BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

     

NGUYỄN THỊ TRÀ MY

TÁC ĐỘNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐẾN THANH KHOẢN CÁC

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

     

NGUYỄN THỊ TRÀ MY

TÁC ĐỘNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC ĐẾN THANH KHOẢN CÁC

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM.

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM VĂN NĂNG

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân

hàng Nhà nƣớc đến thanh khoản các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam” này là

công trình nghiên cứu riêng của tôi, đồng thời có sự góp ý, hướng dẫn của PGS. TS.

Phạm Văn Năng.

Các số liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và

có nguồn gốc rõ ràng.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 11 năm 2012

Người viết

Nguyễn Thị Trà My

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ACB Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu

ABB Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình

AGRB Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

BASEL Hiệp ước vốn Basel

BIDV Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

CAR Tỷ lệ an toàn vốn

CSTT Chính sách tiền tệ

CTG Ngân hàng Công thương Việt Nam ( Vietinbank)

CPI Chỉ số giá tiêu dùng

DCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank)

DTBB Dự trữ bắt buộc

EIB Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu (Eximbank)

FED Cục dự trữ Liên Bang Mỹ

FFR Lãi suất quỹ dự trữ liên bang Mỹ

GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế

HDB Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP. Hồ Chí Minh

HBB Ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank)

KLB Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long (Kienlongbank)

LDR Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động

LNH Liên ngân hàng

LSCB Lãi suất cơ bản

LSTT Lãi suất thỏa thuận

MBB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng Thương mại

NHTMCP Ngân hàng Thương mại cổ phần

NHTW Ngân hàng Trung Ương

NVB Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Việt

OMO Nghiệp vụ Thị truờng mở

SEABANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á

TCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam

TCTD Tổ chức tín dụng

VAB Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Á

VIB Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế

VCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương ( Vietcombank)

VPbank Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng

WEB Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Tây ( Westernbank)

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Diễn biến lãi suất chiết khấu và lãi suất quỹ dự trữ liên bang Mỹ từ 2007 đến

nay

Bảng 2.1. Diễn biến cuộc đua lãi suất huy động năm 2008

Bảng 2.2. Diễn biến cuộc đua lãi suất năm 2010

Bảng 2.3. Diễn biến cuộc đua lãi suất năm 2011

Bảng 2.4. Chênh lệch lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân của các

NHTM từ 2007 đến 2011

Bảng 2.5. Tỷ lệ huy động vốn từ khách hàng/ Tổng nguồn vốn huy động

Bảng 2.6. Tỷ lệ vay LNH/ Gửi LNH và tỷ trọng huy động vốn trên thị trường 2/ Tổng

tài sản của các NHTM từ năm 2008-2011

Bảng 2.7.Tốc độ tăng trưởng tài sản và tỷ lệ nợ/ Tổng tài sản của các NHTM từ 2008

đến nay

Bảng 2.8.Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2007- T6/2012)

Bảng 2.9. Tỷ lệ cho vay KH/ Huy động KH của các NHTM từ 2007-2011

DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

Sơ đồ 1.1. Cơ chế truyền dẫn của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW đến thanh khoản

của các NHTM

Sơ đồ 2.1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN từ năm 2007 đến nay

Đồ thị 2.1. Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2007 đến tháng

6/2012

Đồ thị 2.2. Diễn biến lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân của các

NHTM từ năm 2007 đến nay.

Đồ thị 2.3. Diễn biến lãi suất liên ngân hàng từ năm 2008 đến nay

Đồ thị 2.4. Diễn biến lãi suất cho vay bình quân của các NHTM từ năm 2007 đến nay

trong mối quan hệ với các mức lãi suất điều hành

Đồ thị 2.5. Cơ cấu huy động và cho vay theo kỳ hạn của một số NHTM năm 2011

Đồ thị 2.6. Tốc độ tăng trưởng huy động và tăng trưởng cho vay của hệ thống NHTM

trong mối quan hệ với CPI, GDP, M2

Đồ thị 2.7. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng từ năm 2007 đến tháng 6/2012

Đồ thị 2.8. Tỷ lệ nợ xấu của một số NHTM từ 2009-2011

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Danh mục từ viết tắt

Danh mục bảng biểu

Danh mục sơ đồ, đồ thị

Mục lục

Lời mở đầu

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG VÀ THANH KHOẢN NGÂN HÀNG

THƢƠNG MẠI

1.1. Lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ƣơng ----- 1

1.1.1. Khái niệm và phân loại lãi suất. -------------------------------------------- 1

1.1.2. Thế nào là cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ------------------------- 2

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ---- 4

1.1.4. Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW --------- 5

1.1.5. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất ----------------------------------------- 8

1.2. Thanh khoản của Ngân hàng Thƣơng mại ----------------------------------- 9

1.2.1. Khái nịêm về thanh khoản --------------------------------------------------- 9

1.2.2. Cung và cầu thanh khoản ---------------------------------------------------- 10

1.2.3. Đánh giá trạng thái thanh khoản -------------------------------------------- 10

1.2.4. Các nhân tố tác động đến tính thanh khoản của NHTM ----------------- 12

1.2.5. Cách xác định nhu cầu thanh khoản của NHTM ------------------------- 14

1.3. Cơ chế truyền dẫn tiền tệ từ cơ chế điều hành lãi suất của NHTW đến

thanh khoản của các NHTM ------------------------------------------------------- 19

1.4. Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ

(FED)- Bài học kinh nghiệm sau khủng hỏang kinh tế -------------------------- 20

1.4.1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Mỹ -------------------------------- 20

1.4.2. Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của FED ------------ 23

CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN

HÀNG NHÀ NƢỚC ĐẾN THANH KHỎAN CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG

MẠI VIỆT NAM

2.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô và cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà

nƣớc Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay ----------------------------- 26

2.2. Phân tích tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc

đến thanh khoản các Ngân hàng Thƣơng mại giai đoạn từ năm 2007 cho đến

nay ----------------------------------------------------------------------------------------- 28

2.2.1.Diễn biến lãi suất trên thị trường giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay

-------------------------------------------------------------------------------------- - 29

2.2.1.1. Diễn biến lãi suất huy động trên thị trường 1 ---------------------- 29

2.2.1.2. Diễn biến lãi suất huy động trên thị trường 2 ---------------------- 34

2.2.2. Diễn biến lãi suất cho vay trên thị trường --------------------------------- 35

2.2.3. Tình hình thanh khoản của các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến nay

---------------------------------------------------------------------------------------------- 37

2.2.3.1 Tình hình huy động vốn ------------------------------------------------ 38

2.2.3.2 Tình hình cho vay ------------------------------------------------------- 42

2.2.3.3 Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động -------------------------- 47

2.3. Đánh giá chung tác động cơ chế điều hành lãi suất của NHNN từ năm

2007 đến nay ----------------------------------------------------------------------------- 49

2.3.1. Mặt tích cực ------------------------------------------------------------------- 49

2.3.2. Mặt hạn chế -------------------------------------------------------------------- 53

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại ---------------------------------------------------------- 59

2.3.3.1. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ bối cảnh kinh tế vĩ mô và cơ chế

điều hành, giám sát của NHNN -------------------------------------------------------- 59

2.3.3.2. Nhóm nguyên nhân nội tại từ phía các NHTM -------------------- 63

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH

LÃI SUẤT CỦA NHNN VÀ NĂNG LỰC QUẢN TRỊ THANH KHOẢN

CỦA NHTM VIỆT NAM

3.1. Định hƣớng điều hành Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam đến năm

2020 --------------------------------------------------------------------------------------- 66

3.2. Định hƣớng lựa chọn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

---------------------------------------------------------------------------------------------- 69

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt

Nam ---------------------------------------------------------------------------------------- 71

3.4. Nhóm giải pháp đối với NHTM ------------------------------------------------- 84

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC 1 : Diễn biến lãi suất chiết khấu và lãi suất quỹ dự trữ liên bang Mỹ

từ 2007 đến nay

PHỤ LỤC 2 : Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn từ năm 2007 đến

nay

PHỤ LỤC 3 : Diễn biến lãi suất trên thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ

chức kinh tế từ năm 2007 đến nay

PHỤ LỤC 4 : Thị phần huy động vốn của các NHTM được khảo sát

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Như chúng ta đã biết, lãi suất là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ

đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử dụng

như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, đây cũng được coi là một

công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng, thu hút được nhiều sự quan tâm của các

tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội. Chính vì lẽ đó, lãi suất là một trong những biến

số được theo dõi một cách chặt chẽ. Trong từng thời kỳ nhất định, việc tìm ra và thực

hiện một cơ chế điều hành lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp và vai trò quyết định đó

thuộc về NHTW. Cùng với sự thay đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính

sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cũng đã thay đổi theo hướng

tự do hóa, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước, mức độ hội nhập với thị

trường khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống ngân hàng để góp phần

phát triển chiều sâu thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định

giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Trong thời gian vừa qua, dưới tác động

của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và sự leo thang của cuộc khủng hoảng

nợ công châu Âu, ngành tài chính nói chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng

đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Trước tình hình đó, NHNN Việt

Nam đã có những động thái điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất của mình trong từng giai

đoạn cụ thể nhằm củng cố sức mạnh cho toàn hệ thống các Ngân hàng Thương mại vượt

qua giai đoạn khủng hoảng. Những động thái đó đã tạo ra những tác động nhất định đến

hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại nói chung và hoạt động thanh

khoản nói riêng. Bên cạnh những tác động tích cực, vẫn còn những bất cập trong cơ chế

điều hành lãi suất của NHNN góp phần dẫn đến tình trạng chạy đua lãi suất, mất cân đối

thanh khoản, … diễn ra phổ biến trong thời gian vừa qua đã trở thành bài toán khó mà

NHNN vẫn đang trong quá trình tìm ra lời giải cuối cùng. Chính vì vậy, tôi đã quyết định

lựa chọn đề tài “Tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc đến

thanh khoản các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình

với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam cũng

như những tác động của nó đến tình hình thanh khoản của các NHTM trong thời gian

vừa qua, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành lãi suất

của NHNN và khắc phục tình trạng thanh khoản khó khăn cho các NHTM hiện nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu nhằm hướng đến các mục tiêu sau:

- Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong vòng 5 năm trở lại

là giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất ổn.

- Phân tích, đánh giá các mặt tích cực, hạn chế của sự tác động cơ chế điều hành lãi suất

của NHNN đến thanh khoản của các NHTM.

- Tìm hiểu các nguyên nhân còn tồn tại để đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện cơ

chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam cũng như nâng cao năng lực quản trị thanh

khoản của NHTM trong quá trình hội nhập.

3. Phƣơng pháp luận và nguồn thông tin:

Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, kết hợp giữa nghiên cứu

thống kê, so sánh, tổng hợp để phân tích tác động cơ chế điều hành lãi suất của NHNN

đến tình hình thanh khoản của các NHTM. Nghiên cứu này sử dụng nguồn số liệu thứ

cấp được thu thập từ các NHTM trong nước, báo cáo thường niên của NHNN và một số

báo cáo ngành ngân hàng do các tổ chức tài chính trong nước tổng hợp. Bên cạnh đó,

nguồn thông tin thu thập từ các phương tiện thông tin đại chúng, các trang báo điện tử..

cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho bài nghiên cứu trong bối cảnh nguồn thông tin cung cấp từ

phía NHNN và hệ thống NHTM còn nhiều hạn chế.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung vào việc phân tích tác động

của cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ (VND) của NHNN đến tình hình thanh khoản

của các NHTM trong nước từ năm 2007 đến nay (số liệu được tổng hợp từ năm 2007 đến

hết Quý 2 năm 2012) với số lượng ngân hàng khảo sát được chia thành 2 nhóm cụ thể

như sau:

STT

Nhóm ngân hàng dẫn đầu

STT

Nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

1

Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu

9

Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình

2

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại

10

Nông thôn Việt Nam

Dương (Oceanbank)

Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt

Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát

3

11

Nam

triền Nhà TP. Hồ Chí Minh

Ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà

Ngân hàng Công thương Việt Nam

Nội ( Habubank)

12

4

( Vietinbank)

Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên

Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất

Long

13

5

nhập khẩu (Eximbank)

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân

Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam

14

6

đội

Việt

Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ

Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Á

thương Việt Nam

7

15

Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương

16

Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngọai

8

Tây ( Westernbank)

thương ( Vietcombank)

Ghi chú: Hiện nay, Habubank đã sáp nhập vào SHB, trong phạm vi bài viết thực hiện

phân tích số liệu của Habubank đến hết năm 2011.

Việc chọn lựa các ngân hàng khảo sát dựa trên nguyên tắc: có nguồn thông tin minh bạch

như báo cáo tài chính, báo cáo thường niên; mang tính đại diện không mang những tính

chất cá biệt .

5. Kết cấu luận văn :

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Lý luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung Ương và

thanh khoản Ngân hàng Thương mại.

Chƣơng 2: Tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đến thanh

khoản các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà

nước và năng lực quản trị thanh khoản của Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

1

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG

TRUNG ƢƠNG VÀ THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới dù lớn hay nhỏ đều có một NHTW đảm

nhận vai trò quan trọng trong việc thực hiện quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín

dụng - ngân hàng. Để hoàn thành tốt vai trò đó, NHTW mỗi quốc gia sẽ sử dụng những

công cụ điều hành khác nhau, trong đó lãi suất là một công cụ điều hành được NHTW

các nước sử dụng khá phổ biến. Trong phạm vi của đề tài, chúng ta sẽ tập trung nghiên

cứu về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW nói chung và cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam nói riêng.

1.1. Lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ƣơng

1.1.1. Khái niệm và phân loại lãi suất

Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa

cung và cầu vốn quyết định. Việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sự biến đổi của chi phí tín

dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh

tế. Chính vì lẽ đó, lãi suất được sử dụng với vai trò là một công cụ điều hành của chính

sách tiền tệ quốc gia.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, căn cứ theo tính chất của khoản vay, lãi suất được

xem xét và phân chia thành các loại như sau :

 Lãi suất huy động: là lãi suất Ngân hàng Thương mại trả cho các khoản tiền gửi

vào ngân hàng.

 Lãi suất cho vay: là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi đi vay từ

ngân hàng.

2

 Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung

gian vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn

chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.

 Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHTW tái cấp vốn

cho các NHTM. Trong đó, tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các

NHTM. Khi NHTW điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn phù hợp với mục tiêu thắt

chặt hay mở rộng chính sách tiền tệ sẽ có tác động làm giảm hay tăng lượng tiền trong

lưu thông.

 Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay

trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung

cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân

hàng trung gian vay của NHTW.

 Lãi suất cơ bản (lãi suất chính thức): là lãi suất do NHTW quy định được các

Ngân hàng Thương mại sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.

Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy vào quy định của NHTW từng nước.

1.1.2. Thế nào là cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ƣơng?

Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được hiểu là tổng thể những chủ trương,

chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW, nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị

trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. (Nguyễn Xuân Hưng, 2009)

NHTW mỗi một nước khác nhau sẽ lựa chọn và sử dụng cơ chế điều hành lãi suất

khác nhau căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, thị

trường tài chính - tiền tệ ở mỗi nước, cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của

chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế,

không có mô hình áp dụng chung cho tất cả NHTW các nước. NHTW thực hiện vai trò

3

điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ dưới các hình thức sau:

 NHTW có thể can thiệp bằng các biện pháp hành chính như quy định lãi suất cho

thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong

nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng qua đó tác động đến cung tiền và

cầu tiền trong nền kinh tế nhằm thực hiện được mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định

tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.

 NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: Với chức năng là ngân hàng

của các ngân hàng, NHTW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu

lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân

hàng này theo tỷ lệ lãi suất nhất định do NHTW quy định. Khi thay đổi mức lãi suất chiết

khấu, NHTW đã tác động một cách gián tiếp vào lãi suất thị trường. Mức lãi suất chiết

khấu cao hay thấp sẽ khuyến khích hay cản trở nhu cầu vay vốn của các NHTM, từ đó

làm thay đổi lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.

 NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở: có nghĩa là NHTW thực hiện việc

mua bán giấy tờ có giá với các NHTM, trong đó lãi suất thị trường mở được hình thành

thông qua hình thức đấu thầu lãi suất hay được quy định trong hình thức đấu thầu khối

lượng. Qua đó, NHTW tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM, từ đó

tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ.

Nhằm để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của mình thông qua công cụ lãi suất,

mỗi NHTW ở mỗi quốc gia lựa chọn một cơ chế điều hành lãi suất khác nhau, trong đó

hạt nhân là các mức lãi suất điều hành (lãi suất chính thức) được NHTW công bố mang

tính chất là lãi suất mục tiêu, là thông điệp mang tính định hướng để thị trường tham

khảo, đồng thời nó cũng thể hiện ý chí của NHTW, là một chỉ báo về động thái điều hành

chính sách tiền tệ của NHTW, phát huy vai trò truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ

4

đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô (tăng trưởng, lạm phát, việc làm,…). Lãi

suất chính thức được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn

thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường

tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Lãi suất chính thức của NHTW tác động đối với

nền kinh tế theo nhiều kênh khác nhau, tạo thành cơ chế truyền dẫn tiền tệ.

- Khi NHTW thay đổi lãi suất chính thức, thì tác động tới các lãi suất bán buôn

ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Ngay sau đó, các NHTM sẽ điều chỉnh lãi suất cho vay

và lãi suất huy động cũng được điều chỉnh để đảm bảo mức chênh lệch với lãi suất cho

vay để NHTM có lãi. Tuy nhiên, những lãi suất này không phải bao giờ cũng thay đổi

một cách tương ứng với mức thay đổi của lãi suất chính thức.

- Lãi suất chính thức tác động tới kỳ vọng của doanh nghiệp và dân cư về sự phát

triển của nền kinh tế trong tương lai, tác động tới giá cả tài sản (giá cổ phiếu và trái

phiếu) và tác động tới các hành vi của hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế, như chi tiêu,

tiết kiệm của các cá nhân, nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp…, tức là làm tăng hoặc

giảm lên tổng cầu hàng hóa và dịch vụ trong nước, từ đó tác động đến lạm phát.

Thông thường, ở các nước phát triển, NHTW sử dụng lãi suất chính thức là lãi

suất cho vay qua đêm hoặc lãi suất định hướng liên ngân hàng được xác lập chủ yếu trên

nghiệp vụ thị trường mở; còn các nước đang phát triển sử dụng lãi suất tái cấp vốn kết

hợp lãi suất chiết khấu vì công cụ có tính thị trường ở mức cao như nghiệp vụ thị trường

mở phát huy tác dụng còn hạn chế.

1.1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung

ƣơng

Việc xác định, thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của NHTW được dựa trên cơ sở

xem xét và đánh giá toàn diện các yếu tố sau:

 Sự phát triển của thị trường tiền tệ: bởi lẽ thị trường tiền tệ là cơ sở hạ tầng cho

5

việc thực hiện cơ chế truyền dẫn tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW.

 Quan hệ cung và cầu vốn trên thị trường tiền tệ.

 Sự lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ.

 Biến số diễn biến kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế...

 Tình trạng vốn khả dụng của Ngân hàng Thương mại.

1.1.4. Mục tiêu và vai trò của cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ƣơng

Như chúng ta đã biết, lãi suất là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ,

vì vậy mục tiêu theo đuổi của cơ chế điều hành lãi suất luôn gắn chặt, không thể tách rời

với mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất của NHTW nói riêng

trong từng thời kỳ. Vì vậy, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời

kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của chính sách tiền tệ như ổn định tiền tệ, kiểm

soát lạm phát hay hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa

là sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm

bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, việc công bố lãi suất chính thức của NHTW tác động đến nền kinh tế theo

nhiều kênh khác nhau và không nên gây nên xáo trộn về lãi suất và giá tài sản (cổ phiếu

và trái phiếu) trên thị trường vốn và tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, tạo điều

kiện cho các trung gian tài chính kinh doanh thuận lợi, có hiệu quả. Việc điều hành linh

hoạt các mức lãi suất điều hành của NHTW phải hướng đến kiểm soát lãi suất thị trường

ở mức cân bằng với các điều kiện và mục tiêu kinh tế vĩ mô. Mặt khác, xét ở góc độ vi

mô, cơ chế điều hành lãi suất mà theo đó cơ cấu lãi suất định hình và tác động đến môi

trường hoạt động và phát triển của hệ thống tài chính mỗi quốc gia với 3 mục tiêu chính:

Một là, khuyến khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính,

phát triển chiều sâu thị trường tài chính.

6

Hai là, hướng các nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực hoạt động có tỷ suất lợi

tức cao nhất, tức là các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế nhất.

Ba là, mang lại mức chênh lệch đủ để các định chế tài chính trang trải các chi phí

hoạt động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có, làm hài hòa

các lợi ích của các tổ chức tài chính để nó phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của cả

nền kinh tế.

Việc thực hiện một cơ chế điều hành lãi suất thích hợp là nhiệm vụ vô cùng quan

trọng và phức tạp của NHTW để lãi suất vừa đóng vai trò quan trọng trong kiềm chế

lạm phát, vừa đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, vừa không gây khó khăn cho các

doanh nghiệp và đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM, tạo sự bình đẳng

hơn trong quan hệ giao dịch giữa các khách hàng, người dân với các NHTM và tạo

quyền tự chủ, năng động và linh hoạt hơn cho các NHTM trong việc quyết định các mức

lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của mình với khách hàng. Ngược lại, nếu cơ

chế điều hành lãi suất không phù hợp có thể sẽ làm cho nền kinh tế đi ngược lại với các

mục tiêu mà Nhà nước đã định, gây nguy hại đến thị trường tiền tệ và làm cho lợi ích

của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế bị xâm phạm. Bên cạnh đó còn gây khó khăn

cho các NHTM trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là các ngân hàng có quy

mô vừa và nhỏ. Với ý nghĩa đó, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW đóng vai trò quan

trọng trong công tác điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thể hiện ở những mặt sau:

 Với tư cách là giá vốn, lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố vĩ mô và có tác

động trở lại đối với nền kinh tế trong nước. Việc xác định mức lãi suất điều hành do

NHTW thực hiện trên thị trường tiền tệ chính là một cơ sở để xác định lãi suất ngắn hạn,

từ đó mà xác định lãi suất trung và dài hạn trong nền kinh tế. Vì vậy, cơ chế xác định lãi

suất trên thị trường vốn của NHTW có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các tín hiệu

của NHTW, thông qua các kênh truyền dẫn mà tác động đến mặt bằng lãi suất thị

trường nói chung.

7

 Căn cứ vào những tín hiệu của thị trường tiền tệ thông qua lãi suất, NHTW

"bơm" hoặc “rút” lượng tiền trong lưu thông góp phần đạt các mục tiêu vĩ mô như tỷ

giá, lạm phát....

 Sự can thiệp và điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ của NHTW tác động tới

hoạt động của nền kinh tế thông qua việc nới lỏng hay thắt chặt tín dụng tương ứng với

nhịp độ phát triển kinh tế.

- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất tiền gửi để

rút tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua của đồng tiền

ổn định, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh

tế suy thoái, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy thoái và lãi suất

giảm xuống.

- Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các

NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng hay

thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm.

- Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng ngoại

tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi tỷ

giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.

 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW còn góp phần đóng vai trò điều tiết lãi suất

hình thành trên thị trường liên ngân hàng, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ngân

hàng, một mặt là cơ sở để các NHTM tham khảo và xác định các loại lãi suất kinh

doanh, mặt khác là cơ sở tham khảo để xác định công cụ CSTT và các mức lãi suất điều

hành khác như: lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất thị trường

mở.

 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt

động của NHTM (hoạt động cho vay và huy động vốn), tác động đến lợi nhuận ngân

8

hàng khi tính toán kết quả kinh doanh, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra.

1.1.5. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất

Cơ chế điều hành trực tiếp (cơ chế kiểm soát lãi suất)

NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế thông qua các hình thức

quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, quy định mức lãi suất cho

vay tối đa hoặc mức lãi suất tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh

tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định mức lãi

suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi điều kiện kinh tế vĩ mô, NHTW có thể

xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa ở mức hợp lý. Theo cách thức điều hành

lãi suất, cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp gồm:

 Cơ chế ấn định lãi suất: NHTW quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả

các loại lãi suất. Các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện một cách tuyệt đối.

 Cơ chế khống chế lãi suất: NHTW không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ quy

định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất sàn) tạo

thành khung giới hạn để trong đó các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh.

Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp là NHTW quản lý thống nhất lãi

suất đối với nền kinh tế, vì vậy cơ chế lãi suất này chỉ thích hợp và được áp dụng phổ

biến ở các nước đang phát triển với thị trường tài chính còn yếu kém gặp nhiều khó

khăn trong quá trình kiểm soát lượng tiền cung ứng, nền kinh tế có khả năng xảy ra lạm

phát cao.

Xét về nhược điểm, cơ chế này còn mang tính áp đặt hành chính, làm cho các

NHTM phần nào mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh để đưa ra mức

lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro của dự án kinh tế, từ đó lựa chọn dự án tối ưu để cho

vay hay loại bỏ những dự án kém hiệu quả.

9

Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất)

NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền

kinh tế thông qua cơ chế tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng. Cơ chế này được thực

hiện theo nguyên tắc: NHTW chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản

vay tái cấp vốn, tái chiết khấu của mình. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể

theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ

chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cung cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ

đó hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng nhu cầu của thị trường.

Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có

hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn khi bên cạnh các lãi

suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất

này để duy trì ở mức mong đợi thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Vai trò điều hành lãi

suất của NHTW chỉ mang tính định hướng cho thị trường tiền tệ theo từng mục tiêu của

CSTT trong từng giai đoạn.

Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp là không có sự can thiệp trực tiếp

của NHTW vào lãi suất thị trường tiền tệ, lãi suất thị trường được hình thành và vận động linh hoạt hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu vốn.

1.2. Thanh khoản của Ngân hàng Thƣơng mại

1.2.1. Khái niệm về thanh khoản

Tính thanh khoản của Ngân hàng Thương mại được xem như khả năng tức thời

(the short-run ability) để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng

đã cam kết.

Như vậy, một ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro thanh khoản khi ngân hàng đó

không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời;

hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, rủi ro thanh khoản xuất hiện

10

trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài

sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh

toán.

1.2.2. Cung và cầu thanh khoản

Yêu cầu thanh khoản của một ngân hàng có thể được xem xét bằng mô hình cung

- cầu về thanh khoản, trong đó:

 Cung về thanh khoản: là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân

hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm: tiền gửi khách hàng; thu

nhập từ các dịch vụ phi tiền gửi; thu hồi các khoản tín dụng đã cấp; bán các tài sản đang

kinh doanh và sử dụng; vay mượn trên thị trường tiền tệ…

 Cầu về thanh khoản: là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân

hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh doanh

của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm: khách hàng rút tiền

từ tài khoản; yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao; thanh

toán các khoản vay phi tiền gửi; chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ;

thanh toán cổ tức cho cổ đông…

Sự kết hợp giữa cung thanh khoản và cầu thanh khoản sẽ quyết định vị thế thanh

khoản ròng của một Ngân hàng Thương mại. Đảm bảo một mức thanh khoản phù hợp

là công việc bất tận của nhà quản trị ngân hàng. Các quyết định về thanh khoản không thể tách rời với các hoạt động nghiệp vụ và các phòng ban khác của ngân hàng.

1.2.3. Đánh giá trạng thái thanh khoản

Sự kết hợp giữa cung và cầu thanh khoản sẽ quyết định trạng thái thanh khoản

ròng (net liquidity position – NLP) của một NHTM tại một thời điểm nhất định, trạng

thái này có thể được xác định như sau:

11

NPL = Tổng cung thanh khoản – Tổng cầu thanh khoản

Có các trường hợp xảy ra:

 NPL > 0: thặng dƣ thanh khoản

Khi cung thanh khoản vượt cầu thanh khoản thì ngân hàng đang ở tình trạng thừa

thanh khoản. Nhà quản trị phải đưa ra quyết định ở đâu và vào thời điểm nào cần phải

sử dụng nguồn thanh khoản thừa để đầu tư kiếm lời cho đến khi nguồn thanh khoản này

được sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản trong tương lai.

Thừa khả năng thanh khoản được nhận biết khi trạng thái mất cân bằng của các

NHTM, xảy ra khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, ngân hàng không tiếp cận được

với khách hàng hoặc không lựa chọn được nhiều khách hàng để cho vay.

Thanh khoản thừa thường được ngân hàng sử dụng để mua các chứng khoán dự

trữ thứ cấp đã bán ra trước đó; cho vay trên thị trường tiền tệ hay gửi tiền lại các tổ chức

tín dụng khác…

 NPL < 0: thâm hụt thanh khoản

Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản thì ngân hàng đang trong tình

trạng thiếu vốn để hoạt động. Nhà quản trị phải đưa ra quyết định ở đâu và vào thời

điểm nào cần phải bổ sung thanh khoản để đáp ứng nhu cầu vốn với chi phí thấp nhất và

kịp thời nhất.

Thiếu khả năng thanh khoản được nhận biết khi tình trạng ngân hàng không đủ

vốn đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp,

của nền kinh tế…Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp sau để xử lý: sử dụng dự trữ

bắt buộc dư ra nếu có (do tiền gửi kỳ này giảm so với kỳ trước); bán dự trữ thứ cấp (các

chứng khoán ngắn hạn do Chính phủ phát hành); vay qua đêm, vay tái chiết khấu tại

Ngân hàng Nhà nước; huy động trên thị trường tiền tệ: phát hành chứng chỉ tiền gửi có

12

mệnh giá lớn để huy động vốn…

 NPL = 0: cân bằng thanh khoản

Khi cung thanh khoản bằng cầu thanh khoản thì ngân hàng đang trong tình trạng

cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, trong thực tế tình trạng này rất khó xảy ra. Xét tại

mọi thời điểm, cung và cầu thanh khoản là không cân bằng. Ngân hàng luôn phải đối

mặt tình huống thâm hụt hay thặng dư thanh khoản.

1.2.4. Các nhân tố tác động đến thanh khoản của Ngân hàng Thƣơng mại

Môi trường hoạt động

Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn gắn liền với những biến động của môi

trường kinh doanh xung quanh nó. Các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội luôn

có tác động trực tiếp và gián tiếp tới các quyết định và phương hướng kinh doanh của

một NHTM. Văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc sẽ quyết định đến tập quán, tâm

lý, thói quen trong sinh hoạt và việc sử dụng nguồn thu nhập của cộng đồng đó. Mức độ

chấp nhận rủi ro, thói quen tích luỹ, tiêu dùng của công chúng được xây dựng từ yếu tố

văn hoá và cũng có ảnh hưởng đáng kể đến các quyết định đầu tư hay gửi tiền vào ngân

hàng của họ. Mặc dù không phải là nhân tố có tác động trực tiếp đến quy mô và chất

lượng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Thương mại, nhưng rõ ràng rằng nó có tác

động không nhỏ đến quỹ dự trữ và khả năng thanh toán của một ngân hàng có nguồn

vốn huy động lớn từ công chúng.

Chính sách tiền tệ của NHTW

Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, NHTW đặt

ra các quy định điều chỉnh và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng để

hướng chúng theo một mục tiêu chung của cả hệ thống. Ở những thời điểm khác nhau,

tùy thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các

13

nhóm công cụ chính sách tiền tệ khác nhau. Các nhóm công cụ này mà trong đó công cụ

lãi suất đóng vai trò chủ đạo có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, có tác dụng điều chỉnh,

làm thu hẹp hay mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của NHTM, cụ thể là tác động

đến khả năng huy động vốn và cấp tín dụng cho nền kinh tế của NHTM. Trong một số

trường hợp, các NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản do tác động của sự

thay đổi chính sách này. Việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất của NHTW sẽ tác

động đến mặt bằng lãi suất trên thị trường tiền tệ, và do đó ảnh hưởng đến đồng thời cả

nhu cầu gửi tiền và nhu cầu vay vốn gây ra những tác động rất lớn đến trạng thái thanh

khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những vận động trong lãi suất cũng sẽ ảnh hưởng đến

giá trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng dự định đem bán để tăng khả năng thanh

khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay vốn trên thị trường tiền tệ của các ngân

hàng.

Chiến lược quản lý thanh khoản của ngân hàng

Chiến lược quản lý thanh khoản của mỗi NHTM đóng vai trò quan trọng trong

việc xây dựng một cơ chế quản lý và sử dụng vốn khoa học, có kế hoạch, tổ chức

nhằm giải quyết vấn đề thanh khoản của các NHTM. Đó là quá trình hoạch định các

nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, trong đó tập trung xem xét, đánh giá được một

cách toàn diện và kiểm soát được những yếu tố tác động đến trạng thái thanh khoản của

ngân hàng, là những yếu tố làm thay đổi nguồn tiền gửi tiềm năng, các cam kết tài trợ

tín dụng và các phương tiện dự phòng…nhằm đảm bảo cung ứng đủ nguồn ngân quỹ

cho các nhu cầu chi trả, cấp tín dụng song cũng phải đạt được yêu cầu cho mục tiêu

tối đa hoá lợi nhuận của các NHTM.

Sự phát triển của thị trường tiền tệ

Thị trường tiền tệ là nguồn huy động vốn linh hoạt giúp các tổ chức tín dụng huy

động các nguồn vốn ngắn hạn đảm bảo khả năng chi trả của mình. Thị trường tiền tệ

cũng là nơi các tổ chức tín dụng có thể tìm kiếm những cơ hội đầu tư thích hợp cho các

14

khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình. Tham gia vay và cho vay trên thị trường tiền tệ

giúp NHTM chủ động hơn trong việc sắp xếp, cơ cấu lại bảng tổng kết tài sản cho

phù hợp với mục tiêu phát triển của ngân hàng. Sự phát triển thị trường tiền tệ, thị

trường vốn thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn và chất lượng các khoản vay, làm

mềm mại sự cân đối thời lượng tài sản nợ - có của từng NHTM. Chính vì vậy, xây

dựng một thị trường tiền tệ phát triển luôn là mong muốn của các cơ quan quản lý vĩ mô và của các thành viên tham gia thị trường.

Các nhân tố khác

Các yếu tố như uy tín của ngân hàng, khả năng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ

cũng như uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo sẽ tạo ra được một lòng tin đối với công

chúng. Các nhân tố này góp phần tạo sự ổn định cho nguồn tiền gửi cũng như chất

lượng nguồn vốn huy động, giảm thấp rủi ro do mất khả năng thanh toán của ngân hàng.

1.2.5. Cách xác định nhu cầu thanh khoản của Ngân hàng Thƣơng mại

Có bốn phương pháp dự báo nhu cầu thanh khoản sau đây:

Phƣơng pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn

Phương pháp này bắt nguồn từ hai thực tế đơn giản sau:

Một là, khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm.

Hai là, khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng.

Ngay từ đầu năm, ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các tháng, quý

trong năm. Bất cứ khi nào cung thanh khoản và cầu thanh khoản không cân bằng với

nhau, ngân hàng có một độ lệch thanh khoản. Độ lệch này được xác định như sau:

Độ lệch thanh khoản (liquidity gap) = Tổng cung thanh khoản (1) -

Tổng cầu thanh khoản (2)

15

Khi (1) > (2): Độ lệch thanh khoản dương. Ngân hàng phải nhanh chóng đầu tư

phần thanh khoản thặng dư này để sinh lợi.

Khi (2)> (1): Độ lệch thanh khoản âm. Ngân hàng phải tìm kiếm kịp thời các

nguồn tài trợ khác nhau với chi phí thấp nhất.

Tiến trình thực tế các bước cơ bản trong phương pháp nguồn và sử dụng vốn như

sau:

- Tiền vay và tiền gửi phải được dự báo trong khoảng thời gian hoạch định thanh

khoản đã cho (ngày, tuần, tháng, quý).

- Những thay đổi về tiền vay và tiền gửi phải được tính toán cho cùng khoảng

thời gian xác định đó.

- Nhà quản trị thanh khoản ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng,

hoặc thặng dư hoặc thâm hụt dựa vào sự biến đổi của tiền gửi và cho vay.

Phƣơng pháp tiếp cận cấu trúc vốn

Phương pháp này được tiến hành theo trình tự hai bước:

Bƣớc 1: Chia các khoản tiền gửi và các nguồn khác thành nhiều loại trên cơ sở

ước lượng xác suất rút tiền của khách hàng. Chẳng hạn, tiền gửi và các nguồn khác

của ngân hàng có thể chia thành ba loại:

Loại 1: ổn định thấp Loại 2: ổn định vừa phải Loại 3: ổn định cao.

Bƣớc 2: Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại tiền gửi trên cơ sở ấn

định tỷ lệ dự trữ thích hợp với trạng thái của chúng. Ví dụ:

Loại 1: 95% Loại 2: 30% Loại 3: 15%

Như vậy, nhu cầu thanh khoản cho tổng các loại tiền gửi được tính như sau:

16

Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Nợ” huy động = 95% x (Loại 1 – DTBB) +30% x (Loại

2 – DTBB) + 15% x (Loại 3 – DTBB).

Đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải sẵn sàng khi khách

hàng có nhu cầu và đảm bảo các điều kiện tín dụng tức là các khoản vay chất lượng cao.

Trong trường hợp này, nhu cầu thanh khoản cho các khoản cho vay là:

Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Có” cho vay = Quy mô cho vay tối đa tiềm năng

– Tổng dư nợ hiện tại

Phƣơng pháp xác định xác suất mỗi tình huống

Phương pháp này được thực hiện theo trình tự hai bước:

Bƣớc 1: Ngân hàng dự đoán khả năng xảy ra của mỗi trạng thái thanh khoản

theo ba cấp độ:

- Khả năng xấu nhất khi: tiền gửi xuống thấp dưới mức dự kiến hoặc tiền vay

lên cao trên mức dự kiến.

- Khả năng tốt nhất khi: tiền gửi lên cao trên mức dự kiến hoặc tiền vay

xuống thấp dưới mức dự kiến.

- Khả năng thực tế: nằm ở cấp độ nào đó giữa hai cấp độ trên.

Bƣớc 2: Xác định nhu cầu thanh khoản theo công thức:

Trạng thái thanh khoản dự kiến =

Trong đó: Pi: Xác suất tương ứng với một trong ba khả năng.

SDi: Thặng dư hay thâm hụt thanh khoản theo mỗi khả năng.

17

Phƣơng pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản

Phương pháp này dựa trên cơ sở kinh nghiệm riêng có của ngân hàng và các chỉ

tiêu trung bình trong ngành. Một số chỉ tiêu thanh khoản sau thường được sử dụng:

ạ á ề ặ

ề ặ ề ạ á đ ế

 Chỉ tiêu trạng thái tiền mặt :

Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng xử lý các tình huống

thanh khoản tốt hơn và kịp thời hơn.

ứ á

ứ á ủ

 Chỉ tiêu chứng khoán có tính thanh kho n :

Tỷ lệ chứng khoán chính phủ càng cao, trạng thái thanh khoản càng tốt.

đ đ

 Chỉ tiêu v trí thanh kho n cho vay qua đêm:

Khả năng thanh khoản tăng khi chỉ số này tăng.

á ứ á đã ầ ố

ỷ ố ứ á ầ ố

á ứ á

 Chỉ tiêu tỷ số chứng khoán cầm cố :

Khả năng thanh khoản tăng khi chỉ số này giảm.

ỷ ố ầ ề ế độ

ố ề

 Chỉ tiêu tỷ số thành phần biến động :

Tỷ số này giảm thể hiện yêu cầu thanh khoản giảm vì tính ổn định của tiền gửi

tăng.

18

ă ự ử ụ ố ờ

ự ụ

 Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời :

Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất,

do đó nếu chỉ tiêu “năng lực sử dụng vốn” lớn thì không tốt cho tính thanh khoản của

ngân hàng.

 Chỉ ti u “t n dụng/tiền gửi khách hàng”:

Nếu một ngân hàng có tỷ lệ “tín dụng/tiền gửi khách hàng” cao, hàm ý ngân hàng

đã sử dụng gần hết nguồn tiền huy động từ khách hàng để cho vay. Điều này có thể tiềm

ẩn rủi ro thanh khoản trong tương lai đối với ngân hàng nếu như hiện tại ngân hàng đã

đi vay hết (hay gần hết) khả năng của mình trên thị trường tiền tệ.

 Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi:

Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi = Tiền gửi không kỳ hạn/Tiền gửi có kỳ hạn

Nếu chỉ tiêu “cơ cấu tiền gửi” càng thấp, thì nhu cầu thanh khoản của ngân hàng

càng thấp.

Ngoài các chỉ tiêu thanh khoản trên, các NHTM cũng sử dụng một số tiêu chí sau

đây về mức độ an toàn trong hoạt động ngân hàng nhằm quản lý hoạt động thanh khoản.

 Vốn điều lệ :

Đây là số tiền theo pháp định khi thành lập ngân hàng mới. Ngân hàng có vốn

điều lệ càng cao thì khả năng thanh khoản càng được đảm bảo.

 Hệ số CAR :

Hệ số CAR (Capital Adequacy Ratios) phản ánh tỷ lệ vốn tự có tối thiểu ngân

hàng phải đạt được trên tổng tài sản “Có” rủi ro quy đổi.

19

 Vốn tự có/ T ng nguồn vốn huy động :

Tiêu chí này phản ánh vốn tự có chiếm tỷ lệ bao nhiêu so với tổng nguồn vốn

huy động. Ngân hàng có thể dùng vốn tự có của mình để chi trả cho các nhu cầu rút tiền

đột xuất của khách hàng. Tiêu chí này càng cao thì càng cho thấy khả năng thanh khoản

của ngân hàng càng được đảm bảo.

 Vốn tự có/ T ng tài s n “C ”:

Tiêu chí này phản ánh vốn tự có chiếm tỷ lệ bao nhiêu so với tổng tài sản “Có”.

Cũng giống như chỉ tiêu Vốn tự có/ Tổng nguồn vốn huy động, tiêu chí này càng cao thì

chứng tỏ khả năng thanh khoản của ngân hàng càng được đảm bảo.

1.3. Cơ chế truyền dẫn tiền tệ từ cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung

Ƣơng đến thanh khoản của các Ngân hàng Thƣơng mại

Như chúng ta đã biết, một trong những nguồn gốc đối với vấn đề thanh khoản

của các Ngân hàng Thương mại là sự nhạy cảm của ngân hàng trước những thay đổi

trong lãi suất, mà trong đó nguyên nhân là những thay đổi trong cơ chế điều hành lãi

suất của NHTW đã có tác động đến lãi suất trên thị trường, từ đó tác động đến nhu cầu

gửi tiền và nhu cầu vay tiền cũng như giá trị thị trường của những tài sản mà ngân hàng

dự định bán nhằm tăng cường khả năng thanh khoản và tác động trực tiếp đến chi phí

vốn trên thị trường tiền tệ. Như vậy, tồn tại một cơ chế truyền dẫn tác động các mức lãi

suất điều hành của NHTW đến lãi suất của thị trường, qua đó tác động đến hoạt động

huy động vốn và cho vay của các NHTM. Rốt cuộc, cơ chế điều hành lãi suất thay đổi

sẽ góp phần tác động lên trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Ngược lại, đến lượt nó,

tình hình thanh khoản của các NHTM là một trong những nhân tố tác động đến việc xác

định, điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất của NHTW.

Trong ngắn hạn, lãi suất của một nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào diễn biến

lạm phát và tính thanh khoản của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Các yếu tố này

không hề tách biệt nhau mà thực tế cho thấy chúng có mối liên hệ qua lại rất mật thiết

20

với nhau, đặc biệt là trong thời kỳ nền kinh tế đang phải đối mặt với mức lạm phát cao.

Trong bối cảnh lạm phát cao và khó đoán trước khiến cho người dân dè dặt hơn trong

việc gửi tiền kỳ hạn dài với lãi suất cố định. Do vậy, các khoản tiền huy động được của

các NHTM trong giai đoạn này thường mang tính ngắn hạn. Điều này tạo ra sự chênh

lệch về kỳ hạn trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng, là mầm mống cho tình trạng

thiếu hụt thanh khoản của hệ thống. Một khi niềm tin về khả năng thanh khoản của một

ngân hàng bị lung lay nó sẽ kéo theo tâm lý đám đông khuyến khích nhiều người hơn

nữa rút tiền ra khỏi hệ thống mà không cần xem xét tính thanh khoản của ngân hàng đó.

Tình trạng mất ổn định này cần có sự can thiệp kịp thời của NHTW để trấn an tâm lý và

hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, nếu không cả hệ thống ngân hàng có thể phải đối

mặt với khủng hoảng thanh khoản, mà nghiêm trọng hơn nữa là khủng hoảng ngân hàng

có thể xảy ra.

Sơ đồ 1.1.Cơ chế truyền dẫn của cơ chế điều hành lãi suất của NHTW đến thanh khoản của các NHTM

1.4. Tìm hiểu về cơ chế điều hành lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)-

Bài học kinh nghịệm sau khủng hỏang kinh tế

1.4.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ƣơng Mỹ

Ngân hàng Trung ương Mỹ thường được biết đến với tên gọi là cục dự trữ liên

bang Mỹ (viết tắt là FED) sử dụng ba công cụ chính để duy trì kiểm soát việc cung tiền

21

và tín dụng trong nền kinh tế: công cụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và lãi suất.

FED hiện đang điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng là lãi suất

quỹ dự trữ liên bang (Federal funds rate - FFR) và lãi suất chiết khấu (discount rate).

Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Fed Funds Rate)

Các NHTM của Mỹ bị buộc phải giữ một lượng tiền mặt nhất định tại FED trên

tổng số tiền gửi không kỳ hạn, ít nhất phải bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà FED đặt ra

và được gọi là “ Fed funds”. Khi một NHTM có nguy cơ không đảm bảo được tỷ lệ dự

trữ bắt buộc thì ngân hàng đó phải vay lượng “Fed funds” còn thừa của các ngân hàng

khác. Lãi suất cho vay “Fed funds” được FED ấn định và gọi là lãi suất quỹ dự trữ liên

bang (Fed funds rate - FFR). FFR được Ủy ban thị trường mở (FOMC) công bố sau các

phiên họp định kỳ và nó không mang tính chất ấn định cụ thể mà thực chất chỉ là lãi suất

mục tiêu để FED thực hiện giao dịch trên thị trường mở nhằm đạt đến lãi suất mục tiêu đã công bố.

Lãi suất chiết khấu (Discount rate)

Cho vay chiết khấu như một van an toàn trong việc làm giảm áp lực trên thị

trường dự trữ của các ngân hàng, mở rộng tín dụng từ đó có thể giúp làm giảm căng

thẳng thanh khoản cho một tổ chức nhận tiền gửi cụ thể và cho hệ thống ngân hàng nói

chung. Các chương trình tín dụng áp dụng thông qua cửa sổ chiết khấu bao gồm:

 Ch ơng trình t n dụng chính: được áp dụng cho các tổ chức nhận tiền gửi đủ điều

kiện vay thời hạn cực ngắn, thường là vay qua đêm, ở mức lãi suất cao hơn lãi suất quỹ

dự trữ liên bang (FFR). Chương trình tín dụng chính giúp các tổ chức nhận tiền gửi bù

đắp thiếu hụt vốn tạm thời hoặc tài trợ cho việc duy trì dự trữ bắt buộc.

 Ch ơng trình t n dụng thứ cấp: dùng để áp dụng cho các tổ chức nhận tiền gửi

không đủ điều kiện để vay theo chương trình tín dụng chính. Đây là chương trình mở

22

rộng, cung cấp các khoản vay có thời hạn cực ngắn, thường là qua đêm, với lãi suất cao

hơn lãi suất tín dụng chính và cũng nhắm đến việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản dự

phòng của các tổ chức nhận tiền gửi. Tuy nhiên, FED không cho phép các tổ chức nhận

tiền gửi sử dụng tín dụng thứ cấp để tài trợ cho việc mở rộng tài sản (cho vay lại). FED

sẽ giám sát các tổ chức nhận tiền gửi sử dụng tín dụng thứ cấp một cách chặt chẽ hơn so

với tín dụng chính.

 Ch ơng trình t n dụng thời vụ: được thiết kế để hỗ trợ các tổ chức nhận tiền gửi

quy mô nhỏ nhằm quản lý biến động theo thời vụ của các khoản tiền huy động và các

khoản cho vay. Các tổ chức nhận tiền gửi dự định vay tiền theo chương trình tín dụng

thời vụ phải đệ trình chương trình vay với FED để đạt được thỏa thuận đầu kỳ.

 Ch ơng trình t n dụng khẩn cấp : cho vay dưới dạng này xảy ra chỉ khi nào theo

đánh giá của FED, người đi vay không thể vay được từ các nguồn vốn khác và nếu không cung cấp tín dụng sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Nguyên lý điều hành lãi suất của FED

Nhằm để đáp ứng nhu cầu bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, các NHTM có thể

vay từ Fed hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng, trong đó, lãi suất liên ngân hàng

thường cao hơn FFR vì vấn đề rủi ro. Mặt khác, khi các NHTM Mỹ có nguy cơ thiếu

thanh khoản, họ có thể vay tiền từ hai nguồn: cửa sổ chiết khấu của FED (discount

window) hoặc trên thị trường liên ngân hàng. Về nguyên tắc, lãi suất liên ngân hàng

thông thường sẽ thấp hơn lãi suất chiết khấu vì nếu lãi suất liên ngân hàng cao hơn lãi

suất chiết khấu, các trung gian tài chính sẽ không vay liên ngân hàng mà sẽ vay từ FED

để được hưởng lãi suất chiết khấu thấp hơn.

23

Nguyên lý điều hành lãi suất của FED

Lãi suất chiết khấu (Discount rate)

Thông th ờng, lãi suất liên ngân hàng biến động trong kho ng lãi suất chiết khấu và lãi suất quỹ dự trữ liên bang

Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Fed Funds rate)

FED “bảo vệ” lãi suất chiết khấu đã ấn định thông qua chương trình cho vay

chiết khấu và “bảo vệ” lãi suất FFR đã công bố thông qua nghiệp vụ thị trường mở.

Điều đó có nghĩa là FED cam kết thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng cho các

NHTM trong mọi trường hợp. Cách điều hành này của FED sẽ khiến cho lãi suất liên

ngân hàng luôn có xu hướng biến động giữa lãi suất FFR (có vai trò như lãi suất sàn, trừ

giai đoạn khủng hoảng tài chính vừa qua) và lãi suất chiết khấu (có vai trò như lãi suất

trần). Vì gần như tất cả các loại lãi suất thương mại khác đều lấy lãi suất liên ngân hàng

làm chuẩn nên khi FED thay đổi FFR và lãi suất chiết khấu thì về bản chất FED đã làm

thay đổi lãi suất thương mại trên toàn bộ thị trường vốn của Mỹ. Điều đó có nghĩa là

FED thực thi các chính sách tiền tệ của mình thông qua việc điều hành hai lãi suất cơ

bản nói trên hoàn toàn qua cơ chế thị trường.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm từ cách điều hành lãi suất của FED

Từ thực tế điều hành của Fed trong thời gian vừa qua, chúng ta có thể rút ra một

số kinh nghiệm cho việc điều hành lãi suất của Việt Nam như sau:

Một là, cơ chế điều hành lãi suất của Fed được thực hiện qua việc định hướng lãi

suất mục tiêu bằng nghiệp vụ thị trường mở đã tạo ra sự linh hoạt và nhịp nhàng trong

quá trình truyền dẫn tiền tệ từ cơ chế điều hành lãi suất của Fed đến mặt bằng lãi suất

của thị trường với hiệu quả cao. Đây có thể xem là định hướng điều hành lãi suất mà

NHNN Việt Nam cần phải xem xét trong tương lai gần.

Hai là, cần cân nhắc độ trễ của chính sách cũng như tác dụng phụ đi kèm.

24

Để chống suy giảm kinh tế, kích thích đầu tư, NHTW thường thực hiện CSTT

nới lỏng bằng cách cắt giảm lãi suất, thậm chí là đến mức thấp nhất. Trong giai đoạn

khủng hoảng tài chính vừa qua, Fed đã duy trì mức lãi suất cơ bản thấp gần bằng 0%

(xem Phụ lục 1: Diễn biến lãi suất chiết khấu và lãi suất quỹ dự trữ liên bang Mỹ từ

2007 đến nay) với mong muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo đà phục hồi sau khủng

hoảng. Tuy nhiên, việc duy trì lãi suất ở mức thấp này có thể là một con dao hai lưỡi, về

lâu dài có thể gây tổn thương cho nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi mong manh

của Mỹ do có thể dẫn tới tình trạng lạm phát và tạo ra các bong bóng đầu cơ mới. Bên

cạnh đó, lãi suất thấp khuyến khích người dân và các doanh nghiệp ỷ lại vào các khoản

nợ và đòn bẩy tài chính của chính phủ. Như vậy, có thể thấy rằng bất kỳ chính sách nào

cũng có tính hai mặt của nó và sự thận trọng không bao giờ là thừa.

Sau giai đoạn thực hiện CSTT nới lỏng, các NHTW sẽ từng bước thực hiện

CSTT theo hướng thắt chặt hơn. Quá trình này cần được cân nhắc theo mức độ phục hồi

kinh tế của từng quốc gia để không làm bóp nghẹt sự phục hồi của nền kinh tế. Đây là

vấn đề Việt Nam cần phải xem xét khi nền kinh tế đang từng bước thoát khỏi thời kỳ

suy giảm. Nếu tiếp tục nới lỏng, tổng lượng tiền trong nền kinh tế sẽ tăng thêm trong khi

các yếu tố tiềm ẩn của lạm phát vẫn còn, nhưng nếu thắt chặt thì sản xuất chưa kịp thoát

khỏi đình trệ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn đúng vào lúc cần

vốn.

Ba là, cần điều hành lãi suất theo hướng công khai, minh bạch hóa thông tin và

có lộ trình trước mỗi động thái điều chỉnh lãi suất điều hành nhằm tránh gây sốc cho thị

trường. Trong lịch sử của FED, một chu kỳ thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ có thể làm lãi

suất thay đổi hơn 10% (gần đây là 4-5%) nhưng chưa bao giờ, ngay cả trong các cuộc

khủng hoảng, FED đã từng cắt hay tăng lãi suất quá 1% trong một lần thay đổi FFR.

Thường một chu kỳ cắt hay tăng lãi suất được rải đều trong khoảng 5-15 lần thay đổi,

mỗi lần từ 0.25% đến 0.5%. Việc giãn các thay đổi lãi suất như vậy giúp các NHTM có

25

thời gian thích ứng với môi trường tiền tệ mới mà FED mong muốn và giúp cho sự phân

bổ lại thanh khoản trong nền kinh tế với tình hình lãi suất mới không xảy ra quá đột

ngột. Bên cạnh việc giãn các hoạt động cắt hoặc tăng lãi suất, FED còn tìm cách “gợi ý”

cho các NHTM biết trước xu hướng điều hành tiền tệ của mình bằng các thông báo về

quan điểm tiền tệ trong các biên bản họp được công bố ra công chúng và những phát

biểu có tính toán của các quan chức FED. Hành động này cũng góp phần củng cố niềm

tin của người dân và các NHTM vào khả năng cũng như sự nhất quán trong điều hành

của NHTW. Nhờ đó, hiệu lực và hiệu quả tác động của cơ chế điều hành lãi suất được

gia tăng.

Bốn là, để giải quyết vấn đề căng thẳng thanh khoản của các NHTM mà nguyên

nhân xuất phát từ những động thái điều hành của NHTW trong giai đoạn khủng hoảng,

NHTW cần thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng đối với hệ thống ngân hàng.

Với những chia sẻ kinh nghiệm trong công tác điều hành lãi suất của FED trên

đây sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong tương lai.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Chương 1 đã cung cấp cho chúng ta những nền tảng lý thuyết mang tính tổng

quan về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW cũng như hoạt động thanh khoản của các

NHTM. Qua đó cho thấy mối liên hệ tác động qua lại giữa cơ chế điều hành lãi suất của

NHTW và hoạt động thanh khoản của NHTM. Mối quan hệ tác động này sẽ được phân

tích cụ thể hơn trong chương 2 trên cơ sở phân tích tác động của cơ chế điều hành lãi

suất của NHNN đến hoạt động thanh khoản của các NHTM Việt Nam.

26

CHƢƠNG 2

TÁC ĐỘNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC

ĐẾN THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tư cách là Ngân hàng Trung Ương của nước

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mang trách nhiệm vô cùng quan trọng trong việc

điều hành chính sách tiền tệ quốc gia đi theo mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm

chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển tế xã hội. Trong đó, điều hành lãi suất là một

công cụ đắc lực để NHNN thực thi chính sách tiền tệ góp phần to lớn cho việc đạt được

các mục tiêu đã chọn. Việc thực hiện một cơ chế điều hành lãi suất thích hợp là nhiệm

vụ vô cùng quan trọng và phức tạp của NHNN, đòi hỏi sự linh hoạt, kịp thời trong quá

trình điều hành.

2.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô và cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc

Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay

Liên hệ với thực tiễn điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam hiện nay, các loại

lãi suất điều hành chủ yếu đã và đang được NHNN sử dụng để can thiệp vào thị trường

tiền tệ bao gồm: lãi suất cơ bản; lãi suất tái cấp vốn; lãi suất tái chiết khấu; lãi suất cho

vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn

trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng; lãi

suất thị trường mở (lãi suất OMO). Với các loại lãi suất điều hành này, NHNN đã vận

dụng một cách linh hoạt nhằm định hướng lãi suất trên thị trường tiền tệ và được cụ thể

hóa trong Điều 12, Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010.

Có thể nói trong thời gian hơn 5 năm qua, trước những biến động khôn lường của

kinh tế thế giới và khu vực, cũng như diễn biến phức tạp của kinh tế vĩ mô trong nước,

NHNN đã có sự điều chỉnh linh hoạt trong cơ chế điều hành lãi suất hướng đến mục tiêu

kiểm soát tốt lạm phát và đảm bảo tăng trưởng kinh tế. (xem thêm Phụ lục 2: Cơ chế

27

điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay). Và theo

đó, các mức lãi suất điều hành cũng đã được NHNN điều chỉnh một cách khéo léo qua

18 16 14 12 10 8 6 4 2 0

2007

2008

2009

2010

2011 T6/2012

Lãi suất cơ bản

Lãi suất chiết khấu

Lãi suất cho vay qua đêm

Lãi suất tái cấp vốn

từng thời kỳ phù hợp với xu hướng thắt chặt hay mở rộng của CSTT quốc gia.

Nguồn : T ng h p từ website của NHNN [31]

Đồ thị 2.1. Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ năm 2007 đến

tháng 6/2012

Nếu như trong năm 2007, NHNN đã giữ ổn định các mức lãi suất điều hành

nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường, đồng thời thống nhất thực hiện cơ chế lãi

suất thoả thuận trong việc huy động tiền gửi và cho vay thì từ năm 2008 đến nay, trước

áp lực leo thang của lạm phát trong nước và tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu,

NHNN đã chủ động điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất của mình, cụ thể là :

- Đối với lãi suất huy động : Sau một thời gian áp dụng cơ chế điều hành lãi suất

cơ bản bằng đồng Việt nam kể từ tháng 5 năm 2008 nhằm để ngăn chặn cuộc đua lãi

suất huy động giữa các NHTM, cơ chế này đã bộc lộ nhiều hạn chế và do đó được thay

thế bằng cơ chế trần lãi suất huy động đang được duy trì cho đến nay. Việc chủ động

điều chỉnh giảm dần mức trần lãi suất huy động theo diễn biến lạm phát cũng đã và đang

được NHNN thực hiện một cách thường xuyên trong nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất cho

28

vay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.

- Đối với lãi suất cho vay: Để phù hợp với tiến trình tự do hóa lãi suất của nước

ta, NHNN cũng đã không còn áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt

nam và tiến tới thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận, trong đó, diện đối tượng

chịu sự điều chỉnh ngày càng được mở rộng dần từ năm 2009 cho đến nay.

Chúng ta có thể tóm tắt diễn biến cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong thời

gian vừa qua qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 2.1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN từ năm 2007 đến nay

2.2. Phân tích tác động cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc đến

thanh khoản của các Ngân hàng Thƣơng mại giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay

Trước một loạt những động thái điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN trong thời gian vừa qua, hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động tín dụng

của NHTM đã phải gánh chịu một sự tác động không nhỏ, mà trước hết là tác động đến

chi phí vốn đầu vào (lãi suất huy động) và thu nhập đầu ra (lãi suất cho vay) của các

NHTM, qua đó tác động đến tình hình thanh khoản của các NHTM.

29

25.00

20.00

15.00

10.00

5.00

0.00

8 0 0 2 / 7 T

8 0 0 2 / 9 T

7 0 0 2 / 1 T

7 0 0 2 / 3 T

7 0 0 2 / 5 T

7 0 0 2 / 7 T

8 0 0 2 / 1 T

8 0 0 2 / 3 T

9 0 0 2 / 3 T

9 0 0 2 / 5 T

9 0 0 2 / 7 T

0 1 0 2 / 1 T

0 1 0 2 / 3 T

1 1 0 2 / 1 T

0 1 0 2 / 7 T

0 1 0 2 / 9 T

0 1 0 2 / 5 T

1 1 0 2 / 5 T

1 1 0 2 / 7 T

1 1 0 2 / 9 T

7 0 0 2 / 1 1 T

8 0 0 2 / 1 1 T

9 0 0 2 / 1 1 T

0 1 0 2 / 1 1 T

1 1 0 2 / 1 1 T

8 7 9 0 0 0 0 0 0 2 2 2 / / / 5 9 1 T T T Lãi suất cho vay bình quân

9 1 0 1 0 0 2 2 / / 9 3 T T Lãi suất huy động bình quân

2.2.1. Diễn biến lãi suất trên thị trƣờng giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay

Nguồn: T ng h p từ các báo cáo th ờng ni n của NHNN đăng tr n website của NHNN

[31], Tạp ch ngân h ng [14]

Đồ thị 2.2. Diễn biến lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân của

các NHTM từ năm 2007 đến nay

2.2.1.1. Diễn biến lãi suất trên thị trƣờng huy động vốn từ dân cƣ và các tổ chức

kinh tế

Từ năm 2007 cho đến nay, sau một loạt các động thái của NHNN trong công tác

điều hành chính sách tiền tệ nói chung và cơ chế điều hành lãi suất nói riêng, lãi suất

trên thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế (hay còn gọi là thị trường

1) diễn biến khá phức tạp. Trong đó, nhiều thời điểm lãi suất huy động tăng cao đột biến

và song hành với nó là những cuộc đua lãi suất huy động giữa các NHTM, điển hình là

giữa năm 2008, cuối năm 2010 và năm 2011 là giai đoạn căng thẳng thanh khoản của hệ

thống các NHTM (xem thêm Phụ lục 3: Diễn biến lãi suất trên thị trường huy động vốn

từ dân cư và các tổ chức kinh tế).

Diễn biến các cuộc đua lãi suất huy động năm 2008, 2010 hay năm 2011 có

nhiều điểm tương đồng, chủ yếu xuất phát từ bối cảnh lạm phát cao và do NHNN đã

30

thực hiện một loạt các giải pháp thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Việc huy động

vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó trong khi hoạt động tín dụng vẫn rất nóng kể từ

cuối năm 2007, các NHTM không còn biện pháp nào khác ngoài việc tăng lãi suất huy

động để cải thiện vấn đề thanh khoản, và từ đó các cuộc đua lãi suất đã hình thành.

Cuộc đua lãi suất huy động ban đầu xuất phát từ nhóm ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ

gặp khó khăn thanh khoản và sau đó nhóm ngân hàng dẫn đầu cũng tham gia vào các

cuộc đua này với mục tiêu giữ chân khách hàng.

31

Bảng 2.1. Diễn biến cuộc đua lãi suất huy động năm 2008

Tháng 7 đến cuối

Thời gian

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 3

Tháng 5

Tháng 6

năm

NHNN 4 lần giảm

Bối cảnh

Xu

hướng

lạm

Ngày 16/05 NHNN

NHNN nâng LSCB từ

NHNN rút tiền khỏi

NHNN ban hành

các mức lãi suất điều

vĩ mô và

phát tăng cao. Lãi

quy định cơ chế điều

chính sách thắt

lưu thông bằng cách

12% -14%

hành

cơ chế

suất cơ bản tăng

hành lãi suất cơ bản

phát hành 20.300 tỷ

chặt tiền tệ thông

điều

nhẹ từ 8.25% lên

bằng đồng Việt Nam

VND tín phiếu bắt

qua tăng các mức

hành lãi

8.75%/năm

và nâng LSCB từ

lãi suất chủ chốt

buộc

suất của

8,75% lên 12%

từ 1% -2,5%

NHNN

Lãi suất huy động

NHTMCP

ngoài

Hiện

tượng khan

Việc tăng lãi suất cơ

Cuộc đua lãi suất có

Phản

Đỉnh điểm của cuộc đua

trên

thị

trường

quốc doanh mở

hiếm tiền đồng trên

bản là cơ sở cho các

dấu hiệu chững lại, lãi

ứng của

lãi suất 2008, lãi suất huy

xoay quanh mức

đầu cuộc đua lãi

toàn hệ thống. Các

NHTM công khai

suất huy động giảm

các

động ở một vài ngân hàng

bình quân 8.5%

suất huy động,

ngân hàng vừa và

tăng lãi suất huy

mạnh khoảng 9 đến

NHTM

vừa và nhỏ

lên đến

tiếp theo là hàng

nhỏ đẩy

lãi suất

động lên mức 16%

9.5%/năm so với đỉnh

ngưỡng 19- 20%. Những

hoạt ngân hàng

tăng lên 14%. Các

- 17%. Tuy nhiên

điểm những tháng đầu

ngân hàng dẫn đầu cũng

khác

ngân hàng lớn cũng

một số ngân hàng

năm

tăng lãi suất huy động để

rục

rịch

tăng

lãi

nhỏ đã tăng đến

thu hẹp khoảng cách.

suất.

gần 18%.

Nguồn : Tác gi tự t ng h p

32

Bảng 2.2. Diễn biến cuộc đua lãi suất năm 2010

Thời gian

Những tháng đầu năm

Tháng 11

Tháng 12

Lạm phát có xu hướng tăng cao hơn mức dự kiến.

Lạm phát vẫn có xu hướng tăng cao.

Ngày 14/12/2010, NHNN đứng ra

Bối cảnh vĩ

thống nhất mức trần lãi suất

mô và cơ

Ngày 05/11 NHNN nâng một số lãi suất chủ

đồng thuận 14%.

chế điều

chốt.

hành lãi

Hiệp hội ngân hàng kêu gọi đồng thuận trần lãi

suất của

suất ở mức 12%.

NHNN

10 tháng đầu năm 2010 lãi suất tương đối ổn định.

Một số ngân hàng vừa và nhỏ lách

Phản ứng

Hiện tượng lách trần lãi suất huy động

trần lãi suất đồng thuận và thường đi

của các

Đầu tháng 11 lãi suất huy động khoảng 10% -

vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức.

đầu công bố mức lãi suất cao nhất

NHTM

11%

Lãi suất huy động từ 15% - 17%

thị trường.

vượt xa mức trần lãi suất đồng thuận.

Lãi suất huy động ở mức 13,2%-

Cuộc đua lãi suất lan tỏa trên toàn hệ

13,9%

thống với sự tham gia của cả những

ngân hàng dẫn đầu.

Nguồn : Tác gi tự t ng h p

33

Bảng 2.3. Diễn biến cuộc đua lãi suất năm 2011

Thời gian

Hai tháng đầu năm

Tháng 3

Tháng 09

Lạm phát vẫn tiếp tục xu hướng tăng cao so

NHNN ban hành Thông

tư 02/TT-

NHNN ban hành Chỉ thị 02/2011/CT-

Bối cảnh vĩ

với năm 2010

NHNN ngày 3/3/2011 quy định trần lãi

NHNN ngày 7/9/2011, trong đó quy định

mô và cơ chế

suất huy động là 14%/năm

rõ các hình thức xử phạt các tổ chức tín

điều hành lãi

dụng huy động vượt trần

suất của

NHNN

-Lãi suất huy động phổ biến ở mức 14-

Lãi suất huy động luôn có tình trạng

Phản ứng

Lãi suất huy động VND chính thức quay

16%, có lúc bị đẩy lên tới 18-19% bất chấp

vƣợt trần với nhiều phương thức lách

của các

về mức 14%

đồng thuận lãi suất của các thành viên Hiệp

trần khác nhau

NHTM

hội Ngân hàng trước đó.

- Lãi suất huy động không kỳ hạn đã tăng

cao từ 3%/năm lên 8-9%/năm

Nguồn : Tác gi tự t ng h p

34

25%

2.2.1.2. Diễn biến lãi suất huy động trên thị trƣờng liên ngân hàng

LÃI SUẤT LIÊN NGÂN HÀNG

20%

15%

10%

5%

0%

T9/08

T1/09

T1/10

T1/11 T1/11

T1/12

T6/12

Qua đêm

1 tuần

1 tháng

3 tháng

Nguồn : T ng h p từ website của NHNN [31]

Đồ thị 2.3. Diễn biến lãi suất liên ngân hàng từ năm 2008 đến nay

Theo các báo cáo thường niên của NHNN, các giao dịch trên thị trường liên ngân

hàng qua các năm tập trung ở các kỳ hạn ngắn như qua đêm, 1 tuần, 3 tuần, 1 tháng và 3

tháng cho thấy vốn vay trên thị trường ngân hàng chủ yếu là để đáp ứng khả năng thanh

khoản của các NHTM. Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (hay còn gọi là

thị trường 2) trong vòng hơn 5 năm qua cũng thường xuyên biến động và có khi bị đẩy

lên cao vượt qua các mức lãi suất điều hành, nhất là vào những thời điểm mà việc huy

động vốn trên thị trường 1 của các NHTM gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung, diễn biến

lãi suất trên thị trường 2 trong thời gian vừa qua nổi lên một số điểm đáng chú ý như

sau:

 Giữa năm 2008, năm 2010 và cuối năm 2011, cùng với xu hướng gia tăng lãi suất

huy động của khu vực dân cư và sự điều chỉnh của NHNN trong điều hành lãi suất, lãi

suất liên ngân hàng tăng cao đột biến, có thời điểm mức lãi suất vay qua đêm trên thị

trường liên ngân hàng tăng lên 30-40%/năm. Đây là những thời điểm các NHTM vừa và

nhỏ gặp khó khăn trong thanh khoản, còn các NHTM dẫn đầu chủ yếu là nhóm ngân

35

hàng quốc doanh với ưu thế lớn về nguồn vốn huy động từ khách hàng cũng như được

tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn vay từ NHNN đã nhận được khoản lợi lớn từ việc cho

vay trên thị trường 2.

 Trong 6 tháng đầu năm năm 2012, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc xuống mức

thấp kỷ lục khi lãi suất kỳ hạn qua đêm về dưới mức 1%; kỳ hạn 1 tuần chỉ còn 1,7%;

kỳ hạn 2 tuần chỉ còn 2,5%. Việc lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp cho thấy một thực

tế đáng lo ngại trong thời điểm hiện tại là tín dụng chưa tăng trưởng, tiền dư thừa và

đang luẩn quẩn trong hệ thống. Mặt khác, hiện các giao dịch vốn trên thị trường liên

ngân hàng chủ yếu diễn ra giữa các ngân hàng trong nhóm G12 là những ngân hàng

đang trong tình trạng dư thừa vốn nên lãi suất giảm là điều tất yếu. Còn đối với những

ngân hàng nhỏ, dù có gặp khó khăn về thanh khoản cũng không thể vay được vốn trên

thị trường này nếu không có tài sản đảm bảo. Điều đó cho thấy lãi suất trên thị trường

liên ngân hàng không phản ánh đúng thực chất vấn đề thanh khoản hiện nay của hệ

thống ngân hàng.

25%

20%

15%

10%

5%

0%

7 0 0 2 / 7 T

7 0 0 2 / 1 T

7 0 0 2 / 3 T

7 0 0 2 / 5 T

7 0 0 2 / 9 T

8 0 0 2 / 3 T

8 0 0 2 / 7 T

8 0 0 2 / 5 T

9 0 0 2 / 1 T

9 0 0 2 / 5 T

9 0 0 2 / 7 T

0 1 0 2 / 3 T

0 1 0 2 / 5 T

0 1 0 2 / 9 T

1 1 0 2 / 1 T

1 1 0 2 / 3 T

1 1 0 2 / 5 T

1 1 0 2 / 7 T

1 1 0 2 / 9 T

7 0 0 2 / 1 1 T

8 0 0 2 / 1 1 T

9 0 0 2 / 1 1 T

0 1 0 2 / 1 1 T

1 1 0 2 / 1 1 T

8 8 9 0 0 0 0 0 0 2 2 2 / / / 1 9 3 T T T Lãi suất cho vay bình quân

0 9 0 1 0 1 0 0 0 2 2 2 / / / 7 9 1 T T T Lãi suất chiết khấu

Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất cơ bản

2.2.2. Diễn biến lãi suất cho vay trên thị trƣờng

Nguồn: T ng h p từ website của NHNN [31]

Đồ thị 2.4. Diễn biến lãi suất cho vay bình quân của các NHTM từ năm 2007 đến

nay trong mối quan hệ với các mức lãi suất điều hành

36

Dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, theo đà tăng giảm của

lãi suất huy động trên thị trường, lãi suất cho vay trên thị trường trong thời gian vừa qua

cũng biến động mạnh, tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các NHTM

cũng như các đối tượng có nhu cầu tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Trong đó, lãi suất

cho vay trên thị trường có xu hướng dịch chuyển khá nhịp nhàng theo xu hướng biến

động của các mức lãi suất điều hành. Có thể nhận thấy rõ 2 cực điểm biến động lãi suất

cho vay trên thị trường trong thời gian qua là:

 Lãi suất cho vay tăng cao, có thời điểm lên mức trên 20%/năm vào năm 2008,

trước thời điểm áp dụng mức trần lãi suất cho vay theo cơ chế điều hành lãi suất cơ bản

bằng đồng Việt Nam của NHNN, và giảm dần sau đó theo đà giảm của lãi suất cơ bản

do NHNN công bố. Tuy nhiên, do chi phí huy động tăng cao, tiệm cận với mức trần lãi

suất cho vay nên các NHTM đã áp dụng nhiều chính sách làm tăng chi phí thực đi vay

dưới nhiều hình thức như: quy định thêm nhiều loại phí mới chẳng hạn như phí quản lý

khoản vay, phí cấp giới hạn tín dụng…

 Khi NHNN quay trở lại áp dụng cơ chế thỏa thuận lãi suất cho vay vào năm 2009

cho đến nay thì mặt bằng lãi suất cho vay bị đẩy lên mức cao nhằm bù đắp các chi phí

huy động thực tế của các NHTM khi tham gia vào các cuộc đua lãi suất huy động. Mặt

bằng lãi suất cho vay bị đẩy lên cao đã khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn

về mặt tài chính còn ngân hàng phải loay hoay tìm giải pháp đầu ra và khắc phục tình

trạng nợ xấu ngày càng trầm trọng hơn theo những khó khăn tài chính của các doanh

nghiệp.

Trong năm 2012 này, NHNN cùng các NHTM đang trong nỗ lực tìm phương án để

giảm mặt bằng lãi suất cho vay cho các doanh nghiệp theo đà giảm dần của trần lãi suất

huy động, đánh dấu một tín hiệu tích cực với bài toán chi phí tài chính của doanh nghiệp

trong 2 quý cuối năm 2012 này cũng như cho những năm tiếp theo.

Như vậy, qua những phân tích trên đây cho thấy dưới tác động của cơ chế điều hành

lãi suất của NHNN, lãi suất trên thị trường trong thời gian vừa qua diễn biến khá phức

37

tạp, trong đó có những giai đoạn biến động đột biến xuất hiện cùng với tình trạng căng

thẳng thanh khoản của hệ thống NHTM. Có thể điểm qua vài nét tiêu biểu về diễn biến

lãi suất trên thị trường tiền tệ trong thời gian vừa qua như sau:

 Diễn biến lãi suất huy động và lãi suất cho vay trên thị trường biến động cùng

chiều với diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN, tuy nhiên mức lãi suất thị

trường vẫn giữ một khoảng cách khá xa với các mức lãi suất điều hành, và do đó làm

giảm hiệu quả công tác điều hành lãi suất của NHNN.

 Nhiều cuộc đua lãi suất được phát động trong thời gian vừa qua khiến cho lãi suất

huy động tăng cao và tiệm cận dần với mức lãi suất cho vay làm cho chênh lệch giữa hai

loại lãi suất này ngày càng bị thu hẹp dần cho thấy thực trạng thanh khoản kém của hệ

thống, đặc biệt là đối với các ngân hàng vừa và nhỏ.

Bảng 2.4.Chênh lệch lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình

Năm

quân của các NHTM từ 2007 đến 2011

2007

2008

2009

2010

2011

Chênh lệch lãi suất huy động bình

4.45%

4.62%

1-1.5%

2.5%

5.23%

quân và cho vay bình quân

Nguồn: Bài viết “Hoạt động ngân hàng Việt Nam- Nhìn lại năm 2011 v một số gi i pháp cho

năm 2012”, NGND.PGS.TS. Tô Ngọc H ng v ThS.Nguyễn Đức Trung đăng tr n website của

Học viện Ngân hàng [30].

 Đường cong lãi suất có dạng đường thẳng nằm ngang suốt một thời gian dài khi

mà lãi suất huy động các kỳ hạn đều bằng nhau và bằng với mức trần lãi suất huy động.

2.2.3. Tình hình thanh khoản của các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến nay

Song song với những động thái điều chỉnh linh hoạt trong cơ chế điều hành lãi

suất của NHNN, diễn biến lãi suất trên thị trường trong 5 năm qua cũng đã biến động

khá phức tạp, đón đầu nhiều đợt tăng hoặc giảm mạnh, qua đó tác động đến tình hình

38

huy động vốn cũng như hoạt động cho vay của các NHTM. Hoạt động thanh khoản của

các NHTM do đó thường xuyên phải đối mặt với tình trạng căng thẳng, đặc biệt là các

ngân hàng vừa và nhỏ, đã bộc lộ những yếu kém nội tại của hệ thống ngân hàng nước ta

hiện nay.

2.2.3.1. Tình hình huy động vốn

Hoạt động huy động vốn của các NHTM Việt Nam trong thời gian vừa qua cho

thấy một thực trạng là quy mô huy động ngày càng giảm, trong đó huy động trên thị

trường 1 kém bền vững, lệ thuộc vào vốn huy động từ thị trường 2 và có sự sai lệch về

kỳ hạn trong cơ cấu huy động vốn của các NHTM. Cụ thể:

Một là, mặc dù quy mô huy động vốn trong toàn hệ thống không ngừng gia tăng

trong vòng hơn 5 năm qua, với tốc độ tăng trung bình hơn 35%/năm nhưng tốc độ tăng

trưởng huy động luôn có sự sụt giảm so với các năm trước đó. Áp lực về doanh số huy

động vốn ngày càng gia tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân:

 Hoạt động huy động vốn của các NHTM gặp nhiều khó khăn trong điều kiện lãi

suất huy động biến động với mức lãi suất tăng cao đặc biệt là trong các cuộc chạy đua

lãi suất giữa năm 2008, năm 2010 và năm 2011 làm cho chi phí đầu vào của các NHTM

tăng.

Với mục tiêu điều hành lãi suất vẫn đảm bảo thực dương của NHNN, mặc dù

trong bối cảnh lạm phát cao như trong thời gian qua, kênh gửi tiền vào ngân hàng để

hưởng lãi suất được xem là kênh đầu tư hấp dẫn và an toàn nhất trong bối cảnh các thị

trường được xem là sự lựa chọn đầu tư thay thế như thị trường chứng khoán, vàng...

đang gặp khó khăn và thị trường bất động sản đóng băng trong một thời gian dài. Chính

vì lẽ đó, yếu tố lãi suất đã trở thành yếu tố quan trọng tác động đến quyết định gửi tiền

của các tổ chức kinh tế và khu vực dân cư. Người gửi tiền trở nên phản ứng nhạy cảm

hơn mức bình thường khi lãi suất tăng hay giảm. Khi NHNN có những động thái điều

39

chỉnh các mức lãi suất điều hành, tiếp theo đó là hành động điều chỉnh lãi suất huy động

của các NHTM, quy mô huy động vốn của các NHTM ngay lập tức bị điều chỉnh và có

sự dịch chuyển vốn giữa các ngân hàng, trong đó có sự dịch chuyển vốn phổ biến từ

nhóm các ngân hàng lớn sang các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ có mức lãi suất huy

động cao hơn bình quân của thị trường. Điều này làm cho ngân hàng lớn mặc dù không

gặp phải vấn đề thanh khoản nhưng cũng không thể không tăng lãi suất huy động nhằm

để giữ khách hàng.

 Tính cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng là rất lớn: số lượng các ngân

hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài gia tăng nhanh chóng, các ngân hàng đã không

ngừng mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch; tăng cường nhiều tiện ích

dịch vụ phong phú; đồng thời đẩy mạnh các chương trình khuyến mãi .... nhằm thu hút

khách hàng.

 Với nhu cầu gia tăng vốn để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn theo thông lệ quốc

tế, và quy định trong nước là Thông tư 13 và thông tư số 19 năm 2010 nhằm góp phần

quản trị tốt rủi ro trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã không ngừng đưa ra các

giải pháp để huy động vốn hiệu quả.

Phân tích tình hình huy động vốn của 16 ngân hàng tiêu biểu đã cho thấy rõ ưu

thế huy động trên thị trường 1 luôn thuộc về nhóm các ngân hàng dẫn đầu như VCB,

CTG, ACB, MBB... Đây là nhóm ngân hàng đã khẳng định được thương hiệu của mình

và luôn duy trì ổn định được nhóm khách hàng lớn và bền vững thể hiện bằng tỷ lệ huy

động vốn từ khách hàng/Tổng nguồn vốn huy động cao và sự vượt trội về thị phần huy

động vốn trên thị trường 1 (xem Phụ lục 4: Thị phần huy động vốn của các NHTM được

khảo sát). Tại một số thời điểm cũng đã có sự chuyển dịch vốn huy động từ các NHTM

dẫn đầu sang NHTM vừa và nhỏ nhưng xu hướng này không bền vững.

40

Bảng 2.5.Tỷ lệ huy động vốn từ khách hàng/ Tổng nguồn vốn huy động

2009 68% 86% 73% 76% 65% 78% 75% 76% 81% 64% 77% 38% 95% 54% 55% 75%

MBB CTG VCB EIB ACB BIDV AGRB TCB NVB ABB KLB WEB VAB HBB HDB DCB

2007 75% 93% 81% 95% 74% 81% 76% 70% 68% 54% 68% 68% - 43% 28% 20%

2008 72% 91% 80% 91% 71% 79% 82% 77% 63% 69% 92% 58% 84% 57% 56% 52%

2010 68% 82% 74% 51% 59% 82% 79% 61% 64% 69% 72% 79% 46% 51% 46% 86%

2011 74% 75% 72% 37% 61% 78% - 54% 80% 61% 58% 74% 41% 52% 47% 68%

T6/2012 76% 81% 75% - 66% 83% - - - - - - - - - -

Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33]

Mặt khác, sự khác biệt rõ nhất trong cơ cấu huy động vốn giữa hai nhóm ngân

hàng này là nhóm ngân hàng dẫn đầu đóng vai trò của bên chuyên cho vay trên thị

trường liên ngân hàng trong khi nhóm ngân hàng vừa và nhỏ là bên chuyên đi vay trên

thị trường này. Hoạt động huy động vốn của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ bị lệ thuộc

nhiều vào việc huy động trên thị trường 2 biểu hiện qua tỷ lệ huy động trên thị trường 2/

Tổng tài sản luôn cao, kéo theo chi phí huy động vốn lớn. Chính vì vậy, lãi suất trên thị

trường liên ngân hàng đã bị đẩy cao đột biến vào những thời điểm các NHTM gặp khó

khăn về thanh khoản.

41

Bảng 2.6.Tỷ lệ vay LNH/ Gửi LNH và tỷ trọng huy động vốn trên thị

trƣờng 2/ Tổng tài sản của các NHTM từ năm 2008-2011

MBB CTG VCB EIB ACB BIDV AGRB TCB

Vay liên ngân hàng/ Gửi liên ngân hàng 2011 2008 64% 53% 114% 48% 46% 87% 111% 16% 43% 38% 62% 30% - 123% 112% 58%

2009 49% 62% 82% 36% 28% 36% 221% 39%

2010 50% 69% 75% 104% 83% 49% 54% 60%

Huy động trên TT 2 / Tổng tài sản 2011 2008 19% 19% 16% 5% 13% 12% 39% 3% 12% 9% 9% 4% - 4% 27% 15%

2009 17% 6% 15% 4% 6% 5% 9% 11%

2010 15% 10% 19% 25% 14% 8% 4% 18%

NVB ABB KLB WEB VAB HBB HDB DCB

81% 85% 38% 71% 80% 96% 107% 217%

129% 80% 81% 132% 278% 149% 85% 32%

27% 17% 11% 14% 26% 27% 21% 11%

15% 23% 27% 19% 24% 28% 28% 28%

- 75% 91% 92% 87% 89% 95% 59%

31% 15% 5% 23% 11% 35% 22% 43%

0% 24% 19% 54% 3% 26% 27% 21%

114% 121% 115% 104% 258% 254% 140% 72% Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33] v kết qu t nh toán

của tác gi

Hai là, có sự sai lệch về kỳ hạn trong cơ cấu nguồn vốn huy động của các

NTHM. Các ngân hàng chủ yếu chỉ huy động được nguồn vốn ngắn hạn do tâm lý của

người dân luôn e ngại việc gửi tiền ở kỳ hạn dài trong bối cảnh lãi suất biến động và lạm

phát cao, hầu hết người gửi tiền chọn gửi những kỳ hạn ngắn để có thể tận dụng được sự

biến động về lãi suất, đồng thời vẫn được hưởng mức lãi tương đương với những kỳ hạn

dài hơn. Điều này đã gây ra những bất ổn trong cấu trúc nguồn vốn của các ngân hàng

khi mà thị trường vốn chưa phát triển kịp trước nhu cầu tăng trưởng nóng của nền kinh

tế, gánh nặng về vốn đổ dồn về thị trường tín dụng khiến cho các NHTM đã phải sử

dụng phần lớn vốn huy động ngắn hạn từ dân cư để tài trợ cho các dự án trung và dài

hạn.

42

100%

100%

80%

80%

60%

60%

40%

40%

20%

20%

0%

0%

CTG VCB EIB NVB HBB KLB

CTG VCB EIB NVB HBB KLB

Huy động ngắn hạn

Cho vay ngắn hạn

Huy động trung và dài hạn

Cho vay trung và dài hạn

Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33] v kết

qu t nh toán của tác gi

Đồ thị 2.5. Cơ cấu huy động và cho vay theo kỳ hạn của một số NHTM năm 2011

Nhìn vào đồ thị 2.5 chúng ta thấy hầu như các NHTM chủ yếu huy động được

nguồn vốn ngắn hạn, trong khi nhóm ngân hàng dẫn đầu vẫn duy trì một tỷ lệ khá cao

nguồn vốn huy động dài hạn thì nhóm ngân hàng vừa và nhỏ có tỷ lệ này rất thấp. Khả

năng huy động được tiền gửi dài hạn thấp đồng nghĩa với nguồn huy động ngắn hạn tài

trợ cho các khoản tín dụng dài hạn sẽ tăng lên, từ đó đẩy rủi ro sai lệch cơ cấu thời hạn

của ngân hàng lên cao chính là một trong những nguyên nhân khiến cho các NHTM

luôn phải đối mặt với trạng thái căng thẳng thanh khoản trong suốt thời gian vừa qua.

2.2.3.2. Tình hình cho vay

Với mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế

toàn cầu, tốc độ tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức khá cao trong vòng 5 năm trở lại

đây, đỉnh điểm là năm 2007 với tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 53.89%. Tuy nhiên, từ

năm 2011 cho đến nay, tín dụng VND có dấu hiệu tăng chậm lại và đến hết tháng 3 năm

2012, lần đầu tiên trong vòng hơn 5 năm qua, tín dụng tăng trưởng âm, giảm 2.13% so

với cuối năm 2011. Bên cạnh nguyên nhân do khó khăn thanh khoản của một số ngân

43

hàng khiến nguồn cung tín dụng bị hạn chế còn do tác động của mặt bằng lãi suất cao

kết hợp với số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng nhiều đã làm thu hẹp đối tượng

tín dụng; nhiều ngân hàng có hiện tượng tăng tín dụng ảo vào cuối năm 2011 để lấy

khối lượng dư nợ, đón đầu chính sách giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của NHNN

trong năm 2012; tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng do NHNN công bố gần đây đã cản

trở sự tăng trưởng của hoạt động cho vay và khiến kinh doanh ngành ngân hàng tiếp tục

gặp khó khăn.

Nhìn chung, hoạt động tín dụng của các NHTM trong 5 năm qua đã chịu sự tác

động mạnh mẽ từ cơ chế điều hành của NHNN, nổi bật với một số đặc điểm như:

 Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cao hơn nhiều so với tốc độ tăng

60

50

40

30

20

10

0

2007

2008

2009

2010

2011

Jun-12

Tốc độ tăng trưởng cho vay

Tốc độ tăng trưởng huy động

GDP

CPI

M2

trưởng huy động và GDP làm tăng rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Nguồn: T ng h p từ website của NHNN [31] và T ng cục thống kê [29].

Đồ thị 2.6. Tốc độ tăng trƣởng huy động và tăng trƣởng cho vay của hệ thống

NHTM trong mối quan hệ với CPI, GDP, M2

Trong bối cảnh thị trường tài chính của nước ta chưa phát triển hoàn thiện, tín

dụng ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu

tăng trưởng kinh tế, hoạt động ngân hàng cũng phải lệ thuộc rất nhiều vào nghiệp vụ tín

dụng được thể hiện rõ qua tỷ lệ Nợ/ Tổng tài sản khá cao. Song song với quá trình tăng

44

trưởng tài sản nhanh chóng đó luôn tiềm ẩn rủi ro nhất định.

Bảng 2.7.Tốc độ tăng trƣởng tài sản và tỷ lệ nợ/ tổng tài sản của các

NHTM từ 2008 đến nay

Tốc độ tăng trƣởng tài sản

Nợ / Tổng tài sản

2008

2009

2010

2011

2008

2009 2010 2011

MBB

50%

56%

59%

27%

35% 43% 45% 42%

CTG

17%

26%

51%

25%

61% 66% 63% 63%

VCB

13%

15%

20%

19%

49% 54% 56% 56%

EIB

43%

36% 100% 40%

44% 60% 48% 41%

ACB

23%

59%

22%

37%

33% 37% 43% 37%

BIDV 21%

20%

24%

11%

65% 69% 69% 72%

AGRB 24%

20%

12%

75% 78% 81%

-

-

TCB

50%

56%

62%

20%

44% 45% 35% 35%

NVB

10%

71%

7%

12%

50% 53% 54% 57%

ABB

-21%

97%

43%

10%

48% 49% 52% 48%

KLB

34% 154% 69%

41%

75% 65% 55% 47%

WEB

106% 292%

-10% 120% 51% 17% 43% 43%

VAB

-

54%

52%

-7%

65% 76% 54% 51%

HBB

-

24%

31%

8%

45% 45% 49% 54%

HDB

-31% 100% 80%

31%

65% 43% 34% 31%

42% 30% 32% 31%

140% 63%

DCB

3%

14% Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33] v kết

qu t nh toán của tác gi .

Việc tăng cung tiền với gia tốc lớn như vậy trong khi thực lực của nền kinh tế

không mạnh, hiệu quả sử dụng vốn thấp khiến lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng

cùng nhịp với tăng cung tiền. Từ đó tất yếu dẫn tới nền kinh tế nước ta trong thời gian

vừa qua luôn phải đối mặt với nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô: lạm phát cao và có những thời

điểm nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Thực trạng này càng làm cho tính thanh

khoản của hệ thống ngân hàng càng trở nên nóng hơn vì mất cân đối giữa đầu vào và

đầu ra.

45

 Tốc độ tăng trưởng tín dụng về mặt lượng đã không đi kèm với nâng cao chất

lượng tín dụng đã gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực như: bất ổn kinh tế vĩ mô kèm theo lạm

phát cao, nguồn vốn bị tồn đọng trong hệ thống ngân hàng không được đưa vào sản xuất

kinh doanh, thanh khoản của ngân hàng gặp nhiều bất ổn, nợ xấu ngân hàng không

ngừng gia tăng……

Hậu quả của việc theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao trong những năm qua kèm

theo đó là nguy cơ cao đến từ tín dụng bất động sản và kinh doanh chứng khoán, trong

khi năng lực quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng còn thấp cùng với những biến động

bất lợi của nền kinh tế đã khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu tăng lên đáng kể và trở

thành mối nguy hại cho hệ thống ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.

Thực tế là các NHTM không hề dễ dàng trong việc xử lý vấn đề thanh khoản khi mà tỷ

lệ nợ xấu gia tăng xuất phát từ việc cấp nhiều khoản tín dụng bất động sản trong các

năm 2007 và năm 2008. Đây là một trong những vấn đề nan giải đang được các ban

ngành đưa ra mổ xẻ để tìm ra hướng giải quyết.

Tỷ lệ nợ xấu

5.00

4.00

3.00

2.00

1.00

-

2007

2008

2009

2010

2011

6T2012

Nguồn: Báo cáo ng nh ngân h ng qu 2 năm 2012 của VCBS [6]

Đồ thị 2.7. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng từ năm 2007 đến tháng 6/2012

Trên cơ sở thu thập số liệu về tỷ lệ nợ xấu của hai nhóm ngân hàng được khảo

46

sát, chúng ta cũng có thể thấy rằng tỷ lệ này của các NHTM không ngừng gia tăng qua

các năm, trong đó, tỷ lệ nợ xấu là khá cao ở nhóm ngân hàng dẫn đầu. Theo ý kiến của

nhiều chuyên gia kinh tế trong nuớc cũng như đánh giá của các tổ chức đánh giá xếp

hạng tín nhiệm quốc tế, tỷ lệ nợ xấu trên thực tế của các NHTM Việt Nam có thể cao

hơn rất nhiều lần so với các con số do các NHTM công bố cho thấy mức độ nghiêm

5.00 4.50 4.00 3.50 3.00 2.50 2.00 1.50 1.00 0.50 0.00

MBB

CTG

VCB

EIB

ACB

BIDV

TCB

NVB

ABB

KLB

HBB

HDB

DCB

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

trọng của vấn đề này đang là mối đe doạ cho tình hình thanh khoản của các NHTM.

Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33]

Đồ thị 2.8. Tỷ lệ nợ xấu của một số NHTM từ 2009-2011

Dư nợ xấu tăng không những ảnh hưởng đến dòng tiền dự kiến của ngân hàng mà

việc trích lập dự phòng cao cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn khả dụng. Đây

chính là một phần nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến thanh khoản của hệ thống,

đặc biệt là nhóm ngân hàng vừa và nhỏ trong thời gian vừa qua.

 Các NHTM chủ yếu tập trung cho vay ngắn hạn hơn là cho vay trung và dài hạn.

Doanh số cho vay của các NHTM thường tăng mạnh trong khi dư nợ bình quân tăng

chậm đồng nghĩa với việc các NHTM đang có xu hướng thu hẹp kỳ hạn cho vay.

Nguyên nhân của tình trạng này có thể xuất phát từ: (i) nguồn vốn huy động ngắn hạn

47

vẫn chiếm ưu thế trong bối cảnh lạm phát cao; (ii) các NHTM đang tìm cách khắc phục

tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho vay kéo dài trong

suốt thời gian vừa qua; (iii) các NHTM muốn kiểm soát hạn mức tăng trưởng tín dụng,

đặc biệt là vào những thời điểm cuối năm.

2.2.3.3. Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động

Một trong số những chỉ số phản ánh rủi ro thanh khoản là lượng vốn huy động

được giảm trong khi chỉ số tín dụng trên tổng huy động lại tăng. Hệ quả của sự mất cân

đối giữa tổng dư nợ tín dụng và tổng huy động vốn (trong đó tốc độ tăng trưởng huy

động thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng) là xu thế tăng cao tỷ lệ dư nợ cho vay trên

huy động, nhiều năm tỷ lệ này vượt quá 100% (xem bảng 2.9) khiến cho các ngân hàng

Việt Nam luôn phải đối mặt với áp lực thanh khoản, gây ra nhiều rủi ro cho hệ thống.

Bảng 2.8.Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2007-

T6/2012)

Năm 2007 2008 2009 2010 2011 T6/2012

Nguồn: Luận văn Thạc sỹ kinh tế “Nguyên nhân của tình trạng chạy đua lãi suất trong hệ thống NHTM

và gi i pháp chính sách”, Bùi Th Ph ơng Th o[23], “Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012, Từ bất n vĩ mô đến

con đ ờng tái cơ cấu” [20]

93% 107% 112% 102% 103.23% 90.33% LDR

Trong bối cảnh nguồn thông tin cung cấp từ các NHTM còn nhiều hạn chế, việc

xác định tỷ lệ LDR theo quy định của NHNN (Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư

19/2010/TT-NHNN) còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì lẽ đó, tác giả bài viết đã thực

hiện tính toán một cách tương đối tỷ lệ LDR của 16 NHTM được khảo sát và thu được

kết quả như sau:

48

Bảng 2.9.Tỷ lệ cho vay KH/ Huy động KH của các NHTM từ 2007-2011

2007

2008

2009

2010

2011

65.30%

57.04%

74.01%

74.23%

64.72%

MBB

89.16%

97.51% 108.81% 112.39% 112.87%

CTG

68.95%

69.15%

81.03%

83.58%

89.90%

VCB

80.24%

68.76% 101.59% 107.21% 138.89%

EIB

57.30%

53.89%

71.16%

81.54%

72.29%

ACB

98.52% 108.55% 102.95% 122.22%

97.52%

-

BIDV AGRB 106.05% 96.70% 109.31% 110.14% 65.71% 65.97%

83.69%

67.38%

70.57%

TCB

71.06%

90.55% 102.43% 100.43%

87.13%

NVB

100.35% 97.98%

85.88%

84.72%

97.86%

ABB

142.02% 132.87% 101.06% 105.31% 103.27%

KLB

109.79% 158.21% 51.87%

71.02%

70.10%

WEB

125.00% 89.04% 111.40% 139.35% 159.76%

VAB

111.24% 94.89%

96.27% 112.31% 118.70%

HBB

251.75% 142.38% 87.02%

83.86%

72.54%

HDB

194.83% 92.62%

43.59%

41.64%

49.72%

DCB

Nguồn: T ng h p từ báo cáo th ờng niên của các NHTM đăng tr n website [33] v kết qu t nh toán

của tác gi .

Kết quả khảo sát cho thấy nhóm ngân hàng dẫn đầu duy trì được tỷ lệ cho vay

khách hàng/ Huy động khách hàng tương đối thấp, vì vậy nhóm ngân hàng này có thể

sử dụng một phần tiền huy động để đầu tư vào những tài sản có tính thanh khoản

cao như trái phiếu chính phủ, trong trường hợp thiếu thanh khoản các ngân hàng này

vẫn có thể nhanh chóng chuyển các trái phiếu này thành tiền mặt thông qua hoạt động

thị trường mở. Ngược lại, những ngân hàng vừa và nhỏ có tỷ lệ LDR khá cao. Với phần

lớn tài sản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ này là những khoản cho vay là tài sản kém

linh hoạt nhất trong số các tài sản sinh lời của ngân hàng được tài trợ bởi một tỷ lệ

khá cao từ nguồn vốn huy động trên thị trường 2. Chính nguyên nhân này dẫn đến tính

kém chủ động về nguồn tài chính hỗ trợ thanh khoản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ.

Qua những phân tích trên cho thấy, việc các ngân hàng vừa và nhỏ phụ thuộc

49

nhiều vào hoạt động tín dụng nhưng không đi kèm với việc nâng cao hoạt động quản trị

rủi ro, đặc biệt đối với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản đã dẫn đến tình trạng dư nợ

xấu tăng cao và nguồn vốn mất cân đối. Đây chính là những nguyên nhân làm cho các

ngân hàng này thường xuyên phải đối mặt với tình trạng kém thanh khoản trong nhiều

năm sau đó. Một sự gia tăng tỷ lệ LDR cho thấy các ngân hàng đang có ít hơn “tấm

đệm” để tài trợ cho tăng trưởng và bảo vệ mình khỏi nguy cơ rút tiền gửi đột ngột, nhất

là các ngân hàng dựa quá nhiều vào nguồn tiền gửi để tài trợ cho tăng trưởng. Vì thế, khi

tỷ lệ LDR tăng thì tính thanh khoản của ngân hàng đã giảm đi một cách tương ứng.

2.3. Đánh giá chung tác động cơ chế điều hành lãi suất của NHNN từ năm 2007

đến nay

Từ những phân tích trên đây, chúng ta đã nhận thấy được những mặt tác động

của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đến tình hình thanh khoản của các NHTM như

thế nào. Bên cạnh những tác động tích cực, vẫn còn những hạn chế nhất định cần tìm ra

nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong thời gian tới, góp phần nâng cao hiệu quả

điều hành chính sách của NHNN, đồng thời ổn định thanh khoản của các NHTM, đảm

bảo an toàn cho hệ thống.

2.3.1. Mặt tích cực

Nhìn chung, với cơ chế điều hành lãi suất khá linh hoạt, kịp thời của NHNN

trong thời gian đã góp phần quan trọng trong việc ổn định tình hình thanh khoản của các

NHTM, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ,

qua đó vừa đảm bảo cân bằng các mục tiêu vĩ mô như kiểm soát lạm phát, ổn định tăng

trưởng kinh tế… vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:

Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đã và đang dần hướng đến tự do

hóa với bước đi và giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho việc điều tiết tiền tệ bằng các

công cụ gián tiếp, thúc đẩy thị trường tài chính tiền tệ phát triển theo chiều sâu. Qua các

50

đợt biến động lãi suất trong những năm qua, các NHTM đã phần nào nhận diện được

những rủi ro, khó khăn nội tại, từ đó thúc đẩy các ngân hàng tự đổi mới, nâng cao năng

lực tài chính, năng động và linh hoạt hơn trong việc điều hành lãi suất kinh doanh để

thích nghi hơn trong thời kỳ đổi mới.

Thứ hai, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong thời gian vừa qua đã góp

phần ngăn chặn được tình trạng xáo trộn trên thị trường tiền tệ và nguy cơ mất khả năng

thanh khoản của các NHTM trong những thời điểm khó khăn nhất, đặc biệt là các ngân

hàng có quy mô vừa và nhỏ, an toàn của hệ thống được đảm bảo, qua đó củng cố lòng

tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Có thể nói,

đây là một trong những thành công lớn của công tác điều hành lãi suất của NHNN trong

thời gian qua, được thể hiện ở các mặt sau:

 Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất nhìn chung đã có tác

động hiệu quả đến mặt bằng chung lãi suất trên thị trường cũng như đối với hoạt động

kinh doanh của NHTM. Biểu hiện là lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến

động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành

của NHNN đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng, phù hợp với chủ trương thắt

chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng của NHNN.

 Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam từ

tháng 5 năm 2008 đã có tác động tích cực trong việc khắc phục được tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên

cao, qua đó ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh

toán của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần

quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên. Lãi suất cơ bản vào thời điểm đó

vừa phản ánh thực tế lãi suất thị trường, vừa đóng vai trò là lãi suất điều hành CSTT

của NHNN, cho nên góp phần tạo nên mặt bằng lãi suất huy động và cho vay hợp lý và

đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người gửi tiền, ngân hàng và người vay vốn và trở thành

51

động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách

tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ được các doanh nghiệp, người

dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm, theo dõi, dự báo và có

phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Tuy

nhiên, sau một thời gian áp dụng, cơ chế này đã bộc lộ những hạn chế nhất định và đòi

hỏi NHNN cần thay thế bằng một cơ chế điều hành lãi suất khác mang tính thị trường

hơn.

 Cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận được áp dụng hầu như xuyên suốt trong thời

gian qua là biểu hiện rõ nét cho xu hướng tự do hóa lãi suất của nước ta, giúp hài hòa lợi

ích và tạo sự bình đẳng hơn trong quan hệ giao dịch giữa người vay, ngân hàng và người

gửi tiền. Khi NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận cho lãi suất đầu ra, lãi suất

được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng và nhanh

chóng tạo nên những hiệu ứng tích cực đối với nền kinh tế, đó là: (i) hình thành mặt

bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu của thị trường,

chấm dứt tình trạng phí ngầm mà NHNN cũng khó kiểm soát. Từ đó, việc áp dụng

lãi suất cho vay thỏa thuận sẽ làm tăng độ an toàn tín dụng;(ii )tạo điều kiện cho các

NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu

vào của ngân hàng; mức độ rủi ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh

doanh của họ và một số yếu tố liên quan khác... Qua đó, thúc đẩy cạnh tranh thị

trường và giúp các ngân hàng có thêm cơ hội gia tăng mức độ chuẩn hoá các tiêu chuẩn

an toàn và nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh của mình trong bối cảnh

toàn cầu hoá và hội nhập tài chính ngày càng đầy đủ hơn; (iii) các ngân hàng chủ động

hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý, do đó rủi ro thanh

khoản của các ngân hàng sẽ giảm.

 Cơ chế trần lãi suất huy động đã được áp dụng khi mà thanh khoản của hệ thống

rơi vào trạng thái căng thẳng với những cuộc chạy đua lãi suất lan tỏa từ các ngân hàng

52

có quy mô vừa và nhỏ cho đến các ngân hàng có quy mô lớn đã mang lại những hiệu

ứng tích cực nhất định, góp phần giải quyết những bất ổn vĩ mô trước mắt và ngăn chặn

các rủi ro mang tính hệ thống cho các NHTM. Bên cạnh đó, việc áp trần lãi suất huy

động và từng bước giảm mức trần trong thời gian vừa qua cho thấy nỗ lực kéo mặt bằng

lãi suất trên thị trường của NHNN, giảm lãi suất đầu ra –chính là một trong những mục

tiêu quan trọng của việc áp trần lãi suất huy động. Đây được xem là bước đi khá thận

trọng của NHNN trong việc hướng tới cơ chế tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Bởi lẽ tình

hình thị trường tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa thực sự ổn định, lãi

suất đầu vào lại còn phải đảm nhiệm cả một phần chức năng chống lạm phát. Và nhất là

trong bối cảnh giữa các NHTM ở Việt Nam hiện nay còn có đẳng cấp quá khác nhau về

năng lực huy động vốn ở đầu vào, các ngân hàng nhỏ cũng đang trong thời kỳ chạy

nước rút nhằm đáp ứng các chỉ tiêu về an toàn hoạt động. Để sinh tồn cũng như để giải

quyết bài toán thanh khoản, tất yếu các ngân hàng này sẽ đẩy cao lãi suất để huy động

vốn càng nhiều càng tốt nhằm giải quyết căng thẳng thanh khoản, mặt khác đẩy mạnh

cho vay ở những lĩnh vực có tính rủi ro cao nhằm bù đắp chi phí nguồn vốn đầu vào và

hệ lụy làm trầm trọng hơn tình trạng nợ xấu. Hành động đó có thể dẫn đến những cuộc

đua lãi suất, trong khi những yếu kém của các ngân hàng này mới chỉ được xử lý về mặt

hình thức, còn thực chất lại càng trầm trọng hơn. Vì vậy, nếu bỏ trần lãi suất huy động

hoàn toàn, sẽ khó có thể phát hiện và kiểm soát được những ngân hàng yếu kém. Với

mục tiêu tự do hóa lãi suất thì trần lãi suất cũng sẽ sớm được gỡ bỏ hoàn toàn trong một

tương lai gần khi mà bối cảnh vĩ mô đã ổn định, hệ thống ngân hàng đã được cải cách

theo hướng bền vững và an toàn hơn. Thời điểm gỡ bỏ sẽ do NHNN quyết định dựa trên

sự cân nhắc các mặt lợi ích và tác động tiêu cực cùng với những hệ lụy có thể xảy ra.

Trong năm 2012, NHNN bước đầu thực hiện gỡ bỏ trần lãi suất huy động tiền

gửi dài hạn trên 12 tháng, bước đầu giúp cho các ngân hàng huy động nhiều vốn dài hạn

hơn, qua đó cân đối lại nguồn vốn vốn đã có sự chênh lệch nghiêm trọng trong suốt thời

gian dài áp dụng trần huy động chung cho cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn và dài.

53

Thứ ba, lạm phát được kiềm chế có hiệu quả, song vẫn đảm bảo được mục tiêu tăng

trưởng kinh tế ở mức khá. Và quan trọng hơn cả, việc điều hành lãi suất trong thời gian

qua của NHNN đã tạo được kỳ vọng lạm phát tốt cho khu vực dân cư và các tổ chức

kinh tế là cơ sở vững chắc mang tính bản lề cho việc hướng tới điều hành CSTT theo

lạm phát mục tiêu theo xu hướng chung của nhiều quốc gia trên thế giới, hỗ trợ tốt cho

hoạt động huy động vốn cũng như tạo đà cho việc giảm lãi suất cho vay trên thị trường,

mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung và hoạt động ngành ngân hàng nói

riêng. Một mặt, lãi suất đầu ra giảm giúp doanh nghiệp sản xuất tiếp cận được nguồn

vốn với chi phí hợp lý để phát triển hoạt động kinh doanh, trong khi vẫn đảm bảo mức

lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Mặt khác, luồng vốn tín dụng ngân hàng được

khơi thông, khắc phục được phần nào tình trạng nợ xấu đang ngày càng trầm trọng hơn.

Do đó, giảm lãi suất đầu ra là giải pháp để cứu doanh nghiệp cũng chính là cứu lấy ngân

hàng.

Như vậy, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đã và đang có những chuyển biến

tích cực theo hướng điều hành gián tiếp. Điều hành lãi suất trong điều kiện nền kinh tế

thế giới đang hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới đã phát huy vai trò đòn bẩy nhằm

kích thích tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng

luôn là một bài toán khó và hết sức phức tạp đòi hỏi một nghệ thuật trong điều hành của

NHNN.

2.3.2. Mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN trong thời gian vừa qua cũng còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, tác động không nhỏ

đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động thanh khoản nói riêng

của các NHTM.

Thứ nhất, NHNN công bố quá nhiều loại lãi suất điều hành như: lãi suất cơ bản, lãi

suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn …Mặc dù chức năng của mỗi loại lãi suất là khác

54

nhau nhưng vai trò của chúng còn nhiều chồng chéo và phức tạp, mối liên hệ giữa các

loại lãi suất điều hành do NHNN công bố cũng như mối liên hệ giữa các loại lãi suất này

với lãi suất thị trường còn nhiều lỏng lẻo, chưa thật sự gắn kết chặt chẽ với nhau, nhiều

khi tách rời nhau, biến động chưa cùng chiều với nhau. Nhiều loại lãi suất điều hành

chưa thực sự phát huy được vai trò định hướng dẫn dắt thị trường khi mà có nhiều thời

điểm lãi suất thị trường đã vượt xa các mức lãi suất định hướng của NHNN. Trong đó,

 Lãi suất cơ bản chỉ thật sự phát huy vai trò định hướng của mình trong thời gian

NHNN chuyển đổi sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, ngoài ra

vai trò của lãi suất cơ bản trong suốt thời gian vừa qua dường như trở nên phai nhạt, liên

tục thoát ly lãi suất cho vay bình quân của các NHTM. Chính vì vậy, có thời điểm, đã có

không ít các ý kiến xung quanh vấn đề bỏ hay không bỏ lãi suất cơ bản trong điều hành

lãi suất của NHNN mà không gây mâu thuẫn với Bộ luật dân sự hiện hành. Và khi Luật

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 ra đời có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2011

thì nội hàm lãi suất cơ bản đã được xác định rõ theo hướng lãi suất cơ bản không phải

là cơ sở để cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh mà làm cơ sở cho việc

phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế.

 Vai trò điều tiết lãi suất thị trường của lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và

lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở còn rất nhiều hạn chế. Quan sát thời gian qua cho

thấy, có nhiều thời điểm lãi suất liên ngân hàng vượt qua lãi suất tái cấp vốn và đến khi

các ngân hàng thừa vốn khả dụng thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lại phá đáy

lãi suất chiết khấu. Công cụ tái cấp vốn cũng chưa thực sự đóng vai trò là công cụ của

NHNN để cung ứng nguồn vốn ngắn hạn và bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán

của các NHTM, biểu hiện là nghiệp vụ này diễn ra không thường xuyên, số lượng

NHTM tham gia tái cấp vốn không nhiều. Trên thực tế, NHNN vẫn chủ yếu thực hiện

tái cấp vốn cho các NHTMNN. Các NHTMCP ít được tái cấp vốn do không đủ các điều

kiện tái cấp vốn, đặc biệt là nhóm các NHTM có quy mô vừa và nhỏ gặp nhiều khó

55

khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn dưới hình thức này.

Thứ hai, cơ chế truyền dẫn tác động của lãi suất chính thức do NHNN công bố còn

yếu về cường độ và độ trễ về thời gian lớn, hạn hẹp về không gian truyền dẫn nên tác

động hạn chế đến các yếu tố vĩ mô như: tiết kiệm, tiêu dùng, đầu tư rồi đến tổng cầu và

cuối cùng là lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng như hoạt động của các NHTM. Chúng

ta phải thừa nhận một thực tế rằng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN thực hiện trong

giai đoạn gần đây phần lớn chỉ mang tính chạy theo thị trường chứ chưa thực sự dẫn dắt

thị trường tiền tệ.

Quan sát mức tăng trưởng tín dụng và lạm phát qua các năm chúng ta dễ dàng

nhận thấy nếu như tăng trưởng tín dụng tăng thì lạm phát sẽ tăng trong năm tiếp theo và

ngược lại. Do đó, chính sách điều hành của NHNN cũng phải thay đổi liên tục từ thắt

chặt đến mở rộng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và sau đó lại thắt chặt nhằm mục tiêu

kiểm soát lạm phát. Trước những thay đổi liên tục và đôi khi có phần đột ngột của

NHNN trong điều hành đã gây sốc thị trường, góp phần tạo nên cuộc đua tăng lãi suất

gây ra không ít khó khăn cho các NHTM trong việc ứng phó và có tác động tiêu cực

đến đầu tư và hiệu quả sản xuất, trong đó khu vực doanh nghiệp là nơi chịu nhiều ảnh

hưởng nhất.

Thứ ba, mô hình điều hành lãi suất của NHNN hiện nay còn phức tạp, thiếu sự rõ

ràng vì phải ấn định, xem xét cùng một lúc nhiều loại lãi suất chính thức, trong đó chưa

xác định rõ ràng lãi suất nào thực sự là lãi suất mục tiêu.

Thứ tư, NHNN còn sử dụng nhiều biện pháp hành chính trong quá trình điều hành

lãi suất trong khi ít có những chế tài cần thiết để đảm bảo tính thực thi của công cụ điều

hành nên dễ dẫn đến tình trạng biến tướng, lách luật gây ra những hệ lụy tiêu cực, tạo

phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định

của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tiêu biểu cho việc áp dụng giải pháp điều

hành mang tính hành chính của NHNN trong thời gian qua là cơ chế điều hành lãi suất

56

cơ bản bằng đồng Việt Nam và cơ chế trần lãi suất huy động. Trong quá trình áp dụng,

cả hai cơ chế này đã bộc lộ những yếu điểm vốn có của một công cụ mang tính hành

chính. Vào thời điểm NHNN áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt

Nam, nhiều NHTM đã lách “trần cho vay” bằng các khoản phí khiến cho mức lãi suất

cho vay thực tế bị đẩy lên cao. Trong khi đó, trên thực tế hầu như không ngân hàng nào

tuân thủ mức trần lãi suất huy động này vì cả người gửi tiền và người huy động tiền đều

quan niệm mức trần lãi suất do NHNN quy định không đảm bảo nguyên tắc thực dương

trong bối cảnh lạm phát cao. Việc áp dụng cơ chế trần lãi suất huy động với mục tiêu ban

đầu là ngăn chặn cuộc chạy đua lãi suất ở tầm cao nhưng đến lượt nó lại làm trầm trọng

hóa thêm vấn đề thanh khoản của các NHTM thể hiện ở các mặt: (i) việc áp dụng cơ chế

trần lãi suất huy động đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động của các TCTD:

nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi nhu cầu vốn vay trung – dài hạn

là rất lớn. Các ngân hàng đã đưa ra các sản phẩm có kỳ hạn dài và cho phép khách hàng

rút vốn trước hạn nhưng vẫn được hưởng mức lãi suất ngắn hạn tương ứng với kỳ hạn

gửi thực tế song song với đó là các chương trình khuyến mãi, dự thưởng... để thu hút

khách hàng, tạo ra mức lãi suất ngầm; (ii) căng thẳng thanh khoản trên thị trường 1 lan

sang thị trường 2 khiến cho lãi suất liên ngân hàng biến động tăng cao.

Như vậy, các biện pháp hành chính rất khó có khả năng giám sát trong một thời

gian dài, và khi cố gắng áp đặt thì luôn gây ra những hệ quả tiêu cực không lường trước

được. Việc duy trì các biện pháp này không những không giúp cho NHNN đạt được

mục tiêu điều hành của mình mà còn gây ra rủi ro đạo đức cho toàn bộ thị trường tài

chính, góp phần “khuyến khích” các NHTM làm sai lệch sổ sách, che dấu số liệu. Việc

này không những gây tốn kém cho cả các NHTM và khách hàng, mà còn gây ra những

khó khăn nhất định cho NHNN trong việc giám sát rủi ro hệ thống do số liệu được cung

cấp cho NHNN không thật sự chính xác. Thiết nghĩ việc quay lại sử dụng quy định trần

lãi suất là cần thiết trong bối cảnh thị trường tiền tệ còn những bất ổn như hiện nay. Tuy

nhiên, việc này không thể kéo dài trong điều kiện thị trường tài chính đang từng bước tự

57

do hoá, điều đó sẽ cản trở sự phát triển của các định chế tài chính, việc điều hành lãi

suất nói riêng và việc thực thi CSTT nói chung khó có thể dựa trên nguyên tắc thị

trường.

Thứ năm, dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong thời gian

vừa qua, mặt bằng lãi suất trên thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến phức tạp, trong khi

lãi suất cho vay vẫn còn cao thì cuộc đua lãi suất huy động ngầm vẫn đang âm ỉ tái diễn

dưới nhiều hình thức gây ra nhiều tác động bất lợi đối với hoạt động của ngành ngân

hàng cũng như đối với nền kinh tế nói chung.

 Xét về lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng hiện nay giữa các NHTM thì

lãi suất này chưa phản ánh đúng quan hệ cung – cầu vốn cũng như bản chất thực trạng

tình hình thanh khoản của các NHTM. Mặt khác, trong năm 2012 chứng kiến nghịch lý

trên thị trường liên ngân hàng, trong đó, lãi suất cho vay doanh nghiệp vẫn cao, còn lãi

suất liên ngân hàng lại siêu thấp, lãi suất huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế

thì cao hơn mức lãi suất liên ngân hàng. Bởi lẽ các ngân hàng lớn hiện thừa thanh khoản

nhưng chỉ đầu tư vào tín phiếu kho bạc nhà nước hoặc cho vay lẫn nhau, còn những

ngân hàng nhỏ hầu như không thể tham gia được vào thị trường này mà nếu có thì buộc

phải có tài sản bảo đảm.

 Lãi suất trên thị trường hiện nay còn cao do đặc thù của ngân hàng Việt Nam

chủ yếu là huy động vốn từ xã hội mà tinh thần đặt ra là lãi suất phải thực dương

mới có thể huy động được vốn, khiến cho lãi suất vay cũng tăng theo để đảm bảo lợi

nhuận cho các ngân hàng.

 Lãi suất cho vay trên thị trường thường xuyên có xu hướng biến động tăng, vượt

khả năng chấp nhận của doanh nghiệp. Lãi suất cao sẽ làm suy yếu tình hình tài chính

của doanh nghiệp ở hai khía cạnh: doanh nghiệp không thể tiếp cận nguồn vốn của ngân

hàng để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và vì vậy, ngân hàng không thể phát

triển và mở rộng khách hàng; hoặc là doanh nghiệp sẽ vay vốn ngân hàng bằng mọi giá,

hậu quả là chi phí của doanh nghiệp tăng lên, hiệu quả vốn vay ngân hàng không được

58

phát huy; hậu quả có thể là nợ quá hạn phát sinh, thu nhập ngân hàng giảm. Nếu tình

trạng lãi suất này còn kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ giảm

mạnh, tình hình thanh khoản của các ngân hàng sẽ không được cải thiện. Bởi lẽ, kinh tế

khó khăn, hàng tồn kho nhiều, doanh nghiệp không có tiền trả ngân hàng. Vòng luẩn

quẩn này sẽ khiến tình trạng thanh khoản của các ngân hàng nếu được cải thiện cũng sẽ

không chắc chắn và bền chặt.

 Hiện tượng chạy đua lãi suất lặp đi lặp lại: Chính hiện tượng này đã làm suy

giảm niềm tin của người dân vào vai trò quản lý của NHNN, khi mà cơ quan này chưa

thực hiện được chức năng đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và hiệu

quả. Hơn nữa, việc người dân vì mục tiêu sinh lời chạy theo những ngân hàng có mức

lãi suất cao nhưng lại không biết rõ về khả năng thanh khoản của những ngân hàng này,

chỉ cần một biến cố ảnh hưởng đến niềm tin có thể xảy ra hiện tượng rút tiền hàng loạt,

đây chính là mầm mống của khủng hoảng ngân hàng.

Thứ sáu, hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang phải đối diện với các

vấn đề lớn đe dọa đến tính ổn định của toàn hệ thống dẫn dến nguy cơ dễ đổ vỡ trước

các tác động bất lợi và đột ngột từ môi trường kinh doanh và chính sách quản lý của

Nhà nước. Đó là tình trạng thanh khoản kém, một số NHTM vi phạm tỷ lệ an toàn, sai

lệch kép ở cả cơ cấu thời hạn và cơ cấu đồng tiền vẫn chưa được cải thiện và tỷ lệ nợ

xấu cao.

Như vậy, cả ngân hàng và khách hàng (người gửi tiền và người đi vay) hiện nay

luôn phải đối mặt với rủi ro chính sách thường trực. Chính vì vậy, NHNN cần sớm tìm

ra hướng điều hành mới phù hợp hơn trên cơ sở tìm ra các nguyên nhân tồn tại để giúp

các bên tham gia trên thị trường chủ động ứng phó kịp thời trước những thay đổi, nhất là

trong thời kỳ hội nhập sâu với những biến động khôn lường của tình hình kinh tế tài

chính thế giới như hiện nay.

59

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại

Từ những phân tích trên đây, có thể nhận thấy rằng cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN trong thời gian qua đã có những tác động nhất định đến thanh khoản của các

NHTM, trong đó những mặt còn hạn chế có thể xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân

chính: (i) nhóm nguyên nhân xuất phát từ bối cảnh kinh tế vĩ mô và cơ chế điều hành,

giám sát của NHNN và (ii) nhóm nguyên nhân nội tại từ phía các NHTM.

2.3.3.1. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ bối cảnh kinh tế vĩ mô và cơ chế điều

hành, giám sát của NHNN

Một là, trước những diễn biến bất lợi của nền kinh tế vĩ mô, lạm phát chưa

được đảm bảo một cách chắc chắn, NHNN đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều

hành, thường dẫn đến hệ lụy là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với tình trạng vừa

lạm phát vừa đình trệ: khi lạm phát giảm xuống thấp sẽ có cơ hội để thúc đẩy tăng sản

xuất, nhưng tiền bơm ra sẽ không chuyển hoá vào sản lượng mà nguy cơ đẩy lạm phát

tăng cao, tạo ra sự không ổn định. Ngay cả khi khó khăn thanh khoản của hệ thống ngân

hàng bắt đầu được hóa giải thì dòng lưu chuyển vốn tiếp sức cho các doanh nghiệp vẫn

bị cản trở mà nguyên nhân chính là ở sự đình trệ chứ không chỉ còn do lạm phát. Bên

cạnh đó, trong thời gian dài, nền kinh tế vẫn chú trọng phát triển theo chiều rộng, đẩy

mạnh tăng trưởng tín dụng trong khi hiệu quả sử dụng vốn quá thấp và dòng tiền ngày

càng ít chảy vào ngân hàng, ít chảy vào sản xuất mà lại chảy lòng vòng vào đầu cơ phi

sản xuất, trái phiếu chính phủ khiến giá cả hàng hóa, dịch vụ liên tục tăng cao ở mặt

bằng giá mới.

Hai là, NHNN chưa thực sự chủ động và độc lập trong điều hành, cơ chế điều

hành lãi suất của NHNN theo đuổi nhiều mục tiêu không hoàn toàn thống nhất trong

đó mục tiêu cuối cùng chưa rõ ràng, chưa có lựa chọn ưu tiên nên việc lựa chọn cơ

chế điều hành và kiểm soát lãi suất trở nên khó khăn, phức tạp.

Trong thời gian vừa qua, việc điều hành lãi suất đã bị chi phối bởi chính sách

60

kinh tế đa mục tiêu cũng như chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ.

Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng

lãi suất của NHNN. Trên thực tế, giữa các mục tiêu điều hành có sự xung đột lẫn nhau,

nếu lựa chọn ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, thì NHNN cần phải hy sinh mục

tiêu tăng trưởng kinh tế và ngược lại, không thể thực hiện được đồng thời cả hai mục

tiêu. Chính vì việc chưa xác định rõ ràng các mục tiêu là cuối cùng và có tính chất ưu

tiên, nên trong một số thời điểm đã tác động đến việc lựa chọn các mức lãi suất điều

hành cũng như cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Hiện nay, NHNN Việt Nam hiện

nay đang ở mức độ độc lập thấp nhất theo tiêu chí của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), do đó

không đem lại cho NHNN tính độc lập và nhanh nhạy khi mà các diễn biến kinh tế-xã

hội trong và ngoài nước là bất thường và không thể dự đoán trước.

Ba là, cơ chế quản lý, giám sát của NHNN trong việc thực thi các giải pháp

điều hành lãi suất không hiệu quả và mang tính cào bằng.

Ngay từ ban đầu NHNN đã không giám sát chặt chẽ đối với những hoạt động

của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ mà sử dụng cơ chế giám sát mang tính cào bằng không

phù hợp với thực tế phân hóa rất rõ ràng giữa các NHTM trong hệ thống. Điều này đã

tạo điều kiện cho nhóm ngân hàng vừa và nhỏ hoạt động với xu hướng chấp nhận nhiều

rủi ro, lơ là trong công tác quản trị rủi ro, về lâu dài đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính

thanh khoản của những ngân hàng này và trở thành một phần nguyên nhân chính tạo

nên động cơ để các ngân hàng vừa và nhỏ chạy đua lãi suất trong thời gian vừa qua.

Chính vì lẽ đó, phản ứng của nhóm các NHTM vừa và nhỏ trước những động thái điều

chỉnh cơ chế điều hành lãi suất của NHNN có phần quyết liệt hơn, gây ra khó khăn

chung cho toàn hệ thống.

Bốn là, thị trường liên ngân hàng chưa được tổ chức và kiểm soát tốt làm hạn

chế tác động truyền dẫn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN

Các NHTM gặp khó khăn trong việc huy động trên thị trường 1 chưa thực sự

61

được hỗ trợ thanh khoản trên thị trường 2 mà còn làm phát sinh nhiều tiêu cực trên thị

trường này càng làm trầm trọng hơn vấn đề thanh khoản của các NHTM, đẩy lãi suất

trên thị trường đi chệch hướng lãi suất định hướng của NHNN.

Năm là, điều hành lãi suất dựa quá nhiều vào diễn biến CPI trong quá khứ

Việc điều hành lãi suất của NHNN hiện nay tuân theo nguyên tắc đảm bảo lãi

suất thực dương có nghĩa là lãi suất tiền gửi ngân hàng phải cao hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy

nhiên, việc so sánh giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất ngân hàng không phải lúc nào cũng có

ý nghĩa bởi lẽ: Thứ nhất, trên thực tế người ta nhận diện lạm phát khi có dấu hiệu giá cả

hàng hóa dịch vụ gia tăng một cách có hệ thống mà song song với nó là sự suy giảm sức

mua của đồng tiền. CPI vì thế mà được dùng làm chỉ tiêu biểu đạt cho tỷ lệ lạm phát

trong một thời kỳ nhất định. Mặc dù vậy, CPI lại chứa đựng khá nhiều nhân tố không cơ

bản làm sai lệch ý nghĩa của việc so sánh. Thứ hai, CPI được sử dụng thường ngày

mang bản chất “hồi chiếu” trong khi đó, lãi suất tại một thời điểm nào đó lại luôn mang

tính “vọng chiếu” bởi nó phản ánh kỳ vọng của người gửi tiền và người nhận tiền về

mức lợi suất của các hoạt động kinh tế và tỷ lệ lạm phát kỳ vọng. Vì thế, vấn đề cốt lõi

hiện nay là NHNN cần phải neo kỳ vọng lạm phát để định hướng cho việc điều hành lãi

suất.

Sáu là, cách điều hành lãi suất của NHNN còn giật cục, mang tính ngắn hạn,

thiếu sự đồng bộ với các chính sách điều hành khác.

Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN đã được điều chỉnh theo hướng thắt chặt

hay mở rộng cho phù hợp với mục tiêu của CSTT trong suốt thời gian qua đôi khi vấp

phải những trở lực đến từ các chính sách điều hành khác như chính sách tài khóa, chính

sách giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng. Chính sách tiền tệ mở rộng cùng

tăng trưởng tín dụng trong thời gian dài nhưng đầu tư lại kém hiệu quả cùng với dòng

tín dụng chảy vào các thị trường tài sản đã khiến lạm phát gia tăng nhanh chóng và ngay

sau đó CSTT thắt chặt quá mức nhằm kiểm sóat lạm phát lại khiến cho lãi suất tăng cao.

62

Các giải pháp điều hành lãi suất của NHNN còn mang tính chất đối phó trong ngắn hạn

đã không giải quyết được gốc rễ của vấn đề mà chỉ chuyển từ khó khăn này sang khó

khăn khác. Chính điều này khiến cho cơ chế truyền dẫn lãi suất mất đi tác dụng hay làm

nghiêm trọng thêm tình hình thanh khoản của các NHTM.

Bảy là, kỷ luật thị trường chưa được nghiêm minh, thiếu công khai, minh

bạch thông tin xét ở 2 khía cạnh: sự công khai minh bạch trong cơ chế điều hành và

minh bạch thông tin của các NHTM trong hệ thống.

Bản thân thị trường không chắc chắn về diễn biến lãi suất trong tương lai. Lý do

là tính minh bạch, mức độ cam kết và nhất quán trong hướng điều hành của NHNN còn

hạn chế. Đôi khi các quyết định điều hành đi trái so với kỳ vọng của thị trường hoặc

ngược lại với công bố ban đầu.

Mặt khác, hệ thống ngân hàng hiện nay đang không minh bạch thông tin. Điều

này khiến cho người tham gia thị trường bao gồm người gửi tiền và người cho vay

không xác định được ngân hàng nào là lành mạnh. Thông tin thiếu minh bạch không cho

phép khách hàng đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng, khách hàng có xu hướng kỳ

vọng mức lãi suất như nhau cho các ngân hàng khác nhau về mức độ rủi ro. Nếu tự do

lãi suất, các ngân hàng gặp vấn đề thanh khoản sẽ đẩy lãi suất lên cao để huy động vốn

và người gửi tiền do bất cân xứng thông tin nên dựa vào lãi suất để chọn ngân hàng gửi

tiền chứ không cân nhắc giữa lợi nhuận từ lãi suất tiền gửi và rủi ro mất khả năng chi trả

của các ngân hàng. Vấn đề lựa chọn ngân hàng lãi suất cao để gửi tiền còn được hỗ trợ

bởi niềm tin của người gửi tiền rằng ngân hàng sẽ không thể phá sản do đặc điểm của

ngành ngân hàng khác với các ngành kinh doanh khác là các ngân hàng yếu kém khó có

thể bị loại bỏ ngay lập tức vì sẽ gây ra hiệu ứng dây chuyền đến cả nền kinh tế. Chính vì

lẽ đó, sự hiểu biết của người dân còn hạn chế trong khi việc điều hành khá phức tạp nên

thiếu sự đồng thuận trong hành vi đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng phù hợp với mục tiêu

điều hành của NHNN. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường

không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo bầy đàn là đặc điểm nổi bật của thị trường tài

63

chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát

trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào.

Tám là, công tác dự báo còn nhiều hạn chế, chưa thể đo lường hết các biến cố

có thể phát sinh trước sự thay đổi của một chính sách. Trong khi đó, nhiều ngân hàng,

doanh nghiệp và người dân chưa có đủ điều kiện về thông tin để có thể dự báo ngắn hạn

diễn biến lãi suất thị trường, cho nên dễ gặp rủi ro về lãi suất.

2.3.3.2. Nhóm nguyên nhân nội tại từ phía các NHTM

Việc điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường của NHNN gặp khó khăn do lãi

suất thị trường chịu tác động bởi nhiều nhân tố khách quan trong đó phần lớn do năng

lực tài chính yếu kém của các NHTM.

Một là, sự chuyển đổi quá nhanh các ngân hàng nông thôn thành ngân hàng

thành thị

Hậu quả của việc phát triển với tốc độ cực nhanh của nhóm các ngân hàng này là

các ngân hàng phải tăng trưởng tài sản bằng mọi giá để tương ứng với lượng vốn chủ sở

hữu tăng thêm. Do trình độ quản trị của các ngân hàng này không theo kịp với đà tăng

tài sản nên dẫn đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng này suy giảm nghiêm trọng.

Một vấn nạn đi kèm với quá trình này là chính là “sở hữu chéo”. Để tăng vốn chủ sở

hữu lớn như vậy, các ngân hàng buộc phải dựa vào vốn đóng góp, và theo đó, trở thành

“sân sau” của các tập đoàn, cả nhà nước lẫn tư nhân. Đồng thời, do tốc độ tăng vốn chủ

sở hữu quá nhanh của các ngân hàng thì chính các tập đoàn đằng sau các ngân hàng này

cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Hệ quả của vấn đề “sở

hữu chéo” cũng là vốn vay của các tập đoàn bị sử dụng sai mục đích, chất lượng tín

dụng rất kém, và là tiền đề cho vấn đề nợ xấu khi nền kinh tế gặp khó khăn.

Thứ hai, hệ thống các NHTM phát triển không đồng nhất, còn chênh lệch lớn

về quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản nợ và tài sản có; năng lực tài chính, khả năng

cạnh tranh và quản trị kinh doanh cũng như khả năng thích ứng với những biến động

64

của thị trường của các NHTM còn nhiều mặt hạn chế. Trong đó, sự tồn tại của nhóm

ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ với xu hướng phát triển kém bền vững có thể gây ra

những ngoại tác tiêu cực, làm cho hiệu lực và tốc độ truyền dẫn của cơ chế điều hành

lãi suất của NHNN tác động đến lãi suất thị trường bị hạn chế, nghiêm trọng hơn là khả

năng gây ra khủng hoảng ngân hàng thông qua bản chất rủi ro hệ thống cao của thị

trường tài chính.

Đối với những ngân hàng có quy mô nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị

trường, song với một cấu trúc thị trường tồn tại nhiều NHTM có vốn và thị phần thấp

thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh.

Mặt khác, với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống,

những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác

động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và việc điều hành lãi suất nói riêng. Một

minh chứng rõ ràng là trào lưu tăng lãi suất xảy ra không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu

vốn mà từ nhu cầu giữ khách hàng.

Thứ ba, hoạt động quản trị rủi ro của các NHTM còn hạn chế, kém hiệu quả.

Trong khoảng 5 năm trở lại đây, với mục tiêu đạt được lợi nhuận cao dưới áp

lực từ các cổ đông, những ngân hàng đã thiếu đi sự cân bằng giữa an toàn và lợi

nhuận, tập trung mở rộng tín dụng quá mức nhưng lại ít chú trọng đến việc cải

thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản hoặc chỉ tập trung tăng

tiêu chuẩn an toàn vốn theo quy định của NHNN nhưng chưa chú trọng vào việc nâng

cao khả năng đảm bảo thanh khoản. Nhiều NHTM chưa thực sự quan tâm đến công

tác quản lý thanh khoản, chưa sở hữu hoặc sở hữu không nhiều các giấy tờ có giá

làm dự trữ thanh khoản, nhiều NHTM sử dụng vốn ngắn hạn thậm chí vay vốn trên

thị trường liên ngân hàng để cho vay nền kinh tế. Chính điều này lại làm cho các ngân

hàng dễ bị tổn thương khi nền kinh tế bị suy thoái theo chu kỳ và khi xảy ra sự tháo

chạy của người gửi tiền.

65

Thứ tư, tâm lý ỷ lại từ phía các NHTM vào chức năng hỗ trợ thanh khoản của

các NHNN.

Do thực tế ở Việt Nam chưa có câu chuyện phá sản ngân hàng và người gửi mất

tiền, cộng thêm cam kết của chính phủ khẳng định “không để ngân hàng đổ vỡ” với mục

tiêu hướng đến lợi ích của người gửi tiền đã vô tình tạo ra tâm lý ỷ lại cho các ngân

hàng yên tâm tham gia cuộc chạy đua lãi suất trong đó ngân hàng nào chào lãi suất cao

hơn sẽ thắng và đầu tư vào những lĩnh vực có rủi ro cao để tìm kiếm lợi nhuận, trong

khi người gửi tiền cũng chạy theo mức lãi suất cao bất chấp tình hình thanh khoản của

ngân hàng huy động vốn như thế nào.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Với những phân tích được đề cập trong chương 2, chúng ta đã chứng kiến thanh

khoản hệ thống ngân hàng đã có những thời điểm rơi vào trạng thái căng thẳng như thế

nào dưới tác động cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Đó là những cuộc đua lãi suất

huy động giữa các ngân hàng, là hiện tượng vượt trần lãi suất huy động theo quy định

của NHNN xảy ra cục bộ ở một số ngân hàng vừa và nhỏ và sau đó lan tỏa ra cả những

ngân hàng dẫn đầu nhằm gia tăng nguồn vốn huy động từ khu vực dân doanh; là sự gia

tăng đột biến của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ở các kỳ hạn...đã tác động

không nhỏ đến khả năng huy động vốn cũng như cho vay của các NHTM. Sự căng

thẳng đó một phần xuất phát từ những khó khăn khách quan của điều kiện kinh tế vĩ mô,

từ tác động hạn chế của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN cùng với những hệ lụy do

“độ trễ” của việc tăng trưởng tín dụng thiếu hợp lý trong giai đoạn 2007- 2010, nhưng

mặt khác, chính những yếu kém nội tại của các NHTM đã làm giảm hiệu lực tác động

của cơ chế điều hành của NHNN. Bên cạnh những tác động tích cực, cơ chế điều hành

lãi suất của NHNN vẫn còn bộc lộ nhiều điểm tồn tại cần sớm tìm ra giải pháp khắc

phục trong thời gian sắp tới.

66

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA

NHNN VÀ NĂNG LỰC QUẢN TRỊ THANH KHOẢN CỦA NHTM VIỆT NAM

3.1. Định hƣớng điều hành Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam đến năm

2020

Trong suốt thời gian vừa qua cũng như trong chặng đường gần 10 năm tiếp theo,

chính sách tiền tệ Việt Nam vẫn phải đi trên con đường hướng đến mục tiêu cuối cùng

là : “Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm

an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả

của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo

định hướng xã hội chủ nghĩa”. (theo khoản 1, Điều 4, Luật Ngân hàng Nhà nước năm

2010).

Nhằm để đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi cần có sự đồng thuận từ NHNN

đến các chủ thể khác trên thị trường tiền tệ trong đó đóng vai trò cốt lõi là hệ thống các

ngân hàng trung gian, mà trước hết là NHNN cần phải có những bước đi cụ thể mang

tính bền vững. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà khủng hoảng tài chính thế giới đã và

đang trải qua tình trạng tồi tệ nhất, suy thoái và phục hồi kinh tế thế giới còn diễn biến

phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế và thị trường tiền tệ trong nước trong khi

nền kinh tế nội địa cũng đã bộc lộ những yếu kém nội tại, trước mắt NHNN cần tiếp tục

thực thi các giải pháp tiền tệ theo hướng đảm bảo an toàn hệ thống. Định hướng điều

hành CSTT đến năm 2020 cụ thể là:

Thứ nhất, NHNN tiếp tục điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt,

phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa để ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế

vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp; đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ,

ngoại hối phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và cung - cầu ngoại tệ; bảo đảm hoạt

67

động hệ thống TCTD an toàn, tuân thủ theo quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt

động ngân hàng. Trong đó, điều hành CSTT tập trung vào điều chỉnh giảm mặt bằng lãi

suất cho vay phù hợp mức lạm phát giảm dần.

Thứ hai, xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường trên cơ sở thiết

lập CSTT với cơ chế truyền tải thích hợp và mục tiêu được lượng hóa; hoàn thiện thể

chế, phương thức và cách thức điều hành CSTT theo hướng đồng bộ, thống nhất, ổn

định và minh bạch, phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế và tái cấu trúc nền tài

chính quốc gia; phát triển thị trường tiền tệ về quy mô và cả chiều sâu để có thể truyền

dẫn các quyết định điều tiết tiền tệ, lãi suất của NHNN một cách đầy đủ và hiệu quả

đồng thời đảm bảo cho NHNN được độc lập tự chủ trong việc xây dựng, điều hành

CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái, thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương thực

sự, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng, là trung tâm thanh toán

quốc gia, điều hành thị trường tiền tệ. Từ đó, tạo những tiền đề vững chắc hướng tới

điều hành CSTT mục tiêu lạm phát.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi

suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô. Để hỗ trợ cho các giải pháp

ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành

trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành Ngân hàng, cũng rất cần thiết phải có

sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành hữu quan

trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển

các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân

hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước.

Thứ tư, nâng cao năng lực điều hành của các công cụ CSTT như: nghiệp vụ thị

trường mở, lãi suất, tỷ giá… theo hướng đồng bộ, tạo nên tác động cùng chiều, hợp lực,

vận hành trôi chảy cơ chế truyền tải tiền tệ đến mục tiêu lạm phát, tăng trưởng kinh tế.

68

Thứ năm, NHNN thực hiện điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ CSTT,

đảm bảo kiểm soát lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, theo dõi sát tình hình tăng

trưởng tín dụng của toàn hệ thống hướng tới tăng trưởng tín dụng hợp lý, đảm bảo tăng

trưởng tín dụng nhưng đi đôi với an toàn hệ thống và từng TCTD. Qua đó, hỗ trợ tăng

trưởng kinh tế ở mức hợp lý theo mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ, không gây áp lực

lạm phát cho các năm tiếp theo, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi cho phát

triển kinh tế bền vững. Hướng tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý có nghĩa là phải đưa

vốn vào đúng địa chỉ, vào nơi có hiệu quả; thúc đẩy sản xuất đi lên. Trong đó, NHNN

chủ trương hướng dòng vốn vào khu vực sản xuất thực, trong đó tập trung vốn cho vay

các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp

hỗ trợ; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực không khuyến khích so với

tổng dư nợ cho vay. Khi dòng vốn được định hướng đúng đắn sẽ góp phần hỗ trợ cho

khu vực sản xuất, đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, tình trạng bong bong bất động

sản, chứng khoán…sẽ giảm qua đó giúp ổn định lãi suất thị trường tiền tệ.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thị trường tiền tệ và

hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của các TCTD, đảm bảo

an toàn hệ thống tránh rủi ro và giảm nợ xấu, ổn định và lành mạnh hóa thị trường tiền

tệ, trước hết là thị trường liên ngân hàng, kể cả nội ngoại tệ, thị trường vàng; đảm bảo

hoạt động an toàn, đúng quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, xử lý

nghiêm các trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, NHNN luôn chủ động trong việc theo dõi

diễn biến thanh khoản của các TCTD để có biện pháp xử lý kịp thời song song với công

tác giám sát về chấp hành các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động, thực hiện cảnh báo

sớm rủi ro hệ thống.

Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm

2020, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo

Đề án được Chính phủ phê duyệt với nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm

69

soát, từng bước nâng cao tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống ngân hàng.

Kiên quyết xử lý dứt điểm những ngân hàng yếu kém, tạo điều kiện thuận lợi cho các

TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả và ngày càng phát triển.

Thứ tám, nâng cao chất lượng thống kê, dự báo phục vụ cho hoạch định và điều

hành CSTT, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dự báo, thống kê tiền

tệ, đồng thời làm tốt công tác thông tin truyền thông, đưa thông tin đầy đủ, kịp thời về

các chủ trương, giải pháp điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng để định hướng dư

luận, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của dư luận.

3.2. Định hƣớng lựa chọn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Như chúng ta đã biết, lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, vì vậy, quá

trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu

bao trùm của Chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng

trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và

kiểm soát được lạm phát là mục tiêu quan trọng nhất và cũng là mục tiêu cơ sở để thực

hiện các mục tiêu khác. Chính vì vậy, xu hướng điều hành lãi suất trong thời gian tới

cần đảm bảo định hướng điều hành theo lạm phát mục tiêu hoặc theo lạm phát cơ bản.

Trên cơ sở mục tiêu chung đó, NHNN sẽ xác định được những mục tiêu điều hành cụ

thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, tình trạng thanh khoản của

các NHTM hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng.

Một cơ chế điều hành lãi suất hiệu quả sẽ phải đảm bảo duy trì mặt bằng lãi suất

cho vay không quá cao, trợ giúp nền kinh tế phục hồi và phát triển, trong đó lãi suất huy

động vẫn phải đủ hấp dẫn người dân gửi tiền và ngân hàng có thể huy động vốn tốt hơn

phục vụ tăng trưởng. Mặt khác, trong chỉ đạo điều hành lãi suất của NHNN luôn luôn

dựa trên tín hiệu thị trường, bảo đảm cho NHTM thực hiện tự do cạnh tranh theo pháp

luật mà không bị khống chế bởi những quyết định ràng buộc của NHNN. Và do đó, tự

70

do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ

bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý, là một quy luật tất yếu và

có như vậy lãi suất mới trở thành đòn bẩy trong nền kinh tế. Tuy nhiên, với thực trạng

nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng

cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết và từng bước tạo dựng những điều kiện

cần thiết để tự do hóa lãi suất theo hướng tự do hóa lãi suất cho vay trước, lãi suất tiền

gửi sau.

Vậy cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian tới cần phải chú trọng đó là “Tự do

hóa lãi suất – có kiểm soát”. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định sẽ

được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp,

điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay

đổi cơ chế điều hành lãi suất của NHNN theo hướng tự do hoá phải dựa trên cơ sở đánh

giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở

trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm

bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính nói chung và

hệ thống ngân hàng nói riêng.

Trước hết, NHNN cần thiết lập một mức lãi suất điều hành định hướng được lãi

suất thị trường với danh nghĩa là lãi suất mục tiêu. Trên cơ sở mức lãi suất mục tiêu này,

NHNN sẽ hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo. Lượng tiền cung ứng cũng sẽ

được điều tiết hợp lý để đảm bảo mức lãi suất mục tiêu. Đây là một việc làm hết sức cần

thiết trong bối cảnh của nước ta hiện nay, khi mà NHNN đang phải công bố nhiều mức

lãi suất điều hành khác nhau với tính chất phức tạp và còn chồng chéo gây khó khăn

trong quá trình điều hành, định hướng lãi suất thị trường của NHNN cũng như là trong

việc tiếp cận thông tin của các chủ thể khác trong nền kinh tế. Nhiệm vụ của NHNN là

sẽ cân nhắc thời điểm thích hợp, liều lượng thích hợp để điều chỉnh các mức lãi suất

điều hành. Nếu tạo ra cú sốc mạnh quá thì cũng không được, nhưng nếu cú sốc không

đủ lực thì có thể làm mất tác dụng của công cụ điều hành.

71

Tiếp đến, trên cơ sở xác định lãi suất mục tiêu, NHNN xây dựng cơ chế điều

hành lãi suất thống nhất đảm bảo lãi suất thị trường biến động xung quanh mức lãi suất

mục tiêu. Hiện nay, việc lựa chọn lãi suất chủ đạo và xây dựng cơ chế điều hành lãi suất

ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm. Thiết nghĩ, mô hình kiểm soát lãi

suất mục tiêu phù hợp nhất đối với điều kiện cụ thể của thị trường tiền tệ Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua

nghiệp vụ thị trường mở. Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm

lãi suất trần và lãi suất chiết khấu làm lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng. Đồng

thời, lãi suất thị trường mở được NHNN điều chỉnh một cách thường xuyên và bám sát

lãi suất trên thị trường liên ngân hàng để ổn định thị trường này quanh mức mục tiêu mà

NHNN mong muốn. Bởi lẽ để đảm bảo thanh khoản, các NHTM thông thường sẽ có hai

nguồn tiếp cận vốn là vay các NHTM khác qua thị trường liên ngân hàng hoặc vay

NHNN qua thị trường mở. Nhờ tính liên thông này, NHNN có thể sử dụng lãi suất thị

trường mở để định hướng được lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Một khi lãi suất

thị trường mở có khả năng định hướng được lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thì

lãi suất huy động cũng sẽ được kiểm soát, và qua đó chi phối lãi suất cho vay. Vì vậy,

cơ chế điều hành hệ thống lãi suất này là sự tác động gián tiếp của lãi suất tái cấp vốn,

lãi suất chiết khấu của NHNN đến lãi suất huy động và lãi suất tín dụng của các TCTD

đối với nền kinh tế, thông qua lãi suất trung gian của nghiệp vụ thị trường mở và thị

trường liên ngân hàng. Nhờ đó, NHNN đã thực sự sử dụng các biện pháp kinh tế để tác

động và điều hành thị trường thay thế cho các biện pháp can thiệp mang tính hành chính

như hiện nay.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của NHNN trong giai đoạn hiện nay là thực

hiện cơ chế điều hành lãi suất hiệu quả dựa trên nguyên tắc nhất quán là ổn định trong

dài hạn, linh hoạt và kịp thời trong ngắn hạn. Trong đó, lãi suất được xác lập ở một mức

hợp lý vừa để khuyến khích sản xuất, nhưng cũng không gây ra lạm phát và cũng không

72

gây ra sự trì trệ của nền sản xuất, vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia. Điều

này phụ thuộc vào việc điều hành hiệu quả của NHNN trên cơ sở thực hiện đồng bộ các

giải pháp sau:

3.3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý

Hiện nay, các văn bản pháp luật liên quan đến việc điều hành hoạt động thị

trường tiền tệ nói chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng còn nhiều khe hở,

lỏng lẻo trong quá trình giám sát thực hiện. Chính điều này đã tạo ra các tiền lệ cho việc

lách luật của các NHTM, làm mất đi tác dụng, hiệu lực của cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN. Do đó, nhiệm vụ của NHNN trong thời gian sắp tới là tiếp tục rà soát, chỉnh sửa

nội dung các văn bản còn bất cập, từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý theo

chuẩn mực quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc thúc đẩy cạnh tranh và bảo

đảm an toàn hệ thống, phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực

tiền tệ, ngân hàng. Trong đó, có 3 điểm nhấn là (i) hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp

luật liên quan đến cơ chế điều hành lãi suất của NHNN bao gồm quy định cụ thể về vai

trò và cách thức xác định của các loại suất chủ đạo, mô hình điều hành và cơ chế truyền

dẫn lãi suất; (ii) tiếp tục cập nhật các quy định về an toàn hoạt động kinh doanh ngân

hàng phù hợp với thông lệ quốc tế (Basel ); (iii) hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến

hoạt động của thị trường liên ngân hàng và thị trường mở.

3.3.2. Hoàn thiện những điều kiện cơ bản để hƣớng tới điều hành lãi suất theo cơ

chế mục tiêu lạm phát

Như chúng ta đã biết, từ trước đến nay, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN vẫn

phải đảm bảo mục tiêu của CSTT là một chính sách đa mục tiêu. Việc phải đắn đo khi

đưa ra các quyết định đối với sự biến động của lạm phát mà không làm ảnh hưởng hoặc

ảnh hưởng ít lên các mục tiêu khác đặt NHNN trước nhiều lựa chọn phức tạp hơn. Xu

hướng điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu đã được kiểm chứng có hiệu quả ở nhiều

nước trên thế giới và đang là định hướng điều hành của CSTT Việt Nam trong tương lai,

73

qua đó góp phần xác định mục tiêu điều hành lãi suất rõ ràng và thống nhất hơn. So với

những tiêu chí cơ bản cho sự thành công của chính sách mục tiêu lạm phát thì nước ta

hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng. Vì vậy, thiết nghĩ việc áp dụng ngay sách mục tiêu lạm

phát tại thời điểm hiện tại ở nước ta là không khả thi, nhưng đây chính là lúc mà chúng

ta phải hoàn thiện những điều kiện cơ bản, những tiền đề cho quá trình áp dụng chính

sách này trong tương lai.

Thực tế điều hành lãi suất nói riêng và CSTT nói chung của NHNN trong thời

gian vừa qua cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp

hành chính của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu

quả điều hành của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và

ổn định thị trường tiền tệ trong thời gian vừa qua. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của

NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả

hoạt động giúp cho NHNN phản ứng nhanh nhạy hơn khi vận dụng các công cụ gián

tiếp để điều hành lãi suất mang tính ổn định và là nền tảng quan trọng bảo đảm tiến tới

xây dựng một NHTW hiện đại điều hành bằng chính sách lạm phát mục tiêu. Xét về địa

vị pháp lý, Luật NHNN 2010 đã quy định rõ NHNN là cơ quan ngang bộ trực thuộc

Chính phủ. Chính vì vậy, khả năng độc lập về mục tiêu và quá trình thực thi chính sách

của NHNN cũng ít nhiều bị giới hạn. Bước đi đầu tiên có tính thử nghiệm cho một

NHTW độc lập là cho phép NHNN được độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu chính

sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế

vĩ mô mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ. Đồng thời, với vị thế

là một cơ quan của Chính phủ thì mức độ độc lập tự chủ trong việc lựa chọn công cụ

điều hành là phù hợp hơn cả. NHNN cần phát huy và chú trọng sử dụng các công cụ

gián tiếp trong điều hành CSTT nói chung và điều hành lãi suất nói riêng nhằm nâng

cao hơn tính chỉ đạo và kiểm soát vĩ mô của NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước

đối với khu vực ngân hàng. Việc ra quyết định về cơ chế điều hành lãi suất nên theo

cách tiếp cận khuynh hướng vĩ mô tổng thể và có hành động sớm hơn dựa trên những

74

dữ liệu phản ánh khuynh hướng, thay vì dựa trên những thông tin vi mô và chậm tới khi

cảm nhận thấy sức ép mới thay đổi.

3.3.3. NHNN cần mạnh dạn giảm bớt can thiệp mang tính hành chính trong việc

điều hành

Tôn trọng thị trường là việc phải làm để tránh méo mó thị trường, để cung cầu

vốn gặp nhau theo các kênh với điều kiện hợp lý và thuận lợi nhất, các lợi ích sẽ tự dung

hòa và góp phần kiềm chế lãi suất một cách hợp lý, và lãi suất tất yếu sẽ giảm. Tuy

nhiên, trong điều kiện thị trường tiền tệ nước ta hiện nay chưa phát triển một cách hoàn

thiện dễ làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, diễn biến lạm phát thiếu

bền vững nên NHNN vẫn phải sử dụng những giải pháp mang tính hành chính, chẳng

hạn như việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình

ổn mặt bằng lãi suất. Những giải pháp này chỉ có thể phát huy hiệu quả trong ngắn hạn

và có thể dẫn đến những hệ lụy tiêu cực trong dài hạn. Chính vì lẽ đó, từng bước gỡ bỏ

những can thiệp hành chính vào thị trường tiền tệ là xu hướng điều hành lãi suất của

NHNN cần hướng đến, trong đó, NHNN cần vạch ra lộ trình thống nhất với những bước

đi vững chắc và tránh gây sốc cho thị trường.

Trên cơ sở cân nhắc đầy đủ tính hai mặt của cơ chế trần lãi suất, NHNN phải lựa

chọn thời điểm thích hợp để dỡ bỏ. Việc bãi bỏ trần lãi suất huy động bất chấp những

điều kiện chưa chín muồi cũng có thể phát sinh những hệ quả bất lợi khó lường định, tạo

vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinh doanh của các ngân

hàng, cũng như của vốn đầu tư xã hội. Trước mắt, việc nên làm là NHNN tiếp tục theo

dõi và điều chỉnh thường xuyên mức trần lãi suất huy động theo sát với diễn biến kinh tế

vĩ mô như lạm phát, tình hình thanh khoản của các NHTM…cũng như lãi suất cho vay

thoả thuận, tránh giãn cách giữa trần lãi suất huy động chính thức và lãi suất cho vay

thực tế. Tăng hay giảm trần chỉ có thể hiệu quả khi dựa trên diễn biến thực tế của thị

trường, trong đó công cụ lãi suất kết hợp tốt với những công cụ điều hành CSTT khác

75

để điều chỉnh trần lãi suất nhịp nhàng theo lộ trình đã vạch ra trước đó, vẫn đảm bảo

nguồn huy động từ khu vực dân cư trong đó phải có giải pháp ngăn chặn chuyện vượt

trần lãi suất của các NHTM, mặt khác giúp giảm mặt bằng lãi suất cho vay, từ đó doanh

nghiệp có thể tiếp cận được nguồn vốn vay. Về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ

nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất sẽ được thực hiện nhằm tuân

thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.

3.3.4. NHNN cần thúc hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro

tài chính ngân hàng; tăng cƣờng các hoạt động thanh tra, chủ động phòng

ngừa và xử lý các cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng

Khi công tác thanh tra, giám sát ngân hàng được củng cố và tăng cường sẽ

góp phần giảm thiểu những hiện tượng “lách luật”. Từ đó, hoạt động của hệ thống

NHTM trở nên minh bạch hơn, các biện pháp hành chính của NHNN liên quan đến

giảm mặt bằng lãi suất cho nền kinh tế sẽ đảm bảo tính hiệu quả hơn.

Thứ nhất, NHNN cần phân loại ngân hàng và có biện pháp giám sát phù hợp đối

với từng nhóm ngân hàng cụ thể. Đặc biệt đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ cần có

sự giám sát chặt chẽ về chức năng hoạt động. Hiện nay, những ngân hàng vừa và nhỏ

mặc dù còn giới hạn về quy mô và yếu kém về quản trị những ngân hàng này đã không

ngừng mở rộng chức năng hoạt động của mình sang những ngành nhạy cảm, nguy cơ rủi

ro cao. Chính vì vậy việc giám sát các ngân hàng vừa và nhỏ cần phải tập trung ở việc

hạn chế chức năng hoạt động phù hợp với quy mô về vốn của nó. Đồng thời, NHNN cần

tăng cường công tác giám sát từ xa nhằm nhanh chóng xác định những ngân hàng nào

có rủi ro tiềm ẩn từ đó tiến hành thanh tra tại chỗ nhằm kiểm tra tình hình hoạt động đối

với ngân hàng này và có biện pháp xử lý phù hợp.

Từ đầu năm 2012 này, NHNN đã bước đầu thực hiện phân loại ngân hàng theo

chất lượng tín dụng và phân bổ, giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho 4 nhóm ngân

hàng. Đây là một hướng đi đúng đắn của NHNN trong nỗ lực kiểm chế lạm phát, hạ

76

nhiệt lãi suất thị trường đồng thời đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc ngân hàng. Tuy

nhiên, trong quá trình thực hiện cần tăng cường sự minh bạch và có chế tài xử lý tiêu

cực xảy ra góp phần nâng cao hiệu quả điều hành của NHNN.

Thứ hai, NHNN giám sát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng tài

sản của các NHTM. Tránh tình trạng dòng vốn được tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu

không đi vào sản xuất kinh doanh, tăng trưởng tín dụng nóng so với khả năng hấp thụ

vốn hiệu quả của nền kinh tế và so với năng lực quản trị rủi ro tín dụng của chính TCTD

hoặc chạy vào đầu cơ bất động sản, chứng khoán.

Thứ ba, thường xuyên tổ chức thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách của

NHNN theo từng thời kỳ tại các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng. Qua đó,

sàng lọc được các nhóm các NHTM yếu kém, thực hiện khoanh vùng để từ đó có biện

pháp giám sát, hỗ trợ hợp lý, tránh tình trạng lây lan gây bất ổn cho cả hệ thống.

Thứ tư, NHNN cũng cần đưa ra các mức chế tài xử lý hợp lý các hành vi vi

phạm, góp phần chấn chỉnh, nâng cao tính chủ động, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động

giám sát, kiểm tra, thanh tra.

Thứ năm, công tác thanh tra, giám sát cần tăng cường tập trung nguồn lực cho

việc hoàn thiện “Hệ thống cảnh báo sớm” nhằm dự báo sớm rủi ro hệ thống trong điều

kiện kinh tế thế giới sẽ có nhiều biến động phức tạp như hiện nay.

3.3.5. Đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM với trọng tâm nâng cao

năng lực thanh khoản của hệ thống

Ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã xác định rõ cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là

một trong hai nhiệm vụ trọng tâm trong năm. Thực tế cho thấy quá trình tái cơ cấu ngân

hàng không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà đó là một quá trình mang tính

lâu dài. Trong đó, năm 2012 này được xem là năm bản lề có ý nghĩa quyết định. Theo

77

đó, NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ “ Đề án tổng thể tái cấu trúc hệ

thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015” với quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương

pháp và lộ trình cụ thể như sau:

 Về quan điểm: tái cấu trúc hệ thống ngân hàng không phải là vấn đề mới vì nó

đã diễn ra thường xuyên, liên tục cùng với quá trình đổi mới của đất nước trong suốt 25

năm qua. Điểm mới căn bản của quá trình tái cấu trúc lần này, ngoài ý nghĩa là sự tự vận

động, tự hoàn thiện trong quá trình phát triển, hệ thống ngân hàng còn phải đạt được sự

chuyển biến căn bản về chất để đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng

kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đưa Việt

Nam phát triển nhanh, bền vững và đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại. Vì vậy, tất cả các TCTD dù lành mạnh hay yếu kém, dù quy mô hoạt

động lớn hay nhỏ đều phải cải cách mạnh mẽ, toàn diện để có đủ sức đáp ứng được đòi

hỏi của nền kinh tế trong giai đoạn mới.

 Về mục tiêu: đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng lành mạnh, hiệu quả,

ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, có khả năng cạnh tranh

và ứng phó tốt trong quá trình hội nhập với nhiều biến động phức tạp, khó lường; có đủ

năng lực đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng có chất lượng, phục vụ tốt quá trình

chuyển đổi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo người dân được tiếp

cận ngày càng sâu, rộng với mọi loại hình dịch vụ ngân hàng. Tạo ra một hệ thống ngân

hàng đa dạng về loại hình, về sở hữu và về quy mô, trong đó, các Ngân hàng Thương

mại nhà nước tiếp tục giữ vị trí chi phối trong hệ thống ngân hàng. Phấn đấu sau 5 năm

tái cấu trúc, không còn ngân hàng yếu kém, gây ảnh hưởng đến an toàn hệ thống và có

khoảng 2 ngân hàng mạnh đủ sức cạnh tranh trong khu vực, có 10 – 15 ngân hàng đủ

lớn làm trụ cột, nòng cốt cho hệ thống ngân hàng trong nước, các ngân hàng còn lại đáp

ứng tốt nhu cầu loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như hộ nông dân, hộ sản xuất

kinh doanh.

78

 Về nguyên tắc: phải hết sức thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó, đảm bảo không

để xảy ra đổ vỡ, rối loạn và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Tiết giảm tối đa chi phí và tổn thất bằng cách dùng

các TCTD có quy mô lớn hơn, lành mạnh hơn tham gia vào quá trình tái cấu trúc các

TCTD quy mô nhỏ trên nguyên tắc tự nguyện và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người

gửi tiền, người đang hưởng thụ các dịch vụ ngân hàng.

 Về phương pháp và lộ trình tiến hành: bước đầu tiên của quá trình tái cấu trúc

là giải quyết tốt vấn đề thanh khoản của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng yếu kém

và phân loại hệ thống ngân hàng thành 3 nhóm. Nhóm một là nhóm các ngân hàng có

quy mô và năng lực đủ lớn để phát triển thành các ngân hàng trụ cột, có khả năng cạnh

tranh trong khu vực và quốc tế. Nhóm hai là nhóm các ngân hàng lành mạnh nhưng quy

mô nhỏ. Nhóm ba là nhóm các TCTD yếu kém cần cấu trúc lại. Sau đó, sẽ ưu tiên tái

cấu trúc các TCTD thuộc nhóm thứ ba và tiếp đó, sẽ tập trung tái cấu trúc các ngân hàng

thuộc nhóm một và nhóm hai theo hướng nâng cao hệ số an toàn, hiệu quả hoạt động và

đảm bảo thực hiện được mục tiêu đề ra sau 5 năm tái cấu trúc. Đối với TCTD yếu kém

đến mức không thể trở lại hoạt động bình thường, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp xử

lý đặc biệt theo quy định của pháp luật để kiên quyết loại bỏ các tổ chức này một cách

có trật tự, đảm bảo kỷ luật thị trường và sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng.

Theo công bố của NHNN, hiện có 9 TCTD yếu kém đang nằm dưới sự kiểm soát đặc

biệt của NHNN.

Như vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng sẽ bao gồm các hoạt động: giải thể một

số ngân hàng yếu kém theo phân loại của NHNN, tiến hành sáp nhập một số ngân hàng

yếu hơn vào ngân hàng khoẻ mạnh trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc, và củng cố lại

hoạt động của các ngân hàng còn lại trong hệ thống để đảm bảo rằng sau khi tái cơ cấu,

hệ thống ngân hàng sẽ hoạt động an toàn hơn và hiệu quả hơn. TCTD là một loại hình

doanh nghiệp đặc biệt, sự đổ vỡ của nó có tính dây chuyền có thể kéo theo sự đổ vỡ của

79

các TCTD khác, hay ít nhất cũng làm cho các TCTD khác lâm vào tình trạng khó khăn,

từ đó cũng gây khó khăn thêm cho nền kinh tế. Vì vậy, đứng trước khả năng đổ vỡ của

một TCTD, NHNN phải cân nhắc, lựa chọn phương án nào cho hợp lý nhất. Để quá

trình tái cơ cấu ngân hàng đạt được kết quả như mong đợi đòi hỏi NHNN cần có những

bước đi thận trọng, hợp lý:

Một là, NHNN bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và hệ thống các

NHTM theo đúng tinh thần của Đề án “Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống

ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015” của NHNN với những nhiệm vụ chính là:

(i) NHNN tái cấp vốn kịp thời đối với các NHTM thiếu hụt thanh khoản tạm thời

theo quy định của Luật NHNN để bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và toàn bộ

hệ thống các NHTM, đồng thời bảo đảm chu chuyển vốn bình thường trên thị trường tài

chính và đáp ứng nhu cầu vốn, phương tiện thanh toán của nền kinh tế.

(ii) Cho phép NHTM mất khả năng chi trả phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu

dài hạn đề tạo điều kiện cho các NHTM này tăng vốn cấp 2 và có nguồn vốn dài hạn cơ

cấu lại tài chính, hoạt động.

(iii) NHNN tăng cường giám sát thị trường tiền tệ để kịp thời phát hiện NHTM thừa

hoặc thiếu thanh khoản nhằm kết nối các nhu cầu vay mượn ngắn hạn giữa các NHTM,

giảm bớt nhu cầu vay tái cấp vốn từ NHNN; chỉ định NHTM lành mạnh, thừa thanh

khoản cho vay đối với NHTM tạm thời thiếu hụt thanh khoản.

Hai là, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trước hết phải tạo được niềm tin

của dân chúng vào sự thành công của quá trình này, đưa ra thông điệp đảm bảo người

gửi tiền không bị thiệt hại khi một ngân hàng nào đó bị giải thể hoặc sáp nhập vào ngân

hàng khác trong quá trình tái cấu trúc.

Ba là, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng phải giải quyết được vấn đề sở

hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.

80

Bốn là, NHNN cần xây dựng các kịch bản dự phòng cho các tình huống xấu nhất

để sao cho trong quá trình tái cấu trúc, hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng của

hệ thống không bị ảnh hưởng. Trong đó, cần lưu tâm đến vấn đề rủi ro hậu sáp nhập bao

gồm 4 loại rủi ro chính : rủi ro hoạt động, đó là làm sao để tích hợp hệ thống để có một

hệ thống đồng nhất; rủi ro về nhân sự; rủi ro công nghệ; và vấn đề truyền thông hậu sáp

nhập liên quan đến việc duy trì niềm tin cũng như thương hiệu trong mắt khách hàng.

Năm là, bản thân mỗi TCTD cần xây dựng phương án tái cấu trúc tổ chức mình

với trọng tâm là xử lý nợ xấu, đảm bảo các tỷ lệ an toàn, lành mạnh tình hình tài chính.

Với những giải pháp và bước đi thận trọng nêu trên, hy vọng rằng quá trình tái cơ

cấu toàn hệ thống và hỗ trợ các NHTM yếu kém sẽ là biện pháp giải quyết tận gốc

những vấn đề đang tồn tại của ngành ngân hàng, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, vừa tiếp tục

hoàn thành tốt vai trò là huyết mạch nền kinh tế của ngành ngân hàng góp phần thực

hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm ( 2011 – 2020).

Sau sáu tháng đầu năm 2012 quyết liệt triển khai cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, chứng

kiến kết quả bước đầu với 2 thương vụ sáp nhập thành công của 3 ngân hàng Sài gòn,

Đệ Nhất, Tín Nghĩa, và 2 ngân hàng SHB và Habubank, rủi ro hệ thống từng bước được

kiểm soát, nguy cơ đỗ vỡ hệ thống từng bước được đẩy lùi.

3.3.6. Tiếp tục thực hiện các giải pháp để phát triển hoạt động thị trƣờng liên ngân

hàng và thị trƣờng mở

Hoạt động của thị trường liên ngân hàng cũng như nghiệp vụ thị trường mở đóng

vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM và đặc biệt có ý

nghĩa cho việc truyền tải tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Với thực

trạng hoạt động hiện nay của hai thị trường này còn có nhiều hạn chế, thiết nghĩ NHNN

cần có những giải pháp thích hợp hơn để phát triển hai thị trường này hơn nữa, cụ thể là:

Đối với thị trường liên ngân hàng: Tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý trong

81

việc điều hành hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, ban hành các Thông tư hướng

dẫn rõ ràng, nhanh chóng giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện của

các NHTM, đồng thời xây dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát được thị trường liên ngân

hàng, theo dõi kịp thời diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, làm cơ sở

nghiên cứu điều chỉnh các mức lãi suất điều hành. Song song với quá trình củng cố và

phát triển hoạt động trên thị trường liên ngân hàng là quá trình hoàn thiện hệ thống

thanh toán quốc gia (CITAD) tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển vốn qua lại giữa

các NHTM.

Hiện nay với việc siết chặt hoạt động thị trường liên ngân hàng bằng Thông tư

21/2012/TT-NHNN, theo đó, các quy định như TCTD muốn giao dịch liên ngân hàng

phải không có các khoản nợ quá hạn đối với các giao dịch từ 10 ngày và phải tiến hành

trích lập dự phòng cho các khoản vay trên thị trường này đã góp phần khắc phục

những hạn chế tồn tại trong suốt thời gian vừa qua, hạn chế rủi ro phát sinh cho các

NHTM và hướng thị trường này trở về đúng bản chất là nơi hỗ trợ thanh khoản cho

các NHTM, là cơ chế để thị trường tự phân phối lại lợi thế của những NHTM có năng

lực huy động vốn tốt ở thị trường bán lẻ để bán trên thị trường bán buôn, qua đó phản

ánh chính xác hơn quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ, làm cơ sở vững chắc

cho việc điều hành lãi suất của NHNN. Đây được xem là hướng đi rất hiệu quả của

NHNN trong việc điều hành CSTT nói chung và điều hành lãi suất nói riêng.

Đối với hoạt động thị trường mở: Ngân hàng Nhà Nước cần phát triển nghiệp

vụ thị trường mở theo hướng tạo điều kiện hơn nữa cho các Ngân hàng Thương mại

vừa và nhỏ tham gia. Các giải pháp cần tiến hành bao gồm đẩy mạnh việc đổi mới điều

hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở, mở rộng việc kết nạp thành viên mới trên thị

trường mở, đa dạng hóa các hàng hóa tham gia giao dịch trên thị trường cũng như đa

dạng hóa các kỳ hạn giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các TCTD,

tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín

82

phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại các giấy tờ có giá. Tạo điều kiện cho tất cả

các Ngân hàng Thương mại được tiếp cận bình đẳng với nghiệp vụ tái cấp vốn của

NHNN, qua đó góp phần giảm thiểu được sức ép huy động vốn đối với các Ngân hàng

Thương mại dẫn đến tình trạng đua lãi suất huy động của các ngân hàng nhỏ như thời

gian vừa qua.

3.3.7. Phối hợp đồng bộ các giải pháp điều hành lãi suất cũng nhƣ với các công cụ

điều hành chính sách tiền tệ khác để vận hành theo cơ chế truyền dẫn tiền tệ

Sự đồng bộ ở đây có thể được hiểu ở trên 2 khía cạnh: sự đồng bộ giữa các công

cụ điều hành và sự đồng thuận chung về mặt chính sách, nhất là trong việc lựa chọn

đúng các mục tiêu ưu tiên phù hợp cho từng thời kỳ chính sách, không khiên cưỡng áp

đặt mục tiêu bằng mọi giá.

Có thể nói, cơ chế điều hành lãi suất sẽ không phát huy được hiệu quả nếu không

đi kèm với các chính sách khác. Thực tế điều hành lãi suất trong thời gian qua cũng cho

thấy do sự thiếu đồng bộ đã làm mất tác dụng của các giải pháp điều hành lãi suất của

NHNN, nhiều khi còn gây ra tác dụng ngược. Do đó, phải nhìn nhận việc kết hợp chặt

chẽ, nhịp nhàng giữa cơ chế điều hành lãi suất của NHNN với các công cụ điều hành

CSTT khác là việc làm rất quan trọng. Việc điều hành lãi suất cần xem xét trong mối

quan hệ với chính sách tài khóa, tránh tình trạng CSTT thì thắt chặt trong khi chính sách

tài khóa lại nới lỏng như đã từng xảy ra. Các giải pháp thực thi chính sách tài khóa nếu

được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTT thì các mục tiêu chính sách tài khóa đạt

được sẽ là bước đệm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSTT.

Ngoài ra, NHNN cũng cần có một lộ trình hợp lý đối với định hướng thắt chặt

các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của NHNN trên cơ sở thực hiện đồng bộ với các giải

pháp điều hành lãi suất của NHNN tránh gây căng thẳng quá mức lên tình trạng thanh

khoản của hệ thống NHTM, đặc biệt là nhóm ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ.

83

3.3.8. Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hƣớng công khai, minh bạch hóa

thông tin

Trước hết, trong cơ chế điều hành lãi suất, NHNN cần phải đưa ra thông điệp rõ

ràng và minh bạch: lãi suất điều hành theo lạm phát cơ bản (không phải theo lạm phát

tổng thể - CPI), song song với việc thực hiện tái cấu trúc ngân hàng nói riêng và quá

trình tái cấu trúc nền kinh tế nói chung. Động thái này giúp mọi người hiểu hiểu được

mức độ đúng đắn của chính sách, từ đó, sẽ góp phần giúp cho việc điều hành chính sách

của NHNN nhận được sự đồng thuận của người dân cũng như của các tổ chức kinh tế,

qua đó làm gia tăng hiệu lực công tác điều hành.

Mặt khác, khi có những thay đổi trong công tác điều hành, NHNN cần thông báo

trước qua các bản thông tin định kỳ với báo chí và cho độ trễ về mặt thời gian để các

ngân hàng có thể điều chỉnh kịp thời, tránh gây ra những cú sốc đối với nền kinh tế.

Hành động này sẽ có tác dụng lớn trong việc định hướng kỳ vọng của dân chúng và giới

kinh doanh, giúp tránh được sự thống trị của tin đồn, và hành động đầu cơ gây ảnh

hưởng cho hệ thống. Các doanh nghiệp cũng chủ động để dự báo được động thái chính

sách và các ngân hàng cũng chủ động được phương án kinh doanh, cân đối được chi phí

của mình, có các phương án trung và dài hạn tốt hơn. Ngoài ra, khi có sự thay đổi các

mức lãi suất điều hành, NHNN có thể chia nhỏ thành nhiều bước lãi suất nhằm truyền

tín hiệu tới thị trường một cách từ từ, mềm mại thay vì đưa ra những mức thay đổi lớn

và đột ngột.

Từ ngày 1 tháng 4 năm 2012, NHNN chính thức mở kho dữ liệu theo thông tư

35/2011/TT-NHNN quy định về việc công bố và cung cấp thông tin. Rõ ràng đây là

những bước đi đầu tiên với sự quyết tâm cao của NHNN nhằm hướng đến mục tiêu trấn

an lòng tin của người dân và tránh những tin đồn thất thiệt ảnh hưởng đến an toàn của

hệ thống, đặc biệt là trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng như hiện nay với

những câu chuyện bên lề các thương vụ sáp nhập các TCTD. Trong giai đoạn đầu mới

84

triển khai thông tư này, tất nhiên NHNN sẽ vấp phải những khó khăn nhất định và chưa

thể mang lại sự hiệu quả hoàn toàn nhưng đây là hướng đi tốt mà NHNN cần phát huy

mạnh mẽ trong thời gian sắp tới.

3.3.9. Tăng cƣờng vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp

thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và khả năng dự báo kinh tế vĩ

mô và tiền tệ

Đây là một giải pháp đóng vai trò quan trọng cho việc điều hành lãi suất nói

riêng và CSTT nói chung. Công tác thống kê đặc biệt có ý nghĩa trong việc thu thập

tổng hợp thông tin cũng như hoạt động dự báo tình hình kinh tế vĩ mô và tiền tệ. Một

khi công tác dự báo được thực hiện tốt sẽ làm tăng hiệu quả, hiệu lực của công tác điều

hành, NHNN cũng dễ dàng hơn trong việc đối phó với những phản ứng của thị trường

trước sự thay đổi trong cơ chế điều hành chính sách. Do đó, NHNN cần không ngừng

nâng cao khả năng phân tích dự báo kinh tế vĩ mô nói chung và diễn biến thị trường tiền

tệ, vốn khả dụng của NHTM nói riêng theo hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng để

điều hành chính sách một cách chủ động, hiệu quả. Trong đó, chú trọng nâng cao chất

lượng công tác dự báo dựa trên cơ sở hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo

hướng tin học hóa hiện đại, đảm bảo nắm bắt được đầy đủ, kịp thời, chính xác thông

tin; tăng cường phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin giữa các Bộ, ngành để phục vụ

công tác phân tích, dự báo tiền tệ. Bên cạnh đó, NHNN cần sớm xây dựng hệ thống

mạng theo dõi các hoạt động trên thị trường tiền tệ, nhất là hoạt động trên thị trường

liên ngân hàng nhằm nắm bắt kịp thời thông tin về tình hình thị trường làm cơ sở cho

việc dự báo sự biến động lãi suất theo tình hình kinh tế trong và ngoài nước, qua đó áp

dụng các biện pháp định hướng lãi suất phù hợp với thực tế nền kinh tế.

3.4. Nhóm giải pháp đối với NHTM

Qua những phân tích trong chương 2, chúng ta có thể nhận thấy rằng tình trạng

căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay

85

một mặt do tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN nhưng mặt khác là do

những yếu kém nội tại của hệ thống. Chính vì vậy, để mang lại sự ổn định cho hệ thống

tài chính nói chung và tránh những cú sốc mang tính hệ thống trong tiến trình hội nhập,

bản thân các NHTM cũng cần phải tự hoàn thiện mình với những giải pháp mang tính

định hướng sau:

3.4.1. Lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng và nâng cao năng lực tài chính, tăng

cƣờng năng lực cạnh tranh trong kinh doanh

Nâng cao năng lực tài chính đồng nghĩa với việc các NHTM thực hiện các giải

pháp nhằm gia tăng vốn điều lệ thông qua thực hiện phát hành cổ phiếu hoặc thông qua

sáp nhập, hợp nhất; nâng cao chất lượng tài sản cũng như khả năng sinh lời của tài sản

có. Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định

kinh tế – xã hội và an toàn hệ thống, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các

ngân hàng hàng đầu trên thế giới mua cổ phiếu và tham gia quản trị, điều hành các

NHTM Việt Nam cũng đang là xu hướng thực hiện tại Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay. Bên cạnh đó, để lành mạnh hóa hoạt động, các NHTM cần tích cực xử lý thu hồi nợ

tồn đọng và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, đồng thời

tăng cường quản lý chi phí nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại để đảm bảo tình hình tài

chính luôn lành mạnh. Nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng chính là bức đệm tốt

giúp cho các NHTM tránh được những tác động tiêu cực từ các cú sốc bên ngoài, đảm

bảo an toàn hoạt động cho các ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong kinh

doanh cho các NHTM. Từ đó, tạo ra một kênh dẫn vốn nhịp nhàng cho nền kinh tế

cũng như thông đạt các tín hiệu giữa cung cầu vốn trên thị trường vừa đảm bảo

cung ứng đầy đủ vốn cho nền kinh tế, vừa đảm bảo CSTT thực thi đạt mục tiêu một

cách hiệu quả.

3.4.2. Thực hiện tái cơ cấu tài sản nợ - tài sản có trên cơ sở tăng cường năng lực huy

động vốn và tăng cường hiệu quả, chất lượng danh mục tín dụng, đầu tư; tập trung phát

86

triển dịch vụ ngân hàng từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh theo hướng giảm

bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng, tăng nguồn thu nhập từ hoạt động phi tín dụng.

Thực hiện tái cơ cấu tài sản nợ - tài sản có là việc các NHTM cơ cấu lại nguồn

vốn huy động và cho vay trên thị trường theo hướng: (i) điều chỉnh cơ cấu huy động vốn

giữa thị trường 1 và thị trường 2, trong đó thực hiện các giải pháp để gia tăng tỷ trọng

của huy động vốn trên thị trường 1 mang tính bền vững; (ii) cân đối giữa huy động vốn

ngắn hạn và huy động vốn dài hạn; (iii) cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay

trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn; (iv) điều

chỉnh cơ cấu cho vay vào lĩnh vực phi sản xuất và sản xuất theo hướng giảm tỷ trọng

cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản và

tiêu dùng. Để thực hiện sự chuyển dịch trong cơ cấu huy động vốn và cho vay của các

NHTM đạt hiệu quả, các NHTM cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung

vào hai nhóm giải pháp chính là:

3.4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại các NHTM

Nhóm giải pháp này sẽ tập trung hướng đến mục tiêu ổn định nguồn vốn huy

động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng dòng vốn chạy lòng vòng giữa

các ngân hàng, tránh tình trạng do nguồn vốn không ổn định khiến NHTM phải dự trữ

thanh khoản cao nên giá vốn bị đội lên quá cao so với mức lãi suất huy động, đồng thời

tránh được những cuộc đua lãi suất để huy động vốn giữa các ngân hàng. Nhằm để gia

tăng nguồn vốn huy động, các NHTM cần phải:

 Không ngừng đa dạng hoá sản phẩm tiền gửi theo loại hình, phân nhóm và mở

rộng đối tượng khách hàng theo hướng kết hợp việc đẩy mạnh những sản phẩm dịch vụ

truyền thống và khai thác phát triển những sản phẩm mới như các sản phẩm phái sinh,

phát triển các tiện ích đi kèm... Trong thời gian tới các ngân hàng chú trọng đẩy mạnh

công tác nguồn vốn, đặc biệt là trong công tác huy động vốn từ khách hàng- nguồn vốn

87

mang tính ổn định, bền vững.

 Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý để dung hòa lợi ích của người gửi tiền với

ngân hàng và để cạnh tranh với các kênh huy động vốn khác trên thị trường

 Phát triển mạng lưới hoạt động bền vững: việc phát triển về lượng đòi hỏi đi kèm

sự gia tăng về chất. Phát triển mạng lưới phải dựa trên cơ sở tăng vốn điều lệ, hiệu quả

hoạt động kinh doanh theo từng địa bàn và khu vực địa lý.

 Tăng cường công tác chăm sóc khách hàng nhằm giữ chân và thu hút khách

hàng, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng để tạo sự khác biệt, là cơ sở

quan trọng cho việc tạo niềm tin nơi khách hàng, từ đó tạo cơ hội để phát triển thương

hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, khi niềm tin

được xây dựng, ngân hàng cũng dễ dàng tiếp cận được với các nguồn vốn mang tính dài

hạn hơn.

 Xây dựng chiến lược huy động vốn phải luôn đi đôi với chiến lược sử dụng vốn,

nếu không sẽ gây áp lực lớn về chi phí và làm giảm hiệu quả hoạt động huy động vốn.

Các NHTM cần cố gắng tạo mối quan hệ huy động - sử dụng vốn chặt chẽ đối với các

thành phần kinh tế, các ngành nghề trọng điểm được Nhà nước chú trọng phát triển. Bên

cạnh đó, các NHTM cũng cần có sự đồng thuận với NHNN trong việc nỗ lực hạ mặt

bằng lãi suất cho vay trên thị trường, nhất là trong thời điểm nền kinh tế đang khó khăn

như hiện nay, qua đó hỗ trợ hoạt động các doanh nghiệp, duy trì sản xuất kinh doanh,

giúp hàng hóa tiêu thụ tốt hơn và do đó nguồn vốn sẽ tự động quay trở lại trong hệ

thống ngân hàng, gia tăng nguồn vốn huy động cho các NHTM.

3.4.2.2.Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của các NHTM

Hiện nay, tình trạng các ngân hàng thừa vốn trong khi các doanh nghiệp thiếu

vốn vẫn còn khá phổ biến, một phần do nền kinh tế lâm vào tình trạng đình trệ đã làm

88

giảm năng lực tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Mặt khác, do tình trạng nợ xấu gia tăng buộc các ngân hàng có phần siết chặt hơn trong

việc cấp vốn tín dụng, chú trọng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng hơn là mở rộng

cho vay như thời gian trước đây. Trong đó, các điều kiện vay vốn của các ngân hàng

nhìn chung vẫn nhằm mục đích ràng buộc khách hàng phải trả nợ hơn là sự phát triển

sản xuất kinh doanh. Do đó, để tháo gỡ khó khăn vay vốn cho doanh nghiệp cũng như

tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng được khơi thông, trước mắt các

NHTM cần thực hiện một số giải pháp như:

 Ngân hàng cần tích cực và chủ động hơn nữa trong việc phối hợp với khách hàng

vay phân tích nguyên nhân nợ quá hạn, từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những

doanh nghiệp có nợ quá hạn có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh bình

thường, ngân hàng cần xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong

thời gian tới để quyết định gia hạn nợ, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và có biện

pháp trả nợ.

 NHTM phải xem xét, đánh giá, sàng lọc lại khách hàng hiện có, có chính sách để

giữ chân khách hàng tốt và chủ động tìm kiếm khách hàng mới thay thế cho những

khách hàng xấu trong giới hạn tín dụng

 Tiếp tục hạ dần lãi suất cho vay phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất của NHNN

trong từng thời kỳ và những diễn biến trên thị trường để tạo điều kiện hơn nữa cho

doanh nghiệp tiếp cận vốn vay phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng thanh toán

của nền kinh tế.

 Kiểm soát tăng trưởng tín dụng phù hợp với sự tăng trưởng nguồn vốn song song

với quá trình cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy

động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.

 NHTM phải chú trọng đến chất lượng tín dụng, tái cấu trúc lại danh mục tín dụng

89

trong giới hạn quy định, chuyển dần cơ cấu tín dụng sang cho vay sản xuất để ngăn

ngừa, giảm thiểu rủi ro thất thoát tín dụng, không vì chạy theo chỉ tiêu lợi nhuận mà mở

rộng tín dụng thiếu sự kiểm soát như trong thời gian trước đây.

 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và chất lượng giám sát tín dụng, tiếp tục

hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, hoàn thiện mô hình chấm điểm, xếp loại

khách hàng.

3.4.3. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đáp ứng theo yêu cầu thông lệ quốc tế, đặc

biệt là năng lực quản trị rủi ro thanh khoản

Hoạt động ngân hàng là một hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà mức độ của

những rủi ro đó cũng đang ngày càng gia tăng theo tính chất bất ổn của nền kinh tế toàn

cầu. Chính vì lẽ đó, Ủy ban Basel đã không ngừng cải cách, cập nhật các tiêu chí an toàn

trong hoạt động ngân hàng, trong đó tập trung vào các tiêu chuẩn để quản trị tốt rủi ro

thanh khoản. Bởi lẽ hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản đóng vai trò quan trọng hết

sức quan trọng, đặc biệt có ý nghĩa khi đặt trong mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và

các loại rủi ro khác cũng như giữa rủi ro thanh khoản và khủng hoảng thanh khoản,

khủng hoảng ngân hàng. Nếu như trước đây, quản trị rui ro tín dụng được chú trọng ở

các NHTM Việt Nam do tính chất hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu thì hiện

nay các NHTM đã dành sự quan tâm đúng mức hơn cho hoạt động quản trị rủi ro thanh

khoản, đặc biệt là trong giai đoạn căng thẳng thanh khoản vừa qua.

Cùng với sự hội nhập kinh tế và sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài cũng

như cơ hội để các ngân hàng Việt Nam có hoạt động kinh doanh và hiện diện ở nước

ngoài thì việc áp dụng các chuẩn mực quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế là rất cần

thiết. NHNN cũng đã ban hành những văn bản, thông tư hướng dẫn liên quan đến việc

thực hiện các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, cụ thể là Thông tư

13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN dựa trên các tiêu chí của hiệp ước

Basel II. Tuy nhiên, do sự khác biệt về chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế

90

toán quốc tế nên nếu các NHTM chỉ dừng lại ở việc đáp ứng vừa đủ các quy định của

NHNN thì khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel II của các NHTM vẫn còn một

khoảng cách khá xa.

Nhằm để nâng cao năng lực quản trị rủi ro nói chung và quản tri rủi ro thanh

khoản nói riêng, các NHTM cần phải:

 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro gắn kết trực tiếp với các hoạt động kinh

doanh của ngân hàng, đủ linh động để có thể nhanh chóng thích nghi với các thay đổi

liên tục của môi trường rủi ro.

 Thiết lập các quy trình cụ thể nhằm xác định, đo lường, kiểm soát các rủi ro có

thể xảy ra.

 Các ngân hàng cần có được khả năng dự báo với độ chính xác cao khả năng

thanh khoản của ngân hàng để chủ động đưa ra kế hoạch hoạt động trong các tình huống

bất ngờ, do đó các mức cảnh báo sớm thanh khoản cũng cần được thiết lập.

 Ứng dụng đầu tư công nghệ thông tin hiện đại cho các biện pháp lượng hóa rủi

ro.

 Các ngân hàng cũng cần hiểu rõ mối quan hệ hữu quan giữa các loại rủi ro như

rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá... với rủi ro thanh khoản để có được định hướng đúng đắn

trong việc hoạch định chính sách kinh doanh của mình.

Để thực hiện những điều này chắc chắn các ngân hàng sẽ phải bỏ ra một nguồn

lực không nhỏ để có được hệ thống quản lý rủi ro lành mạnh. Điều này có thể làm các

ngân hàng hy sinh lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng sẽ đảm bảo lợi thế cạnh tranh trong

dài hạn và có được sự tin tưởng từ các nhà đầu tư trên thị trường và người dân.

3.4.4. Tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực,

tăng cƣờng năng lực cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, phát triển mạng lƣới

thƣơng hiệu để phục vụ tốt nhất cho quá trình tái cơ cấu

91

Nhằm để đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của NHNN, các NHTM

cần chủ động hơn trong việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự.. từ hội sở chính đến

các chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng; tiến hành tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới

chi nhánh, phòng giao dịch theo hướng phù hợp hơn, hoạt động có hiệu quả hơn sau hơn

một thời gian được mở ra một cách tràn lan. Bên cạnh đó, các NHTM cần phải phối hợp

với các đối tác chiến lược để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực

quản lý và hiệu quả kinh doanh trên cơ sở nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tái định

vị thương hiệu trong hệ thống.

3.4.5. Cải thiện tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động

Dưới tác động của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, hệ thống các NHTM

trong thời gian vừa qua đã gặp nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn cũng như

hoạt động cho vay, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng tỷ lệ cho vay/huy động thể

hiện rõ khó khăn của tình hình thanh khoản của các NHTM, nhiều ngân hàng tỷ lệ này

vượt trên mức 100%. Tình trạng này không thể cải thiện một sớm một chiều. Bên cạnh

những giải pháp mang tính vĩ mô từ NHNN và Chính Phủ, bản thân các NHTM cũng

cần nỗ lực trong việc lành mạnh hoạt động theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động huy

động vốn cũng như chất lượng cho vay.

3.4.6. Giải pháp giảm tỷ lệ nợ xấu

Mặc dù có sự khác nhau về mặt con số nợ xấu do các cơ quan chức năng đưa ra,

với thực trạng nợ xấu ngày càng tăng trong hệ thống ngân hàng như hiện nay, chúng ta

cần thừa nhận rằng tình trạng nợ xấu trên thực tế có thể còn nghiêm trọng hơn những

con số đó đang là trở lực cho dòng vốn tín dụng từ ngân hàng vào nền kinh tế sản xuất

cũng như gây mất lòng tin, đe dọa an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chính vì

vậy, xử lý nợ xấu đang là một trong những vấn đề mang tính cấp thiết, cần xử lý sớm

trong giai đoạn hiện nay của hệ thống ngân hàng. Để tìm ra giải pháp hợp lý góp phần

giảm nợ xấu, các NHTM cần hiểu rõ nguyên nhân gây ra nợ xấu có thể nhìn nhận ở 2

92

khía cạnh: (i) tình trạng buông lỏng một số tiêu chí cho vay nhằm thỏa mãn tốc độ tăng

trưởng cao trong quá khứ, trong đó nhiều khoản nợ chủ yếu nằm ở lĩnh vực bất động

sản, chứng khoán – những lĩnh vực hoạt động rủi ro cao và có sức cầu suy giảm mạnh

trong thời gian vừa qua; (ii) vòng luẩn quẩn từ tình trạng đình trệ của nền kinh tế đó là:

lãi suất cho vay cao dẫn đến doanh nghiệp không tiếp cận được vốn- doanh nghiệp khó

khăn về vốn cùng với các cú sốc cung dẫn đến kinh tế đình trệ - kinh tế đình trệ làm suy

giảm khả năng trả nợ đúng hạn của doanh nghiệp- khả năng trả nợ của doanh nghiệp

giảm dẫn đến thanh khoản trên thị trường tín dụng của các NHTM giảm - thanh khoản

giảm đi kèm với lạm phát do sốc cung buộc lãi suất huy động của NHTM trên thị trường

1 tăng, cuối cùng lại khiến lãi suất cho vay tăng cao. Do đó, giải pháp giảm tỷ lệ nợ xấu

hiện nay của các NHTM sẽ là:

Một là, tăng cường quản trị rủi ro tín dụng, phân tầng quản lý rủi ro đến từng chi

nhánh để sát sao với từng khoản vay, từ đó kiểm soát tốt nhất rủi ro nợ xấu.

Hai là, chọn lọc các dự án cho vay và cẩn trọng trong quy trình xét duyệt nhằm

hạn chế nguy cơ nợ xấu tăng thêm trong những năm tiếp theo.

Ba là, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp.

NHNN cần tiếp tục giảm tiếp lãi suất cho vay hiện đang còn ở mức cao khi so

sánh với tỷ suất sinh lời của các doanh nghiệp. Sự đồng thuận từ phía các NHTM trong

nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất đầu ra trên thị trường của NHNN là hết sức quan trọng.

Tình hình thực hiện giảm lãi suất còn phụ thuộc vào tiềm lực của từng ngân hàng, trong

đó lợi thế thuộc về những ngân hàng có (i) nguồn vốn huy động chi phi thấp và không

tiến hành chạy đua lãi suất trong thời gian vừa qua; (ii) hoạt động quản trị rủi ro và trích

lập dự phòng tốt; (iii) cơ sở khách hàng chất lượng tốt. Nếu sức khỏe các khách hàng

hiện tại của ngân hang được đảm bảo đồng đều, việc giảm lãi suất sẽ đem đến lợi ích

cho cả hai bên doanh nghiệp và ngân hàng. Bên cạnh đó, bài toán giảm lãi suất trong bối

93

cảnh chống lạm phát hiện nay cần phải căn bản đi theo hướng: tập trung tăng cung hàng

hóa và dịch vụ có chất lượng cho tiêu dùng, tăng năng suất lao động, khơi thông các

dòng chảy của vốn một cách hợp lý vào các nhóm ngành hàng ưu tiên.

Bốn là, xử lý nợ xấu thông qua thu hồi nợ và phát mãi các tài sản đảm bảo thông

qua công ty quản lý tài sản chuyên mua bán nợ của mình hoặc công ty mua bán nợ của

Bộ tài chính và bán nợ cho các tổ chức khác.

Đề án 254 cụ thể hóa các biện pháp xử lý nợ xấu của các NHTM, bao gồm bán

nợ có tài sản đảm bảo cho công ty mua bán nợ của Bộ tài chính (DATC), bán nợ xấu

cho các doanh nghiệp không phải TCTD, chuyển nợ thành vốn góp cổ phần của doanh

nghiệp vay, các khoản nợ xấu phát sinh do cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ sẽ được

xóa nợ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do khối lượng nợ xấu là khá

lớn, phần lớn các ngân hàng cho rằng việc thành lập công ty mua bán nợ (AMC) qui mô

lớn là cần thiết do các công ty AMC của mỗi ngân hàng đều có qui mô tương đối nhỏ và

không thể mua bán các khoản nợ của chính Ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, việc thành lập

công ty AMC qui mô theo ước tính khoảng 100.000 tỷ đồng của các chuyên gia kinh tế

cũng mới chỉ dừng lại ở giai đoạn đang nghiên cứu. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề liên quan

đến việc mua bán nợ chưa thể giải quyết như Ai sẽ mua lại nợ xấu? Nguồn tiền cho hoạt

động này là ở đâu? Giá, nhóm nợ và tiêu chí được mua bán? Có gây tác động tới lạm

phát hay không? Mức độ mua từ các ngân hàng như thế nào? Do đó, việc thành lâp công

ty mua bán nợ xấu sẽ không thể xảy ra trong thời gian ngắn và trước mắt, các ngân hàng

vẫn phải tự nỗ lực giải quyết nợ xấu.

3.4.6. Tăng tính minh bạch và tính đại chúng trong hoạt động ngân hàng

Hiện nay tính minh bạch thông tin của hệ thống NHTM còn rất hạn chế.

Hầu hết các NHTM dù công bố thông tin ra đại chúng thông qua phương tiện truyền

thông là website và báo chí nhưng những nguồn thông tin này kém cập nhật và không

94

đầy đủ. Điều này làm người gửi tiền không thể đánh giá được khả năng thanh khoản của

ngân hàng nhận tiền gửi. Điều này dễ dẫn tới hiện tượng dòng tiền gửi chạy từ những

NHTM hoạt động ổn định chào lãi suất huy động thấp sang những ngân hàng yếu thanh

khoản chào lãi suất huy động cao hơn. Rủi ro hệ thống sẽ tăng lên khi nguồn tiền gửi

được tập trung ở những ngân hàng kém thanh khoản, khi đó chỉ cần một ngân hàng nhỏ

đổ vỡ nó có thể gây ảnh hưởng ngoại tác lớn hơn rất nhiều. Để hạn chế tình trạng này

cần có sự minh bạch thông tin giữa hệ thống NHTM và người gửi tiền.

Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường vai trò của Hiệp hội Ngân hàng trong việc ổn

định, thống nhất chung về lãi suất giao dịch của các NHTM, tránh sự cạnh tranh không

lành mạnh về lãi suất, gây ảnh hưởng bất lợi cho những ngân hàng nhỏ.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Việt Nam cần phải có sự tự do hóa lãi suất với sự định hướng của NHNN để đảm bảo

tiến gần đến các thông lệ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta

cần phải thận trọng từng bước để chính sách tự do hóa lãi suất không đi lệch hướng và

ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế - xã hội. Điều đó đòi hỏi nghệ thuật điều hành của

NHNN trong việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trong ngắn hạn như mềm hóa trần

lãi suất huy động, thực hiện hỗ trợ thanh khoản linh hoạt cho các NHTM… cũng như

những giải pháp mang tính dài hạn hơn đó là tái cơ cấu ngân hàng. Với một số định

hướng trong việc lựa chọn cơ chế điều hành lãi suất của NHNN cũng như các giải pháp

để hoàn thiện công tác điều hành lãi suất của NHNN, nâng cao năng lực thanh khoản

cho các NHTM được đề cập trong chương 3, hy vọng đề tài sẽ mở ra một hướng

nghiên cứu mới về một cơ chế điều hành lãi suất hiệu lực, hiệu quả và phù hợp cho tình

hình và điều kiện kinh tế Việt Nam.

KẾT LUẬN

Bài viết cho chúng ta một cái nhìn rõ nét hơn về cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam cũng như những tác động của cơ chế này đến thanh khoản của các

NHTM, đặc biệt là nhóm NHTM vừa và nhỏ. Những phân tích trên đây cũng cho thấy

rằng những sự biến động lãi suất trên thị trường hay tình trạng căng thẳng thanh khoản

của các NHTM Việt Nam không chỉ do sự tác động hạn chế của cơ chế điều hành lãi

suất của NHNN mà còn xuất phát từ những yếu kém nội tại của hệ thống ngân hàng

được phơi bày rõ nét hơn trong thời gian vừa qua. Hy vọng rằng với những nhóm giải

pháp được đề cập trong chương 3 của bài viết sẽ góp phần nhỏ bé cho việc điều hành lãi

suất hiệu quả hơn của NHNN, mang lại sự an toàn trong họat động của hệ thống ngân

hàng. Đây cũng là mục tiêu quan trọng mà cơ chế điều hành lãi suất nói riêng và CSTT

nói chung luôn hướng đến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Thị Ngọc Anh (2011), “Trao đổi về cơ chế áp dụng lãi suất trong huy động vốn

của NHNN hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 15), tr. 27-28.

2. Nguyễn Ngọc Bảo (2011), “Lãi suất cơ bản trong điều hành chính sách lãi suất từ

sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận”, Tạp chí ngân hàng, (Số 11), tr. 13-15.

3. Vũ Hoài Chang (2011), “Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng

trung ương”, Khoa học v đ o tạo ngân hàng, (Số 4), tr. 15.

4. Trương Thị Mỹ Chi (2011), Thực trạng lãi suất th tr ờng tiền tệ Việt Nam giai

đoạn 2007-2010, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

5. Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngọai thương Việt Nam (2012), Báo cáo cập nhật

ng nh ngân h ng qu 1 năm 2012, Hà Nội.

6. Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngọai thương Việt Nam (2012), Báo cáo cập nhật

ng nh ngân h ng qu 2 năm 2012, Hà Nội.

7. Hà Quang Đào (2011), “Nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua – giải

pháp thời gian tới”, Nghiên cứu kinh tế, (Số 310), tr. 17-22.

8. Lê Phan Thanh Hòa (2011), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt

Nam”, Công nghệ ngân hàng, (Số 67), tr. 39-43.

9. Trần Huy Hoàng chủ biên (2010), “Qu n tr ngân hàng”, TPHCM: Nhà xuất bản

Lao Động Xã Hội.

10. Nguyễn Thị Minh Huệ (2011), “Phân tích hiệu quả của chính sách lãi suất năm

2011 của Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (Số 24), tr. 13-17.

11. Nguyễn Đắc Hưng (2011), “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi

suất và phát triển thị trường tiền tệ”, Tạp chí ngân hàng, (Số 10), tr. 16-18.

12. Nguyễn Xuân Hưng (2009), “Lạm bàn về cơ chế lãi suất trong cơ chế thị trường của

Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (Số 7), tr. 34-42.

13. Nguyễn Xuân Hưng (2010), “Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước và liên

hệ với Việt Nam”, Th tr ờng tài chính tiền tệ, (Số 16), tr. 21-23.

14. Minh Khuê (2012), “Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam”,

Tạp chí ngân hàng, (Số 3), tr. 23-27.

15. Nguyễn Đại Lai (2011), “Giảm lãi suất trong bối cảnh chống lạm phát”, Chứng

khoán Việt Nam, (Số 154), tr. 33-36.

16. Nguyễn Minh Phong (2010), “Điều hành lãi suất ngân hàng theo hướng giảm dần –

Kết quả bước đầu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí ngân hàng, (Số 9), tr. 2-9.

17. Châu Đình Phương (2009), “Suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay”, Tạp

chí ngân hàng, (Số 6), tr. 69.

18. Peter S.Rose, 1998. Qu n tr Ngân h ng Th ơng mại. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch

Nguyễn Huy Hoàng và cộng sự, 2004, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.

19. Văn Tạo (2009), “Cơ chế điều hành lãi suất mới đã phát huy tác dụng góp phần kiềm

chế lạm phát và chống suy giảm kinh tế”, Th tr ờng Tài chính Tiền tệ, (Số 274-

275), tr. 40-43.

20. Tô Trung Thành – Nguyễn Trí Dũng (2012), Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012, Từ bất n

vĩ mô đến con đ ờng tái cơ cấu, Nhà xuất bản tri thức, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), “Chính sách lãi suất – Cơ sở lý luận và thực tiễn”,

Tạp chí ngân hàng, (Số 8), tr. 5-24.

22. Nguyễn Thị Kim Thanh (2011), “Chính sách tiền tệ – Hướng tới bình ổn thị trường

tiền tệ và kiềm chế lạm phát”, Tạp chí ngân hàng, (Số 20), tr. 22-25.

23. Bùi Thị Phương Thảo (2011), Nguyên nhân của tình trạng chạy đua lãi suất trong

hệ thống NHTM và gi i pháp chính sách, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

24. Trần Trọng Triết (2011), “Lãi suất tiếp tục là bài học cho năm 2011”, Thuế Nhà

n ớc, tr. 26-27.

25. Nguyễn Đình Tự (2011), “Một số ý kiến về điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí ngân hàng, (Số 20), tr. 26-29.

26. Nguyễn Anh Vũ (2011), “Bàn về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam”,

Công nghệ ngân hàng, (Số 28), tr. 43-45.

27. Viện nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), Cơ chế điều hành lãi suất th tr ờng

tiền tệ của ngân h ng Trung ơng – Kỷ yếu hội th o khoa học, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

Website tham khảo

28. Cổng thông tin dữ liệu tài chính - chứng khoán Việt Nam: http://cafef.vn

29. Website Tổng Cục thống kê: www.gso.gov.vn

30. Website của Học viện ngân hàng: http://www.hvnh.edu.vn/magazine

31. Website Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam:

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3hnd0

cPE3MfAwN_DxdLA08LL2-fEMMALwtLI_2CbEdFAP7mbV0!/

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gDFx

NLczdTEwN3NyNzA0__INfAYEcXo2AXE_2CbEdFAAeDpaQ!/

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3gDFx

NLczdTEwN3NyNzA0__INfAYEcXo2AXE_2CbEdFAAeDpaQ!/?WCM_GLOBAL_CON

TEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/vn.sbv.currency/vn.sbv.currency.profit/vn.sbv.

currency.profit2.cnt

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3g3I0c

zIzcPIwMLEwNjA08TV8tAf_cw4wATM_2CbEdFAIam2Fk!/

32. Website Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam: www.vnba.org.vn

33. Website của các NHTM được khảo sát.

http://www.abbank.vn/vi/Nha-Dau-Tu-Co-Dong/AnualReports.aspx

http://www.acb.com.vn/codong/bcthuongnien.htm

http://www.agribank.com.vn/91/828/thu-vien/bao-cao-thuong-nien.aspx

http://www.bidv.com.vn/Tin-tuc-su-kien/Bao-cao/Bao-cao-thuong-nien.aspx

http://www.eximbank.com.vn/vn/baocaotaichinh.aspx

http://www.habubank.com.vn

http://www.hdbank.com.vn/Resources/file/thongtin_cd/bctn

http://kienlongbank.vn/UploadFolder/file/BC_ThuongNien

http://www.mbbank.com.vn/nhadautu/Lists/baocaotaichinh/Attachments/15/Bao_cao_th uong_nien

http://www.navibank.com.vn/?pageId=bao-cao-thuong-nien

http://oceanbank.vn/Thong-Tin-Danh-Cho-Co-Dong/Bao-Cao/Index.html

https://www.techcombank.com.vn/Desktop.aspx/Nha_dau_tu/Bao-cao-thuong- nien/Bao_cao_thuong_nien/

http://www.vietabank.com.vn/Default.aspx?tabid=118

http://www.vietcombank.com.vn/annualreports/

http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/annual/index.html

34. Http://www.newyorkfed.org/markets/statistics/dlyrates/fedrate.html

http://www.westernbank.vn/?ctrl=Detail&News=200706200123471250

PHỤ LỤC 1

DIỄN BIẾN LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU VÀ LÃI SUẤT QUỸ DỰ TRỮ

LIÊN BANG MỸ TỪ 2007 ĐẾN NAY

Lãi suất chiết khấu

FFR

Ngày

Mức lãi suất

Mức thay đổi

Mức thay đổi

Chƣơng trình tín dụng chính

Chƣơng trình tín dụng thứ cấp

2010

19 tháng 2

+0.25

0.75

1.25

2008

-1 đến -0.75

0 đến 0.25

0.50

1.00

16 tháng 12

-0.75

1.25

1.75

-0.50

1.00

29 tháng 10

-0.50

1.75

2.25

-0.50

1.50

08 tháng 10

-0.50

2.25

2.75

-0.25

2.00

30 tháng 04

-0.25

2.50

3.00

-0.75

2.25

18 tháng 03

-0.75

3.25

3.75

16 tháng 03

-0.25

3.50

4.00

-0.50

3.00

30 tháng 01

-0.50

4.00

4.50

-0.75

3.50

22 tháng 01

-0.75

2007

4.75

5.25

-0.25

4.25

11 tháng 12

-0.25

5.00

5.50

-0.25

4.50

31 tháng 10

-0.25

5.25

5.75

-0.50

4.75

18 tháng 09

-0.50

5.75

6.25

17 tháng 08

-0.50

Nguồn: website http://www.newyorkfed.org/markets/statistics/dlyrates/fedrate.html [34]

Ghi chú: Lần thay đổi lãi suất quỹ dự trữ liên bang(FFR) gần nhất là ngày

16/12/2008, duy trì mức 0-0,25% cho đến nay.

PHỤ LỤC 2

CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN GIAI ĐOẠN

TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY

Hiện nay, các loại lãi suất điều hành chủ yếu đã và đang được NHNN sử dụng để

can thiệp vào thị trường tiền tệ bao gồm:

Lãi suất cơ bản: là lãi suất chỉ áp dụng cho đồng Việt Nam, do NHNN

công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản

được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ

thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng

biến động cung – cầu vốn.

Lãi suất chiết khấu – tái chiết khấu: là lãi suất áp dụng khi NHNN tái

chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (tín phiếu kho bạc, chứng

chỉ tiền gửi) cho các TCTD nói chung và NHTM nói riêng.

Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất áp dụng khi NHNN tái cấp vốn cho các

TCTD thông qua các hình thức tái cấp vốn như: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết

khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay có

đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

ãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện t liên ngân hàng và

cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước iệt Nam đối với các ngân hàng.

Lãi suất thị trường mở (lãi suất OMO): ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường

mở là nghiệp vụ của NHNN để tiến hành mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá trên thị

trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Hiện nay, hình thức đấu thầu

được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam là đấu thầu khối

lượng và lãi suất OMO chính là lãi suất hay mức chiết khấu các giấy tờ có giá được áp

dụng trong nghiệp vụ thị trường mở của NHNN. Do đó, lãi suất OMO ở nước ta mang

tính lãi suất chính sách, chịu sự điều chỉnh của NHNN. Lãi suất OMO thường giao động trong khoảng giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn.

Trước những biến động khôn lường của điều kiện kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước,

quá trình điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn từ năm 2007 đến nay đã có sự chuyển

biến khá linh hoạt biểu hiện cụ thể như sau:

Giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008

Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận

lợi so với các năm trước: thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp, mức giá cả nguyên

nhiên vật liệu tăng cao đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có

điểm dừng cùng với các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao. Từ cuối năm 2007 một số chỉ tiêu

kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu hiện xấu và tiếp tục tác động sang năm

2008: chỉ số giá trong năm 2007 tăng tới 12,6%; các chỉ số về tổng phương tiện thanh

toán, tổng mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất cao

nhưng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế không hiệu quả, dòng vốn có xu hướng

chảy vào các hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro như chứng khoán và bất động

sản. Năm 2007 cũng chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng số lượng ngân hàng chủ yếu với

quy mô nhỏ mới thành lập hoặc được nâng cấp lên từ các ngân hàng nông thôn đã tạo ra

sự mất cân đối trong việc huy động và cho vay của các ngân hàng. Kết quả là, năm 2007

hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp phải hai vấn đề lớn: rủi ro về mặt thanh khoản và

rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản.

Trước bối cảnh vĩ mô đó, NHNN đã điều hành lãi suất theo hướng thận trọng,

linh hoạt, cụ thể là :

NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản và các mức lãi suất điều hành khác nhằm

định hướng lãi suất thị trường, lãi suất cơ bản chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với các ngân

hàng khi ấn định lãi suất kinh doanh. NHNN đã giữ ổn định các mức lãi suất chính

thức do NHNN công bố (lãi suất cơ bản: 8.25%/năm, lãi suất tái cấp vốn: 6.5%/năm,

lãi suất chiết khấu: 4.5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên

ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam đối với các ngân hàng: 10.8%/năm) nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất

thị trường trong nước song song với việc thực hiện các giải pháp kiểm soát tổng phương

tiện thanh toán, chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng đặc biệt là các hoạt động tín

dụng liên quan đến lĩnh vực chứng khoán và bất động sản nhằm kiểm soát lạm phát.

 Thống nhất thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong việc huy động

tiền gửi và tiếp tục áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng

thƣơng mại bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng đối với khách hàng theo quyết

định số 546/2002/QĐ-NHNN, trong đó quy định các ngân hàng xác định lãi suất cho

vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của

khách hàng vay. Việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận giai đoạn này đã tạo điều kiện

cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn, tăng năng lực cạnh

tranh, chủ động phòng ngừa rủi ro và hội nhập vào nền tài chính khu vực và quốc tế.

Giai đoạn từ năm 2008 đến nay

Đây là giai đoạn nền kinh tế trong nước chịu nhiều tác động của cuộc khủng

hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt nguồn từ Mỹ và nhanh chóng lây lan rất nhanh ra tất

cả các khu vực khác của thế giới, kéo theo suy thoái, thậm chí đại suy thoái kinh tế toàn

cầu. Do đó, việc điều hành lãi suất của NHNN cũng gặp rất nhiều khó khăn và thách

thức.

Năm 2008, tình hình kinh tế trong nước bắt đầu chịu nhiều tác động xấu từ

những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới bên cạnh những dấu hiệu bất ổn của tình

hình vĩ mô một năm trước đó. Hai quý đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát tăng cao chưa có

dấu hiệu chững lại, đến hết tháng 06/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 18,44% so với

31/12/2007 và tăng 24,8% so với cùng kỳ năm 2007. Trước tình hình đó, công tác

chống lạm phát đã được Chính phủ ưu tiên hàng đầu và NHNN đã tiến hành một lọat

các giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm để kiềm chế lạm phát như : tăng tỷ lệ dự trữ bắt

buộc theo quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008 và phát hành tín phiếu

bắt buộc đối với 41 tổ chức tín dụng trị giá 20.300 tỷ đồng thời hạn 1 năm theo quyết

định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008 nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động

kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù

hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đồng loạt tăng các loại lãi suất chủ chốt như lãi suất

cơ bản tăng từ 8.25% lên 8.75%, lãi suất tái chiết từ 4.5% tăng lên thành 6%, lãi suất

tái cấp vốn tăng từ 6.5% lên 7.5%… Song song với các biện pháp rút tiền từ lưu thông

về, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cung ứng tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở

để hỗ trợ các tổ chức tín dụng giải quyết tình trạng mất cân đối vốn khả dụng tạm thời.

Tuy nhiên, hệ quả của các biện pháp này là tác động mạnh đến tình hình thanh khoản

của các NHTM, đặc biệt đối với những ngân hàng vừa và nhỏ. Từ thực tế là các Ngân

hàng Thương mại đã sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay kinh doanh chứng khoán và bất

động sản quá mức. Khi Ngân hàng Nhà Nước thắt chặt tiền tệ, đối mặt với mức lãi suất

liên ngân hàng cao, khả năng tiếp cận nguồn vốn trên thị trường mở và thị trường dân

doanh còn hạn chế, các ngân hàng vừa và nhỏ không còn biện pháp nào khác ngoài việc

tăng lãi suất huy động để cải thiện vấn đề thanh khoản, và từ đó cuộc đua lãi suất đã

hình thành. Lãi suất cơ bản của NHNN chỉ với mức 8,75%/năm và lãi suất tái chiết khấu

cấp vốn với mức 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu với mức 6%/năm theo quyết định

306/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 vẫn không có tác dụng hướng dẫn thị trường. Trước

tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo

công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua lãi suất này.

Sau đó, NHNN đã thông qua quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008

về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, theo đó quy định việc các

TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng

không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Trên cơ sở quyết định

trên, cùng ngày 16/5/2008, NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là

12%/năm và tiếp sau đó tăng lên 14%/năm vào ngày 11/06/2008. Việc huy động vốn

bằng VND của các tổ chức tín dụng phù hợp với mức trần lãi suất huy động 12%/năm

theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Đồng thời,

NHNN điều chỉnh 2 đợt tăng tương ứng lãi suất chiết khấu lên mức 11-13%/năm và lãi

suất tái cấp vốn lên 13-15%/năm nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng

kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương

cho người gửi tiền.

Sang Quý 3/2008, cuộc đua lãi suất bắt đầu có dấu hiệu chững lại nhưng bắt đầu

xuất hiện những dấu hiệu suy giảm kinh tế: thị trường chứng khoán và bất động sản rất

ảm đạm, hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa đã cắt giảm sản xuất, do thiếu vốn nhưng

không thể tiếp cận được tín dụng do lãi suất tăng cao trong những tháng đầu năm đã và

đang đứng trước nguy cơ phá sản, thất nghiệp tăng, mức tăng trưởng kinh tế chậm dần.

Do đó, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.

NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm ,

12%/năm, 10%/năm và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%/năm

13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuống 12%/năm,

11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên

ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các

Ngân hàng Thương mại từ 15%/năm xuống 14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và

9,5%/năm ; lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên 3,5%/năm, 5%/năm,

10%/năm sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm; tín phiếu bắt buộc đựơc thanh toán

trước hạn; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% xuống đến 5%. Tất cả những quyết định

trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các NHTM trong việc mở rộng “hầu

bao” cho vay đối với nền kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động

ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế.

Kết thúc năm 2008, chúng ta đã đạt kết quả tích cực với mục tiêu chống

lạm phát trong những tháng đầu năm, ngăn chặn được cuộc chạy đua lãi suất giữa

các Ngân hàng Thương mại, thanh khoản tiền đồng đầu năm 2008 rơi vào khủng

hoảng nhưng cuối năm lại tương đối dồi dào. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN

đi từ định hướng thắt chặt và linh hoạt n a đầu năm 2008 cũng chuyển dần sang nới

lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm để chống suy giảm kinh tế. Đi cùng

với quá trình này là tần suất cao của sự điều chỉnh các lãi suất chủ chốt kết hợp với

việc s dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác như: tỷ lệ dự trữ bắt

buộc, và đặc biệt là áp dụng cơ chế điều hành lãi suất mới: cơ chế điều hành lãi suất

cơ bản thay thế cho việc áp dụng lãi suất trần huy động và cơ chế lãi suất cho vay

thỏa thuận trong những tháng đầu năm.

Sang đến năm 2009, nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường

phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính

và suy thoái kinh tế. Vẫn chưa có nhiều biểu hiện tích cực về sự khôi phục kinh tế thế

giới, khu vực doanh nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận

nguồn vốn tín dụng, nhu cầu tiêu dùng trong năm 2009 cũng giảm mạnh. Việc thực hiện

cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trong thời điểm này đã làm phát sinh nhiều hệ lụy tiêu

cực: các NHTM thường xuyên áp dụng các chương trình khuyến mãi, quà tặng làm cho

lãi suất huy động thực vượt xa mức trần quy định. Và tất yếu lãi suất đầu ra tăng theo đủ

để bù đắp lợi nhuận của Ngân hàng Thương mại. Tình trạng thu thêm các loại phí quản lý

tài sản, thu thêm phần bù lãi suất, thỏa thuận lãi suất ngầm với ngân hàng khi vay vốn

cũng bắt đầu xuất hiện. Để khắc phục tình trạng trên, Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành

thông tư số 01/2009TT-NHNN vào ngày 01/02/2009 hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của

các Ngân hàng Thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay

thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống

kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Các lĩnh vực nằm ngoài phạm vi

điều chỉnh của thông tư này sẽ tiếp tục thực hiện theo cơ chế lãi suất cơ bản, theo đó các

TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng VND không quá 150% lãi suất cơ bản.

Mặt khác, để chống lại sự suy giảm kinh tế, các mức lãi suất điều hành đồng loạt

được NHNN điều chỉnh giảm 1% so với thời điểm cuối năm 2008 và duy trì ổn định cho

đến hết tháng 11. Cụ thể, lãi suất cơ bản hạ từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm, lãi suất

tái cấp vốn là 7%/năm so với mức 8%/năm như trước đây. Lãi suất tái chiết khấu là

5%/năm so với mức 6%/năm. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên

ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà

nước đối với các ngân hàng giảm từ 8%/năm xuống 7%/năm. Đến tháng 12/2009, để

kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô

theo Nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho

các TCTD huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế để mở rộng kinh doanh và đáp ứng các

nhu cầu vốn sản xuất - kinh doanh có hiệu quả, NHNN điều chỉnh tăng các mức lãi suất

điều hành thêm 1%.

Bên cạnh đó, nhằm mục tiêu kích cầu, NHNN đã ban hành cơ chế hỗ trợ lãi

suất cho các NHTM với mức hỗ trợ lãi suất lên đến 4%/năm, thời gian hỗ trợ từ 8 đến 24

tháng tùy theo loại hình cho vay, điều này có tác động làm tăng trưởng tín dụng rất nhanh

trong khi nguồn huy động không kịp đáp ứng dẫn đến việc một số ngân hàng nhỏ gặp khó

khăn về thanh khoản. Chính vì vậy, từ cuối năm 2009, NHNN đã có kế hoạch hỗ trợ

thanh khoản cho các TCTD. Một mặt, NHNN chỉ đạo các NHTM chỉ sử dụng vốn liên

ngân hàng để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo thanh khoản, tiếp tục hỗ trợ

vốn cho thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý khi thừa thanh khoản. Mặt khác, NHNN

cũng tăng cường hỗ trợ cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở với 2 phiên

giao dịch/ngày bắt đầu từ ngày 23/12/2009.

Như vậy, việc điều hành lãi suất của NHNN trong năm 2009 có phần

ổn định hơn so với năm 2008, biểu hiện là mức lãi suất điều hành được duy trì khá

ổn định góp phần giúp suy giảm kinh tế dần được phục hồi. Tuy nhiên, bên cạnh đó,

việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong lĩnh vực tiêu dùng và cơ chế hỗ trợ lãi

suất kéo dài trong một khoảng thời gian đã làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng

nhanh trong khi lượng vốn huy động ít lại cũng đã dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất

ngầm giữa các ngân hàng.

Đến năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng

như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai

đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước

những biến động đó, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng

hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng

những tháng cuối năm một cách hiệu quả, lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian

dài và sau đó tăng lên vào cuối năm. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng

đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh

lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.

Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị

trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định ràng buộc về các

loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm 2010, NHNN đã ban hành Thông tư

07/2010/TT-NHNN ngày 26/02; Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04 cho phép

TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận với việc mở

rộng thêm dần các đối tượng được áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận. Điều này góp

phần tạo mặt bằng lãi suất mới với mức hợp lý hơn, hướng đến việc tìm kiếm các nguồn

vốn có giá thành hợp lý để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sản xuất kinh

doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Song song với việc bỏ

trần lãi suất cho vay, Ngân hàng Nhà Nước cũng đưa ra yêu cầu các Ngân hàng Thương

mại là phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung - cầu vốn

thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.

Từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo

NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%,

lãi suất cho vay khoảng 12% và điều hành tỷ giá ở mức hợp lý. Tăng tính thanh khoản

cho nền kinh tế thông qua việc tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng.

Tuy nhiên, trước những diễn biến không thuận lợi của kinh tế vĩ mô, quyết tâm của

Chính phủ trong việc thực hiện mục tiêu lãi suất “vào 10 ra 12” của Chính phủ đã không

phát huy được tác dụng vì mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế diễn biến theo chiều

ngược lại, luôn chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt là vào các tháng cuối năm.

Cũng như năm 2008, lạm phát xu hướng tăng cao xuất hiện vào những tháng cuối

năm 2010 này đã khiến NHNN phải kiềm chế bằng các biện pháp thắt chặt tiền tệ. Thêm

vào đó, nửa cuối năm 2010 các NHTM phải đối mặt với áp lực rất lớn nhằm đáp ứng

các chỉ tiêu an toàn hoạt động của NHNN theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày

20/05/2010 và Thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010. Tác động của chính sách

này cũng là giọt nước làm tràn ly đối với những yếu kém thanh khoản tiềm ẩn bên trong

nội tại của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ, từ đó, cuộc đua lãi suất năm 2010 hình thành.

Dự đoán được mặt bằng lãi suất có thể tăng cao dưới tác động của chính sách thắt chặt

tiền tệ, ngày 05/11/2010 Hiệp hội ngân hàng đã đứng ra kêu gọi các NHTM cam kết giữ

mức lãi suất huy động ở mức 12%. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, đầu tháng

12/2010 một số NHTM tìm cách đưa lãi suất thực trả cao hơn lãi suất trần huy động cho

phép đã đồng thuận trước đó bằng các hình thức khuyến mãi. Kéo theo đó, các NHTM

khác cũng lách luật để tăng lãi suất huy động.

Nhìn chung, trong năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục

hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, lạm

phát tăng cao và có những diễn biến phức tạp. Lãi suất được điều hành khá ổn định

trong 10 tháng đầu và có sự điều chỉnh tăng trở lại trong 2 tháng cuối năm. Mặt

bằng lãi suất thị trường tăng cao, trong đó tái diễn cuộc chạy đua lãi suất của các

NHTM mặc dù đã có sự đồng thuận về lãi suất huy động của Hiệp hội ngân hàng đã

gây ra nhiều khó khăn cho công tác điều hành lãi suất của NHNN trong thời gian

tới. Bên cạnh đó, cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận tiếp tục đựợc áp dụng cùng với

việc mở rộng diện đối tượng chịu sự điều chỉnh, phù hợp với tiến trình tự do hóa lãi

suất của nước ta.

Trong bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới năm 2011 với những nét cơ bản

gồm “tăng trưởng chậm, không cân bằng và luôn bất ổn”, nền kinh tế Việt Nam cũng

không tránh khỏi tình trạng tăng trưởng thấp đi kèm với lạm phát cao. Đặt năm 2011

trong chuỗi lịch sử ít nhất từ khoảng 5 năm trở lại đây, chúng ta nhận thấy các mặt trái

của nền kinh tế sớm bộc lộ từ những năm trước dường như phơi bày một cách rõ nét

hơn trong năm 2011 như một hệ quả tất yếu. Lạm phát tăng cao trở lại (tính đến hết

tháng 12, tốc độ tăng trưởng lạm phát trong cả năm 2011 là 18,12%) và tiếp tục là thách

thức đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, mà trong đó cơ chế điều

hành lãi suất đóng vai trò quan trọng. Nghị quyết 11 xuất hiện từ tháng 4 năm 2011 với

mục tiêu là tấn công trực diện vào cơn bão lạm phát với hai gọng kìm là thắt chặt chính

sách tài khóa qua cắt giảm đầu tư công và thắt chặt tiền tệ qua hạn chế tăng trưởng tín

dụng, đặc biệt là tín dụng cho khu vực phi sản xuất. Điều này đã tác động làm tăng lãi

suất tiền gửi và cho vay của các NHTM và đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất

mới bất chấp những đồng thuận lãi suất trước đó của Hiệp hội ngân hàng. Hàng loạt các

ngân hàng yếu ngay lập tức bộc lộ rõ mức độ nghiêm trọng của tình trạng mất thanh

khoản của họ và phải đưa vào diện kiểm soát đặc biệt.

Nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng,

kiểm soát chặt chẽ mức lãi suất huy động đầu vào của các ngân hàng từ đó hướng đến

mục tiêu giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp, NHNN đã ban hành Thông tư

02/2011/TT-NHNN ngày 03/03/2011 quy định về mức lãi suất trần huy động tiền gửi là

14% cho các NHTM. Tuy nhiên, tình hình vi phạm trần lãi suất tiếp diễn cho đến đầu

tháng 9, một số NHTM tiếp tục lách quy định này bằng cách áp dụng mức lãi suất

14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn như ngày, tuần, khiến cho lãi suất

thực tế lên cao hơn 14%/năm. Do đó, NHNN đã phải bổ sung Thông tư số 30/2011-TT-

NHNN ngày 28/9/2011 quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của

tổ chức, cá nhân tại các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cụ thể: lãi suất tối đa

áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 6%/năm. Lãi suất tối

đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 14%/năm.

Mặt khác, cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận tiếp tục được áp dụng, cùng với việc

lãi suất huy động thực của các ngân hàng bị đẩy lên mức cao, vượt xa so với mức trần

của NHNN mặt bằng lãi suất cho vay bị đẩy lên theo đã gây ra nhiều khó khăn cho

doanh nghiệp trong việc trả nợ cũng như tiếp cận vốn vay mới với mức lãi suất hợp lý.

Với yêu cầu nội tại của các ngân hàng, áp lực lợi nhuận cũng là một rào cản. Nguồn thu

chủ yếu từ tín dụng, trong khi mức tăng trưởng tín dụng bị khống chế ở mức 20% buộc

các ngân hàng đẩy lãi suất cho vay lên cao để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận của các ngân

hàng.

Tóm lại, năm 2011 tiếp tục chứng kiến cuộc chạy đua lãi suất giữa các

ngân hàng. Với sự siết chặt kỷ cương của NHNN, chính sách trần lãi suất huy động

tỏ ra không có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng đầu năm, nhưng nhanh

chóng có những chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm, bước đầu làm giảm

lãi suất cho vay vào thời điểm cuối năm 2011 nhưng mức giảm không như mong đợi

của nền kinh tế, dù chính sách trần lãi suất huy động đã được tuân thủ vào cuối

năm.

Bước sang năm 2012, trước những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và

trong nước, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra chỉ thị 01/CT-NHNN vào ngày 13/2/2012

với chủ trương tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt nhằm

ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, kiểm soát tốc

độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng (mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm

2012 khoảng 15% - 17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% - 16%), giảm

mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ.

Trong công tác điều hành lãi suất năm 2012, NHNN cũng xác định rõ một trong những

nhiệm vụ quan trọng, cần thực hiện ngay là việc giảm lãi suất thị trường, tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tiếp cận vốn kinh doanh. Để thực hiện nhiệm

vụ đó, trước hết NHNN đã làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, xử lý ngân hàng yếu

kém nhằm đảm bảo giữ vững sự ổn định của toàn hệ thống, góp phần ổn định kinh tế vĩ

mô trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Cụ thể, theo chỉ thị 01, NHNN đã thực hiện

ngay việc sắp xếp, cải tổ, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng dựa trên nguyên tắc phân loại tổ

chức tín dụng làm 4 nhóm tăng trưởng tín dụng (nhóm 1 là nhóm những ngân hàng hoạt

động tương đối an toàn lành mạnh được tăng trưởng tín dụng tối đa 17%, nhóm 2 yếu

hơn được tăng trưởng tối đa 15%, nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và nhóm 4 là nhóm các

ngân hàng phải cơ cấu lại, có nguy cơ mất an toàn thì không được tăng trưởng tín dụng).

Việc phân loại tăng trưởng tín dụng sẽ hạn chế tình trạng các NHTM huy động vốn

bằng mọi giá để tài trợ cho tăng trưởng tín dụng, đồng thời buộc những ngân hàng yếu

kém (đặc biệt là các ngân hàng thuộc nhóm 4) phải cơ cấu lại tổ chức và hoạt động

nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, thị trường tài chính trở nên lành mạnh

hơn, tạo điều kiện giảm lãi suất trong tương lai. Tiếp đến, NHNN đã điều hành lãi suất

theo hướng giảm dần phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ

để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh

tế. Cụ thể là, NHNN đã thực hiện điều chỉnh giảm các lãi suất điều hành đồng thời

với việc từng bước giảm trần lãi suất huy động. Để thực hiện được điều này, NHNN đã

điều hành thị trường mở một cách rất linh hoạt, hợp lý, khi các TCTD khó khăn thanh

khoản thì tăng cường hỗ trợ (đặc biệt trong những thời điểm thị trường khát vốn như

tháng 1 và tháng 2 năm 2012), khi cung tiền mạnh qua kênh mua ngoại tệ thì kịp thời

phát hành tín phiếu NHNN với khối lượng và lãi suất hợp lý, đảm bảo kiểm soát tổng

phương tiện thanh toán ở mức hợp lý. Nhờ đó, khi lạm phát bắt đầu có dấu hiệu giảm từ

mức 18,14% cuối năm 2011 xuống còn 14,15% trong tháng 3/2012 và xuống mức một

con số trong tháng 5 và tháng 6/2012 (lần lượt ở mức 8,34% và 6,9%), NHNN đã 5 lần

điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành và 4 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất

huy động. Trong đó, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống mức 8%/năm, lãi

suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống 10%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong

thanh toán điện tử liên ngân hàng giảm từ 16%/năm xuống 11%/năm, trần lãi suất huy

động giảm từ 14%/năm xuống 9%/năm (với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng). Bên cạnh

đó, theo thông tư 19/2012/TT-NHNN được ban hành ngày 8/6/2012, NHNN đã cho

phép các NHTM tự quyết định lãi suất huy động kỳ hạn dài (từ 12 tháng trở lên). Đây là

một bước đi hợp lý của NHNN, giúp các NHTM tự cân đối được cơ cấu tiền gửi theo kỳ

hạn của mình. Nhờ đó, thanh khoản VND của toàn hệ thống được đảm bảo và có xu hướng

cải thiện so với cuối năm 2011 do huy động vốn tăng cao. Mặc dù thanh khoản của nhiều

ngân hàng khá dồi dào, tuy nhiên vẫn còn thực trạng dòng tiền đang quanh quẩn trong

hệ thống ngân hàng, chưa đến được với các doanh nghiệp. Tăng trưởng tín dụng trong

tháng 6 đã được cải thiện nhưng mới tập trung ở một số ngân hàng lớn và cần thêm thời

gian để lan tỏa trong toàn hệ thống.

NHNN cũng đã có công văn đề nghị các ngân hàng rà soát các khoản vay cũ và

điều chỉnh giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống còn 15%/năm từ ngày 15/07/2012,

đồng thời điều chỉnh giảm mức trần lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: đó là các

khoản cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn;

thực hiện phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu quy định tại Luật

Thương mại; phục vụ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển

ngành công nghiệp hỗ trợ. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của TCTD đối

với khách hàng vay tối đa bằng (=) lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND có kỳ hạn

từ 1 tháng trở lên do NHNN quy định cộng (+) 3%/năm từ mốc 15%/năm ngày

10/4/2012 xuống 14%/năm vào ngày 28/05/2012 và 13%/năm vào ngày 11/06/2012.

Như vậy, nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2012, với những bước đi khá bài bản

trong công tác điều hành lãi suất của NHNN, tình hình lạm phát đã được kiểm soát

tốt ở mức 6.9%/năm và được kỳ vọng duy trì mức thấp đến hết cuối năm tạo đà cho

việc điều hành lãi suất ổn định trong thời gian còn lại của năm.

PHỤ LỤC 3

DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƢỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN

CƢ VÀ CÁC TỐ CHỨC KINH TẾ TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY

Với thông điệp ổn định lãi suất từ NHNN, trong năm 2007, diễn biến lãi suất

huy động VND của các NHTM khá ổn định quanh mốc từ 8-9%/năm và chỉ có dấu hiệu

tăng cục bộ ở một số NHTMCP vào thời gian cuối năm nhưng chưa ảnh hưởng đến mặt

bằng chung của lãi suất huy động do lãi suất của nhóm NHTMNN chiếm 60% thị phần

vẫn duy trì ổn định. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường diễn biến

khá phức tạp trong những năm tiếp theo.

Sang đến năm 2008, sau một loạt các động thái của NHNN trong công tác điều

hành chính sách tiền tệ nói chung và cơ chế điều hành lãi suất nói riêng theo hướng thắt

chặt nhằm để kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong những tháng đầu

năm như phát hành tín phiếu bắt buộc, nâng mức lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi

suất tái cấp vốn....tình hình thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại, đặc biệt đối

với những ngân hàng vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn. Việc huy động vốn của

các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong khi hoạt động tín dụng vẫn rất nóng kể từ cuối

năm 2007, các Ngân hàng Thương mại không còn biện pháp nào khác ngoài việc tăng

lãi suất huy động để cải thiện vấn đề thanh khoản, và từ đó cuộc đua lãi suất đã hình

thành trong năm 2008. Nếu đầu tháng 1/2008 lãi suất huy động trên thị trường chỉ

khoảng 8,5% thì cuối tháng 2/2008 nhiều ngân hàng vừa và nhỏ bắt đầu tăng lãi suất

huy động vốn. Mở đầu là NHTMCP ngoài quốc doanh (VPBank) điều chỉnh lãi suất

lên đến 10,5% vào ngày 18/02/2008 và trở thành ngân hàng có mức lãi suất huy động

cao nhất. Tuy nhiên, một ngày sau đó NHTMCP Đông Nam Á (SeaBank) đã huy động

với mức lãi suất lên đến 10,68%. Tiếp theo đó, các ngân hàng NHTMCP Sài Gòn – Hà

Nội, NHTMCP Sài Gòn, NHTMCP An Bình... cũng nâng lãi suất ở hầu hết các kỳ hạn.

Bên cạnh việc tăng lãi suất huy động VND ở hầu hết các kỳ hạn, các Ngân hàng

Thương mại còn áp dụng các sản phẩm tiết kiệm siêu lãi suất đẩy lãi suất huy động lên

cao. Trước tình hình đó, NHNN đã có một loạt các động thái như: ban hành công điện

số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 của Ngân hàng Nhà nước về việc quy định trần lãi

suất huy động là 12%/năm, tiếp đó là quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày

16/05/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam cùng với việc hai

lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm. Từ đó, lãi suất huy động của các

NHTM đã điều chỉnh tăng lên tương ứng với các lần điều chỉnh của lãi suất cơ bản lần

lượt là 16-17%/năm và tiếp sau đó là 17-18%/năm, cá biệt có một số NHTMCP huy

động với mức lãi suất 19-20%/năm gần với mức trần cho vay theo quy định của

NHNN. Nhiều ngân hàng lớn cũng đẩy cao lãi suất huy động nhằm để giữ chân của

khách hàng, thu hẹp mức chênh lệch lãi suất với nhóm các NHTMCP vừa và nhỏ. Từ

giữa tháng 7 đến cuối Quý 3 năm 2008, vốn khả dụng của các ngân hàng đã bớt căng

thẳng và do đó mặt bằng lãi suất huy động cũng được giảm xuống và duy trì tương đối

ổn định ở mức 17-18%/năm. Từ ngày 21/10/2008 đến hết năm 2008, lãi suất huy động

VND tiếp tục đà giảm theo các lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản của NHNN với mức

giảm mạnh khoảng 9 đến 9.5%/năm so với đỉnh điểm những tháng đầu năm (17.5-

19%/năm). Mức lãi suất phổ biến từ 7.9-8.6% năm đối với kỳ hạn dưới 3 tháng, 8.3-

9.3%/năm đối với kỳ hạn từ 3 đến dưới 12 tháng.

Năm 2009, đồng thuận với cơ chế điều hành lãi suất của NHNN theo hướng

chống lại sự suy giảm kinh tế là động thái giảm lãi suất của các ngân hàng. Lãi suất huy

động VND trong 2 tháng đầu năm 2009 có xu hướng giảm khoảng 1-2%/năm so với

cuối năm 2008. Tuy nhiên, từ cuối tháng 2/2009, lãi suất huy động VND luôn có sức ép

gia tăng, chủ yếu do nhu cầu vay vốn tín dụng lớn để triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất

của NHNN. Đến các tháng cuối năm 2009, tình hình chạy đua huy động vốn của các

NHTM lại trở nên căng thẳng nhằm giải quyết các rủi ro về thanh khoản khi mức độ

tăng trưởng tín dụng ở hầu hết các ngân hàng đều trên 25% trong khi huy động vốn chỉ

tăng bình quân 15%. Đến 31/12/2009, mặt bằng lãi suất huy động của các kỳ hạn từ 1

tháng trở lên ở mức 10-10,49%/năm.

Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối

năm 2009, lãi suất huy động trên thị trường vẫn tiếp tục diễn biến ở mức cao ở những

tháng đầu năm 2010, có xu hướng giảm vào giữa năm và tăng cao trở lại trong hai tháng

cuối năm.

Nếu như trong Quý 1 năm 2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07%

cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu

tiên của Quý 2, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh

tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng

10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất

mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy

mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận.

Vì vậy, đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị

trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất

huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo

Nghị quyết 23/NQ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà

tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và

như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt

điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho

đến hết tháng và sau đó, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức

10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi

suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN

thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới được

thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động

xoay quay mức 17 – 18%. Mở đầu tăng lãi suất huy động trong giai đoạn năm 2010 này

là NHTMCP Nhà Hà Nội, NHTMCP Kiên Long, NHTMCP Phát triển Mê Kông,

NHTMCP Gia Định, NHTMCP Phương Tây,..là những ngân hàng công bố mức lãi

suất cao nhất thị trường từ 13,2% - 13,9% . Trước tình trạng leo thang khó có điểm

dừng của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN phải trực tiếp đứng ra tập hợp

các NHTM để cùng nhau thống nhất mức đồng thuận lãi suất 14% và đưa ra các biện

pháp chế tài đối với những trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, với tình trạng thanh khoản

kém thì các ngân hàng vừa và nhỏ vẫn huy động vượt trần. Tiếp theo đó các ngân hàng

lớn như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp phát triển

nông thôn Việt Nam… cũng phải nâng lãi suất huy động nhằm ngăn chặn hiện tượng

lượng tiền gửi chuyển qua những ngân hàng vừa và nhỏ có lãi suất cao hơn, các mức lãi

suất mới trên thị trường được thiết lập là 15%, 16% và cao nhất là 17% vượt xa so với

mức đồng thuận trước đó. Một cuộc đua lãi suất huy động tái diễn trong năm 2010.

Như vậy, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường năm 2010 chịu áp lực tăng

cao qua các tháng, đặc biệt là các tháng cuối năm do một số nguyên nhân chính như:

nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối

cảnh phục hồi kinh tế; chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách

năm 2009; sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của

người dân. Mặc dù mặt bằng lãi suất có nhiều biến động nhưng vẫn đảm bảo được lợi

ích của người gửi tiền trong bối cảnh lạm phát gia tăng vào cuối năm, vì vậy tốc động

huy động vốn trong năm 2010 đã được cải thiện rõ rệt so với những năm trước.

Cuộc đua lãi suất giữa các NHTM những tháng cuối năm 2010 vẫn được tiếp tục

trong năm 2011 với lãi suất huy động phổ biến ở mức 14- 16%, bất chấp đồng thuận

lãi suất của các thành viên Hiệp hội Ngân hàng trước đó. Lãi suất huy động VND có kỳ

hạn tháng 2/2011 vẫn ở mức 14%/năm, nhưng lãi suất huy động không kỳ hạn đã tăng

từ 3%/năm lên 8-9%/năm, thậm chí một số NHTMCP đưa ra sản phẩm có lãi suất

không kỳ hạn lên đến 12%/năm. Đến tháng 3 năm 2011, với tình trạng lạm phát tiếp tục

có dấu hiệu leo thang, nhằm để kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

NHNN đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, điều này đã tác động làm tăng lãi suất

tiền gửi và cho vay của các NHTM. Huy động VND gặp nhiều khó khăn khiến lãi suất

tăng cao. Lãi suất huy động VND có lúc bị đẩy lên tới 18-19% để hấp dẫn người gửi

tiền buộc NHNN phải ban hành Thông tư 02/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định mức

lãi suất huy động vốn tối đa bằng VND của các NHTM bao gồm cả khoản chi khuyến

mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm, riêng các Quỹ tín dụng nhân dân cơ

sở không vượt quá 14,5%/năm nhằm để kiểm soát mặt bằng lãi suất huy động đầu vào

của các NHTM. Tuy nhiên, trên thực tế, lãi suất huy động luôn có tình trạng vượt trần

với nhiều phương thức lách trần huy động khác nhau như : sáng tạo trong các sản phẩm

huy động như: “tiết kiệm lãi suất linh hoạt”, “tiết kiệm rút gốc linh hoạt”, “nhận tiền

gửi tiết kiệm bằng VND đảm bảo bằng USD” khuyến mãi bằng tiền, tặng lãi suất tri ân

khách hàng….được các ngân hàng áp dụng nhằm để lôi kéo khách hàng của nhau…

Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN quy định áp

dụng lãi suất không kỳ hạn trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại

các NHTM, đồng thời nhiều lần ban hành các văn bản nhắc nhở các TCTD về việc thực

hiện nghiêm quy định về trần lãi suất. Tuy nhiên, chỉ khi Chỉ thị 02/2011/CT-NHNN ra

đời vào ngày 7/9/2011, trong đó quy định rõ các hình thức xử phạt cùng với việc

NHNN kiên quyết xử lý tổ chức tín dụng huy động vượt trần, trong tháng 9/2011 lãi

suất huy động VND mới chính thức quay về mức 14%. Cũng trong tháng 9 năm 2011,

NHNN đã có những biện pháp quyết liệt nhằm để tăng cường kiểm soát tính tuân thủ

của các ngân hàng trong việc thực hiện trần lãi suất huy động như sẽ sa thải lãnh đạo

ngân hàng nếu phát hiện có thủ thuật lách trần, hạn chế một số chỉ tiêu tăng trưởng đối

với các ngân hàng bị tố cáo……Bên cạnh đó, NHNN đã thành lập nhóm G12+1 bao

gồm 12 NHTM lớn : Agribank, Vietcombank, BIDV, Vietinbank, ACB, Eximbank,

Techcombank, MB, Sacombank, VIB, VPbank, MSB- nhóm ngân hàng chiếm đến 85%

thị phần của ngành sẽ cùng NHNN xây dựng chính sách quản lý tiền tệ hiệu quả hơn,

phản ánh đúng thực tế và diễn biến thị trường hơn.

Trong 6 tháng đầu năm 2012, sau những bước đi khá bài bản của NHNN, mặt

bằng lãi suất huy động của cả khối NHTMNN và NHTMCP đã giảm mạnh so với đầu

năm. Trong nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất đầu ra nhằm giảm bớt chi phí vốn vay cho

doanh nghiệp cùng bối cảnh lạm phát thuận lợi, trần lãi suất huy động liên tục được

điều chỉnh giảm trong 6 tháng đầu năm, tổng cộng 4 lần với tổng mức giảm 5% từ

14%/năm xuống còn 9%/năm, chỉ riêng trong Quý 2, trần lãi suất đã giảm tới 4%, bỏ xa

mục tiêu giảm trần lãi suất huy động 1%/quý đặt ra hồi đầu năm. Mặc dù nhu cầu giảm

mặt bằng lãi suất cho nền kinh tế đã được đặt ra cấp thiết ngay từ cuối năm 2011, tuy

nhiên, các đợt giảm trần lãi suất huy động của NHNN đã diễn ra khá tuần tự, đặc biệt

trong đó luôn chú ý tới diễn biến của chỉ số CPI qua từng tháng và khả năng thanh

khoản của các NHTM. Cơ sở để giảm lãi suất dựa trên mức tăng CPI thấp kể từ tháng 3

đến nay trong khi tăng trưởng tín dụng vẫn âm tính đến hết tháng 5 cùng với mức CPI

năm 2012 được dự báo ở mức 8%. Điều này phần nào cho thấy mục tiêu ổn định kinh tế

vĩ mô vẫn được Chính phủ quán triệt và ưu tiên hàng đầu. Thiết nghĩ trần lãi suất có

khả năng được xóa bỏ trong tương lai gần và động thái này chỉ nên thực hiện khi tình

hình thanh khoản tại các ngân hàng yếu kém trở nên thực sự ổn định sau một thời gian

dài được kiểm soát đặc biệt.

PHỤ LỤC 4

THỊ PHẦN HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM ĐƢỢC KHẢO SÁT

100%

6%

5%

7%

9%

9%

80%

25%

24%

17%

22%

19%

60%

11% 3%

11% 4%

13% 8%

12% 7%

12% 5%

40%

25%

17%

24%

18%

21%

20%

19%

7%

16% 6%

16% 5%

16% 5%

18% 3%

0%

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

MB

CTG

VCB

EIB

ACB

BIDV

TCB

Nguồn: Kết qu tính toán của tác gi

12%

3%

3%

3%

10%

2%

2%

2%

2%

8%

2%

2%

2% 1%

6%

2%

2%

3%

2%

4%

2%

1% 2%

1% 1% 2%

2%

1%

1% 1%

1%

1%

1% 1% 2% 1%

0%

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

NVB

ABB

KIEN LONG

WESTERN

HBB

HD

DAI DUONG

Thị phần huy động vốn của nhóm ngân hàng dẫn đầu

Nguồn: Kết qu tính toán của tác gi

Thị phần huy động vốn của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ