cáo số 730/BC-LĐTBXH ngày 24/12/2019 của phòng
LĐTBXH quận Hoàn Kiếm thì kết quả thực hiện chính sách ưu đãi người có
công luôn đạt kết quả:
- Hoàn thành 135% chỉ tiêu vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”
76
- Hoàn thành 111% chỉ tiêu sửa chữa nhà chính sách bằng nguồn vận
động xã hội hóa
- Hoàn thành 100% chỉ tiêu điều dưỡng hàng năm cho người có công
- Hoàn thành 298% chỉ tiêu tặng sổ tiết kiệm (894/300)
- Hoàn thành 100% Bà mẹ VNAH còn sống được phụng dưỡng (từ
1triệu đến 3 triệu/tháng/mẹ);
- Hoàn thành 100% chỉ tiêu tu bổ, sửa chữa các công trình ghi công liệt sĩ;
- Hoàn thành 107,3% chỉ tiêu giới thiệu, tạo việc làm (8.800/8.200),
trong đó có 30% con của người có công;
- 18/18 phường đạt tiêu chuẩn xã phường phù hợp với trẻ em và 5
chương trình chăm sóc người có công;
Thực hiện tốt công tác quản lý chế độ ưu đãi NCC là góp phần thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội cơ bản nhất của quốc gia vào phát triển con
người, cũng chính là góp phần đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
Quận Hoàn Kiếm đang quản lý danh sách trên 40.000 người đã được xác
nhận là NCC, nhưng hiện nay chỉ thực hiện chi trả cho hơn 2.000 đối tượng.
Chính vì vậy, bên cạnh việc thực hiện quản lý chi trả chế độ cho NCC
đúng, đủ, kịp thời thì quận còn đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền chủ
trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước nhất là giáo dục truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ, chính quyền địa phương các
phường tổ chức các hoạt động tri ân, chính sách ưu đãi NCC với cách mạng.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách ưu đãi NCC đều
mang ý nghĩa, tính nhân văn cao. Các hoạt động đó ngày một tích cực và để
lại những kết quả nhất định, khắc ghi trong lòng mỗi NCC.
77
2.2.7.1. Ưu điểm
- Đảng bộ và chính quyền quận Hoàn Kiếm thường xuyên quan tâm thực
hiện nhằm tri ân đến các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và NCC với
cách mạng. Coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, nhằm cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của NCC và bảo đảm an sinh xã hội.
- Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” ở quận Hoàn Kiếm đã trở thành một
nghĩa cử cao đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có sức lan tỏa, được nhân
dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tích cực hưởng ứng và đem lại
nhiều hiệu quả thiết thực.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách chế độ ưu đãi đến các
UBND phường, giao lưu, tọa đàm phổ biến chính sách ưu đãi người có công
và các văn bản liên quan đến nhân dân; bồi dưỡng cho cán bộ về nghiệp vụ
thực hiện chính sách ưu đãi NCC.
- Hoàn thành hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho NCC theo Quyết
định số 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong 5 năm thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng, quận
Hoàn Kiếm đã ban hành 25 Kế hoạch để triển khai và đẩy mạnh công tác
phổ biến, tuyên truyền. Bằng những việc làm chu đáo và thiết thực, quận
Hoàn Kiếm được Bộ LĐTBXH tặng Bằng khen cho 2 tập thể, 1 cá nhân
và 5 NCC có thành tích đóng góp trong phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
giai đoạn 2012 – 2017; UBND thành phố Hà Nội đã quyết định tặng Cờ
thi đua cho cán bộ và nhân dân quận Hoàn Kiếm, tặng Bằng khen cho 2
tập thể, 1 cá nhân và 5 NCC có thành tích trong phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa” của Thủ đô…
78
2.2.7.2. Hạn chế
- Công tác phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn các văn bản quy định về
chính sách người có công chưa sâu sát, chưa được thường xuyên, kịp thời,
hình thức tuyên truyền chưa được sinh động.
- Hệ thống văn bản pháp luật chưa được cung cấp và hướng dẫn, tuyên
truyền tại các phường một cách có hiệu quả, đồng bộ đến những đối tượng
tham gia và thụ hưởng ở địa phương nên dẫn đến các đối tượng thường xuyên
lên quận hỏi, kiến nghị, đôi khi có đối tượng kiến nghị vượt cấp.
- Về hệ thống văn bản quản lý chính sách NCC quá nhiều, thay đổi hàng
năm, thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử, đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác LĐTBXH đôi khi còn chưa nắm bắt được kịp, thiếu kinh nghiệm về
chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
- Thủ tục, quy trình xác nhận giải quyết chế độ chính sách NCC và thân
nhân của họ dàn trải quá nhiều loại văn bản quy phạm, ngoài ra người được
hưởng quyền lợi chưa có sự hiểu biết đầy đủ về những thủ tục nên khó khăn
trong quá trình giải quyết. Nhất là hiện nay việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ
người có công thông qua bộ phận một cửa phần mềm liên thông từ phường tới
quận và ấn định thời gian trả lời của cơ quan quản lý gây áp lực cho cán bộ.
- Cán bộ phụ trách LĐTBXH các phường đại đa số là kiêm nhiệm không
có chuyên môn nghiệp vụ, không có chức danh và thuyên chuyển công tác
khác nhiều do vậy không xâu chuỗi được các quy định pháp luật về người có
công…. Trung bình một năm quận tiếp nhận và thẩm định trên 1.100 hồ sơ
người có công để trình Sở LĐTBXH và Thành phố. Chính vì vậy, khối lượng
hồ sơ nhiều, lực lượng cán bộ ít, kiêm nhiệm nên phần nào ảnh hưởng đến kết
quả công việc chung trên địa bàn quận.
79
- Đối tượng người có công đa số tuổi cao, sức yếu tỷ lệ chết ngày càng
cao trong đó quy định quận là đơn vị phối hợp lo tang lễ đối với cán bộ Lão
thành cách mạng, Tiền Khởi nghĩa, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, do đó rất khó
khăn cho cán bộ làm công tác quản lý.
- Công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách NCC với
cách mạng của Phòng LĐTBXH quận phối hợp UBND và cán bộ LĐTBXH
các phường đôi lúc chưa được thường xuyên, sâu sát, chặt chẽ như công tác
chi trả chế độ trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng, báo cáo không kịp thời
các trường hợp đối tượng người có công từ trần, chế độ hỗ trợ quà cho đối
tượng chính sách đôi lúc bị trùng lắp nên hiệu quả chưa cao.
- Nhiều đối tượng NCC có danh sách hưởng chế độ tại quận Hoàn Kiếm
nhưng tạm trú nơi khác (về quê sinh sống, đi làm ăn xa, đi chữa bệnh nước
ngoài,…) gây khó khăn cho cán bộ khi quyết toán thực chi trả chế độ ưu đãi
hàng tháng, quý với cơ quan quản lý tài chính vì theo quy định NCC chỉ được
ủy quyền nhận trợ cấp trong 3 tháng đối với người cư trú trong nước và 6
tháng đối với người cư trú tại nước ngoài.
- Việc quản lý chi trả chế độ ưu đãi NCC vẫn theo truyền thống chi tiền
mặt chưa có chuẩn hóa thông tin về người có công với các đối tượng an sinh
xã hội khác dẫn đến trùng đối tượng cho một loại khoản hỗ trợ.
- Việc thu hồi trợ cấp đã chi cho đối tượng sau khi có kết luận thanh tra
chưa có hướng dẫn cụ thể đối với đối tượng không có khả năng hoàn trả vì
thuộc hộ cận nghèo hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đã chết.
- Việc nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chính sách ưu đãi
người có công chưa được xem xét một cách khách quan và khoa học, dẫn tới
một số vấn đề chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong khi đó, nguồn lực
80
thực hiện các chính sách xã hội còn hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà
nước, chưa động viên, phát huy, thu hút nguồn lực xã hội hóa.
- Điều kiện đảm bảo vật chất, điều kiện làm việc của cán bộ làm công tác
quản lý chính sách người có công tại phòng LĐTBXH quận chưa chú trọng,
vẫn quan niệm là đơn vị trung gian tổng hợp chuyển tiếp xử lý hồ sơ, vụ việc
lên Sở LĐTBXH nên bố trí lực lượng cán bộ làm công tác quản lý NCC quá
mỏng (01 phó phòng phụ trách, 01 chuyên viên thụ lý hồ sơ NCC và 01 cán
bộ kế toán mảng NCC kiêm bảo trợ xã hội), dẫn đến áp lực công việc cho
chính họ khi không kịp xử lý, giải quyết đúng thời hạn quy định.
81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong Chương này Luận văn đã đề cập một số nội dung chính sau:
Một là, đi sâu phân tích thực trạng về chế độ ưu đãi đối với NCC và
quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính sách, chế độ ưu đãi NCC với cách
mạng trên toàn quốc.
Hai là, nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về chính sách chế độ ưu
đãi đối với NCC với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Ba là, trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả thực hiện quản lý nhà nước
về chế độ ưu đãi đối với NCC tại quận Hoàn Kiếm, đã rút ra những ưu điểm,
hạn chế làm cơ sở cho những giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ ưu đãi và
quản lý nhà nước bằng pháp luật về chính sách ưu đãi NCC với cách mạng ở
Chương 3 của Luận văn.
82
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ ƢU ĐÃI
VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI NGƢỜI
CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TẠI QUẬN HOÀN KIẾM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về ƣu đãi đối
với ngƣời có công với cách mạng
Quá trình hoạch định, xây dựng chính sách đối với NCC với cách mạng
được thực hiện kể từ năm 1947 khi có Sắc lệnh số 20/SL nhưng đến năm
1994, căn cứ vào Điều 67 và Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 thì Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách
mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động
kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng mới thực sự hợp nhất quản lý
các chính sách ưu đãi đối với NCC bằng pháp luật với loại hình văn bản Pháp
lệnh riêng cho đối tượng này.
Pháp lệnh Ưu đãi NCC hiện hành và các văn bản hướng dẫn trước đây
đã quy định về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận NCC với cách mạng, quy định
các chế độ, chính sách ưu đãi nhằm góp phần ổn định và từng bước cải thiện
đời sống của NCC với cách mạng và thân nhân; thể hiện rõ hơn tính công
bằng, tôn vinh sự cống hiến và tiến bộ xã hội; được xã hội và các đối tượng
NCC đồng tình, ủng hộ; giải quyết tâm tư và nguyện vọng chính đáng của
NCC với cách mạng và thân nhân của họ.
Công tác triển khai thi hành Pháp lệnh đã được Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo sát sao, các Bộ ngành, địa phương thực hiện một cách
nghiêm túc, thống nhất, đồng bộ, kịp thời và nhận được sự đồng thuận của
NCC với cách mạng cũng như dư luận xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực
83
thi Pháp lệnh kể từ năm 1994 đến nay, Pháp lệnh đã qua 7 lần sửa đổi, bổ
sung nên gây khó khăn cho việc quản lý chính sách bằng pháp luật và theo dõi
tổng thể một cách có hệ thống. Mặc dù, Pháp lệnh đã được sửa đổi bổ sung
nhiều lần như vậy nhưng các quy định của Pháp lệnh còn chưa đầy đủ để điều
chỉnh theo thực tiễn đời sống xã hội, theo từng thời kỳ lịch sử như thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc.
Từ thực tế nghiên cứu đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, quản lý
chính sách pháp luật và giải pháp để xác nhận NCC trong thời bình, vừa bảo
đảm công bằng xã hội, vừa khuyến khích, đẩy mạnh nâng cao chất lượng xã
hội hoá trong thực hiện chính sách ưu đãi NCC tại quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội; kiến nghị, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi
NCC với những vấn đề sau đây:
3.1.1. Cải cách về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công
3.1.1.1. Về xác nhận liệt sĩ (đối với thương binh chết tại điểm i, khoản 1,
Điều 17 theo Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ)
Hiện nay việc xác nhận liệt sĩ đối với thương binh bị suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên chết do vết thương tái phát đã nảy sinh những tiêu
cực, mua bán hồ sơ bệnh án hoặc cấp xác nhận tràn lan của Trạm y tế cấp xã
(đối với thương binh chết có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên) và cơ sở y tế cấp
huyện (đối với thương binh chết có tỷ lệ thương tật từ 61% đến 80%). Trong
thực tế, các vết thương của thương binh đã được điều trị ổn định trong một
thời gian rất dài (thể hiện tại Biên bản giám định y khoa của Bộ Y tế). Số thực
sự có khả năng tái phát là rất thấp. Thời gian qua, đa số trường hợp đề nghị
xác nhận liệt sĩ do vết thương tái phát thì khi từ trần đã trên dưới 80 tuổi, một
số trường hợp trên 90 tuổi, có trường hợp tính từ khi bị thương đến thời điểm
84
chết là trên 40 năm nhưng vẫn ghi trong biên bản tử vong chết do vết thương
tái phát. Vì vậy cho rằng chết do vết thương tái phát là không đủ thuyết phục,
thiếu cơ sở thực tiễn.
Do đó, cần thiết phải nghiên cứu lại chế định này theo hướng giới hạn
thời gian kể từ khi bị thương đến khi chết hoặc chỉ áp dụng đối với thương
binh có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên (thay vì 61% trở lên như hiện nay).
Đồng thời bắt buộc phải có bệnh án của cơ sở y tế tuyến huyện trở lên kết
luận chết do vết thương tái phát. Vì cơ sở y tế tuyến xã (phường) không đủ
khả năng cả về nhân lực và trang bị máy móc để kết luận vấn đề này.
3.1.1.2. Về xác nhận bệnh binh trong thời kỳ hiện nay (điểm i, khoản 1,
Điều 33 theo Nghị định số 31/2013/NĐ/CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ)
Trong giai đoạn hiện nay nếu người có thời gian công tác trong quân đội,
công an đủ 15 năm mà mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động 61% trở lên
thì được xác nhận là bệnh binh thì chưa thật công bằng đối với người cùng
làm công tác hành chính, nếu không thuộc lực lượng quân đội, công an mà đủ
năm công tác thì nghỉ hưu; nếu bị bệnh, tật phải nghỉ sớm mà không đủ điều
kiện để hưởng hưu thì hưởng trợ cấp một lần; còn nếu làm trong quân đội,
công an mà mắc bệnh, tật phải nghỉ sớm thì lại được xác nhận là bệnh binh,
tức là người có công với cách mạng. Hơn nữa, cùng làm trong lực lượng quân
đội, công an, một người công tác đến 30 - 40 năm (cống hiến nhiều hơn), sau
khi về nghỉ thì chỉ là cán bộ hưu trí; nhưng người khác chỉ công tác được 15
năm (tức là cống hiến ít hơn) mà mắc bệnh phải về nghỉ thì tự nhiên lại trở
thành người có công với cách mạng.
Việc quy định đối tượng bệnh binh trong thời bình là bất hợp lý, không
đảm bảo cân đối trong tổng thể hệ thống chính sách xã hội nói chung. Trong
thời kỳ kháng chiến thì cũng có rất nhiều lực lượng tham gia chiến đấu và
85
phục vụ chiến đấu nhưng chỉ có người thuộc lực lượng quân đội, công an mới
có thể được xác nhận là bệnh binh, trong khi các lực lượng khác như dân
quân, du kích, thanh niên xung phong… cũng trực tiếp tham gia chiến đấu thì
không có chế độ này. Như vậy là chính sách chưa đảm bảo sự bình đẳng.
Do đó, để đảm bảo công bằng và đảm bảo ý nghĩa của danh hiệu người
có công với cách mạng, đề nghị bãi bỏ việc xác nhận bệnh binh trong thời
bình. Chỉ xác nhận đối với các trường hợp có thời gian tham gia kháng chiến,
tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đối với người đã được xác nhận là bệnh
binh từ trước đây thì tiếp tục hưởng chế độ.
3.1.1.3. Về xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học
Cần sửa đổi diện hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng chỉ áp dụng cho người
không còn khả năng lao động, ốm đau bệnh, tật nặng, không tự chủ trong sinh
hoạt trên cơ sở lập hồ sơ khám, giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật. Trường
hợp bị ảnh hưởng chất độc hoá học nhưng chỉ bị suy giảm khả năng lao động
thì chuyển hưởng chế độ một lần, tính theo thâm niên tham gia kháng chiến
như đối tượng người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc.
Sửa đổi phân thành từng tỷ lệ để hưởng trợ cấp như đối tượng thương
binh, không thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Pháp lệnh Ưu đãi người
có công với cách mạng hiện hành, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học/dioxin làm suy giảm khả năng lao động theo 4 mức từ 21% đến
40%, từ 41% đến 60%, từ 61% đến 80% và từ 81% trở lên.
Sớm đưa nội dung tại Thông tư 22/2016/BLĐTBXH ngày 22/6/2016
của Bộ LĐTBXH hướng trợ cấp ưu đãi đối với nhóm đối tượng người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học theo quy định tại Khoản 6, Điều
42 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ lên Pháp
86
lệnh (vì hướng dẫn thực hiện trái với Điều khoản chuyển tiếp tại Pháp lệnh ưu
đãi NCC với cách mạng hiện hành), gây khó khăn khi thực hiện quản lý nhà
nước bằng quy phạm pháp luật.
3.1.2. Cải cách về chế độ trợ cấp đối với người có công
Chế độ ưu đãi bao gồm các chế độ trợ cấp, phụ cấp, các chế độ khác (nếu
có) với độ chính xác đầy đủ, không để đối tượng hiểu sai, so sánh thua thiệt,
thắc mắc hoài nghi về hệ thống chính sách. Tuy nhiên cũng cần để họ hiểu và
thực hiện, để kiểm tra ngay chính cơ quan chính sách, cơ quan hành chính
công, cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết thủ tục. Chính bản thân họ phản
ánh trở lại cơ quan hoạch định chính sách tính đầy đủ, hợp lý, công bằng mà
chính sách đem lại và cả những vấn đề chưa hợp lý, thiếu xót thậm chí là sai,
trái, chưa phù hợp pháp luật.
3.1.2.1. Chế độ trợ cấp hàng tháng:
- Xây dựng mức chuẩn để áp dụng chung cho tất cả các loại trợ cấp hàng tháng, một lần và các hệ số trợ cấp dựa trên cơ sở phù hợp với công lao đóng góp của người có công, đảm bảo tính hợp lý khách quan, công bằng xã hội và khả năng ngân sách Nhà nước.
- Sửa đổi chế độ trợ cấp hàng tháng đối với thân nhân người có công:
như việc hạn chế thân nhân liệt sĩ chỉ được hưởng tối đa 3 định suất trong
điều kiện hiện nay không còn hợp lý, chưa đảm bảo công bằng, hưởng chế độ
theo mức độ, công lao đóng góp.
3.1.2.2. Chế độ trợ cấp một lần
- Xây dựng mức chuẩn trợ cấp ưu đãi 1 lần cho các diện đối tượng phù
hợp với công lao đóng góp và phù hợp với khả năng ngân sách Nhà nước. Ví
dụ: Chế độ trợ cấp một lần đối với đối tượng HĐKC giải phóng dân tộc, bảo
87
vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế chậm được thay đổi, vẫn áp dụng mức
trợ cấp là 120.000 đồng/thâm niên từ năm 2005 đến nay.
- Chế độ trợ cấp mỗi năm một lần cho người thờ cúng liệt sĩ nên xem
xét dừng trợ cấp hàng năm đến đời thứ mấy so với liệt sĩ hoặc xem xét theo
Luật thừa kế, tránh để dòng tộc gây tranh cãi bên nội và bên ngoại.
3.1.3. Cải cách về chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp đối với người có công
3.1.3.1. Chế độ ưu đãi giáo dục, đào tạo, hỗ trợ việc làm
- Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con liệt sĩ, thương bệnh, bệnh
binh nặng khi thi tuyển công chức, viên chức (chưa được quy định chung
trong văn bản quy phạm của nhà nước).
- Tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất đối với hộ gia đình người có công
như đối với hộ nghèo.
3.1.3.2. Bảo hiểm y tế:
Với các mục tiêu cơ bản là tăng tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế để
đến năm 2020 có trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế; Nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, bảo đảm quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
của người tham gia bảo hiểm y tế; Từng bước đổi mới cơ chế tài chính theo
hướng đầu tư trực tiếp cho người thụ hưởng dịch vụ y tế thông qua hình thức
hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế, phấn đấu giảm tỷ lệ chi tiêu y tế trực tiếp từ
tiền túi của hộ gia đình xuống dưới 40% vào năm 2020. (Quyết định số
538/QĐ-TTg ngày 29/3/2014, phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo
hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2015 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ)
Do vậy, cần mở rộng đối tượng hưởng bảo hiểm y tế đối với diện thân
nhân người có công trong Pháp lệnh ưu đãi người có công như diện: Thân
88
nhân (chồng/vợ/con) của Lão thành cách mạng, cán bộ Tiền khởi nghĩa và vợ
liệt sĩ tái giá.
3.1.3.3. Điều dưỡng, nuôi dưỡng và chỉnh hình phục hồi chức năng
Theo Nghị định số 31/2013/NĐ/CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ :
mức điều dưỡng tập trung là 2.220.000 đồng/người/lần; Điều dưỡng tại nhà là
1.110.000 đồng/người/lần so với giá thị trường hiện nay quá thấp cho một đợt
điều dưỡng [15]
Đề nghị điều chỉnh nâng định mức điều dưỡng theo hướng: tính theo
mức chuẩn trợ cấp để luôn phù hợp theo từng thời điểm; Đối với chỉnh hình
phục hồi chức năng nên rút ngắn thời gian niên hạn của mỗi loại dụng cụ
chỉnh hình theo quy định Thông tư số 101/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính.
3.1.3.4. Hỗ trợ cải thiện nhà ở
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả hỗ trợ người có công có khó khăn về nhà
theo chính sách hỗ trợ nhà ở đối với người có công theo Nghị quyết 63/NQ-
CP ngày 25/7/2017 của Chính phủ và Quyết định 22/2013/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành từ 15/6/2013.
3.1.3.5. Công tác tìm kiếm, quy tập, giám định ADN hài cốt liệt sĩ
Theo hướng dẫn số 169/CS ngày 18/8/1965 của Cục Tổ chức-Tổng Cục
Chính trị quy định: Khi báo tử liệt sĩ nếu hy sinh ở cả 3 chiến trường A, B, C
thì đều ghi thống nhất là “Hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ bảo vệ Tổ quốc”
trong giấy báo tử gửi về địa phương nhưng tại danh sách do đơn vị báo cáo
lên trên phải ghi tật tỷ mỉ, cụ thể trường hợp hy sinh, nơi chiến đấu, nơi chôn
cất, di vật, ...
Vì vậy, để giảm tải đơn thư hỏi, thư tìm mộ liệt sĩ và thực hiện có hiệu
quả Quyết định số 515/QĐ-TTg ngày 10/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ
89
cần: Hoàn thành cơ bản rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; Chuẩn hóa
thông tin, tích hợp hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, thân
nhân liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ; Đẩy nhanh tiến độ kết luận địa bàn, giải mã
phiên hiệu đơn vị, lập bản đồ tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ ở 3 cấp (xã,
huyện, tỉnh), ứng dụng công nghệ thông tin quản lý dữ liệu bản đồ tìm kiếm
quy tập hài cốt liệt sĩ; Khẩn trương đưa vào khai thác, sử dụng và công bố
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tổ chức vận hành trung tâm lưu trữ cơ sở dữ liệu ADN, nhằm đẩy
nhanh tiến độ xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin theo đúng
quy định tại Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 14/01/1913 của Thủ tướng
Chính phủ bởi phần lớn ADN ty thể trong mẫu xương hài cốt liệt sĩ lâu năm
đã bị phân hủy rất nhiều nên khó phân tích hoặc không phân tích xét nghiệm
lên chuỗi ADN được để so sánh khớp nối với chuỗi ADN của thân nhân liệt sĩ
(theo dòng mẹ). Vì vậy, kiến nghị Chính phủ sớm có phương án đến năm nào,
nếu không tìm kiếm quy tập được hài cốt liệt sĩ thì phải công bố cho thân
nhân liệt sĩ biết, tránh để họ tìm đến phương pháp tâm linh ngoại cảm.
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về ƣu đãi
ngƣời có công với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội giai
đoạn 2020 - 2025
3.2.1. Thực hiện việc tuyên truyền về chính sách ưu đãi đối với người
có công với cách mạng
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ưu đãi NCC tại quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội, trong những năm tiếp theo cần tiếp tục đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục về truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ
nguồn" của dân tộc, quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng,
luật pháp, chính sách của Nhà nước về công tác người có công với cách
90
mạng; Nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
người lao động và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về sự hy sinh,
đóng góp to lớn của các thế hệ người có công với cách mạng; xác định việc
chăm lo, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là đạo lý,
bổn phận, trách nhiệm, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh
đến cơ sở. Đây không chỉ là thể hiện sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền
địa phương, làm tăng thêm lòng tin của quần chúng nhân dân, đối tượng chính
sách đối với Đảng, Nhà nước mà còn tạo nên sức mạnh, sự đồng thuận xã hội,
ý chí dư luận xã hội. Từ đó góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa phương.
Đổi mới hình thức, nội dung tuyền truyền về chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực NCC với cách mạng để phù hợp với nhận
thức của người dân Đô thị; Kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng
những NCC, những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích trong các phòng trào
“Toàn dân chăm sóc thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với
cách mạng” hoặc trong phòng trào nếp sống văn minh nơi Đô thị.
3.2.2. Nâng cao công tác chỉ đạo, hướng dẫn thiết lập hồ sơ đề nghị
giải quyết chính sách người có công với cách mạng.
Ngành LĐTBXH nhất là cơ quan cấp Sở, quận thường xuyên phối hợp
với các Bộ, Ban, ngành có liên quan để tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn công
tác xét duyệt hồ sơ NCC, về công tác tổ chức thực hiện tại Thông tư liên tịch
số 37/2015/TTLT/BLĐTBXH-BNV ngày 02/10/2015 của liên Bộ LĐTBXH -
Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở LĐTBXH thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng
LĐTBXH thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, cụ thể:
91
“Phòng LĐTBXH huyện, thị xã, thành phố là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện, thị, thành phố có chức năng tham mưu giúp UBND
cấp huyện thực hiện chức năng QLNN về LĐTBXH, chịu sự chỉ đạo, quản lý
về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện đồng thời chịu sự chỉ
đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở LĐTBXH” [10] .
Trong việc giải quyết chế độ chính sách ưu đãi đối với NCC với cách
mạng, năng lực của bộ máy, công chức của Phòng LĐTBXH là nhân tố tác
động đến kết quả công việc, cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới việc truyền
tải các chỉ đạo của cấp trên về lĩnh vực NCC đến cơ sở (UBND phường);
năng lực bộ máy và công chức Phòng LĐTBXH tốt thì việc tổ chức thực hiện
chính sách ưu đãi đến NCC nhanh và đảm bảo theo quy định và ngược lại.
3.2.3. Phân công nhiệm vụ cụ thể gắn liền với với trách nhiệm trong
việc thẩm định hồ sơ người có công tại quận Hoàn Kiếm
Chính phủ yêu cầu thực hiện tinh giản biên chế “đến năm 2021 giảm tối
thiểu 10% số biên chế so với năm 2015” theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017. Đây cũng là một yêu cầu thách thức đối với tất cả các cơ quan
quản lý nhà nước nói chúng và quận Hoàn Kiếm nói riêng. Tuy nhiên, để công
tác giải quyết thẩm định hồ sơ người có công không bị tồn đọng, được dân biết,
dân tin thì công tác kiện toàn cán bộ là bước cần thiết như: đào tạo, kiện toàn
đội ngũ làm cán bộ công tác chính sách NCC với cách mạng theo hướng vừa có
tâm huyết, vừa có phẩm chất đạo đức tốt, nghiệp vụ chuyên môn tốt.
Đối với các trường hợp mới được tuyển dụng hoặc mới điều chuyển
công tác khác đến nhưng chưa được qua lớp đào tạo cơ bản, thì cần thiết cử đi
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ thực thi chính sách, kỹ năng giao tiếp,
tinh thần, thái độ phục vụ cho các đối tượng chính sách, bởi người có công là
đối tượng đặc thù, nên cần phải có thái độ hoà nhà, nhẹ nhàng, nhiệt tình.
92
Thực hiện tốt việc giao ban định kỳ (theo tháng hoặc theo quý) lãnh đạo
UBND phụ trách và cán bộ công chức các phường để nhận xét đánh giá, hướng
dẫn kịp thời về công tác chuyên môn. Hằng năm, từ quận đến phường cần tổ
chức rà soát trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức làm công
tác lao động- Thương binh và xã hội.
Căn cứ pháp luật về ưu đãi NCC với cách mạng và các văn bản hướng
dẫn của các Bộ, ngành ở Trung ương, UBND thành phố Hà Nội, UBND quận
Hoàn Kiếm, Phòng LĐTBXH thực hiện xét duyệt hồ sơ đề nghị giải quyết
chính sách ưu đãi NCC với cách mạng của địa phương một cách chặt chẽ,
thống nhất. Trong đó, cần chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể các nội dung:
- UBND quận Hoàn Kiếm thực hiện chỉ đạo UBND các phường kiện
toàn Hội đồng chính sách để tiến hành họp xét, đề nghị giải quyết chính sách
cho từng đối tượng NCC với cách mạng một cách công khai, minh bạch và
thực sự khách quan, tránh cả nể, xác nhận không đúng đối tượng. Chịu trách
nhiệm về tính chính xác trong xác nhận đối tượng của địa phương mình. Đồng
thời, UBND quận chỉ đạo Phòng LĐTBXH kiểm tra chặt chẽ các thủ tục hồ sơ,
điều kiện, tiêu chuẩn của từng đối tượng đủ điều kiện, trình UBND quận ký
duyệt đảm bảo theo quy định.
- Phòng LĐTBXH thực hiện tốt chức năng quản lý về chính sách ưu đãi
NCC với cách mạng, thực hiện tốt vai trò tham mưu, hướng dẫn thực hiện
cũng như quyết định thực hiện các chế độ trợ cấp đối với NCC với cách mạng
tại địa bàn. Tổng hợp báo cáo kết quả, khó khăn vướng mắc để tham mưu cho
UBND quận báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo thẩm quyền.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các chế độ, chính sách đối
với NCC với cách mạng như: Chế độ trợ cấp, chính sách ưu đãi giáo dục, vay
vốn, giải quyết việc làm, sản xuất kinh doanh, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức
93
khỏe, ... Tập trung điều dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng, phục hồi sức
khỏe đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của NCC với cách mạng.
- Đề nghị bổ sung thêm 01 nhân sự theo dõi và thực hiện chế độ ưu đãi
NCC với cách mạng vì hiện tại phòng LĐTBXH quận chỉ có 01 phó phòng
phụ trách trực tiếp, 01 kế toán và 1 chuyên viên phụ trách thụ lý hồ sơ NCC
và bảo trợ xã hội.
3.2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý các chế
độ chính sách ưu đãi đối với người có công
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những yếu tố quan trong của
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước nói chung và quản
lý chính sách ưu đãi người có công nói riêng thông qua hệ thống cơ chế "một
cửa", cơ chế "một cửa liên thông". Do đó, quận Hoàn Kiếm đảm bảo triển
khai toàn diện, hiệu quả, hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao trong
Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 của Chính
phủ; Chương trình số 08-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội và Kế hoạch
số 158/KH-UBND của UBND Thành phố đã quy định tại Quyết định số
7216/QĐ-UBND ngày 23/12/2019 của thành phố Hà Nội:
- 100% các cơ quan hành chính thuộc thành phố thực hiện hội nghị đối
thoại với người dân, tổ chức và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan tới
giải quyết công việc của người dân, tổ chức và doanh nghiệp thuộc thẩm
quyền của cơ quan, đơn vị ít nhất 2 lần/năm.
- Đảm bảo ít nhất 01 lần/tháng, tổ chức các đoàn kiểm tra công vụ, kiểm
tra kỷ luật, kỷ cương hành chính theo phương thức kiểm tra đột xuất, không
báo trước tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc.
94
- UBND các cấp công khai tiến độ, kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành
chính trên Cổng dịch vụ công của thành phố; 100% hồ sơ liên quan đến thủ
tục hành chính được giải quyết đúng hạn và trước hạn. [37]
Ngoài việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết đơn thư, vụ việc trên giao diện
công thông tin điện tử thì việc quản lý chi trả trợ cấp ưu đãi cũng cần cải cách
thủ tục không dùng sổ sách truyền thống mà cần hiện đại hóa công nghệ
thông tin bằng thông qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt,
cũng là mục tiêu phấn đấu để đảm bảo ít nhất trên địa bàn đô thị đạt 30% đến
hết năm 2020 theo Kế hoạch hành động số 02/QĐ-LĐTBXH về thực hiện
Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ [6]
3.2.5. Đổi mới các hình thức chăm sóc người có công với cách mạng,
các phòng trào “Đền ơn đáp nghĩa”
Đối với công tác đền ơn đáp nghĩa phải được các cấp Hội, các đoàn thể
tổ chức, chính trị từ quận tới cơ sở, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận
động cán bộ, hội viên phụ nữ, đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa để giúp đỡ các
gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng gặp khó khăn; duy
trì tốt việc phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; tích cực tuyên truyền,
vận động các gia đình chính sách chấp hành tốt các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước.
Thực hiện tốt hơn nữa Chương trình xây dựng nhà tình nghĩa, mái ấm
tình thương và phong trào "Chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và
NCC với cách mạng", tích cực ủng hộ Quỹ "Ðền ơn đáp nghĩa", bảo đảm thiết
thực, sâu rộng, hiệu quả. Thường xuyên quan tâm, nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của NCC, kiến nghị cấp có thẩm quyền để kịp thời giải quyết các vấn đề
liên quan, bảo đảm quyền lợi của NCC với cách mạng.
95
Một phần trong đó là thực hiện tốt cam kết và triển khai có hiệu quả Kế
hoạch số 93/KH-UBND ngày 19/4/2018, về việc triển khai thực hiện "Đề án
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2025" trên địa bàn đến
năm 2025 với mục tiêu: “Đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
thích ứng với giai đoạn già hóa dân số… từng bước nâng cao chất lượng dân
số Thủ đô” [38]
3.2.6. Đẩy mạnh và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có trách nhiệm vận động,
chăm sóc, giúp đỡ NCC với cách mạng và thân nhân của họ bằng nhiều hình
thức, nội dung thiết thực.
Do vậy, để thực hiện tốt hơn nữa công tác NCC với cách mạng, đạt
những mục tiêu “phấn đấu 100% gia đình NCC với cách mạng có mức sống
bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú” thì Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể cần tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng hơn nữa quan điểm,
chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân dân; trọng
tâm là thực hiện tốt Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư
Trung ương Ðảng (khóa XII) "Về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng
đối với công tác NCC với cách mạng"[1].
Nhận thức sâu sắc việc chăm lo, thực hiện chính sách ưu đãi NCC với
cách mạng là bổn phận, nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta,
góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của
nhân dân với Ðảng, Nhà nước.
96
3.2.7. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện,
uốn nắn, xử lý các vi phạm trong giải quyết chính sách ưu đãi đối với
người có công với cách mạng
Hàng năm tại quận Hoàn Kiếm, ngân sách nhà nước chi trên 50 tỷ đồng
để chi trợ cấp cho NCC. Việc thường xuyên giám sát, kiểm tra, thanh tra chi
đúng, chi đủ đến tận tay đối tượng và để chấn chỉnh những thiếu sót, đồng
thời kiên quyết xử lý trường hợp cố tình sai phạm là cần thiết.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa thanh tra quận với các cơ quan như
quân sự, y tế, công an trong xác minh hồ sơ liên quan đến NCC để đảm bảo
tính pháp lý. Bởi các hồ sơ của NCC đã số có tuổi thọ lâu, chất lượng giấy
kém, công tác bảo quản còn lỏng, cá nhân NCC chưa ý thức trong việc khai
đúng, rõ, cụ thể các thông tin cá nhân nên dẫn đến mâu thuẫn trong các loại
giấy tờ về hộ tịch và hồ sơ NCC để thực hiện quản lý thống nhất.
Do vậy, tăng cường sự giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, nhân dân và chính NCC sẽ sớm phát hiện, kịp thời chấn
chỉnh các sai phạm, nhằm đảm bảo sự công bằng, tạo niềm tin của nhân dân
và các đối tượng đối với việc thực hiện quản lý chính sách ưu đãi người có
công của Đảng và Nhà nước bằng pháp luật.
97
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Từ lý luận và thực tiễn nêu tại chương 1, chương 2, Luận văn đã xác
định được một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về NCC với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội.
Luận văn đã đề xuất 2 nhóm giải pháp:
- Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật ưu đãi đối với NCC
với cách mạng: Điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận NCC; Chế độ trợ cấp đối với
NCC (trợ cấp 1 lần, trợ cấp hàng tháng); Chế độ ưu đãi ngoài trợ cấp đối với
NCC (ưu đãi giáo dục, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức khỏe, điều dưỡng, chỉnh
hình, phục hồi chức năng).
- Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ưu đãi NCC
với cách mạng trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội giai đoạn
2020- 2025. Đây là nhóm giải pháp rất quan trọng bởi đó chính là trực quan
sinh động nhất để người dân nhìn thấy sự tri ân của Đảng, nhà nước đối với
những cống hiến, hy sinh của người có công với đất nước.
Các giải pháp Luận văn đề xuất có tính khả thi, góp phần hoàn thiện hệ
thống chính sách pháp luật về ưu đãi NCC với cách mạng và nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về ưu đãi NCC với cách mạng tại quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội.
98
KẾT LUẬN
Thực hiện tốt việc quản lý chính sách ưu đãi NCC với cách mạng sẽ
góp phần làm vơi đi những hy sinh mất mát của những người một thời không
tiếc máu xương vì Tổ quốc, vì nhân dân, thể hiện được trách nhiệm, đạo lý
của thế hệ sau đối với những lớp người đi trước, góp phần giáo dục truyền
thống, động viên thế hệ trẻ tiếp tục phấn đấu cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng bảo vệ và phát triển đất nước trong đó có quận Hoàn Kiếm.
Làm tốt công tác quản lý chi trả trợ cấp là một trong những khâu thiết
yếu của tri ân NCC bởi nó kiểm soát việc phát chế độ đến tận tay, đủ số
lượng, đúng thời gian đến NCC được thụ hưởng, làm cơ sở cho việc hoạch
định chính sách, xây dựng pháp luật, nâng cao mức sống của người dân.
Trong phạm vi của Luận văn đã đề cập và giải quyết những vấn đề sau:
Một là, về cơ sở lý luận đã phân tích một số khái niệm trong việc quản
lý, quản lý nhà nước bằng pháp luật; Khái niệm về NCC, quá trình xây dựng thể
chế chính sách ưu đãi NCC với cách mạng qua các thời kỳ.
Hai là, phân tích việc triển khai, thực hiện quản lý chính sách, chế độ ưu
đãi NCC bằng pháp luật. Những yếu tố tác động đến chất lượng và nội dung
quản lý nhà nước về thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng.
Ba là, phân tích đánh giá về nguyên tắc, trình tự, thủ tục xây dựng hệ
thống văn bản chính sách ưu đãi NCC theo quy định của luật định và thực
trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với chính sách ưu đãi NCC trong
cả nước giai đoạn 2012-2019.
Bốn là, Qua nghiên cứu thực tế thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật về chính sách, chế độ ưu đãi đối với NCC với cách mạng tại quận Hoàn
99
Kiếm, thành phố Hà Nội, với những kết quả đạt được đã khẳng định trách
nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội
trong việc thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng tại địa phương;
Phân tích những ưu điểm, hạn chế trong việc quản lý nhà nước bằng pháp luật
để làm cơ sở cho những giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi NCC, để từ đó
phát huy được tính tích cực của chính sách NCC của Đảng, Nhà nước.
Năm là, đề xuất 2 nhóm giải pháp: Về hoàn thiện chính sách ưu đãi đối
với NCC: Điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận; Chế độ trợ cấp; Chế độ ưu đãi
ngoài trợ cấp. Về nâng cao hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với chính sách ưu đãi NCC: Cần tăng cường công tác tuyên truyền,
phổ biến chính sách; Nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cơ quan tổ
chức, cá nhân về thực hiện tiếp nhận, giải quyết hồ sơ; Tăng cường biện pháp
thanh tra, kiểm tra và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, chuyên trách, kỷ
cương, liêm khiết; Phát huy vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội.
Thực hiện tốt công tác chính sách ưu đãi NCC với cách mạng chắc chắn
sẽ nắm bắt được hiệu quả tác động của chính sách đối với con người và xã
hội, là cầu nối giữa chính sách và đời sống, bảo đảm an sinh xã hội bền vững,
đáp ứng yêu cầu thực tế tại địa phương, phát huy truyền thống, đạo lý của dân
tộc ta, đồng thời củng cố niềm tin vững chắc vào Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước./.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2017), Chỉ thị số 14-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Chỉ thị số 24-CT/TW về tiếp tục đẩy
mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.
3. Ban chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
năm 2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
4. Ban chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW, Hội
nghị lần thứ năm, về một số vấn đề chính sách giai đoạn 2012-2020
5. Bộ LĐTBXH (2019), Tờ trình Chính phủ số 57 /TTr-LĐTBXH về Pháp
lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
6. Bộ LĐTBXH (2020), Kế hoạch hành động số 02/QĐ-LĐTBXH của về thực
hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ .
7. Bộ LĐTBXH (2013), Thông tư số 05/2013/TT-LĐTBXH hướng dẫn về thủ
tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi NCC với cách mạng
và thân nhân.
8. Bộ LĐTBXH-Bộ Tài chính (2014), Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-
BLĐTBXH-BTC hướng dẫn chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe, cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình đối với người có công với cách
mạng và thân nhân; quản lý các công trình ghi công liệt sĩ.
9. Bộ LĐTBXH (2019), Báo cáo Hội nghị Biểu dương người có công tiêu
biểu toàn quốc trong các năm 2014 – 2019.
10. Bộ LĐTBXH, Bộ Nội vụ (2015), Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-
BLĐTBXH-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở LĐTBXH thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Phòng LĐTBXH thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thuộc tỉnh.
101
11. Bộ Giáo dục đào tạo-Bộ Tài chính- Bộ LĐTBXH (2014), Thông tư liên
tịch số 20/2014/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn về miễn, giảm
học phí.
12. Bộ Quốc phòng (2013), Chỉ thị số 91/CT-BQP về thực hiện tìm kiếm, quy
tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
13. Bộ Tài chính (2018), Thông tư 101/2018/TT-BTC quy định về quản lý và
sử dụng kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng
14. Chính phủ (2019), Nghị định 58/2019/NĐ-CP quy định mức trợ cấp, phụ
cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
15. Chính phủ (2013), Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng.
16. Chính phủ (2013), Nghị định số 56/2013/NĐ-CP của quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
17. Chính phủ (2018), Nghị quyết số 119/NQ-CP về phiên họp thường kỳ
tháng 8/2018 của Chính phủ
18. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những
nhiệm vụ, giải pháp cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến
năm 2021.
19. Chủ tịch Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam (1947), Sắc lệnh 20/SL
về Hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ
20. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội,
NXB Chính trị quốc gia.
21. Hội Cựu chiến binh Việt Nam(2018), Báo cáo Sơ kết 5 năm (2014-2018)
về thực hiện kế hoạch phối hợp đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
22. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần XII (2016), Đánh giá tình hình 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015) và phương hướng,
nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế
- xã hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI trình Đại hội.
102
23. Nghị quyết số 26-NQ/TW (Trung ương 7 khóa XII), về xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức các cấp tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
24. Đào Ngọc Lợi (2017), Nhìn lại chặng đường thực hiện chính sách ưu đãi
người có công, Tạp chí Lao động Xã hội
25. Phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm (2019), Báo cáo Tổng kết công tác
2019, phương hướng 2020.
26. Phòng LĐTBXH quận Hoàn Kiếm (2019), Báo cáo thống kê đối tượng và
danh sách chi trả trợ cấp cho đối tượng người có công theo Pháp lệnh Ưu
đãi người có công giai đoạn 2013-2019.
27. Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo tổng kết công tác 2019,
phương hướng 2020.
28. Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo 5 chương trình phong
trào chăm sóc, đền ơn đáp nghĩa
29. Sở LĐTBXH thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo số 185/BC-LĐTBXH về
công tác xã phường chăm sóc người có công
30. Nguyễn Ngọc Toản (2018), Chính sách trợ giúp thường xuyên cộng đồng
ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm
31. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị về việc thực hiện công tác đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho con liệt sĩ, con thương bệnh binh nặng
32. Thủ tướng Chính phủ (2013), Chỉ thị về tổng rà soát việc thực hiện chính
sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng trong 2 năm 2014 - 2015.
33. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 02/CT-TTg về tăng cường chỉ đạo
thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
34. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 150/QĐ-TTg của phê duyệt
Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.
35. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg về hỗ trợ
người có công với cách mạng về nhà ở.
103
36. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 1237/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
37. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2019), Quyết định số 7216/QĐ-
UBND ngày Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính.
38. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2017), Kế hoạch số 93/KH-UBND về
việc triển khai thực hiện "Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai
đoạn 2017 - 2025" trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025.
39. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (khóa IX, X, XI, XII, XIII), Pháp lệnh Ưu
đãi người có công với cách mạng.
40. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần V, VI, VII, VIII, X, XI, XII
41. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã
hội Việt Nam đến năm 2020.
42. Viện Khoa học Lao động Xã hội (2018), “Kỷ yếu đề tài khoa học” - giai
đoạn 2012-2018.
43. Các Webside:
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- www.nguoicocong.gov.vn
- www.chinhphu.vn
- http://csdl.lietsi.vn/
- http://chinhsachquandoi.gov.vn/
- http://hoankiem.generitas.vn/thu-tuc-hanh-chinh
- http://thongtinlietsi.gov.vn
- www.thanhtra.edu.vn
- http://www.molisa.gov.vn
- https://solaodong.hanoi.gov.vn/
- https://vi.wikipedia.org/wiki/-
104
PHỤ LỤC
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, dùng thử ứng dụng thông tin điện tử về liệt sĩ,
mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ trên điện thoại.
Ảnh: Dương Giang/TTXVN
105
Đ/c Dương Đức Tuấn - Phó Bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận Hoàn
Kiếm tặng quà người có công tiêu biểu trên địa bàn quận
Nguồn: Báo Hà Nội mới
106
Bệnh viện Tim Hà Nội khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí
cho người có công ở phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội)
Nguồn: ảnh Thu Hà /Báo Hà Nội mới
107
Đảng bộ và nhân dân quận Hoàn Kiếm thăm hỏi,
tặng quà người có công dịp tết 2020
Nguồn: Tạp chí Lao động Xã hội
108
Chủ tịch LĐLĐ Lê Hoàng Thủy Vân (đứng thứ 6 từ trái sang)
cùng công đoàn ngân hàng TMCP Kỹ thương thăm và
tặng quà Mẹ Việt Nam anh hùng nhân dịp 27/7
Nguồn: Báo Lao động Thủ đô
109