BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ THANH NHÀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ THANH NHÀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN VĂN HÙNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ

từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Phan Văn Hùng. Các số liệu, nội dung nghiên

cứu và kết quả trong luận văn là trung thực và tin cậy. Những kết luận khoa học

của luận văn không trùng lặp với các công trình có liên quan đã được công bố.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học Viên Hoàng Thị Thanh Nhàn

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, ngoài sự nỗ lực

của bản thân, tôi đã nhận được sự giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt

tình của quý thầy cô tại Học viện Hành chính Quốc gia. Trước hết, tôi xin

chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô Khoa Nhà nước và Pháp luật,

Khoa Sau đại học - Học viện Hành chính Quốc gia và quý thầy cô tham gia

giảng dạy đã tận tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Văn Hùng đã dành nhiều

thời gian, công sức trong giảng dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn

này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến ông Nguyễn Thanh Xuân - Chánh án Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình, tập thể Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Bình; Chánh án và tập thể cán bộ Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới tỉnh

Quảng Bình là nơi tôi công tác đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn

thành khóa học và luận văn. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình,

bạn bè là nguồn động viên lớn, tạo điều kiện và hết lòng chăm sóc, khuyến

khích tôi tham gia học tập và nghiên cứu, để tôi có thể hoàn thành luận văn

này. Luận văn là thành quả sự nỗ lực của cá nhân tác giả trong thời gian qua.

Tuy nhiên, do kiến thức bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi

những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô và

các bạn để Luận văn này được hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Học Viên Hoàng Thị Thanh Nhàn

TRANG BÌA

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN ......................................................................................................... 11

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ........................... 11

1.1.1. Sự hình thành của Tòa án: ........................................................................... 11

1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước: ........................ 14

1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ........... 17

1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham

gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. .......................... 17

1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ......................................................................... 18

1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết

định theo đa số ...................................................................................................... 21

1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. ............................... 22

1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng .............................. 22

1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân ......................................... 24

1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị

cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ................................... 25

1.2.8. Nguyên tắc khi xét xử, đảm bảo tranh tụng: ................................................. 25

1.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức Tòa án nhân dân ở

nước ta và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động theo yêu cầu cải cách tư pháp ... 26

1.3.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp huyện ................... 26

MỤC LỤC

1.3.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ........ 32

1.3.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức tòa án nhân dân ở

nước ta: ................................................................................................................. 33

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện ..................................................................................................................... 34

1.3.5. Yêu cầu đổi mới đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp. .............................................................. 39

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 43

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH THEO

YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP ...................................................................... 44

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1945 đến nay . 44

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 ......................................................................... 44

2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980 ......................................................................... 46

2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ......................................................................... 49

2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002 ......................................................................... 50

2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014 ......................................................................... 52

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 ........................................................................ 57

2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp ................................................ 68

2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình. ................................................................................................... 68

2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình .................................................................................................... 74

2.4. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp: ............... 79

2.4.1. Thành tựu đạt được: .................................................................................... 79

2.4.2. Những hạn chế, vướng mắc: ........................................................................ 83

2.4.3. Nguyên nhân: .............................................................................................. 84

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 93

Chương 3:QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI

CÁCH TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH .............................. 94

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình ................. 94

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn

liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của

dân, do dân, vì dân. ............................................................................................... 95

3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải được

tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp

và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước. ....................................................... 96

3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải được

thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế. ................................... 96

3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm thực

hiện quyền lực tư pháp .......................................................................................... 97

3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình ............................................................ 98

3.2.1.Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp ...................................................................................................... 999

3.2.2.Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp trong

một số trường hợp luật định. ............................................................................... 100

3.2.3. Tăng cường công

tác bảo đảm áp dụng

thống nhất pháp

luật………………………………………………………………………………..101

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 104

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS Bộ luật hình sự

BLDS Bộ luật dân sự

TAND Tòa án nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là con đường phát

triển tất yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN là nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị XHCN và Nhà

nước XHCN mà mục đích là phát huy cao độ dân chủ xã hội nghĩa, làm cho

Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thật sự trong sạch, vững

mạnh. Bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ chế độ

hợp hiến của nhân dân. Thượng tôn pháp luật; Triệt để, tôn trọng và bảo vệ

con người, quyền công dân một cách có hiệu quả; Bảo đảm có sự phân quyền

hợp lý trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm

nâng cao hiệu lực và hiệu quả và sự kiểm soát quyền lực; Bảo đảm sự độc lập

của hoạt động xét xử để duy trì và đề cao công lý của chế độ XHCN.

Trong thời kỳ đất nước phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng vào

nền kinh tế khu vực và thế giới, trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước,

trước yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc đấu tranh phòng và chống tội

phạm ở nước ta hiện nay đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động

của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều

văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết số 08-

NQ/TW ngày 2 tháng 11 năm 2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung

ương Đảng cộng sản Việt Nam: “Về một số nhiệm vụ cấp bách cải các Tư

pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ

Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng

1

cộng sản Việt Nam: “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Cải cách

tư pháp được tiếp tục khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất

nước trong thời kỳ quá độ (được bổ sung, phát triển năm 2011) và trong các

văn kiện đại hội lần thứ XI gần đây nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Trước

hết, nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiều nội dung về đổi

mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nghị quyết nêu rõ:

Tòa án là: “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam”, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của

tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Bên cạnh đó, Nghị quyết còn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền và việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Triển khai

thực hiện những quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân

dân năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,

thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, trọng tâm là

xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo chức

năng, nhiệm vụ đã được Hiến định. Theo đó, tòa án là “Cơ quan xét xử của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” nhằm

đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam XHCN trong giai đoạn mới.

Mô hình hệ thống Tòa án nhân dân khi được tổ chức lại theo tinh thần

cải cách tư pháp có bốn cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân

cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện (huyện,

quận, thị xã, thành phố và tương đương). Trong đó:Tòa án nhân dân cấp

huyện có nhiệm vụ, thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc

2

thẩm quyền theo luật định;Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ xét xử phúc

thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện có kháng

cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của

Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố; Tòa án nhân dân cấp cao được tổ chức

theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái

thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật

nhưng bị kháng nghị; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử giám đốc

thẩm, tái thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất

pháp luật, phát triển án lệ. Việc đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao cần

thực hiện theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia

đầu ngành về pháp luật và có kinh nghiệm trong ngành.Điều đáng lưu ý là

việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp

Tòa án, ở từng địa phương. Việc nghiên cứu, xác định phạm vi thẩm quyền

xét xử của Tòa án quân sự cần theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các

tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và những vụ án liên quan

đến bí mật quân sự.

Đổi mới việc tổ chức phiên Tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền

hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo

hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng

tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “chiến

lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu chiến lược là xây

dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công

lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam XHCN;

hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu

quả và hiệu lực cao.Trong Văn kiện đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của

3

Đảng cộng sản Việt Nam cũng đề ra mục tiêu: “Đẩy mạnh việc thực hiện

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong

sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn

thiện chính sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ

chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao

tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh

tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm

cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm

quyền xét xử của Tòa đối với các khiếu kiệnhành chính” [10]. Các quan điểm,

định hướng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ

thống cơ quan tư pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ

trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói

riêng trong thời gian qua còn chậm và chưa đáp ứng nhu cầu. Chất lượng xét

xử của Tòa án nhân dân cấp huyện còn để xảy ra oan sai, án tồn động kéo dài,

đội ngủ cán bộ nhất là đội ngủ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về

trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Do đó, hàng loạt

vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như về thẩm

quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, vấn đề mở rộng thẩm quyền xét

xử của Tòa án nhân dân cấp huyện; thành lập các tòa chuyên trách tại Tòa án

nhân dân cấp huyện; vấn đề đổi mới việc tranh tụng tại phiên Tòa; việc triển

khai Tòa án điện tử khi nào phù hợp và triển khai như thế nào cho hiệu quả;

về thủ tục rút gọn quy định trong tố tụng dân sự; về cải cách thủ tục hành

chính tư pháp.… Chính vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân các cấp nói chung và của Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng có ý nghĩa

quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả giải quyết án và hiệu quả công tác xét

xử trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.

4

Với lý do nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp – Từ thực tiễn

tỉnh Quảng Bình” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm

góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hệ

thống Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng để

làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội

thảo, các bài viết trên các tạp chíliên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của

Tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhómnhư sau:

- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà

nước, cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư

pháp Việt Nam có liên quan đến Tòa án nhân dân như: Đề tài khoa học cấp

Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ

thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân".Luận

án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức

và hoạt động Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay" của tác giả

Lê Thành Dương năm 2002.Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi

mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà

nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003.Luận án tiến sĩ luật

học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ

thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp

quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005.Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Khoa học Xã hội “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá

trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giải Nguyễn Minh Sử năm

2011.Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước"

5

của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002;Sách "Hệ

thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của tập thể các tác

giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002;“Cơ sở

khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay” của tác

giả Đỗ Gia Thư (Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam,

2006);“Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải cách

tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Sử (Luận án tiến sĩ luật học,

Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2011);Liên quan đến nhóm vấn đề này còn

có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành Tòa án nhân dân.

- Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí:“Những

vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà

nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân

dân số 3 năm 2006;"Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với

đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của tác giả Nguyễn

Mạnh Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;“Bàn về quản lý

thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của tác giả Đỗ Gia Thư đăng trên Tạp

chí Tòa án nhân dân, 2005;“Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực

nhà nước” của tác giả Nguyễn Đăng Dung đăng trên đăng trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011;“Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc tổ

chức Tòa án theo tiêu chí chức năng, thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc

đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011;“Kiến nghị nhằm

nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử” của tác giả

Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7, 2011; “Một

vài ý kiến về hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta” của tác giả

Nguyễn Minh Sử đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 7,

2011."Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh

6

Kháng, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10; Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân

dân tối cao từ năm 2010 đến năm 2016; Bài viết về: Tiếp tục hoàn thiện mô hình

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm

vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền

tư pháp” của Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao năm 2013; Bài viết về: “Hoạt động của Tòa án nhân

dân trong thời kỳ mới” của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng

Duy Lượng năm 2014; Bài viết về “Thành tựu cải cách tư pháp nổi bật của

Tòa án nhân dân” của Báo Công lý năm 2016; Bài viết về “Cải cách tư pháp

nâng tầm vị thế của Hệ thống Tòa án nhân dân” của Tiến sĩ Lưu Bình

Nhưỡng, Phó Chánh Văn phòng, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương

năm 2014.

Tuy các công trình và bài viết trên đã đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu

chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, cũng như có đề cập trực tiếp đến

tổ chức và hoạt động của Tòa án, nhưng khác về phạm vi nghiên cứu và thời

điểm nghiên cứu nên tính thời sự không còn đáp ứng đầy đủ, đồng thời không

phù hợp với Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Có

thể thấy các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một

số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận

văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích nghiên cứu của luận văn dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, đánh giá thực trạng tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo

7

yêu cầu cải cách tư pháp, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên đại bàn tỉnh Quảng

Bình.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các

nhiệm vụ nghiên cứu sau:

+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động

của Tòa án như phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của Tòa án trong bộ máy nhà nước;

+ Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện ở Quảng Bình hiện nay, trong đó đánh giá những thành tựu,

những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém;

+ Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, học viên chỉ tập trung nghiên cứu

một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức, nâng

cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong thời gian tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

+ Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2013 đến 2017

8

+Về nội dung: Luận văn nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động tại

Tòa án nhân dân cấp huyện nói chung và tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

Trong phạm vi luận văn, học viên chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt

động của Tòa án quân sự.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, những

thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. Đồng thời, học viên nghiên cứu

luận văn trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và

chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong

luận văn bao gồm:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để phân tích, khái

quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân

cấp huyện nói riêng.

- Phương pháp hệ thống: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích theo

hệ thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ

biện chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất. Tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp huyện là một nội dung của đổi mới tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân, do vậy, phương pháp hệ thống được sử dụng để nghiên cứu

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong mối quan hệ với đổi

mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân và bộ máy nhà nước.

9

- Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn để nghiên cứu quá

trình hình thành, phát triển và yêu cầu đổi mới pháp luật về tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

- Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét

từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, các quy

định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện.

- Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong Chương 3

nhằm đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như

thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong tiến trình cải cách tư pháp. Luận văn có

thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm

thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc nghiên cứu, giảng dạy.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp

Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh

Quảng Bình.

10

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

1.1.1. Sự hình thành của Tòa án

Trong cuốn “Lịch sử văn minh nhân loại”, nhà sử học Hoa Kỳ Will Durant

đã khái quát và luận giải sự ra đời, vai trò và ý nghĩa của thiết chế bảo vệ công lý -

Tòa án. Theo đó, trong giai đoạn xã hội sơ khai, công lý được thể hiện khá rõ nét

thông qua cơ chế trả thù cá nhân, bằng luật báo thù, dĩ oán báo oán, với công thức

ngang bằng “răng đền răng, mắt đền mắt”. Giai đoạn thứ hai của sự phát triển này

là thay sự báo thù bằng hình thức bồi thường, phạt vạ, nhằm giữ yên ổn, hoà hảo

trong nội bộ các bộ tộc, bộ lạc. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn các cuộc trả

thù cá nhân, duy trì hòa bình, trật tự, ổn định của toàn xã hội, thiết chế toà án đã

được thành lập để thẩm định, đánh giá mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình

cho các xung đột giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã

vững bước song hành từ những bước phát triển của lịch sử như vậy. Đến đầu thế

kỷ thứ VI TCN, quan chấp chính Xôlông đã tiến hành một loạt các cải cách dân

chủ của nhà nước Athen, trong đó có việc lập ra Tòa án nhân dân và tuyên bố mọi

công dân đều có quyền chống án và bào chữa cho mình . Trong giai đoạn đầu, tuy

hệ thống xã hội và các tư tưởng đạo đức thời cổ đại còn có những điểm khiếm

khuyết, chưa hoàn thiện nhưng việc thực hành xét xử theo kiểu tòa án dicastery, ở

nhiều khía cạnh, được coi là một hình mẫu khá lý tưởng.Người thua kiện được

trình bày trước tòa án, bị cáo có thể mượn luật sư cãi thay và bản án được biểu

quyết, quyết định theo đa số. Người ta lập luận rằng, số đông các thẩm phán sẽ

đảm bảo họ không bị hăm dọa và sẽ làm cho việc hối lộ trở lên khó khăn, do đó,

đây là mô hình lý tưởng để công lý có thể đến được với người dân.

11

Cũng trong giai đoạn này, nhiều nguyên tắc xét xử ban đầu, sơ khai để bảo

đảm công lý đã được đưa ra và còn được duy trì, tồn tại cho đến ngày nay như:

“Mọi người, như một quy luật, đều là những quan tòa không ngay thẳng khi phán

đoán những gì có liên quan đến quyền lợi riêng tư của mình”. Ngày nay, nguyên

tắc này đã tiếp tục được duy trì và sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong hệ thống luật án

lệ, đảm bảo những tiêu chuẩn tối thiểu cho một quyết định công bằng, hợp đạo lý.

Theo nguyên tắc này, người có thẩm quyền giải quyết vụ việc không được có

những lợi ích về tài sản, tiền bạc hoặc nhân thân có thể ảnh hưởng đến kết quả

tranh tụng, người đó cần phải thể hiện được hoặc chứng minh được sự công tâm,

khách quan và chính trực của mình khi tham gia giải quyết vụ việc.

Trong giai đoạn đầu, thủ tục tố tụng còn mang tính chất tư tố. Theo đó,

quyền triệu tập một cá nhân ra tòa, quyền buộc tội thuộc về tất cả mọi người. Đối

với quan hệ hình sự mang tính chất tư tố, người bị hại đồng thời cũng là người

truy tố, buộc tội. Nếu người bị hại đã chết, quyền truy tố thuộc về thân nhân người

chết và cộng đồng. Bước sang giai đoạn đầu của xã hội phong kiến, các phiên tòa

xét xử được tổ chức dưới dạng đại hội công dân nhưng nó bắt đầu được chủ trì bởi

các quan lại hoặc chính Nhà vua, qua đó từng bước chuyển từ chế độ xét xử công

cộng sang xét xử Nhà nước. Trong các nhà nước sơ khai cũng như các nhà nước

phong kiến sau này, mặc dù bộ máy tư pháp có quy mô khác nhau, thậm chí có

những giai đoạn là khá đồ sộ để thực hiện nhiệm vụ đàn áp nhưng đều có chung

một đặc trưng nổi bật là thẩm quyền của tư pháp chưa tách rời thẩm quyền hành

chính, ranh giới giải quyết hành chính và quyền tư pháp là rất mờ nhạt. Tập quyền

chuyên chế phong kiến là nơi thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

vào cá nhân hoàng đế với sự hỗ trợ đắc lực của niềm tin tôn giáo rằng quyền hành

của hoàng đế là “thiên mệnh”.

Có thể nói, trong lịch sử văn minh nhân loại, nhà nước đã được hình thành

từ rất sớm, cách đây khoảng hơn 5.000 năm. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước được

12

phân quyền với cơ quan đảm nhận nhiệm vụ tư pháp xét xử mới chỉ được thiết lập

cách đây gần 300 năm, kể từ khi nổ ra các cuộc cách mạng tư sản với những học

thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc. Trước đó, phong trào Văn hóa

Phục hưng của giai cấp tư sản với những nội dung tư sản mang tính chất tiến bộ,

coi con người là trung tâm và đề cao giá trị con người, tự do cá nhân đã tạo ra

những tiền đề tư tưởng vững chắc giải phóng con người về mặt ý thức và thân

phận thoát khỏi sự kiềm chế của chế độ độc đoán, tạo tiền đề vững chắc cho sự

thành công của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Mỹ, Pháp sau này.

Thế kỷ thứ 18, học thuyết phân quyền của Montesquieu ra đời với tên gọi

“tam quyền phân lập” (Seperation of powers) và trở thành “hòn đá tảng” trong lý

luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản, theo đó, quyền lực nhà nước được phân

công và tổ chức thành ba nhánh: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp là

quyền làm luật, sửa đổi hay hủy bỏ luật. Quyền hành pháp là quyền quyết định và

thực thi những vấn đề đối ngoại, chiến tranh, quốc phòng, an ninh, kinh tế. Quyền

tư pháp là quyền trừng trị tội phạm và phân xử tranh chấp. Để bảo đảm các quyền

tự do thì quyền xét xử phải được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành

pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do.

Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành

những kẻ áp bức. Tiếp thu những tinh hoa của nền dân chủ Athen, Montesquieu

cho rằng không nên có các cơ quan tư pháp và các quan chức tư pháp thường

xuyên, cố định như ngành lập pháp và hành pháp mà nên do đoàn thể cử ra, trong

một thời hạn nhất định. Người xét xử cũng ở địa vị đồng đẳng với bị cáo, để bị

cáo không có cảm giác đang trong tay những kẻ sẵn sàng hại mình.

Trên cơ sở học thuyết tam quyền phân lập, các nhà lập hiến Hoa Kỳ cho

rằng việc thiết lập công lý phải được giao cho một cơ quan có tính ổn định, lâu dài

và không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của các yếu tố chính trị thoáng qua, nhất

13

thời như các cơ quan được hình thành trên cơ sở bầu cử, đó chính là hệ thống các

cơ quan xét xử - Tòa án.

1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước

Nhà nước là quản lý xã hội, biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp

luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền lực để đảm bảo cho pháp luật được

thực hiện. Nhà nước quản lý thông qua ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua

hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi,

các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các

chủ thể pháp luật. Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp

luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc

trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ

quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực,

hiệu quả xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin

của nhân dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và

thông qua đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai

cấp thống trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh

bạch, không khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội

không được bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định

pháp luật còn được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ

nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Bàn

về vấn đề này, V.I. Lê Nin đã viết: “Tòa án cần phải đảm đương một nhiệm

vụ khác còn quan trọng hơn nữa, đó là nhiệm vụ bảo đảm cho người lao động

chấp hành một cách nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác”.[38]

Như vậy, xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án. Khi đảm

nhận chức năng xét xử, Tòa án có vai trò, vị trí nhất định trong bộ máy nhà

nước. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để xem

14

xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn của hành vi theo pháp luật hay

tính công bằng trong các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản

của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân

danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban

hành được bảo đảm thực thi bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiểu Nhà nước với chế

độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó

Tòa án có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng khác nhau. Ở Nhà nước

chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp

và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong

kiến) nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua. Ở Nhà nước tư

sản, để hạn chế dần khả năng thực hiện quyền lực vô hạn cũng như đảm bảo

tính dân chủ trong đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản đã đưa ra lý thuyết

về tam quyền phân lập, theo đó quyền tư pháp có sự phân lập với quyền lập

pháp và hành pháp để đảm bảo tính kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Tòa án

chính là một nhánh quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các hành

vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã

hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, thẩm quyền của Tòa án được

mở rộng; tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Tòa án được nâng cao

và ngày càng có tính hệ thống.

Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực

thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền

tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan

trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân.

Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà

nước; Tòa án thực hiện quyền tư pháp, là nơi thể hiện công lý trong bộ máy

15

nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp là thước đo sự công

bằng trong xã hội. Hoạt động xét xử được coi là hoạt động trọng tâm trong

việc thực hiện quyền tư pháp và chức năng xét xử được Hiến pháp quy định là

chức năng riêng Tòa án, bởi vậy, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

được quy định tương đối cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm

pháp luật Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là

cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện

quyền tư pháp” [30]. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ

quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân

dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước

Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi thu

hẹp hơn, điều này nảy sinh yêu cầu đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp

ở Việt Nam. Với việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vai trò

quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo

môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc; Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp

luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm

và hành vi vi phạm pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được xác định là:Tòa án

nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Bằng hoạt

động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc,

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã

hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác; Tòa

16

án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm những tranh

chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những

tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); những

vụ án hành chính; giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu cầu về

dân sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh

doanh, thương mại; những yêu cầu về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố

phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp

hay không hợp pháp. Ngoài ra, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết những

việc khác theo quy định của pháp luật (ra quyết định thi hành án hình sự; hoãn

hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình

phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án tích) [31].

1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Tổ chức và hoạt động của Tòa án ngoài những nguyên tắc chung đã

được Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo (Điều 4 Hiến pháp

2013), nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6) thì với chức năng riêng của

mình so với các cơ quan Nhà nước khác, TAND còn được tổ chức và hoạt

động theo những nguyên tắc đặc thù, đó là:

1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân

tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8 Luật Tổ chức

TAND 2014 đã qui định vấn đề này. Theo đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án

thuộc thẩm quyền thì thành phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của các Hội

thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân). Hội thẩm nhân dân đại

diện cho dư luận xã hội khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo

đảm việc xét xử có lý và có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ

pháp lý, trình độ chuyên môn cho các Hội thẩm nhân dân thì điều quan trọng,

người Hội thẩm được cơ cấu từ các thành phần mà đại diện, nói được tiếng

17

nói chung cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Cũng vì vậy,

không nên quá quan tâm về vấn đề trình độ pháp lý và trình độ chuyên môn

của Hội thẩm, hay nói cách khác là không nên “thẩm phán hoá” Hội thẩm.

Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét

xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm. Để đảm bảo tính khách quan,

pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nói

cách khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán. Pháp luật về tố

tụng đã cụ thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các thành viên Hội

đồng xét xử nghị án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ án thì các Hội

thẩm phải biểu quyết trước (với mục đích để hạn chế việc biểu quyết của Hội

thẩm bị ảnh hưởng theo ý chí của Thẩm phán). Cũng chính vì Hội thẩm ngang

quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán là người chủ toạ

phiên tòa nhưng Hội thẩm vẫn có quyền tham gia vào tất cả các trình tự, thủ

tục xét xử tại phiên Tòa.

1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9

Luật Tổ chức TAND năm 2014 qui định khi xét xử, giữa các thành viên Hội

đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) và mỗi thành viên Hội đồng xét xử đều

có quyền độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Cho dù thành viên Hội

đồng xét xử là Chánh án hoặc Phó Chánh án thì cũng chỉ là một người có

quyền độc lập với thành viên khác, không có quyền “áp đặt” ý chí lên các

thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ cũng chỉ quyền

điều hành phiên Tòa là có tính riêng so với các thành viên khác nhưng không

có quyền tố tụng cao hơn thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Khi xét xử,

Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác động bởi bất cứ áp lực nào từ phía các

cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can thiệp của bất cứ cá nhân, tổ chức nào.

18

Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của Tòa án cấp trên. Khi xét

xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn của việc xét xử” (ở trình tự

xét xử sơ thẩm) và “phạm vi xét xử phúc thẩm”, các thành viên trong Hội

đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan điểm, những luận cứ của

Viện kiểm sát. Các thành viên Hội đồng xét xử có quyền phán xét độc lập trên

cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ ban hành các quyết định pháp

lý giải quyết vụ án.

Việc qui định nguyên tắc này trong các bản Hiến pháp có sự thay đổi

về ngôn ngữ diễn đạt nhưng sự thay đổi đó phản ánh sự thay đổi về nhận thức

nội dung của nguyên tắc trên. Hiến pháp năm 1959 quy định dưới hình thức

câu chữ là “Tòa án độc lập”, còn các bản Hiến pháp về sau thì đều qui định là

“Thẩm phán và Hội thẩm” xét xử độc lập. Sự thay đổi đó nói lên rằng, nguyên

tắc này không chỉ thể hiện tính độc lập của “Tòa án” khi xét xử (độc lập với

các cơ quan khác) mà điều quan trọng là nhấn mạnh tính độc lập của từng

thành viên Hội đồng xét xử với những tác động “bên ngoài” và với thành viên

khác trong cùng Hội đồng [28].

Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh

chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét

xử - tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu

hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc

lập của Tòa án được thể hiện rõ nét qua sự độc lập của Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân.Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, nhưng phải tuân

theo pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp

luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, không

được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Tòa án,

pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án, của thẩm phán

19

và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp luật của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, trong tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước, cần thiết phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của Tòa

án và các cơ quan lập pháp và hành pháp cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ

tương ứng để ngăn ngừa sự lạm quyền và can thiệp trái pháp luật vào hoạt

động xét xử. Để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, mô hình Tòa án khu vực

được đề cập đến với mục đích nhằm giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hành

chính đối với hoạt động của Tòa án; quy định những cơ chế, điều kiện đảm

bảo sự độc lập của Thẩm phán không chỉ trong hoạt động xét xử mà còn liên

quan đến các vấn đề an ninh khác đối với các mối quan hệ khác.

Yêu cầu đặt ra đối với Thẩm phán là phải hoạt động độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật, không chịu áp lực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền. Bởi vậy, pháp luật tố tụng của các nước đều quy định quyền của người

tham gia tố tụng được yêu cầu thay đổi thẩm phán khi có căn cứ cho rằng họ

không vô tư, khách quan khi thực thi nhiệm vụ xét xử, đồng thời cũng quy

định trách nhiệm của Thẩm phán phải từ chối tiến hành các hoạt động tố tụng

khi có những căn cứ tương tự. Nguyên tắc này cũng được thể hiện ở sự độc

lập của Thẩm phán Tòa án cấp dưới trước sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên và

trường hợp bản án sơ thẩm không đúng pháp luật sẽ được xem xét lại theo các

trình tự, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.Để có sự độc lập của

Thẩm phán, ngoài việc quy định trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán thì

pháp luật cũng thường đặt ra yêu cầu đối với Thẩm phán được lựa chọn, bổ

nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn, có hiểu biết pháp luật

cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách nhiệm trong việc thực thi

nhiệm vụ bảo vệ công lý.

20

1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và

quyết định theo đa số

Tại Điều 103Hiến pháp năm 2013 và Điều 10 và Điều 11Luật Tổ chức

TAND năm 2014 qui định việc xét xử của Tòa án phải công khai để mọi

người có thể tham dự, trừ những trường hợp cần phải giữ gìn bí mật quốc gia

hoặc để đảm bảo thuần phong, mỹ tục hay để giữ bí mật của đương sự theo

yêu cầu chính đáng của họ thì xét xử kín nhưng khi tuyên án phải tuyên công

khai. Việc xét xử công khai là nhằm bảo đảm vai trò giám sát xã hội của công

dân, các cơ quan, tổ chức đối với công tác xét xử của Tòa án. Công khai cả

khi đã xét xử xong cũng cần đăng bản án, quyết định trên cổng thông tin điện

tử để công chúng được biết.

Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và

hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội

đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể,

đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết.

Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận,

thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm

bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là

cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên

vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc

tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án. Nguyên tắc này

ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp

luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài cũng

như sự e dè, ngần ngại của Thẩm phán và giảm áp lực cho Thẩm phán trong

hoạt động xét xửKhi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập

thể đối với từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có

21

hiệu lực pháp lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên

bản và được coi là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của

Tòa án khi cần thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui

định số lượng thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành

viên trong Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm).

1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp 2013 và tại Điều 6 Luật Tổ chức

TAND năm 2014, Điều 20 BLTTHS 2003 và Điều 17 BLTTDS 2015. Nội

dung nguyên tắc này qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử

sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm

tố tụng đơn thuần. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm

của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan

trong phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân.

Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến

cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án. Như

vậy, vụ án được đưa ra xét xử ở cấp sơ thẩm: sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo,

các đương sự có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án chưa có

hiệu lực pháp luật, vụ án sẽ được đưa ra xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Sau khi

xét xử phúc thẩm, bản án và quyết định của Tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật và

có hiệu lực thi hành.Việc qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử là

nhằm bảo đảm hạn chế những trường hợp xét xử thiếu khách quan, góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử của Tòa án.

1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng

Tại khoản 3 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 11 Luật Tổ chức TAND

2014 đã qui định: Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng

trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành

phần xã hội, địa vị xã hội, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân

22

và các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng

trước pháp luật. Kịp thời, công bằng, công khai là một trong những thuộc tính

quan trọng của xã hội dân chủ. Việc xét xử kịp thời, công bằng, công khai,

một mặt bảo đảm cho nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của

Toà án, và mặt khác phát huy được tính giáo dục chính trị – pháp lý và tác

dụng phòng ngừa của hoạt động xét xử. Việc xét xử công khai là một trong

những bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn và nâng cao

trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa đối

với việc thực hiện nghĩa vụ của mình, đối với việc tuân thủ nghiêm chỉnh

pháp luật. Phiên toà xét xử của Toà án được tiến hành một cách kịp thời, công

bằng, công khai, mọi người đạt độ tuổi nhất định có quyền tham dự phiên toà

xét xử. Phiên toà xét xử có thể được tiến hành tại phòng xét xử trong trụ sở

của Toà án, nhưng cũng có thể được xét xử lưu động tại nơi xảy ra việc phạm

tội hoặc nơi cư trú của bị cáo nếu xét thấy cần thiết. Nội dung phiên toà, thời

gian, địa điểm mở phiên toà phải được niêm yết công khai trước khi xét xử,

kết quả xét xử tại phiên toà có thể được công bố trên báo chí, đài phát thanh,

đài truyền hình hoặc bằng các phương tiện thông tin đại chúng khác cho mọi

người biết. Việc xét xử công khai được áp dụng đối với hoạt động xét xử sơ

thẩm và hoạt động xét xử phúc thẩm. Việc xét xử kín chỉ được tiến hành trong

trường hợp đặc biệt như thuộc về bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục, bí

mật đời tư v.v nhưng bản án và quyết định của phiên toà đó cũng phải được

tuyên công khai. Khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui

định của pháp luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các

chứng cứ khách quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để

đưa ra các phán quyết khách quan, công bằng. Những yếu tố riêng được Tòa

án cân nhắc khi xét xử cũng phải là những yếu tố đã được pháp luật dự liệu và

23

qui định như hoàn cảnh địa điểm, thời gian và đặc điểm nhân thân riêng của

đương sự và vụ việc tranh chấp.

1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân

Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên lý của pháp luật

được thể hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách

như nhau, công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật. Bình đẳng là sự

ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công dân trong tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền

bình đẳng trước pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan

hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau. Hiến pháp sửa đổi năm

2013 khẳng định bình đẳng trước pháp luật là quyền con người theo hướng

mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật; khẳng định quyền

bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh

vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền bình

đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình đẳng về quyền, nghĩa vụ bao

hàm cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự

phân biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,

lứa tuổi, chức vụ, nghề nghiệp. Để đảm bảo sự bình đẳng của công dân trong

hoạt động xét xử, Điều 12 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định: Tòa án xét

xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt

dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá

nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án. Nguyên tắc này đòi hỏi

khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui định của pháp

luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các chứng cứ khách

quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để đưa ra các phán

quyết khách quan, công bằng.

24

1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can,

bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Tại khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 14 Luật Tổ chức TAND

năm 2014 qui định trong quá trình xét xử. Bào chữa là một trong những nội

dung cơ bản của tố tụng hình sự, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ

quan tiến hành tố tụng. Chính sự đối trọng này đảm bảo cho hoạt động tố tụng

hình sự được dân chủ, khách quan. Có buộc tội mà không có bào chữa thì

hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không phải là

tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi chức

năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa. Do đó quyền bào

chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự luôn được bảo đảm, thể hiện qua việc bị

cáo có quyền tự mình mời người bào chữa cho mình. Nếu người bào chữa

được mời không vi phạm qui định về những trường hợp không được bào chữa

thì Tòa án phải chấp nhận người bào chữa do bị cáo mời. Trong một số

trường hợp đặc biệt, nếu bị cáo không mời người bào chữa thì Tòa án (cơ

quan tiến hành tố tụng nói chung) phải mời người bào chữa cho bị cáo. Trong

các quan hệ pháp luật tố tụng khác, các đương sự được bảo đảm quyền bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, do vậy họ có quyền tự mình bảo vệ

(viện dẫn chứng cứ, cung cấp chứng cứ, tài liệu, tranh luận khi xét xử, khiếu

nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo qui định của pháp luật tố

tụng); hoặc có quyền nhờ người khác (luật sư, người đại diện hợp pháp) đứng

ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải tôn trọng các

quyền của đương sự.

1.2.8. Nguyên tắc khi xét xử, đảm bảo tranh tụng

Nguyên tắc này được qui định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và

Điều 13 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Đây là nguyên tắc có tầm quan trọng

trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận

25

nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.Tranh tụng là hoạt động của các

bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác

bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để

Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm

bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hiến pháp quy

định chính thức về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của công dân trong quá trình

thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử

sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được bảo

đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.Việc đổi mới thủ tục tranh tụng

tại phiên tòa được TAND coi là khâu đột phá để nâng cao công tác xét xử,

đảm bảo những phán quyết của Tòa án đúng luật, mang lại công lý, niềm tin

cho nhân dân và xã hội. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận không chỉ

ở các phiên tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối với cả các phiên tòa xét

xử dân sự, hành chính.

Ngoài ra, trong tổ chức và hoạt động của Tòa án còn được thực hiện

theo một số nguyên tắc khác như nguyên tắc về dùng tiếng nói, chữ viết dùng

trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng

quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân,

trường hợp này phải có phiên dịch.

1.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức Tòa án nhân dân

ở nước ta và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động theo yêu cầu cải cách

tư pháp

1.3.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp huyện

- Vị trí của Tòa án nhân dân cấp huyện

Tòa án nói chung có một vị trí đặc biệt, bằng hoạt động của mình, Toà

án có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giữ gìn, và đảm bảo công lý, bảo vệ

26

pháp luật và quyền lợi của công dân - một trong những nhiệm vụ quan trọng

bậc nhất của mỗi quốc gia. Để thực hiện vai trò to lớn này, Tòa án là cơ quan

duy nhất được Hiến pháp giao cho nhiệm vụ xét xử (tài phán) các vụ việc

tranh chấp trong các hoạt động của xã hội dựa trên cơ sở của pháp luật. Nên

TAND cấp huyện nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng so với các cơ quan

Nhà nước và các cơ quan tư pháp ở cấp huyện, được thể hiện qua những điểm

sau:

Thứ nhất, TAND cấp huyện xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào

pháp luật hiện hành của Nhà nước để đưa ra những phán quyết thể hiện trực

tiếp ý chí của Nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ thể. Ý chí đó

phải được thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao, đánh

giá khách quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản

án hay quyết định của Tòa án. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND cấp

huyện phản ánh một cách trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí

của nhân dân.

Thứ hai, Thông qua hoạt động xét xử của mình, TAND cấp huyện thực

hiện được việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan Nhà nước, quyền công

dân, quyền con người, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội được

an toàn, ổn định, phát triển lành mạnh và bền vững.

Trong giai đoạn hiện nay, một trong những quan điểm cơ bản định

hướng hoạt động cải cách tư pháp được khẳng định trong Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến pháp năm 2013 quy định tại điều 102:

“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Cho nên, đối với TAND cấp huyện cũng có

vị trí trung tâm trong việc tổ chức, thực hiện quyền tư pháp ở cấp huyện với

chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử.

27

- Chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp. Các đạo luật về tổ chức TAND qua các thời kỳ và hiện tại (2014) đều

khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Tòa án nhân dân có nhiệm

vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân

trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những

quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi

phạm pháp luật khác. Xuất phát từ địa vị pháp lý của Tòa án, trên cơ sở các

qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo luật về tổ chức Tòa án

và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử

của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và

phát triển của Tòa án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử của Tòa án thì

có những thay đổi theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc được giao

cho Tòa án xét xử. Ban đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có

thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án

về dân sự liên quan đến tranh chấp về tài sản và những tranh chấp về nhân

thân phi tài sản, các vụ án về hôn nhân gia đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp

lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về kinh tế (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục

giải quyết các vụ án về lao động (năm 1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính (năm 1996), Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993) và

sau đó là Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân

sự (BLTTDS) năm 2015, các Tòa án được giao thêm có thẩm quyền xét xử

các vụ án kinh tế (từ khi có BLTTDS 2004 thì gọi là vụ án kinh doanh,

thương mại), lao động, hành chính và giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp. Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống Tòa án, TAND

28

cấp huyện có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương

mại, lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.Bên

cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của pháp

luật tố tụng, TAND cấp huyện còn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi

hành án hình sự, dân sự. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự,

hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian

thử thách của án treo, xét miễn giảm thi hành án dân sự.

- Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền xét xử là sự phân định thẩm

quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc phân định thẩm quyền

xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của từng vụ án cụ

thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc

theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”. Với

chức trách là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân

sự, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết các việc khác theo qui

định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của TAND cấp

huyện nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án. Phân định thẩm

quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp luật về

tổ chức và hoạt động của TAND. Đối với vấn đề thẩm quyền của TAND cấp

huyện, pháp luật điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Tòa án cấp huyện với

Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện này với cấp huyện khác. Vấn đề thẩm quyền xét

xử của Tòa án cấp huyện là nội dung phức tạp vì nó có liên quan đến thẩm

quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật qua các thời kỳ

khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp cũng như năng lực của

các Thẩm phán.

Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của TAND cấp huyện được

qui định như sau:

29

+ Điều 44 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 1 Điều 268 Bộ luật

Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 qui định TAND cấp huyện có thẩm

quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng; xét

xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm xâm phạm an

ninh quốc gia; Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến

tranh; Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 127, 277, 278, 279, 280,

282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật

hình sự; Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

+ Theo Điều 35 BLTTDS 2015, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải

quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây: Tranh chấp về dân sự,

hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều

26, 28, khoản 1 Điều 30 và 32 của BLTTDS, trừ những tranh chấp quy định

tại khoản 7 Điều 26 của BLTTDS. Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh thương mại, lao động quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9,

10 Điều 27; các khoản 1, 2, 3, 4,5, 6, 7, 8, 10, 11 Điều 29; các khoản 1, 6

Điều 31 và khoản 1, 5 Điều 33 của BLTTDS;

Theo Điều 36 BLTTDS quy định về thẩm quyền của các Tòa án chuyên

trách Tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có

thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh

doanh thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp

huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố tung Dân sự năm 2015. Tòa gia

đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải

quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm

quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố

tụng Dân sự năm 2015. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa

chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và

30

phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân

dân cấp huyện.

+ Theo Điều 31 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án cấp huyện giải

quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định

hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện

trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có

thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, trừ quyết định hành chính,

hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân

cấp huyện; khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ

quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính

với Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức

đó; khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm

vi địa giới hành chính với Tòa án

- Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện:

Theo Điều 45 Luật tổ chức Tòa án năm 2014 quy định thì cơ cấu tổ chức

của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương (gọi chung là TAND cấp huyện) có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự,

Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp

cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách

khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ quy định tại

khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân huyện, quận, thị

xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách; Tòa án cấp huyện gồm có

Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa

án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức khác và người lao động; Có Bộ

máy giúp việc.

31

1.3.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện

TAND cấp huyện là một trong bốn cấp thuộc hệ thống tổ chức của

TAND, TAND cấp huyện tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các nguyên tắc

chung về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo đó, các

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm:

- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân

tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán;

- Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết

định theo đa số;

- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm;

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng;

- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân;

- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị

cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

- Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử

- Nguyên tắc dùng tiếng nói, chữ viết.

32

1.3.3. Tòa án nhân dân cấp huyện trong mô hình tổ chức tòa án

nhân dân ở nước ta

Theo sơ đồ có thể thấy được Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp Tòa

thấp nhất trong hệ thống Tòa án Việt Nam phân theo lãnh thổ. Tòa án nhân

cấp huyện có thẩm quyền chính là xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự (Điều 35

Bộ luật tố tụng dân sự 2015), đồng thời giải quyết các việc dân sự (khoản 2

Điều 35 BLTTDS 2015); xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội ít nghiêm

trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng (trừ những trường hợp khác

được quy định tại Điều 268 BLTTHS); giải quyết sơ thẩm các vụ án hành

chính, lao động theo quy định.

33

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện

Theo các quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện

hành có liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và của hệ

thống cơ quan xét xử, địa vị pháp lý của TAND huyện chịu sự tác động của

các yếu tố khách quan và chủ quan, chẳng hạn như các quy định pháp luật,

việc tổ chức hệ thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành

chính ở mỗi quốc gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản như:

Một là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với cấp uỷ Đảng, Hội đồng

nhân dân cùng cấp, với cơ quan quyền lực cấp trên.

Trên cơ sở nguyên tắc hiến định "Quyền lực Nhà nước thống nhất và

thuộc về nhân dân"và các nguyên tắc "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà

nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa(CHXHCN) Việt Nam''

[30], TAND cấp huyện có sự phụ thuộc vào Quốc hội, bởi vì: Quốc hội là cơ

quan có thẩm quyền ban hành ra các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ

chức và hoạt động của Tòa án, các quy tắc tố tụng của Tòa án. Ngoài ra Quốc

hội còn có ảnh hưởng gián tiếp đến TAND cấp huyện đó là Quốc hội bầu và

bãi nhiệm chức Chánh án TAND tối cao, có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối

với vị trí này. Quan trọng hơn nữa là Quốc hội quyết định ngân sách hằng

năm của Hệ thống Tòa án.

Hiện nay, theo quy định về Đảng thì Toà án nhân dân cấp huyện nào

chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng huyện đó và tổ chức cơ sở Đảng ở Toà án

cấp huyện trực thuộc Đảng bộ cấp huyện; cấp uỷ Đảng của huyện quản lý,

cho ý kiến khi đề bạt, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo và Thẩm phán Toà án

cấp huyện. Về mặt chính quyền, theo quy định của pháp luật, trên nguyên tắc

"Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương" [30] để

đảm bảo thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương, TAND cấp huyện

34

được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan quyền

lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án Toà án cấp huyện báo cáo công tác

trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân

cùng cấp bầu ra; Thường trực Hội đồng nhân dân có chức năng phối hợp với

Toà án nhân dân cấp tỉnh trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các

chức danh lãnh đạo Toà án cấp huyện.

Do đó, hoạt động xét xử ở một số Tòa án nhân dân cấp huyện chưa

thực sự độc lập, bị can thiệp, chi phối từ các cơ quan, người có thẩm quyền;

bộ máy tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện còn thiếu thống nhất, thiếu

đồng bộ; trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện còn có

sự đan xen, chồng chéo giữa quan hệ tố tụng và hành chính; công tác cán bộ

và các điều kiện cơ sở vật chất chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của

Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay.

Hai là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với TAND cấp trên.

Với tư cách là một trong các cấp Tòa án theo địa giới hành chính (cấp

huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương) và theo hai cấp theo thẩm quyền xét xử

(sơ thẩm, phúc thẩm), TAND cấp huyện là một trong các cơ quan tư pháp ở

cấp huyện (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án). Về mặt tổ chức

TAND cấp huyện có vị trí như là cơ quan "cấp dưới' trực tiếp của TAND cấp

tỉnh. Chánh án TAND tỉnh có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

các chức vụ trong TAND cấp huyện trừ Thẩm phán; Quyết định điều động,

luân chuyển, biệt phái Thẩm phán cấp huyện theo quy định; đề nghị, lập hồ sơ

báo cáo lên Chánh án TAND Tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án cấp huyện; tổ chức bồi dưỡng

nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án nhân

dân cấp huyện . Sử dụng cán bộ và tổ chức, bố trí công tác phù hợp trong đơn

vị cho cán bộ đã được tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ.

35

Toà án nhân dân cấp huyện có mối quan hệ tố tụng và quan hệ hành

chính với Toà án nhân dân cấp trên. Bản án, quyết định của Toà án nhân dân

cấp huyện có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án phúc thẩm (cấp tỉnh) sẽ xét xử theo thủ tục

phúc thẩm; Toà án cấp có thẩm quyền sẽ xét xử, giải quyết theo thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm. Đây là điểm mới trong thủ tục giám đốc thẩm, thể hiện ở

chỗ Toà án cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với

bản án, quyết định của Toà án cấp huyện.

Ngoài quan hệ tố tụng, giữa Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án cấp

trên có mối quan hệ về hành chính, tổ chức. Đó là chịu sự chỉ đạo của Toà án

cấp trên về các vấn đề tổ chức nhân sự; báo cáo thống kê, xét xử; dự toán,

quyết toán kinh phí hoạt động. Về nguyên tắc, cơ quan cấp bộ nào được

Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về chuyên môn nghiệp vụ

thì cơ quan đó thực hiện việc quản lý về tổ chức, nhân sự các đơn vị thuộc

ngành mình phụ trách, bảo đảm đánhgiá được đúng đắn về phẩm chất, đạo

đức và năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức trong ngành.

Ba là: Mối quan hệ giữa TAND cấp huyện với cơ quan truyền thông:

Truyền thông có vai trò quan trọng trong hoạt động mọi mặt của đời sống. Là

nguồn của thông tin, truyền thông đóng góp tích cực vào việc kiểm tra, giám

sát hoạt động của cơ quan công quyền, trong đó có hệ thống Toà án. Thông

qua truyền thông, công chúng sẽ biết được về các hoạt động của hệ thống Toà

án, hiểu biết về quá trình đi đến các quyết định pháp lý, để từ đó tôn trọng,

tâm phục, khẩu phục đối với mỗi phán quyết của Toà án, tạo ra niềm tin vào

công lý. Đối với phần lớn dân chúng, mối liên hệ chủ yếu của họ với hoạt

động của Toà án là thông qua tin tức của các phương tiện thông tin đại chúng.

Chính vì vậy, truyền thông – mặc dù không phải là phương tiện duy nhất –

36

nhưng đóng vai trò quan trọng, là nguồn tin tức và bình luận chủ yếu gây ảnh

hưởng lớn nhất đối với các tầng lớp nhân dân về hệ thống Toà án.

Thông tin về các quy định của pháp luật, về hoạt động tố tụng và các

tin tức liên quan đến hoạt động của Toà án được các phương tiện truyền thông

phổ biến chính xác, kịp thời và đầy đủ, sẽ là kênh truyền tải có hiệu quả nhất

để người dân tiếp cận pháp luật; nâng cao dân trí; qua đó tạo sự chuyển biến

cơ bản về ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; đồng thời,

người dân cũng biết thêm về tình hình tội phạm, các thủ đoạn phạm tội mới

để nâng cao ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình và phòng ngừa tội phạm. Để

phát huy hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phổ

biến, giáo dục pháp luật thì mối quan hệ giữa Toà án và truyền thông phải

tuân thủ một số nguyên tắc nhất định như: (1) Toà án phải minh bạch, công

khai các hoạt động theo quy định của pháp luật; (2) Toà án phải có trách

nhiệm và những biện pháp thích hợp để cung cấp thông tin chính xác, hoàn

chỉnh về các hoạt động của mình cho các cơ quan truyền thông; (3) Các cơ

quan truyền thông phải có được thông tin và sự giúp đỡ về mặt pháp lý trong

việc hiểu biết về cách thức, quy trình làm việc của Toà án và hiểu biết về

những vấn đề cụ thể liên quan đến tin tức được đưa, để công chúng hiểu rõ

công lý đã được thực thi và cơ sở của việc thực thi công lý.

Không nằm ngoài xu hướng chung trong tiến trình cải cách tư pháp,

tăng cường thông tin về các hoạt động của Tòa án là trọng tâm ưu tiên trong

quá trình cải cách tư pháp, để hướng tới một nền tư pháp tiến bộ, công khai,

minh bạch, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân.Để thực hiện được điều này,

không chỉ có trách nhiệm của Toà án, với tư cách là chủ thể công bố thông

tin, mà rất cần đến vai trò quan trọng của các cơ quan truyền thông. Các

phương tiện truyền thông đã luôn đồng hành cùng với quá trình xây dựng và

37

phát triển của hệ thống Toà án Việt Nam, không những là cầu nối giúp phổ

biến chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa thông tin về các hoạt động của

Toà án đến người dân, mà còn chuyển tải các phản ánh, ý kiến của người dân

đến Tòa án; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các Tòa án, trong đó

có việc khắc phục kịp thời những sai sót trong hoạt động nghiệp vụ để thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nhận thức được vai trò quan trọng của truyền thông trong tổ chức và

hoạt động, Tòa án nhân dân cấp huyện đã hưởng ứng việc Tòa án nhân dân tối

cao thành lập các cơ quan thông tin, báo chí của hệ thống Tòa án; đồng thời

thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền; nâng cao chất lượng thông tin

để phục vụ tốt các mặt hoạt động của Tòa án, đặc biệt là công tác xét xử. Các

đơn vị truyền thông của Tòa án đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ,

mục đích hoạt động của mình; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông

ngoài hệ thống thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về các hoạt động

của Tòa án.

Như vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì Toà án nhân

dân cấp huyện có vị trí độc lập chỉ là tương đối trong bộ máy Nhà nước cũng

như trong hệ thống cơ quan xét xử của nước ta. Sự phụ thuộc của TAND cấp

huyện vào hệ thống các cơ quan này là tương đối lớn. Những đặc điểm về vị

trí của TAND cấp huyện trong bộ máy Nhà nước, trong hệ thống cơ quan xét

xử đã ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện, đặc biệt là phán quyết

của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc.

Chính vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và phát huy những kết

quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có ý nghĩa hết sức quan trọng,

38

góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm

minh, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân.

1.3.5. Yêu cầu đổi mới đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Trong thời gian qua, công tác đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

theo tinh thần cải cách tư pháp đã từng bước chuyển biến và đã đạt được

nhiều kết quả quan trọng, song chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách xu thế

chung. Do đó đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân nói chung và

việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện theo yêu

cầu cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công tác Tòa án nói chung và chất

lượng phục vụ người dân khi có việc yêu cầu Tòa án giải quyết nói riêng,

nhằm xây dựng Tòa án công khai, minh bạch, thân tiện, gần dân, phục vụ

nhân dân, vì vậy cần phải có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất

trong hoạt động của cả hệ thống các cơ quan nhà nước.

- Tòa án nhân dân cấp huyện phải được tổ chức theo thẩm quyền xét xử

trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm nâng cao năng lực xét xử, đáp ứng các

yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở nước ta;

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải đảm

bảo hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cấu tổ chức; bảo đảm điều kiện vật chất,

phương tiện làm việc để Tòa án thực hiện nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp; khi

xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; khắc phục

những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả xét xử; xây dựng

đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

tình hình mới.

39

- Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, từ đó nâng cao chất

lượng, kết quả của bản án, quyết định của tòa án.

Trên cơ sở các mục tiêu trên, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, cần nâng cao năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện được hiểu là khả năng thực

hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc theo thẩm quyền và các

nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp

huyện được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản là: Cơ cấu tổ chức bộ máy của

Tòa án nhân dân cấp huyện; trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân, công chức Tòa án; sự phối hợp giữa Tòa án nhân

dân cấp huyện với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có

liên quan; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

cấp huyện.

Hai là, phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân cấp huyện trong

hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật, theo đó

thông qua sự đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và đối chiếu với các

quy định của pháp luật, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đưa ra các bản án,

quyết định nhân danh Nhà nước. Bởi vậy, muốn có sự đánh giá, áp dụng đúng

pháp luật, khách quan thì Tòa án và các Thẩm phán phải có sự độc lập cả về tổ

chức và ý chí quyết định. Ở nhiều nước trên thế giới, yêu cầu bảo đảm sự độc

lập của Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định, trong đó chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Thẩm phán được quy định một cách rõ ràng, độc lập và

không lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành pháp. Sự phân định rõ ràng

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và đề cao sự độc

lập của Thẩm phán là điều kiện để Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử.

40

Việc quy định Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở

pháp lý quan trọng để Thẩm phán không phải chịu áp lực từ các cơ quan,

người có thẩm quyền, đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm

phán trong việc đảm bảo công lý. Chính vì vậy, để đảm bảo tính độc lập của

Thẩm phán, nhiều nước quy định Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời hoặc

với nhiệm kỳ đặc biệt cùng với những chế độ đãi ngộ tương xứng để đảm bảo

tính liêm chính của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Tính độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật của Thẩm phán ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến

pháp. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại khoản

2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức

TAND năm 2014 là: “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật”. Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan

trọng trong việc tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng. Điều này đòi hỏi các Tòa án

nhân dân cấp huyện phải được tổ chức độc lập với các cơ quan, tổ chức khác

tại địa phương; hoạt động xét xử không bị can thiệp trái pháp luật từ các cơ

quan, tổ chức, cá nhân và tiến tới nghiên cứu quy định việc bổ nhiệm Thẩm

phán với nhiệm kỳ lâu dài và chế độ đãi ngộ tương xứng để Thẩm phán yên

tâm, liêm chính thực hiện nhiệm vụ của mình.

Ba là: Bảo đảm tính giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân

dân. Đây là một yêu cầu quan trọng, tất yếu ở bất kỳ nhà nước nào, bởi vì, về

bản chất quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nên hoạt động của Tòa án

đòi hỏi có sự giám sát từ các thiết chế của nhân dân. Giám sát là một biện

pháp đảm bảo cho Tòa án phải xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, nếu

Thẩm phán xét xử không đúng, các chủ thể giám sát sẽ có ý kiến, kiến nghị.

41

Cơ chế giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án là cơ chế dân chủ,

bởi vì hoạt động của Tòa án liên quan đến công lý, phán xét các quyền cơ bản

của con người (quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền sở hữu, sử dụng tài

sản của công dân…). Ở các nước, để đảm bảo tính dân chủ và giám sát hoạt

động xét xử của Tòa án, pháp luật có quy định sự tham gia của nhân dân

thông qua sự hiện diện của Bồi thẩm đoàn, Hội thẩm trong quá trình xét xử

cùng với Thẩm phán. Ở nước ta, tính nhân dân trong tổ chức và hoạt động của

Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định được quy định tại khoản 1 Điều

103 Hiến pháp năm 2013 và cũng được khẳng định tại Điều 8 Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014, theo đó thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có sự tham gia của Hội thẩm nhân

dân. Để đảm bảo tính khách quan, bình đẳng trong hoạt động xét xử, pháp

luật đã quy định, đảm bảo tính ngang quyền và độc lập của Hội thẩm nhân

dân với Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân cũng là người giám sát việc tuân thủ

các trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử tại phiên tòa.

42

Tóm tắt chương 1

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án và

những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:

Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền

lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa

án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực

hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm

bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát

trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành

chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn

nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết

các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp

Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ

án theo thẩm quyền.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực

hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần hướng tới các

mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa

án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với

hoạt động xét xử.

43

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

QUẢNG BÌNH THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm

1945 đến nay

Quảng Bình là một tỉnh nằm ở miền Trung đất nước, phía Bắc giáp tỉnh

Hà Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Làovà phía Đông giáp biển Đông, có diện tích 8.051,50km2.

Dân số Quảng Bình hiện nay có hơn 80 vạn người, trong đó đa số là người

dân tộc Kinh. Cùng chung sống với người kinh trên mảnh đất này còn có hai

dân tộc ít người anh em khác: Bru-Vân Kiều (nói ngôn ngữ Việt – Mường)

Trong hệ thống tổ chức Tòa án ở Quảng Bình, Tòa án nhân dân cấp

huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm.

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển, tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân có thể thấy rằng trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp huyện đã có những bước phát triển,

hoàn thiện và góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước ở tỉnh Quảng Bình.

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa được thành lập đã nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ

máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng Nhà nước của nhân

dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ

lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 33-C/SL thành lập các

44

Tòa án quân sự để xét xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có

phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên,

do yêu cầu cách mạng, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ban đầu mới chỉ

thiết lập các Tòa án quân sự để xét xử các vụ án hình sự mà chưa tổ chức

thành hệ thống Tòa án các cấp và xét xử các vụ án dân sự. Theo Điều 1 của

Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải

Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở

Nam bộ tại Sài Gòn và Mỹ Tho.

Trong tình hình chung, đến đầu năm 1946 ở Quảng Bình chưa có cơ

quan Tòa án, các hành vi phạm tội được quy định tại Sắc lệnh 33-C/SL ngày

13 tháng 9 năm 1945 đều do Tòa án quân sự Miền Trung đóng tại thành phố

Vinh xét xử, nhưng các việc dân sự tạm thời giao cho Ban Tư pháp trong các

ủy ban hành chính tỉnh và huyện đảm nhiệm.

Bước sang năm 1946, thực hiện Sắc lệnh số 13 của Chính phủ về việc

thành lập hệ thống tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán, tháng 3 năm 1946

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình được thành lập do ông Nguyễn Duy Xán

làm Chánh án, ông Nguyễn Đình Hàm làm biện lý và có một số thư ký giúp

việc. Tòa án sơ thẩm cấp huyện cũng nhanh chóng được thành lập, trụ sở

đóng bên cạnh ủy ban điều hành chính huyện. Tổ chức của Tòa án huyện lúc

này chỉ có một thẩm phán và một thư ký. Gồm có các Tòa án huyện Lệ Thủy,

huyện Quảng Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa.

Ngay sau khi thành lập Tòa án các cấp bắt tay vào hoạt động phục vụ Đảng,

chính quyền và nhân dân.

Năm 1947, thực hiện chủ trương của hội nghị Tỉnh ủy, ngành Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình được tiếp tục củng cố hoàn thiện tổ chức. thực hiện

thông tư của Ngành Tư pháp liên khu IV về tổ chức Tòa án trong tình hình

chiến tranh, nhằm phục vụ tốt hơn nữa công cuộc kháng chiến. Thi hành

45

thông lệnh, Tòa án Quảng Bình chia làm hai phân hạt: phân hạt Nam và phân

hạt Bắc.

Từ năm 1950 đến 1954 ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình được tổ

chức theo mô hình Tòa án nhân dân vùng bị tạm chiến theo Sắc lệnh 157/SL

ngày 11 tháng 7 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Năm 1952 Tổ chức Tòa án liên huyện được tách ra,thành lập lại Tòa án

các huyện như trước. Tổ chức Tòa án các huyện Tuyên Hóa, Quảng Trạch,

Quảng Ninh, Lệ Thủy về lại vị trí tiếp tục được cũng cố và xây dựng để nhanh

chóng đáp ứng với cuộc kháng chiến. Do hình thái chiến tranh “Cài răng

lược” do đó cán bộ ngành Tòa án phải luồn lách qua hệ thống các đồn bốt

địch để mở phiên tòa ban đêm ngay vùng căn cứ du kích để xét xử. Ngoài ra

ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã chú ý củng cố kiện toàn mạng

lưới tư pháp và tổ hòa giải, chỉ đạo ban tư pháp xã thực hiện các nhiệm vụ

như hòa giải các vụ dân sự, thương sự.

Năm 1954, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời kỳ có nhiều diễn

biến phức tạp, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh tạm thời coi như là một tòa

án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình. Đồng chí Hoàng Văn Phòng - Thẩm

phán Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) được bổ nhiệm làm

Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Ninh. Như vậy Tòa án nhân dân

huyện Vĩnh Linh cùng với các Tòa án nhân dân huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhanh chóng đổi hướng tư

tưởng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo về chính quyền,bảo vệ

cuộc sống của hòa bình của nhân dân [43].

2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980

Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến

pháp mới của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (công bố ngày 01/01/1960)

nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là xây dựng chủ

46

nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp 1959

đã xác định lại vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân

dân trong bộ máy nhà nước, theo đó hai hệ thống cơ quan này không thuộc

Hội đồng Chính phủ mà trực tiếp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật

tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và ngày 23/3/1961, Uỷ ban thường

vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án

nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương. Theo quy

định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp huyện ở Quảng Bình trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5

năm lần thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc luôn gắn chặt công

tác ngành vào nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân nhằm phục vụ tốt

yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống mới, con

người mới xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc phòng. Đúc rút kinh

nghiệm và phát huy những thành quả những năm trước đây.

Tháng 6 năm 1976, thực hiện quyết định của Quốc hội và Tòa án nhân

dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập. Ngay sau

khi thành lập, lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã xác định phải

đẩy mạnh 3 nội dung công tác cấp bách, trong đó có nội dung nhanh chóng ổn

định bộ máy ngành Tòa án, đặc biệt là cấp huyện và thị xã, nâng cao trình độ

chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo khả năng xét xử đúng

pháp luật, xét xử kịp thời các vụ án theo phân cấp quản lý. Mặc dù còn nhiều

khó khăn về đào tạo bổ sung cán bộ và thiếu thốn nghiêm trọng về cơ sở vật

chất nhưng với sự quan tâm chỉ đạo của Tòa án nhân dân Tối cao, của lãnh

đạo tỉnh Bình trị Thiên nên chỉ trong vòng một năm, hệ thống tổ chức Tòa án

14 huyện, thị xã, thành phố Huế đã được tăng cường một bước và đủ khả

47

năng xét xử các vụ án theo phân cấp. Riêng địa bàn Quảng Bình, hệ thống

Tòa án cấp huyện và thị xã có rất nhiều truyền thống kinh nghiệm hoạt động

hàng chục năm nhưng với nhiều lý do như phải điều chuyển chi viện cán bộ

cho miền Nam, hoặc tăng cường cho Tòa án cấp tỉnh. Vì vậy, cơ sở tổ chức

Tòa án cấp huyện, thị xã có ổn định hơn so với khu vực mới giải phóng

nhưng đội ngủ cán bộ vẫn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là thiếu cán bộ được

đào tạo chính quy về pháp luật. Trước tình hình đó, Tòa án nhân dân tỉnh đề

nghị tỉnh điều chuyển cho một số cán bộ có kinh nghiệm và quá trình công

tác, có một ít hiểu biết về kiến thức pháp luật tăng cường cho ngành Tòa án,

đồng thời gửi một số cán bộ trẻ theo học các lớp bồi dưỡng ngắn ngày do Tòa

án nhân dân tối cao tổ chức, tiếp nhận một số cán bộ được đào tạo chính quy

tại trường đại học Luật về công tác. Ngoài công tác xét xử thì công tác thi

hành án cũng được quan tâm chú trọngnhằm đảm bảo hiệu lực của việc xét

xử. Trong những năm 1977 – 1978 các Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã ở

Quảng Bình, nhờ kiện toàn về tố chức và chấn chỉnh lề lối làm việc, đi đôi với

việc kiểm tra, tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng nghiệp vụ nên hoạt động thi

hành án đã đi vào nề nếp. Trong hoạt động của Tòa án cấp huyện đã hạn chế

được tình trạng thụ động, mà có những hình thức tích cực hơn, có chiều sâu

hơn như: Tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ nhân dân, xây dựng tổ

chức tư pháp ở cơ sở để kịp thời xử lý như vi phạm nhỏ nhặt, kịp thời hòa giải

những vụ kiện dân sự, hôn nhân gia đình để hàn gắn đoàn kết và nghĩa vụ gia

đình, nghĩa vụ công dân; thực hiện ủy thác và mệnh lệnh của Tòa án. Có thể

nói, trong điều kiện có nhiều biến động từ hoàn cảnh chiến tranh sang thời

bình, Tòa án nhân dân cấp huyện ở Quảng Bình đã chuyển hướng công tác

kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới [43].

48

2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992

Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống

nhất - Hiến pháp 1980. Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về Tòa án

nhân dân tiếp tục được kế thừa và phát triển từ các quy định của Hiến pháp

năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Các quy định của

Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được cụ

thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03/7/1981 và được sửa đổi, bổ sung

theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988.

Sau khi có luật tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Bình đã rà soát lại đội ngũ cán bộ công chức, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ

để xây dựng bộ máy tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Theo chủ

trương thì đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tỉnh và các huyện được

chọn lọc và bồi dưỡng nghiệp vụ để đảm bảo “vừa hồng, vừa chuyên”. Tuy

được đào tạo, bồi dưỡng nhưng hầu hết chỉ qua lớp cấp tốc, ngắn hạn nên

chưa có nghiệp vụ chuyên sâu. Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh

chuyển vào Huế, việc nắm bắt thông tin cuả nước cũng như cuả tỉnh khó

khăn, ít nhạy cảm. Sự chỉ đạo của cấp trên cũng thiếu thường xuyên nên hoạt

động của Tòa án huyện ở địa bàn Quảng Bình có nhiều mặt lúng túng và ít

nhiều có hạn chế.

Sau gần 14 năm sát nhập thành tỉnh Bình Trị Thiên, nhưng đặc điểm tự

nhiên của Bình Trị Thiên một tỉnh hẹp và dài, điều kiện kinh tế xã hội không

thống nhất giữa hai vùng Nam Bắc v.v. nên Quốc Hội khóa V (họp tại Hà Nội

từ ngày 19 đến 30/6/1989) đã ra Nghị quyết phân định lại địa giới hành chính,

chia lại thành ba tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên Huế. Ngày

49

11/7/1989 Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 155/QĐ-QLTA thành lập Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ngày đầu thành

lập có 13 cán bộ công nhân viên được chuyển từ Tòa án Bình Trị Thiên ra và

trong đó có tuyển dụng thêm 5 cán bộ, 6 Thẩm phán. Bà Nguyễn Thị Hướng

làm Chánh án, ông Phạm Xuân Sơn làm Phó chánh án. Cùng với chấn chỉnh

Tòa án tỉnh, lãnh đạo Tòa án đã phối hợp với ngành Tư pháp chuẩn bị nhân sự

cho Tòa án cấp huyện theo đúng tinh thần Thông tư267 (14/8/1989) của Bộ tư

pháp. Hệ thống Tòa án cấp huyện được bầu lại với 23 Thẩm phán và 112 Hội

thẩm nhân dân. Thực hiện Chỉ thị 135 và Quyết định 240 của Chủ tịch Hội

đồng bộ trưởng, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh đã kịp thời chỉ đạo

các Tòa án nhân dân huyện, thị xã phối hợp tích cực với các cơ quan khối nội

chính đẩy nhanh tốc độ điều tra, truy tố, đưa ra xét xử kịp thời và kiên quyết

trừng trị thích đáng bọn tội phạm [43].

2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002

Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên

cứu,xây dựng Hiến pháp năm 1992. Trước những yêu cầu thực hiện công

cuộc đổi mới, mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 1980 dựa trên

cơ chế quản lý nhà nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp không

còn phù hợp. Vì vậy, kế thừa các quy định của Hiến pháp 1980, Hiến pháp

1992 đã có những quy định thể hiện sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân.

Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án

nhân dân ngày 06/10/1992 và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi,

bổsung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội thông

qua ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã

thông qua Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự ngày 19/4/1993 và Pháp lệnh về

50

Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân ngày 14/5/1993. Theo các văn bản

pháp luật này thì tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được kiện toàn

và đổi mới một bước cơ bản. Nhìn chung nhiều quy định của Hiến pháp năm

1992 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được kế thừa các quy định

của Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên một số quy định của Hiến pháp năm 1992

về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của Tòa án

nhân dân nói riêng đã thể hiện rõ nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của các cơ quan này.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng như tình hình chung cả nước,

Ngành Tòa án có sự thay đổi đó là năm 1993 công tác Thi hành án dân sự

được chuyển sang Chính Phủ, nên hoạt động của ngành Tòa án nhân dân đi

vào chuyên sâu công tác xét xử và thi hành án phạt tù, vì thế công tác tổ chức

cán bộ có một số điều chỉnh. Biên chế cán bộ khi chưa chia tách là 84 cán bộ,

sau khi bàn giao cán bộ sang làm công tác Thi hành án dân sự 17 cán bộ, còn

lại 67 cán bộ (tỉnh 26 cán bộ, huyện thị 41 cán bộ).

Tháng 4/1994 (năm triển khai thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân

sửa đổi: chế độ Thẩm phán bầu thay đổi bằng chế độ do Chủ tịch nước bổ

nhiệm) Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ nhiệm 12

Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, 24 Thẩm phán cho 7 Tòa án nhân dân cấp

huyện, thị. Việc bổ nhiệm kịp thời này đã triển khai kịp thời, các nhiệm vụ

công tác của Tòa án. Công tác xét xử các loại án có những chuyển biến tích

cực hơn, tốc độ giải quyết nhanh và kịp thời, có nhiều đơn vị cấp huyện giải

quyết đạt 100% chỉ tiêu.

Trong việc quản lý tổ chức và cán bộ đối với các đơn vị Tòa án cấp

huyện, sự phối hợp giữa lãnh đạo hai ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

và Sở Tư pháp ngày càng chặt chẽ. Các khâu phân bổ biên chế, tuyển dụng,

sắp xếp bố trí thuyên chuyển công tác, đề bạt, nâng lương, cử đi đào tạo đều

51

có sự bàn bạc, thống nhất. Đối với những đơn vị yếu hoặc thiếu Thẩm phán,

lãnh đạo hai ngành đã có biện pháp hỗ trợ chuyên môn nhằm giúp đỡ đơn vị

hoàn thành nhiệm vụ.

Năm 1996, thực hiện Luật bổ sung sửa đổi một số điều của Luật tổ

chức Tòa án nhân dân, ngành đã cử 17 cán bộ, trong đó có 5 cán bộ cấp huyện

theo học các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về nghiệp vụ hành chính, lao

động do Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao triệu tập. Về công tác cán bộ,

trong năm, cấp huyện có 18/22 cán bộ có bằng Đại học, Cao đẳng pháp lý.

Các Hội thẩm nhân dân cấp huyện đã được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ

và các chuyên đề cần thiết.

Với diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm cuối năm 1999 đầu năm

2000, các Tòa án đã bám sát nhiệm vụ chính trị địa phương và phương hướng

hoạt động của ngành đã được Hội nghị triển khai công tác ngành Tòa án tỉnh

Quảng Bình năm 2000 đề ra đầu năm, chủ động tích cực đẩy mạnh các hoạt

động xét xử, vì vậy đã đạt được những kết quả tích cực như Tòa án nhân dân

huyện Lệ Thủy là 95%, Tòa án nhân dân thị xã Đồng Hới là 85%. Chất lượng

xét xử nhìn chung là đảm bảo. Giữa năm 2000 công tác bổ nhiệm Thẩm phán

về cơ bản đã hoàn thành, Tòa án nhân dân tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp và

các cấp Đảng ủy tiếp tục kiện toàn về tổ chức bộ máy trong toàn ngành theo

tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 lần 2, trung ương 7 (khóa VIII) nhằm

nâng cao hiệu quả công tác và tiếp tục rà soát, có kế hoạch tuyển chọn bổ

sung thẩm phán cho các tòa án còn thiếu Thẩm phán [43].

2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014

Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng

và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu về đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được đề ra trong các nghị quyết, văn

kiện của Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần

52

thứ IX của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính

trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày

02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân mới thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 06/10/1992

đã được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Theo quy định

của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa

án nhân dân cấp huyện có những bước đổi mới và được quy định cụ thể hơn

nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử nói chung.

Ở Quảng Bình, sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 ra đời,

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được ban hành. Vào tháng

11/2002 sau khi nhận bàn giao về mặt quản lý và tổ chức từ Sở tư pháp thì

Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã khẩn trương rà soát đội

ngủ cán bộ, lên kế hoạch kiện toàn về tổ chức bộ máy. Về cơ bản đội ngũ cán

bộ lãnh đạo được giữ nguyên như trước khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2002 ra đời. Ở Tòa án nhân dân thị xã Đồng Hới (năm 2004 là thành phố

Đồng Hới) có một Chánh án và hai Phó chánh án. Các Tòa án nhân dân huyện

Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Minh Hóa, Tuyên Hóa đều có

một Chánh án và một Phó chánh án. Bộ phân giúp việc không mang tính

chuyên trách cao như Văn phòng Tòa án tỉnh mà mang tính kiêm nhiệm. Bộ

phận giúp việc này cũng gọi là Văn phòng Tòa án nhân dân cấp huyện, do

một Phó chánh án phụ trách và các thành viên khác đảm nhiệm các công việc

như kế toán, thủ quỹ, báo cáo thống kê, văn thư lưu trữ. Sau khi Tòa án nhân

dân Tối cao có Công văn số 53/TCCB ngày 25/3/2003 quy định về văn phòng

Tòa án nhân dân cấp huyện, Văn phòng 7 Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh được

thành lập. Việc thành lập này đã giúp cho các hoạt động mang tính văn phòng

của các Tòa án cấp huyện được nề nếp hơn. Việc bổ nhiệm Thẩm phán của

53

Tòa án nhân dân cấp huyện cũng như cấp tỉnh phải thông qua Hội đồng tuyển

chọn thẩm phán, sau đó hồ sơ mới được chuyển lên Chánh án Tòa án nhân

dân Tối cao xem xét bổ nhiệm. Trong thời gian 8 năm (từ 2003 đến 2010)

toàn tỉnh được bổ nhiệm hơn 80 lượt Thẩm phán Tòa án nhân dân hai cấp.

Cuối năm 2005, có 4 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện là Đồng Hới,

Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Thủy được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết

định cho phép tăng thẩm quyền về xét xử hình sự và thực hiện thẩm quyền

mới về xét xử dân sự theo Điều 33 BLTTDS năm 2004. Như vậy mặc dù là

Tòa án cấp huyện nhưng được chia thành hai loại, loại thứ nhất là 4 đơn vị

cấp huyện nói trên, loại thứ hai là Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, Quảng

Ninh, Tuyên Hóa chưa được thực hiện thẩm quyền xét xử theo Điều 170

BLTTHS và Điều 33 BLTTDS.

Từ khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, Tòa án nhân dân

cấp huyện thụ lý và giải quyết các loại án theo đúng thẩm quyền. Nhìn chung

các vụ án đều được thụ lý và xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, coi trọng

tranh tụng, đảm bảo dân chủ, công bằng trước pháp luật, bảo vệ lợi ích chính

đáng của công dân. Tòa án nhân dân cấp huyện đã thực hiện tốt quy chế phối

hợp giữa 3 ngành: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong xác định án trọng

điểm. Việc áp dụng đề án phiên tòa mẫu về nâng cao tranh tụng tại phiên tòa

và chất lượng bản án theo yêu cầu của Nghị quyết 08- NQ/TW. Các yêu cầu

cải cách tư pháp, hướng dẫn của liên ngành cấp trên và của Tòa án nhân dân

tối cao đã được vận dụng có hiệu quả. Cũng nhờ đó mà nhiều loại tội phạm

giảm rõ rệt. Việc vận dụng cải cách tư pháp vào công cuộc xét xử không

những làm tăng thêm chất lượng thụ lý vụ án mà còn tạo sự thông suốt, dân

chủ, công bằng, thực sự cầu thị, giảm đáng kể sai sót, tạo lòng tin cho nhân

dân.

54

Do nhận thức đúng tầm quan trọng của nghị quyết số 08-NQ/TƯ và

Nghị quyết số 49-NQ/TW đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác

xét xử đồng thời để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và mục tiêu nhiệm

vụ cải cách tư pháp, bước vào giai đoạn 2006 – 2010, Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu công tác.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các Tòa án huyện, thành phố đã được kiện toàn, bổ

sung, đảm bảo yêu cầu công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tại các đơn vị.

Việc xem xét bổ nhiệm Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo, tuyển dụng cán bộ công

chức tạo nguồn thẩm phán có nhiều tiến bộ, từng bước đảm bảo biên chế

Thẩm phán, cán bộ công chức theo biên chế đã được Tòa án nhân dân tối cao

phân bổ, phê duyệt. Về Hội thẩm nhân dân trong gia đoạn này, ở cấp huyện

có 117 vị Hội thẩm nhân dân, đa số là các cán bộ chủ chốt đại diện các ban

ngành đoàn thể ở huyện và thành phố, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh

chính trị vững vàng, phần lớn có trình độ đại học và hàng năm được tham gia

tập huấn nghiệp vụ xét xử, do vậy khi tham gia Hội đồng xét xử đã thể hiện rõ

vai trò, bản lĩnh, độc lập, khách quan, đảm bảo công bằng v.v.

Đến tháng 6/2009 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã hoàn thành việc tăng

thẩm quyền xét xử cho tất cả 7/7 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện đúng thời

gian Quốc hội và Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương quy định. Sau khi

được tăng thẩm quyền, nhằm khắc phục tình hình thiếu cán bộ, Thẩm phán,

việc tuyển chọn cán bộ mới, nâng cao trình độ về trình độ chuyên môn cũng

như trình độ về lý luận, đồng thời công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán

bộ để lựa chọn bổ nhiệm cũng được quan tâm. Với những biện pháp thực hiện

tích cực, đến cuối năm 2010 số lượng cán bộ đã bố trí theo đủ biên chế, chất

lượng đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử và bước đầu đáp ứng được yêu

cầu cải cách tư pháp, đặc biệt đội ngũ Thẩm phán dần được trẻ hóa, được học

tập chính quy, có tâm huyết với nghề và có nguyện vọng được cống hiến lâu

55

dài trong ngành Tòa án. Về cơ sở vật chất, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết

49NQ/TW, kinh phí cấp phát cho các hoạt động của Tòa án được tăng cường

bổ sung, đảm bảo cho việc triển khai kịp thời các hoạt động tại các Tòa án

nhất là hoạt động xét xử. Như xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị máy

tính, máy photocopy, điện thoại, máy fax, xe công vụ, hệ thống điều hòa,

camera giáp sát .v.v. Về hoạt động xét xử, đảm bảo, kịp thời, không để án tồn

động, chất lượng phiên toà và chất lượng bản án được nâng lên và đảm bảo

tính đúng đắn, chính xác hơn. Một số khuyết điểm, sai sót đã để xảy ra thời

gian trước đây trong định tội danh, cá thể hóa hành phạt, áp dụng điều luật,

chưa tuân thủ các quy định đầy đủ của pháp luật tố tụng cơ bản đã được khắc

phục [43].

Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có

sự thay đổi về địa giới hành chính, năm 2013 tăng 01 Tòa án nhân dân cấp

huyện đó là Tòa án Thị xã Ba Đồn được tách ra từ TAND huyện Quảng

Trạch. Vì vậy TAND cấp huyện trên địa bàn có 8 đơn vị. Về tổng số lượng

cán bộ có: 76, Thẩm phán có: 26. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý

luận chính trị, 100% Thẩm phán cấp huyện có trình độ cử nhân luật; Tỷ lệ

Thẩm phán, cán bộ có trình độ thạc sỹ được tăng lên. Về phẩm chất đạo đức,

100% Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là Đảng viên, đa số đáp ứng yêu

cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên theo

quy định. Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử tại thời điểm quy định

đối với Toà án cấp huyện trên địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử

với tỷ lệ gia tăng án hàng năm thì số lượng cán bộ, thẩm phán của từng đơn vị

chưa đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ

dừng ở việc thiếu số lượng mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của

đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng

cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ

56

Thẩm phán về nhiều mặt còn nhiều hạn chế, trong khi đó đã bắt đầu phát sinh

nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao

động đặc biệt các loại án về tăng thẩm quyền.

Về cơ sở vật chất của các Toà án, do trong thời gian dài không được

quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính cấp huyện

nên trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Toà án cấp huyện còn

thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng

trụ sở mà phải sử dụng chung trụ sở như TAND huyện Quảng Trạch và

TAND thị xã Ba Đồn gây khó khăn, nhầm lẫn cho người dân. Có những trụ

sở mô hình đã cũ, thiết kế cho ít biên chế nhưng khi tăng thẩm quyền thì trụ

sở không còn đáp ứng được với biên chế, số lượng công việc như TAND

thành phố Đồng Hới. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động,

chế độ chính sách đối với Toà án được cấp như định mức đối với cơ quan

hành chính sự nghiệp chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác

xét xử, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Toà án.

Về hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân cấp huyện, trong những

năm này, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên

tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc

của các Tòa án ngày càng quá tải [34].

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014

Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, là

một trong văn bản luật được ban hành sớm nhất để cụ thể hóa các nguyên tắc,

các qui định của Hiến pháp năm 2013, là một trong những đạo luật quan trọng

về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội thông qua theo tinh thần Hiến

pháp mới; thể chế hóa các quan điểm lớn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta về

57

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa các quy định của Hiến

pháp về quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,

dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được

tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng

để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của TAND, bảo đảm

Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con

người. Luật cũng đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so với Luật Tổ chức

TAND năm 2002, từ phạm vi điều chỉnh, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của TAND; các nguyên tắc tổ chức hoạt động, tổ chức bộ máy của TAND;

thẩm quyền của từng cấp Tòa án; chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán;

chế độ bầu (cử) Hội thẩm; nhiệm vụ của Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; các

quy định bảo đảm hoạt động của Tòa án.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được ban hành trên nền tảng

của nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối

hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp” từ đó chi tiết hóa trong tổ chức và hoạt động của

Hệ thống Tòa án nhân dân.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt

trong bối cảnh hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá đầu tiên

hướng đến một Hệ thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ

bản được quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc

mới quan trọng như nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử;

nguyên tắc suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất

đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được ghi nhận tại các văn

kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải

58

cách tư pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm

quyền xét xử” (Điều 5).

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức,

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có những bước đổi mới và được

quy định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.

- Về tổ chức:

Theo quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu

tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện được cơ cấu như sau:

+ Tòa án nhân dân cấp huyện có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa

gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần

thiết, Ủy ban thường vụ Quốc Hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách

khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương,

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.

+ Bộ máy giúp việc.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc Tòa án nhân dân huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Theo Quyết định số: 345/2016/QĐ-

CA, ngày 07 tháng 04 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, tại

Điều 5 quy định: Bộ máy giúp việc của các Tòa án nhân dân cấp huyện là

Văn phòng. Văn phòng Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh Văn phòng, 01

Phó Chánh Văn phòng, các công chức và người lao động khác.

+ Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa,

Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án,

công chức khác và người lao động.

59

- Về chức năng, nhiệm vụ cụ thể:

+ Tòa án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ, xét xử sơ thẩm các vụ án

theo quy định của pháp luật, giải quyết các việc khác theo quy định của pháp

+ Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp huyện là Văn phòng (gồm

luật.

công chức và người lao động), có nhiệm vụ giúp Chánh án Tòa án nhân dân

cấp huyện thực hiện các công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu, công tác

kế toán - quản trị, bảo vệ; đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của

Tòa án nhân dân cấp huyện; Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi

kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp

huyện; Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc phân

công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền; Giúp Chánh án

Tòa án nhân dân cấp huyện tổ chức công tác xét xử; tổ chức công tác tiếp

công dân theo quy định của pháp luật; Thực hiện công tác thống kê, tổng hợp

tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện; giúp Chánh án Tòa án

nhân dân cấp huyện xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp

huyện để báo cáo Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp huyện và

các cơ quan hữu quan khác; Thực hiện công tác theo dõi thi hành án theo quy

định của pháp luật; Làm đầu mối thực hiện công việc rà soát, tra cứu, xác

minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư

pháp; Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp huyện.

+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân dân

Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, có nhiệm kỳ 5 năm kể từ khi bổ

nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ

chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

60

theo pháp luật; Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có thẩm quyền

theo luật định và Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải quyết việc

khác theo quy định của pháp luật.

+ Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân

dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, có nhiệm kỳ 5 năm kể từ khi

bổ nhiệm, có nhiệm vụ, quyền hạn giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự

phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được

Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách

nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao. Thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn theo quy định của luật tố tụng.

+ Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện gồm có Thẩm phán Trung cấp

và Thẩm phán sơ cấp có nhiệm vụ: bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,

góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu

tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Xét xử các vụ án

hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,

hành chính và giải quyết các việc khác theo sự phân công; xem xét đầy đủ,

khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình

tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc

không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp,

quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Khi thực hiện

nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, có quyền: Xem xét, kết luận về tính hợp pháp

của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc

61

hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; Xem xét, kết luận

về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên,

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những

người tham gia tố tụng khác cung cấp; Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu

cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu,

chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và

những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên

tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; Ra quyết

định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự; Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện

các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng. Xử lý vi phạm hành chính;

xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công

dân theo quy định của pháp luật. Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong

xét xử.

+ Thư ký Tòa án nhân dân cấp huyện có ngạch Thư ký viên, Thư ký

viên chính, có nhiệm vụ, quyền hạn: Làm Thư ký phiên tòa, tiến hành các

hoạt động tố tụng theo quy định của luật tố tụng; Thực hiện nhiệm vụ hành

chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án.

Thư ký Tòa án chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về

việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

+ Thẩm tra viên Tòa án nhân dân cấp huyện có ngạch Thẩm tra viên,

Thẩm tra viên chính, có nhiệm vụ quyền hạn: Thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà

bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của

Chánh án Tòa án; Kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra với

62

Chánh án Tòa án; Thẩm tra viên về thi hành án giúp Chánh án Tòa án thực

hiện các nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án;

Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Thẩm

tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về việc

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật

thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách

nhiệm hình sự theo quy định của luật.

- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện:

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 tiếp tục quy định cụ thể về các

nguyên tắc như xét xử có hội thẩm tham gia, nguyên tắc thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc

bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của

đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.

Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; Tòa

án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm; bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; bản án,

quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp

luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị

kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được chuyển lên Tòa án cấp trên có

thẩm quyền xét xử phúc thẩm.

- Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tiêu

chuẩn chung để được bổ nhiệm Thẩm phán và bầu làm Hội thẩm nhân dân

như sau:

+ Tiêu chuẩn Thẩm phán: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ

quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất

đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên

63

quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có trình độ cử nhân luật trở

lên. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử. Có thời gian làm công tác thực tiễn

pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

+ Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân: Là công dân Việt Nam, trung thành

với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có

phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng

đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết

và trung thực. Có kiến thức pháp luật. Có hiểu biết xã hội. Có sức khỏe bảo

đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (gồm có Thẩm phán sơ

cấp và Thẩm phán Trung cấp) theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân

dân năm 2014 cụ thể như sau:

+ Thẩm phán Sơ cấp: Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu trên

và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm

Thẩm phán sơ cấp:

 Có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên

 Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc

thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;

 Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán sơ cấp.

+ Thẩm phán Trung cấp: Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu

trên và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm

Thẩm phán trung cấp:

 Đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên;

 Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc

thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;

 Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp.

64

Trường hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, người chưa là

Thẩm phán sơ cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể được tuyển

chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp:Đã có thời gian làm công tác pháp

luật từ 13 năm trở lên. Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những

việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng. Đã

trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào ngạch Thẩm phán trung cấp.

Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:

+ Trách nhiệm của Thẩm phán: Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu

chấp hành Hiến pháp và pháp luật.Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân

dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của

nhân dân.Độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành

quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa

án.Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật.Học

tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn

nghiệp vụ Tòa án.Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật

thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách

nhiệm hình sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện

nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có

trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.

+ Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân: Trung thành với Tổ quốc,

gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tham gia xét xử theo sự phân

công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do

chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Độc lập, vô tư, khách quan trong

xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

65

hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tôn trọng nhân dân và chịu sự

giám sát của nhân dân.Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định

của pháp luật. Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ

xét xử. Chấp hành nội quy, quy chế của Tòa án.Chịu trách nhiệm trước pháp

luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm

pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.Hội thẩm trong khi

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội

thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội

thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của

pháp luật.

Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm

phán không được làm những việc sau:

Những việc pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm. Tư

vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho

việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp

luật. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh

hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án. Đem hồ

sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm

vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Tiếp bị

cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm

quyền giải quyết không đúng nơi quy định.

Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán:

Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm

phán. Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm

nhiệm vụ. Thẩm phán được bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; được bảo vệ

khi thi hành công vụ và trong trường hợp cần thiết. Thẩm phán được đào tạo,

66

bồi dưỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án. Nghiêm cấm các hành vi

cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của

Thẩm phán và thân nhân của Thẩm phán. Thẩm phán được tôn vinh và khen

thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Chế độ tiền

lương, phụ cấp; mẫu trang phục, cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng

minh Thẩm phán do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Như vậy, nghiên cứu các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014 có thể nhận thấy một số điểm mới cơ bản sau đây:

- Bổ sung quy định về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu

Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm.

- Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và

các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân

địa phương và Bộ Quốc phòng.

- Bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh

án, các Tòa án nhân dân địa phương. Thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch

nước bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức. Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên do

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc

Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động của

Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh với lý do bảo đảm cho Ủy ban

Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm những Thẩm phán có năng lực để

thực hiện tốt nhiệm vụ

67

- Bổ sung quy định về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán,

Hội thẩm; quy định về mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các cơ

quan, tổ chức và công dân.

Điểm mới về cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa án

nhân dân cấp huyện có Bộ máy giúp việc, có thể thành lập Tòa hình sự, Tòa

dân sự, tòa gia đình và người chưa thành niên, tòa xử lý hành chính. Trường

hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên

trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. (đây là điểm

hoàn toàn mới so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002).Về chức danh

có thêm chức danh Thẩm tra viên, quyền hạn, nhiệm vụ là thẩm tra hồ sơ các

vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự

phân công của Chánh án Tòa án… (Điều 93 Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014). Theo Hiến pháp năm 2013, thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch

nước bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức. Điều này càng nâng cao vị thế của

Thẩm phán và tạo điều kiện bảo đảm tính độc lập cao hơn của thẩm phán

trong quá trình xét xử. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 qui định cụ

thể thêm như sau: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễm nhiệm,

cách chức Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện (trong số các

thẩm phán Tòa án đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm).

2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp

2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình.

Hiện nay, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình có 08 đơn vị Toà án nhân

dân cấp huyện với tổng số 82 biên chế công chức và có 20 hợp đồng lao động

68

theo Nghị định 68 của Chính phủ làm các công việc bảo vệ, tạp vụ và lái

xe.Cụ thể:

- Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới có tổng số cán bộ công chức,

viên chức là: 19 cán bộ. Gồm: 03 Thẩm phán trung cấp (một Chánh án và 02

Phó chánh án), 04 Thẩm phán sơ cấp, 07 Thư ký và 05 người lao động khác.

Về trình độ chuyên môn 16/19 đồng chí có trình độ cử nhân, 03 đồng chí có

trình độ cao cấp chính trị, 03 đồng chí có trình độ Thạc sỹ Luật và có 03 đồng

chí đang học cao học.

- Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh có tổng số cán bộ công chức,

viên chức là: 11 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp (Chánh án), 02 Thẩm

phán sơ cấp, 04 Thư ký, 01 Thẩm tra viên và 03 người lao động khác. Về

trình độ chuyên môn 09/11 đồng chí có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình

độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí đang học cao học.

- Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 14 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán trung cấp (01 Chánh án và 01 Phó

chánh án), 03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký và 04 người lao động khác. Về

trình độ chuyên môn 11/14 đồng chí có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình

độ cao cấp chính trị, 02 đồng chí có trình độ Thạc sỹ Luật và có 01 đồng chí

đang học cao học.

- Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 16 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp, 04 Thẩm phán sơ cấp, 07

Thư ký và 04 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 13/16 đồng chí

có trình độ cử nhân, 01 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, có 02 đồng chí

đang học cao học.

- Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 13 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán trung cấp, 01 Thẩm phán sơ cấp, 05

Thư ký và 05 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 10/13 đồng chí

69

có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí có

trình độ Thạc sỹ Luật và có 02 đồng chí đang học cao học

Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 10 cán bộ. Gồm: 01 Thẩm phán trung cấp, 02 Thẩm phán sơ cấp, 04

Thư ký và 03 người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 08/10 đồng chí

có trình độ cử nhân, 02 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 02 đồng chí

đang học cao học

- Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 10 cán bộ. Gồm: 02 Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký và 04 người lao

động khác. Về trình độ chuyên môn 07/10 đồng chí có trình độ cử nhân, 01

đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 01 đồng chí đang học cao học.

- Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa có tổng số cán bộ công chức, viên

chức là: 11 cán bộ. Gồm: 03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký và 03 người lao

động khác. Về trình độ chuyên môn 09/11 đồng chí có trình độ cử nhân, 01

đồng chí có trình độ cao cấp chính trị.

Nhìn chung, cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân các huyện trên địa bàn

đều có một Chánh án và một Phó chánh án, riêng Tòa án nhân dân thành phố

Đồng có hai Phó chánh án. Hầu hết các chức danh lãnh đạo Tòa án cấp huyện

đều là Thẩm phán Trung cấp, chỉ một số vị trí do chưa đủ số lượng án hoặc

chưa đủ thời gian trong thời gian giữ chức vụ nên chưa đủ điều kiện để bổ

nhiệm theo chức danh. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị

của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện 100% có trình độ cử nhân luật;

80% Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ cử nhân chính trị

hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Tòa

án nhân dân cấp huyện là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đa số đáp ứng

yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, Đảng viên

theo quy định. 8/8 đơn vị đã thành lập Văn phòng theo quy định, các Văn

70

phòng đã thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định, đó là thực hiện

công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu của đơn vị. Thực hiện công tác

hành chính quản trị, kế toán tài chính của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp

Chánh án trong việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện. Thực hiện việc tiếp nhận, thụ lý

các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

nhân dân cấp huyện; thực hiện công tác tiếp công dân theo quy định của pháp

luật. Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc phân

công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền. Tham mưu cho

Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện trong công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo trong hoạt động tố tụng. Thực hiện công tác tổng hợp, thống kê tình hình

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân

cấp huyện xây dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp huyện

thuộc quyền quản lý để báo cáo Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp

huyện và các cơ quan hữu quan khác. Làm đầu mối thực hiện việc rà soát, tra

cứu, xác minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo quy định của Luật

Lý lịch tư pháp. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện quản lý, tổ chức

áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Tham mưu

giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc xây dựng, khai thác,

duy trì và phát triển Trang thông tin điện tử. Thực hiện các công việc khác

theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Có đơn vị đã bổ

nhiệm Thẩm tra viên như đơn vị Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh. Đối với

Hội thẩm nhân dân, đều là những đại diện ưu tú được lựu chọn đúng thành

phần và được bầu đúng theo quy định, đáp ứng các tiêu chuẩn luật định.

Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân

chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành.

Chánh án, Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được

71

phân công. Chánh án TAND là người đứng đầu cơ quan, chịu trách nhiệm

quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật Tổ

chức TAND năm 2014. Các Phó Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở

sự phân công của Chánh án. Phó Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh

vực công tác được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án

về những hoạt động thuộc phạm vi của mình quản lý.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chưa có các tòa chuyên trách.

Đối với Tòa án khu vực cũng chưa được thành lập nhưng theo mô hình dự

kiến thì một số đơn vị đã đáp ứng được cơ sở vật chất.

Xác định mục tiêu trọng tâm là kiện toàn cơ cấu tổ chức, xây dựng đội

ngũ cán bộ có chất lượng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án

nên trong những năm gần đây, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình luôn quan

tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công

chức trong các đơn vị cấp huyện, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm

tra viên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, Thẩm phán tham gia các lớp đào

tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tòa án nhân dân tỉnh đã

cử 02 cán bộ học các lớp Cao cấp lý luận chính trị; có 25 Thẩm phán được cử

đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ; cử 21 cán bộ đi đào tạo sau đại học tại

các trường Đại học trong nước; hàng chục cán bộ được cử đi tập huấn nghiệp

vụ, tham gia hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan Trung ương

tổ chức. Ngoài ra, TAND tỉnh cũng đã tổ chức các buổi rút kinh nghiệm xét

xử, tổ chức nhiều đợt tập huấn cho Hội thẩm nhân dân cấp huyện về nghiệp

vụ xét xử và những điểm mới của các Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật

Tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính… nhằm nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký

và Hội thẩm nhân dân.

72

Từ đầu năm 2016 đến 30/9/2017, tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án

nhân dân cấp huyện tiếp tục được hoàn thiện, củng cố, đáp ứng yêu cầu công

tác chỉ đạo, điều hành của các đơn vị. Cụ thể, bổ nhiệm mới 03 Thẩm phán

trung cấp ở huyện; bổ nhiệm lại 03 Thẩm phán Trung cấp và 05 Thẩm phán

sơ cấp; bổ nhiệm mới 02 Phó Chánh án TAND cấp huyện; bổ nhiệm lại 02

Chánh án cấp huyện và 03 Phó Chánh án cấp huyện; bổ nhiệm mới 08 Chánh

văn phòng và 08 Phó Chánh văn phòng Toà án nhân dân cấp huyện; chuyển

đổi vị trí công tác và điều động 03 cán bộ, công chức ở Toà án nhân dân cấp

huyện. Với cơ cấu tổ chức đảm bảo đúng quy định pháp luật, cùng với những

điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động ngày càng được nâng lên

đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội của địa phương.

Bên cạnh những thuận lợi, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện hiện nay cũng gặp không ít khó khăn, bất cập như số lượng cán

bộ, công chức, nhất là lực lượng Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên mà Tòa

án nhân dân tối cao phân bổ hàng năm cho các đơn vị quá ít trong khi tình

hình số lượng các loại án tăng lên, tính chất ngày càng phức tạp đã tạo áp lực

lớn cho đơn vị trong việc đảm bảo tiến độ xét xử của Hệ thống Tòa án, ảnh

hưởng đến công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ [34].

Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

Một là, về cơ cấu tổ chức đảm bảo theo quy định của Hiến pháp và

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Hầu hết các đơn vị đều có đầy đủ

các chức danh quản lý, chức danh tố tụng và bộ máy giúp việc đảm bảo cho

Tòa án nhân dân cấp huyện hoạt động độc lập và có hiệu quả.

73

Hai là, về chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ công chức Tòa án

nhân dân cấp huyệnđều có trình độ đại học trở lên và thường xuyên được sự

quan tâm đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

từng bước đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn hiện nay.

Ba là, so với yêu cầu nhiệm vụ thì số lượng biên chế của Tòa án nhân

dân tối cao phân bổ cho TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình hiện

nay vẫn còn thiếu, nhất là số lượng Thẩm phán sơ cấp.

2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình

Trong những năm qua diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, là

cơ sở bản lề thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh

thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng; đối với các cơ

quan tư pháp nói chung và các đơn vị TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình nói

riêng, năm triển khai thi hành các Bộ luật như: Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố

tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành

chính. Đồng thời, năm 2017 cũng là năm có ý nghĩa quan trọng đối với

TAND các cấp, tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

(sửa đổi) năm 2014 và đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp để

đảm bảo thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác

thi đua nói chung và các Nghị quyết của Ban cán sự Đảng, Chỉ thị của Chánh

án TANDTC về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công

tác Toà án hàng năm.

Tỉnh Quảng Bình, với đặc điểm về vị trí của tỉnh, khí hậu diễn biến bất

thường đã ảnh hưởng không nhỏ đến cơ sở vật chất. Đồng thời, là vùng có địa

bàn hẹp, phía tây tiếp giáp biên giới Lào, có đơn vị TAND cấp huyện hoạt

động ở địa bàn miền núi đi lại khó khăn, các vấn đề xã hội phức tạp cũng nảy

sinh như tình hình tội phạm, ô nhiểm môi trường biển FOMASA và đặc biệt

74

là sự gia tăng các tranh chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất từ các

hoạt động chuyển nhượng. Vì vậy, số lượng các vụ án hình sự, dân sự, kinh

doanh thương mại, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của

TAND cấp huyện ở Quảng Bình không ngừng tăng lên, tạo áp lực không nhỏ

cho hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Quảng Bình.

Mặc dù nhiệm vụ đặt ra đối với Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng nặng nề, song với sự quan tâm, lãnh đạo,

chỉ đạo kịp thời của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao,

Ban Thường vụ, Thường trực huyện ủy, Thành ủy và sự ủng hộ của quần

chúng nhân dân, các đơn vị TAND cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã nỗ lực

vượt qua khó khăn, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại

án, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã giao phó.

Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Bình, từ năm 2013

đến 2017 các đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã thụ lý,

giải quyết 9.662/9.413 vụ án các loại, trong đó số lượng các loại án tăng dần

qua các năm, cụ thể như sau:

* Năm 2013:

Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 7 đơn vị: Đồng Hới,

Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng Ninh, Lệ Thủy) đã

thụ lý, giải quyết 1.775/1.748 vụ (đạt tỷ lệ 98.5%). Trong đó:

 Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 471 vụ với 825 bị cáo, đã giải

quyết 468 vụ với 821 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.3%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 329/322 vụ việc dân

sự, đạt tỷ lệ giải quyết 97.87%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

878/865 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.5%.

75

- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 26/24 vụ án

hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 92.3%.

 Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

68/66 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 97%.

 Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 03/03 vụ án,

đạt tỷ lệ giải quyết 100%.

* Năm 2014:

Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (tăng thêm 01 đơn vị là thị

xã Ba Đồn, được tách ra từ huyện Quảng Trạch, thành 8 đơn vị) đã thụ lý, giải

quyết 1.720 /1.679 vụ (đạt tỷ lệ 97.6%). Trong đó:

 Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 420 vụ với 727 bị cáo, đã giải

quyết 419 vụ với 724 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.8%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 311/292 vụ việc dân

sự, đạt tỷ lệ giải quyết 93,89%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

904/893 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.78%.

- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 17/13 vụ án

hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 76.5%.

 Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

68/62 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 91.18%.

 Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 00/00 vụ án,

đạt tỷ lệ giải quyết 00%.

* Năm 2015:

Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,

giải quyết 1.952/1.917 vụ (đạt tỷ lệ 98.2%). Trong đó:

76

 Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 486 vụ với 847 bị cáo, đã giải

quyết 485 vụ với 846 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.9%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 279/265 vụ việc dân

sự, đạt tỷ lệ giải quyết 95%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

1.061/1.044 vụ việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98.4%.

- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 13/12 vụ án

hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 92%.

 Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

76/74 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 97%.

 Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 37/37 vụ án,

đạt tỷ lệ giải quyết 100%.

* Năm 2016:

Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,

giải quyết 2.073/2.025 vụ (đạt tỷ lệ 97.7%). Trong đó:

 Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 436 vụ với 730 bị cáo, đã giải

quyết 431 vụ với 717 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 98.9%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 314/286 vụ việc dân

sự, đạt tỷ lệ giải quyết 91.1%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

1.211/1.199 vụ việc, đạt tỷ lệ giải quyết 99%.

- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 13/11 vụ án

hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 84.6%.

 Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

81/80 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 98.8%.

77

 Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 18/18 vụ án,

đạt tỷ lệ giải quyết 100%.

* Năm 2017:

Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình (gồm 8 đơn vị) đã thụ lý,

giải quyết 2.142/2.044 vụ (đạt tỷ lệ 95.4%). Trong đó:

 Về án hình sự: Tòa án cấp huyện thụ lý 378 vụ với 571 bị cáo, đã giải

quyết 375 vụ với 566 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99.2%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 253/209 vụ việc dân

sự, đạt tỷ lệ giải quyết 82.6%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

1.442/1.397 vụ việc, đạt tỷ lệ giải quyết 96.9%.

- Về án Hành chính: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 07/07 vụ án

hành chính, đạt tỷ lệ giải quyết 100%.

 Về án Kinh doanh thương mại: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết

59/54 vụ án, đạt tỷ lệ giải quyết 91.5%.

 Về Phá sản: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 01/00 vụ án, đạt tỷ

lệ giải quyết 00%.

 Về án Lao động: Tòa án cấp huyện thụ lý và giải quyết 02/02 vụ án,

đạt tỷ lệ giải quyết 100%.

Đối với công tác thi hành án hình sự: hàng năm TAND cấp huyện trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định thi hành hàng trăm bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật; xét giảm thời gian thử thách án treo và giảm thời

gian cải tạo không giam giữ cho các bị án có nhiều tiến bộ. Các trường hợp

được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án và xét miễn, giảm án đều đảm bảo đúng

quy trình, thủ tục và điều kiện do pháp luật quy định, không để xẩy ra sai sót.

78

2.4. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo yêu cầu cải cách tư pháp:

2.4.1. Thành tựu đạt được

Từ thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

theo yêu cầu cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, có thể nhìn thấy

được những thành tựu nhất định mà các đơn vị đã gặt hái được. Bởi vì, trong

thời gian qua, các đơn vị Tòa án cấp huyện đã thực hiện tốt các Nghị quyết

của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị

quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các đơn vị

Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thực hiện với quyết tâm cao, đặc biệt

việc bám sát, thực hiện tốt các văn bản do Ban cán sự Đảng ban hành như

Nghị quyết số 09-NQ/BCSĐ ngày 05/02/2016 về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển

khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác hàng năm của Tòa án nhân

dân hai cấp tỉnh Quảng Bình; Kế hoạch số 21-KH/BCSĐ ngày 21/3/2016 thực

hiện Đề án “Thực trạng và giải pháp phòng chống tiêu cực trong hoạt động tư

pháp của Tòa án”; Kế hoạch số 22/KH-BCSĐ ngày 22/4/2016 thực hiện Chỉ

thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Kế hoạch

số 25-KH/BCSĐ ngày 14/6/2016 triển khai thực hiện chương trình trọng tâm

công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016 – 2021; Kế hoạch số 40-KH/BCSĐ

ngày 09/11/2016 thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ

Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh”; Kế hoạch số 01- KH/BCSĐ ngày 10/01/2017 thực hiện Nghị

quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

79

hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kế hoạch số 14-KH/BCSĐ

ngày 08/3/2017 thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/BCS ngày 02/01/2017 về

việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác

năm 2017 của Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao; Kế hoạch số 15-

KH/BCSĐ ngày 08/3/2017 thực hiện Chương trình hành động của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy về đổi mới công tác cán bộ nhiệm kỳ 2015 – 2020; Kế

hoạch số 17-KH/BCSĐ ngày 10/3/2017 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết

Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng, chống tham nhũng, lãng phí….để tổ chức thực hiện nghiêm túc nhiệm

vụ cải cách tư pháp, đồng thời tổ chức phổ biến, quán triệt các Nghị quyết,

Chỉ thị của Trung ương, của địa phương; tăng cường công tác tập huấn các

văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao, tổ chức nhiều

đợt tập huấn nhằm nâng cao lý luận và kỹ năng thực tiễn trong hoạt động xét

xử đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên, Hội thẩm nhân dân hai

cấp; tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị làm việc, tài liệu, cải tạo, nâng

cấp cơ sở vật chất để phục vụ cho việc nghiên cứu hồ sơ, xét xử ngày càng tốt

hơn. Những thành tựu đạt được cơ bản là:

- Về công tác xét xử, giải quyết các loại án: Theo số liệu báo cáo các

năm (từ 2013 đến 2017) Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình đã thụ

lý 9.662/vụ, việc các loại, đã giải quyết 9.413 vụ, việc (đạt tỷ lệ 88%); những

vụ án chưa giải quyết đều trong hạn luật định (mới thụ lý). Hằng năm, lượng

án thụ lý đều tăng về số lượng vụ, việc nhưng tỷ lệ giải quyết đều đảm bảo;

công tác xét xử lưu động được quan tâm về số lượng và chất lượng cũng như

các phiên tòa rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư pháp được triển khai

kịp thời và đảm bảo có mời đại diện Ban Nội chính, Kiểm sát viên, Điều tra

viên…tham dự nhằm nâng cao chất lượng phiên tòa. Tỷ lệ hòa giải thành đạt

tỷ lệ cao; Đối thoại nhiều vụ án hành chính thành công. Các phiên tòa đảm

80

bảo việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đề cao tranh tụng công

khai tại toà. Chính vì vậy, trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân cấp huyện

đã đặc biệt quan tâm đến công tác tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm cho mọi

công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán

quyết của Tòa án đã căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên

cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của

người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có

quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định có căn cứ, đúng pháp

luật. Công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua tiếp tục có

sự chuyển biến tích cực. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác giải quyết,

xét xử các loại vụ án, như việc để các vụ án quá thời hạn xét xử; bản án tuyên

không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự; cho hưởng án

treo không đúng pháp luật đã được Tòa án cấp huyện tập trung khắc phục có

hiệu quả.

Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Tòa án nhân

dân cấp huyện đã làm tốt công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư, nhằm hạn

chế đơn thư vượt cấp. Công tác Thi hành án hình sự: Tòa án cấp huyện đã ra

quyết định thi hành án hình sự đều đạt tỷ lệ 100%; và giải quyết đúng luật định

các quyết định khác không để xảy ra sai sót.

- Công tác tổ chức, cán bộ: Trong vòng 5 năm qua (từ 2013 đến

2017), tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án nhân dân huyện tiếp tục được

hoàn thiện, củng cố, đáp ứng yêu cầu công tác chỉ đạo, điều hành của các đơn

vị.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ:

Cán bộ được bố trí đi học các lớp Cao cấp lý luận chính trị; hàng loạt Thẩm

phán được cử đi tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ; cử cán bộ đi đào tạo

81

sau đại học tại các trường Đại học trong nước; hàng chục cán bộ được cử đi

tập huấn nghiệp vụ, tham gia hội thảo do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ

quan Trung ương tổ chức. Ngoài ra, TAND cấp huyện cũng đã tổ chức các

buổi rút kinh nghiệm xét xử, tổ chức cho HTND tham gia các đợt tập huấn

do TAND cấp tỉnh tổ chức cho Hội thẩm nhân dân về nghiệp vụ xét xử và

những điểm mới của các Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự, Luật Tố tụng hình

sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính… nhằm nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và Hội thẩm

nhân dân.

- Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Với đặc thù là cơ quan xét xử,

công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong hệ thống Toà án hết sức quan trọng.

Xác định được tầm quan trọng của công tác này, các đơn vị đã có sự phân

công, giao trách nhiệm cho đồng chí phụ trách chung, đồng thời nắm bắt tình

hình để báo cáo và đề xuất lãnh đạo giải quyết những vấn đề phát sinh; phân

công người phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của đơn vị. Trong thời

gian qua, Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình chưa để xảy ra vụ việc

tiêu cực nào liên quan đến tư tưởng, quan điểm, lập trường, phẩm chất đạo

đức của cán bộ, đảng viên, chưa có trường hợp để xảy ra sai phạm thuộc lĩnh

vực bảo vệ chính trị nội bộ.

- Về việc bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Toà án. Trong

những năm qua, Tòa án nhân dân cấp huyện được sự quan tâm của cấp trên

cũng như chính quyền địa phương nên cơ sở, vật chất phục vụ cho hoạt động

xét xử của Tòa án luôn đảm bảo. Hiện tại, 08 Tòa án nhân dân cấp huyện đã

lắp đặt và triển khai vận hành thiết bị hệ thống truyền hình Hội nghị trực

tuyến của Hệ thống Tòa án nhân dân. Được sự hỗ trợ kinh phí của Ủy ban

nhân dân các huyện, thành phố, thị xã, Tòa án đã lắp đặt xong và đưa vào vận

hành hệ thống Camera quan sát phiên tòa trực tuyến. Tại 08 đơn vị Tòa án

82

nhân dân cấp huyện đã kết nối tín hiệu (phiên tòa xét xử) đến phòng làm việc

của các đồng chí Bí thư Huyện ủy, Thành ủy, Thị ủy và đến phòng làm việc

của các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân các huyện, thành phố, thị xã và phòng làm việc của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp tỉnh. Khai thác sử dụng có hiệu quả các phần mềm phục vụ tốt

cho công tác xét xử như: “Hệ thống phần mềm thống kê các loại vụ án”, “Hệ

thống phần mềm nội bộ quản lý và thống kê các loại vụ án dùng chung cho

Toà án nhân dân”, “Hệ thống phần mềm nội bộ số hoá một số tài liệu trong hồ

sơ án hiện đang lưu trữ tại kho lưu trữ dùng chung cho Toà án nhân dân các

cấp”. Đặc biệt, các đơn vị cấp huyện đã thực hiện tốt công tác mã hóa và công

khai bản án, quyết định trên trang mạng của Tòa án nhân dân Tối cao theo

tinh thần Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân

dân Tối cao.

2.4.2. Những hạn chế, vướng mắc

Nhìn chung chất lượng xét xử các loại án có những tiến bộ, số lượng án

thụ lý và giải quyết hàng năm đều tăng dần lên về số lượng và mức độ phức

tạp, nhưng vẫn còn án bị hủy, cải sửa, án khó thi hành. Số lượng án tù cho

hưởng treo cũng như án cải tạo không giam giữ còn không phù hợp, tùy tiện.

Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa theo tinh thần cải

cách tư pháp được quán triệt nhưng nhận thức của một số cán bộ có chức

danh tư pháp như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và Luật sư ... còn

hạn chế, vì vậy chất lượng tranh tụng trong một số phiên tòa chưa có nhiều

chuyển biến thật rõ nét. Chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân nói

chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng mặc dù có những tiến bộ, nhưng so với

yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước nhìn chung vẫn

còn có những bất cập. Vẫn còn Thẩm phán chưa sử dụng hết hiệu năng của

công nghệ thông tin mang lại trong khi làm việc, đây thực sự là những khó

83

khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân cấp huyện trước xu

hướng bùng nỗ công nghệ thông tin, “Chính phủ điệntử”. Hiện tại trụ sở một

số Tòa án cấp huyện đang trong tình trạng xuống cấp do đầu tư xây dựng đã

lâu và đặc biệt có Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đến nay vẫn chưa có

trụ sở làm việc nên phần nào ảnh hưởng đến uy danh của Tòa án, ảnh hưởng

đến yêu cầu nhiệm vụ công tác. Việc đề nghị bổ sung kinh phí đầu tư sữa

chữa, xây dựng mới đang còn gặp nhiều khó khăn.

2.4.3. Nguyên nhân

Thứ nhất, về năng lực của Thẩm phán: Từ nhiều năm nay, vấn đề trình

độ, năng lực Thẩm phán thường xuyên được đề cập và quan tâm. Đánh giá

thực trạng đội ngũ Thẩm phán có thể thấy rằng đội ngũ Thẩm phán hầu hết

được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được đào tạo tại chức là chủ yếu

và làm việc dựa trên nền tảng kinh nghiệm thực tế, một số thẩm phán được

đào tạo chính quy nhưng kinh kiệm thực tiễn còn thiếu. Do bất cập, hạn chế

trong công tác cán bộ, trong đó có việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nên

đa số các Thẩm phán vẫn được tiếp tục làm nhiệm vụ xét xử qua rất nhiều

nhiệm kỳ, nếu không bị kỷ luật thì rất khó thay thế, cho dù tuổi tác của họ

hiện nay tương đối cao; điều đáng quan tâm, do xuất phát điểm như trên,

ngoài kiến thức chuyên môn bị chắp vá, hầu hết các Thẩm phán bộc lộ khá rõ

hạn chế về năng lực xét xử, thiếu nhiều yếu tố thuộc về kỹ năng tác nghiệp,

thực hành, kỹ năng giao tiếp; thậm chí nhiều người chữ viết quá xấu, biên bản

và các tài liệu do họ thể hiện trong hồ sơ không thể đọc được. Thực tế cho

thấy, xét xử là một hoạt động đặc thù, không phải những ai có kiến thức

chuyên môn về luật đều có thể làm tốt nhiệm vụ của một Thẩm phán. Có

những người làm công tác xét xử khá lâu năm, song cách điều hành một phiên

tòa vẫn thiếu sự tôn nghiêm nơi pháp đình; có Thẩm phán được đánh giá có

năng lực chuyên môn, nhưng bản thân lại lúng túng khi hoàn chỉnh một bản

84

án. Có những bản án người đọc không thể nào hiểu nổi, hoặc hiểu sao cũng

được, bố cục, nội dung lủng củng. Nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật

nhưng nội dung không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án. Trong

những trường hợp này, theo quy định, chấp hành viên phải ban hành công văn

yêu cầu giải thích và thực tế đã có những giải thích của Thẩm phán làm thay

đổi bản chất nội dung mà Hội đồng xét xử đã tuyên, gây tranh cãi trong các

cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến khiếu nại kéo dài, vượt cấp. Có một số

Thẩm phán chưa thực sự đầu tư hết thời gian để nghiên cứu, nhận thức về cải

cách tư pháp chưa đồng bộ trong các đơn vị. Tất cả những yếu tố trên có liên

quan trực tiếp đến chất lượng xét xử; ảnh hưởng của quá trình nghiên cứu hồ

sơ của những người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên.

Thứ hai, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện còn chịu sự ảnh

hưởng của một số cơ quan khác.

- Trong mối quan hệ với Tòa án nhân dân cấp trên:

Có thể thấy, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện chịu sự tác động

bởi các chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của Tòa án cấp này trong hệ thống

Tòa án nhân dân nói chung. Trong quan hệ với Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa

án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có mối quan hệ tố tụng và hành

chính. Điều này thể hiện qua việc Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân

tỉnh quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện về tổ chức. Luật Tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án

nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp với Hội đồng nhân dân địa

phương. Bởi vậy, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện các nhiệm vụ quản lý,

thông qua Tòa án nhân dân cấp tỉnh để quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện

như việc phân bổ biên chế cán bộ, Thẩm phán, Thư ký cho từng đơn vị; quy

định các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

Thẩm phán, điều động, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; xây dựng và thực

85

hiện các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán; kiểm tra, thanh tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán Tòa án cấp dưới. Với việc thực hiện các

nhiệm vụ như vậy, công tác quản lý của Tòa án nhân dân tối cao đối với Tòa

án nhân dân cấp tỉnh cũng như Tòa án nhân dân cấp huyện không khác nhiều

so với quản lý công chức của các cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp

dưới và tương đối khép kín. Bởi vậy, nội dung, phương pháp quản lý của Tòa

án nhân dân tối cao đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh đối vơi cấp huyện về cơ bản vẫn chưa có sự đổi mới căn bản.

- Trong mối quan hệ với cấp Ủy, Đảng, Chính quyền địa phương:

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Đảng Cộng sản Việt Nam

đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, tổ chức và hoạt

động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, của Tòa án nhân dân cấp

huyện nói riêng có sự ảnh hưởng từ hoạt động của cấp Ủy, Đảng. Điều này

thể hiện ở việc Đảng cho ý kiến về việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, bố

trí các chức vụ lãnh đạo của Tòa án, vì vậy, hoạt động của tổ chức Đảng có

vai trò nhất định đến hiệu quả hoạt động của Tòa án. Nếu vai trò của các tổ

chức Đảng đối với hoạt động của Tòa án đảm bảo tính khách quan thì hiệu

quả hoạt động của Tòa án được nâng cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có

những trường hợp tổ chức Đảng gợi ý, định hướng hoạt động xét xử cũng ảnh

hưởng đến tâm lý, thực hiện nhiệm vụ xét xử của Thẩm phán, nhất là khi

những ý kiến, định hướng đó chưa thật đúng với quy định pháp luật, cũng như

Thẩm phán còn phải có sự thận trọng khi thực hiện các ý kiến, gợi ý của tổ

chức Đảng liên quan đến việc bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, đề bạt của mình. Bởi

vì, thực tế cho thấy đã có trường hợp Cấp Ủy can thiệp trực tiếp vào hoạt

động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, cũng có trường hợp Cấp Ủy có sự can

thiệp gián tiếp đến tổ chức và hoạt động của Tòa án thông qua việc giới thiệu

người để bổ nhiệm Thẩm phán hoặc vị trí lãnh đạo của Tòa án. Ở nhiều địa

86

phương hiện nay, khi có những vụ án liên quan đến các cán bộ thuộc diện Cấp

Ủy quản lý hoặc những vụ việc nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế,

xã hội hoặc tham nhũng thì Tòa án đều phải báo cáo và xin ý kiến Cấp Ủy nên

ít nhiều có ảnh hưởng nhất định đến tính độc lập trong tổ chức và hoạt động

của Tòa án.

- Trong quan hệ với Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Theo quy định thì Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của Hội đồng nhân

dân cùng cấp thông qua việc xem xét báo cáo công tác xét xử Tòa án tại địa

phương. Đồng thời, Hội đồng nhân dân cấp huyện còn có quyền chất vấn

Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, trong khi Chánh án không do Hội đồng

nhân dân bầu ra. Điều này làm cho việc báo cáo và giám sát của Hội đồng

nhân dân có thể mang tính hình thức.

- Trong quan hệ với cơ quan hành chính địa phương:

Về nguyên tắc thì Tòa án nhân dân cấp huyện không chịu sự quản lý

của cơ quan hành chính ở cấp huyện. Tuy vậy, trong thực tiễn thực hiện

nhiệm vụ, Tòa án nhân dân địa phương nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện

nói riêng còn phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các quan hệ với cơ quan hành

chính địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp huyện. Bởi vì, thực tế trong

hoạt động của mình, Tòa án nhân dân rất cần đến sự hỗ trợ, tạo điều kiện về

kinh phí, trụ sở và các điều kiện vật chất khác từ phía các cơ quan hành chính.

Dù là cơ quan độc lập nhưng đóng tại địa phương nên Tòa án nhân dân cấp

cấp huyện vẫn phải chịu những ràng buộc trong quản lý hành chính tại địa

phương. Ngoài ra, về thẩm quyền xét xử, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm

quyền xét xử các vụ kiện hành chính liên quan đến hoạt động của các cơ quan

hành chính tại địa phương, nhất là các quyết định hành chính về đất đai, nhà

ở. Do đó, việc thụ lý, giải quyết các vụ kiện hành chính gặp khó khăn cả từ

phía người khởi kiện và người bị kiện (thường là người đứng đầu, thủ trưởng

87

các cơ quan, ban ngành tại địa phương). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến

nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán. Bởi vì, trong

quan hệ với Cấp ủy, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nếu có thường là

huyện ủy viên, còn Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thường là Thường

vụ huyện ủy, huyện ủy viên, do vậy, trong quá trình thụ lý, xét xử các vụ kiện

hành chính, Thẩm phán và Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện cũng gặp nhiều

khó khăn khi phải tiến hành các thủ tục triệu tập người bị kiện, xét xử vụ việc

với người bị kiện nói trên.

Thứ ba, trong quá trình cải cách tư pháp, việc bảo đảm nguyên tắc khi

xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết.

Thực tế cho thấy, nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc

lập; việc báo cáo án và nhận sự định hướng xét xử từ lãnh đạo của Thẩm phán

chỉ giải quyết được mối quan hệ hành chính giữa cấp trên và cấp dưới mà

không đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán. Bên cạnh đó,

tình trạng hiệp thương án để trách nhiệm không thuộc về cơ quan nào trong

các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang là vấn đề cần được thực tiễn cải cách

tư pháp giải quyết.

- Theo quy định pháp luật về Tòa án hiện nay, vấn đề chức năng, nhiệm

vụ của Tòa án vẫn còn những bất cập, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao,

trong đó có thể nói đến chức năng giải thích pháp luật. Hiện nay, Tòa án nhân

dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính thức dưới dạng công văn về nội

dung một số điều luật và một số nội dung hướng dẫn đó có sự không thống

nhất với văn bản luật đã gây khó khăn cho các Thẩm phán trong quá trình áp

dụng giải quyết các vụ án. Năm 2017 là năm nhiều bộ luật, luật chính thức có

hiệu lực thi hành như Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ

luật hình sự 2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết về Phí và Lệ

88

phí...nhưng Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản dưới luật để hướng dẫn

còn chậm, chưa có biểu mẫu áp dụng thống nhất...

Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị của một

bộ phận cán bộ Tòa án chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu đặt ra của chiến lược

cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng, nhất là đội ngũ Thẩm phán trực tiếp

làm công tác xét xử, giải quyết án.

- Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân

tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán đã khẳng định vị trí, vai trò

của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, chất lượng và

thực tiễn công tác hội thẩm nhân dân hiện nay chứa đựng nhiều bất cập cần

nghiên cứu, giải quyết. Việc tham gia của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử

không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp

với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những

người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ

chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử có phán

quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống,

có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Tuy Hội thẩm nhân dân ngang quyền với

Thẩm phán, nhưng Hội thẩm chỉ chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở

thành thành viên của Hội đồng xét xử khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Như vậy, là một trong những người tiến hành tố tụng, Hội thẩm nhân dân có

một vị trí, vai trò pháp lý khá quan trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm

2/3 trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm; đây có thể coi là một lợi thế để

các Hội thẩm nhân dân thể hiện sự “ngang quyền” trên tinh thần dân chủ. Tuy

nhiên, thực tế trình độ, điều kiện giữa Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán còn

có khoảng cách quá xa thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” của Hội

thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang tính tượng trưng, hình thức. Bởi vì,

89

một Thẩm phán phải có trình độ thấp nhất là cử nhân Luật, phải qua lớp đào

tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp, Học viện Tòa án, có thời gian công

tác Pháp luật từ 4 năm trở lên (đối với cấp huyện).Thẩm phán hoạt động xét

xử lâu dài, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Thẩm phán có nhiệm vụ thụ lý

hồ sơ vụ án, có quyền tiến hành các hoạt động theo tố tụng như: ghi lời khai,

thu thập chứng cứ và tiếp xúc với các đương sự trong thời gian khá dài. Đó là

điều kiện đưa ra những quyết định đúng đắn về vụ án. Còn đối với Hội thẩm

nhân dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang bị kiến thức cơ bản về

pháp luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn

ngắn hạn về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các

vấn đề đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn

dựa trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân là cần

thiết nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể “ngang quyền”

với Thẩm phán khi xét xử được. Hơn nữa, quy định về chế độ nghiên cứu hồ

sơ của Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập, trong thời gian quá ngắn

(kể từ khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Hội thẩm nhân dân

mới chính thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội

thẩm nhân dân thì sẽ được tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân

sự, đến hành chính, kinh tế, lao động… Với trình độ, kiến thức pháp luật của

Hội thẩm nhân dân như hiện nay, với thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm

phán, thì Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng

cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ

án có nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế,

những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng trăm, hàng

ngàn bút lục. Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp

đòi hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc

90

pháp luật, am hiểu xã hội. Yêu cầu đặt ra là như vậy, nhưng theo các quy định

hiện hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì nêu rất chung

chung là “có kiến thức pháp luật”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người

là có kiến thức pháp luật? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử

của Hội thẩm nhân dân còn mang tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân

dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp. Hơn nữa theo quy định của

pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như Thẩm phán khi có tỷ lệ

vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của

Hội đồng xét xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức

độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách

nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản

án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân

trong một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay.

Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn

nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng trong thành phần Hội đồng

xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm

phán. Đặc biệt, để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ

của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân

phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 – 5 năm,

phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể:

Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu sự

quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng.

Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo chế độ

chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của

Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: Sau khi thụ lý,

Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án cho Trưởng đoàn Hội thẩm để sắp xếp,

phân công Hội thẩm nhân dân tham gia nghiên cứu, xét xử và gửi văn bản

91

phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Làm như

vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa chọn Hội

thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách quan hơn. Đặc

biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải hết sức nỗ lực

trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu liên quan đến vụ

án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ sở đó Hội thẩm

nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa, có như

vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự “ngang quyền” với

Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân,

cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi dưỡng thỏa đáng, thích hợp

đối với Hội thẩm nhân dân, để tương xứng với trọng trách mà pháp luật quy

định.

Pháp luật hiện hành trao cho Hội thẩm nhân dân quyền năng pháp lý

khá lớn, song chưa có cơ chế để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, trách

nhiệm của mình, do vậy hoạt động còn mang tính hình thức. Muốn giải quyết

vấn đề này, đòi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng với sự

tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Do đó, trên cơ sở tổng kết thực

tiễn, chế định về Hội thẩm nhân dân cần phải được nghiên cứu, sửa đổi để bảo

đảm yếu tố khoa học và tính pháp lý trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Một nguyên nhân nữa, đó là Tình hình tội phạm và các tranh chấp dân

sự liên quan đến đất đai trên địa bàn tỉnh có xu hướng ngày càng phức tạp.

Nhiều vướng mắc phát sinh trong thực tiễn xét xử. Trong khi đó công tác tổng

kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân

dân tối cao trong một số trường hợp còn chậm. Việc triển khai thực hiện một

số nội dung của Nghị Quyết 49-NQ/TW ở Trung ương còn chậm, do đó đã

ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện ở địa phương, vì nhiều công việc

phụ thuộc vào các kết luận, hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương.

92

Tóm tắt chương 2

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở địa phương, Tòa án nhân dân cấp

huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ thẩm.

Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án

nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có những bước phát

triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá

trình đổi mới tổ chức và hoạt động của cảhệ thốngTòa án nói chung.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện cũng còn những hạn chế, bất cập trước yêu cầu cải cách

tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không

đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt động của Tòa án còn bị tác động,

bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa

phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm

phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Tòa án

nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới.

Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong

tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách

tư pháp, cải cách hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

93

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH

TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được đề

cập trong một số văn kiện của Đảng, Nhà nước trong những năm gần đây với

tinh thần: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm

cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm

mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước

pháp luật. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm

quyền xét xử của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền và xét xử

sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của

công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: " …khi xét xử, các tòa án phải

bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách

quan, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán

quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên

cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người

bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những bản án quyết định

đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định...”[2].

Ngày 02 tháng 06 năm 2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-

NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nội dung Nghị quyết

đã đề cập một cách toàn diện mục tiêu, quan điểm cải cách tư pháp, phương

hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020. Tại Điều 20, Điều 31

94

và Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng đã xác định vị trí, vai trò hết sức quan

trọng của Tòa án. Với vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân được quy

định trong Hiến pháp đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong lịch sử, Tòa án nhân dân đã

trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động

để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ

công lý, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu

quả hoạt động xét xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyệntrên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần bám sát các quan điểm, mục tiêu

cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản

Việt Nam thời gian gần đây. Cụ thể là một số quan điểm cơ bản sau:

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải

gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam của dân, do dân, vì dân.

Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân: Đổi mới hệ

thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét

xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án

đối với các khiếu kiện hành chính [10]. Định hướng trên nhằm đảm bảo sự

minh bạch, sự tôn trọng pháp luật, sự độc lập và tuân theo pháp luật của hoạt

động xét xử. Đổi mới việc tổ chức các phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo,

công khai, dân chủ, nghiêm minh; xác định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn

của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; nâng cao chất lượng

tranh tụng tại phiên tòa; phiên tòa phải được diễn ra một cách dân chủ trong

tranh luận, tạo điều kiện để các bên đưa ra các tài liệu, chứng cứ bảo vệ cho

quan điểm của mình.

95

3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải

được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ

quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước.

Tòa án nhân dân cấp huyện là một cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án

nhân dân và cho dù yêu cầu có sự độc lập trong hoạt động xét xử nhưng

không thể tách rời với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao và

Tòa án nhân dân cấp tỉnh cả về cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ trong hoạt

động xét xử, đặc biệt là mối quan hệ theo 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.

Điều này đòi hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện phải có sự gắn kết, tương xứng và đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt

động của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử

của Tòa án còn dựa trên pháp luật, căn cứ vào các kết quả hoạt động điều tra,

truy tố, hoạt động bổ trợ tư pháp, hoạt động hành chính của các cơ quan nhà

nước và sự lãnh đạo, phối hợp của các thiết chế chính trị khác, bởi vậy, đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân

cấp huyện nói riêng còn phải đặt trong mối quan hệ với quá trình đổi mới các

thiết chế trong hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng và các hoạt động lập

pháp, hành pháp (hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính…vv).

3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải

được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế.

Việc cải cách thể chế không chỉ là cơ sở để thực hiện đổi mới mô hình

tổ chức, phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện mà còn là cơ

sở pháp lý để Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đảm bảo kịp

thời giải quyết, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tranh chấp phát sinh,

góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, việc cải cách, hoàn

thiện thể chế là điều kiện cơ bản cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

96

động xét xử của Tòa án; nâng cao trình độ Thẩm phán và ý thức chấp hành

pháp luật của công dân.

3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện nhằm

thực hiện quyền lực tư pháp.

Tòa án là trụ cột, trung tâm nắm và thực hiện quyền tư pháp, “xét xử”

là chức năng đầu tiên, quan trọng nhất của quyền tư pháp, do Tòa án thực

hiện. Việc xét xử không chỉ giới hạn đơn thuần ở các vụ án, các việc trong

phạm vi thẩm quyền của Tòa án mà có tính bao trùm cả không gian, thời gian,

chủ thể, đối tượng có liên quan. Quyền tư pháp bao gồm cả quyền giải thích

luật. Trong quá trình thực hiện quyền tư pháp, một trong những nhiệm vụ

quan trọng của Tòa án là phải giải thích được các quy phạm pháp luật để áp

dụng vào vụ, việc, chủ thể cụ thể. Điều này là vô cùng cần thiết, không thể

thiếu của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, giúp cho cơ quan này tránh được

hành vi xử sự theo cảm tính, dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất, gây bất

công trong xã hội. Bên cạnh đó, quyền tư pháp cho phép Tòa án ban hành và

áp dụng án lệ để giải quyết các vấn đề xuất hiện trong thực tiễn nhưng chưa

có quy phạm cụ thể áp dụng. Theo tinh thần pháp luật, việc thực hiện quyền

lực tư pháp cho phép Tòa án, cơ quan có quyền lực tư pháp duy nhất, tác động

theo chiều hướng tiêu cực vào nhân thân, tài sản của một cá nhân, cơ quan, tổ

chức bất kỳ trong xã hội (ví dụ bắt, giữ, giam, khám nhà, khám người, kê

biên, tịch thu tài sản…). Để bảo đảm công lý, nếu không có sự đồng ý của

Tòa án thì không ai có quyền tác động đến nhân thân, tài sản của các chủ thể

trong xã hội. Việc thực hiện quyền tư pháp làm phái sinh quyền kiểm soát các

“hành vi” và “sản phẩm” chính trị - pháp lý của cơ quan lập pháp, hành pháp

(các đạo luật, các văn bản pháp quy, quá trình tổ chức thực hiện quyền con

người, quyền công dân, việc cưỡng chế, xử phạt hành chính các cá nhân, cơ

quan, tổ chức vi phạm pháp luật…). Tòa án không chỉ thực hiện quyền kiểm

97

soát đối với các hành vi vi phạm pháp luật được đưa ra Tòa mà thực hiện

quyền kiểm soát đối với cả văn bản (chính sách, pháp luật) và hành vi (xây

dựng pháp luật, thực hiện pháp luật) của tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức

có liên quan đến công việc của Toà án. Với tầm quan trọng trong việc thực

hiện quyền tư pháp như vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện tại địa bàn tỉnh Quảng Bình hiện nay yêu cầu phải hoàn

thiện nhằm thực hiện tốt quyền lực tư pháp.

3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhằm thực hiện phán quyết cuối

cùng của tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Nhằm bảo đảm và

phát huy dân chủ trong xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân. Góp phần làm cho các quyền và tự do của công dân được

bảo đảm bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu và đồng bộ, tránh khỏi sự lạm

quyền độc đoán và tùy tiện của các quan chức trong bộ máy nhà nước, góp

phần giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố trật tự pháp luật, nâng cao

hiệu quả của việc đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Để

đạt được mục tiêu đó, ngoài những nguyên tắc, giải pháp cơ bản như: Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án; Trong

hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp

luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công bằng xã hội.

Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét

tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan

Nhà nước ban hành; Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề

nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; Nâng cao năng lực của

Hội thẩm nhân dân; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua

các bản án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi; Kiện toàn

98

đội ngũ cán bộ công chức Hệ thống Tòa án theo hướng tinh giản, hiệu quả, bố

trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân sự đúng người đúng việc,

đúng sở trường; đồng thời có chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ những

người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt phục vụ cho sự phát triển của Hệ

thống Tòa án. Cần có thêm những giải pháp đặc thù trong việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình, cụ thể:

3.2.1. Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp

Lâu nay, thường quan niệm Tòa án chỉ là cơ quan xét xử, như một

"ngành" chuyên môn như các bộ, ngành khác; TAND cấp huyện thuộc tỉnh

được xem như một phòng cấp huyện của chính quyền địa phương. Thẩm phán

được nhìn nhận như một dạng công chức hành chính. Đúng ra, Tòa án phải

được xã hội nhận thức, được hiểu đúng đắn là một thiết chế đặc biệt, bảo vệ

công lý, thực hiện nhiệm vụ của nhánh quyền lực tư pháp quốc gia; và vì vậy,

cho dù Tòa án được thành lập ở cấp huyện nào thì Tòa án cũng là cơ quan xét

xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp quốc gia, không

phải là cơ quan của địa phương.

Do nhận thức giản đơn, chưa đúng đắn về Tòa án như vậy, nên việc

xem xét, quyết định các vấn đề về thể chế, tổ chức, bộ máy, trụ sở, kinh phí

hoạt động, chế độ tiền lương, nhiệm kỳ của Thẩm phán... được nhìn nhận

tương đối giống với các cơ quan hành chính Nhà nước khác, mà chưa được

nhìn nhận, đánh giá đúng tính chất đặc thù của Tòa án - Một thiết chế đặc biệt

thực thi một trong ba loại quyền lực Nhà nước là Quyền tư pháp. Sự nghiệp

đổi mới và cải cách tư pháp đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức

trong toàn Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về chế độ chính trị và

quyền lực nhà nước. Trong đó có sự nhận thức mới về vị trí vai trò và quyền

99

lực tư pháp của Tòa án nhân dân. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 2 của Hiến

pháp năm 2013 đã ghi rõ "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân

công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" và tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp cũng

đã xác định rõ "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp".

Vì vậy, cần thống nhất về mặt nhận thức trong đổi mới tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp huyện để Tòa án được độc lập trong thực thi

nhiệm vụ, độc lập tư pháp, trước hết cần thay đổi nhận thức về Tòa án theo

hướng: Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt

động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền tư pháp quốc gia. Trên

cơ sở đó, có quan điểm đúng đắn để xác lập và xây dựng thể chế, nguyên tắc

hoạt động, bộ máy tổ chức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, kinh phí hoạt động

của Tòa án, tuổi hưu, nhiệm kỳ và chế độ lương của Thẩm phán... cho phù

hợp.

3.2.2. Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp

trong một số trường hợp luật định.

Quyền tư pháp của Tòa án đã được hiến định và một vấn quan trọng để

cải cách tư pháp có hiệu quả là phải bảo đảm tính độc lập của các Tòa án và

Thẩm phán. Tính độc lập bảo đảm cho Tòa án không bị ảnh hưởng, chi phối

trong các hành vi và quyết định, nhằm bảo đảm tính đúng đắn, công bằng.

Tính độc lập có thể được coi là “đặc quyền” của quyền tư pháp, là điều kiện

tiên quyết để quyền tư pháp có thể vận hành một cách khách quan. Việc Tòa

án có vai trò độc lập với các ngành quyền lực còn lại là điều quan trọng nhất

của một nhà nước dân chủ. Luật Tổ chức Tòa án, các luật tố tụng hiện hành

cũng đã ghi nhận nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

100

Nhưng các quy định đó còn hạn chế về phạm vi mức độ và tính chất, chưa thể

hiện hết nội hàm sự độc lập của Tòa án và của cá nhân Thẩm phán. Sự độc lập

của Tòa án phải thể hiện được trên các khía cạnh: Tòa án có sự độc lập cần

thiết với các cơ quan lãnh đạo chính trị. Các cơ quan lãnh đạo chính trị không

nên can thiệp vào hoạt động chuyên môn của Tòa án mà chỉ thực hiện quyền

lãnh đạo về chính trị nhằm bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động của Tòa án

và nhân viên Tòa án vì mục tiêu chính trị. Tòa án tuân theo đường lối, chủ

trương của Đảng. Đảng không “xét xử” thay Tòa án nhưng lãnh đạo Tòa án

về tư tưởng, tổ chức, cán bộ. Tòa án độc lập với cơ quan lập pháp và hành

pháp, có quyền xem xét và quyết định trên nền tảng pháp luật và đạo đức

cộng đồng. Việc “kiểm sát hoạt động tư pháp” không bao hàm hoạt động

kiểm sát xét xử, Công tố viên không được quyền “kiểm sát” Hội đồng xét xử,

Thẩm phán, Hội thẩm mà cần có cơ chế giám sát hoạt động tư pháp riêng phù

hợp với tính chất của việc thực hiện quyền tư pháp của Toà án. Các Tòa án

hoàn toàn độc lập về chuyên môn với nhau, không chịu sự ràng buộc về chỉ

đạo hành động, cán bộ, con người, tài chính mà chỉ phụ thuộc vào pháp luật.

Tòa án tối cao có quyền ban hành án lệ, có quyền hướng dẫn, có quyền hủy án

của các Tòa án khác nhưng không có quyền áp đặt, quyết định buộc các Tòa

án khác phải xét xử theo “chỉ đạo” của mình; Bên cạnh đó, nơi làm việc của

Thẩm phán phải hoàn toàn độc lập bảo đảm Thẩm phán không thể bị ảnh

hưởng bởi các nhân tố khác gây bất lợi cho hoạt động chuyên môn. Thẩm

phán phải được hưởng ưu đãi, miễn trừ tư pháp, được bảo vệ theo cơ chế pháp

lý đặc biệt. Giữa các Thẩm phán, Hội thẩm hoàn toàn độc lập với nhau, ngay

cả những việc “tế nhị” như trao đổi với nhau về các tình tiết, cách xử lý vụ án,

vụ việc, nhất là về kết quả xét xử mang tính định kiến cũng coi như xâm

phạm nguyên tắc độc lập. Thẩm phán, Hội thẩm, Hội đồng xét xử hoàn toàn

độc lập trong quá trình hoạt động chuyên môn, đặc biệt là trong các phiên tòa,

101

phiên họp giải quyết vụ, việc, không ai có quyền xâm phạm, can thiệp, gây

ảnh hưởng công việc và sự vô tư của họ.

3.2.2. Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.

Đây là một giải pháp đặc biệt quan trọng mà thời gian qua lãnh đạo Tòa

án nhân dân tối cao (TANDTC) đã tập trung chỉ đạo thực hiện với nhiều đổi

mới, song hành với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất,

đồng bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý trong hoạt

động xét xử của Tòa án nói chung. TAND cấp huyện cần tăng cường công tác

áp dụng thống nhất pháp luật, tạo tính ổn định, công khai trong xét xử, việc áp

dụng án lệ trong xét xử là tính bắt buộc, tránh tùy tiện trong phán quyết. Cần

bám sát các Nghị quyết, thông tư hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật,

giải đáp vướng mắc nghiệp vụ.

Có được một hệ thống pháp luật tốt đã khó nhưng để phát huy hiệu quả

trên thực tế lại càng khó hơn. Theo PGS-TS. Nguyễn Minh Đoan thì: "Nhiều

người dân không biết được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên không

dám đòi hỏi, không dám đấu tranh"; cũng có khi "người dân biết được các

quyền và lợi ích mà mình có nhưng lại không biết làm thế nào để bảo vệ các

quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đó. Cũng do chưa hiểu biết đầy đủ về

pháp luật mà nhiều người dân thờ ơ với pháp luật, không tin tưởng vào khả

năng của pháp luật, hoài nghi việc giải quyết các công việc của một số cơ

quan, cán bộ Nhà nước". Chính vì vậy mà công tác tuyên truyền phổ biến

kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân là vô cùng quan

trọng đảm bảo tính khả thi và hiệu quả tác động của pháp luật.

Đặc biệt, việc bảo đảm các vấn đề liên quan đến hoạt động, nhất là bảo

đảm tài chính cho Tòa án cấp huyện phải nhất thiết được thực hiện thông qua

một cơ chế độc lập để hệ thống Tòa án tập trung thực hiện đúng đắn, hiệu quả

nhất các hoạt động chuyên môn. Cũng trên tinh thần đó nhất thiết phải đầu tư

102

xây dựng, nâng cấp đầy đủ trụ sở cho Tòa án nhân dân các cấp, bảo đảm

khang trang, thực sự có tính biểu tượng của quyền lực tư pháp, là “công

đường” của Nhà nước. Nơi xét xử của Tòa án nhân dân, phải có nét đặc thù

không thể lẫn lộn với trụ sở của các cơ quan nhà nước khác. Hệ thống cơ sở

vật chất của các Tòa án cần được trang bị hiện đại, áp dụng công nghệ thông

tin tiên tiến để cập nhật thông tin, thống kê và công bố thông tin ra công

chúng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.

103

Tóm tắt chương 3

Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét

xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của

Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn liền với việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân;

tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp

và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình

cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế.

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp chung

về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện cần thực

hiện là: Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở

pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án. Nghiên cứu khả năng

trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến

của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ban hành.

Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ

Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;

xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm

Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và

tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực

của Hội thẩm nhân dân. Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện

làm việc cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.

104

Ngoài ra, cần có thêm những giải pháp cụ thể trong việc đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình là:

- Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp;

-Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp

trong một số trường hợp luật định;

- Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.

105

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án

và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận

sau:

Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền

lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa

án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực

hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm

bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát

trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành

chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn

nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết

các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp huyện là cấp

Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm các vụ án theo

thẩm quyền.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực

hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần hướng tới các

mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa

án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với

hoạt động xét xử.

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân

cấp huyện giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ

106

thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp huyện đã có những bước phát triển,

hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi

mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cũng còn những

hạn chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế;

hoạt động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài

(mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh

hưởng đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở

vật chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp

huyện trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi

mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải

cách hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét

xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng cần bám sát các quan điểm của

Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện phải gắn liền với việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân;

tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp

và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình

107

cải cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế.

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, ngoài những giải pháp

chung nhất về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung

thì TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần có những giải pháp cụ

thể, đặc thù.

- Thống nhất về mặt nhận thức, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp;

-Thẩm phán phải được độc lập, được hưởng quyền miễn trừ tư pháp

trong một số trường hợp luật định;

- Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.

Để Tòa án thực sự là chỗ dựa của người dân trong bảo vệ công lý thì

việc nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt công tác tổ chức và hoạt động của

TAND là một yêu cầu rất quan trọng, một việc làm thường xuyên. Với những

giải pháp khoa học và cụ thể như vậy, cùng với quyết tâm cao trong cả hệ

thống, chắc chắn chất lượng xét xử của Tòa án sẽ được nâng lên, xứng đáng

với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ

2011-2016.

2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01 của Bộ Chính

trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày 24/5 của Bộ Chính trị

về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 02/06 của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW, ngày 28/7/2010 của Bộ

Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm

sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

6. Các Sắc lệnh và Thông tư liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm từ năm

1945 đến nay.

7. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp

quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội hội nghị lần thứ IX

BCH TƯ khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Đặng Quang Phương (1995), “Vài nét về quá trình hình thành và phát

triển của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (06), (07), (08).

14. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (2006), Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

15. Giáo trình Luật hành chính do Gs.Ts.Phạm Hồng Thái & GS.Ts. Đinh

Văn Mậu biên soạn.

16. Giáo trình Hành chính công (2010), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

17. Giáo trình Luật Hành chính (2008), Nxb Công an nhân dân.

18. Hồ Chí Minh (1995, 2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Học viện Hành chính (2016), Khoa quản lý nhà nước về xã hội, Bài giảng

Những vấn đề cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước, Tài liệu lưu hành

nội bộ, Hà Nội.

21. Hoàng Văn Thành (2015), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

22. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

23. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện

nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

24. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Đăng Dung (2010), Cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa

án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Đề tài

nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

26. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), “Chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề

độc lập xét xử”, bài trình bày tại Hội thảo quốc tế về độc lập xét xử do

Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008.

27. Nguyễn Văn Cường (2014), Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và

Hiến pháp 2013, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp

(1945, 1959, 1980, 1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân (năm 1960, 1981, 1992, 2002), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

Nội.

32. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt

Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.

33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, 2013,

2014, 2015, 2016 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2017 của Hệ thống

Tòa án nhân dân.

34. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân

tỉnh Quảng Bình năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động

36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân, Hà Nội.

37. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

38. V.ILê Nin toàn tập (1980), tập 27 Nxb Tiến bộ, Matsxcova.

39. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến

sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

40. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu pháp lý về các

khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị

đối với Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp nước

ngoài, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

42. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình – Lịch sử ngành Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Bình giai đoạn 1945 đến 2000; giao đoạn 2001 đến 2010.

Website:

www.toaan.gov.vn

www.quangbinh.toaan.gov.vn

www.thuvienphapluat.vn

www.chinhphu.vn