BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ THANH NHÀN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ THANH NHÀN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN VĂN HÙNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ
từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Phan Văn Hùng. Các số liệu, nội dung nghiên
cứu và kết quả trong luận văn là trung thực và tin cậy. Những kết luận khoa học
của luận văn không trùng lặp với các công trình có liên quan đã được công bố.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học Viên Hoàng Thị Thanh Nhàn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được sự giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt
tình của quý thầy cô tại Học viện Hành chính Quốc gia. Trước hết, tôi xin
chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô Khoa Nhà nước và Pháp luật,
Khoa Sau đại học - Học viện Hành chính Quốc gia và quý thầy cô tham gia
giảng dạy đã tận tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Văn Hùng đã dành nhiều
thời gian, công sức trong giảng dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến ông Nguyễn Thanh Xuân - Chánh án Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình, tập thể Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình; Chánh án và tập thể cán bộ Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới tỉnh
Quảng Bình là nơi tôi công tác đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành khóa học và luận văn. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình,
bạn bè là nguồn động viên lớn, tạo điều kiện và hết lòng chăm sóc, khuyến
khích tôi tham gia học tập và nghiên cứu, để tôi có thể hoàn thành luận văn
này. Luận văn là thành quả sự nỗ lực của cá nhân tác giả trong thời gian qua.
Tuy nhiên, do kiến thức bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô và
các bạn để Luận văn này được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Học Viên Hoàng Thị Thanh Nhàn
TRANG BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN ......................................................................................................... 11
1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ........................... 11
1.1.1. Sự hình thành của Tòa án: ........................................................................... 11
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước: ........................ 14
1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ........... 17
1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham
gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. .......................... 17
1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ......................................................................... 18
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết
định theo đa số ...................................................................................................... 21
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. ............................... 22
1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng .............................. 22
1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân ......................................... 24
1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ................................... 25
1.2.8. Nguyên tắc khi xét xử, đảm bảo tranh tụng: ................................................. 25
1.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức Tòa án nhân dân ở
nước ta và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động theo yêu cầu cải cách tư pháp ... 26
1.3.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp huyện ................... 26
MỤC LỤC
1.3.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ........ 32
1.3.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức tòa án nhân dân ở
nước ta: ................................................................................................................. 33
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện ..................................................................................................................... 34
1.3.5. Yêu cầu đổi mới đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp. .............................................................. 39
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 43
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP ...................................................................... 44
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1945 đến nay . 44
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 ......................................................................... 44
2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980 ......................................................................... 46
2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ......................................................................... 49
2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002 ......................................................................... 50
2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014 ......................................................................... 52
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 ........................................................................ 57
2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp ................................................ 68
2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình. ................................................................................................... 68
2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình .................................................................................................... 74
2.4. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp: ............... 79
2.4.1. Thành tựu đạt được: .................................................................................... 79
2.4.2. Những hạn chế, vướng mắc: ........................................................................ 83
2.4.3. Nguyên nhân: .............................................................................................. 84
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 93
Chương 3:QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI
CÁCH TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH .............................. 94
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình ................. 94
3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn
liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân. ............................................................................................... 95
3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải được
tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp
và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước. ....................................................... 96
3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải được
thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế. ................................... 96
3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm thực
hiện quyền lực tư pháp .......................................................................................... 97
3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình ............................................................ 98
3.2.1.Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp ...................................................................................................... 999
3.2.2.Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp trong
một số trường hợp luật định. ............................................................................... 100
3.2.3. Tăng cường công
tác bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp
luật………………………………………………………………………………..101
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 104
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS Bộ luật hình sự
BLDS Bộ luật dân sự
TAND Tòa án nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là con đường phát
triển tất yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN là nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị XHCN và Nhà
nước XHCN mà mục đích là phát huy cao độ dân chủ xã hội nghĩa, làm cho
Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thật sự trong sạch, vững
mạnh. Bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ chế độ
hợp hiến của nhân dân. Thượng tôn pháp luật; Triệt để, tôn trọng và bảo vệ
con người, quyền công dân một cách có hiệu quả; Bảo đảm có sự phân quyền
hợp lý trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả và sự kiểm soát quyền lực; Bảo đảm sự độc lập
của hoạt động xét xử để duy trì và đề cao công lý của chế độ XHCN.
Trong thời kỳ đất nước phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế khu vực và thế giới, trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước,
trước yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm ở nước ta hiện nay đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều
văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 2 tháng 11 năm 2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam: “Về một số nhiệm vụ cấp bách cải các Tư
pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ
Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
1
cộng sản Việt Nam: “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Cải cách
tư pháp được tiếp tục khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất
nước trong thời kỳ quá độ (được bổ sung, phát triển năm 2011) và trong các
văn kiện đại hội lần thứ XI gần đây nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước
hết, nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiều nội dung về đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nghị quyết nêu rõ:
Tòa án là: “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bên cạnh đó, Nghị quyết còn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Triển khai
thực hiện những quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, trọng tâm là
xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo chức
năng, nhiệm vụ đã được Hiến định. Theo đó, tòa án là “Cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” nhằm
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN trong giai đoạn mới.
Mô hình hệ thống Tòa án nhân dân khi được tổ chức lại theo tinh thần
cải cách tư pháp có bốn cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện (huyện,
quận, thị xã, thành phố và tương đương). Trong đó:Tòa án nhân dân cấp
huyện có nhiệm vụ, thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc
2
thẩm quyền theo luật định;Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ xét xử phúc
thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện có kháng
cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố; Tòa án nhân dân cấp cao được tổ chức
theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật, phát triển án lệ. Việc đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao cần
thực hiện theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia
đầu ngành về pháp luật và có kinh nghiệm trong ngành.Điều đáng lưu ý là
việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp
Tòa án, ở từng địa phương. Việc nghiên cứu, xác định phạm vi thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự cần theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và những vụ án liên quan
đến bí mật quân sự.
Đổi mới việc tổ chức phiên Tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo
hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng
tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “chiến
lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu chiến lược là xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công
lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam XHCN;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao.Trong Văn kiện đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của
3
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đề ra mục tiêu: “Đẩy mạnh việc thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong
sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn
thiện chính sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao
tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh
tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm
cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm
quyền xét xử của Tòa đối với các khiếu kiệnhành chính” [10]. Các quan điểm,
định hướng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ
thống cơ quan tư pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ
trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói
riêng trong thời gian qua còn chậm và chưa đáp ứng nhu cầu. Chất lượng xét
xử của Tòa án nhân dân cấp huyện còn để xảy ra oan sai, án tồn động kéo dài,
đội ngủ cán bộ nhất là đội ngủ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về
trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Do đó, hàng loạt
vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như về thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, vấn đề mở rộng thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân cấp huyện; thành lập các tòa chuyên trách tại Tòa án
nhân dân cấp huyện; vấn đề đổi mới việc tranh tụng tại phiên Tòa; việc triển
khai Tòa án điện tử khi nào phù hợp và triển khai như thế nào cho hiệu quả;
về thủ tục rút gọn quy định trong tố tụng dân sự; về cải cách thủ tục hành
chính tư pháp.… Chính vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân các cấp nói chung và của Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng có ý nghĩa
quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả giải quyết án và hiệu quả công tác xét
xử trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.
4
Với lý do nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp – Từ thực tiễn
tỉnh Quảng Bình” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hệ
thống Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng để
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội
thảo, các bài viết trên các tạp chíliên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của
Tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhómnhư sau:
- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà
nước, cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư
pháp Việt Nam có liên quan đến Tòa án nhân dân như: Đề tài khoa học cấp
Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ
thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân".Luận
án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức
và hoạt động Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay" của tác giả
Lê Thành Dương năm 2002.Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003.Luận án tiến sĩ luật
học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ
thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005.Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Khoa học Xã hội “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá
trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giải Nguyễn Minh Sử năm
2011.Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước"
5
của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002;Sách "Hệ
thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của tập thể các tác
giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002;“Cơ sở
khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay” của tác
giả Đỗ Gia Thư (Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
2006);“Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải cách
tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Sử (Luận án tiến sĩ luật học,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2011);Liên quan đến nhóm vấn đề này còn
có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành Tòa án nhân dân.
- Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí:“Những
vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân
dân số 3 năm 2006;"Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của tác giả Nguyễn
Mạnh Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;“Bàn về quản lý
thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của tác giả Đỗ Gia Thư đăng trên Tạp
chí Tòa án nhân dân, 2005;“Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực
nhà nước” của tác giả Nguyễn Đăng Dung đăng trên đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011;“Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc tổ
chức Tòa án theo tiêu chí chức năng, thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011;“Kiến nghị nhằm
nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử” của tác giả
Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7, 2011; “Một
vài ý kiến về hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta” của tác giả
Nguyễn Minh Sử đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 7,
2011."Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh
6
Kháng, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10; Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân
dân tối cao từ năm 2010 đến năm 2016; Bài viết về: Tiếp tục hoàn thiện mô hình
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm
vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp” của Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao năm 2013; Bài viết về: “Hoạt động của Tòa án nhân
dân trong thời kỳ mới” của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng
Duy Lượng năm 2014; Bài viết về “Thành tựu cải cách tư pháp nổi bật của
Tòa án nhân dân” của Báo Công lý năm 2016; Bài viết về “Cải cách tư pháp
nâng tầm vị thế của Hệ thống Tòa án nhân dân” của Tiến sĩ Lưu Bình
Nhưỡng, Phó Chánh Văn phòng, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương
năm 2014.
Tuy các công trình và bài viết trên đã đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu
chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, cũng như có đề cập trực tiếp đến
tổ chức và hoạt động của Tòa án, nhưng khác về phạm vi nghiên cứu và thời
điểm nghiên cứu nên tính thời sự không còn đáp ứng đầy đủ, đồng thời không
phù hợp với Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Có
thể thấy các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận
văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, đánh giá thực trạng tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo
7
yêu cầu cải cách tư pháp, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên đại bàn tỉnh Quảng
Bình.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động
của Tòa án như phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án trong bộ máy nhà nước;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện ở Quảng Bình hiện nay, trong đó đánh giá những thành tựu,
những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém;
+ Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, học viên chỉ tập trung nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức, nâng
cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
+ Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2013 đến 2017
8
+Về nội dung: Luận văn nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động tại
Tòa án nhân dân cấp huyện nói chung và tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
Trong phạm vi luận văn, học viên chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động của Tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, những
thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. Đồng thời, học viên nghiên cứu
luận văn trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong
luận văn bao gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để phân tích, khái
quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân
cấp huyện nói riêng.
- Phương pháp hệ thống: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích theo
hệ thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ
biện chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất. Tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân cấp huyện là một nội dung của đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân, do vậy, phương pháp hệ thống được sử dụng để nghiên cứu
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong mối quan hệ với đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân và bộ máy nhà nước.
9
- Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn để nghiên cứu quá
trình hình thành, phát triển và yêu cầu đổi mới pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét
từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, các quy
định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong Chương 3
nhằm đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như
thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong tiến trình cải cách tư pháp. Luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm
thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh
Quảng Bình.
10
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
1.1.1. Sự hình thành của Tòa án
Trong cuốn “Lịch sử văn minh nhân loại”, nhà sử học Hoa Kỳ Will Durant
đã khái quát và luận giải sự ra đời, vai trò và ý nghĩa của thiết chế bảo vệ công lý -
Tòa án. Theo đó, trong giai đoạn xã hội sơ khai, công lý được thể hiện khá rõ nét
thông qua cơ chế trả thù cá nhân, bằng luật báo thù, dĩ oán báo oán, với công thức
ngang bằng “răng đền răng, mắt đền mắt”. Giai đoạn thứ hai của sự phát triển này
là thay sự báo thù bằng hình thức bồi thường, phạt vạ, nhằm giữ yên ổn, hoà hảo
trong nội bộ các bộ tộc, bộ lạc. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn các cuộc trả
thù cá nhân, duy trì hòa bình, trật tự, ổn định của toàn xã hội, thiết chế toà án đã
được thành lập để thẩm định, đánh giá mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình
cho các xung đột giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã
vững bước song hành từ những bước phát triển của lịch sử như vậy. Đến đầu thế
kỷ thứ VI TCN, quan chấp chính Xôlông đã tiến hành một loạt các cải cách dân
chủ của nhà nước Athen, trong đó có việc lập ra Tòa án nhân dân và tuyên bố mọi
công dân đều có quyền chống án và bào chữa cho mình . Trong giai đoạn đầu, tuy
hệ thống xã hội và các tư tưởng đạo đức thời cổ đại còn có những điểm khiếm
khuyết, chưa hoàn thiện nhưng việc thực hành xét xử theo kiểu tòa án dicastery, ở
nhiều khía cạnh, được coi là một hình mẫu khá lý tưởng.Người thua kiện được
trình bày trước tòa án, bị cáo có thể mượn luật sư cãi thay và bản án được biểu
quyết, quyết định theo đa số. Người ta lập luận rằng, số đông các thẩm phán sẽ
đảm bảo họ không bị hăm dọa và sẽ làm cho việc hối lộ trở lên khó khăn, do đó,
đây là mô hình lý tưởng để công lý có thể đến được với người dân.
11
Cũng trong giai đoạn này, nhiều nguyên tắc xét xử ban đầu, sơ khai để bảo
đảm công lý đã được đưa ra và còn được duy trì, tồn tại cho đến ngày nay như:
“Mọi người, như một quy luật, đều là những quan tòa không ngay thẳng khi phán
đoán những gì có liên quan đến quyền lợi riêng tư của mình”. Ngày nay, nguyên
tắc này đã tiếp tục được duy trì và sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong hệ thống luật án
lệ, đảm bảo những tiêu chuẩn tối thiểu cho một quyết định công bằng, hợp đạo lý.
Theo nguyên tắc này, người có thẩm quyền giải quyết vụ việc không được có
những lợi ích về tài sản, tiền bạc hoặc nhân thân có thể ảnh hưởng đến kết quả
tranh tụng, người đó cần phải thể hiện được hoặc chứng minh được sự công tâm,
khách quan và chính trực của mình khi tham gia giải quyết vụ việc.
Trong giai đoạn đầu, thủ tục tố tụng còn mang tính chất tư tố. Theo đó,
quyền triệu tập một cá nhân ra tòa, quyền buộc tội thuộc về tất cả mọi người. Đối
với quan hệ hình sự mang tính chất tư tố, người bị hại đồng thời cũng là người
truy tố, buộc tội. Nếu người bị hại đã chết, quyền truy tố thuộc về thân nhân người
chết và cộng đồng. Bước sang giai đoạn đầu của xã hội phong kiến, các phiên tòa
xét xử được tổ chức dưới dạng đại hội công dân nhưng nó bắt đầu được chủ trì bởi
các quan lại hoặc chính Nhà vua, qua đó từng bước chuyển từ chế độ xét xử công
cộng sang xét xử Nhà nước. Trong các nhà nước sơ khai cũng như các nhà nước
phong kiến sau này, mặc dù bộ máy tư pháp có quy mô khác nhau, thậm chí có
những giai đoạn là khá đồ sộ để thực hiện nhiệm vụ đàn áp nhưng đều có chung
một đặc trưng nổi bật là thẩm quyền của tư pháp chưa tách rời thẩm quyền hành
chính, ranh giới giải quyết hành chính và quyền tư pháp là rất mờ nhạt. Tập quyền
chuyên chế phong kiến là nơi thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
vào cá nhân hoàng đế với sự hỗ trợ đắc lực của niềm tin tôn giáo rằng quyền hành
của hoàng đế là “thiên mệnh”.
Có thể nói, trong lịch sử văn minh nhân loại, nhà nước đã được hình thành
từ rất sớm, cách đây khoảng hơn 5.000 năm. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước được
12
phân quyền với cơ quan đảm nhận nhiệm vụ tư pháp xét xử mới chỉ được thiết lập
cách đây gần 300 năm, kể từ khi nổ ra các cuộc cách mạng tư sản với những học
thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc. Trước đó, phong trào Văn hóa
Phục hưng của giai cấp tư sản với những nội dung tư sản mang tính chất tiến bộ,
coi con người là trung tâm và đề cao giá trị con người, tự do cá nhân đã tạo ra
những tiền đề tư tưởng vững chắc giải phóng con người về mặt ý thức và thân
phận thoát khỏi sự kiềm chế của chế độ độc đoán, tạo tiền đề vững chắc cho sự
thành công của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Mỹ, Pháp sau này.
Thế kỷ thứ 18, học thuyết phân quyền của Montesquieu ra đời với tên gọi
“tam quyền phân lập” (Seperation of powers) và trở thành “hòn đá tảng” trong lý
luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản, theo đó, quyền lực nhà nước được phân
công và tổ chức thành ba nhánh: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp là
quyền làm luật, sửa đổi hay hủy bỏ luật. Quyền hành pháp là quyền quyết định và
thực thi những vấn đề đối ngoại, chiến tranh, quốc phòng, an ninh, kinh tế. Quyền
tư pháp là quyền trừng trị tội phạm và phân xử tranh chấp. Để bảo đảm các quyền
tự do thì quyền xét xử phải được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành
pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do.
Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành
những kẻ áp bức. Tiếp thu những tinh hoa của nền dân chủ Athen, Montesquieu
cho rằng không nên có các cơ quan tư pháp và các quan chức tư pháp thường
xuyên, cố định như ngành lập pháp và hành pháp mà nên do đoàn thể cử ra, trong
một thời hạn nhất định. Người xét xử cũng ở địa vị đồng đẳng với bị cáo, để bị
cáo không có cảm giác đang trong tay những kẻ sẵn sàng hại mình.
Trên cơ sở học thuyết tam quyền phân lập, các nhà lập hiến Hoa Kỳ cho
rằng việc thiết lập công lý phải được giao cho một cơ quan có tính ổn định, lâu dài
và không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của các yếu tố chính trị thoáng qua, nhất
13
thời như các cơ quan được hình thành trên cơ sở bầu cử, đó chính là hệ thống các
cơ quan xét xử - Tòa án.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước
Nhà nước là quản lý xã hội, biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp
luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền lực để đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện. Nhà nước quản lý thông qua ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua
hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi,
các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các
chủ thể pháp luật. Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp
luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc
trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ
quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực,
hiệu quả xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin
của nhân dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và
thông qua đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai
cấp thống trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh
bạch, không khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội
không được bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định
pháp luật còn được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ
nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Bàn
về vấn đề này, V.I. Lê Nin đã viết: “Tòa án cần phải đảm đương một nhiệm
vụ khác còn quan trọng hơn nữa, đó là nhiệm vụ bảo đảm cho người lao động
chấp hành một cách nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác”.[38]
Như vậy, xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án. Khi đảm
nhận chức năng xét xử, Tòa án có vai trò, vị trí nhất định trong bộ máy nhà
nước. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để xem
14
xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn của hành vi theo pháp luật hay
tính công bằng trong các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản
của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân
danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban
hành được bảo đảm thực thi bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiểu Nhà nước với chế
độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó
Tòa án có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng khác nhau. Ở Nhà nước
chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp
và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong
kiến) nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua. Ở Nhà nước tư
sản, để hạn chế dần khả năng thực hiện quyền lực vô hạn cũng như đảm bảo
tính dân chủ trong đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản đã đưa ra lý thuyết
về tam quyền phân lập, theo đó quyền tư pháp có sự phân lập với quyền lập
pháp và hành pháp để đảm bảo tính kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Tòa án
chính là một nhánh quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các hành
vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã
hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, thẩm quyền của Tòa án được
mở rộng; tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Tòa án được nâng cao
và ngày càng có tính hệ thống.
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực
thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền
tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan
trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân.
Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà
nước; Tòa án thực hiện quyền tư pháp, là nơi thể hiện công lý trong bộ máy
15
nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp là thước đo sự công
bằng trong xã hội. Hoạt động xét xử được coi là hoạt động trọng tâm trong
việc thực hiện quyền tư pháp và chức năng xét xử được Hiến pháp quy định là
chức năng riêng Tòa án, bởi vậy, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
được quy định tương đối cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp” [30]. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ
quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân
dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước
Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi thu
hẹp hơn, điều này nảy sinh yêu cầu đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp
ở Việt Nam. Với việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vai trò
quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp
luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm
và hành vi vi phạm pháp luật.
Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được xác định là:Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Bằng hoạt
động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã
hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác; Tòa
16
án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm những tranh
chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những
tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); những
vụ án hành chính; giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu cầu về
dân sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh
doanh, thương mại; những yêu cầu về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp
hay không hợp pháp. Ngoài ra, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết những
việc khác theo quy định của pháp luật (ra quyết định thi hành án hình sự; hoãn
hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình
phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án tích) [31].
1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Tổ chức và hoạt động của Tòa án ngoài những nguyên tắc chung đã
được Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo (Điều 4 Hiến pháp
2013), nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6) thì với chức năng riêng của
mình so với các cơ quan Nhà nước khác, TAND còn được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc đặc thù, đó là:
1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân
tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8 Luật Tổ chức
TAND 2014 đã qui định vấn đề này. Theo đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án
thuộc thẩm quyền thì thành phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của các Hội
thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân). Hội thẩm nhân dân đại
diện cho dư luận xã hội khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo
đảm việc xét xử có lý và có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ
pháp lý, trình độ chuyên môn cho các Hội thẩm nhân dân thì điều quan trọng,
người Hội thẩm được cơ cấu từ các thành phần mà đại diện, nói được tiếng
17
nói chung cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Cũng vì vậy,
không nên quá quan tâm về vấn đề trình độ pháp lý và trình độ chuyên môn
của Hội thẩm, hay nói cách khác là không nên “thẩm phán hoá” Hội thẩm.
Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét
xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm. Để đảm bảo tính khách quan,
pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nói
cách khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán. Pháp luật về tố
tụng đã cụ thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các thành viên Hội
đồng xét xử nghị án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ án thì các Hội
thẩm phải biểu quyết trước (với mục đích để hạn chế việc biểu quyết của Hội
thẩm bị ảnh hưởng theo ý chí của Thẩm phán). Cũng chính vì Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán là người chủ toạ
phiên tòa nhưng Hội thẩm vẫn có quyền tham gia vào tất cả các trình tự, thủ
tục xét xử tại phiên Tòa.
1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9
Luật Tổ chức TAND năm 2014 qui định khi xét xử, giữa các thành viên Hội
đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) và mỗi thành viên Hội đồng xét xử đều
có quyền độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Cho dù thành viên Hội
đồng xét xử là Chánh án hoặc Phó Chánh án thì cũng chỉ là một người có
quyền độc lập với thành viên khác, không có quyền “áp đặt” ý chí lên các
thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ cũng chỉ quyền
điều hành phiên Tòa là có tính riêng so với các thành viên khác nhưng không
có quyền tố tụng cao hơn thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác động bởi bất cứ áp lực nào từ phía các
cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can thiệp của bất cứ cá nhân, tổ chức nào.
18
Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của Tòa án cấp trên. Khi xét
xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn của việc xét xử” (ở trình tự
xét xử sơ thẩm) và “phạm vi xét xử phúc thẩm”, các thành viên trong Hội
đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan điểm, những luận cứ của
Viện kiểm sát. Các thành viên Hội đồng xét xử có quyền phán xét độc lập trên
cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ ban hành các quyết định pháp
lý giải quyết vụ án.
Việc qui định nguyên tắc này trong các bản Hiến pháp có sự thay đổi
về ngôn ngữ diễn đạt nhưng sự thay đổi đó phản ánh sự thay đổi về nhận thức
nội dung của nguyên tắc trên. Hiến pháp năm 1959 quy định dưới hình thức
câu chữ là “Tòa án độc lập”, còn các bản Hiến pháp về sau thì đều qui định là
“Thẩm phán và Hội thẩm” xét xử độc lập. Sự thay đổi đó nói lên rằng, nguyên
tắc này không chỉ thể hiện tính độc lập của “Tòa án” khi xét xử (độc lập với
các cơ quan khác) mà điều quan trọng là nhấn mạnh tính độc lập của từng
thành viên Hội đồng xét xử với những tác động “bên ngoài” và với thành viên
khác trong cùng Hội đồng [28].
Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh
chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét
xử - tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu
hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc
lập của Tòa án được thể hiện rõ nét qua sự độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân.Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, nhưng phải tuân
theo pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, không
được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Tòa án,
pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án, của thẩm phán
19
và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp luật của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, cần thiết phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của Tòa
án và các cơ quan lập pháp và hành pháp cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ
tương ứng để ngăn ngừa sự lạm quyền và can thiệp trái pháp luật vào hoạt
động xét xử. Để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, mô hình Tòa án khu vực
được đề cập đến với mục đích nhằm giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hành
chính đối với hoạt động của Tòa án; quy định những cơ chế, điều kiện đảm
bảo sự độc lập của Thẩm phán không chỉ trong hoạt động xét xử mà còn liên
quan đến các vấn đề an ninh khác đối với các mối quan hệ khác.
Yêu cầu đặt ra đối với Thẩm phán là phải hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, không chịu áp lực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền. Bởi vậy, pháp luật tố tụng của các nước đều quy định quyền của người
tham gia tố tụng được yêu cầu thay đổi thẩm phán khi có căn cứ cho rằng họ
không vô tư, khách quan khi thực thi nhiệm vụ xét xử, đồng thời cũng quy
định trách nhiệm của Thẩm phán phải từ chối tiến hành các hoạt động tố tụng
khi có những căn cứ tương tự. Nguyên tắc này cũng được thể hiện ở sự độc
lập của Thẩm phán Tòa án cấp dưới trước sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên và
trường hợp bản án sơ thẩm không đúng pháp luật sẽ được xem xét lại theo các
trình tự, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.Để có sự độc lập của
Thẩm phán, ngoài việc quy định trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán thì
pháp luật cũng thường đặt ra yêu cầu đối với Thẩm phán được lựa chọn, bổ
nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn, có hiểu biết pháp luật
cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách nhiệm trong việc thực thi
nhiệm vụ bảo vệ công lý.
20
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và
quyết định theo đa số
Tại Điều 103Hiến pháp năm 2013 và Điều 10 và Điều 11Luật Tổ chức
TAND năm 2014 qui định việc xét xử của Tòa án phải công khai để mọi
người có thể tham dự, trừ những trường hợp cần phải giữ gìn bí mật quốc gia
hoặc để đảm bảo thuần phong, mỹ tục hay để giữ bí mật của đương sự theo
yêu cầu chính đáng của họ thì xét xử kín nhưng khi tuyên án phải tuyên công
khai. Việc xét xử công khai là nhằm bảo đảm vai trò giám sát xã hội của công
dân, các cơ quan, tổ chức đối với công tác xét xử của Tòa án. Công khai cả
khi đã xét xử xong cũng cần đăng bản án, quyết định trên cổng thông tin điện
tử để công chúng được biết.
Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội
đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể,
đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết.
Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận,
thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm
bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là
cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên
vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc
tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án. Nguyên tắc này
ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp
luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài cũng
như sự e dè, ngần ngại của Thẩm phán và giảm áp lực cho Thẩm phán trong
hoạt động xét xửKhi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập
thể đối với từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có
21
hiệu lực pháp lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên
bản và được coi là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của
Tòa án khi cần thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui
định số lượng thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành
viên trong Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm).
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.
Tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp 2013 và tại Điều 6 Luật Tổ chức
TAND năm 2014, Điều 20 BLTTHS 2003 và Điều 17 BLTTDS 2015. Nội
dung nguyên tắc này qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử
sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm
tố tụng đơn thuần. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm
của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan
trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân.
Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến
cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án. Như
vậy, vụ án được đưa ra xét xử ở cấp sơ thẩm: sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo,
các đương sự có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án chưa có
hiệu lực pháp luật, vụ án sẽ được đưa ra xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Sau khi
xét xử phúc thẩm, bản án và quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật và
có hiệu lực thi hành.Việc qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử là
nhằm bảo đảm hạn chế những trường hợp xét xử thiếu khách quan, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử của Tòa án.
1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng
Tại khoản 3 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 11 Luật Tổ chức TAND
2014 đã qui định: Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần xã hội, địa vị xã hội, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân
22
và các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng
trước pháp luật. Kịp thời, công bằng, công khai là một trong những thuộc tính
quan trọng của xã hội dân chủ. Việc xét xử kịp thời, công bằng, công khai,
một mặt bảo đảm cho nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của
Toà án, và mặt khác phát huy được tính giáo dục chính trị – pháp lý và tác
dụng phòng ngừa của hoạt động xét xử. Việc xét xử công khai là một trong
những bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn và nâng cao
trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa đối
với việc thực hiện nghĩa vụ của mình, đối với việc tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật. Phiên toà xét xử của Toà án được tiến hành một cách kịp thời, công
bằng, công khai, mọi người đạt độ tuổi nhất định có quyền tham dự phiên toà
xét xử. Phiên toà xét xử có thể được tiến hành tại phòng xét xử trong trụ sở
của Toà án, nhưng cũng có thể được xét xử lưu động tại nơi xảy ra việc phạm
tội hoặc nơi cư trú của bị cáo nếu xét thấy cần thiết. Nội dung phiên toà, thời
gian, địa điểm mở phiên toà phải được niêm yết công khai trước khi xét xử,
kết quả xét xử tại phiên toà có thể được công bố trên báo chí, đài phát thanh,
đài truyền hình hoặc bằng các phương tiện thông tin đại chúng khác cho mọi
người biết. Việc xét xử công khai được áp dụng đối với hoạt động xét xử sơ
thẩm và hoạt động xét xử phúc thẩm. Việc xét xử kín chỉ được tiến hành trong
trường hợp đặc biệt như thuộc về bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục, bí
mật đời tư v.v nhưng bản án và quyết định của phiên toà đó cũng phải được
tuyên công khai. Khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui
định của pháp luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các
chứng cứ khách quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để
đưa ra các phán quyết khách quan, công bằng. Những yếu tố riêng được Tòa
án cân nhắc khi xét xử cũng phải là những yếu tố đã được pháp luật dự liệu và
23
qui định như hoàn cảnh địa điểm, thời gian và đặc điểm nhân thân riêng của
đương sự và vụ việc tranh chấp.
1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên lý của pháp luật
được thể hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách
như nhau, công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật. Bình đẳng là sự
ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công dân trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền
bình đẳng trước pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan
hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau. Hiến pháp sửa đổi năm
2013 khẳng định bình đẳng trước pháp luật là quyền con người theo hướng
mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật; khẳng định quyền
bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh
vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình đẳng về quyền, nghĩa vụ bao
hàm cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự
phân biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,
lứa tuổi, chức vụ, nghề nghiệp. Để đảm bảo sự bình đẳng của công dân trong
hoạt động xét xử, Điều 12 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định: Tòa án xét
xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá
nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án. Nguyên tắc này đòi hỏi
khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui định của pháp
luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các chứng cứ khách
quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để đưa ra các phán
quyết khách quan, công bằng.
24
1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Tại khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 14 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 qui định trong quá trình xét xử. Bào chữa là một trong những nội
dung cơ bản của tố tụng hình sự, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ
quan tiến hành tố tụng. Chính sự đối trọng này đảm bảo cho hoạt động tố tụng
hình sự được dân chủ, khách quan. Có buộc tội mà không có bào chữa thì
hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không phải là
tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi chức
năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa. Do đó quyền bào
chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự luôn được bảo đảm, thể hiện qua việc bị
cáo có quyền tự mình mời người bào chữa cho mình. Nếu người bào chữa
được mời không vi phạm qui định về những trường hợp không được bào chữa
thì Tòa án phải chấp nhận người bào chữa do bị cáo mời. Trong một số
trường hợp đặc biệt, nếu bị cáo không mời người bào chữa thì Tòa án (cơ
quan tiến hành tố tụng nói chung) phải mời người bào chữa cho bị cáo. Trong
các quan hệ pháp luật tố tụng khác, các đương sự được bảo đảm quyền bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, do vậy họ có quyền tự mình bảo vệ
(viện dẫn chứng cứ, cung cấp chứng cứ, tài liệu, tranh luận khi xét xử, khiếu
nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo qui định của pháp luật tố
tụng); hoặc có quyền nhờ người khác (luật sư, người đại diện hợp pháp) đứng
ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải tôn trọng các
quyền của đương sự.
1.2.8. Nguyên tắc khi xét xử, đảm bảo tranh tụng
Nguyên tắc này được qui định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và
Điều 13 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Đây là nguyên tắc có tầm quan trọng
trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận
25
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.Tranh tụng là hoạt động của các
bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác
bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để
Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm
bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hiến pháp quy
định chính thức về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của công dân trong quá trình
thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử
sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được bảo
đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.Việc đổi mới thủ tục tranh tụng
tại phiên tòa được TAND coi là khâu đột phá để nâng cao công tác xét xử,
đảm bảo những phán quyết của Tòa án đúng luật, mang lại công lý, niềm tin
cho nhân dân và xã hội. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận không chỉ
ở các phiên tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối với cả các phiên tòa xét
xử dân sự, hành chính.
Ngoài ra, trong tổ chức và hoạt động của Tòa án còn được thực hiện
theo một số nguyên tắc khác như nguyên tắc về dùng tiếng nói, chữ viết dùng
trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân,
trường hợp này phải có phiên dịch.
1.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức Tòa án nhân dân
ở nước ta và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động theo yêu cầu cải cách
tư pháp
1.3.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp huyện
- Vị trí của Tòa án nhân dân cấp huyện
Tòa án nói chung có một vị trí đặc biệt, bằng hoạt động của mình, Toà
án có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giữ gìn, và đảm bảo công lý, bảo vệ
26
pháp luật và quyền lợi của công dân - một trong những nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của mỗi quốc gia. Để thực hiện vai trò to lớn này, Tòa án là cơ quan
duy nhất được Hiến pháp giao cho nhiệm vụ xét xử (tài phán) các vụ việc
tranh chấp trong các hoạt động của xã hội dựa trên cơ sở của pháp luật. Nên
TAND cấp huyện nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng so với các cơ quan
Nhà nước và các cơ quan tư pháp ở cấp huyện, được thể hiện qua những điểm
sau:
Thứ nhất, TAND cấp huyện xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào
pháp luật hiện hành của Nhà nước để đưa ra những phán quyết thể hiện trực
tiếp ý chí của Nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ thể. Ý chí đó
phải được thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao, đánh
giá khách quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản
án hay quyết định của Tòa án. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND cấp
huyện phản ánh một cách trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí
của nhân dân.
Thứ hai, Thông qua hoạt động xét xử của mình, TAND cấp huyện thực
hiện được việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan Nhà nước, quyền công
dân, quyền con người, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội được
an toàn, ổn định, phát triển lành mạnh và bền vững.
Trong giai đoạn hiện nay, một trong những quan điểm cơ bản định
hướng hoạt động cải cách tư pháp được khẳng định trong Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến pháp năm 2013 quy định tại điều 102:
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Cho nên, đối với TAND cấp huyện cũng có
vị trí trung tâm trong việc tổ chức, thực hiện quyền tư pháp ở cấp huyện với
chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử.
27
- Chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp. Các đạo luật về tổ chức TAND qua các thời kỳ và hiện tại (2014) đều
khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Tòa án nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những
quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác. Xuất phát từ địa vị pháp lý của Tòa án, trên cơ sở các
qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo luật về tổ chức Tòa án
và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử
của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và
phát triển của Tòa án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử của Tòa án thì
có những thay đổi theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc được giao
cho Tòa án xét xử. Ban đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có
thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án
về dân sự liên quan đến tranh chấp về tài sản và những tranh chấp về nhân
thân phi tài sản, các vụ án về hôn nhân gia đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về kinh tế (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án về lao động (năm 1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính (năm 1996), Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993) và
sau đó là Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) năm 2015, các Tòa án được giao thêm có thẩm quyền xét xử
các vụ án kinh tế (từ khi có BLTTDS 2004 thì gọi là vụ án kinh doanh,
thương mại), lao động, hành chính và giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp. Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống Tòa án, TAND
28
cấp huyện có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.Bên
cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của pháp
luật tố tụng, TAND cấp huyện còn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi
hành án hình sự, dân sự. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự,
hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian
thử thách của án treo, xét miễn giảm thi hành án dân sự.
- Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền xét xử là sự phân định thẩm
quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc phân định thẩm quyền
xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của từng vụ án cụ
thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc
theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”. Với
chức trách là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết các việc khác theo qui
định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của TAND cấp
huyện nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án. Phân định thẩm
quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp luật về
tổ chức và hoạt động của TAND. Đối với vấn đề thẩm quyền của TAND cấp
huyện, pháp luật điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Tòa án cấp huyện với
Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện này với cấp huyện khác. Vấn đề thẩm quyền xét
xử của Tòa án cấp huyện là nội dung phức tạp vì nó có liên quan đến thẩm
quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao
động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật qua các thời kỳ
khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp cũng như năng lực của
các Thẩm phán.
Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của TAND cấp huyện được
qui định như sau:
29
+ Điều 44 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 1 Điều 268 Bộ luật
Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 qui định TAND cấp huyện có thẩm
quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng; xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm xâm phạm an
ninh quốc gia; Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh; Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 127, 277, 278, 279, 280,
282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật
hình sự; Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
+ Theo Điều 35 BLTTDS 2015, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây: Tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều
26, 28, khoản 1 Điều 30 và 32 của BLTTDS, trừ những tranh chấp quy định
tại khoản 7 Điều 26 của BLTTDS. Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9,
10 Điều 27; các khoản 1, 2, 3, 4,5, 6, 7, 8, 10, 11 Điều 29; các khoản 1, 6
Điều 31 và khoản 1, 5 Điều 33 của BLTTDS;
Theo Điều 36 BLTTDS quy định về thẩm quyền của các Tòa án chuyên
trách Tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh
doanh thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố tung Dân sự năm 2015. Tòa gia
đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa
chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và
30
phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện.
+ Theo Điều 31 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án cấp huyện giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện
trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, trừ quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp huyện; khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức
đó; khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với Tòa án
- Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện:
Theo Điều 45 Luật tổ chức Tòa án năm 2014 quy định thì cơ cấu tổ chức
của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương (gọi chung là TAND cấp huyện) có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự,
Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp
cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách
khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ quy định tại
khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách; Tòa án cấp huyện gồm có
Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa
án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức khác và người lao động; Có Bộ
máy giúp việc.
31
1.3.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện
TAND cấp huyện là một trong bốn cấp thuộc hệ thống tổ chức của
TAND, TAND cấp huyện tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các nguyên tắc
chung về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo đó, các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm:
- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân
tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán;
- Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết
định theo đa số;
- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm;
- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng;
- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân;
- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử
- Nguyên tắc dùng tiếng nói, chữ viết.
32
1.3.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức tòa án
nhân dân ở nước ta
Theo sơ đồ có thể thấy được Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp Tòa
thấp nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam phân theo lãnh thổ. Tòa án nhân
cấp huyện có thẩm quyền chính là xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự (Điều 35
Bộ luật tố tụng dân sự 2015), đồng thời giải quyết các việc dân sự (khoản 2
Điều 35 BLTTDS 2015); xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng (trừ những trường hợp khác
được quy định tại Điều 268 BLTTHS); giải quyết sơ thẩm các vụ án hành
chính, lao động theo quy định.
33
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện
Theo các quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và của hệ
thống cơ quan xét xử, địa vị pháp lý của TAND huyện chịu sự tác động của
các yếu tố khách quan và chủ quan, chẳng hạn như các quy định pháp luật,
việc tổ chức hệ thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành
chính ở mỗi quốc gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản như:
Một là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với cấp uỷ Đảng, Hội đồng
nhân dân cùng cấp, với cơ quan quyền lực cấp trên.
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định "Quyền lực Nhà nước thống nhất và
thuộc về nhân dân"và các nguyên tắc "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa(CHXHCN) Việt Nam''
[30], TAND cấp huyện có sự phụ thuộc vào Quốc hội, bởi vì: Quốc hội là cơ
quan có thẩm quyền ban hành ra các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ
chức và hoạt động của Tòa án, các quy tắc tố tụng của Tòa án. Ngoài ra Quốc
hội còn có ảnh hưởng gián tiếp đến TAND cấp huyện đó là Quốc hội bầu và
bãi nhiệm chức Chánh án TAND tối cao, có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối
với vị trí này. Quan trọng hơn nữa là Quốc hội quyết định ngân sách hằng
năm của Hệ thống Tòa án.
Hiện nay, theo quy định về Đảng thì Toà án nhân dân cấp huyện nào
chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng huyện đó và tổ chức cơ sở Đảng ở Toà án
cấp huyện trực thuộc Đảng bộ cấp huyện; cấp uỷ Đảng của huyện quản lý,
cho ý kiến khi đề bạt, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo và Thẩm phán Toà án
cấp huyện. Về mặt chính quyền, theo quy định của pháp luật, trên nguyên tắc
"Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương" [30] để
đảm bảo thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương, TAND cấp huyện
34
được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án Toà án cấp huyện báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra; Thường trực Hội đồng nhân dân có chức năng phối hợp với
Toà án nhân dân cấp tỉnh trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các
chức danh lãnh đạo Toà án cấp huyện.
Do đó, hoạt động xét xử ở một số Tòa án nhân dân cấp huyện chưa
thực sự độc lập, bị can thiệp, chi phối từ các cơ quan, người có thẩm quyền;
bộ máy tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện còn thiếu thống nhất, thiếu
đồng bộ; trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện còn có
sự đan xen, chồng chéo giữa quan hệ tố tụng và hành chính; công tác cán bộ
và các điều kiện cơ sở vật chất chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay.
Hai là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với TAND cấp trên.
Với tư cách là một trong các cấp Tòa án theo địa giới hành chính (cấp
huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương) và theo hai cấp theo thẩm quyền xét xử
(sơ thẩm, phúc thẩm), TAND cấp huyện là một trong các cơ quan tư pháp ở
cấp huyện (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án). Về mặt tổ chức
TAND cấp huyện có vị trí như là cơ quan "cấp dưới' trực tiếp của TAND cấp
tỉnh. Chánh án TAND tỉnh có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
các chức vụ trong TAND cấp huyện trừ Thẩm phán; Quyết định điều động,
luân chuyển, biệt phái Thẩm phán cấp huyện theo quy định; đề nghị, lập hồ sơ
báo cáo lên Chánh án TAND Tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án cấp huyện; tổ chức bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án nhân
dân cấp huyện . Sử dụng cán bộ và tổ chức, bố trí công tác phù hợp trong đơn
vị cho cán bộ đã được tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ.
35
Toà án nhân dân cấp huyện có mối quan hệ tố tụng và quan hệ hành
chính với Toà án nhân dân cấp trên. Bản án, quyết định của Toà án nhân dân
cấp huyện có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án phúc thẩm (cấp tỉnh) sẽ xét xử theo thủ tục
phúc thẩm; Toà án cấp có thẩm quyền sẽ xét xử, giải quyết theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm. Đây là điểm mới trong thủ tục giám đốc thẩm, thể hiện ở
chỗ Toà án cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án, quyết định của Toà án cấp huyện.
Ngoài quan hệ tố tụng, giữa Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án cấp
trên có mối quan hệ về hành chính, tổ chức. Đó là chịu sự chỉ đạo của Toà án
cấp trên về các vấn đề tổ chức nhân sự; báo cáo thống kê, xét xử; dự toán,
quyết toán kinh phí hoạt động. Về nguyên tắc, cơ quan cấp bộ nào được
Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về chuyên môn nghiệp vụ
thì cơ quan đó thực hiện việc quản lý về tổ chức, nhân sự các đơn vị thuộc
ngành mình phụ trách, bảo đảm đánhgiá được đúng đắn về phẩm chất, đạo
đức và năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức trong ngành.
Ba là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với cơ quan truyền thông:
Truyền thông có vai trò quan trọng trong hoạt động mọi mặt của đời sống. Là
nguồn của thông tin, truyền thông đóng góp tích cực vào việc kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan công quyền, trong đó có hệ thống Toà án. Thông
qua truyền thông, công chúng sẽ biết được về các hoạt động của hệ thống Toà
án, hiểu biết về quá trình đi đến các quyết định pháp lý, để từ đó tôn trọng,
tâm phục, khẩu phục đối với mỗi phán quyết của Toà án, tạo ra niềm tin vào
công lý. Đối với phần lớn dân chúng, mối liên hệ chủ yếu của họ với hoạt
động của Toà án là thông qua tin tức của các phương tiện thông tin đại chúng.
Chính vì vậy, truyền thông – mặc dù không phải là phương tiện duy nhất –
36
nhưng đóng vai trò quan trọng, là nguồn tin tức và bình luận chủ yếu gây ảnh
hưởng lớn nhất đối với các tầng lớp nhân dân về hệ thống Toà án.
Thông tin về các quy định của pháp luật, về hoạt động tố tụng và các
tin tức liên quan đến hoạt động của Toà án được các phương tiện truyền thông
phổ biến chính xác, kịp thời và đầy đủ, sẽ là kênh truyền tải có hiệu quả nhất
để người dân tiếp cận pháp luật; nâng cao dân trí; qua đó tạo sự chuyển biến
cơ bản về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; đồng thời,
người dân cũng biết thêm về tình hình tội phạm, các thủ đoạn phạm tội mới
để nâng cao ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình và phòng ngừa tội phạm. Để
phát huy hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phổ
biến, giáo dục pháp luật thì mối quan hệ giữa Toà án và truyền thông phải
tuân thủ một số nguyên tắc nhất định như: (1) Toà án phải minh bạch, công
khai các hoạt động theo quy định của pháp luật; (2) Toà án phải có trách
nhiệm và những biện pháp thích hợp để cung cấp thông tin chính xác, hoàn
chỉnh về các hoạt động của mình cho các cơ quan truyền thông; (3) Các cơ
quan truyền thông phải có được thông tin và sự giúp đỡ về mặt pháp lý trong
việc hiểu biết về cách thức, quy trình làm việc của Toà án và hiểu biết về
những vấn đề cụ thể liên quan đến tin tức được đưa, để công chúng hiểu rõ
công lý đã được thực thi và cơ sở của việc thực thi công lý.
Không nằm ngoài xu hướng chung trong tiến trình cải cách tư pháp,
tăng cường thông tin về các hoạt động của Tòa án là trọng tâm ưu tiên trong
quá trình cải cách tư pháp, để hướng tới một nền tư pháp tiến bộ, công khai,
minh bạch, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân.Để thực hiện được điều này,
không chỉ có trách nhiệm của Toà án, với tư cách là chủ thể công bố thông
tin, mà rất cần đến vai trò quan trọng của các cơ quan truyền thông. Các
phương tiện truyền thông đã luôn đồng hành cùng với quá trình xây dựng và
37
phát triển của hệ thống Toà án Việt Nam, không những là cầu nối giúp phổ
biến chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa thông tin về các hoạt động của
Toà án đến người dân, mà còn chuyển tải các phản ánh, ý kiến của người dân
đến Tòa án; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các Tòa án, trong đó
có việc khắc phục kịp thời những sai sót trong hoạt động nghiệp vụ để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhận thức được vai trò quan trọng của truyền thông trong tổ chức và
hoạt động, Tòa án nhân dân cấp huyện đã hưởng ứng việc Tòa án nhân dân tối
cao thành lập các cơ quan thông tin, báo chí của hệ thống Tòa án; đồng thời
thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền; nâng cao chất lượng thông tin
để phục vụ tốt các mặt hoạt động của Tòa án, đặc biệt là công tác xét xử. Các
đơn vị truyền thông của Tòa án đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ,
mục đích hoạt động của mình; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông
ngoài hệ thống thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về các hoạt động
của Tòa án.
Như vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì Toà án nhân
dân cấp huyện có vị trí độc lập chỉ là tương đối trong bộ máy Nhà nước cũng
như trong hệ thống cơ quan xét xử của nước ta. Sự phụ thuộc của TAND cấp
huyện vào hệ thống các cơ quan này là tương đối lớn. Những đặc điểm về vị
trí của TAND cấp huyện trong bộ máy Nhà nước, trong hệ thống cơ quan xét
xử đã ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện, đặc biệt là phán quyết
của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc.
Chính vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và phát huy những kết
quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có ý nghĩa hết sức quan trọng,
38
góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân.
1.3.5. Yêu cầu đổi mới đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Trong thời gian qua, công tác đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
theo tinh thần cải cách tư pháp đã từng bước chuyển biến và đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, song chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách xu thế
chung. Do đó đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân nói chung và
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện theo yêu
cầu cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công tác Tòa án nói chung và chất
lượng phục vụ người dân khi có việc yêu cầu Tòa án giải quyết nói riêng,
nhằm xây dựng Tòa án công khai, minh bạch, thân tiện, gần dân, phục vụ
nhân dân, vì vậy cần phải có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất
trong hoạt động của cả hệ thống các cơ quan nhà nước.
- Tòa án nhân dân cấp huyện phải được tổ chức theo thẩm quyền xét xử
trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm nâng cao năng lực xét xử, đáp ứng các
yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta;
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải đảm
bảo hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cấu tổ chức; bảo đảm điều kiện vật chất,
phương tiện làm việc để Tòa án thực hiện nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp; khi
xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; khắc phục
những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả xét xử; xây dựng
đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới.
39
- Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, từ đó nâng cao chất
lượng, kết quả của bản án, quyết định của tòa án.
Trên cơ sở các mục tiêu trên, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, cần nâng cao năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện được hiểu là khả năng thực
hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc theo thẩm quyền và các
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản là: Cơ cấu tổ chức bộ máy của
Tòa án nhân dân cấp huyện; trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, công chức Tòa án; sự phối hợp giữa Tòa án nhân
dân cấp huyện với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có
liên quan; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
cấp huyện.
Hai là, phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân cấp huyện trong
hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật, theo đó
thông qua sự đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và đối chiếu với các
quy định của pháp luật, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đưa ra các bản án,
quyết định nhân danh Nhà nước. Bởi vậy, muốn có sự đánh giá, áp dụng đúng
pháp luật, khách quan thì Tòa án và các Thẩm phán phải có sự độc lập cả về tổ
chức và ý chí quyết định. Ở nhiều nước trên thế giới, yêu cầu bảo đảm sự độc
lập của Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định, trong đó chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán được quy định một cách rõ ràng, độc lập và
không lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành pháp. Sự phân định rõ ràng
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và đề cao sự độc
lập của Thẩm phán là điều kiện để Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử.
40
Việc quy định Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở
pháp lý quan trọng để Thẩm phán không phải chịu áp lực từ các cơ quan,
người có thẩm quyền, đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm
phán trong việc đảm bảo công lý. Chính vì vậy, để đảm bảo tính độc lập của
Thẩm phán, nhiều nước quy định Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời hoặc
với nhiệm kỳ đặc biệt cùng với những chế độ đãi ngộ tương xứng để đảm bảo
tính liêm chính của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Tính độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật của Thẩm phán ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến
pháp. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại khoản
2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức
TAND năm 2014 là: “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”. Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan
trọng trong việc tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng. Điều này đòi hỏi các Tòa án
nhân dân cấp huyện phải được tổ chức độc lập với các cơ quan, tổ chức khác
tại địa phương; hoạt động xét xử không bị can thiệp trái pháp luật từ các cơ
quan, tổ chức, cá nhân và tiến tới nghiên cứu quy định việc bổ nhiệm Thẩm
phán với nhiệm kỳ lâu dài và chế độ đãi ngộ tương xứng để Thẩm phán yên
tâm, liêm chính thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ba là: Bảo đảm tính giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân. Đây là một yêu cầu quan trọng, tất yếu ở bất kỳ nhà nước nào, bởi vì, về
bản chất quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nên hoạt động của Tòa án
đòi hỏi có sự giám sát từ các thiết chế của nhân dân. Giám sát là một biện
pháp đảm bảo cho Tòa án phải xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, nếu
Thẩm phán xét xử không đúng, các chủ thể giám sát sẽ có ý kiến, kiến nghị.
41
Cơ chế giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án là cơ chế dân chủ,
bởi vì hoạt động của Tòa án liên quan đến công lý, phán xét các quyền cơ bản
của con người (quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền sở hữu, sử dụng tài
sản của công dân…). Ở các nước, để đảm bảo tính dân chủ và giám sát hoạt
động xét xử của Tòa án, pháp luật có quy định sự tham gia của nhân dân
thông qua sự hiện diện của Bồi thẩm đoàn, Hội thẩm trong quá trình xét xử
cùng với Thẩm phán. Ở nước ta, tính nhân dân trong tổ chức và hoạt động của
Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định được quy định tại khoản 1 Điều
103 Hiến pháp năm 2013 và cũng được khẳng định tại Điều 8 Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014, theo đó thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có sự tham gia của Hội thẩm nhân
dân. Để đảm bảo tính khách quan, bình đẳng trong hoạt động xét xử, pháp
luật đã quy định, đảm bảo tính ngang quyền và độc lập của Hội thẩm nhân
dân với Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân cũng là người giám sát việc tuân thủ
các trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử tại phiên tòa.
42
Tóm tắt chương 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án và
những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:
Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền
lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa
án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực
hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm
bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát
trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp
Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ
án theo thẩm quyền.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần hướng tới các
mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa
án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với
hoạt động xét xử.
43
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG BÌNH THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm
1945 đến nay
Quảng Bình là một tỉnh nằm ở miền Trung đất nước, phía Bắc giáp tỉnh
Hà Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Làovà phía Đông giáp biển Đông, có diện tích 8.051,50km2.
Dân số Quảng Bình hiện nay có hơn 80 vạn người, trong đó đa số là người
dân tộc Kinh. Cùng chung sống với người kinh trên mảnh đất này còn có hai
dân tộc ít người anh em khác: Bru-Vân Kiều (nói ngôn ngữ Việt – Mường)
Trong hệ thống tổ chức Tòa án ở Quảng Bình, Tòa án nhân dân cấp
huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm.
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân có thể thấy rằng trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp huyện đã có những bước phát triển,
hoàn thiện và góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ở tỉnh Quảng Bình.
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa được thành lập đã nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ
máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng Nhà nước của nhân
dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 33-C/SL thành lập các
44
Tòa án quân sự để xét xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên,
do yêu cầu cách mạng, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ban đầu mới chỉ
thiết lập các Tòa án quân sự để xét xử các vụ án hình sự mà chưa tổ chức
thành hệ thống Tòa án các cấp và xét xử các vụ án dân sự. Theo Điều 1 của
Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở
Nam bộ tại Sài Gòn và Mỹ Tho.
Trong tình hình chung, đến đầu năm 1946 ở Quảng Bình chưa có cơ
quan Tòa án, các hành vi phạm tội được quy định tại Sắc lệnh 33-C/SL ngày
13 tháng 9 năm 1945 đều do Tòa án quân sự Miền Trung đóng tại thành phố
Vinh xét xử, nhưng các việc dân sự tạm thời giao cho Ban Tư pháp trong các
ủy ban hành chính tỉnh và huyện đảm nhiệm.
Bước sang năm 1946, thực hiện Sắc lệnh số 13 của Chính phủ về việc
thành lập hệ thống tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán, tháng 3 năm 1946
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình được thành lập do ông Nguyễn Duy Xán
làm Chánh án, ông Nguyễn Đình Hàm làm biện lý và có một số thư ký giúp
việc. Tòa án sơ thẩm cấp huyện cũng nhanh chóng được thành lập, trụ sở
đóng bên cạnh ủy ban điều hành chính huyện. Tổ chức của Tòa án huyện lúc
này chỉ có một thẩm phán và một thư ký. Gồm có các Tòa án huyện Lệ Thủy,
huyện Quảng Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa.
Ngay sau khi thành lập Tòa án các cấp bắt tay vào hoạt động phục vụ Đảng,
chính quyền và nhân dân.
Năm 1947, thực hiện chủ trương của hội nghị Tỉnh ủy, ngành Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình được tiếp tục củng cố hoàn thiện tổ chức. thực hiện
thông tư của Ngành Tư pháp liên khu IV về tổ chức Tòa án trong tình hình
chiến tranh, nhằm phục vụ tốt hơn nữa công cuộc kháng chiến. Thi hành
45
thông lệnh, Tòa án Quảng Bình chia làm hai phân hạt: phân hạt Nam và phân
hạt Bắc.
Từ năm 1950 đến 1954 ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình được tổ
chức theo mô hình Tòa án nhân dân vùng bị tạm chiến theo Sắc lệnh 157/SL
ngày 11 tháng 7 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Năm 1952 Tổ chức Tòa án liên huyện được tách ra,thành lập lại Tòa án
các huyện như trước. Tổ chức Tòa án các huyện Tuyên Hóa, Quảng Trạch,
Quảng Ninh, Lệ Thủy về lại vị trí tiếp tục được cũng cố và xây dựng để nhanh
chóng đáp ứng với cuộc kháng chiến. Do hình thái chiến tranh “Cài răng
lược” do đó cán bộ ngành Tòa án phải luồn lách qua hệ thống các đồn bốt
địch để mở phiên tòa ban đêm ngay vùng căn cứ du kích để xét xử. Ngoài ra
ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã chú ý củng cố kiện toàn mạng
lưới tư pháp và tổ hòa giải, chỉ đạo ban tư pháp xã thực hiện các nhiệm vụ
như hòa giải các vụ dân sự, thương sự.
Năm 1954, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời kỳ có nhiều diễn
biến phức tạp, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh tạm thời coi như là một tòa
án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình. Đồng chí Hoàng Văn Phòng - Thẩm
phán Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) được bổ nhiệm làm
Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Ninh. Như vậy Tòa án nhân dân
huyện Vĩnh Linh cùng với các Tòa án nhân dân huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhanh chóng đổi hướng tư
tưởng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo về chính quyền,bảo vệ
cuộc sống của hòa bình của nhân dân [43].
2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980
Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến
pháp mới của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (công bố ngày 01/01/1960)
nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là xây dựng chủ
46
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp 1959
đã xác định lại vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước, theo đó hai hệ thống cơ quan này không thuộc
Hội đồng Chính phủ mà trực tiếp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật
tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và ngày 23/3/1961, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án
nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương. Theo quy
định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân cấp huyện ở Quảng Bình trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc luôn gắn chặt công
tác ngành vào nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân nhằm phục vụ tốt
yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc phòng. Đúc rút kinh
nghiệm và phát huy những thành quả những năm trước đây.
Tháng 6 năm 1976, thực hiện quyết định của Quốc hội và Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập. Ngay sau
khi thành lập, lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã xác định phải
đẩy mạnh 3 nội dung công tác cấp bách, trong đó có nội dung nhanh chóng ổn
định bộ máy ngành Tòa án, đặc biệt là cấp huyện và thị xã, nâng cao trình độ
chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo khả năng xét xử đúng
pháp luật, xét xử kịp thời các vụ án theo phân cấp quản lý. Mặc dù còn nhiều
khó khăn về đào tạo bổ sung cán bộ và thiếu thốn nghiêm trọng về cơ sở vật
chất nhưng với sự quan tâm chỉ đạo của Tòa án nhân dân Tối cao, của lãnh
đạo tỉnh Bình trị Thiên nên chỉ trong vòng một năm, hệ thống tổ chức Tòa án
14 huyện, thị xã, thành phố Huế đã được tăng cường một bước và đủ khả
47
năng xét xử các vụ án theo phân cấp. Riêng địa bàn Quảng Bình, hệ thống
Tòa án cấp huyện và thị xã có rất nhiều truyền thống kinh nghiệm hoạt động
hàng chục năm nhưng với nhiều lý do như phải điều chuyển chi viện cán bộ
cho miền Nam, hoặc tăng cường cho Tòa án cấp tỉnh. Vì vậy, cơ sở tổ chức
Tòa án cấp huyện, thị xã có ổn định hơn so với khu vực mới giải phóng
nhưng đội ngủ cán bộ vẫn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là thiếu cán bộ được
đào tạo chính quy về pháp luật. Trước tình hình đó, Tòa án nhân dân tỉnh đề
nghị tỉnh điều chuyển cho một số cán bộ có kinh nghiệm và quá trình công
tác, có một ít hiểu biết về kiến thức pháp luật tăng cường cho ngành Tòa án,
đồng thời gửi một số cán bộ trẻ theo học các lớp bồi dưỡng ngắn ngày do Tòa
án nhân dân tối cao tổ chức, tiếp nhận một số cán bộ được đào tạo chính quy
tại trường đại học Luật về công tác. Ngoài công tác xét xử thì công tác thi
hành án cũng được quan tâm chú trọngnhằm đảm bảo hiệu lực của việc xét
xử. Trong những năm 1977 – 1978 các Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã ở
Quảng Bình, nhờ kiện toàn về tố chức và chấn chỉnh lề lối làm việc, đi đôi với
việc kiểm tra, tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng nghiệp vụ nên hoạt động thi
hành án đã đi vào nề nếp. Trong hoạt động của Tòa án cấp huyện đã hạn chế
được tình trạng thụ động, mà có những hình thức tích cực hơn, có chiều sâu
hơn như: Tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ nhân dân, xây dựng tổ
chức tư pháp ở cơ sở để kịp thời xử lý như vi phạm nhỏ nhặt, kịp thời hòa giải
những vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình để hàn gắn đoàn kết và nghĩa vụ gia
đình, nghĩa vụ công dân; thực hiện ủy thác và mệnh lệnh của Tòa án. Có thể
nói, trong điều kiện có nhiều biến động từ hoàn cảnh chiến tranh sang thời
bình, Tòa án nhân dân cấp huyện ở Quảng Bình đã chuyển hướng công tác
kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới [43].
48
2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992
Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống
nhất - Hiến pháp 1980. Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về Tòa án
nhân dân tiếp tục được kế thừa và phát triển từ các quy định của Hiến pháp
năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Các quy định của
Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được cụ
thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03/7/1981 và được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988.
Sau khi có luật tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình đã rà soát lại đội ngũ cán bộ công chức, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ
để xây dựng bộ máy tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Theo chủ
trương thì đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tỉnh và các huyện được
chọn lọc và bồi dưỡng nghiệp vụ để đảm bảo “vừa hồng, vừa chuyên”. Tuy
được đào tạo, bồi dưỡng nhưng hầu hết chỉ qua lớp cấp tốc, ngắn hạn nên
chưa có nghiệp vụ chuyên sâu. Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh
chuyển vào Huế, việc nắm bắt thông tin cuả nước cũng như cuả tỉnh khó
khăn, ít nhạy cảm. Sự chỉ đạo của cấp trên cũng thiếu thường xuyên nên hoạt
động của Tòa án huyện ở địa bàn Quảng Bình có nhiều mặt lúng túng và ít
nhiều có hạn chế.
Sau gần 14 năm sát nhập thành tỉnh Bình Trị Thiên, nhưng đặc điểm tự
nhiên của Bình Trị Thiên một tỉnh hẹp và dài, điều kiện kinh tế xã hội không
thống nhất giữa hai vùng Nam Bắc v.v. nên Quốc Hội khóa V (họp tại Hà Nội
từ ngày 19 đến 30/6/1989) đã ra Nghị quyết phân định lại địa giới hành chính,
chia lại thành ba tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên Huế. Ngày
49
11/7/1989 Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 155/QĐ-QLTA thành lập Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ngày đầu thành
lập có 13 cán bộ công nhân viên được chuyển từ Tòa án Bình Trị Thiên ra và
trong đó có tuyển dụng thêm 5 cán bộ, 6 Thẩm phán. Bà Nguyễn Thị Hướng
làm Chánh án, ông Phạm Xuân Sơn làm Phó chánh án. Cùng với chấn chỉnh
Tòa án tỉnh, lãnh đạo Tòa án đã phối hợp với ngành Tư pháp chuẩn bị nhân sự
cho Tòa án cấp huyện theo đúng tinh thần Thông tư267 (14/8/1989) của Bộ tư
pháp. Hệ thống Tòa án cấp huyện được bầu lại với 23 Thẩm phán và 112 Hội
thẩm nhân dân. Thực hiện Chỉ thị 135 và Quyết định 240 của Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh đã kịp thời chỉ đạo
các Tòa án nhân dân huyện, thị xã phối hợp tích cực với các cơ quan khối nội
chính đẩy nhanh tốc độ điều tra, truy tố, đưa ra xét xử kịp thời và kiên quyết
trừng trị thích đáng bọn tội phạm [43].
2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002
Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên
cứu,xây dựng Hiến pháp năm 1992. Trước những yêu cầu thực hiện công
cuộc đổi mới, mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 1980 dựa trên
cơ chế quản lý nhà nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp không
còn phù hợp. Vì vậy, kế thừa các quy định của Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 đã có những quy định thể hiện sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án
nhân dân ngày 06/10/1992 và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi,
bổsung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội thông
qua ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự ngày 19/4/1993 và Pháp lệnh về
50
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân ngày 14/5/1993. Theo các văn bản
pháp luật này thì tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được kiện toàn
và đổi mới một bước cơ bản. Nhìn chung nhiều quy định của Hiến pháp năm
1992 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được kế thừa các quy định
của Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên một số quy định của Hiến pháp năm 1992
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của Tòa án
nhân dân nói riêng đã thể hiện rõ nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của các cơ quan này.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng như tình hình chung cả nước,
Ngành Tòa án có sự thay đổi đó là năm 1993 công tác Thi hành án dân sự
được chuyển sang Chính Phủ, nên hoạt động của ngành Tòa án nhân dân đi
vào chuyên sâu công tác xét xử và thi hành án phạt tù, vì thế công tác tổ chức
cán bộ có một số điều chỉnh. Biên chế cán bộ khi chưa chia tách là 84 cán bộ,
sau khi bàn giao cán bộ sang làm công tác Thi hành án dân sự 17 cán bộ, còn
lại 67 cán bộ (tỉnh 26 cán bộ, huyện thị 41 cán bộ).
Tháng 4/1994 (năm triển khai thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân
sửa đổi: chế độ Thẩm phán bầu thay đổi bằng chế độ do Chủ tịch nước bổ
nhiệm) Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ nhiệm 12
Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, 24 Thẩm phán cho 7 Tòa án nhân dân cấp
huyện, thị. Việc bổ nhiệm kịp thời này đã triển khai kịp thời, các nhiệm vụ
công tác của Tòa án. Công tác xét xử các loại án có những chuyển biến tích
cực hơn, tốc độ giải quyết nhanh và kịp thời, có nhiều đơn vị cấp huyện giải
quyết đạt 100% chỉ tiêu.
Trong việc quản lý tổ chức và cán bộ đối với các đơn vị Tòa án cấp
huyện, sự phối hợp giữa lãnh đạo hai ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
và Sở Tư pháp ngày càng chặt chẽ. Các khâu phân bổ biên chế, tuyển dụng,
sắp xếp bố trí thuyên chuyển công tác, đề bạt, nâng lương, cử đi đào tạo đều
51
có sự bàn bạc, thống nhất. Đối với những đơn vị yếu hoặc thiếu Thẩm phán,
lãnh đạo hai ngành đã có biện pháp hỗ trợ chuyên môn nhằm giúp đỡ đơn vị
hoàn thành nhiệm vụ.
Năm 1996, thực hiện Luật bổ sung sửa đổi một số điều của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân, ngành đã cử 17 cán bộ, trong đó có 5 cán bộ cấp huyện
theo học các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về nghiệp vụ hành chính, lao
động do Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao triệu tập. Về công tác cán bộ,
trong năm, cấp huyện có 18/22 cán bộ có bằng Đại học, Cao đẳng pháp lý.
Các Hội thẩm nhân dân cấp huyện đã được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ
và các chuyên đề cần thiết.
Với diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm cuối năm 1999 đầu năm
2000, các Tòa án đã bám sát nhiệm vụ chính trị địa phương và phương hướng
hoạt động của ngành đã được Hội nghị triển khai công tác ngành Tòa án tỉnh
Quảng Bình năm 2000 đề ra đầu năm, chủ động tích cực đẩy mạnh các hoạt
động xét xử, vì vậy đã đạt được những kết quả tích cực như Tòa án nhân dân
huyện Lệ Thủy là 95%, Tòa án nhân dân thị xã Đồng Hới là 85%. Chất lượng
xét xử nhìn chung là đảm bảo. Giữa năm 2000 công tác bổ nhiệm Thẩm phán
về cơ bản đã hoàn thành, Tòa án nhân dân tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp và
các cấp Đảng ủy tiếp tục kiện toàn về tổ chức bộ máy trong toàn ngành theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 lần 2, trung ương 7 (khóa VIII) nhằm
nâng cao hiệu quả công tác và tiếp tục rà soát, có kế hoạch tuyển chọn bổ
sung thẩm phán cho các tòa án còn thiếu Thẩm phán [43].
2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014
Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu về đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được đề ra trong các nghị quyết, văn
kiện của Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
52
thứ IX của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày
02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân mới thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 06/10/1992
đã được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Theo quy định
của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa
án nhân dân cấp huyện có những bước đổi mới và được quy định cụ thể hơn
nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử nói chung.
Ở Quảng Bình, sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 ra đời,
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được ban hành. Vào tháng
11/2002 sau khi nhận bàn giao về mặt quản lý và tổ chức từ Sở tư pháp thì
Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã khẩn trương rà soát đội
ngủ cán bộ, lên kế hoạch kiện toàn về tổ chức bộ máy. Về cơ bản đội ngũ cán
bộ lãnh đạo được giữ nguyên như trước khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002 ra đời. Ở Tòa án nhân dân thị xã Đồng Hới (năm 2004 là thành phố
Đồng Hới) có một Chánh án và hai Phó chánh án. Các Tòa án nhân dân huyện
Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Minh Hóa, Tuyên Hóa đều có
một Chánh án và một Phó chánh án. Bộ phân giúp việc không mang tính
chuyên trách cao như Văn phòng Tòa án tỉnh mà mang tính kiêm nhiệm. Bộ
phận giúp việc này cũng gọi là Văn phòng Tòa án nhân dân cấp huyện, do
một Phó chánh án phụ trách và các thành viên khác đảm nhiệm các công việc
như kế toán, thủ quỹ, báo cáo thống kê, văn thư lưu trữ. Sau khi Tòa án nhân
dân Tối cao có Công văn số 53/TCCB ngày 25/3/2003 quy định về văn phòng
Tòa án nhân dân cấp huyện, Văn phòng 7 Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh được
thành lập. Việc thành lập này đã giúp cho các hoạt động mang tính văn phòng
của các Tòa án cấp huyện được nề nếp hơn. Việc bổ nhiệm Thẩm phán của
53
Tòa án nhân dân cấp huyện cũng như cấp tỉnh phải thông qua Hội đồng tuyển
chọn thẩm phán, sau đó hồ sơ mới được chuyển lên Chánh án Tòa án nhân
dân Tối cao xem xét bổ nhiệm. Trong thời gian 8 năm (từ 2003 đến 2010)
toàn tỉnh được bổ nhiệm hơn 80 lượt Thẩm phán Tòa án nhân dân hai cấp.
Cuối năm 2005, có 4 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện là Đồng Hới,
Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Thủy được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết
định cho phép tăng thẩm quyền về xét xử hình sự và thực hiện thẩm quyền
mới về xét xử dân sự theo Điều 33 BLTTDS năm 2004. Như vậy mặc dù là
Tòa án cấp huyện nhưng được chia thành hai loại, loại thứ nhất là 4 đơn vị
cấp huyện nói trên, loại thứ hai là Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, Quảng
Ninh, Tuyên Hóa chưa được thực hiện thẩm quyền xét xử theo Điều 170
BLTTHS và Điều 33 BLTTDS.
Từ khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, Tòa án nhân dân
cấp huyện thụ lý và giải quyết các loại án theo đúng thẩm quyền. Nhìn chung
các vụ án đều được thụ lý và xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, coi trọng
tranh tụng, đảm bảo dân chủ, công bằng trước pháp luật, bảo vệ lợi ích chính
đáng của công dân. Tòa án nhân dân cấp huyện đã thực hiện tốt quy chế phối
hợp giữa 3 ngành: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong xác định án trọng
điểm. Việc áp dụng đề án phiên tòa mẫu về nâng cao tranh tụng tại phiên tòa
và chất lượng bản án theo yêu cầu của Nghị quyết 08- NQ/TW. Các yêu cầu
cải cách tư pháp, hướng dẫn của liên ngành cấp trên và của Tòa án nhân dân
tối cao đã được vận dụng có hiệu quả. Cũng nhờ đó mà nhiều loại tội phạm
giảm rõ rệt. Việc vận dụng cải cách tư pháp vào công cuộc xét xử không
những làm tăng thêm chất lượng thụ lý vụ án mà còn tạo sự thông suốt, dân
chủ, công bằng, thực sự cầu thị, giảm đáng kể sai sót, tạo lòng tin cho nhân
dân.
54
Do nhận thức đúng tầm quan trọng của nghị quyết số 08-NQ/TƯ và
Nghị quyết số 49-NQ/TW đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
xét xử đồng thời để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và mục tiêu nhiệm
vụ cải cách tư pháp, bước vào giai đoạn 2006 – 2010, Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu công tác.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các Tòa án huyện, thành phố đã được kiện toàn, bổ
sung, đảm bảo yêu cầu công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tại các đơn vị.
Việc xem xét bổ nhiệm Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo, tuyển dụng cán bộ công
chức tạo nguồn thẩm phán có nhiều tiến bộ, từng bước đảm bảo biên chế
Thẩm phán, cán bộ công chức theo biên chế đã được Tòa án nhân dân tối cao
phân bổ, phê duyệt. Về Hội thẩm nhân dân trong gia đoạn này, ở cấp huyện
có 117 vị Hội thẩm nhân dân, đa số là các cán bộ chủ chốt đại diện các ban
ngành đoàn thể ở huyện và thành phố, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phần lớn có trình độ đại học và hàng năm được tham gia
tập huấn nghiệp vụ xét xử, do vậy khi tham gia Hội đồng xét xử đã thể hiện rõ
vai trò, bản lĩnh, độc lập, khách quan, đảm bảo công bằng v.v.
Đến tháng 6/2009 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã hoàn thành việc tăng
thẩm quyền xét xử cho tất cả 7/7 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện đúng thời
gian Quốc hội và Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương quy định. Sau khi
được tăng thẩm quyền, nhằm khắc phục tình hình thiếu cán bộ, Thẩm phán,
việc tuyển chọn cán bộ mới, nâng cao trình độ về trình độ chuyên môn cũng
như trình độ về lý luận, đồng thời công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán
bộ để lựa chọn bổ nhiệm cũng được quan tâm. Với những biện pháp thực hiện
tích cực, đến cuối năm 2010 số lượng cán bộ đã bố trí theo đủ biên chế, chất
lượng đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử và bước đầu đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp, đặc biệt đội ngũ Thẩm phán dần được trẻ hóa, được học
tập chính quy, có tâm huyết với nghề và có nguyện vọng được cống hiến lâu
55
dài trong ngành Tòa án. Về cơ sở vật chất, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết
49NQ/TW, kinh phí cấp phát cho các hoạt động của Tòa án được tăng cường
bổ sung, đảm bảo cho việc triển khai kịp thời các hoạt động tại các Tòa án
nhất là hoạt động xét xử. Như xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị máy
tính, máy photocopy, điện thoại, máy fax, xe công vụ, hệ thống điều hòa,
camera giáp sát .v.v. Về hoạt động xét xử, đảm bảo, kịp thời, không để án tồn
động, chất lượng phiên toà và chất lượng bản án được nâng lên và đảm bảo
tính đúng đắn, chính xác hơn. Một số khuyết điểm, sai sót đã để xảy ra thời
gian trước đây trong định tội danh, cá thể hóa hành phạt, áp dụng điều luật,
chưa tuân thủ các quy định đầy đủ của pháp luật tố tụng cơ bản đã được khắc
phục [43].
Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có
sự thay đổi về địa giới hành chính, năm 2013 tăng 01 Tòa án nhân dân cấp
huyện đó là Tòa án Thị xã Ba Đồn được tách ra từ TAND huyện Quảng
Trạch. Vì vậy TAND cấp huyện trên địa bàn có 8 đơn vị. Về tổng số lượng
cán bộ có: 76, Thẩm phán có: 26. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý
luận chính trị, 100% Thẩm phán cấp huyện có trình độ cử nhân luật; Tỷ lệ
Thẩm phán, cán bộ có trình độ thạc sỹ được tăng lên. Về phẩm chất đạo đức,
100% Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là Đảng viên, đa số đáp ứng yêu
cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên theo
quy định. Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử tại thời điểm quy định
đối với Toà án cấp huyện trên địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử
với tỷ lệ gia tăng án hàng năm thì số lượng cán bộ, thẩm phán của từng đơn vị
chưa đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ
dừng ở việc thiếu số lượng mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của
đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng
cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ
56
Thẩm phán về nhiều mặt còn nhiều hạn chế, trong khi đó đã bắt đầu phát sinh
nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao
động đặc biệt các loại án về tăng thẩm quyền.
Về cơ sở vật chất của các Toà án, do trong thời gian dài không được
quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính cấp huyện
nên trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Toà án cấp huyện còn
thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng
trụ sở mà phải sử dụng chung trụ sở như TAND huyện Quảng Trạch và
TAND thị xã Ba Đồn gây khó khăn, nhầm lẫn cho người dân. Có những trụ
sở mô hình đã cũ, thiết kế cho ít biên chế nhưng khi tăng thẩm quyền thì trụ
sở không còn đáp ứng được với biên chế, số lượng công việc như TAND
thành phố Đồng Hới. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động,
chế độ chính sách đối với Toà án được cấp như định mức đối với cơ quan
hành chính sự nghiệp chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác
xét xử, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Toà án.
Về hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân cấp huyện, trong những
năm này, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên
tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc
của các Tòa án ngày càng quá tải [34].
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014
Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, là
một trong văn bản luật được ban hành sớm nhất để cụ thể hóa các nguyên tắc,
các qui định của Hiến pháp năm 2013, là một trong những đạo luật quan trọng
về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội thông qua theo tinh thần Hiến
pháp mới; thể chế hóa các quan điểm lớn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta về
57
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa các quy định của Hiến
pháp về quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng
để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của TAND, bảo đảm
Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con
người. Luật cũng đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so với Luật Tổ chức
TAND năm 2002, từ phạm vi điều chỉnh, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của TAND; các nguyên tắc tổ chức hoạt động, tổ chức bộ máy của TAND;
thẩm quyền của từng cấp Tòa án; chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán;
chế độ bầu (cử) Hội thẩm; nhiệm vụ của Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; các
quy định bảo đảm hoạt động của Tòa án.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được ban hành trên nền tảng
của nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” từ đó chi tiết hóa trong tổ chức và hoạt động của
Hệ thống Tòa án nhân dân.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt
trong bối cảnh hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá đầu tiên
hướng đến một Hệ thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ
bản được quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc
mới quan trọng như nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử;
nguyên tắc suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất
đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được ghi nhận tại các văn
kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải
58
cách tư pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử” (Điều 5).
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức,
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có những bước đổi mới và được
quy định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.
- Về tổ chức:
Theo quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu
tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện được cơ cấu như sau:
+ Tòa án nhân dân cấp huyện có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa
gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần
thiết, Ủy ban thường vụ Quốc Hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách
khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.
+ Bộ máy giúp việc.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Theo Quyết định số: 345/2016/QĐ-
CA, ngày 07 tháng 04 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, tại
Điều 5 quy định: Bộ máy giúp việc của các Tòa án nhân dân cấp huyện là
Văn phòng. Văn phòng Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh Văn phòng, 01
Phó Chánh Văn phòng, các công chức và người lao động khác.
+ Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa,
Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án,
công chức khác và người lao động.
59
- Về chức năng, nhiệm vụ cụ thể:
+ Tòa án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ, xét xử sơ thẩm các vụ án
theo quy định của pháp luật, giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
+ Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp huyện là Văn phòng (gồm
luật.
công chức và người lao động), có nhiệm vụ giúp Chánh án Tòa án nhân dân
cấp huyện thực hiện các công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu, công tác
kế toán - quản trị, bảo vệ; đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của
Tòa án nhân dân cấp huyện; Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi
kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp
huyện; Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc phân
công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền; Giúp Chánh án
Tòa án nhân dân cấp huyện tổ chức công tác xét xử; tổ chức công tác tiếp
công dân theo quy định của pháp luật; Thực hiện công tác thống kê, tổng hợp
tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện; giúp Chánh án Tòa án
nhân dân cấp huyện xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp
huyện để báo cáo Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp huyện và
các cơ quan hữu quan khác; Thực hiện công tác theo dõi thi hành án theo quy
định của pháp luật; Làm đầu mối thực hiện công việc rà soát, tra cứu, xác
minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư
pháp; Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp huyện.
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân dân
Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, có nhiệm kỳ 5 năm kể từ khi bổ
nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
60
theo pháp luật; Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có thẩm quyền
theo luật định và Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải quyết việc
khác theo quy định của pháp luật.
+ Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân
dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, có nhiệm kỳ 5 năm kể từ khi
bổ nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được
Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách
nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao. Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của luật tố tụng.
+ Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện gồm có Thẩm phán Trung cấp
và Thẩm phán sơ cấp có nhiệm vụ: bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,
góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính và giải quyết các việc khác theo sự phân công; xem xét đầy đủ,
khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình
tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc
không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp,
quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Khi thực hiện
nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, có quyền: Xem xét, kết luận về tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc
61
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; Xem xét, kết luận
về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác cung cấp; Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu
cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu,
chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và
những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên
tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; Ra quyết
định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự; Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện
các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng. Xử lý vi phạm hành chính;
xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công
dân theo quy định của pháp luật. Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử.
+ Thư ký Tòa án nhân dân cấp huyện có ngạch Thư ký viên, Thư ký
viên chính, có nhiệm vụ, quyền hạn: Làm Thư ký phiên tòa, tiến hành các
hoạt động tố tụng theo quy định của luật tố tụng; Thực hiện nhiệm vụ hành
chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
Thư ký Tòa án chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
+ Thẩm tra viên Tòa án nhân dân cấp huyện có ngạch Thẩm tra viên,
Thẩm tra viên chính, có nhiệm vụ quyền hạn: Thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của
Chánh án Tòa án; Kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra với
62
Chánh án Tòa án; Thẩm tra viên về thi hành án giúp Chánh án Tòa án thực
hiện các nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án;
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Thẩm
tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của luật.
- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện:
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 tiếp tục quy định cụ thể về các
nguyên tắc như xét xử có hội thẩm tham gia, nguyên tắc thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.
Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; Tòa
án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm; bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; bản án,
quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp
luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được chuyển lên Tòa án cấp trên có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm.
- Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tiêu
chuẩn chung để được bổ nhiệm Thẩm phán và bầu làm Hội thẩm nhân dân
như sau:
+ Tiêu chuẩn Thẩm phán: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên
63
quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có trình độ cử nhân luật trở
lên. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử. Có thời gian làm công tác thực tiễn
pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
+ Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân: Là công dân Việt Nam, trung thành
với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng
đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết
và trung thực. Có kiến thức pháp luật. Có hiểu biết xã hội. Có sức khỏe bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (gồm có Thẩm phán sơ
cấp và Thẩm phán Trung cấp) theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 cụ thể như sau:
+ Thẩm phán Sơ cấp: Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu trên
và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm
Thẩm phán sơ cấp:
Có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên
Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;
Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán sơ cấp.
+ Thẩm phán Trung cấp: Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu
trên và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp:
Đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên;
Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;
Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp.
64
Trường hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, người chưa là
Thẩm phán sơ cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể được tuyển
chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp:Đã có thời gian làm công tác pháp
luật từ 13 năm trở lên. Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng. Đã
trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào ngạch Thẩm phán trung cấp.
Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:
+ Trách nhiệm của Thẩm phán: Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu
chấp hành Hiến pháp và pháp luật.Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
nhân dân.Độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành
quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa
án.Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật.Học
tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn
nghiệp vụ Tòa án.Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện
nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có
trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.
+ Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân: Trung thành với Tổ quốc,
gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tham gia xét xử theo sự phân
công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do
chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Độc lập, vô tư, khách quan trong
xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
65
hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tôn trọng nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân.Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định
của pháp luật. Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
xét xử. Chấp hành nội quy, quy chế của Tòa án.Chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm
pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.Hội thẩm trong khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội
thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội
thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của
pháp luật.
Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm
phán không được làm những việc sau:
Những việc pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm. Tư
vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho
việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp
luật. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh
hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án. Đem hồ
sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm
vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Tiếp bị
cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm
quyền giải quyết không đúng nơi quy định.
Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán:
Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm
phán. Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm
nhiệm vụ. Thẩm phán được bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; được bảo vệ
khi thi hành công vụ và trong trường hợp cần thiết. Thẩm phán được đào tạo,
66
bồi dưỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án. Nghiêm cấm các hành vi
cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
Thẩm phán và thân nhân của Thẩm phán. Thẩm phán được tôn vinh và khen
thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Chế độ tiền
lương, phụ cấp; mẫu trang phục, cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng
minh Thẩm phán do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Như vậy, nghiên cứu các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 có thể nhận thấy một số điểm mới cơ bản sau đây:
- Bổ sung quy định về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm.
- Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và
các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân
địa phương và Bộ Quốc phòng.
- Bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh
án, các Tòa án nhân dân địa phương. Thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch
nước bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức. Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động của
Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh với lý do bảo đảm cho Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm những Thẩm phán có năng lực để
thực hiện tốt nhiệm vụ
67
- Bổ sung quy định về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán,
Hội thẩm; quy định về mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các cơ
quan, tổ chức và công dân.
Điểm mới về cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa án
nhân dân cấp huyện có Bộ máy giúp việc, có thể thành lập Tòa hình sự, Tòa
dân sự, tòa gia đình và người chưa thành niên, tòa xử lý hành chính. Trường
hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. (đây là điểm
hoàn toàn mới so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002).Về chức danh
có thêm chức danh Thẩm tra viên, quyền hạn, nhiệm vụ là thẩm tra hồ sơ các
vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự
phân công của Chánh án Tòa án… (Điều 93 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014). Theo Hiến pháp năm 2013, thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch
nước bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức. Điều này càng nâng cao vị thế của
Thẩm phán và tạo điều kiện bảo đảm tính độc lập cao hơn của thẩm phán
trong quá trình xét xử. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 qui định cụ
thể thêm như sau: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễm nhiệm,
cách chức Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện (trong số các
thẩm phán Tòa án đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm).
2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp
2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
Hiện nay, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình có 08 đơn vị Toà án nhân
dân cấp huyện với tổng số 82 biên chế công chức và có 20 hợp đồng lao động
68
theo Nghị định 68 của Chính phủ làm các công việc bảo vệ, tạp vụ và lái
xe.Cụ thể:
- Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới có tổng số cán bộ công chức,
viên chức là: 19 cán bộ. Gồm: 03 Thẩm phán trung cấp (một Chánh án và 02
Phó chánh án), 04 Thẩm phán sơ cấp, 07 Thư ký và 05 người lao động khác.
Về trình độ chuyên môn 16/19 đồng chí có trình độ cử nhân, 03 đồng chí có
trình độ cao cấp chính trị, 03 đồng chí có trình độ Thạc sỹ Luật và có 03 đồng
chí đang học cao học.
- Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh có tổng số cán bộ công chức,
viên chức là: 11 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp (Chánh án), 02 Thẩm
phán sơ cấp, 04 Thư ký, 01 Thẩm tra viên và 03 người lao động khác. Về
trình độ chuyên môn 09/11 đồng chí có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình
độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí đang học cao học.
- Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 14 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán trung cấp (01 Chánh án và 01 Phó
chánh án), 03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký và 04 người lao động khác. Về
trình độ chuyên môn 11/14 đồng chí có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình
độ cao cấp chính trị, 02 đồng chí có trình độ Thạc sỹ Luật và có 01 đồng chí
đang học cao học.
- Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 16 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp, 04 Thẩm phán sơ cấp, 07
Thư ký và 04 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 13/16 đồng chí
có trình độ cử nhân, 01 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, có 02 đồng chí
đang học cao học.
- Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 13 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán trung cấp, 01 Thẩm phán sơ cấp, 05
Thư ký và 05 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 10/13 đồng chí
69
có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí có
trình độ Thạc sỹ Luật và có 02 đồng chí đang học cao học
Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 10 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp, 02 Thẩm phán sơ cấp, 04
Thư ký và 03 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 08/10 đồng chí
có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 02 đồng chí
đang học cao học
- Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 10 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký và 04 người lao
động khác. Về trình độ chuyên môn 07/10 đồng chí có trình độ cử nhân, 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí đang học cao học.
- Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa có tổng số cán bộ công chức, viên
chức là: 11 cán bộ. Gồm: 03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký và 03 người lao
động khác. Về trình độ chuyên môn 09/11 đồng chí có trình độ cử nhân, 01
đồng chí có trình độ cao cấp chính trị.
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân các huyện trên địa bàn
đều có một Chánh án và một Phó chánh án, riêng Tòa án nhân dân thành phố
Đồng có hai Phó chánh án. Hầu hết các chức danh lãnh đạo Tòa án cấp huyện
đều là Thẩm phán Trung cấp, chỉ một số vị trí do chưa đủ số lượng án hoặc
chưa đủ thời gian trong thời gian giữ chức vụ nên chưa đủ điều kiện để bổ
nhiệm theo chức danh. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị
của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện 100% có trình độ cử nhân luật;
80% Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ cử nhân chính trị
hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp huyện là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đa số đáp ứng
yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, Đảng viên
theo quy định. 8/8 đơn vị đã thành lập Văn phòng theo quy định, các Văn
70
phòng đã thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định, đó là thực hiện
công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu của đơn vị. Thực hiện công tác
hành chính quản trị, kế toán tài chính của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp
Chánh án trong việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện. Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý
các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện; thực hiện công tác tiếp công dân theo quy định của pháp
luật. Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc phân
công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền. Tham mưu cho
Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tố tụng. Thực hiện công tác tổng hợp, thống kê tình hình
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân
cấp huyện xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp huyện
thuộc quyền quản lý để báo cáo Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp
huyện và các cơ quan hữu quan khác. Làm đầu mối thực hiện việc rà soát, tra
cứu, xác minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật
Lý lịch tư pháp. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện quản lý, tổ chức
áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Tham mưu
giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc xây dựng, khai thác,
duy trì và phát triển Trang thông tin điện tử. Thực hiện các công việc khác
theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Có đơn vị đã bổ
nhiệm Thẩm tra viên như đơn vị Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh. Đối với
Hội thẩm nhân dân, đều là những đại diện ưu tú được lựu chọn đúng thành
phần và được bầu đúng theo quy định, đáp ứng các tiêu chuẩn luật định.
Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành.
Chánh án, Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được
71
phân công. Chánh án TAND là người đứng đầu cơ quan, chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật Tổ
chức TAND năm 2014. Các Phó Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở
sự phân công của Chánh án. Phó Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh
vực công tác được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án
về những hoạt động thuộc phạm vi của mình quản lý.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa có các tòa chuyên trách.
Đối với Tòa án khu vực cũng chưa được thành lập nhưng theo mô hình dự
kiến thì một số đơn vị đã đáp ứng được cơ sở vật chất.
Xác định mục tiêu trọng tâm là kiện toàn cơ cấu tổ chức, xây dựng đội
ngũ cán bộ có chất lượng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án
nên trong những năm gần đây, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình luôn quan
tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công
chức trong các đơn vị cấp huyện, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm
tra viên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, Thẩm phán tham gia các lớp đào
tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tòa án nhân dân tỉnh đã
cử 02 cán bộ học các lớp Cao cấp lý luận chính trị; có 25 Thẩm phán được cử
đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ; cử 21 cán bộ đi đào tạo sau đại học tại
các trường Đại học trong nước; hàng chục cán bộ được cử đi tập huấn nghiệp
vụ, tham gia hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan Trung ương
tổ chức. Ngoài ra, TAND tỉnh cũng đã tổ chức các buổi rút kinh nghiệm xét
xử, tổ chức nhiều đợt tập huấn cho Hội thẩm nhân dân cấp huyện về nghiệp
vụ xét xử và những điểm mới của các Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật
Tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính… nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký
và Hội thẩm nhân dân.
72
Từ đầu năm 2016 đến 30/9/2017, tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án
nhân dân cấp huyện tiếp tục được hoàn thiện, củng cố, đáp ứng yêu cầu công
tác chỉ đạo, điều hành của các đơn vị. Cụ thể, bổ nhiệm mới 03 Thẩm phán
trung cấp ở huyện; bổ nhiệm lại 03 Thẩm phán Trung cấp và 05 Thẩm phán
sơ cấp; bổ nhiệm mới 02 Phó Chánh án TAND cấp huyện; bổ nhiệm lại 02
Chánh án cấp huyện và 03 Phó Chánh án cấp huyện; bổ nhiệm mới 08 Chánh
văn phòng và 08 Phó Chánh văn phòng Toà án nhân dân cấp huyện; chuyển
đổi vị trí công tác và điều động 03 cán bộ, công chức ở Toà án nhân dân cấp
huyện. Với cơ cấu tổ chức đảm bảo đúng quy định pháp luật, cùng với những
điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động ngày càng được nâng lên
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện hiện nay cũng gặp không ít khó khăn, bất cập như số lượng cán
bộ, công chức, nhất là lực lượng Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên mà Tòa
án nhân dân tối cao phân bổ hàng năm cho các đơn vị quá ít trong khi tình
hình số lượng các loại án tăng lên, tính chất ngày càng phức tạp đã tạo áp lực
lớn cho đơn vị trong việc đảm bảo tiến độ xét xử của Hệ thống Tòa án, ảnh
hưởng đến công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ [34].
Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, về cơ cấu tổ chức đảm bảo theo quy định của Hiến pháp và
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Hầu hết các đơn vị đều có đầy đủ
các chức danh quản lý, chức danh tố tụng và bộ máy giúp việc đảm bảo cho
Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt động độc lập và có hiệu quả.
73
Hai là, về chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ công chức Tòa án
nhân dân cấp huyệnđều có trình độ đại học trở lên và thường xuyên được sự
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
từng bước đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, so với yêu cầu nhiệm vụ thì số lượng biên chế của Tòa án nhân
dân tối cao phân bổ cho TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình hiện
nay vẫn còn thiếu, nhất là số lượng Thẩm phán sơ cấp.
2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình
Trong những năm qua diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, là
cơ sở bản lề thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh
thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng; đối với các cơ
quan tư pháp nói chung và các đơn vị TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình nói
riêng, năm triển khai thi hành các Bộ luật như: Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành
chính. Đồng thời, năm 2017 cũng là năm có ý nghĩa quan trọng đối với
TAND các cấp, tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
(sửa đổi) năm 2014 và đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp để
đảm bảo thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác
thi đua nói chung và các Nghị quyết của Ban cán sự Đảng, Chỉ thị của Chánh
án TANDTC về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công
tác Toà án hàng năm.
Tỉnh Quảng Bình, với đặc điểm về vị trí của tỉnh, khí hậu diễn biến bất
thường đã ảnh hưởng không nhỏ đến cơ sở vật chất. Đồng thời, là vùng có địa
bàn hẹp, phía tây tiếp giáp biên giới Lào, có đơn vị TAND cấp huyện hoạt
động ở địa bàn miền núi đi lại khó khăn, các vấn đề xã hội phức tạp cũng nảy
sinh như tình hình tội phạm, ô nhiểm môi trường biển FOMASA và đặc biệt
74
là sự gia tăng các tranh chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất từ các
hoạt động chuyển nhượng. Vì vậy, số lượng các vụ án hình sự, dân sự, kinh
doanh thương mại, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND cấp huyện ở Quảng Bình không ngừng tăng lên, tạo áp lực không nhỏ
cho hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Quảng Bình.
Mặc dù nhiệm vụ đặt ra đối với Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng nặng nề, song với sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo kịp thời của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao,
Ban Thường vụ, Thường trực huyện ủy, Thành ủy và sự ủng hộ của quần
chúng nhân dân, các đơn vị TAND cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã nỗ lực
vượt qua khó khăn, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại
án, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã giao phó.
Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Bình, từ năm 2013
đến 2017 các đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã thụ lý,
giải quyết 9.662/9.413 vụ án các loại, trong đó số lượng các loại án tăng dần
qua các năm, cụ thể như sau:
* Năm 2013:
Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 7 đơn vị: Đồng Hới,
Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng Ninh, Lệ Thủy) đã
thụ lý, giải quyết 1.775/1.748 vụ (đạt tỷ lệ 98.5%). Trong đó:
Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 471 vụ với 825 bị cáo, đã giải
quyết 468 vụ với 821 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.3%.
Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:
+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 329/322 vụ việc dân
sự, đạt tỷ lệ giải quyết 97.87%.
+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
878/865 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.5%.
75
- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 26/24 vụ án
hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 92.3%.
Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
68/66 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 97%.
Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 03/03 vụ án,
đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
* Năm 2014:
Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (tăng thêm 01 đơn vị là thị
xã Ba Đồn, được tách ra từ huyện Quảng Trạch, thành 8 đơn vị) đã thụ lý, giải
quyết 1.720 /1.679 vụ (đạt tỷ lệ 97.6%). Trong đó:
Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 420 vụ với 727 bị cáo, đã giải
quyết 419 vụ với 724 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.8%.
Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:
+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 311/292 vụ việc dân
sự, đạt tỷ lệ giải quyết 93,89%.
+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
904/893 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.78%.
- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 17/13 vụ án
hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 76.5%.
Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
68/62 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 91.18%.
Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 00/00 vụ án,
đạt tỷ lệ giải quyết 00%.
* Năm 2015:
Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,
giải quyết 1.952/1.917 vụ (đạt tỷ lệ 98.2%). Trong đó:
76
Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 486 vụ với 847 bị cáo, đã giải
quyết 485 vụ với 846 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.9%.
Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:
+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 279/265 vụ việc dân
sự, đạt tỷ lệ giải quyết 95%.
+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
1.061/1.044 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.4%.
- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 13/12 vụ án
hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 92%.
Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
76/74 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 97%.
Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 37/37 vụ án,
đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
* Năm 2016:
Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,
giải quyết 2.073/2.025 vụ (đạt tỷ lệ 97.7%). Trong đó:
Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 436 vụ với 730 bị cáo, đã giải
quyết 431 vụ với 717 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 98.9%.
Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:
+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 314/286 vụ việc dân
sự, đạt tỷ lệ giải quyết 91.1%.
+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
1.211/1.199 vụ việc, đạt tỷ lệ giải quyết 99%.
- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 13/11 vụ án
hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 84.6%.
Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
81/80 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 98.8%.
77
Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 18/18 vụ án,
đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
* Năm 2017:
Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,
giải quyết 2.142/2.044 vụ (đạt tỷ lệ 95.4%). Trong đó:
Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 378 vụ với 571 bị cáo, đã giải
quyết 375 vụ với 566 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.2%.
Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:
+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 253/209 vụ việc dân
sự, đạt tỷ lệ giải quyết 82.6%.
+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
1.442/1.397 vụ việc, đạt tỷ lệ giải quyết 96.9%.
- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 07/07 vụ án
hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết
59/54 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 91.5%.
Về Phá sản: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 01/00 vụ án, đạt tỷ
lệ giải quyết 00%.
Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 02/02 vụ án,
đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
Đối với công tác thi hành án hình sự: hàng năm TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định thi hành hàng trăm bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật; xét giảm thời gian thử thách án treo và giảm thời
gian cải tạo không giam giữ cho các bị án có nhiều tiến bộ. Các trường hợp
được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án và xét miễn, giảm án đều đảm bảo đúng
quy trình, thủ tục và điều kiện do pháp luật quy định, không để xẩy ra sai sót.
78
2.4. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp:
2.4.1. Thành tựu đạt được
Từ thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
theo yêu cầu cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, có thể nhìn thấy
được những thành tựu nhất định mà các đơn vị đã gặt hái được. Bởi vì, trong
thời gian qua, các đơn vị Tòa án cấp huyện đã thực hiện tốt các Nghị quyết
của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị
quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các đơn vị
Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thực hiện với quyết tâm cao, đặc biệt
việc bám sát, thực hiện tốt các văn bản do Ban cán sự Đảng ban hành như
Nghị quyết số 09-NQ/BCSĐ ngày 05/02/2016 về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác hàng năm của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Quảng Bình; Kế hoạch số 21-KH/BCSĐ ngày 21/3/2016 thực
hiện Đề án “Thực trạng và giải pháp phòng chống tiêu cực trong hoạt động tư
pháp của Tòa án”; Kế hoạch số 22/KH-BCSĐ ngày 22/4/2016 thực hiện Chỉ
thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Kế hoạch
số 25-KH/BCSĐ ngày 14/6/2016 triển khai thực hiện chương trình trọng tâm
công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016 – 2021; Kế hoạch số 40-KH/BCSĐ
ngày 09/11/2016 thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”; Kế hoạch số 01- KH/BCSĐ ngày 10/01/2017 thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
79
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kế hoạch số 14-KH/BCSĐ
ngày 08/3/2017 thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/BCS ngày 02/01/2017 về
việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác
năm 2017 của Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao; Kế hoạch số 15-
KH/BCSĐ ngày 08/3/2017 thực hiện Chương trình hành động của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về đổi mới công tác cán bộ nhiệm kỳ 2015 – 2020; Kế
hoạch số 17-KH/BCSĐ ngày 10/3/2017 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí….để tổ chức thực hiện nghiêm túc nhiệm
vụ cải cách tư pháp, đồng thời tổ chức phổ biến, quán triệt các Nghị quyết,
Chỉ thị của Trung ương, của địa phương; tăng cường công tác tập huấn các
văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao, tổ chức nhiều
đợt tập huấn nhằm nâng cao lý luận và kỹ năng thực tiễn trong hoạt động xét
xử đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên, Hội thẩm nhân dân hai
cấp; tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị làm việc, tài liệu, cải tạo, nâng
cấp cơ sở vật chất để phục vụ cho việc nghiên cứu hồ sơ, xét xử ngày càng tốt
hơn. Những thành tựu đạt được cơ bản là:
- Về công tác xét xử, giải quyết các loại án: Theo số liệu báo cáo các
năm (từ 2013 đến 2017) Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã thụ
lý 9.662/vụ, việc các loại, đã giải quyết 9.413 vụ, việc (đạt tỷ lệ 88%); những
vụ án chưa giải quyết đều trong hạn luật định (mới thụ lý). Hằng năm, lượng
án thụ lý đều tăng về số lượng vụ, việc nhưng tỷ lệ giải quyết đều đảm bảo;
công tác xét xử lưu động được quan tâm về số lượng và chất lượng cũng như
các phiên tòa rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư pháp được triển khai
kịp thời và đảm bảo có mời đại diện Ban Nội chính, Kiểm sát viên, Điều tra
viên…tham dự nhằm nâng cao chất lượng phiên tòa. Tỷ lệ hòa giải thành đạt
tỷ lệ cao; Đối thoại nhiều vụ án hành chính thành công. Các phiên tòa đảm
80
bảo việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đề cao tranh tụng công
khai tại toà. Chính vì vậy, trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân cấp huyện
đã đặc biệt quan tâm đến công tác tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của Tòa án đã căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của
người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định có căn cứ, đúng pháp
luật. Công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua tiếp tục có
sự chuyển biến tích cực. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác giải quyết,
xét xử các loại vụ án, như việc để các vụ án quá thời hạn xét xử; bản án tuyên
không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự; cho hưởng án
treo không đúng pháp luật đã được Tòa án cấp huyện tập trung khắc phục có
hiệu quả.
Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Tòa án nhân
dân cấp huyện đã làm tốt công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư, nhằm hạn
chế đơn thư vượt cấp. Công tác Thi hành án hình sự: Tòa án cấp huyện đã ra
quyết định thi hành án hình sự đều đạt tỷ lệ 100%; và giải quyết đúng luật định
các quyết định khác không để xảy ra sai sót.
- Công tác tổ chức, cán bộ: Trong vòng 5 năm qua (từ 2013 đến
2017), tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án nhân dân huyện tiếp tục được
hoàn thiện, củng cố, đáp ứng yêu cầu công tác chỉ đạo, điều hành của các đơn
vị.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ:
Cán bộ được bố trí đi học các lớp Cao cấp lý luận chính trị; hàng loạt Thẩm
phán được cử đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ; cử cán bộ đi đào tạo
81
sau đại học tại các trường Đại học trong nước; hàng chục cán bộ được cử đi
tập huấn nghiệp vụ, tham gia hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ
quan Trung ương tổ chức. Ngoài ra, TAND cấp huyện cũng đã tổ chức các
buổi rút kinh nghiệm xét xử, tổ chức cho HTND tham gia các đợt tập huấn
do TAND cấp tỉnh tổ chức cho Hội thẩm nhân dân về nghiệp vụ xét xử và
những điểm mới của các Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật Tố tụng hình
sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính… nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm
nhân dân.
- Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Với đặc thù là cơ quan xét xử,
công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong hệ thống Toà án hết sức quan trọng.
Xác định được tầm quan trọng của công tác này, các đơn vị đã có sự phân
công, giao trách nhiệm cho đồng chí phụ trách chung, đồng thời nắm bắt tình
hình để báo cáo và đề xuất lãnh đạo giải quyết những vấn đề phát sinh; phân
công người phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của đơn vị. Trong thời
gian qua, Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình chưa để xảy ra vụ việc
tiêu cực nào liên quan đến tư tưởng, quan điểm, lập trường, phẩm chất đạo
đức của cán bộ, đảng viên, chưa có trường hợp để xảy ra sai phạm thuộc lĩnh
vực bảo vệ chính trị nội bộ.
- Về việc bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Toà án. Trong
những năm qua, Tòa án nhân dân cấp huyện được sự quan tâm của cấp trên
cũng như chính quyền địa phương nên cơ sở, vật chất phục vụ cho hoạt động
xét xử của Tòa án luôn đảm bảo. Hiện tại, 08 Tòa án nhân dân cấp huyện đã
lắp đặt và triển khai vận hành thiết bị hệ thống truyền hình Hội nghị trực
tuyến của Hệ thống Tòa án nhân dân. Được sự hỗ trợ kinh phí của Ủy ban
nhân dân các huyện, thành phố, thị xã, Tòa án đã lắp đặt xong và đưa vào vận
hành hệ thống Camera quan sát phiên tòa trực tuyến. Tại 08 đơn vị Tòa án
82
nhân dân cấp huyện đã kết nối tín hiệu (phiên tòa xét xử) đến phòng làm việc
của các đồng chí Bí thư Huyện ủy, Thành ủy, Thị ủy và đến phòng làm việc
của các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân các huyện, thành phố, thị xã và phòng làm việc của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp tỉnh. Khai thác sử dụng có hiệu quả các phần mềm phục vụ tốt
cho công tác xét xử như: “Hệ thống phần mềm thống kê các loại vụ án”, “Hệ
thống phần mềm nội bộ quản lý và thống kê các loại vụ án dùng chung cho
Toà án nhân dân”, “Hệ thống phần mềm nội bộ số hoá một số tài liệu trong hồ
sơ án hiện đang lưu trữ tại kho lưu trữ dùng chung cho Toà án nhân dân các
cấp”. Đặc biệt, các đơn vị cấp huyện đã thực hiện tốt công tác mã hóa và công
khai bản án, quyết định trên trang mạng của Tòa án nhân dân Tối cao theo
tinh thần Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân
dân Tối cao.
2.4.2. Những hạn chế, vướng mắc
Nhìn chung chất lượng xét xử các loại án có những tiến bộ, số lượng án
thụ lý và giải quyết hàng năm đều tăng dần lên về số lượng và mức độ phức
tạp, nhưng vẫn còn án bị hủy, cải sửa, án khó thi hành. Số lượng án tù cho
hưởng treo cũng như án cải tạo không giam giữ còn không phù hợp, tùy tiện.
Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa theo tinh thần cải
cách tư pháp được quán triệt nhưng nhận thức của một số cán bộ có chức
danh tư pháp như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và Luật sư ... còn
hạn chế, vì vậy chất lượng tranh tụng trong một số phiên tòa chưa có nhiều
chuyển biến thật rõ nét. Chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân nói
chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng mặc dù có những tiến bộ, nhưng so với
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước nhìn chung vẫn
còn có những bất cập. Vẫn còn Thẩm phán chưa sử dụng hết hiệu năng của
công nghệ thông tin mang lại trong khi làm việc, đây thực sự là những khó
83
khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân cấp huyện trước xu
hướng bùng nỗ công nghệ thông tin, “Chính phủ điệntử”. Hiện tại trụ sở một
số Tòa án cấp huyện đang trong tình trạng xuống cấp do đầu tư xây dựng đã
lâu và đặc biệt có Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đến nay vẫn chưa có
trụ sở làm việc nên phần nào ảnh hưởng đến uy danh của Tòa án, ảnh hưởng
đến yêu cầu nhiệm vụ công tác. Việc đề nghị bổ sung kinh phí đầu tư sữa
chữa, xây dựng mới đang còn gặp nhiều khó khăn.
2.4.3. Nguyên nhân
Thứ nhất, về năng lực của Thẩm phán: Từ nhiều năm nay, vấn đề trình
độ, năng lực Thẩm phán thường xuyên được đề cập và quan tâm. Đánh giá
thực trạng đội ngũ Thẩm phán có thể thấy rằng đội ngũ Thẩm phán hầu hết
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được đào tạo tại chức là chủ yếu
và làm việc dựa trên nền tảng kinh nghiệm thực tế, một số thẩm phán được
đào tạo chính quy nhưng kinh kiệm thực tiễn còn thiếu. Do bất cập, hạn chế
trong công tác cán bộ, trong đó có việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nên
đa số các Thẩm phán vẫn được tiếp tục làm nhiệm vụ xét xử qua rất nhiều
nhiệm kỳ, nếu không bị kỷ luật thì rất khó thay thế, cho dù tuổi tác của họ
hiện nay tương đối cao; điều đáng quan tâm, do xuất phát điểm như trên,
ngoài kiến thức chuyên môn bị chắp vá, hầu hết các Thẩm phán bộc lộ khá rõ
hạn chế về năng lực xét xử, thiếu nhiều yếu tố thuộc về kỹ năng tác nghiệp,
thực hành, kỹ năng giao tiếp; thậm chí nhiều người chữ viết quá xấu, biên bản
và các tài liệu do họ thể hiện trong hồ sơ không thể đọc được. Thực tế cho
thấy, xét xử là một hoạt động đặc thù, không phải những ai có kiến thức
chuyên môn về luật đều có thể làm tốt nhiệm vụ của một Thẩm phán. Có
những người làm công tác xét xử khá lâu năm, song cách điều hành một phiên
tòa vẫn thiếu sự tôn nghiêm nơi pháp đình; có Thẩm phán được đánh giá có
năng lực chuyên môn, nhưng bản thân lại lúng túng khi hoàn chỉnh một bản
84
án. Có những bản án người đọc không thể nào hiểu nổi, hoặc hiểu sao cũng
được, bố cục, nội dung lủng củng. Nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng nội dung không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án. Trong
những trường hợp này, theo quy định, chấp hành viên phải ban hành công văn
yêu cầu giải thích và thực tế đã có những giải thích của Thẩm phán làm thay
đổi bản chất nội dung mà Hội đồng xét xử đã tuyên, gây tranh cãi trong các
cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến khiếu nại kéo dài, vượt cấp. Có một số
Thẩm phán chưa thực sự đầu tư hết thời gian để nghiên cứu, nhận thức về cải
cách tư pháp chưa đồng bộ trong các đơn vị. Tất cả những yếu tố trên có liên
quan trực tiếp đến chất lượng xét xử; ảnh hưởng của quá trình nghiên cứu hồ
sơ của những người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên.
Thứ hai, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện còn chịu sự ảnh
hưởng của một số cơ quan khác.
- Trong mối quan hệ với Tòa án nhân dân cấp trên:
Có thể thấy, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện chịu sự tác động
bởi các chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của Tòa án cấp này trong hệ thống
Tòa án nhân dân nói chung. Trong quan hệ với Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa
án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có mối quan hệ tố tụng và hành
chính. Điều này thể hiện qua việc Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân
tỉnh quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện về tổ chức. Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án
nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp với Hội đồng nhân dân địa
phương. Bởi vậy, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện các nhiệm vụ quản lý,
thông qua Tòa án nhân dân cấp tỉnh để quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện
như việc phân bổ biên chế cán bộ, Thẩm phán, Thư ký cho từng đơn vị; quy
định các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thẩm phán, điều động, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; xây dựng và thực
85
hiện các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán; kiểm tra, thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán Tòa án cấp dưới. Với việc thực hiện các
nhiệm vụ như vậy, công tác quản lý của Tòa án nhân dân tối cao đối với Tòa
án nhân dân cấp tỉnh cũng như Tòa án nhân dân cấp huyện không khác nhiều
so với quản lý công chức của các cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp
dưới và tương đối khép kín. Bởi vậy, nội dung, phương pháp quản lý của Tòa
án nhân dân tối cao đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh đối vơi cấp huyện về cơ bản vẫn chưa có sự đổi mới căn bản.
- Trong mối quan hệ với cấp Ủy, Đảng, Chính quyền địa phương:
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Đảng Cộng sản Việt Nam
đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, tổ chức và hoạt
động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, của Tòa án nhân dân cấp
huyện nói riêng có sự ảnh hưởng từ hoạt động của cấp Ủy, Đảng. Điều này
thể hiện ở việc Đảng cho ý kiến về việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, bố
trí các chức vụ lãnh đạo của Tòa án, vì vậy, hoạt động của tổ chức Đảng có
vai trò nhất định đến hiệu quả hoạt động của Tòa án. Nếu vai trò của các tổ
chức Đảng đối với hoạt động của Tòa án đảm bảo tính khách quan thì hiệu
quả hoạt động của Tòa án được nâng cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có
những trường hợp tổ chức Đảng gợi ý, định hướng hoạt động xét xử cũng ảnh
hưởng đến tâm lý, thực hiện nhiệm vụ xét xử của Thẩm phán, nhất là khi
những ý kiến, định hướng đó chưa thật đúng với quy định pháp luật, cũng như
Thẩm phán còn phải có sự thận trọng khi thực hiện các ý kiến, gợi ý của tổ
chức Đảng liên quan đến việc bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, đề bạt của mình. Bởi
vì, thực tế cho thấy đã có trường hợp Cấp Ủy can thiệp trực tiếp vào hoạt
động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, cũng có trường hợp Cấp Ủy có sự can
thiệp gián tiếp đến tổ chức và hoạt động của Tòa án thông qua việc giới thiệu
người để bổ nhiệm Thẩm phán hoặc vị trí lãnh đạo của Tòa án. Ở nhiều địa
86
phương hiện nay, khi có những vụ án liên quan đến các cán bộ thuộc diện Cấp
Ủy quản lý hoặc những vụ việc nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế,
xã hội hoặc tham nhũng thì Tòa án đều phải báo cáo và xin ý kiến Cấp Ủy nên
ít nhiều có ảnh hưởng nhất định đến tính độc lập trong tổ chức và hoạt động
của Tòa án.
- Trong quan hệ với Hội đồng nhân dân cấp huyện.
Theo quy định thì Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của Hội đồng nhân
dân cùng cấp thông qua việc xem xét báo cáo công tác xét xử Tòa án tại địa
phương. Đồng thời, Hội đồng nhân dân cấp huyện còn có quyền chất vấn
Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, trong khi Chánh án không do Hội đồng
nhân dân bầu ra. Điều này làm cho việc báo cáo và giám sát của Hội đồng
nhân dân có thể mang tính hình thức.
- Trong quan hệ với cơ quan hành chính địa phương:
Về nguyên tắc thì Tòa án nhân dân cấp huyện không chịu sự quản lý
của cơ quan hành chính ở cấp huyện. Tuy vậy, trong thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ, Tòa án nhân dân địa phương nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện
nói riêng còn phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các quan hệ với cơ quan hành
chính địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp huyện. Bởi vì, thực tế trong
hoạt động của mình, Tòa án nhân dân rất cần đến sự hỗ trợ, tạo điều kiện về
kinh phí, trụ sở và các điều kiện vật chất khác từ phía các cơ quan hành chính.
Dù là cơ quan độc lập nhưng đóng tại địa phương nên Tòa án nhân dân cấp
cấp huyện vẫn phải chịu những ràng buộc trong quản lý hành chính tại địa
phương. Ngoài ra, về thẩm quyền xét xử, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền xét xử các vụ kiện hành chính liên quan đến hoạt động của các cơ quan
hành chính tại địa phương, nhất là các quyết định hành chính về đất đai, nhà
ở. Do đó, việc thụ lý, giải quyết các vụ kiện hành chính gặp khó khăn cả từ
phía người khởi kiện và người bị kiện (thường là người đứng đầu, thủ trưởng
87
các cơ quan, ban ngành tại địa phương). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán. Bởi vì, trong
quan hệ với Cấp ủy, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nếu có thường là
huyện ủy viên, còn Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thường là Thường
vụ huyện ủy, huyện ủy viên, do vậy, trong quá trình thụ lý, xét xử các vụ kiện
hành chính, Thẩm phán và Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện cũng gặp nhiều
khó khăn khi phải tiến hành các thủ tục triệu tập người bị kiện, xét xử vụ việc
với người bị kiện nói trên.
Thứ ba, trong quá trình cải cách tư pháp, việc bảo đảm nguyên tắc khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết.
Thực tế cho thấy, nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc
lập; việc báo cáo án và nhận sự định hướng xét xử từ lãnh đạo của Thẩm phán
chỉ giải quyết được mối quan hệ hành chính giữa cấp trên và cấp dưới mà
không đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán. Bên cạnh đó,
tình trạng hiệp thương án để trách nhiệm không thuộc về cơ quan nào trong
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang là vấn đề cần được thực tiễn cải cách
tư pháp giải quyết.
- Theo quy định pháp luật về Tòa án hiện nay, vấn đề chức năng, nhiệm
vụ của Tòa án vẫn còn những bất cập, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao,
trong đó có thể nói đến chức năng giải thích pháp luật. Hiện nay, Tòa án nhân
dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính thức dưới dạng công văn về nội
dung một số điều luật và một số nội dung hướng dẫn đó có sự không thống
nhất với văn bản luật đã gây khó khăn cho các Thẩm phán trong quá trình áp
dụng giải quyết các vụ án. Năm 2017 là năm nhiều bộ luật, luật chính thức có
hiệu lực thi hành như Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ
luật hình sự 2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết về Phí và Lệ
88
phí...nhưng Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản dưới luật để hướng dẫn
còn chậm, chưa có biểu mẫu áp dụng thống nhất...
Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị của một
bộ phận cán bộ Tòa án chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu đặt ra của chiến lược
cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng, nhất là đội ngũ Thẩm phán trực tiếp
làm công tác xét xử, giải quyết án.
- Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân
tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán đã khẳng định vị trí, vai trò
của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, chất lượng và
thực tiễn công tác hội thẩm nhân dân hiện nay chứa đựng nhiều bất cập cần
nghiên cứu, giải quyết. Việc tham gia của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử
không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp
với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những
người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ
chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử có phán
quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống,
có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Tuy Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
Thẩm phán, nhưng Hội thẩm chỉ chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở
thành thành viên của Hội đồng xét xử khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Như vậy, là một trong những người tiến hành tố tụng, Hội thẩm nhân dân có
một vị trí, vai trò pháp lý khá quan trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm
2/3 trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm; đây có thể coi là một lợi thế để
các Hội thẩm nhân dân thể hiện sự “ngang quyền” trên tinh thần dân chủ. Tuy
nhiên, thực tế trình độ, điều kiện giữa Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán còn
có khoảng cách quá xa thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” của Hội
thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang tính tượng trưng, hình thức. Bởi vì,
89
một Thẩm phán phải có trình độ thấp nhất là cử nhân Luật, phải qua lớp đào
tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp, Học viện Tòa án, có thời gian công
tác Pháp luật từ 4 năm trở lên (đối với cấp huyện).Thẩm phán hoạt động xét
xử lâu dài, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Thẩm phán có nhiệm vụ thụ lý
hồ sơ vụ án, có quyền tiến hành các hoạt động theo tố tụng như: ghi lời khai,
thu thập chứng cứ và tiếp xúc với các đương sự trong thời gian khá dài. Đó là
điều kiện đưa ra những quyết định đúng đắn về vụ án. Còn đối với Hội thẩm
nhân dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang bị kiến thức cơ bản về
pháp luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn
ngắn hạn về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các
vấn đề đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn
dựa trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân là cần
thiết nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể “ngang quyền”
với Thẩm phán khi xét xử được. Hơn nữa, quy định về chế độ nghiên cứu hồ
sơ của Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập, trong thời gian quá ngắn
(kể từ khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Hội thẩm nhân dân
mới chính thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội
thẩm nhân dân thì sẽ được tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân
sự, đến hành chính, kinh tế, lao động… Với trình độ, kiến thức pháp luật của
Hội thẩm nhân dân như hiện nay, với thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm
phán, thì Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng
cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ
án có nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế,
những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng trăm, hàng
ngàn bút lục. Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp
đòi hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc
90
pháp luật, am hiểu xã hội. Yêu cầu đặt ra là như vậy, nhưng theo các quy định
hiện hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì nêu rất chung
chung là “có kiến thức pháp luật”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người
là có kiến thức pháp luật? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử
của Hội thẩm nhân dân còn mang tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân
dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp. Hơn nữa theo quy định của
pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như Thẩm phán khi có tỷ lệ
vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của
Hội đồng xét xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức
độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách
nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản
án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân
trong một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay.
Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn
nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng trong thành phần Hội đồng
xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm
phán. Đặc biệt, để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ
của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân
phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 – 5 năm,
phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể:
Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu sự
quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng.
Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo chế độ
chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của
Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: Sau khi thụ lý,
Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án cho Trưởng đoàn Hội thẩm để sắp xếp,
phân công Hội thẩm nhân dân tham gia nghiên cứu, xét xử và gửi văn bản
91
phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Làm như
vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa chọn Hội
thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách quan hơn. Đặc
biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải hết sức nỗ lực
trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu liên quan đến vụ
án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ sở đó Hội thẩm
nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa, có như
vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự “ngang quyền” với
Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân,
cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi dưỡng thỏa đáng, thích hợp
đối với Hội thẩm nhân dân, để tương xứng với trọng trách mà pháp luật quy
định.
Pháp luật hiện hành trao cho Hội thẩm nhân dân quyền năng pháp lý
khá lớn, song chưa có cơ chế để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, trách
nhiệm của mình, do vậy hoạt động còn mang tính hình thức. Muốn giải quyết
vấn đề này, đòi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng với sự
tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Do đó, trên cơ sở tổng kết thực
tiễn, chế định về Hội thẩm nhân dân cần phải được nghiên cứu, sửa đổi để bảo
đảm yếu tố khoa học và tính pháp lý trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Một nguyên nhân nữa, đó là Tình hình tội phạm và các tranh chấp dân
sự liên quan đến đất đai trên địa bàn tỉnh có xu hướng ngày càng phức tạp.
Nhiều vướng mắc phát sinh trong thực tiễn xét xử. Trong khi đó công tác tổng
kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân
dân tối cao trong một số trường hợp còn chậm. Việc triển khai thực hiện một
số nội dung của Nghị Quyết 49-NQ/TW ở Trung ương còn chậm, do đó đã
ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện ở địa phương, vì nhiều công việc
phụ thuộc vào các kết luận, hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương.
92
Tóm tắt chương 2
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở địa phương, Tòa án nhân dân cấp
huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm.
Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án
nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có những bước phát
triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của cảhệ thốngTòa án nói chung.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện cũng còn những hạn chế, bất cập trước yêu cầu cải cách
tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không
đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt động của Tòa án còn bị tác động,
bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa
phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm
phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Tòa án
nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong
tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách
tư pháp, cải cách hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
93
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được đề
cập trong một số văn kiện của Đảng, Nhà nước trong những năm gần đây với
tinh thần: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm
cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm
mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm
quyền xét xử của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền và xét xử
sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: " …khi xét xử, các tòa án phải
bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách
quan, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên
cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người
bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những bản án quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định...”[2].
Ngày 02 tháng 06 năm 2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-
NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nội dung Nghị quyết
đã đề cập một cách toàn diện mục tiêu, quan điểm cải cách tư pháp, phương
hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020. Tại Điều 20, Điều 31
94
và Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng đã xác định vị trí, vai trò hết sức quan
trọng của Tòa án. Với vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân được quy
định trong Hiến pháp đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong lịch sử, Tòa án nhân dân đã
trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động
để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ
công lý, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động xét xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyệntrên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần bám sát các quan điểm, mục tiêu
cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản
Việt Nam thời gian gần đây. Cụ thể là một số quan điểm cơ bản sau:
3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải
gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân.
Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân: Đổi mới hệ
thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét
xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án
đối với các khiếu kiện hành chính [10]. Định hướng trên nhằm đảm bảo sự
minh bạch, sự tôn trọng pháp luật, sự độc lập và tuân theo pháp luật của hoạt
động xét xử. Đổi mới việc tổ chức các phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo,
công khai, dân chủ, nghiêm minh; xác định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa; phiên tòa phải được diễn ra một cách dân chủ trong
tranh luận, tạo điều kiện để các bên đưa ra các tài liệu, chứng cứ bảo vệ cho
quan điểm của mình.
95
3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải
được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ
quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước.
Tòa án nhân dân cấp huyện là một cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án
nhân dân và cho dù yêu cầu có sự độc lập trong hoạt động xét xử nhưng
không thể tách rời với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao và
Tòa án nhân dân cấp tỉnh cả về cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ trong hoạt
động xét xử, đặc biệt là mối quan hệ theo 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Điều này đòi hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện phải có sự gắn kết, tương xứng và đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử
của Tòa án còn dựa trên pháp luật, căn cứ vào các kết quả hoạt động điều tra,
truy tố, hoạt động bổ trợ tư pháp, hoạt động hành chính của các cơ quan nhà
nước và sự lãnh đạo, phối hợp của các thiết chế chính trị khác, bởi vậy, đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân
cấp huyện nói riêng còn phải đặt trong mối quan hệ với quá trình đổi mới các
thiết chế trong hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng và các hoạt động lập
pháp, hành pháp (hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính…vv).
3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải
được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế.
Việc cải cách thể chế không chỉ là cơ sở để thực hiện đổi mới mô hình
tổ chức, phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện mà còn là cơ
sở pháp lý để Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đảm bảo kịp
thời giải quyết, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tranh chấp phát sinh,
góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, việc cải cách, hoàn
thiện thể chế là điều kiện cơ bản cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
96
động xét xử của Tòa án; nâng cao trình độ Thẩm phán và ý thức chấp hành
pháp luật của công dân.
3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm
thực hiện quyền lực tư pháp.
Tòa án là trụ cột, trung tâm nắm và thực hiện quyền tư pháp, “xét xử”
là chức năng đầu tiên, quan trọng nhất của quyền tư pháp, do Tòa án thực
hiện. Việc xét xử không chỉ giới hạn đơn thuần ở các vụ án, các việc trong
phạm vi thẩm quyền của Tòa án mà có tính bao trùm cả không gian, thời gian,
chủ thể, đối tượng có liên quan. Quyền tư pháp bao gồm cả quyền giải thích
luật. Trong quá trình thực hiện quyền tư pháp, một trong những nhiệm vụ
quan trọng của Tòa án là phải giải thích được các quy phạm pháp luật để áp
dụng vào vụ, việc, chủ thể cụ thể. Điều này là vô cùng cần thiết, không thể
thiếu của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, giúp cho cơ quan này tránh được
hành vi xử sự theo cảm tính, dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất, gây bất
công trong xã hội. Bên cạnh đó, quyền tư pháp cho phép Tòa án ban hành và
áp dụng án lệ để giải quyết các vấn đề xuất hiện trong thực tiễn nhưng chưa
có quy phạm cụ thể áp dụng. Theo tinh thần pháp luật, việc thực hiện quyền
lực tư pháp cho phép Tòa án, cơ quan có quyền lực tư pháp duy nhất, tác động
theo chiều hướng tiêu cực vào nhân thân, tài sản của một cá nhân, cơ quan, tổ
chức bất kỳ trong xã hội (ví dụ bắt, giữ, giam, khám nhà, khám người, kê
biên, tịch thu tài sản…). Để bảo đảm công lý, nếu không có sự đồng ý của
Tòa án thì không ai có quyền tác động đến nhân thân, tài sản của các chủ thể
trong xã hội. Việc thực hiện quyền tư pháp làm phái sinh quyền kiểm soát các
“hành vi” và “sản phẩm” chính trị - pháp lý của cơ quan lập pháp, hành pháp
(các đạo luật, các văn bản pháp quy, quá trình tổ chức thực hiện quyền con
người, quyền công dân, việc cưỡng chế, xử phạt hành chính các cá nhân, cơ
quan, tổ chức vi phạm pháp luật…). Tòa án không chỉ thực hiện quyền kiểm
97
soát đối với các hành vi vi phạm pháp luật được đưa ra Tòa mà thực hiện
quyền kiểm soát đối với cả văn bản (chính sách, pháp luật) và hành vi (xây
dựng pháp luật, thực hiện pháp luật) của tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức
có liên quan đến công việc của Toà án. Với tầm quan trọng trong việc thực
hiện quyền tư pháp như vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện tại địa bàn tỉnh Quảng Bình hiện nay yêu cầu phải hoàn
thiện nhằm thực hiện tốt quyền lực tư pháp.
3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhằm thực hiện phán quyết cuối
cùng của tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Nhằm bảo đảm và
phát huy dân chủ trong xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Góp phần làm cho các quyền và tự do của công dân được
bảo đảm bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu và đồng bộ, tránh khỏi sự lạm
quyền độc đoán và tùy tiện của các quan chức trong bộ máy nhà nước, góp
phần giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố trật tự pháp luật, nâng cao
hiệu quả của việc đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Để
đạt được mục tiêu đó, ngoài những nguyên tắc, giải pháp cơ bản như: Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án; Trong
hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp
luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét
tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan
Nhà nước ban hành; Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; Nâng cao năng lực của
Hội thẩm nhân dân; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua
các bản án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi; Kiện toàn
98
đội ngũ cán bộ công chức Hệ thống Tòa án theo hướng tinh giản, hiệu quả, bố
trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân sự đúng người đúng việc,
đúng sở trường; đồng thời có chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ những
người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt phục vụ cho sự phát triển của Hệ
thống Tòa án. Cần có thêm những giải pháp đặc thù trong việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình, cụ thể:
3.2.1. Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp
Lâu nay, thường quan niệm Tòa án chỉ là cơ quan xét xử, như một
"ngành" chuyên môn như các bộ, ngành khác; TAND cấp huyện thuộc tỉnh
được xem như một phòng cấp huyện của chính quyền địa phương. Thẩm phán
được nhìn nhận như một dạng công chức hành chính. Đúng ra, Tòa án phải
được xã hội nhận thức, được hiểu đúng đắn là một thiết chế đặc biệt, bảo vệ
công lý, thực hiện nhiệm vụ của nhánh quyền lực tư pháp quốc gia; và vì vậy,
cho dù Tòa án được thành lập ở cấp huyện nào thì Tòa án cũng là cơ quan xét
xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp quốc gia, không
phải là cơ quan của địa phương.
Do nhận thức giản đơn, chưa đúng đắn về Tòa án như vậy, nên việc
xem xét, quyết định các vấn đề về thể chế, tổ chức, bộ máy, trụ sở, kinh phí
hoạt động, chế độ tiền lương, nhiệm kỳ của Thẩm phán... được nhìn nhận
tương đối giống với các cơ quan hành chính Nhà nước khác, mà chưa được
nhìn nhận, đánh giá đúng tính chất đặc thù của Tòa án - Một thiết chế đặc biệt
thực thi một trong ba loại quyền lực Nhà nước là Quyền tư pháp. Sự nghiệp
đổi mới và cải cách tư pháp đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức
trong toàn Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về chế độ chính trị và
quyền lực nhà nước. Trong đó có sự nhận thức mới về vị trí vai trò và quyền
99
lực tư pháp của Tòa án nhân dân. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 2 của Hiến
pháp năm 2013 đã ghi rõ "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" và tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp cũng
đã xác định rõ "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp".
Vì vậy, cần thống nhất về mặt nhận thức trong đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân cấp huyện để Tòa án được độc lập trong thực thi
nhiệm vụ, độc lập tư pháp, trước hết cần thay đổi nhận thức về Tòa án theo
hướng: Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt
động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền tư pháp quốc gia. Trên
cơ sở đó, có quan điểm đúng đắn để xác lập và xây dựng thể chế, nguyên tắc
hoạt động, bộ máy tổ chức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, kinh phí hoạt động
của Tòa án, tuổi hưu, nhiệm kỳ và chế độ lương của Thẩm phán... cho phù
hợp.
3.2.2. Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
trong một số trường hợp luật định.
Quyền tư pháp của Tòa án đã được hiến định và một vấn quan trọng để
cải cách tư pháp có hiệu quả là phải bảo đảm tính độc lập của các Tòa án và
Thẩm phán. Tính độc lập bảo đảm cho Tòa án không bị ảnh hưởng, chi phối
trong các hành vi và quyết định, nhằm bảo đảm tính đúng đắn, công bằng.
Tính độc lập có thể được coi là “đặc quyền” của quyền tư pháp, là điều kiện
tiên quyết để quyền tư pháp có thể vận hành một cách khách quan. Việc Tòa
án có vai trò độc lập với các ngành quyền lực còn lại là điều quan trọng nhất
của một nhà nước dân chủ. Luật Tổ chức Tòa án, các luật tố tụng hiện hành
cũng đã ghi nhận nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
100
Nhưng các quy định đó còn hạn chế về phạm vi mức độ và tính chất, chưa thể
hiện hết nội hàm sự độc lập của Tòa án và của cá nhân Thẩm phán. Sự độc lập
của Tòa án phải thể hiện được trên các khía cạnh: Tòa án có sự độc lập cần
thiết với các cơ quan lãnh đạo chính trị. Các cơ quan lãnh đạo chính trị không
nên can thiệp vào hoạt động chuyên môn của Tòa án mà chỉ thực hiện quyền
lãnh đạo về chính trị nhằm bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động của Tòa án
và nhân viên Tòa án vì mục tiêu chính trị. Tòa án tuân theo đường lối, chủ
trương của Đảng. Đảng không “xét xử” thay Tòa án nhưng lãnh đạo Tòa án
về tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Tòa án độc lập với cơ quan lập pháp và hành
pháp, có quyền xem xét và quyết định trên nền tảng pháp luật và đạo đức
cộng đồng. Việc “kiểm sát hoạt động tư pháp” không bao hàm hoạt động
kiểm sát xét xử, Công tố viên không được quyền “kiểm sát” Hội đồng xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm mà cần có cơ chế giám sát hoạt động tư pháp riêng phù
hợp với tính chất của việc thực hiện quyền tư pháp của Toà án. Các Tòa án
hoàn toàn độc lập về chuyên môn với nhau, không chịu sự ràng buộc về chỉ
đạo hành động, cán bộ, con người, tài chính mà chỉ phụ thuộc vào pháp luật.
Tòa án tối cao có quyền ban hành án lệ, có quyền hướng dẫn, có quyền hủy án
của các Tòa án khác nhưng không có quyền áp đặt, quyết định buộc các Tòa
án khác phải xét xử theo “chỉ đạo” của mình; Bên cạnh đó, nơi làm việc của
Thẩm phán phải hoàn toàn độc lập bảo đảm Thẩm phán không thể bị ảnh
hưởng bởi các nhân tố khác gây bất lợi cho hoạt động chuyên môn. Thẩm
phán phải được hưởng ưu đãi, miễn trừ tư pháp, được bảo vệ theo cơ chế pháp
lý đặc biệt. Giữa các Thẩm phán, Hội thẩm hoàn toàn độc lập với nhau, ngay
cả những việc “tế nhị” như trao đổi với nhau về các tình tiết, cách xử lý vụ án,
vụ việc, nhất là về kết quả xét xử mang tính định kiến cũng coi như xâm
phạm nguyên tắc độc lập. Thẩm phán, Hội thẩm, Hội đồng xét xử hoàn toàn
độc lập trong quá trình hoạt động chuyên môn, đặc biệt là trong các phiên tòa,
101
phiên họp giải quyết vụ, việc, không ai có quyền xâm phạm, can thiệp, gây
ảnh hưởng công việc và sự vô tư của họ.
3.2.2. Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Đây là một giải pháp đặc biệt quan trọng mà thời gian qua lãnh đạo Tòa
án nhân dân tối cao (TANDTC) đã tập trung chỉ đạo thực hiện với nhiều đổi
mới, song hành với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất,
đồng bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý trong hoạt
động xét xử của Tòa án nói chung. TAND cấp huyện cần tăng cường công tác
áp dụng thống nhất pháp luật, tạo tính ổn định, công khai trong xét xử, việc áp
dụng án lệ trong xét xử là tính bắt buộc, tránh tùy tiện trong phán quyết. Cần
bám sát các Nghị quyết, thông tư hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật,
giải đáp vướng mắc nghiệp vụ.
Có được một hệ thống pháp luật tốt đã khó nhưng để phát huy hiệu quả
trên thực tế lại càng khó hơn. Theo PGS-TS. Nguyễn Minh Đoan thì: "Nhiều
người dân không biết được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên không
dám đòi hỏi, không dám đấu tranh"; cũng có khi "người dân biết được các
quyền và lợi ích mà mình có nhưng lại không biết làm thế nào để bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đó. Cũng do chưa hiểu biết đầy đủ về
pháp luật mà nhiều người dân thờ ơ với pháp luật, không tin tưởng vào khả
năng của pháp luật, hoài nghi việc giải quyết các công việc của một số cơ
quan, cán bộ Nhà nước". Chính vì vậy mà công tác tuyên truyền phổ biến
kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân là vô cùng quan
trọng đảm bảo tính khả thi và hiệu quả tác động của pháp luật.
Đặc biệt, việc bảo đảm các vấn đề liên quan đến hoạt động, nhất là bảo
đảm tài chính cho Tòa án cấp huyện phải nhất thiết được thực hiện thông qua
một cơ chế độc lập để hệ thống Tòa án tập trung thực hiện đúng đắn, hiệu quả
nhất các hoạt động chuyên môn. Cũng trên tinh thần đó nhất thiết phải đầu tư
102
xây dựng, nâng cấp đầy đủ trụ sở cho Tòa án nhân dân các cấp, bảo đảm
khang trang, thực sự có tính biểu tượng của quyền lực tư pháp, là “công
đường” của Nhà nước. Nơi xét xử của Tòa án nhân dân, phải có nét đặc thù
không thể lẫn lộn với trụ sở của các cơ quan nhà nước khác. Hệ thống cơ sở
vật chất của các Tòa án cần được trang bị hiện đại, áp dụng công nghệ thông
tin tiên tiến để cập nhật thông tin, thống kê và công bố thông tin ra công
chúng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.
103
Tóm tắt chương 3
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của
Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn liền với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân;
tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp
và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình
cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp chung
về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện cần thực
hiện là: Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án. Nghiên cứu khả năng
trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến
của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ban hành.
Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;
xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm
Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và
tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực
của Hội thẩm nhân dân. Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện
làm việc cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.
104
Ngoài ra, cần có thêm những giải pháp cụ thể trong việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình là:
- Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp;
-Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
trong một số trường hợp luật định;
- Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
105
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án
và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận
sau:
Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền
lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa
án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực
hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm
bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát
trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp
Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm các vụ án theo
thẩm quyền.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần hướng tới các
mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa
án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với
hoạt động xét xử.
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân
cấp huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ
106
thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp huyện đã có những bước phát triển,
hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi
mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cũng còn những
hạn chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế;
hoạt động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài
(mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh
hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải
cách hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét
xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của
Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn liền với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân;
tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp
và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình
107
cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, ngoài những giải pháp
chung nhất về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung
thì TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần có những giải pháp cụ
thể, đặc thù.
- Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp;
-Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp
trong một số trường hợp luật định;
- Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Để Tòa án thực sự là chỗ dựa của người dân trong bảo vệ công lý thì
việc nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt công tác tổ chức và hoạt động của
TAND là một yêu cầu rất quan trọng, một việc làm thường xuyên. Với những
giải pháp khoa học và cụ thể như vậy, cùng với quyết tâm cao trong cả hệ
thống, chắc chắn chất lượng xét xử của Tòa án sẽ được nâng lên, xứng đáng
với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ
2011-2016.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày 24/5 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 02/06 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW, ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Các Sắc lệnh và Thông tư liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm từ năm
1945 đến nay.
7. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp
quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội hội nghị lần thứ IX
BCH TƯ khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Đặng Quang Phương (1995), “Vài nét về quá trình hình thành và phát
triển của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (06), (07), (08).
14. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (2006), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
15. Giáo trình Luật hành chính do Gs.Ts.Phạm Hồng Thái & GS.Ts. Đinh
Văn Mậu biên soạn.
16. Giáo trình Hành chính công (2010), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Giáo trình Luật Hành chính (2008), Nxb Công an nhân dân.
18. Hồ Chí Minh (1995, 2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Học viện Hành chính (2016), Khoa quản lý nhà nước về xã hội, Bài giảng
Những vấn đề cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước, Tài liệu lưu hành
nội bộ, Hà Nội.
21. Hoàng Văn Thành (2015), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
22. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
23. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
24. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Dung (2010), Cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa
án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), “Chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề
độc lập xét xử”, bài trình bày tại Hội thảo quốc tế về độc lập xét xử do
Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008.
27. Nguyễn Văn Cường (2014), Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và
Hiến pháp 2013, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
(1945, 1959, 1980, 1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân (năm 1960, 1981, 1992, 2002), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà
Nội.
32. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.
33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, 2013,
2014, 2015, 2016 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2017 của Hệ thống
Tòa án nhân dân.
34. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Bình năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động
36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, Hà Nội.
37. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
38. V.ILê Nin toàn tập (1980), tập 27 Nxb Tiến bộ, Matsxcova.
39. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
40. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu pháp lý về các
khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị
đối với Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp nước
ngoài, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
42. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình – Lịch sử ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 1945 đến 2000; giao đoạn 2001 đến 2010.
Website:
www.toaan.gov.vn
www.quangbinh.toaan.gov.vn
www.thuvienphapluat.vn
www.chinhphu.vn