VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ LÊ TUẤN ANH

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ LÊ TUẤN ANH

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS PHẠM VĂN TỈNH

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh Các số liệu, tài liệu, kết quả khảo sát nêu

trong luận văn là trung thực, phản ánh đúng đắn số liệu thực tiễn và chưa từng được

công bố một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nào. Tài liệu tham khảo trong luận

văn được trích dẫn từ các nguồn một cách đầy đủ và chính xác, do đó, luận văn đảm

bảo tính chân thực, khoa học, pháp lý của một công trình nghiên cứu.”

Tác giả luận văn

Ngô Lê Tuấn Anh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA

BÁN MA TÚY TRÁI PHÉP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........ 7

1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy ......................... 7

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất

ma túy ................................................................................................................. 20

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH

SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ CẨM PHẢ ...................................................................................... 41

2.1. Định tội danh mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm

Phả tỉnh Quảng Ninh .......................................................................................... 41

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn thành phố Cẩm Phả ......................................................................... 50

2.3. Nhận xét, đánh giá ....................................................................................... 59

Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH

SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ ............................................................................. 65

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy ........... 65

3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy .... 67

3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép

chất ma túy .......................................................................................................... 72

3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy .................................................................................... 74

3.5. Các giải pháp khác ....................................................................................... 76

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội mua bán trái phép

chất ma túy trên địa bàn thành phố cẩm phả từ năm 2014 đến năm 2018 ......... 42

Bảng 2.2: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán trái

phép chất ma túy trên địa bàn thành phố cẩm phả từ năm 2014 đến năm 2018 ... 44

Bảng 2.3: cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội mua bán trái phép

chất ma túy trên địa bàn thành phố cẩm phả từ năm 2014 đến năm 2018 ..... 52

Bảng 2.4: tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về tội mua bán trái phép chất

ma túy so với các tội phạm về ma túy và các tội phạm khác trên địa bàn

thành phố cẩm phả từ năm 2014 đến năm 2018 ............................................. 58

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Nghĩa đầy đủ Từ viết tắt

Bộ luật hình sự BLHS

Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CHXHCN

Cơ quan điều tra CQĐT

Cấu thành tội phạm CTTP

Quyết định hình phạt QĐHP

Quy phạm pháp luật QPPL

Tòa án nhân dân TAND

Tiến hành tố tụng THTT

Trách nhiệm hình sự TNHS

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tệ nạn ma túy là hiểm họa của các quốc gia trên toàn thế giới. Ở nước ta tệ

nạn ma túy vẫn đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội. Theo thống kê đến tháng

12/2018 nước ta có 210.751 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, số người nghiện

ma túy tiếp tục gia tăng và ngày càng khó kiểm soát. Ma túy không chỉ hủy hoại sức

khỏa của con người, làm mất khả năng lao động, học tập mà còn gây tổn hại nghiêm

trọng về mặt kinh tế, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội, là nguyên

nhân dẫn đến các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an toàn xã

hội. Những tác hại và hậu quả của tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an toàn xã

hội. Những tác hại và hậu quả của tệ nạn ma túy đang tác động và gây ảnh hưởng

đến tất cả chúng ta từng ngày, từng giờ.

Cẩm Phả là một thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Ninh, nằm ở vùng Đông

Bắc Bộ Việt Nam. Là một trong các thành phố của tỉnh Quảng Ninh nên khu vực

này rất phức tạp về tội phạm ma túy, đặc biệt là tội mua bán trái phép chất ma tuý.

Người phạm tội thường lợi dụng đưa ma túy sang Việt Nam qua khu vực này.

Trong 6 tháng đầu năm, lực lượng công an toàn tỉnh bắt giữ, xử lý 315 vụ 552 đối

tượng (so với cùng kỳ năm 2017 tăng 47,8% số vụ và 75,8% số đối tượng), thu giữ

100 bánh và 116,38g heroin, 5,645kg và 5194 viên ma túy tổng hợp, 10kg ma túy

tổng hợp dạng “trà sữa”, 4 khẩu súng, 141 viên đạn các loại và nhiều tang vật, tài

sản khác liên quan. Trong đó đã xác lập 22 chuyên án triệt phá nhiều đường dây

mua bán, vận chuyển trái phép ma túy với số lượng lớn, tính chất đặc biệt nghiêm

trọng… [48]

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn thành phố Cẩm phả đã đạt được những kết quả nhất định, đáp ứng yêu

cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả chưa

cao, còn có những sai sót nhất định, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt

động đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

tỉnh. Những sai sót đó chủ yếu là do những quy định của pháp luật hình sự về tội

1

mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần phải được bổ

sung, sửa đổi, cùng với đó hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái

phép chất ma túy của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tố tụng vẫn còn những hạn

chế, thiếu sót cần phải được khắc phục.

Từ những lý do nêu trên, đề tài "Tội mua bán trái phép chất ma tuý theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh"

đã được lựa chọn để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận

Một số công trình nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy đã được

công bố như:

- “Giáo trình luật hình sự Việt nam - Phần các tội phạm” (2008), GS.TS. Võ

Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

- “Lý luận chung về định tội danh” (2013), GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội;

- “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung” (2014), GS.TS. Võ

Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

- “Hoàn thiện một số quy định về hình phạt và quyết định hình phạt của

BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự”

(2008), PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn, Luật học;

- “Một số vấn đề liên quan đến hướng dẫn áp dụng Điều 194 Bộ luật hình

sự” (2012), TS. Cao Thị Oanh, Luật học.

2.2. Tình hình nghiên cứu thực tiễn

Thực tiễn hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về tội mua bán trái

phép chất ma túy, điển hình như các công trình sau:

- Trần Văn Luyện, “Phát hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua

bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, năm 2000, Luận án

tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân;

2

- Nguyễn Thủy Thanh, “Các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép

hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam - trên cơ sở nghiên cứu

thực tiễn trên địa bàn thành phố Hải Phòng” năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học,

khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;

- Nguyễn Thị Thảo Trang, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép

hoặc chiếm đoạt chất ma tuý từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” năm

2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;

Hồ Kim Trình, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” năm

2016, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;

Tóm lại, từ những công trình khoa học đã nêu cho phép rút ra nhận xét sau:

Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập và phân tích ở các cấp độ khác

nhau về những vấn đề lý luận, hệ thống quá trình lịch sử cũng như quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Tổng hợp số liệu thống

kê thực tiễn để từ đó đưa ra những bất cập cùng những giải pháp kiến nghị đề xuất

hoàn thiện. Luận văn sẽ tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình

nghiên cứu khoa học nói trên làm nền tảng lí luận cho đề tài – đây là những nền tảng lí

luận quan trọng, là cơ sở lí luận được luận án vận dụng trong quá trình nghiên cứu.

Luận văn cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu kể trên về

những tri thức liên quan đến vấn đề định tội danh các tội phạm về ma túy. Những hạn

chế, bất cập trong quá trình định tội danh các tội mua bán trái phép chất ma tuý là

những tri thức quan trọng mà luận văn sẽ kế thừa và phát triển trong quá trình phân tích

hoạt động định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả - tỉnh

Quảng Ninh.”

“Kế thừa những tri thức trên, luận văn sẽ đi sâu phân tích hoạt động định tội

danh đối với tội mua bán trái phép chất ma tuý từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả; phân

tích để thấy được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình định tội danh, từ đó kiến

nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh, từ đó nâng cao hiệu

3

quả hoạt động phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, một

điểm nóng về tội phạm về ma túy trên địa bàn cả nước.”

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Về mục đích nghiên cứu

Bằng việc nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng pháp

luật về tội mua bán trái phép chất ma tuý trên địa bàn thành phố Cẩm phả giai đoạn

từ năm 2014 đến năm 2018, đề tài hướng đến mục đích hoàn thiện quy định của

pháp luật hình sự, cũng như kiến nghị giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp

luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý.

Về nhiệm vụ nghiên cứu của luân văn

Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Thứ nhất, tìm hiểu vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép

chất ma tuý;

- Thứ hai, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về t tội mua bán trái

phép chất ma tuý thông qua thực tế định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

mua bán trái phép chất ma tuý trên địa bàn thành phố Cẩm phả, tỉnh Quảng ninh

giai đoạn 2014 – 2018;

- Thứ ba, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm áp

dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghie̛n cứu

“Trên cô sở thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn 2014-2018 trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả, luận vân xác định và luận giải mức độ phù hợp và chûa

phù hợp giữa quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma

túy với thực tế diễn ra sự kiện phạm tội này.”

4.2. Phạm vi nghie̛n cứu

- Về nội dung, đề tài đûợc thực hiện trong phạm vi chuyên ngành

luật Hình sự và Tố tụng hình sự.

4

- Về địa bàn, đề tài đûợc thực hiện trong phạm vi thành phố Cẩm Phả,

tỉnh Quảng ninh.

- Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ nâm

2014 đến 2018, gồm số liệu thống kê thường và bản án hình sự sơ thẩm và phúc

thẩm của TAND thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Về tội danh, đề tài nghiên cứu tội mua bán trái phép chất ma túy

đûợc quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung nâm

2017), có so sánh với Điều 194 BLHS 1999, sửa đổi năm 2009.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những vấn đề của đề tài, việc nghiên cứu đûợc tiến hành

trên trên cô sở phûông pháp luận Mác – Lênin, tû tûởng Hồ Chí

Minh và các quan điểm của Đảng , Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, về đấu

tranh phòng và chống tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu, luận vân sử dụng

các phûông pháp nghiên cứu cụ thể sau: Biện chứng; Lô-gich; Phân tích,

gồm cả phân tích quy phạm; lịch sử; hệ thống; tổng hợp; thống kê; so sánh; quy

nạp; diễn dịch; nghiên cứu tài liệu; nghiên cứu bản án...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tế của đề tài

- Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật trên cơ sở

hướng dẫn của khoa học luật hình sự và tố tụng hính sự, đồng thời góp phần tăng

cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Luận văn này cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác

nghiên cứu khoa học, đào tạo luật hình sự.

- Ý nghĩa thực tế

Về mật thực tiễn, luận vân là tài liệu tham khảo cho các cô quan

tiến hành tố tụng ở thành phố Cẩm phả, đậc biệt là Tòa án giải quyết vụ án hình

sự về tội mua bán trái phép chất ma túy đûợc khách quan, công bằng và có

cân cứ pháp luật.

5

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép

chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

hiện hành về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả,

tỉnh Quảng Ninh.

Chương 3: Các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN MA TÚY

TRÁI PHÉP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy

1.1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy

 Khái niệm về ma tuý

Để xác định chính xác những hành vi bị coi là tội phạm về ma túy nói chung

cũng như tội mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng, trước hết cần làm rõ khái

niệm về ma túy. Theo quan điểm thông dụng hiện nay, ma túy thường được hiểu là

thuốc phiện, heroin, thuốc lắc, ma túy đá. Trong pháp luật nước ta, các nhà lập pháp

sử dụng thuật ngữ “ma túy” tương tự thuật ngữ “chất ma túy”. Thuật ngữ “chất ma

túy” chính thức được sử dụng lần đầu trong Bộ luật Hình sự năm 1985 với việc quy

định tội danh “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” (Điều 203 BLHS 1985).

Sau đó, cụm từ này được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật khác như

Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, Nghị định số 141/HĐBT năm 1991 về

xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này, cụm từ

“ma túy” hay “chất ma túy” không được định nghĩa. Để tạo thuận lợi cho quá trình

áp dụng pháp luật, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân

tối cao đã ban hành một số thông tư hướng dẫn, như: Thông tư liên ngành số

07/TTLN ngày 05/12/1992 hướng dẫn thi hành điều 96a và điều 203 của Bộ luật

Hình sự 1985; Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 10/10/1996 hướng dẫn áp

dụng Điều 96a và Điều 203 của Bộ luật Hình sự 1985; Thông tư liên ngành

01/TTLN ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung

năm 1997 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối

cao; Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ ban hành danh

mục các chất ma túy và tiền chất. Tuy nhiên, các văn bản này cũng không đưa ra

khái niệm “chất ma túy” mà chỉ liệt kê, đưa ra danh mục các chất được coi là ma

7

túy. Bộ luật hình sự được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

thông qua ngày 21/12/1999 trong chương XIII quy định các tội phạm về ma túy có

nhiều đổi mới so với BLHS 1985 [35,tr.31-34] nhưng BLHS vẫn không định nghĩa

về chất ma túy mà chỉ đưa ra tên các loại được cho là ma túy tại các điều luật cụ thể.

Điều 2 Luật phòng, chống ma túy năm 2000 đưa ra định nghĩa”Chất ma túy

là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh mục do Chính

phủ ban hành”; “Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây

tình trạng nghiện đối với người sử dụng”; “Chất hướng thần là chất kích thích, ức

chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng

nghiện đối với người sử dụng”. Như vậy, theo điều luật, các chất ma túy được định

nghĩa thông qua hai khái niệm là “chất gây nghiện” và “chất hướng thần”. Danh

mục các chất ma túy và tiền chất được quy định tại Nghị định số 67/2001/NĐ-CP,

ngày 01/10/2001 của Chính phủ.

Theo tinh thần các quy định của BLHS năm 1999 và sửa đổi, bổ sung một số

điều năm 2009, Điều 2 Luật phòng, chống ma tuý năm 2000 và Nghị định số

67/2001/NĐ-CP, ngày 01/10/2001 của Chính phủ có thể định nghĩa chất ma tuý như

sau: Chất ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần, tiền chất, các loại cây tự

nhiên có thể chiết xuất dùng vào việc tạo ra chất ma túy có trong danh mục các chất

ma túy do chính phủ ban hành”. Tiếp cận dưới góc độ tác hại đối với cơ thể con

người, chất ma túy được hiểu là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi

được con người sử dụng sẽ có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của

con người. Khi sử dụng nhiều lần con người sẽ lệ thuộc vào nó, gây tổn hại đến thể

chất và tinh thần của người sử dụng nó.

 Khái niệm về tội phạm

Điều 8 Bộ luật hình sự nâm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) của nûớc

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đûa ra khái niệm về tội phạm

nhû sau:

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đûợc quy định trong Bộ

luật Hình sự, do ngûời có nâng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một

8

cách cố ý hoậc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền vân hoá

quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các

quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác

của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

2. Cân cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

đûợc quy định trong Bộ luật này, tội phạm đûợc phân thành tội phạm

ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và

tội phạm đậc biệt nghiêm trọng.

3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho

xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba nâm tù;

tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức

cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy nâm tù; tội phạm rất

nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất

của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mûời lâm nâm tù; tội phạm

đậc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đậc biệt lớn cho xã

hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mûời lâm

nâm tù, tù chung thân hoậc tử hình.

4. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhûng tính chất nguy

hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và đûợc xử lý

bằng các biện pháp khác.”

Khoản 1 của Điều luật xác định khái niệm tội phạm một cách khoa

học, thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nûớc về tội phạm. Nó

không chỉ là cô sở khoa học thống nhất cho việc xác định những loại tội

phạm cụ thể trong việc phân loại các tội phạm của BLHS mà còn là cô sở

cho việc nhận thức và áp dụng đúng những điều luật quy định về từng loại

tội phạm cụ thể.

9

Nếu nhû Điều 1 của Bộ luật Hình sự nêu lên những quan hệ xã

hội chung quan trọng nhất đûợc Bộ luật Hình sự của nûớc Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm thì khoản 1

Điều 8 đã cụ thể hóa những quan hệ xã hội đó thành những khách thể của tội

phạm. Đó là: “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ

chính trị, chế độ kinh tế, nền vân hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã

hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân

phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh

vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

“Khái niệm tội phạm luôn là vấn đề trung tâm của luật Hình sự.

Việc đûa ra khái niệm này cho phép phân biệt hành vi nào là tội phạm

hành vi nào không phải là tội phạm. Các luật gia tû sản nhấn mạnh tính hình

thức của tội phạm. Cụ thể họ cho rằng: Tội phạm là hành vi bị luật Hình sự

cấm hoậc là “Vi phạm pháp luật bị Bộ luật Hình sự trừng trị”: (BLHS Pháp

1810) hoậc là “Hành vi do luật Hình sự cấm bằng nguy cô xử phạt” (BLHS

Thụy Sĩ nâm 1937). Nhû vậy, yếu tố luật Hình sự quy định, luật Hình sự

cấm, luật Hình sự trừng trị là đậc điểm duy nhất của tội phạm. Điều này hết

sức nguy hiểm ở chỗ nhiều khi nó cho phép nhà làm luật đûa ý chí chủ quan của

mình vào việc quy định hành vi nào là tội phạm. Tuy nhiên, yếu tố luật định

của tội phạm mà luật Hình sự tû sản đûa ra đã cho thấy đûợc tiến bộ

vûợt bậc. So với luật Hình sự phong kiến tránh đûợc sự tùy tiện khi coi

một hành vi nào đó là tội phạm. Đûợc quy định tội phạm luật Hình sự hay

Bộ luật Hình sự chỉ là dấu hiệu hình thức của tội phạm. Tội phạm còn

đûợc xác định thông qua dấu hiệu về mật nội dung. Đó là: “Tội phạm là

hành vi nguy hiểm cho xã hội”. Tuy nhiên đánh giá thế nào là nguy hiểm cho xã

hội là vấn đề cần đûợc làm sáng tỏ nếu không dễ rôi vào chủ quan, duy ý chí

khi quy định tội phạm. Các tiêu chí để xác định tính nguy hiểm cho xã hội ở

mức độ tội phạm gồm:”

– Tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại

10

– Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra

– Tính chất và mức độ lỗi: các hình thức lỗi, các dạng lỗi, động cô mục

đích phạm tội...

– Các yếu tố đậc trûng cho hành vi phạm tội nhû thời gian, địa điểm,

hoàn cảnh, công cụ phạm tội. Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam còn có

một yếu tố mà nhà làm luật xem nhû một trong những yếu tố làm tâng

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó là yếu tố nhân thân ngûời

phạm tội. Ví dụ yếu tố “Đã bị xử lý hành chính”... Đây là vấn đề đang tranh

luận trong khoa học luật Hình sự. Bởi lẽ việc quy định yếu tố nhân thân

của ngûời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phù hợp với

nguyên tắc chung của luật Hình sự. Đó là nguyên tắc: “Một ngûời không

thể bị xử phạt hình sự về nhân thân xấu của họ”.

Tội phạm còn đûợc thể hiện thông qua dấu hiệu: Nâng lực trách

nhiệm hình sự của ngûời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đây là

đậc tính quan trọng không thể bỏ qua khi quy định khái niệm tội phạm.

Nâng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở khả nâng ngûời thực hiện hành

vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức và điểu đûợc hành vi của mình. Điều đó

cho thấy cho dù gây thiệt hại cho quan hệ xã hội nào đó nhûng nếu

ngûời thực hiện hành vi nguy hiểm không nhận thức đûợc hành vi,

không điều khiển đûợc hành vi thì hành vi đó không là hành vi tội phạm.

Tính có lỗi: Tội phạm luôn là hành vi có lỗi. Cũng có lúc, có Bộ luật Hình

sự coi những hành vi không có lỗi là tội phạm. Đây đûợc gọi là nguyên

tắc “quy tội khách quan” – chỉ cân cứ vào hành vi để buộc tội trong khi tội

phạm là tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan. Yếu tố khách quan là các

hành vi, yếu tố chủ quan là lỗi. Lỗi có một quá trình hình thành từ khi phát sinh

những nhu cầu, xác định động cô, mục đích, nhận thức các yếu tố chủ quan,

khách quan của hành vi và cuối cùng là lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi.

Nhû vậy, căn cứ vào Điều 8 BLHS có thể đûa ra khái niệm tội phạm

một cách khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

11

trong BLHS, có lỗi, do ngûời có nâng lực TNHS thực hiện xâm phạm đến mối

quan hệ xã hội được luận hình sự bảo vệ.

 Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy

“Trûớc đây, Tại điểm b, mục 3.5 phần I Thông tû 17 hûớng dẫn

phần “Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trûờng hợp có nhiều hành vi phạm

tội” nhû sau:

“3.5. Trûờng hợp một ngûời thực hiện một hoặc nhiều hành vi phạm tội

quy định trong một điều luật (Điều 194, Điều 195 và Điều 196 của BLHS) thì

cần phân biệt nhû sau: ... b) Trûờng hợp một ngûời thực hiện nhiều

hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoậc Điều 195 hoậc Điều 196)

của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chật chẽ với nhau (hành vi phạm

tội này là điều kiện để thực hiện hoậc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm

tội kia), thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tất cả

các hành vi đó đûợc thực hiện theo điều luật tûông ứng và chỉ phải chịu

một hình phạt” [1]. Nhû vậy, nếu theo tinh thần hûớng dẫn nêu trên thì

tội MBTPCMT còn có thể có tên gọi là “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép chất ma túy”. Điều này là không hợp lý, sẽ dẫn đến khó khân cho các cô

quan tiến hành tố tụng trong việc định tội danh cũng nhû quyết định hình phạt

đối với các hành vi MBTPCMT. Khắc phục hạn chế nêu trên, BLHS 2015 đã

tách Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoậc chiếm đoạt chất ma túy (Điều

194 BLHS 1999) thành 04 tội độc lập.”

Theo TS. Phạm Minh Tuyên có định nghĩa về Tội phạm ma túy nhû

sau: “Các tội phạm ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do ngûời

có nâng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực

hiện, có lỗi, xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà

nûớc, từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nûớc, của xã hội và của

công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội.”.

Có thể khẳng định tội phạm ma túy là tội phạm có tính chất nguy hiểm cao

cho xã hội không những gây ra thiệt hại lớn cho lợi ích nhà nûớc, xã hội,

12

của công dân mà còn làm bâng hoại đạo đức, ảnh hûởng nghiêm trọng đến

sức khỏe của con ngûời cũng nhû ảnh hûởng lớn đến giống nòi, gây mất

trật tự an toàn xã hội.

Tại mục 3.3 phần II Thông tû 17 hûớng dẫn về tội Mua bán trái phép

chất ma túy nhû sau: “3.3. Mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành

vi sau đây: a) Bán trái phép chất ma túy cho ngûời khác (không phụ thuộc

vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy

cho ngûời khác để hûởng tiền công hoậc các lợi ích khác; b) Mua chất ma

túy nhằm bán trái phép cho ngûời khác; c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép

cho ngûời khác; d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không

phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có); đ) Dùng tài sản không

phải là tiền đem trao đổi, thanh toán lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho

ngûời khác; e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngûời khác; g)

Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngûời khác. Ngûời tổ chức,

ngûời xúi giục, ngûời giúp sức cho ngûời thực hiện một trong các hành vi

mua bán trái phép chất ma túy đûợc hûớng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục

3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma

túy” [1]. Trong thực tiễn, các cô quan tố tụng luôn xác định mục đích cuối cùng

của tội phạm là gì để định tội danh đối với hành vi phạm tội đó và chỉ ra

một tên gọi duy nhất đối với hành vi phạm tội.

Theo quan điểm của Ths. Đinh Vân Quế, hành vi mua bán trái phép chất

ma túy là: “bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho ngûời khác;

tàng trữ để bán lại hoậc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái phép;

hoậc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy”.[24,

tr. 92].

Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 2) của trûờng Đại học

luật Hà Nội thì “hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái

phép chất ma túy dûới bất kỳ hình thức nào”.

13

Nhû vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật đều có cùng

quan điểm về tội Mua bán trái phép chất ma túy là một trong những hành vi:

bán trái phép; mua, xin, vận chuyển, tàng trữ, sản xuất để bán hoậc dùng hang

hóa để trao đổi lấy ma túy hay lấy ma túy để thanh toán hàng hóa. Nói cách khác,

tội Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán trái phép chất ma túy cho

ngûời khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu mà có) hoậc hành

vi trao đổi ma túy nhû một hàng hóa có giá trị. Bên cạnh đó, các hành vi đồng

phạm với hành vi bán ma túy cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua

bán trái phép chất ma túy.

“Từ đó có thể đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT có thể đûợc hiểu là

những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do ngûời có nâng lực trách nhiệm hình

sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến chế độ

quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nûớc thực hiện các hành vi: Bán trái

phép chất ma túy cho ngûời khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma

túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho ngûời khác để

hûởng tiền công hoậc các lợi ích khác; Mua chất ma túy nhằm bán trái phép

cho ngûời khác; Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngûời khác; Dùng chất

ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất

ma túy do đâu mà có); Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh

toán...lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho ngûời khác; Tàng trữ chất ma

túy nhằm bán trái phép cho ngûời khác; Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái

phép cho ngûời khác......”

1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy

 Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy

Khách thể chung của tội phạm ma túy là chế độ quản lý các chất ma tuý của

Nhà nước ở tất cả các khâu của quá trình quản lý. Các tội phạm này có đối tượng là các

chất ma tuý và các vật dụng phục vụ sản xuất và sử dụng chất ma túy.

Các chất ma túy là đối tượng của các tội phạm về ma túy bao gồm các chất

nằm trong danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số

14

67/2001/NĐ-CP, ngày 01/10/2001 của Chính phủ; các cây trồng hoặc nguyên liệu

thực vật có chứa chất ma túy.

Các chất hướng thần thường gặp và là đối tượng phổ biến của của tội pham

ma túy trong thực tiễn hiện nay bao gồm:

- Thuốc phiện (nhựa thuốc phiện hay còn gọi là nhựa đặc từ cây anh túc)

- Cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chưa được tiết ra)

- Nhựa cần sa (nhựa được tách ra ở dạng thô hoặc đã tinh chế từ cây cần sa)

- Lá côca (lá của cây côca – lá chưa dùng để chiết xuất)

- Mocphin (chất chiết từ thuốc phiện)

- Cocain

- Heroin

- Chất hướng thần như amphetamin…

Cây trồng có chứa chất ma túy là cây thuốc phiện hoặc các cây khác như cây

côca, cây cần sa...

Các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy được quy định là đối tượng

của một số tội phạm về ma túy là quả thuốc phiện ở dạng khô và tươi.

Các vật dụng phục vụ vào sản xuất và sử dụng chất ma túy là các công cụ,

phương tiện dùng vào việc sản xuất và sử dụng chất ma túy.

 Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy

Mặt khách quan của tội phạm ma túy tuy khác nhau về hình thức thể hiện cụ

thể, về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xa hội nhưng giống nhau ở chỗ đều là

hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy. Đó

có thể là những hành vi thực hiện những điều mà nhà nước cấm cá nhân làm (hành

vi khách quan của các tội về ma túy từ Điều 192 đến Điều 200 BLHS) hoặc có thể

là những hành vi của những người có trách nhiệm được nhà nước giao cho nhưng

lại vi phạm các quy định về quản lý sử dụng chất ma tuý (Điều 201 BLHS).

Hầu hết các tội phạm về ma túy đều được quy định là những tội có cấu thành hình

thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP của những tội phạm này. Tội

phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan.

15

Trong BLHS năm 1999, Luật phòng, chống ma túy, Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của BLHS năm 2009; Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007

của Toà án nhân dân tối cao- VKSNDTC- BTP và BCA hướng dẫn áp dụng một số

quy định tại Chương XIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (sau đây gọi

tắt là Thông tư liên tịch số 17/2007) và các văn bản pháp luật khác thì mặt khách quan

về tội phạm về ma túy được chia ra theo các nhóm hành vi sau:

- Hành vi trồng các loại cây có chứa chất ma túy như: cây thuốc phiện, cây

cần sa, cây côca… Ở Đây được hiểu là hành vi gieo trồng, chăm bón hoặc thu

hoạch các bộ phận cây có chứa chất ma túy (như lá, hoa, quả, thân cây).

- Các hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy

hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Dạng hành vi này bao gồm:

+ Sản xuất trái phép chất ma túy: Làm ra chất ma tuý bằng thủ công hoặc có

áp dụng khoa học công nghệ từ cây có chứa chất ma túy, tiền chất ma túy, các hóa

chất hoặc làm ra các chất ma túy này từ chất ma túy khác không được cơ quan có

thẩm quyền cho phép hoặc không đúng với nội dung đã được cơ quan có thẩm

quyền cho phép.

+ Tàng trữ trái phép chất ma túy: Hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất

ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali,

cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo

người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép

chất ma túy

+ Vận chuyển trái phép chất ma túy: Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất

ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương

tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như

đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để

trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như

vali, túi xách vv.vv…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái

phép chất ma túy khác.

16

+ Mua bán trái phép chất ma túy: Bao gồm một trong những hành vi sau:

Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác, bao gồm cả việc bán trái phép

chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc hưởng các lợi ích khác; mua

chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy, xin chất ma túy, tàng trữ trái phép

chất ma túy, vận chuyển chất ma túy trái phép nhằm bán cho người khác, người tổ

chức xúi giục, người giúp sức cho người khác thực hiện một trong các hành vi mua

bán trái phép chất ma túy nêu trên; xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người

khác; Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào

nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có); Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi,

thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác; Tàng trữ chất

ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái

phép cho người khác.

+ Chiếm đoạt chất ma túy là một trong các hành vi: trộm cắp, lừa đảo, tham

ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma

túy của người khác nhằm mục đích sử dụng hoặc bán lại cho người khác. Trường

hợp bán lại chất ma túy đó cho người khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với

tội danh đầy đủ đối với hành vi đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu

một hình phạt.

- Các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; lôi kéo, cưỡng bức,

chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, gồm các hành vi: chỉ huy, phân

công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác,

cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái

phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy.

+ Cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi dùng vũ

lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người

khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muốn của họ.

+ Lôi kéo người khác sử dụng ma túy là hành vi dùng lời nói hoặc hành động

nhằm rủ rê người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy.

17

+ Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi của người có địa

điểm hoặc địa điểm thuộc quyền quản lý của mình, biết người khác sử dụng địa

điểm đó vào việc sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn đồng ý để người sử dụng

trái phép chất ma túy dùng địa điểm đó trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy

nhằm thoả mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy.

- Các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng

vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; vi phạm quy định về quản lý và sử dụng

thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần hoặc các chất ma túy khác.

+ Tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là cất giữ

bất hợp pháp tiền chất ma túy ở một nơi nào đó nhằm phục vụ cho việc sản xuất trái

phép chất ma túy.

+ Vận chuyển tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là một

trong các hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tiền chất từ nơi này sang nơi khác dưới

bất kỳ hình thức nào.

+ Mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy cho người

khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy.

+ Chiếm đoạt tiền chất để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là

một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, cướp, cướp giật, công

nhiên chiếm đoạt tiền chất của người khác nhằm mục đích sản xuất trái phép chất

ma túy.

+ Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma

túy khác được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm trong việc nghiên cứu, giám

định, sản xuất, xuất nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ, phân phối,

cấp phát, sủ dụng, xử lý, trao đổi thuốc gây nghiện lấy các chất ma túy khác mà

không theo đúng quy định và thủ tục của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất

đó, không thực hiện đúng giấy phép quy định về số lượng, chất lượng, chủng loại…

sai với các quy trình hoạt động, phân phối, cấp pháp không đúng đối tượng.

 Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy

18

Lỗi của người thực hiện các tội phạm về ma túy là lỗi cố ý, đa số là cố ý trực

tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

rõ hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó. Người thực hiện

các hành vi thuộc CTTP của các Điều 198 và Điều 201 BLHS có thể có dạng lỗi cố

ý gián tiếp.

1.1.2. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với một số tội khác

Theo quy định của BLHS 2015 thì tội mua bán trái phép chất ma túy được

quy định tại Điều 251và được xếp vào Chương XX (Chương các tội về ma túy). So

với các tội danh được quy định tại các chương khác của BLHS 2015 thì tội mua

bán trái phép chất ma túy có sự khác biệt về mặt khách thể, đối tượng tác động của

tội phạm và trong nhiều trường hợp là cả mặt khách quan và mặt chủ quan của tội

phạm. Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế độ thống nhất quản

lý các chất ma túy của Nhà nước và đối tượng tác động của tội này là các chất ma

túy. Trong khi đó các tội danh khác không nằm trong các tội phạm về ma túy mà

lại có khách thể hoàn toàn khác, đó có thể là quan hệ nhân thân, quan hệ sở hữu,

tính mạng, sức khỏe người khác… các tội này cũng có đối tượng tác động khác, đó

có thể là những tài sản, phương tiện hoặc thân thể con người… Trong một số

trường hợp thì sự khác nhau giữa tội mua bán trái phép chất ma túy so với các tội

khác còn có sự khác nhau về mặt chủ quan (các tội về lỗi vô ý như tội vô ý làm

chết người, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường

bộ…) khác nhau về mặt hành vi khách hàng (như tội hiếp dâm, cưỡng dâm…).

Mặt khác thì tội mua bán trái phép chất ma túy cũng có những điểm khác so

với những tội danh về ma túy khác được quy định trong cùng chương XX (các tội

phạm về ma túy). Đó có thể sự khác nhau về mặt hành vi khách quan (như tội trông

cây thuốc phiện hoặc các loại cây có chứa chất ma túy…) hay đó có thể là sự khác

nhau về đối tượng tác động (như tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc

chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy), hay có đối

tượng tác động là các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng

trái phép chất ma túy (như tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương

19

tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy). Chính

những sự khác nhau đó, vì vậy khi quy định các tội danh trong BLHS, nhà làm luật

đã sắp xếp các tội danh nằm ở những chương khác nhau theo tiêu chí khách thể

xâm phạm của tội phạm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức pháp luật,

thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật một cách chính xác, phù hợp và đạt hiệu

quả cao.

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất

ma túy

1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy

 Giai đoạn trước na̛m 1945

Thời kì đầu xuất hiện những quy chế ở các thôn bản về cấm sử dụng thuốc

phiện, song hiệu quả rất thấp. Tình hình trồng cây thuốc phiện và nghiện hút

sử dụng thuốc phiện lan tràn khắp nôi. Trûớc tình hình đó vào nâm Cảnh Trị

thứ 3 (1665) Nhà nûớc phong kiến Việt Nam đã có những quy định “Cấm trồng

cây thuốc phiện”.

Vào đầu thế kỉ XIX, mậc dù bị cấm gắt gao nhûng do ảnh hûởng của

cuộc “Chiến tranh nha phiến” giữa Trung Quốc và Anh nên tình trạng nghiện

hút ở nûớc ta tâng mạnh “ Chẳng những dân chúng mà đến cả quan lại,

ngûời quyền quý cũng đua nhau hút thuốc phiện.”

Trûớc tình hình đó, nâm Minh Mạng nguyên niên (1820) . Luật quy

định phá bỏ các khu vực trồng cây thuốc phiện, kẻ nào mua bán thuốc phiện

thì bị phạt 60 trûợng, xử tù 01 nâm, tịch thu toàn bộ vật chứng dùng trong

buôn bán. Lái buôn nûớc ngoài buôn bán thuốc phiện bị đánh 100

trûợng và tịch thu vật chứng.

Có thể thấy rằng từ khi lên ngôi vua Minh Mạng luôn có những nhận

định chính xác về tác hại của thuốc phiện và quyết tâm tiêu diệt tận gốc

tệ nạn này.

20

Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp đûa hạm đội vào cảng Đà Nẵng, mở

đầu thời kì gần một thế kỉ cai trị nûớc ta và ban hành hệ thống pháp luật

trên toàn cõi Đông Dûông. Thực hiện chính sách ngu dân và vô vét

tiền, tài nguyên ở Đông Dûông, nhà cầm quyền Pháp công khai phát triển

cây thuốc phiện ở nûớc ta, thành lập các cửa hàng bán thuốc phiện tự do

dûới sự quản lý của “Công quản nha phiến”. Ngoài ra thực dân Pháp còn mở

cửa thuốc phiện vào Việt Nam, vua Tự Đức đã bỏ lệ cấm hút thuốc phiện do

vua Minh Mạng đã ban hành trûớc đây mà cho đấu thầu, đánh thuế để tâng

nguồn thu, hàng nâm thu trên 300.000 quan ....

Đến tháng 6 nâm 1873, trûớc tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn

bán thuốc phiện ngày càng tâng. Triều đình lại ban hành trở lại lệnh “Cấm

thuốc nha phiến”.

 Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 na̛m 1945 đến trước khi pháp điển hóa

Bợ luạ̛t hình sự na̛m 1985

“Tội phạm ma túy từ khi xuất hiện đã gây tác hại nhiều mật cho đời

sống xã hội. Do vậy ngay từ khi thành lập Nhà nûớc ta đã nhận thức

đûợc sự nguy hại của ma túy, mậc dù phải đối phó với muôn vàn khó khân

nhû: giậc đói , giậc dốt, tệ nạn của xã hội cũ, thù trong giậc ngoài....

Nhûng để thiết lập một trật tự xã hội mới, đem lại cuộc sống ổn định

cho nhân dân, thì việc đấu tranh chống tệ nạn ma túy là hết sức cần thiết.

Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại

một số luật cũ quy định về các tội phạm ma túy không trái với nội dung

chính thế Cộng hòa. Song do điều kiện lịch sử lúc đó cả dân tộc đang dồn

sức chống lại thực dân Pháp xâm lûợc nên việc xóa bỏ cây thuốc

phiện và quản lý cây thuốc phiện chûa đûợc thực hiện. Cho tới ngày

5/3/1952 Thủ tûớng chính phủ ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử

lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Tiếp theo đó, Thủ

tûớng ban hành Nghị định số 255/TTg ngày 22/12/1952 quy định những ngûời

có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý .Ngày 15/9/1955 Thủ

21

tûớng chính phủ ban hành Nghị định số 580/TTg bổ sung Nghị định số 150/TTg,

quy định những trûờng hợp có thể bị đûa ra Tòa án xét xử. Cùng với nghị định

này, theo thẩm quyền Bộ Tû Pháp đã ban hành thông tû số 635/VHH-HS

ngày 29/3/1958 và thông tû số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất

đûờng lối xét xử đối với những vụ án buôn lậu thuốc phiện.”

Từ nâm 1954, sau hiệp định Giô-Ne-Vô đất nûớc chia cắt hai miền

Nam, Bắc chính sách pháp luật từ miền khác nhau. Miền Bắc vừa kháng chiến

chống Mỹ vừa thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam,

tình hình buôn bán ma túy, nghiện hút phát triển nhanh và hết sức phức tạp.

Tính đến 1975 (sau giải phóng) cả nûớc có khoảng 150.000 đến 300.000 ngûời

nghiện ma túy. Ngày 2/7/1976 quốc hội ban hành nghị quyết về thống nhất pháp

luật và xây dựng pháp luật mới, Đảng và Nhà nûớc ta đã kiên quyết áp

dụng nhiều biện pháp để bài trừ tệ nạn nghiện ma túy, do đó chỉ trong vòng 7

nâm (đến 1982) con số ngûời nghiện giảm xuống chỉ con 40.000 ngûời [10;

tr. 51]. Ngày 25/3/1977, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về

chống buôn lậu thuốc phiện.

Song Nghị định số 150/TTg và Nghị định số 225/TTg chỉ đề cập đến hành

vi Tàng trữ và vận chuyển trái phép mà không đề cập đến xử lý hành vi sản

xuất hoậc buôn bán trái phép. Chính vì thế ngày 15/9/1955, Thủ tûớng chính

phủ ban hành Nghị định số 580/TTg bổ khuyết nghị định 150/TTg quy định những

trûờng hợp có thể bị đûa ra Tòa án xét xử với mức phạt 3 tháng đến 5 nâm tù ,

bị tịch thu tang vật và bị phạt tiền từ một đế nâm lần giá trị thuốc phiện

buôn lậu.

Thông tû 635/VHH-HS và thông tû 33/VHH-HS của Bộ tû pháp

hûớng dẫn: Trûờng hợp buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở

việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nûớc thì có thể áp dụng sắc lệnh

số 267/SL ngày 15/6/1976 để xử phạt trên 5 nâm tù. Đối với bọn cầm đầu

những tổ chức buôn lậu ma túy thì có thể bị phạt từ 5 nâm đến 10 nâm tù.

Bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ 03 đến 5 nâm tù. Bọn cô hội phạm

22

tội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm phạt từ 1 đến 3 nâm tù, trûờng hợp

có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có thể bị phạt 1 nâm tù hoậc cho hûởng án

treo... Đến nâm 1982, Hội đồng nhà nûớc ban hành pháp lệnh trừng trị các

tội đầu cô,buôn bán, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trong đó có ma túy

đûợc coi là đối tûợng của buôn lậu và mức phạt có thể lên tới từ hình.

Nhận thấy tình hình tội phạm về ma túy có xu hûớng diễn biến phức tạp,

Đảng và Nhà nûớc ta đã có thái độ kiên quyết hôn trong đấu tranh phòng

chống ma túy, trûớc hết thể hiện trong BLHS 1985.

 Giai đoạn từ khi ban hành Bợ luạ̛t hình sự Viẹ̛t Nam na̛m 1985 đến

trước khi pháp điển hóa Bợ luạ̛t hình sự Viẹ̛t Nam na̛m 1999

“Vào những nâm 1980, tình hình sản xuất, lûu thông và sử dụng ma túy

có chiều hûớng gia tâng, đậc biệt là buôn bán ma túy. Trûớc tình hình

này, BLHS đầu tiên đûợc Nhà nûớc ta thông qua ngày 27/6/1985 đã quy

định TNHS đối với các hành vi phạm tội liên quan đến ma túy tại hai điều: Điều

166: “Tội buôn bán hàng cấm”; và điều 203: “Tội tổ chức dùng chất ma túy”.”

Theo BLHS 1985, chỉ có điều 203 quy định riêng về “tổ chức dùng chất

ma túy”, còn các hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất

ma túy chûa đûợc quy định thành tội riêng mà những hành vi mua bán,

vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu theo điều 97: “Tội buôn

lậu hoậc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” và những

hành vi mua bán , vận chuyển trong nội địa thì bị truy tố theo điều 166: “Tội

buôn bán hàng cấm”. BLHS 1985 góp phần không nhỏ vào đấu tranh phòng,

chống các tội phạm về ma túy. Song quy định chûa cụ thể các tội phạm về ma

túy đã làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.

Do vậy ngày 28/12/1989 quốc hội nûớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS, trong đó tách

tội phạm ma túy thành một điều riêng nằm ở Mục B thuộc chûông “Các

tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia”. Nhû vậy, đến thời điểm này tội

phạm về ma túy đûợc quy định thành hai tội là: “Tội sản xuất, tàng trữ, vận

23

chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy” (Điều 96a BLHS) với ba khung hình

phạt rất nghiêm khắc, với mức hình phạt cao nhất lên đến tử hình đối với các

trûờng hợp đậc biệt nghiêm trọng; “Tội tổ chức dùng chất ma túy” (Điều

203), với mức hình phạt cao nhất là mûời nâm tù. Nhûng việc quy định các

tội phạm về ma túy chỉ với hai điều luật cụ thể là chûa đủ. Vì vậy, ngày

10/5/1997 tại kì họp thứ 11, Khóa IX, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ

sung một số điều BLHS 1985. Lần này các tội phạm về ma túy đûợc quy định

thành một chûông riêng là chûông VII : “Các tội phạm về ma túy”

trong phần các tội phạm của BLHS gồm 14 điều từ điều 185a đến Điều 185o quy

định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại

Điều 185đ.

Lần này không chỉ tách các hành vi phạm tội thành các tội độc lập mà

chất ma túy đûợc đề cập đến trong điều luật không chỉ đôn thuần là thuốc

phiện mà còn phong phú hôn nữa đó là: Cây coca, cây cần sa hoậc các loại

cây khác có chứa chất ma túy, đã phần nào đáp ứng đûợc yêu cầu thực tiễn giai

đoạn này. Mật khác đã định lûợng hóa các chất ma túy làm cân cứ để truy cứu

TNHS với những mức phạt nghiêm khắc, cụ thể khối lûợng các chất ma túy với bốn

khung hình phạt (Điều 96a chỉ có 3 khung hình phạt). Và bổ sung thêm các tình tiết

định khung mới nhû “phạm tội nhiều lần”, bỏ hình phạt bổ sung là quản chế hoậc

cấm cû trú đối với ngûời phạm các tội này.

Ngoài ra để áp dụng thống nhất các quy định của BLHS 1985 về các tội

phạm về ma túy trong thời gian từ nâm 1990 đến nâm 1998 đã có 09 thông

tû liên ngành, thông tû lên tịch nhû: Thông tû liên tịch số

01/1998/TTLT/BNV- VKSNDTC-TSNDTC ngày 02/01/1998 hûớng dẫn áp dụng

một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS nâm 1985

và thông tû liên tịch số 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA ngày

05/08/1998 hûớng dẫn cụ thể về các hành vi liên quan đến tội phạm này.

Có thể thấy qua nhiều lần sửa đổi bổ sung BLHS 1985 đã hoàn thiện hôn

trong kĩ nâng lập pháp hình sự, quy định tội phạm về ma túy thành một

24

chûông riêng, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nûớc ta là xử lý

nghiệm khắc tội phạm ma túy. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn

chûa hợp lý cần phải nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn áp dụng vì

vậy BLHS 1999 ra đời.

 Giai đoạn từ khi ban hành Bợ luạ̛t hình sự Viẹ̛t Nam na̛m 1999 đến

trước khi ban hành Bợ luạ̛t hình sự na̛m 2015

Ngày 21/12/1999 Quốc hội nûớc ta đã thông qua BLHS 1999 tội

phạm MBTPCMT đûợc quy định tại Điều 194 với tên gọi là Tội tàng trữ,

vận chuyển, mua bán hoậc chiếm đoạt trái phép chất ma túy.

“Trong Bộ luật này, hành vi mua bán ma túy đûợc quy định tại điều

194 với tên gọi “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoậc chiếm

đoạt chất ma túy”. BLHS nâm 1999 đã gộp 4 tội danh độc lập đûợc quy

định tại 4 điều luật khác nhau trong BLHS nâm 1985 thành một tội danh

chung. 4 tội danh độc lập đó là: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185

c); tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185 d); tội mua bán trái phép

chất ma túy (Điều 185 đ) và tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 185 e). Trong

BLHS nâm 1999, cả bốn loại hành vi này đều đûợc quy định chung tại một

điều luật với tội danh: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoậc

chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194). Trong mua bán có tàng trữ, vận chuyển,

trûớc khi tàng trữ có hành vi mua bán và tàng trữ để mua bán, vận chuyển là để

mua bán, tàng trữ. Vậy nên khó tách riêng biệt đûợc các hành vi nên

Điều 194 đûợc hình thành. Việc nhập 04 tội danh thành 01 tội có ý nghĩa

làm cho BLHS chật chẽ hôn về mật khoa học, dễ hiểu và dễ áp dụng và ý

nghĩa quan trọng là đã giảm đûợc 03 tội có mức án tử hình quy định trong

BLHS, đảm bảo tính nhân đạo.”

Tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng, chống ma

túy, có hiệu lực ngày 01/06/2001. Là đạo luật đầu tiên về phòng chống ma

túy, làm cô sở pháp lý đểđấu tranh với tệ nạn ma túy. Ngày 24/12/2007 Thông

tû liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC quy định hûớng

dẫn cụ thể việc áp dụng một số quy định tại chûông XVIII “Các tội phạm

25

về ma túy” của BLHS 1999. Và ngày 14/11/2015 Thông tû liên tịch số

08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa đổi bổ sung một số điểm của

thông tû 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định hûớng dẫn cụ

thể việc áp dụng các điều 194 nói riêng và Chûông XVIII “Các tội phạm

về ma túy” nói chung của BLHS 1999. Đây là vân bản hûớng dẫn cụ thể

một các chi tiết và toàn diện các quy định về tội phạm ma túy góp phần tháo

gỡ nhiều vûớng mắc trong quá trình giải quyết vụ án ma túy. Tuy nhiên mức

độ nguy hiểm của các tội phạm nói chung và tội phạm mua bán trái phép ma

túy nói riêng qua thời gian đã có nhiều thay đổi khiến các nhà làm luật cần phải

xây dựng BLHS mới để đáp ứng sự phù hợp với từng thời kì. Chính vì thế BLHS

2015 ra đời.

 Giai đoạn từ khi ban hành Bợ luạ̛t hình sự Viẹ̛t Nam na̛m 2015 đến

nay.

Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII biểu quyết

thông qua Bộ luật hình sự 2015. Tuy sau khi đûợc đâng công báo, đến

ngày 11/1/2016, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã có công vân gửi Phòng

Công báo (Vân phòng Chính phủ) đề nghị thay thế 4 trang tài liệu liên quan

đến 6 điều luật ở Phần Chung và 4 điều luật ở Phần Các tội phạm. Lý do

đûợc nêu là do sô suất về mật kỹ thuật nên Bộ luật gửi đến phòng

Công báo trûớc đó có sai sót. Sau đó, vẫn còn những những sai sót khác đûợc

phát hiện, thực tế những nhà nghiên cứu pháp luật đã chỉ ra hôn chín

mûôi lỗi trong đó có những lỗi nghiêm trọng dẫn đến không thể thi hành

BLHS 2015. Trong những Điều luật của BLHS 2015 có sai sót, tội MBTPCMT

đûợc quy định tại Điều 251 cũng là Điều luật có nhiều sai sót nghiêm trọng

nhất:

Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13, với 439/455

đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 89,41% tổng số đại biểu

Quốc hội và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Nhû vậy, đây là điều đậc

26

biệt kỳ lạ và chûa từng có không chỉ trong lịch sử lập pháp của Việt Nam

mà trên toàn thế giới khi một đạo luật quan trọng nhû Bộ luật hình sự

vừa đûợc thông qua, chûa có hiệu lực thi hành đã phải hoãn thi hành và sửa

đổi.

Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung nâm 2017) về tội mua bán trái

phép chất ma túy có nhiều điểm mới quan trọng so với Điều 194 BLHS 1999. Các

điểm mới có thể kể đến nhû:

Thứ nhất: Điểm mới đáng chú ý đầu tiên của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung

nâm 2017) so với BLHS 1999 là đã tách tội ghép quy định tại Điều 194 BLHS

1999 về Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoậc chiếm đoạt chất ma

túy thành 4 tội riêng biệt đó là:

– Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đûợc quy định tại Điều 249;

– Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đûợc quy định tại Điều 250;

– Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đûợc quy định tại Điều 251;

– Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” đûợc quy định tại Điều 252.

Thực tế, quá trình điều tra, xét xử cho thấy việc gộp chung các tội danh

trong cùng một điều luật gập không ít khó khân cho các cô quan

tiến hành tố tụng, trong việc xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với

ngûời phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoậc chiếm đoạt

chất ma túy.

Thứ hai: Về định lûợng các chất ma túy BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung

nâm 2017) đã quy định cụ thể, rõ ràng mức tối thiểu đến mức tối đa định lûợng

các chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự trong từng điều luật.

Thứ ba: BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung nâm 2017) đã quy định thêm một

số chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy đã đûợc Chính phủ quy định vào

Điều luật cụ thể nhû chất ma túy Methamphetamine, Amphetamine, MDMA,

XLR-11.

Thứ tû: BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung nâm 2017) đã có sự thay đổi về

đôn vị tính từ “trọng lûợng” thành “khối lûợng” trong các điều luật để đảm

bảo tính chính xác của đôn vị tính.

27

Thứ nâm: Bổ sung hành vi “c) Đối với 02 ngûời trở lên;” là tình tiết định

khung tâng nậng quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung nâm

2017).

1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội mua bán trái phép chất ma túy

1.2.2.1. Các dấu hiệu thuộc cấu thành cơ bản tội mua bán trái phép chất ma túy

 Khách bthể bcủa btội bphạm

bkhách bthể btrực btiếp blà bchế bđộ bthống bnhất bquản blý bcủa bNhà bnước bvề bcác bchất bma btúy.

Tội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy bquy bđịnh btại bĐiều b251 bBLHS bnăm b2015 bcó

btúy blà bcác bchất bma btúy. bChất bma btúy blà bcác bchất bgây bnghiện, bchất bhướng bthần, bđược bquy

bđịnh bcác bdanh bmục bdo bChính bphủ bban bhành. bNhư bvậy bchỉ bnhững bchất bgây bnghiện, bchất

bhướng bthần, bđược bquy bđịnh btrong bdanh bmục bdo bchính bphủ bban bhành bthì bmới bbị bcoi blà bma

btúy. bTheo bNghị bđịnh bsố b82/2013/NĐ-CP bChính bphủ bban bhành bcác bdanh bmục bcác bchất

bma btúy bvà btiền bchất bthì bhiện bnay bcác bchất bma btúy bbao bgồm b235 bchất bchia bthành b3 bdanh

bmục bvà b41 btiền bchất bkhông bthể bthiếu btrong bquá btrình bsản bxuất, bđiều bchế bma btúy.

Đối btượng btác bđộng bcủa btội bphạm: bĐối btượng bcủa btội bmua bbán btrái bphép bchất bma

 Khách bquan bcủa btội bphạm

bnghiên bcứu bmặt bkhách bquan bcủa btội bphạm bcó bvai btrò brất bquan btrọng btrong bviệc bđịnh btội bvà

bđịnh bkhung bhình bphạt, bvà bthông bqua bmặt bkhách bquan bchúng bta bcũng bcó bthể bxác bđịnh

bđược bmặt bchủ bquan, bchủ bthể bvà bkhách bthể bcủa btội bphạm.

Mặt bkhách bquan bđược bhiểu blà bnhững bbiểu bhiện bbên bngoài bcủa btội bphạm. bViệc

bcon bngười bcó bthể bnhận bbiết btrực btiếp bđược bbao bgồm bcác byếu btố: bHành bvi bkhách bquan

bnguy bhiểm bcho bxã bhội; bhậu bquả bnguy bhiểm bcho bxã bhội; bmối bquan bhệ bnhân bquả bgiữa bhành

bvi bvà bhậu bquả; bcác bđiều bkiện bbên bngoài bcủa bviệc bthực bhiện bhành bvi bphạm btội b(công bcụ,

bphương btiện, bthời bgian, bđịa bđiểm bphạm btội…).

Mặt bkhách bquan bcủa btội bphạm bbiểu bhiện brõ bnét bnhất bcác byếu btố bcủa btội bphạm bmà

Hành bvi bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy blà bmột btrong bcác bhành bvi bsau bđây:

bma btúy bdo bđâu bmà bcó) bbao bgồm bcả bviệc bbán bhộ bchất bma btúy bcho bngười bkhác bđể bhưởng

btiền bcông bhoặc bcác blợi bích bkhác: bBán btrái bphép bchất bma btúy bcho bngười bkhác blà bdùng bma

Bán btrái bphép bchất bma btúy bcho bngười bkhác b(không bphụ bthuộc bvào bnguồn bgốc bchất

28

btúy bmình bcó bđược bdưới bbất bkỳ bhình bthức bnào bnhư: bMua bđược, bxin bđược, bnhặt bđược,

bngười bkhác bgửi bbán bhộ bhoặc bchiếm bđoạt bđược bma btúy… bđể bbán bcho bngười bkhác blấy btiền,

btài bsản bhoặc blợi bích bkhác. bTrường bhợp bbán bhộ bchất bma btúy bcho bngười bkhác bđể bhưởng btiền

bcông bhoặc bcác blợi bích bkhác bcũng bđều bbị btruy bcứu btrách bnhiệm bhình bsự btheo bĐiều b251 bcủa

bBLHS bnăm b2015 blà bđể btránh bmột bsố btrường bhợp btrên bthực btế bngười bphạm btội bkhi bbị bphát

bhiện, bbắt bgiữ bkhai bbán bhộ bchất bma btúy bcho bngười bkhác bnhằm bphủ bnhận bhành bvi bphạm btội

bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy.

blợi bích bkhác bđể bđổi blấy bchất bma btúy bvà bdùng bchất bma btúy bđó bđể bbán blại bcho bngười bkhác

bnhằm bthu btiền bhoặc btài bsản. bChỉ bkhi bnào bxác bđịnh bđược brõ bhành bvi bmua bchất bma btúy

bnhằm bmục bđích bbán blại bcho bngười bkhác bthì bmới bđược btruy bcứu btrách bnhiệm bhình bsự bvề

btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy. bViệc bxác bđịnh bhành bvi bmua bchất bma btúy bcó bnhằm bmục

bđích bbán btrái bphép bhay bkhông bcần bđược bxác bđịnh brõ bbởi bđó blà bcăn bcứ bđể btruy bcứu btrách

bnhiệm bhình bsự bvề btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy. bViệc bxác bđịnh bmục bđích bngười bmua

bchất bma btúy bcó bnhằm bbán btrái bphép bhay bkhông bcũng bchỉ bphức btạp btrong btrường bhợp bma

btúy bcó btrọng blượng b(thể btích) bít bvà bngười bphạm btội bkhai bnhận bmua blà bđể bsử bdụng. bCòn bđối

bvới btrường bhợp bngười bmua blượng bma btúy blớn bthì bviệc bxác bđịnh bmục bđích bđơn bgiản bhơn

bvà bcăn bcứ bvào bnhững btình btiết bxung bquanh bvụ bán, bcó bthể bxác bđịnh bđược btội bmua bbán btrái

bphép bcủa bngười bphạm btội. bViệc bxác bminh bngười bphạm btội bcó bmục bđích bbán bchất bma btúy

bcho bngười bkhác bhay bkhông blà btrách bnhiệm bcủa bcơ bquan btiến bhành btố btụng bvà bngười btiến

bhành btố btụng. bĐây blà bnhiệm bvụ bquan btrọng bbởi bnếu bkhông bchứng bminh bđược bmục bđích

bmua bbán bcủa bngười bphạm btội bthì btùy btrường bhợp bchỉ bcó bthể btruy btố bngười bphạm btội bvề btội

btàng btrữ bhoặc bvận bchuyển btrái bphép bchất bma btúy, bmà btrên bthực btế bthì bđó blà bnhững btội bcó

bmức bđộ bnguy bhiểm bthấp bhơn btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy.

Mua bchất bma btúy bnhằm bbán btrái bphép bcho bngười bkhác: bLà bdùng btiền, btài bsản bhoặc

bnhằm bbán btrái bphép bcho bngười bkhác blà bbằng blời bnói bhoặc bhành bđộng bđể bngười bkhác bcho

bmình bchất bma btúy, brồi bsau bđó bđem bchất bma btúy bđó bbán bcho bmột bngười bthứ bba bđể blấy btiền

bhoặc btài bsản.

Xin bchất bma btúy bnhằm bbán btrái bphép bcho bngười bkhác: bHành bvi bxin bchất bma btúy

29

bnguồn bgốc bchất bma btúy bdo bđâu bmà bcó).

Dùng bchất bma btúy bnhằm btrao bđổi bthanh btoán btrái bphép b(không bphụ bthuộc bvào

bnhằm bbán blại btrái bphép bcho bngười bkhác.

Dùng btài bsản bkhông bphải blà btiền bđem btrao bđổi, bthanh btoán… blấy bchất bma btúy

bchất bma btúy b(không bphụ bthuộc bvào bnguồn bgốc bchất bma btúy bdo bđâu bmà bcó) bsau bđó bđem

bbán bchất bma btúy bđó bcho bngười bkhác bđể blấy btiền bhoặc btài bsản.

Tàng btrữ bchất bma btúy bnhằm bbán btrái bphép bcho bngười bkhác: bLà bhành bvi bcất bgiữ

bdịch bma btúy bbằng bbất bkỳ bhình bthức bnào btừ bđịa bđiểm bnày bđến bđịa bđiểm bkhác, bvới bmục bđích

bđể bbán bchất bma btúy bcho bngười bkhác bđể blấy btiền bhoặc btài bsản. bNếu bkhông bchứng bminh

bđược bmục bđích bvận bchuyển blà bđể bbán bcho bngười bkhác bthì bchỉ bcó bthể bđịnh btội bdanh blà bvận

bchuyển btrái bphép bchất bma btúy. bViệc bchứng bminh bmục bđích bmua bbán bchất bma btúy bcủa

bngười bphạm btội blà btrách bnhiệm bcủa bcác bcơ bquan bvà bngười btiến bhành btố btụng.

Vận bchuyển bchất bma btúy bnhằm bbán btrái bphép bcho bngười bkhác: bLà bhành bvi bchuyển

btoán btrái bphép bđều bbị btruy bcứu btrách bnhiệm bhình bsự btheo bĐiều b251 bBLHS bnăm b2015,

bkhông bphụ bthuộc bvào bnguồn bgốc bchất bma btúy bđó bdo bđâu bmà bcó. bCòn blại bcác bhành bvi bkhác

bnhư bmua, bxin, btàng btrữ, bvận bchuyển btrái bphép bchất bma btúy… bthì bcần bphải bchứng bminh

bđược bmục bđích bthực bhiện bhành bvi bnày blà bbán btrái bphép bchất bma btúy bđó. bNhư bvậy, bkhi bxác

bđịnh bhành bvi bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy bcần bchú bý bmột bsố bvấn b bđề bsau:

Với bhành bvi bbán btrái bphép bchất bma btúy, bdùng bchất bma btúy bnhằm btrao bđổi, bthanh

bthuộc bvào bnguồn bgốc bchất bma btúy bdo bđâu bmà bcó; bkhông bphụ bthuộc bvào bchất bma btúy bđó blà

bthật bhay blà bgiả, bhàm blượng bcao bhay bthấp. bTức blà bhành bvi bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy

btự bnó bđã bxác blập btội bdanh bcho bngười bphạm btội, bcác byếu btố bvề bchất bhay bvề blượng bvà bcác

bvấn bđề bliên bquan bkhác bchỉ bgóp bphần bđịnh bkhung bhình bphạt.

Thứ bnhất, bchất bma btúy bmà bngười bphạm btội bcó bđể bbán bcho bngười bkhác bkhông bphụ

bchất bma btúy bkèm btheo bcác bhành bvi bkhác bnhư btàng btrữ, bvận bchuyển bhoặc bchiếm bđoạt bchất

bma btúy bthì btùy btừng btrường bhợp bcụ bthể bmà bđịnh btội blà b“Tội btàng btrữ, bmua bbán btrái bphép

bchất bma btúy”, b“Tội bvận bchuyển, bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy”, b“Tội bchiếm bđoạt, bmua

Thứ bhai, btrong btrường bhợp bngười bphạm btội bvừa bcó bhành bvi bmua bbán btrái bphép

30

bbán btrái bphép bchất bma btúy” bhay btội bdanh bđầy bđủ b“Tội btàng btrữ, bvận bchuyển, bmua bbán btrái

bphép bhoặc bchiếm bđoạt bchất bma btúy”.

bdẫn bvề btrách bnhiệm bhình bsự bcho bmột bsố btrường bhợp bvề btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy

bnhư bsau:

Nghị bquyết b02/2003/NQ-HĐTP bcủa bhội bđồng bthẩm bphán bTAND btối bcao bhướng

bkhác bvà bcòn bcho bhọ bsử bdụng bđịa bđiểm bthuộc bquyền bsở bhữu, bchiếm bhữu bhoặc bquản blý bcủa

bmình bđể bhọ bsử bdụng btrái bphép bchất bma btuý, bthì bngoài btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btuý,

bngười bđó bcòn bphải bchịu btrách bnhiệm bhình bsự bvề bTội bchứa bchấp bsử bdụng btrái bphép bchất

bma btuý.

Điểm be bmục b2 bphần bII bquy bđịnh: bNgười bnào bbán btrái bphép bchất bma btuý bcho bngười

 Mặt bchủ bquan bcủa btội bphạm

btội bnhận bthức bđược btính bnguy bhiểm bcho bxã bhội bcủa bhành bvi bmà bmình bthực bhiện, bbiết brõ

bhành bvi bcủa bmình bbị bpháp bluật bcấm, bthấy btrước bđược bhậu bquả bcủa bhành bvi bnhưng bvẫn

bquyết btâm bthực bhiện. bĐối bvới bhành bvi bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy bchỉ bcó bthể bđược

bthực bhiện bdo bcố bý btrực btiếp, bkhông bcó btrường bhợp bnào bdo bcố bý bgián btiếp

Lỗi bcủa bngười bphạm btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy blà blỗi bcố bý, bngười bphạm

 Chủ bthể bcủa btội bphạm

bnhiệm bhình bsự bvà bđạt bđến bđộ btuổi bnhất bđịnh. bĐối bvới btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy

bchỉ bnhững bngười bsau bđây bmới bcó bthể blà bchủ bthể bcủa btội bphạm bnày:

Chủ bthể bcủa btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy blà bbất bkỳ bai bcó bnăng blực btrách

bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy bquy bđịnh btại bkhoản b1 bĐiều b251 bBLHS bnăm b2015, bvì

bkhoản b1 bĐiều b251 blà btội bphạm bnghiêm btrọng bmà btheo bquy bđịnh bthì bngười btừ bđủ b14 btuổi

bđến bdưới b16 btuổi bphải bchịu btrách bnhiệm bhình bsự bvề btội bphạm brất bnghiêm btrọng bdo bcố bý bvà

btội bphạm bđặc bbiệt bnghiêm btrọng. bChỉ bngười btừ bđủ b16 btuổi btrở blên bmới bbị btruy bcứu btrách

bnhiệm bhình bsự bvề btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy btheo bkhoản b1 bĐiều b251. bNgười btừ

Người btừ bđủ b14 btuổi bđến bdưới b16 btuổi bkhông bphải bchịu btrách bnhiệm bhình bsự bvề btội

31

bđủ b14 btuổi btrở blên bphải bchịu btrách bnhiệm bhình bsự bvề btội bmua bbán btrái bphép bchất bma btúy

bthuộc btrường bhợp bquy bđịnh btại bkhoản b2, bkhoản b3 bvà bkhoản b4 bĐiều b251 bBLHS b2015.

1.2.2.2. Các dấu hiệu định khung tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy

 Phạm tội có tổ chức ( khoản 2, Điều 251)

Khoản a Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức

đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Như

vậy phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố

ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi mua bán

trái phép chất ma túy dưới sự điều khiển thông nhất của “Người tổ chức”.

Phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức có thể có tất cả những

người đồng phạm, nhưng cũng có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành.

Nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành. Nếu thiếu một trong hai

điều này thì không thể có phạm tội có tổ chức.

Trong phạm tội có tổ chức phải có sự điều khiển trung của một tên cầm đầu.

Thường thấy trong các đường dây ma túy lớn thường có rất nhiều người, có đường

dây có đến hàng trăm tên, nhưng không phải tất cả những tên tham gia trong đường

dây ma túy đó đều thực hiện hành vi của mình dưới sự chỉ huy của một người mà có

thể hình thành từng nhóm phạm trong đường dây mình tham gia. Vì vậy, khi xác

định tội có tổ chức trong những trường hợp này cần chú ý đến đặc điểm và tính chất

của tội phạm về ma túy, trên cơ sở những tình tiết vụ án để phân biệt trường hợp

nào là phạm tội có tổ chức và trường hợp nào không phải có tổ chức. Phạm tội có tổ

chức thường gây ra thiệt hại lớn so với thông thường, vì vậy cần phải áp dụng hình

phạt nghiêm khắc đối với những người phạm tội có tổ chức.

 Phạm tội 2 lần trở lên (điểm b, khoản 1 Điều 251)

Khoản 2.2. Điều 2 Mục I, Thông tư 17/2015 hướng dẫn một số quy định tại

Chương XVII – Các tội phạm ma túy của Bộ luật hình sự năm 2015 hướng dẫn tình

tiết phạm tội nhiều lần theo điểm b, khoản 2, Điều 251 như sau: “Tình tiết phạm tội

nhiều lần được hiểu là đã có từ 2 lần phạm tội trở lên (hai lần bán trái phép chất

ma túy trở lên), mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố CTTP quy định tại khoản 1 điều

32

luật tương ứng, đồng thời trong số các lần đó là bị truy cứu TNHS và chưa hết thời

hiệu truy cứu TNHS.

Trong trường hợp này, người phạm tội phải chịu TNHS về tổng số lượng

chất ma túy của các lần công lại, nếu điều luật có quy định về số lượng chất ma túy

để định khung hình phạt”.

Như vậy, với hướng dẫn này nếu có hai lần mua bán trái phép chất ma túy

mà trong đó đã có một lần bị kết án được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt không

coi là phạm tội nhiều lần. Còn nếu có từ ba, bốn, năm lần mua bán trái phép chất ma

túy, trong đó đã có một lần bị kết án được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt thì vẫn

coi là phạm tội nhiều lần vì ít nhất cũng còn hai lần chưa chịu TNHS.

Phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng được áp dụng phổ biến với tội mua

bán trái phép chất ma túy.

Ví dụ: Ngày 01/07/2013 Nguyễn Thị C (sinh năm 1976, trú tại số 14 MK,

đường Đ. Ng, Thị xã T, Tỉnh B) mua 2 gói heroin trọng lượng 0,075 gam với giá

300.000 đồng của một người không quen biết nhằm mục đích bán kiếm lời. Hồi 09

giờ 45 phút ngày 03/07/2013, tại nhà bị cáo C đã bán cho Nguyễn Văn H, 01 gói

heroin trọng lượng 0,0403 gam với giá 200.000 đồng, cùng lúc đố C nhận của Trần

Văn B 200.000 đồng để bán cho T 01 gói heroin. C lên tầng 02 lấy ma túy xuống

tầng để đưa ma túy cho T, nhưng chưa kịp thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Ngày 18/11/2013, HĐXX sơ thẩm TAND tỉnh B, tuyên bố Nguyễn Thị C

phạm tội mua bán trái phep chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 194.

Xử phạt Nguyễn Thị C 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam, tạm giữ 03

thàng 07 năm 2013. (Bản án số 09/2013/HSST của TADN tỉnh B).

 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn ( khoản 2 Điều 251)

Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng

hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao

thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện

công vụ (Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015).

33

Người do bổ nhiệm, do bầu cử có thể được coi là cán bộ, công chức Nhà

nước, Điều 2a Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 đã giải

thích rất cụ thể về khái niệm công chức. Là thành viên của Công ước Liên hợp quốc

về chống tham nhũng 2003, trên tinh thần của Công ước, Việt Nam đã cụ thể hóa

khái niệm công chức trong Luật cán bộ công chức tại Điều 4.

Ngoài những cán bộ, công chức ra, những người do hợp đồng hoặc do một

hình thức khác, những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được

các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hợp đồng là một

công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ trong một thời gian nhất định.

Những người này cũng được gọi là những người có chức vụ, quyền hạn.

Như vậy, trong tội mua bán trái phép chất ma túy, tình tiết lợi dụng chức vụ,

quền hạn có thể được hiểu là “người phạm tội đã dựa vào chức vụ, quyền hàn mà

mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội”. (khoản 2.1 Điều 2 mục 1,

Thông tư 17/2007 hướng dẫn một số quy định tại Chương XVII – Các tội phạm về

ma túy của Bộ luật hình sự năm 1999 hướng dẫn tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền

hạn theo điểm c, khoản 2 Điều 194).

Sở dĩ, tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn được quy định là tình tiết khung

tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy là bởi trên thực tế do tính chất siêu

lợi nhuận của ma túy mà đã có không ít ngườ có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan

phòng chống ma túy, cơ quan bảo vệ pháp luật đặc biệt là đội ngũ Công an, hải

quan, bộ đội biên phòng tham gia mua bán ma túy. Sự góp mặt của những người

này vào các đường dây mua bán ma túy, như một sự “bảo kê” đối với bọn phạm tội.

Dựa vào chức vụ, quyền hạn của mình trong đơn vị công tác, họ có thể bao che

hoặc giúp chúng nắm bắt thông tin, nắm pháp luật, tạo điều kiện cho chúng để tiến

hành hành vi phạm tội. Hành vi của những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để

mua bán trái phép chất ma túy, có tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn so với

hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thông thường, bởi hành vi này làm cho

công tác phòng chồng ma túy trở nên vô cùng khó khăn, kéo theo đó là tội phạm tham

nhũng ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia. Do vậy, theo tác giả Bộ luật hình sự

34

quy quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn được quy định là tình tiết khung tăng

nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy là rất cần thiết và hợp lý.

 Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội ( khoản 2, Điều 251)

Khoản 2.2 Điều 2 mục I, Thông tư 17/2015 hướng dẫn một số quy định tại

Chương XVII – Các tội phạm về ma túy của Bộ luật hình sự năm 2015 hướng dẫn

tình tiết lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 251 như

sau: “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 251 được

hiểu là người phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc

hoặc công tác để thực hiện hành vi phạm tội”

Đây là trường hợp, người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là

thành viên để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thông thường người

phạm tội trong trường hợp này là thông qua các hợp đồng mua bán để thực hiện

hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi này cần thiết phải được quy định

trong Bộ luật hình sự là tính tiết định khung tăng nặng để đáp ứng yêu cầu cần thiết

trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm ngủy ngiểm.

 Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em ( khoản 2 Điều 251)

Theo quy định tại Điều 251 BLHS 2015, tái phạm nguy hiểm là những

trường hợp:

- Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,

chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.

- Như vậy, được coi là tình tiết “tái phạm nguy hiểm” theo khoản 2 Điều

251 nếu thuộc một trong hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, trước khi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy quy

định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 251 người phạm tội đã bị kết án về tội rất

nghiêm trọng, tội đặc bệt nghiêm trọng do cố ý, bị kết án tiếp, chưa được xóa án

tích sau đó lại phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

1.2.2.3. Tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Điều 251 BLHS 2015

1.2.2.3. Tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Điều 251 BLHS 2015

35

Theo quy định tại Điều 30 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) :“Hình

phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc

hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội ”[30]. Hình phạt của tội mua bán trái

phép chất ma túy theo Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định

4 khung hình phạt, bao gồm khung cơ bản và khung tăng nặng. Hình phạt này được

cụ thể như sau:

- Khung cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 251 (sửa đổi bổ sung 2017).Người

nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

- Khung tăng nặng thứ nhất quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017): Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

+ Có tổ chức;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Đối với 02 người trở lên;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

+ Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người

dưới 16 tuổi;

+ Qua biên giới;

+Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam

đến dưới 01 kilôgam;

+ Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-

11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

+ Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

+ Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

+ Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

36

+ Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100

gam;

+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250

mililít;

+ Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó

tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm h đến điểm o khoản 2 Điều 251 BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung năm

2017);

+ Tái phạm nguy hiểm

- Khung tăng nặng thứ hai quy định tại khoản 3 Điều 251 BLHS 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017): Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị

phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

+ Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam

đến dưới 05 kilôgam;

+ Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-

11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

+ Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;

+ Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;

+ Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;

+ Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300

gam;

+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750

mililít;

+ Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó

tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều 251 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm

2017).

37

- Khung tăng nặng thứ ba quy định tại khoản 4 Điều 251 BLHS 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017): Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị

phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

+ Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở

lên;

+ Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-

11 có khối lượng 100 gam trở lên;

+ Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

có khối lượng 75 kilôgam trở lên;

+ Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;

+ Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;

+ Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;

+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;

+ Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó

tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều 251 BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung năm

2017).

1.2.2.4. Hình phạt

“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất được quy

định trong luật hình sự do tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm

nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội

phạm bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân.

Tính nghiêm khắc của hình phạt được thể hiện ở chỗ, người bị kết án có thể

bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền tài sản về chính trị và cả quyền sống.

Bên cạnh đó, hình phạt để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án trong

thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật.

38

Hình phạt được áp dụng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm

chính và hình phạt bổ sung. Cụ thể: khoản 1 Điều 251 có khung hình phát từ 02

năm đến 07 năm tù; khoản 2 có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm tù; khoản

3 có khung hình phạt từ 10 năm đến 20 năm tù.

Ngoài các hình phạt chính, tùy từng trường hợp, người phạm tội còn có thể

bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ; cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm

hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

39

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

“Chương 1 của luận văn, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy, để từ đó có cách nhìn toàn diện hơn về chính sách hình

sự của Đảng, Nhà nước ta đối với tội phạm này. Theo đó, tác giả đã khái quát lịch

sử lập pháp đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo trình tự về mặt thời gian

tương ứng với các mốc thời gian của quá trình xây dựng BLHS 1985, 1999, 2015.

Trên cơ sở nghiên cứu quy định khái niệm chung về tội phạm trong Bộ luật

hình sự năm 2015, kết hợp với quy định tại Điều 251 BLHS, tác giả đã đưa ra khái

niệm về tội mua bán trái phép chất ma túy và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội

mua bán trái phép chất ma túy, bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan

của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm.

Đồng thời, Chương 1 của luận văn đã phân tích, làm rõ hình phạt đối với tội

mua bán trái phép chất ma túy theo khung cơ bản (khoản 1 Điều 251 BLHS 2015),

khung tăng nặng tội mua bán trái phép chất ma túy, phân biệt tội mua bán trái phép

chất ma túy với các tội phạm khác được quy định trong BLHS.

Việc nghiên cứu, làm rõ những cơ sở lý luận và pháp lý của tội mua bán trái

phép chất ma túy có ý nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ cơ bản, tiền đề để nghiên

cứu hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép

chất ma túy nói chung và trên địa bàn thành phố Cẩm Phả nói riêng.

40

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ CẨM PHẢ

2.1. Định tội danh mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm

Phả tỉnh Quảng Ninh

2.1.1. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành

phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh theo cấu thành tội phạm cơ bản

Luật hình sự quy định tội phạm bằng cách mô tả tội phạm. Những dấu hiệu

sử dụng để mô tả tội phạm phải vừa phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm của tội

phạm cụ thể và vừa đủ để phân biệt tội phạm này với tội phạm cụ thể khác. Tùy

thuộc vào các tình tiết đặc trưng cho khách thể của tội phạm, mặt khách quan, chủ

thể và mặt chủ quan, tội phạm có thể có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

Dựa vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, cấu thành tội phạm có

thể được chia thành: Cấu thành tội phạm cơ bản; cấu thành tội phạm tăng nặng; cấu

thành tội phạm giảm nhẹ.

“Cấu thành tội phạm cơ bản là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc đối

với mọi trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội phạm

đó và cho phép phân biệt tội phạm này với tội phạm khác” [50, tr.133].

Cấu thành tội phạm cơ bản của một loại tội phạm thường được quy định

ngay trong khoản 1 của tội đó. Nội dung cơ bản của cấu thành tội phạm cơ bản bao

gồm những dấu hiệu định tội.

Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội mua bán trái phép chất

ma túy là định tội danh theo những dấu hiệu pháp lý đặc trưng bắt buộc của tội phạm

quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Theo đó, khoản 1 Điều 194 BLHS quy định:

Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Cẩm Phả thì từ năm 2014 đến

năm 2018, tổng số vụ án chung là 5661 vụ/9440 bị cáo. Riêng đối với tội mua bán

trái phép chất ma túy thì tổng số vụ là 946 vụ/1118 bị cáo. Đối với tội mua bán trái

41

phép chất ma túy thì số bị cáo bị định tội danh theo khoản 1 chiếm tỷ lệ nhiều nhất

với 773 bị cáo (69,1%), trong đó mức hình phạt từ 3 năm tù đến dưới 7 năm tù

chiếm tỷ lệ 36,5%, mức hình phạt dưới 3 năm tù chiếm tỷ lệ 32,6%.

Tội mua bán trái phép chất ma túy chủ yếu là bắt quả tang, hành vi phạm tội

là lỗi cố ý trực tiếp, thu giữ tang vật ngay tại hiện trường nên khi bị bắt, người phạm

tội thường thành khẩn khai nhận về hành vi của mình, mức hình phạt theo cấu thành

tội phạm cơ bản của tội này là từ hai năm đến bảy năm tù. Đây là loại tội phạm

nguy hiểm nên đa số không áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo, sau khi tuyên

án, các bị cáo đều nhận tội. Đồng thời, người phạm tội ở khoản 1, không có tình tiết

định khung, đa phần là phạm tội lần đầu và có các tình tiết giảm nhẹ nên trung bình

mức hình phạt ở khoản này là từ 2 năm tù đến 5 năm tù.

Theo thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân hai cấp trong

thành phố Cẩm Phả đã xét xử sơ thẩm tổng số 946 vụ án, với 1.118 bị cáo về tội

mua bán trái phép chất ma túy. Trung bình mỗi năm TAND hai cấp của thành phố

Cẩm Phả xét xử sơ thẩm 189.2 vụ án, với 223.6 bị cáo.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội mua bán trái

phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả

từ năm 2014 đến năm 2018

Năm

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số Số vụ án và bị cáo được Tòa án xét xử sơ thẩm Số vụ án 156 178 212 208 192 946 Số bị cáo 198 217 255 232 216 1.118

Nguồn: TAND thành phố Cẩm Phả

“Nghiên cứu Bảng 2.1 cho thấy số vụ án, số bị cáo phạm tội tội mua bán trái

phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả có sự tăng, giảm đáng kể qua

từng năm và đều tăng so với năm 2014. Trong đó năm 2016 có tỉ lệ tăng cao nhất cả

về số vụ và số bị cáo (35.9% về số vụ và 28.8% về số bị cáo) so với năm 2014.”

42

Vụ án điển hình: Hồi 14 giờ 05 ngày 25/11/2018, tại khu vực bãi đất trống

sát đường quốc lộ 18, thuộc tổ 1, khu 12, phường Mông Dương, thành phố Cẩm

Phả, tỉnh Quảng Ninh, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuy Công an thành phố

Cẩm Phả phát hiện bắt quả tang Phạm Quang Khánh có hành vi tàng trữ trái phép

chất ma túy, thu giữ của Khánh:

- 01 gói giấy bạc màu trắng và 04 gói giấy có chữ viết bên trong đều chứa

chất bột màu trắng.

- 01 điện thoại di động Nokia màu đen lắp sim số 0971968066; 01 điện thoại

di động Nokia màu vàng lắp sim số 0357155576.

- 01 ví giả da màu nâu, bên trong có: 01 giấy chứng minh dân nhân, 01 giấy

phép lái xe mô tô, 01 giấy đăng ký xe mô tô đều mang tên Phạm Quang Khánh; số

tiền 1.605.000 đồng; 01 bơm kim tiêm;

- 01 xe mô tô Honda Blade, màu trắng – đen, biển số 14U1-244.32.

Bản cáo trạng số: 49/CT-VKS-CP ngày 03/4/2019 của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Cẩm phả truy tố bị cáo Phạm Quang Khánh về tội “Mua bán trái

phép chất ma tuy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Định tội danh đối với bị cáo trong trường hợp dựa trên lời khai của người

làm chứng, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác bởi quá trình bắt giữ

không thu giữ được chất ma túy.

Vụ án điển hình: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 19/12/2018, tại khu vực tổ 93, khu

7B, phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả

tang Lê Bá Chỉnh đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đức

Hạnh. Vật chứng thu giữ: Thu của Nguyễn Đức Hạnh 01 túi nilon chứa ma túy loại

Methamphetamine, khối lượng 0,0083 gam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu

ASUS màu đen. Thu của Lê Bá Chỉnh số tiền 450,000 đồng, 01 điện thoại di động

nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp 01 sim. Tại bản số: 71/2019/HS-ST ngày 14/06/2019

TAND thành phố Cẩm Phả xử phạt Lê Bá Chỉnh, Nguyễn Đức Hạnh tội mua bán

trái phép chất ma túy theo khoản 1, Điều 58 BLHS.

43

2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành

phố Cẩm Phả theo cấu thành tội phạm tăng nặng

Cấu thành tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại

khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194 BLHS. Để thỏa mãn theo cấu thành tội phạm

tăng nặng thì trước tiên phải thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản của

tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS và nếu thỏa mãn thêm các dấu

hiệu nào được quy định tại các khoản tăng nặng thì sẽ bị xử lý theo điểm, khoản

tăng nặng tương ứng.

Cấu thành tội phạm tăng nặng tại khoản 2 Điều 194, ngoài các dấu hiệu về

trọng lượng, thể tích chất ma túy còn có các dấu hiệu khác: Có tổ chức, phạm tội

nhiều lần; tái phạm nguy hiểm; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa

cơ quan, tổ chức;vận chuyển, mua bán qua biên giới; lợi dụng trẻ em vào việc phạm

tội hoặc bán ma túy cho trẻ em.

Cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 194 chỉ

có dấu hiệu về trọng lượng, thể tích chất ma túy..

Bảng 2.2: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán

trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả

từ năm 2014 đến năm 2018

Năm

Tổng số bị cáo 198 217 255 232 216 1.118

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Tỷ lệ % CTTP cơ bản Khoản 1 139 146 185 162 141 773 69,1 Cấu thành tội phạm tăng nặng Khoản 2 56 67 63 65 70 321 28,7 Khoản 3 3 4 7 5 5 24 2,2 Khoản 4

Nguồn: TAND thành phố Cẩm Phả

Nghiên cứu Bảng 2.2 cho thấy số bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma

túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả từ năm 2014 đến năm 2018 bị xét xử theo

khoản 1 Điều 194 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 69,1%, tiếp theo là khoản 2 Điều 194

BLHS với tỷ lệ là 28,7%, khoản 3 chiếm tỷ lệ 2,2%.

44

Qua khảo sát thực tiễn xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả từ năm 2014 đến năm 2018 thấy rằng đối ới cấu thành tội phạm

tăng nặng thì số các bị cáo bị định tội danh theo khoản 2 Điều 194 chiếm tỷ lệ cao

nhất (321/345 bị cáo, chiếm tỷ lệ 93,04%), số các bị cáo bị định tội danh theo khoản

3 là 24/345 bị cáo, chiếm tỷ lệ 6,96%.

Hoạt động định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội

phạm tăng nặng của TAND thành phố Cẩm Phả còn gặp một số khó khăn, vướng

mắc, đặc biệt sau khi có Công văn 234/TANDTC-HS của TAND tối cao về việc

tiến hành giám định hàm lượng các chất ma túy khi thu giữ để phục vụ công tác xét

xử thì việc định tội danh giữa các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có

nhiều điểm thiếu thống nhất trong việc giải quyết vụ án. Trong khi các cơ quan điều

tra và Viện kiểm sát vẫn căn cứ vào trọng lượng chất ma túy đã thu giữ được để tiến

hành định tội danh và định khung hình phạt thì ngược lại, cơ quan Tòa án lại căn cứ

vào trọng lượng chất ma túy sau khi giám định hàm lượng để định khung hình phạt.

Thực tế đó đã gây ra tình trạng trong một số vụ án sau khi điều tra Viện kiểm sát đã

truy tố bị can theo quy định tại khoản 2, khoản 3 nhưng khi xét xử Tòa án lại áp

dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà viện kiểm sát đã truy tố do trọng

lượng thay đổi sau khi giám định hàm lượng.

- Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 194

BLHS.

Qua khảo sát thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Cẩm Phả cho thấy: Đối

ới số các bị cáo bị định tội danh ề tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 2

Điều 194 BLHS thì các tình tiết tăng nặng định khung được áp dụng chủ yếu là

“phạm tội nhiều lần”, “tái phạm nguy hiểm”. Cũng qua kết quả khảo sát cho thấy

các đối tượng bị xét xử theo khoản 2 Điều 194 BLHS thường là người nghiện ma

túy. Để có ma túy sử dụng, các đối tượng này đã “làm liều”, đi mua ma túy với số

lượng nhỏ về bán cho các con nghiện khác kiếm lời, bù đắp số tiền mua ma túy sử

dụng cho bản thân, gọi là “làm hàng sáo” và đa số các đối tượng này đã bị kết án về

tội phạm về ma túy, tội xâm phạm sở hữu. Vì vậy khi bị xét xử, thường bị định tội

45

với tình tiết tăng nặng định khung là “phạm tội nhiều lần”, “tái phạm nguy hiểm”.

Các tình tiết khác quy định tại khoản 2 Điều 194 ít được áp dụng hơn.

Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Cẩm Phả cho thấy số bị cáo bị

định tội danh về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 194 BLHS từ

năm 2013 – 2017 là 321 bị cáo chiếm 28,7% tổng số bị cáo bị xét xử về tội mua bán

trái phép chất ma túy.

Vụ án điển hình: Hồi 20 giờ ngày 19/12/2018 tại tổ 5, khu 4 phường Mông

Dương, thành phố Cẩm Phả, Nguyễn Đình Mỹ đã bán cho Đỗ Minh Thắng 01 túi

ma túy đá với giá 2.700.000 để Thắng sử dụng và bán, đến 14h 35 phút ngày

21/12/2018 tại tổ 4, khu 13, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, Đỗ Minh

Thắng đã bán 01 túi ma túy đá cho Nguyễn Quốc Lợi và vi Thị Lan với giá

200.000đ để Lợi và Lan sử dụng. Tiếp đến 15h cùng ngày Đỗ Minh Thắng tiếp tục

bán cho Nguyễn Quốc Lợi 01 túi ma túy đá với giá 200.000đ để Lợi sử dụng. Tại cơ

quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình Mỹ khai nhận do nghiện ma túy

từ lâu, để có tiền mua ma túy sử dụng, bị cáo đã đi mua ma túy về bán cho các con

nghiện để kiếm lời và phục vụ nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân. Qua xác minh,

bị cáo Mỹ đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy với mức hình phạt 8

năm tù, chưa được xóa án tích.

Tại bản án số 67/2019/HSST ngày 11/6/2019, TAND thành phố Cẩm Phả,

tỉnh Quảng Ninh đã xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Mỹ về tội “Mua bán trái phép chất

ma tuý”, theo quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 của BLHS [39].

- Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 3 và Khoản 4

Điều 194 BLHS.

Việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 3 và khoản

4 Điều 194 BLHS, trước tiên phải xem xét các hành vi phạm tội đó phải thỏa mãn

đầy đủ các dấu hiệu của CTTP cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS sau đó

mới xem xét đến trọng lượng hoặc thể tích chất ma túy thỏa mãn những quy định tại

điểm nào của khoản 3, khoản 4 Điều 194 BLHS. Giữa khoản 3 và khoản 4 Điều 194

BLHS chỉ khác nhau duy nhất ở trọng lượng hoặc thể tích chất ma túy.

46

Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Cẩm Phả, từ năm 2013 – 2017 có

24 bị cáo (chiếm 2,2%) bị định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 3

Điều 194 BLHS, không có bị cáo bị định tội danh theo khoản 4 Điều 194 BLHS.

Vụ án điển hình: Khoảng 23h ngày 22/5/2018, tại nhà Lê Văn Hùng trú tại

Tổ 2, khu 7A, phường Cẩm Thịnh, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Lê ăn

Hùng đã bán trái phép 0,62 gam Hêrôin cho Võ Minh Quân với số tiền 3.000.000đ.

Sau khi mua 0,62 gam Hêrôin Quân mang số ma túy trên về nhà, chia nhỏ thành 15

gói đưa cho vợ cất giữ 10 gói còn Quân giữ 05 gói sau đó mang bán cho Nguyễn

Văn Ân 02 gói lấy 600.000đ thì bị bắt quả tang. Quân khai ra Hùng nên Công an đã

khám xét nơi ở của Hùng, thu giữ 32 gam Hêrôin. Tại bản án số 54/2019/HSST

ngày 16/5/2019, TAND thành phố Cẩm Phả đã xét xử Lê văn Hùng về tội mua bán

trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 194 BLHS, xét xử Võ Minh Quân

về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS [46].

Qua khảo sát thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Cẩm Phả từ năm 2014

đến năm 2018 thấy rằng việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo

cấu thành tăng nặng của TAND hai cấp trong tỉnh là chính xác, không phát hiện sai

sót nghiêm trọng.

2.1.3. Thực tiễn về tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố

Cẩm Phả trong trường hợp đồng phạm

Đồng phạm là hình thức đặc biệt của việc thực hiện tội phạm, theo quy định

tại khoản 1, Điều 17 BLHS năm 2015 thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở

lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

“Đồng phạm có nghĩa là đã xảy ra một tội phạm nhất định, trong đó có từ hai

người trở lên tham gia, những người đó cùng hoạt động cố ý, họ đã thực hiện tội

phạm cố ý. Do đó, đồng phạm là việc cố ý tham gia của hai người trở lên trong việc

cùng thực hiện tội phạm cố ý” [49, tr.159].

Khoa học luật hình sự phân loại các hình thức đồng phạm sau:

Theo dấu hiệu chủ quan, đồng phạm gồm hai hình thức: Đồng phạm không

có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước. Trong đó, đồng phạm

47

không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm không có sự thỏa thuận, bàn bạc

với nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc có thỏa thuận nhưng không đáng

kể; còn đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm có sự thỏa thuận,

bàn bạc trước khi thực hiện tội phạm.

Theo dấu hiệu khách quan, đồng phạm được chia thành đồng phạm giản đơn

và đồng phạm phức tạp, trong đó đồng phạm đơn giản là hình thức đồng phạm

trong đó những người cùng tham gia vào vụ phạm tội đều có vai trò là người thực

hành; đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số

người tham gia giữ vai trò người thực hành còn những người đồng phạm khác giữ

vai trò xúi giục, tổ chức hay giúp sức.

“Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa

những người cùng thực hiện tội phạm [12, tr.189]. Phạm tội có tổ chức là trường

hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để

thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Phạm tội

có tổ chức là một hình thức đồng phạm, hình thành với phương hướng hoạt động có

tính chất lâu dài và bền vững, có sự phân công sắp đặt vai trò của những người tham

gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và chịu sự điều khiển

của người cầm đầu.”

Như vậy để chứng minh đồng phạm phải chứng minh được có từ hai người

trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và phải chỉ ra được vai trò của từng đồng

phạm để cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Trên thực tế, đặc biệt là đối với tội mua bán

trái phép chất ma túy, trong một số trường hợp cụ thể việc xác định đồng phạm là

không hề đơn giản vì giữa các đối tượng trong tội này thường có quan hệ huyết thống,

gia đình, tình cảm gắn bó hết sức khăng khít; là các đối tượng hết sức “già giơ”, ngoan

cố và họ biết hình phạt là rất nghiêm khắc nên rất ít trường hợp khai ra đồng phạm. Vì

vậy, đối với loại tội phạm này, việc để lọt đồng phạm là khó tránh khỏi.

Qua khảo sát thực tiễn xét xử, nhận thấy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả,

các vụ án mua bán trái phép chất ma túy có đồng phạm chiếm tỷ lệ không nhiều và

trong các vụ án có đồng phạm đó thường chỉ có hai loại người trong đồng phạm, đó

48

là người tổ chức và người thực hành và đa số các đồng phạm đều là người thực

hành. Việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trong trường hợp đồng

phạm được TAND hai cấp trong thành phố Cẩm Phả xem xét cẩn trọng, bám sát các

quy định của BLHS về đồng phạm, xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội.

Tuy nhiên, thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa

bàn thành phố Cẩm Phả vẫn còn một số sai sót, tuy không ảnh hưởng đến tội danh

nhưng việc xác định vai trò đồng phạm là chưa chính xác.

Vụ án điển hình: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/4/2015, Nguyễn Thanh

Nghị gặp Trần Thanh Đô ở quán cà phê Trúc Vườn gần nhà Nghị thuộc tổ 2, khu

4B, phường Cẩm Thịnh, thành phố Cẩm Phả khi cả hai đang uống cà phê thì Đô hỏi

Nghị còn ma túy không và dặn Nghị đến tối sẽ ghé nhà để lấy. Đến khoảng 21 giờ

cùng ngày, Nghị đưa cho bạn gái mình là Nguyễn Lan Phương 05 gói Hêrôin và

dặn khi nào anh Đô đến lấy thì bán cho anh Đô với giá 100.000 đồng một gói, sau

đó Nghị đi ra ngoài. Đến 22 giờ cùng ngày, Trần Thanh Đô đến nhà Nghị thì gặp

Phương, Đô đưa Phương 400.000 đồng và nói "bán anh bốn gói", Phương cầm tiền

và đưa lại cho Đô 04 gói Hêrôin. Khi Phương và Đô đang giao dịch thì bất ngờ

Công an thành phố Cẩm Phả ập vào bắt quả tang. Khi Công an thành phố Cẩm Phả

đang tiến hành giải quyết vụ việc thì Nguyễn Thanh Nghị về nhà, thấy lực lượng

Công an, Nghị lấy 12 gói Hêrôin từ trong người ném ra vườn thì bị bắt quả tang.

Tại bản án số 28/2015/HSST ngày 02/7/2015 của TAND thành phố Cẩm Phả

đã quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 20; Điều 53; điểm p khoản 1 Điều

46; Điều 33 - Bộ luật hình sự: Tuyên các bị cáo: Nguyễn Thanh Nghị và Nguyễn

Lan Phương phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” [41].

Nhận thấy TAND thành phố Cẩm Phả tuyên các bị cáo Nguyễn Thanh Nghị

và Nguyễn Lan Phương phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là có cơ sở và

đúng tội danh. Tuy nhiên trong bản án xác định bị cáo Nguyễn Lan Phương có

vai trò đồng phạm giúp sức là không chính xác mà phải là người thực hành mới

chính xác vì bị cáo Nguyễn Lan Phương là người trực tiếp bán ma túy cho Trần

Thanh Đô.

49

Định tội danh trong trường hợp đồng phạm đối với các đối tượng đi mua hộ,

giao hộ ma túy cho người khác. Theo đó, các bị cáo phải chịu hình phạt về tội mua

bán trái phép chất ma túy vì hành vi đi mua hộ ma túy của mình.

Vụ án điển hình: Khoảng 18 giờ ngày 16/4/2013, khi Trần Văn Mãi đang ở

quán nhậu tại phường Thắng Lợi, Tổ 4, khu Hai giếng 1, phường Cẩm Thủy thì

Nguyễn Văn Đông (kinh doanh dịch vụ cầm đồ tại phường Thắng Lợi) đến đưa cho

Mãi 2 triệu đồng nhờ đi mua hộ Hêrôin (mua nhằm bán lại cho người khác) và cho

Mãi 200 nghìn tiền công. Trần Văn Mãi cầm số tiền đó đến khu vực bến xe phía

nam mua 01 gói Hêrôin với giá 1 triệu 8 trăm nghìn đồng tương đương 2,08 gam.

Sau khi mua xong Mãi về nhà, khoảng 22 giờ cùng ngày Mãi đưa số Hêrôin trên

đến giao cho Đông, đang trên đường đi thì bị bắt quả tang. Tại bản án số

63/2013/HSST ngày 03/6/2013, TAND thành phố Cẩm Phả đã tuyên phạt Nguyễn

Văn Đông và Trần Văn Mãi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1

Điều 194 BLHS [45]

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn thành phố Cẩm Phả

2.2.1. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả theo cấu thành tội phạm cơ bản

Theo quy định tại Điều 194 BLHS, người phạm tội mua bán trái phép chất

ma túy có thể bị áp dụng những hình phạt sau đây: Khoản 1 có mức hình phạt từ 2

đến 7 năm tù; khoản 2 có mức hình phạt từ 7 đến 15 năm tù; khoản 3 có mức

hình phạt từ 15 đến 20 năm tù; khoản 4 có mức hình phạt 20 năm tù, chung thân

và tử hình; khoản 5 là hình phạt bổ sung. Để có thể đưa ra một trong những

quyết định của hình phạt trên đối với bị cáo thì Tòa án cần phải tuân thủ các căn

cứ quyết định hình phạt, ngoài ra còn phải tuân thủ các quy định khác trong

BLHS như nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; các tình tiết

giảm nhẹ TNHS; các tình tiết tăng nặng TNHS; QĐHP trong trường hợp đồng

phạm…Thống kê thực tiễn QĐHP tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả giai đoạn 2013-2017 cho thấy số bị cáo bị quyết định hình

phạt theo khoản 1 Điều 194 BLHS là 773 bị cáo (chiếm tỷ lệ 69,1% tổng số bị

50

cáo bị xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy), trong đó mức hình phạt từ 3

năm tù đến dưới 7 năm tù là 408 bị cáo (chiếm tỷ lệ 36,5%), mức hình phạt dưới

3 năm tù là 365 bị cáo (chiếm tỷ lệ 32,6%).

Loại hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo đều là tù có thời hạn trở lên,

trong đó mức phạt dưới ba năm tù chiếm tỷ lệ cao nhất. Loại hình phạt chung thân

và tử hình không được áp dụng.

51

Bảng 2.3: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả từ năm 2014 đến năm 2018

Năm Dưới 3 năm tù Chung thân Tử hình Số bị cáo Từ 3 năm đến dưới 7 năm tù Từ 7 năm đến dưới 15 năm tù Từ 15 năm đến 20 năm tù

Tỷ lệ % Số bị cáo Tỷ lệ % Số bị cáo Tỷ lệ % Số bị cáo Tỷ lệ % Số bị cáo Tỷ lệ % Tỷ lệ %

2014 198 41,41 57 28,79 56 28,28 82 3 1,52 Số bị cáo Số bị cáo

2015 217 27,65 86 39,63 67 30,88 60 4 1,84

2016 255 28,63 112 43,92 62 24,7 73 7 2,75

2017 232 37,93 74 31,9 65 28,01 88 5 2,16

2018 216 28,7 79 36,57 70 32,41 62 5 2,32

Tổng 1.118 365 32,6 408 36,5 321 28,7 24 2,2

Nguồn: TAND thành phố Cẩm Phả

52

Nghiên cứu Bảng 2.3 cho thấy số bị cáo bị xử phạt với mức hình phạt từ 3

năm tù đến dưới 7 năm tù chiếm tỷ lệ nhiều nhất (36,5%), tiếp theo là mức hình

phạt dưới 3 năm tù (32,6%), mức hình phạt từ 7 đến dưới 15 năm tù chiếm tỷ lệ

28,7%, mức phạt, mức phạt từ 15 đến 20 năm tù chiếm tỷ lệ 2,2% . Hình phạt chung

thân và tử hình không được áp dụng.

Vụ án điển hình: Tại bản án sơ thẩm số 32/2016/HSST ngày 17/6/2016, bị

cáo Cao Ngọc Quý nghiện ma túy từ năm 2005 đến nay. Bị cáo đã nhiều lần mua

ma túy để sử dụng từ một người tên Đông (không rõ lai lịch) ở Tương Dương, Nghệ

An. Sáng ngày 11/3/2016 bị cáo gọi điện thoại hẹn Đông ở nhà nghỉ Hải Vân, Tổ 6,

khu 2A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả. Tại đây, Quý đã mua một gói ma

túy với giá 6.150.000đ, sau khi mua xong Quý mang về nhà lấy một ít sử dụng, số

còn lại cắt nhỏ nhằm mục đích bán cho các đối tượng nghiện khác. Vừa sử dụng ma

túy xong Quý bị lực lượng Công an huyện bắt quả tang cùng với tang vật. Qua quá

trình điều tra, Quý khai nhận đây là lần đầu tiên mua ma túy về bán cho các con

nghiện. Tiến hành giám định số chất bột màu trắng là hêrôin trọng lượng 0,15 gam.

TAND phường Cẩm Trung tuyên phạt Quý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”,

áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt Cao Ngọc Quý

02 năm tù [40].

2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả theo cấu thành tội phạm tăng nặng

Theo khảo sát trên địa bàn thành phố Cẩm Phả số bị cáo bị quyết định hình

phạt theo khoản 2 Điều 194 BLHS là 321 bị cáo (chiếm tỷ lệ 28,7%), số bị cáo bị

quyết định hình phạt theo khoản 3, Điều 194 BLHS là 24 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,2%),

không có bị cáo bị quyết định hình phạt theo khoản 4, Điều 194 BLHS.

Vụ án điển hình: Trần Văn Hùng là đối tượng nghiện ma túy nên đã nhiều

lần đến khu vực Bến xe phía bắc thành phố để mua hêrôin từ một người đàn ông

(không rõ lai lịch) đem về sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời, cụ

thể: Đầu tháng 5/2016, Hùng mua 2 tép hêrôin với giá 200.000đ đem về sử dụng 01

tép, 01 tép bán lại cho Lê Thanh Tùng thu lợi 30.000đ. Ngày 09/6/2016, Hùng 2 lần

53

mua hêrôin với số lượng 09 tép với giá 900.000đ, đem về chia làm 15 tép. Đến

khoảng 22h ngày 12/6/2016 Hùng bán cho Tùng 01 tép với giá 200.000đ. Khoảng

19h ngày 13/6/2016 Hùng mang 14 tép còn lại đi bán cho các đối tượng nghiện thì

bị bắt quả tang tại tổ 1, khu Tân Lập 7, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả. Tại

bản án HSST số 78/2016/HSST ngày 19/9/2016 của TAND thành phố thành phố

Cẩm Phả đã áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử

phạt Trần Văn Hùng 07 (bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất

ma túy".

Thực tiễn cho thấy quyết định hình phạt của TAND thành phố Cẩm Phả đối

với tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm tăng nặng thường rất

nghiêm khắc, đúng người, đúng tội. Để quyết định hình phạt TAND thành phố Cẩm

Phả đã tiến hành xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, đầy đủ và chính xác về tính chất, mức

độ nguy hiểm hành vi mà bị cáo đã thực hiện, xem xét một cách khách quan, toàn

diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các đối tượng để từ đó quyết

định hình phạt phù hợp và đúng pháp luật.

Trên cơ sở nghiên cứu các bản án, tác giả nhận thấy, với những bị cáo có

nhân thân xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thực hiện hành vi mua bán trái phép

chất ma túy nhưng bản thân lại không nghiện ma túy thì thường bị áp dụng những

hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục đối với đối tượng.

Bên cạnh những ưu điểm trên, việc quyết định hình phạt của Tòa án nhân

dân thành phố Cẩm Phả đối với tội mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn một số

hạn chế, thiếu sót, đó là:

- Quyết định hình phạt quá nhẹ: Là việc Tòa án đã quyết định áp dụng loại và

mức hình phạt nhẹ hơn so với loại và mức hình phạt mà lẽ ra người phạm tội phải

chịu theo quy định của pháp luật.

Vụ án điển hình: Ngô Đức Thắng, sinh ngày 25/5/1998 thường trú Tổ 5, khu

4 phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả. Do ham chơi, đua đòi, lười lao động,

Thắng sa vào con đường nghiện ngập. Để có tiền tiêu xài Thắng đã mua ma túy về

bán kiếm lời và sử dụng. Ngày 12/2/2016 Ngô Đức Thắng có hành vi bán trái phép

54

0,25 gam Methamphetamine cho một thanh niên không quen biết tại nhà thì bị bắt

quả tang, mở rộng điều tra Thắng khai trước đó ngày 08/2/2016 Thắng và Trần Anh

Tuấn (sinh ngày 23/10/2002, thường trú tại tổ 70, khu 6A, phường Cẩm Phú, thành

phố Cẩm Phả) đã bán ma túy cho hai đối tượng ở khu vực bến xe phía nam. Cơ

quan điều tra và VKS truy tố Ngô Đức Thắng phạm tội mua bán trái phép chất ma

túy, tại bản án số 64/2016/HSST ngày 5/5/2016 của TAND thành phố Thành phố

Cẩm Phả, thành phố Cẩm Phả xử phạt Ngô Đức Thắng 24 tháng tù, Trần Anh Tuấn

cũng có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng khi bị bắt chưa đủ 16 tuổi nên

cơ quan điều tra quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với Trần Anh Tuấn.

Trong vụ án này, TAND Thành phố Cẩm Phả, đã áp dụng điểm b, e, khoản 2

Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; khoản 1 Điều 74 BLHS. Tuy

nhiên mức hình phạt 24 tháng tù là quá nhẹ, không nghiêm khắc, không đảm bảo sự

công bằng của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo quyết định kháng nghị

của VKS xử phạt bị cáo Thắng 48 tháng tù.

Quyết định hình phạt quá nặng: Là việc Tòa án ra quyết định áp dụng loại và

mức hình phạt nặng hơn so với loại và mức hình phạt mà đáng ra người phạm tội phải

chịu theo quy định của pháp luật. So ới quyết định hình phạt nhẹ hơn mức độ hành vi thì

quyết định này ở TAND thành phố Cẩm Phả xảy ra ít hơn.

- Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung: Qua nghiên cứu số liệu và các bản án, tác

giả nhận thấy đa số các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy, Tòa án đều ít áp dụng

hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Thậm chí trong một số vụ án mua bán trái phép

chất ma túy, bị cáo đã thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội này với số lượng lớn nhưng

khi quyết định hình phạt, Tòa án vẫn không áp dụng hình phạt bổ sung.

2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả trong trường hợp đồng phạm

Đồng phạm là một hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt mà trong đó hai

người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Do đó, khi tội phạm được thực hiện

bởi đồng phạm thì tội phạm đó thay đổi về chất và mang tính nguy hiểm cao hơn

trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng tham gia thì người

55

phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể để hành động liều lĩnh hơn, do đó có

khả năng gây hậu quả lớn hơn và có điều kiện che giấu tội phạm chống lại việc phát

hiện của cơ quan chức năng.

Thực tiễn đấu tranh với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả giai đoạn 2013 – 2017 cho thấy những trường hợp phạm tội

được thực hiện dưới hình thức đồng phạm xảy ra không nhiều. Do tính đặc thù của

tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm cho nên nguyên tắc xác định

trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm không

giống phạm tội riêng lẻ. Khi quyết định hình phạt đối với những người tham gia

đồng phạm cụ thể TAND thành phố Cẩm Phả dựa vào các căn cứ sau:

Thứ nhất, tính chất đồng phạm.

Khi quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy TAND

thành phố Cẩm Phả cần xem xét vụ án đó được thực hiện dưới hình thức đồng phạm

giản đơn hay đồng phạm phức tạp? Đồng phạm có dự mưu hay không? Đồng phạm

có tổ chức hay đồng phạm thường? Nếu đồng phạm được thực hiện dưới hình thức

phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đối với

hình thức đồng phạm khác. Vì vậy, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được

thực hiện dưới hình thức đồng phạm quyết định mức độ trách nhiệm hình sự của

những người tham gia đồng phạm, do đó khi quyết định hình phạt Tòa án phải xem

xét, cân nhắc tính chất của đồng phạm.

Thứ hai, tính chất tham gia phạm tội của từng đồng phạm.

Khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn

cứ vào tính chất tham gia hoạt động phạm tội của từng người đồng phạm. Nếu như

khi dựa vào căn cứ thứ nhất thì Tòa án mới chỉ xác định được tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội chung trong hành vi phạm tội của tất cả những người tham

gia đồng phạm. Nhưng về nguyên tắc trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân

trong việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự cụ thể để quyết định hình phạt cho

từng người đồng phạm. Do vậy, căn cứ tiếp theo để Tòa án quyết định hình phạt là

phải cân nhắc tính chất, mức độ tham gia tội phạm của từng đồng phạm: Tính chất

56

tham gia phạm tội của từng đồng phạm được quyết định bởi vai trò mà người đồng

phạm đó đảm nhận, được xác định bởi tính chất đặc thù của nhiệm vụ và tác dụng

của người đó trong hoạt động phạm tội nói chung. Xác định tính chất tham gia

phạm tội của từng đồng phạm là phải xác định rõ người đó tham gia đồng phạm là

loại người gì, là người tổ chức, xúi giục, người giúp sức hay thực hành? Ai là người

chủ mưu, cầm đầu? Trong trường hợp đồng phạm thường mỗi người tham gia với tư

cách khác nhau nhưng cũng có trường hợp một người tham gia với nhiều vai trò

đồng phạm. Nếu một người tham gia với nhiều vai trò thì rõ ràng hành vi phạm tội

của người đó có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn những trường hợp đồng phạm

khác tham gia với một vai trò.

Thứ ba, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của riêng

từng đồng phạm.

Căn cứ này là sự cụ thể hóa nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc

phân hóa triệt để trong đồng phạm. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự của mỗi người tham gia đồng phạm là những tình tiết chỉ liên quan đến

hành vi và nhân thân của người đó mà không liên quan đến những người đồng phạm

khác thì áp dụng đối với người đó, còn những người đồng phạm khác không phải

chịu (đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự) hoặc không được hưởng (đối

với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) trong việc quyết định hình phạt đối với

trường hợp đồng phạm.

Vụ án điển hình: Khoảng 10 giờ ngày 12/3/2016, Nguyễn Văn Long, Bùi

Quang Thắng, Lê Viết Hà cùng sử dụng ma túy tại nhà Lê Viết Hà tổ 4, khu 1A,

phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả. Sau khi sử dụng ma túy, Long nói “hết hàng

rồi chiều dồn tiền đi mua về bán”. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Long, Thắng, Hà

gặp nhau tại nhà Hà và mỗi người góp 500.000 đồng để mua ma túy. Sau khi có

tiền, Long chở Thắng ra thị trấn Eakar để mua hêrôin. Đến 16 giờ cùng ngày, khi

đến đầu thị trấn Eakar thì Thắng xuống xe đợi còn Long vào mua Hêrôin của một

người không rõ lai lịch. Sau khi mua được Hêrôin, Long chở Thắng quay lại nhà

Hà. Khi về đến nhà Hà thì cả ba đối tượng chia số Hêrôin vừa mua được thành các

57

giói nhỏ. Sau khi gói xong, Hà đếm được 50 gói, sau đó chia mỗi người 05 gói, số

Hêrôin còn lại dùng để bán lại cho các con nghiện để kiếm lời.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Long và Thắng quay lại nhà Hà thì lúc này

Trịnh Minh Dũng đến tìm Hà để mua ma túy. Dũng mua 02 gói Hêrôin với giá

200.000 đồng. Khi Hà và Dũng đang giao dịch thì Công an phường Cẩm Phú phát

hiện và bắt giữ.

Tại bản án số 36/2016/HSST ngày 8/6/2016 của TAND phường Cẩm Phú đã

quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 20; Điều 53; điểm p khoản 1 Điều 46;

Điều 33 - Bộ luật hình sự: Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn Long, Bùi Quang

Thắng, Lê Viết Hà phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” [38].

2.2.4. Thực tiễn tội mua bán trái phép chất ma túy với các tội phạm về ma túy khác

Bảng 2.4: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về tội mua bán trái phép

chất ma túy so với các tội phạm về ma túy và các tội phạm khác trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả từ năm 2014 đến năm 2018

Năm Các tội khác về ma túy Tổng số các loại tội phạm

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Tội mua bán trái phép chất ma túy Số vụ án 156 178 212 208 192 946 Số bị cáo Số vụ án 198 217 255 232 216 1.118 18 23 42 36 27 146 Số bị cáo 1.639 1.816 2.278 1.938 1.769 9.440 986 1.102 1.415 1.125 1.033 5.661

Số bị cáo Số vụ án 26 32 51 41 34 184 Nguồn: TAND thành phố Cẩm Phả

Theo bảng 2.2. ta thấy từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố

Cẩm Phả, tội mua bán trái phép chất ma túy chiếm tỷ lệ cao so với các tội về ma túy

khác tương ứng 86,63% số vụ án và 85,87% số bị cáo) và chiếm 16,71% số vụ và

11,84% số bị cáo so với tổng số án hình sự.

Về các khoản xét xử các bị cáo: Trong số các bị cáo bị xét xử về tội mua bán

trái phép chất ma túy thì đa số các bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 194 BLHS,

tiếp đến là khoản 2 Điều 194 BLHS, các bị cáo bị xét xử theo khoản 3 và khoản 4

Điều 194 BLHS chiếm tỷ lệ nhỏ.

58

2.3. Nhận xét, đánh giá

2.3.1. Ưu điểm, kết quả đạt được

- Việc định tội danh và quyết định hình phạt của TAND hai cấp thành phố

Cẩm Phả là khá chính xác, phù hợp, vừa bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật,

vừa bảo đảm tính nhân đạo trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, số lượng bản án

có kháng cáo ít, kết quả phúc thẩm tỷ lệ giữ nguyên án sơ thẩm là chủ yếu, không

có vụ nào sửa về tội danh, đặc biệt không có vụ nào bị hủy.

- TAND hai cấp thành phố Cẩm Phả đã chủ động, nỗ lực và phối hợp tốt với

các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ

quan bổ trợ tư pháp, hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử; kịp thời xét xử những vụ án

trọng điểm được dư luận quan tâm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong các cơ quan tố tụng từng bước

được nâng cao cả về chất lượng lẫn số lượng, chế độ chính sách, trang thiết bị

phương tiện phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tố tụng ngày

càng được quan tâm hơn.

2.3.2. Hạn chế, thiếu sót

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả giai đoạn

2014– 2018 còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót sau:

Thứ nhất, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố

Cẩm Phả giai đoạn 2014 – 2018 vẫn còn xảy ra nhiều, để xảy ra tình trạng này do

nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về hoạt động áp dụng pháp luật

hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng mà trực tiếp là hoạt động định tội danh và

quyết định hình phạt của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.

Thứ hai, việc quyết định hình phạt đối với tội phạm mua bán trái phép chất

ma túy vẫn chưa thống nhất, mặc dù có những vụ án mua bán trái phép chất ma túy

có trọng lượng, thể tích, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của người

59

phạm tội… tương đồng nhau, tuy nhiên việc quyết định mức hình phạt của Tòa án

có sự khác nhau, thậm chí có vụ án mức hình phạt có sự chênh lệch nhau rất lớn.

Thứ ba, một số Tòa án đã có sự sai sót khi quyết định hình phạt: Bỏ sót một

số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận dụng không đúng tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ TNHS và cá biệt có trường hợp Tòa án đã có sự nhầm lẫn khi áp dụng các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với riêng người phạm tội có đồng phạm để

áp dụng chung cho tất cả những người phạm tội dẫn đến quyết định hình phạt không

chính xác. Vẫn còn trường hợp quyết định hình phạt chưa chính xác: Quyết định

hình phạt quá nặng hoặc quyết định hình phạt quá nhẹ so với tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp hoặc không

đảm bảo tính giáo giục, răn đe đối với bị cáo và những đối tượng khác.

Thứ tư, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với tội phạm mua bán trái phép

chất ma túy của TAND thành phố Cẩm Phả còn rất ít, điều này phần nào làm giảm

tính nghiêm minh của bản án.

Thứ năm, trước khi có công văn số 234/CV ngày 17/9/2014 của TAND Tối

cao và Thông tư số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày

14/11/2015 thì hầu hết các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn

thành phố Cẩm Phả không giám định về hàm lượng chất ma túy. Điều này là không

đúng với yêu cầu quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-

VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định

tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999. Bên

cạnh đó, thực tiễn xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành

phố Cẩm Phả cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng còn có những quan điểm chưa

thống nhất trong áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS như: “mua bán

nhiều lần”, “có tính chất chuyên nghiệp”…

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những hạn chế, thiếu sót trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và

khách quan, trong đó những nguyên nhân chủ yếu đó là:

60

- Quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy còn

bất cập, chưa hợp lý gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật.

- Hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng chưa được chú

trọng, các văn bản hướng dẫn áp dụng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy còn

thiếu, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan áp

dụng pháp luật.

- Các vụ án về ma túy ngày càng phức tạp, với những thủ đoạn hoạt động

tinh vi, xảo quyệt, manh động, hình thành đường dây, câu kết chặt chẽ, có sự tính

toán kỹ lưỡng trong việc che dấu hành vi phạm tội và đồng phạm và nếu bị bắt thì

rất ngoan cố. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các cơ quan tiến hành tố tụng,

trong đó có hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.

- Chưa chú trọng công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội mua bán trái phép chất ma túy, do đó việc đánh giá thực trạng áp dụng,

những ưu điểm, hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng để từ đó có biện pháp giải

quyết, điều chỉnh kịp thời chưa được tiến hành thường xuyên.

- Hiện nay ở nước ta chưa xây dựng được hệ thống án lệ hoàn chỉnh trong

việc xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, dẫn đến tình trạng quyết định

hình phạt không thống nhất.

- Cơ quan bổ trợ hoạt động tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ

trong tình hình mới, cụ thể là Cơ quan giám định về ma túy cấp tỉnh. Cho đến nay

không phải ở tỉnh nào cũng có khả năng giám định được hàm lượng và tất cả các

chất ma túy, trong đó có thành phố Cẩm Phả, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động

xét xử của Tòa án.

- Năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp của đội ngũ

cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm phán, Thư

ký Tòa án còn hạn chế, một số còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.

Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, không

nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và các quy định của pháp luật có liên quan nên xét xử

còn sai sót.

61

Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa còn thấp, dẫn đến một số tình tiết của vụ

án cũng như những quy định của pháp luật hình sự chưa được làm sáng tỏ, rõ ràng

một cách thực sự.

- Công tác tổ chức và cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, số lượng và

chất lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án chưa đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng

xét xử; công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chưa được thường xuyên, chưa có

chuyên đề chuyên sâu. Điều kiện phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật còn hạn chế,

lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.

62

Kết luận chương 2

Từ những nghiên cứu trên có thể thấy rằng, vấn đề định tội danh và quyết

định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy có ý nghĩa hết sức to lớn cả

về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Để có được những quyết định chính xác và đúng pháp

luật khi tiến hành định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức đúng đắn về mặt

lý luận của việc định tội danh và quyết định hình phạt.

Trong Chương 2 của luận văn tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận về định

tội danh và quyết định hình phạt từ đó làm cơ sở cho việc áp dụng đúng pháp luật

hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả.

Đồng thời, Chương 2 của luận văn đã phân tích, làm rõ thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố

Cẩm Phả, cụ thể:

Đã phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề định tội danh đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản, theo cấu thành tội phạm tăng

nặng và định tội danh trong trường hợp đồng phạm, đưa ra những số liệu và vụ án

điển hình dẫn chứng để làm rõ.

Phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản, theo cấu thành tội phạm tăng nặng,

quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, đưa ra vụ án điển hình dẫn chứng.

Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả có thể thấy rằng, thực

tiễn hoạt động xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của TAND thành phố

Cẩm Phả đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng giữ vững

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp

pháp của công dân. Tuy nhiên, hoạt động xét xử các vụ án mua bán trái phép chất

ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả vẫn còn bộc lộ những sai sót, hạn chế nhất

định. Chính vì vậy, cần phải kịp thời khắc phục những sai sót, hạn chế đó nhằm giải

quyết các vụ án một cách có hiệu quả cao nhất đáp ứng được yêu cầu của công tác

63

đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma

túy nói riêng.

Những phân tích, nhận xét, đánh giá này là cơ sở quan trọng để đề ra các giải

pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn thành phố Cẩm Phả trong thời gian tới.

64

Chương 3

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ CẨM PHẢ

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy

“Bộ luật hình sự năm 1999 chưa đánh giá được hết sự khác nhau về tính chất

và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán

trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nên đã quy định các hành vi trên cùng vào

một điều luật với tính chất tội ghép để tiến hành định tội danh, đồng thời BLHS

1999 cũng quy định các hình phạt và mức hình phạt chung cho các hành vi trên. Tội

tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại

Điều 194 BLHS 1999 gồm 04 tội danh tương ứng với 04 hành vi có tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, trên thực tiễn xét xử thì hành vi mua bán trái

phép chất ma tuý được xác định có tính chất nguy hiểm cao hơn so với hành vi tàng

trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Do kết cấu là tội ghép, các tội danh có tính

chất, mức độ khác nhau nhưng lại được áp dụng cùng một chính sách xử lý như

nhau vì được quy định trong cùng một điều luật nên gây khó khăn cho việc xác định

tội danh, áp dụng hình phạt cũng như xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy

hiểm. Hơn nữa, điều luật quy định về tội phạm ghép cũng không thể mô tả hết được

hành vi khách quan và cấu thành cơ bản đối với từng tội phạm dẫn đến khó khăn

cho việc xác định tội danh, áp dụng hình phạt chính xác, công bằng. Mặt khác, hiện

nay theo quy định của BLHS thì mức hình phạt quy định cho các khung của Điều

194 còn quá rộng, việc này đã gây ra sự tùy tiện trong việc quyết định hình phạt dẫn

đến thiếu tính thống nhất và tính thuyết phục trong quyết định.”

Từ những phân tích trên mà tác giả hoàn toàn đồng tình với quan điểm được

thể hiện trong BLHS 2015 về việc tách các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán

trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy ra và quy định độc lập về tội danh cũng như

mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi đó theo quy định tại các Điều 249, 250,

251 và 252 BLHS 2015. Trong đó, Điều 251 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ

65

sung năm 2017 quy định tội mua bán trái phép chất ma túy. Mặt khác, đã quy định

hành vi phạm tội một cách cụ thể, chi tiết.

Việc quy định mức hình phạt giữa các khoản của Điều 251 của BLHS năm

2015 có khoảng cách tương đối lớn (02 đến 07 năm; 07 năm đến 15 năm), mặt khác

mức hình phạt không bảo đảm tính kế tiếp, dẫn đến sự không hợp lý, thậm chí là

không công bằng.

Ví dụ: Một người bị xét xử theo khoản 1 Điều 251 BLHS (có khung hình

phạt từ 02 năm đến 07 năm tù), căn cứ vào các tình tiết của vụ án, Tòa án hoàn toàn

có quyền xử phạt 07 năm tù. Trong khi đó một người khác bị xét xử về cùng tội

danh, theo khoản 2 Điều 251 BLHS (có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù)

là khung tăng nặng, bị coi là có mức độ nguy hiểm hơn, Tòa án cũng hoàn toàn có

quyền xử phạt 07 năm tù. Điều này là không hợp lý. Tương tự ở khoản 3 và 4 Điều

251 BLHS.

Nên sửa như sau:

Điều 251. Tội…

Người nào…. thì bị phạt tù từ hai năm đến dưới bảy năm.

Phạm tội…. thì bị phạt tù từ bảy năm đến dưới mười lăm năm.

Khoản 3 và khoản 4 Điều 251 BLHS cũng sửa tương tự như ở khoản 1 và

khoản 2 Điều 251 BLHS.

Việc quy định mức hình phạt tương ứng với khối lượng chất ma túy giúp cho

cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng khung hình phạt được thống nhất và Tòa án quyết

định hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều

251 BLHS thì việc quy định khối lượng các chất ma túy còn có sự khác nhau, chưa

đảm bảo tính thống nhất, chính xác, khách quan và công bằng. Cụ thể:

Khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 quy định: Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ năm trăm

gam đến dưới một kilôgam;

Hêrôin hoặc côcain có khối lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

66

Theo quy định này, nếu chỉ căn cứ vào khối lượng chất ma túy thì người có

hành vi bán trái phép 500g nhựa thuốc phiện sẽ có mức hình phạt tù bằng với mức

phạt tù của người bán trái phép 5g hêrôin. Tỷ lệ hai chất ma túy này là 500g nhựa

thuốc phiện = 5g hêrôin.

Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS đã viện dẫn và chỉ căn cứ

vào khối lượng chất ma túy thì người bán 999,9g nhựa thuốc phiện sẽ có mức hình

phạt tù bằng với mức phạt tù của người bán trái phép 29,9g hêrôin là 15 năm tù. Tỷ

lệ hai chất ma túy này là 999,9g nhựa thuốc phiện = 29,9g hêrôin.

So sánh việc quy định tỷ lệ khối lượng hai chất ma túy tại khoản 2 Điều 251

BLHS đã thấy có sự khác nhau, không theo tỷ lệ quy định tại mức thấp nhất của

khoản 2 là 500g nhựa thuốc phiện = 5g hêrôin; trong khi đó ở mức cao nhất của

khoản 2 lại là 500g nhựa thuốc phiện bằng xấp xỉ 15g hêrôin.

Việc quy định khối lượng chất ma túy tại khoản 3 Điều 251 BLHS cũng có

sự khác nhau tương tự như ở khoản 2 Điều 251 BLHS:

Mức thấp nhất của khoản 3 là: 1kg nhựa thuốc phiện = 30g hêrôin.

Mức cao nhất của khoản 3 là: 4,999kg nhựa thuốc phiện = 99,99g hêrôin.

Như vậy ở mức cao của khoản 3 Điều 251 BLHS thì 1kg nhựa thuốc phiện

chỉ bằng xấp xỉ 20g hêrôin.

Với cách so sánh này cho thấy việc quy định tỷ lệ trọng lượng chất ma túy ở

mức thấp nhất và mức cao nhất trong cùng một khung hình phạt và trong một điều

luật là khác nhau và không theo một tỷ lệ nào. Quy định này dù cho Tòa án có quyết

định hình phạt đúng với quy định của pháp luật đối với từng người phạm tội trong

vụ án có nhiều người phạm tội với nhiều chất ma túy khác nhau mà trong đó có

người bị xử phạt theo khoản 2 Điều 251 BLHS, có người bị xử phạt theo khoản 3

Điều 251 BLHS thì mức hình phạt đó cũng không bảo đảm sự khách quan và công

bằng giữa những người phạm tội.

3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy

Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động rất quan trọng, bởi vì

trong quá trình xây dựng pháp luật các quy định pháp luật thường được mô tả một

cách ngắn gọn, súc tích, cô đọng nhất, do đó cần thiết phải làm rõ về tinh thần, nội

67

dung, phạm vi, ý nghĩa, mục đích các quy định pháp luật so với nội dung ban đầu

của nó, từ đó giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định pháp luật một cách chính

xác và thống nhất.

Qua nhiều năm áp dụng thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-

BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP, các cơ quan tố tụng nhận thấy nảy sinh nhiều

vướng mắc trong xử lý các vụ án ma túy. Phần lớn các tòa án địa phương đã quyết

định trả hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp để điều tra bổ sung với lý do chưa giám

định hàm lượng các chất thu giữ nghi là ma túy. VKS sau đó tiếp tục trả hồ sơ cho

cơ quan điều tra do không có sự thống nhất về nhận thức pháp luật. Bên cạnh đó khi

xử lý vụ việc, nhà chức trách do không thể xác định ngay được "hàm lượng chất ma

túy" nên gặp khó khăn trong việc ra quyết định xử lý hình sự hay hành chính để từ

đó áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Vụ Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra án ma túy (VKSND Tối

cao) chỉ ra do bất cập của thông tư 17 nên thời gian vừa qua xuất hiện tư tưởng chỉ

bắt các vụ có khả năng thu giữ số lượng ma túy lớn, không bắt những vụ buôn bán

nhỏ lẻ trong khi chính những vụ này mới là yếu tố gây mất an ninh trật tự, gây bức

xúc trong quần chúng nhân dân.

Việc giám định hàm lượng ma túy còn nhiều khó khăn vì giám định hàm

lượng phải có các điều kiện: Máy sắc khí; mẫu chuẩn mua của Liên Hợp Quốc (hiện

nay rất khó khăn) hoặc tự sản xuất mẫu; kỹ sư hóa được đào tạo, tập huấn kỹ năng;

phòng thí nhiệm đảm bảo phương tiện, hóa chất cần thiết… Mặt khác, ma túy hiện

nay có rất nhiều loại (nhiều loại mới), nếu không có mẫu chuẩn thì không thể so

sánh giám định hàm lượng, nhất là tiền chất.

Việc giám định hàm lượng tất cả các địa phương toàn quốc phải gửi mẫu về

Trung tâm giám định ma túy của Bộ Công an tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, việc vận

chuyển ma túy đi giám định gặp nhiều khó khăn, tốn kém về chi phí, thời gian đi lại.

Một số văn bản có những nội dung không còn phù hợp với hành vi phát sinh

trong xã hội dẫn đến việc áp dụng BLHS còn xảy ra quan điểm không thống nhất

gây khó khăn, lúng túng trong việc giám định hàm lượng chất ma túy làm vướng

68

mắc trong quá trình giải quyết các vụ án về ma túy, đặc biệt sau khi Tòa án nhân

nhân tối cao ban hành Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 yêu cầu Tòa

án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp thực hiện đúng quy định tại tiểu mục 1.4

mục 1 phần 1 của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. Theo đó khi thu giữ các chất

ma túy thì đều cần phải được tiến hành giám định xác định hàm lượng các chất ma

tuý trong các mẫu vật thu giữ được. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến thực tiễn định

tội danh và quyết định hình phạt nói riêng và tiến trình giải quyết các vụ án về tội

mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả thời gian qua. Theo

số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả thì sau khi có công văn số

234 của Tòa án nhân dân tối cao thì đã có 26 vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung

liên quan đến vấn đề giám định hàm lượng. Điều này đã gây chậm trễ trong việc

giải quyết các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy và gây ảnh hưởng tiêu cực

đến công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy nói chung, tội phạm

mua bán trái phép chất ma túy nói riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng của thành

phố Cẩm Phả.

“Sau đó, ngày 29/10/2014, TANDTC tiếp tục ban hành thông báo số

264/TANDTC-TB trong đó quy định: Việc giám định hàm lượng chất ma túy là bắt

buộc đối với các chất thu giữ được nghi là chất ma túy, để từ đó xác định trọng

lượng chất ma túy làm căn cứ xử phạt bị cáo (trọng lượng ma túy tinh chất, nguyên

chất). Sau khi văn bản này được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố tội phạm, khiến số vụ

án bị tồn đọng khá nhiều.”

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 76/2015/QH13 về tăng cường các biện

pháp phòng chống oan sai, giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,

Tòa án nhân dân tối cao phải sửa đổi bổ sung Thông tư 17 ngày 24/12/2007 của liên

ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp và Công văn 234 ngày 17/9/2014 về

giám định hàm lượng ma túy.

Với sự nỗ lực của các ngành, ngày 14/11/2015, lãnh đạo liên ngành Trung

ương bao gồm: Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp đã ký Thông tư liên tịch số

69

08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP sửa đổi bổ sung Thông tư liên

tịch số 17 hướng dẫn một số quy định tại Chương 18 “Các tội về ma túy” của Bộ

luật Hình sự năm 1999. Thông tư số 08 được ban hành đã phần nào tháo gỡ được

những khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm về

ma túy nói chung, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng của các cơ

quan tiến hành tố tụng, được sự đồng tình của dư luận nhân dân, tạo điều kiện tích

cực cho công tác phòng chống tội phạm.

Theo đó khoản 2, Điều 1 Thông tư liên tịch số 08 sửa đổi, bổ sung Tiết 1.4,

Mục 1, Phần I Thông tư liên tịch số 17 như sau: “Trong mọi trường hợp khi thu giữ

được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép

chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại (loại ma túy gì) và

trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Bắt buộc phải trưng cầu giám định

hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy trong các trường hợp sau:

a. Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được

hòa thành dung dịch;

b. Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã

được pha loãng;

c. Xái thuốc phiện;

d. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;

Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d tiết 1.4 Mục này, nếu

có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm

việc xét xử đúng pháp luật.

Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền

chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi

phạm tội ý thức rằng chất đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc

sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách

nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng

đối với các tội phạm về ma túy.

70

Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác

tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 139 Bộ luật hình sự, nếu thỏa mãn các dấu

hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.

Trường hợp không thu giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất nhưng có

căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua

bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người phạm tội truy cứu trách nhiệm

hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng”.

“Theo quy định của Thông tư liên tịch số 08 thì: Khi giải quyết các vụ án về

ma túy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định để xác định loại và

trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Việc bắt buộc trưng cầu giám định

hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy chỉ trong các trường hợp a, b, c và d

nêu trên. Trong giai đoạn xét xử vụ án về ma túy “nếu có căn cứ và xét thấy cần

thiết” thì “Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp

luật” mà không trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, cũng như không coi đây là căn cứ

hủy án để điều tra lại và không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.

Do vậy, ngoài 4 trường hợp nêu trên, nếu Tòa án nhân dân các cấp trả hồ sơ

cho Viện Kiểm sát nhân dân chỉ với lý do yêu cầu giám định hàm lượng chất ma túy

để xác định trọng lượng tinh chất ma túy thì Viện Kiểm sát nhân dân các cấp không

nhận hồ sơ, tiếp tục đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử và thực hiện theo đúng quy

định của pháp luật.”

Thông tư 08 quy định chỉ bắt buộc giám định hàm lượng chất ma túy đối với

04 trường hợp này: Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể

rắn, được hòa thành dung dịch; chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất

ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; xái thuốc phiện; thuốc gây nghiện, thuốc

hướng thần. Tuy nhiên, việc hướng dẫn triển khai thực hiện thông tư 08 của các cơ

quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất. Ngày 11/12/2015, TANDTC ban hành

Công văn số 315/TANDTC-PC quy định thêm các trường hợp phải giám định hàm

71

lượng để xác định trọng lượng chất ma túy mà Thông tư 08 không quy định, gồm:

Những vụ án người phạm tội có khung hình phạt từ 20 năm, chung thân hoặc tử

hình; những vụ án mà trong giai đoạn xét xử, Tòa án xét thấy có đủ căn cứ xác định

người có hành vi phạm tội đã pha trộn các chất không phải là ma túy, tiền chất vào

ma túy…

Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định trong BLHS 2015 đã thay

đổi việc quy định “trọng lượng” bằng “khối lượng”, mặt khác tại điều 251 BLHS

2015 còn sử dụng một số thuật ngữ trừu tượng, khó xác định như: Tiêu chuẩn nào

để xác định là quả thuốc phiện khô, quả thuốc phiện tươi?, “có từ hai chất ma túy

trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của chất ma túy

quy định tại một trong các điểm từ…”. Chính vì vậy việc áp dụng BLHS 2015 đối

với tội mua bán trái phép chất ma túy cần thiết phải được hướng dẫn áp dụng một

cách cụ thể, đảm bảo khách quan, thống nhất.

3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép

chất ma túy

Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động của các cơ quan

pháp luật (trong đó chủ yếu là các cơ quan THTT) tổng hợp kinh nghiệm giải quyết

vụ án hình sự, tổng hợp việc áp dụng pháp luật hình sự trong hệ thống các cơ quan

THTT theo những chủ đề nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.

Trong hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, các chủ thể

tham gia tổng kết tiến hành nêu lên các kết quả và thành tựu đạt được trong quá

trình áp dụng các quy phạm pháp luật vào giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn

như: Nêu lên các vụ án tiêu biểu; các đường lối xử lý vụ án hình sự đúng đắn và

nhanh chóng; các bản án, quyết định có tính mẫu mực và chính xác cao nhằm tuyên

dương đồng thời làm tấm gương, tiêu chí để các chủ thể khác học tập và noi theo;

các kết quả cụ thể trong công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan hoặc phối

hợp giữa các quốc gia trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung

hoặc đối với một tội (một nhóm tội) cụ thể… Bên cạnh việc nêu lên các kết quả và

thành tựu đạt được, các chủ thể tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp

72

luật hình sự còn nêu lên những sai lầm, vướng mắc trong hoạt động áp dụng các

quy phạm pháp luật vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự như: Nêu lên các vụ án

oan sai hoặc các vụ án có đường lối giải quyết sai lầm, chưa đúng đắn; các văn bản

áp dụng pháp luật hình sự được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc lựa chọn sai

quy định của pháp luật để áp dụng trong giải quyết vụ án hình sự hoặc áp dụng

không đúng đối tượng; hoặc các vụ án hình sự quá thời hạn giải quyết theo quy định

của pháp luật… từ đó rút kinh nghiệm, có những điều chỉnh phù hợp, kịp thời.

Hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung luôn là hoạt động cần thiết do các

quy phạm pháp luật hình sự không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế xã hội, khi

xã hội ngày càng có nhiều biến đổi thì các quy phạm pháp luật hình sự cũng cần sửa

đổi để phù hợp với sự biến đổi đó. Trong công tác hoàn thiện pháp luật hình sự đó,

hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự có ý nghĩa rất lớn. Việc tổng

kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự giúp phản ánh được những vấn đề chưa phù

hợp của các quy phạm pháp luật hình sự khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó nhà làm

luật sẽ phân tích và đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra

các giải pháp sửa đổi các quy phạm pháp luật hình sự sao cho tính phù hợp của các

quy phạm pháp luật này đối với thực tế được nâng cao hơn, đảm bảo tính khả thi

cao của các quy phạm pháp luật hình sự khi được đưa vào vận dụng để giải quyết

vụ án hình sự.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn thành phố Cẩm Phả nhìn chung là đúng người đúng tội, đúng pháp luật,

không xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo các lợi ích hợp pháp của người

phạm tội khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong công tác xét xử vẫn

còn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải sửa đổi để rút kinh nghiệm từ đó có những

hướng dẫn cụ thể trong việc giải quyết các vụ án. Thông qua việc tổng kết thực tiễn

áp dụng pháp luật nhằm phát hiện kịp thời những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc

của các quy định của pháp luật trong quá trình áp dụng trên thực tiễn để từ đó có

những đề xuất, kiến nghị kịp thời để sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn các quy định

của pháp luật chính xác, phù hợp hơn và đạt kết quả điều chỉnh cao hơn nhằm tạo

73

căn cứ pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các vụ án được chính xác và có tính

thuyết phục cao hơn.

3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy

Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề

nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn, thực hiện tốt chế độ chính sách cho đội ngũ

Thẩm phán và Thư ký Tòa án.

Để bảo đảm chất lượng của hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, việc đổi

mới công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi suy cho cùng công

tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp ADPL.

Tập trung xây dựng đội ngũ thẩm phán xét xử vụ án hình sự có chuyên môn

hóa cao, là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể chuyên môn hóa

theo nhóm tội danh của BLHS). Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và

chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án hình sự đã xét xử, được sự

đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên, của các cơ quan tố tụng khác, luật sư, hội

thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức, thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở

trường về xét xử án hình sự để đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu.

TAND Tối cao cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập

huấn về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký

Tòa án các cấp. Cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác xét xử các vụ án

phạm tội về ma túy.

Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện sai sót đồng thời tổ chức rút

kinh nghiệm chung. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác xét

xử các vụ án về ma túy.

Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học cho đội

ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án các cấp. Các Thẩm phán, thư ký Tòa án nêu cao

tinh thần trách nhiệm, tự rèn luyện, học tập trau rồi kiến thức chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp. Có chính sách khuyến khích Thẩm phán, Thư ký Tòa án các cấp tích

cực học tập để nâng cao trình độ, đáp ứng nhiệm vụ được giao. Thường xuyên tổ

74

chức tập huấn, hội thảo các chuyên đề về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, kỹ năng

nghiệp vụ xét xử án hình sự. Tổ chức các phiên tòa mẫu, yêu cầu các thẩm phán

khác dự và đóng góp ý kiến.

Thường xuyên phát động các phong trào, đặc biệt là thực hiện tốt phong trào

học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy:

"Phụng công thủ pháp, chí công vô tư". Không chỉ có đủ năng lực trình độ mà mỗi

Thẩm phán, thư ký Tòa án cần phải tự ý thức được rằng: Quyền lực Nhà nước là

của nhân dân, nhân dân trao cho mình là để phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Không được sử dụng tùy tiện quyền lực ấy hoặc để tư lợi, phải biết vượt qua các

cám dỗ, để tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc, với chế độ, dũng

cảm bảo vệ công lý, công bằng xã hội, quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của

công dân.

Lao động của Thẩm phán, thư ký Tòa án là lao động đặc thù, chịu nhiều áp

lực, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh, chuyên môn nghiệp vụ cao, cần phải có chế độ

chính sách tương xứng. Bên cạnh đó, phải kịp thời khen thưởng, động viên những

Thẩm phán, thư ký Tòa án có nhiều thành tích. Xây dựng các danh hiệu như thẩm

phán nhân dân, thẩm phán ưu tú… để xã hội tôn vinh những thẩm phán mẫu mực.

- Nâng cao chất lượng hoạt động, chế độ chính sách của Hội thẩm nhân dân.

Hội thẩm nhân dân là những thành viên của hội đồng xét xử, là những người

có uy tín trong nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để thay mặt nhân

dân trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, là chủ thể quan trọng trong việc ADPL hình

sự tại Tòa án.

Tòa án cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử, bồi dưỡng kiến thức pháp lý

cho các hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân cần chủ động tìm hiểu pháp luật,

nâng cao trách nhiệm của mình đối với công tác xét xử, để có đủ khả năng hoàn

thành tốt nhiệm vụ Hội thẩm của mình. Đoàn Hội thẩm nhân dân cần độc lập về tài

chính và việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa. Để khuyến khích Hội thẩm nhân

dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử có

hiệu quả cần có chế độ đãi ngộ tương xứng. Kinh phí hoạt động của Đoàn Hội thẩm

75

nhân dân cần phải độc lập không phụ thuộc vào Tòa án như hiện nay, để đoàn hội

thẩm chủ động chi trực tiếp cho các hội thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử.

- Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra và công tố cũng như

các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Trong chiến lược cải cách tư pháp, Tòa án được

xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm. Xét xử là một giai đoạn tố tụng độc lập,

nhưng chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạt động của cơ quan

điều tra, cơ quan công tố và chất lượng hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp.

Lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm

về ma túy cần nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ,

tuân thủ các quy định của Bộ luật TTHS trong quá trình điều tra vụ án, đảm bảo quá

trình điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời, chính xác.

Đối với Kiểm sát viên phải bám sát tiến độ điều tra, kiểm sát hoạt động điều tra, kịp

thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót, đảm bảo hoạt động tố tụng được tiến hành

đúng theo quy định pháp luật.

3.5. Các giải pháp khác

Cần tăng cường đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện cho

các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan bổ trợ tư pháp, đặc biệt hiện nay cần

trang bị máy móc, phương tiện và đào tạo cho cơ quan giám định về ma túy ở các

tỉnh để có đủ năng lực giám định hàm lượng đối với tất cả các chất ma túy, tạo

thuận lợi cho công tác xét xử. Chú trọng đầu tư các trang thiết bị tại các phòng hỏi

cung bị can theo quy định của BLTTHS 2015 đảm bảo tính khách quan, chính xác

trong hoạt động thu thập chứng cứ, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can.

Đầu tư các trang thiết bị tại các phòng xử án theo quy định tại Thông tư số

01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017, tạo sự trang nghiêm, chất lượng, hiệu quả,

bảo đảm an ninh, trật tự phiên tòa.

Đổi mới xét hỏi, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu

cải cách tư pháp. Kết quả tranh tụng tốt sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc nâng cao chất

lượng các phán quyết của Tòa án. Muốn vậy, trước tiên phải nâng cao năng lực của

Kiểm sát viên thông qua đào tạo, bồi dưỡng, về lâu dài phải quan tâm đầu tư cho các

các cơ quan bổ trợ tư pháp và cán bộ của các cơ quan đó, đặc biệt là đối với luật sư.

76

Tăng cường sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và

các cơ quan hữu quan trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mua bán trái

phép chất ma túy.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính - tư pháp, bảo đảm công khai, minh

bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, các phương tiện thông tin đại chúng

thực hiện quyền giám sát các hoạt động của cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, từ đó

góp phần nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép

chất ma túy.

Xây dựng án lệ trong xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy: Khoản

3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc

tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Quy

định về nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tại Điểm c

khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 ghi rõ: “Lựa chọn quyết định giám

đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành

án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. việc áp

dụng án lệ trong xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy ngoài ý nghĩa giải

quyết một vụ án cụ thể còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau

này, do đó, sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, tiết kiệm công

sức của các Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng, tạo ra

sự công bằng trong xã hội.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác lãnh đạo,

chỉ đạo, giám sát đối với các lực lượng được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống

tội phạm.

77

Kết luận Chương 3

Trên cơ sở khái quát lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy và từ thực

tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả giai đoạn 2014-2018, tác giả đã đưa ra các biện pháp

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả. Các biện pháp được đưa ra bao gồm 05 nhóm giải pháp

chính: Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy; hướng

dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy; tổng kết thực

tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy; nâng cao năng

lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy;

các giải pháp khác.

Trên đây là những nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả

việc áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án mua bán trái phép

chất ma túy. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức thực hiện một cách đồng bộ,

chính xác và hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra,

truy tố và xét xử để giải quyết kịp thời, chính xác, phù hợp và đúng pháp luật các vụ

án nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma

túy nói chung và tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.

78

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm mua

bán trái phép chất ma túy nói riêng trở thành vấn đề toàn cầu. Ma túy đang là mối

hiểm họa đối với từng gia đình, cộng đồng và xã hội, hậu quả do ma túy gây ra ảnh

hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, làm tổn hại

đến sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh

nhiều tội phạm, đe dọa sự ổn định, phồn vinh và trường tồn của dân tộc

Phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về ma túy là một vấn đề quan trọng,

phức tạp và mang tính lâu dài. Đó không chỉ là vấn đề của một tổ chức, đoàn thể

hay cá nhân mà của toàn xã hội. Liên quan đến nhiều chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Phòng ngừa,

ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm về ma túy là yêu cầu cấp bách đối với mỗi cá

nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.

Thực tiễn giải quyết các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy những

năm gần đây cho thấy việc áp dụng Điều 194 BLHS 1999 và các văn bản hướng

dẫn áp dụng còn một số vướng mắc cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu làm rõ lý luận và thực trạng áp dụng

Điều 194 BLHS 1999 về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố

Cẩm Phả để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng đúng

pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy là một yêu cầu cấp thiết,

có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Luận văn đặt ra yêu cầu nghiên cứu và giải

quyết những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, luận văn đã tiếp cận, khái quát, đưa ra có hệ thống những vấn đề lý

luận và pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều

251 BLHS 2015, khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái

phép chất ma túy, phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội mua

bán trái phép chất ma túy. Đồng thời, luận văn đã phân tích làm rõ hình phạt đối với

tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm cơ bản và theo cấu thành

79

tội phạm tăng nặng, phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với các tội khác

trong BLHS 2015.

Thứ hai, luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh và

quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy. Đồng thời khảo sát,

đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy tại trên bàn thành phố Cẩm Phả giai đoạn 2014-2018; qua đó đã

tiến hành đánh giá những ưu điểm, rút ra những hạn chế thiếu sót và nghiên cứu, chỉ

rõ các nguyên nhân căn bản của những hạn chế, thiếu sót đó, làm cơ sở đề ra các

giải pháp.

“Thứ ba, trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm

Phả, luận văn đã đưa ra các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về

tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn cả nước nói chung và thành phố Cẩm

Phả nói riêng. Những giải pháp được đề cập tương đối cụ thể, tuy chưa toàn diện

nhưng là những vấn đề cơ bản và cần thiết để giúp cho các cơ quan có thẩm quyền

trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm mua bán trái phép chất ma túy đặc biệt là

vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt một cách kịp thời, đúng người, đúng

tội, đúng hình phạt cũng như trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo của pháp luật Hình sự.

Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, song

chắc chắn luận văn còn những hạn chế, khiếm khuyết. Tác giả kính mong nhận

được sự góp ý của quý thầy cô giáo, các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn và những

người quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn./.”

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ

Tư pháp (2007), Thông tư số 17/ 2007/TTLN ngày 24/12/2007 quy định về

việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về

ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

2. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ

Tư pháp (2015), Thông tư số 08/2015/TTLT ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa

đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày

24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương

XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

3. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa

học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Chính phủ (2013), Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 quy định

về việc Ban hành danh mục chất ma túy và tiền chất, Hà Nội.

5. Chính phủ (2009), Nghị định số 45/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 quy định về

việc hướng dẫn nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lí, sử dụng mẫu các chất ma

tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thân về mục đích quốc phòng,

an ninh, Hà Nội.

6. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 06/1993/NQ-CP ngày 29/01/1993 về Tăng

cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, Hà Nội.

7. Chủ tịch nước (1997), Quyết định số 798/QĐ-CTN ngày 01/09/1997 về việc

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia 3 công ước của Liên hợp

quốc về kiểm soát ma túy, Hà Nội.

8. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp

trong thời gian tới, Hà Nội.

9. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

81

10. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của

Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

11. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Chỉ thị 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ

Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạp, chỉ đạo công tác phòng chống và

kiểm soát ma túy trong tình hình mới, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập

1), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập

2), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và Hình Phạt, NXB Tư pháp, Hà Nội.

15. Trần Văn Luyện (2000), Phát hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển

mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng cảnh sát nhân dân, Luận án

tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

16. Nguyễn Quang Lộc (chủ biên) (2002), “Những giải pháp nâng cao chất

lượng xét xử các vụ án về ma túy - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Tòa án nhân

dân Tối cao, Hà Nội.

17. Liên hợp quốc (1961), Công ước thống nhất về các chất ma túy (đã sửa đổi

theo Nghị định thư 1972 sửa đổi Công ước thống nhất về các chất ma túy

năm 1961), New York (Mỹ).

18. Liên hợp quốc (1971), Công ước về các chất hướng thần, Vienna (Áo).

19. Liên hợp quốc (1988), Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất

ma túy và các chất hướng thần, Vienna (Áo).

20. Nguyễn Tuyết Mai (2007), Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy ở

Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học.

21. Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội

phạm (tập 3) Các tội phạm về ma túy, NXB Lao động, Hà Nội.

22. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

23. Quốc hội (1989), Bộ luật Hình sự (được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

82

24. Quốc hội (1997) Bộ luật Hình sự (được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

25. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (1989), Bộ luật Hình sự (được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

27. Quốc hội (1997) Bộ luật Hình sự (được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

28. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

29. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

30. Quốc hội (2015) , Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

31. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

32. Quốc hội (2015) , Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

33. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều), Hà Nội.

34. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

36. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

35. Quốc hội (2001), Hiến pháp, Hà Nội.

37. Quốc hội (2000), Luật phòng, chống ma túy, Hà Nội.

38. Quốc hội (2008), Luật phòng, chống ma túy (được sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

39. Ngô Thị Thanh (2015), Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán

trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh

Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày

15/03/2001 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp

dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

83

41. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày

14/07/2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp

dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

42. Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, Số liệu thống kê tình hình xét xử tội

mua bán trái phép chất ma túy từ năm 2013 đến năm 2017.

43. Từ điển Tiếng Việt (2014), NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lí luận chung về định tội danh, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung),

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội

phạm), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Võ Khánh Vinh (1990), Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

48. http://baoquangninh.com.vn/xa-hoi/201806/dau-tranh-quyet-liet-voi-toi-

pham-ma-tuy-ngay-tu-cua-ngo-2391270/

84