VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

V Ũ T H

M A I T R A N G

VŨ THỊ MAI TRANG

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

L U Ậ T H Ì N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H Ì N H S Ự

K H Ó A X

HÀ NỘI - năm

Hà Nội, năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ MAI TRANG

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN

Hà Nội, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan luận văn về đề tài “Tội mua bán trái phép chất ma

túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu cá nhân của tôi

trong thời gian qua. Mọi số liệu sử dụng phân tích trong luận văn và kết quả

nghiên cứu là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách khách quan, trung thực,

có nguồn gốc rõ ràng và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi

xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự không trung thực trong thông tin sử

dụng trong công trình nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm 2021

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

V

Vũ Thị Mai Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA

BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................................................. 7

1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma tuý theo pháp

luật hình sự Việt Nam ....................................................................................... 7

1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy ......................................... 9

1.1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma

túy……… ........................................................................................................ 10

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy. ................. 16

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỘI PHẠM

MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI

DƯƠNG .......................................................................................................... 24

2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử tội mua bán

trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương. ........................................ 24

2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội mua bán trái phép

chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương ........................................................ 26

2.3. Những hạn chế về hoạt động xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn tỉnh Hải Dương. ........................................................................... 38

2.4. Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động xét xử tội mua bán trái phép

chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. ....................................................... 46

Chương 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP

LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .......................... 49

3.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma

túy….. .............................................................................................................. 49

3.1.1. Hoàn thiện qui định pháp luật về khái niệm tội phạm ma túy .............. 49

3.1.2. Hoàn thiện qui định pháp luật về định tội danh đối với tội mua bán trái

phép chất ma túy ............................................................................................. 49

3.1.3. Hoàn thiện qui định về giám định hàm lượng, tính khối lượng các chất

ma túy .............................................................................................................. 51

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tội mua bán trái phép chất ma

túy….. .............................................................................................................. 53

3.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự ........................ 53

3.2.2. Hoàn thiện công tác tổ chức .................................................................. 54

3.2.3. Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống Tòa án

nhân dân .......................................................................................................... 55

3.2.4. Nâng cao năng lực chuyên môn của Thẩm phán .................................. 56

3.2.5. Nâng cao chất lượng hội thẩm nhân dân............................................... 58

3.2.6. Nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ................... 60

3.3. Các giải pháp khác .................................................................................. 61

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 63

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

MBTP: Mua bán trái phép

TAND: Tòa án nhân dân

TNHS: Trách nhiệm hình sự

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm ma túy với tình hình tội

phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm 26

2016-2020

Bảng 2.2: So sánh tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma

27 túy với tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương

giai đoạn từ năm 2016-2020

Bảng 2.3: Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội 28

mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn 2016-2020

Bảng 2.4. Đặc điểm nhân thân của các bị cáo phạm tội mua bán 30

trái phép chất ma túy

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong những năm gần đây, thế giới đang phải đối phó với nhiều vấn

đề nhức nhối mang tính toàn cầu trong đó có tệ nạn và tội phạm ma túy.

Trong 5 thập kỷ qua, ước tính sản lượng ma túy hàng năm tại khu vực “Tam

giác vàng” đạt 650 tấn thuốc phiện, số lượng này có thể sản xuất ra 60 tấn

heroin, 1 tỉ viên ma túy tổng hợp và 20 tấn ma túy đá. Tệ nạn và tội phạm về

ma túy đã trở thành hiểm họa chung của nhân loại, gây hậu quả và tác hại

nghiêm trọng về nhiều mặt cả về chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức, sức

khỏe,… của con người. Đây là nguồn phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, nhiều loại

tội phạm nguy hiểm và là cầu nối lan truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Ở

nước ta tình hình tệ nạn và tội phạm về ma túy ngày càng tăng nhanh. Theo số

liệu từ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (Bộ Công an), năm 2018,

toàn quốc phát hiện, bắt giữ gần 13.000 vụ, hơn 20.000 người, thu giữ hơn

156 kg heroin, gần 19 kg thuốc phiện, hơn 44.000 viên ma túy tổng hợp. Đến

năm 2019 có gần 23.000 vụ (tăng 77%) bị phát hiện, hơn 35.000 người bị bắt

giữ (tăng 73%), thu giữ gần 1.500 kg heroin (tăng 857%) và gần 1 triệu viên

ma túy tổng hợp… và trong 6 tháng đầu năm 2020 đã phát hiện 11.215 vụ, bắt

giữ 15.775 đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 235 kg heroin, gần 1,6 tấn

và 850.000 viên ma túy tổng hợp, 113kg cần sa.

Tỉnh Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, mặc dù

không phải địa bàn trọng điểm phức tạp về ma túy nhưng có đặc điểm là giao

thông thuận lợi (nhiều quốc lộ như quốc lộ 5, quốc lộ 18) và giáp với nhiều

tỉnh, thành phố lớn là Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh. Chính những đặc

điểm đó đã tạo điều kiện phát sinh nhiều tệ nạn xã hội trong đó có tội phạm về

1

ma túy mà điển hình là mua bán trái phép chất ma túy. Thời gian gần đây số

vụ, số đối tượng liên quan đến mua bán trái phép chất ma túy ngày càng gia

tăng, đặc biệt số ma túy bị bắt giữ ở từng vụ có số lượng lớn đã khiến cho dư

luận quan tâm lo lắng. Đứng trước thực trạng đó, các cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự tỉnh Hải Dương đã có nhiều biện pháp xử lý hành chính, hình sự

nhằm tuyên truyền, giáo dục nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối

tượng có biểu hiện vi phạm.

Qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy tỉnh Hải

Dương trong đó có công tác xét xử loại tội phạm này, có thể nhận thấy những

hạn chế, vướng mắc cần được hoàn thiện về nhiều mặt, cả mặt pháp luật cũng

như việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử tội mua bán trái phép chất

ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Do vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy

từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” để làm luận văn thạc sỹ luật học là có cơ sở

thực tiễn và lý luận.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Dưới góc độ lý luận, đã có nhiều tác giả đề cập đến loại tội phạm này,

điển hình như:

+ Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo pháp luật mới nhất,

Trần Công Phàn, NXB Công an nhân dân, 2019;

+ Người có thẩm quyền xử lý vi phạm, tội phạm về ma túy cần phải

biết, Nguyễn Thị Mai Nga, NXB Tư pháp, 2018;

+ Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét

xử (tài liệu tham khảo dùng cho Thẩm phán, Thư kí Tòa án), Phạm Minh

Tuyên, nxb Hồng Đức, 2013;

+ Luận án tiến sĩ của TS. Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự

2

đối với các tội phạm về ma túy trong Luật hình sự Việt Nam”, năm 2006;

+ Luận án tiến sĩ của Đỗ Thành Trường: “Các tội phạm về ma túy trên

địa bàn tỉnh Điện Biên: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”,

năm 2017;

+ Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Thảo: "Các tội phạm về ma

túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn 2000-2010", năm 2014;

+ Luận văn thạc sĩ của Mai Ngọc Chính: “Tội tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La”, năm 2017;

+ Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Duyệt: “Áp dụng pháp luật

hình sự về các tội phạm về ma túy từ thực tiễn trên địa bàn quận 8, thành phố

Hồ Chí Minh”, năm 2018;

+ Luận văn thạc sĩ của Trần Vũ Danh: “Tình hình tội phạm về ma túy

tại tỉnh Quảng Nam”, năm 2019;

+ Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Giang: “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm ngăn ngừa,

hạn chế tệ nạn và tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” do

Nguyễn Việt Hùng - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang

làm Chủ nhiệm đề tài, hoàn thành tháng 6/2007.

+ Đề tài nghiên cứu khoa học của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh:

“Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội

phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” do Tiến sỹ Nguyễn Minh Tuyên

- Phó Chánh tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, nghiệm thu năm 2009;

+ Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao công

tác phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Lai Châu” do do Thiếu

tướng, Tiến sỹ Bùi Xuân Phong – Phó Cục trưởng Cục An ninh điều tra làm

3

chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2020.

Những công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp

luật trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án đối với tội phạm

ma túy nói riêng. Đây đều là những tài liệu tham khảo bổ ích và cần thiết cho

tác giả trong quá trình viết luận văn. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu

nào đi sâu về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự

2015 từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Vì vậy đây là đề tài đầu tiên đi sâu nghiên

cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy dựa trên số liệu, vụ án thực tế tại

tỉnh Hải Dương. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được cũng như hạn chế,

nguyên nhân đồng thời kiến nghị hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan

đến tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận

cũng như thực tiễn xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh

Hải Dương. Trên cơ sở đó xác định những tồn tại, hạn chế trong quy định của

Bộ luật hình sự và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến tội

mua bán trái phép chất ma túy, nâng cao chất lượng xét xử tội mua bán trái

phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Do vậy luận văn đã đặt ra

những nhiệm vụ nghiên cứu sau:

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội MBTP chất ma túy theo pháp

luật hình sự Việt Nam;

Nêu lên những đặc điểm, phân tích, đánh giá quy định hiện hành và

thực tiễn xét xử tội MBTP chất ma túy theo BLHS trên địa bàn tỉnh Hải

Dương giai đoạn từ năm 2016 - 2020.

Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng

xét xử tội MBTP chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành

luật Hình sự và tố tụng hình sự, luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề lý

luận và thực tiễn xét xử tội MBTP chất ma túy theo BLHS giai đoạn 2016-

2020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung: Đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành luật

Hình sự và Tố tụng hình sự.

Về địa bàn: Đề tài được thực hiện trong phạm vi tỉnh Hải Dương.

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm

2016 đến năm 2020, gồm số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Hải

Dương.

Về tội danh: Luận văn nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma

túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) và pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như

thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lê

Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nội dung,

tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng chống tội

phạm, văn bản pháp luật của Nhà nước về các vấn đề tội phạm và hình phạt.

Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể sau: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn dịch, nghiên

cứu tài liệu, nghiên cứu bản án,… và các phương pháp nghiên cứu của khoa

học hình sự để hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất

ma túy.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:

5

Về mặt lý luận, luận văn được thực hiện có ý nghĩa góp phần làm cụ

thể hơn những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Về mặt thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến

hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong việc giải quyết những vụ án hình sự về

tội mua bán trái phép chất ma túy. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho việc

giảng dạy, nghiên cứu và học tập liên quan đến chuyên ngành luật hình sự

trên cả nước.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy

theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn xét xử tội phạm mua bán trái phép chất ma túy

trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao

6

hiệu quả xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI

MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma tuý

theo pháp luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm chất ma túy

Ở Việt Nam, thuật ngữ “ma túy” ban đầu được định nghĩa là thuốc

phiện, cây cần sa và cây coca. Một số ý kiến cho rằng, gọi là “ma túy” bởi vì

các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái, có thể chữa một số bệnh và

tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, làm cho con người mê mẩn, ngây ngất.

Ngày nay, ngoài các sản phẩm của cây cần sa, cây thuốc phiện, cây coca…

còn có các chất được tổng hợp trong phòng thí nghiệm. Nên khái niệm ma túy

được mở rộng hơn, ở các nước khác nhau thì quan điểm về khái niệm ma túy

cũng khác nhau nhưng điểm chung của Luật về kiểm soát ma túy của các

nước là đều đề cập đến ma túy gồm các chất gây nghiện và các chất hướng

thần.

Theo từ điển Tiếng Việt thì ma túy là tên gọi chung các chất có tác

dụng gây trạng thái đờ đẫn, ngây ngất, nếu dùng quen sẽ thành nghiện. Theo

khái niệm khoa học: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên (morphin...);

bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng hợp

(amphetamine) có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương gây cảm giác như

giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì sẽ

phải sử dụng lại, nếu không sẽ rất khó chịu.

Theo Liên hiệp quốc thì “Ma túy là chất hóa học có nguồn gốc tự

nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm

thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc

7

vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng”.

Theo Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung

năm 2008) quy định:

“Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định

trong danh mục do Chính phủ ban hành.Chất gây nghiện là chất kích thích

hoặc chất ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện với người sử dụng.Chất

hướng thần là chất kích thích ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng

nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng.” [30]

Theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ

ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, thì các chất ma túy gồm 227

chất, chia làm 03 danh mục và 22 hóa chất không thể thiếu được trong quá

trình điều chế chất ma túy cần kiểm soát, gồm:

Danh mục 1: Các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng, việc sử

dụng chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và điều tra

tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (gồm 47 chất

trong đó có một số chất thường gặp như cocain, morphin, ecstasy, cần sa và

nhựa cần sa…).

Danh mục 2: Các chất ma túy độc hại được dùng hạn chế trong phân

tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh

vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 112 chất trong đó có một số chất

thường gặp như côcain, thuốc phiện, nhựa coca…)

Danh mục 3: Các chất ma túy độc dược dùng trong phân tích, kiểm

nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo

yêu cầu điều trị (bao gồm 68 chất trong đó có một số chất thường gặp như

diazepam, delorazepam…).

Danh mục 4: Các hóa chất không thể thiếu trong quá trình điều chế ma

túy (22 chất trong đó có một số chất thường gặp như acetone, acetic

8

anhydride…).

Từ những quy định trên, có thể hiểu: Ma túy là các chất có nguồn gốc

tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng

làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó, nếu lạm dụng ma túy,

con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử

dụng và cộng động.

1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy

Theo PGS.TS. Phạm Minh Tuyên Tội phạm ma túy được hiểu “ là

những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình

sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến chế độ

quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà nước, từ đó gây thiệt hại cho lợi ích

của Nhà nước, của xã hội và của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội.”

[16; tr.233].

Tội phạm ma túy là tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội, nó

mang đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bởi không những gây mất trật tự trị

an xã hội mà còn gây ra thiệt hại cho nhà nước, xã hội, công dân, ảnh hưởng

đến sức khỏe, đạo đức của con người.

Theo Ths. Đinh Văn Quế, mua bán trái phép chất ma túy bao gồm

những hành vi: “bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho

người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán

lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để

đổi lấy ma túy”.[19, tr. 92].

Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 2) của trường Đại học

luật Hà Nội thì “hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi

trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào”.[35, tr. 204].

Có thể thấy nhìn chung các nhà làm luật, nhà khoa học đều có chung

quan điểm về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo đó MBTP chất ma túy

9

là hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn

gốc ma túy do đâu mà có) hoặc trao đổi ma túy như một loại hàng hóa có giá

trị. Cụ thể gồm một trong những hành vi sau: bán trái phép; sản xuất, mua,

tàng trữ, xin, vận chuyển để bán; dùng hàng hóa để trao đổi lấy ma túy hoặc

ngược lại. Ngoài ra, hành vi đồng phạm với bán ma túy cũng bị truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Từ phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm về tội MBTP chất ma túy

là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ tuổi chịu và có năng

lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi và xâm phạm đến chế độ quản lý,

sử dụng các chất ma túy của Nhà nước gồm: Bán trái phép chất ma túy cho

người khác; Mua, xin, vận chuyển, sản xuất tàng trữ chất ma túy nhằm bán

trái phép cho người khác; Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái

phép; Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán…lấy chất ma

túy nhằm bán lại trái phép cho người khác và các hành vi đồng phạm.

1.1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội mua bán trái phép

chất ma túy.

 Giai đoạn trước năm 1945:

Vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) trước tình hình trồng cây thuốc phiện

và nghiện hút sử dụng thuốc phiện phổ biến, Nhà nước phong kiến Việt Nam

đã có những quy định “Cấm trồng cây thuốc phiện”. Vào đầu thế kỉ XIX, tình

trạng nghiện hút ở nước ta tăng mạnh do ảnh hưởng của cuộc “Chiến tranh

nha phiến” giữa Trung Quốc và Anh. Trước tình tình đó, năm Minh Mạng

nguyên niên (1820), luật pháp đã quy định phá bỏ các khu vực trồng cây

thuốc phiện, người nào mua bán thuốc phiện sẽ bị phạt 60 trượng và xử tù 01

năm, tịch thu toàn bộ vật chứng dùng trong buôn bán thuốc phiện. Lái buôn

nước ngoài buôn bán thuốc phiện bị đánh 100 trượng và tịch thu vật chứng.

Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp đưa hạm đội vào Đà Nẵng, mở đầu

10

thời kì gần một thế kỉ cai trị nước ta và ban hành hệ thống pháp luật trên toàn

cõi Đông Dương. Pháp công khai phát triển cây thuốc phiện ở nước ta, vua

Tự Đức đã bỏ lệ cấm hút thuốc phiện do vua Minh Mạng đã ban hành trước

đây mà cho đầu thầu, đánh thuế để tăng nguồn thu.

Đến tháng 6/1873, trước tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn bán thuốc

phiện ngày càng tăng, triều đình ban hành trở lại lệnh “Cấm thuốc nha phiến”.

 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự

năm 1985:

Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập,

Nhà nước ta đã nhận thức được sự nguy hại của ma túy. Ngày 10/10/1945,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại một số luật cũ

quy định về các tội phạm ma túy không trái với nội dung chính thể Cộng hòa.

Ngày 05/3/1952, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 150/TTg quy

định về việc xử lý những hành vi vi phạm thể chế quản lý thuốc phiện và

Nghị định số 255/TTg ngày 22/12/1952 quy định những người có hành vi vi

phạm thể chế quản lý thuốc phiện sẽ bị xử lý. Ngày 15/9/1955, Thủ tướng

chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 580/TTg bổ khuyết nghị định

150/TTg quy định những trường hợp có thể bị Tòa án xét xử khi buôn lậu

thuốc phiện với mức phạt từ 03 tháng đến 05 năm tù, tịch thu tang vật và phạt

tiền từ một đến năm lần giá trị thuốc phiện buôn lậu. Sau một thời gian, Bộ

Tư Pháp đã ban hành thông tư số 635/VHH-HS ngày 29/3/1958 và thông tư

số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất đường lối xét xử đối với những

vụ án buôn lậu thuốc phiện.

Theo quy định của Thông tư 635/VHH-HS và thông tư 33/VHH-HS

của Bộ tư pháp: Trường hợp buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở

việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể xử phạt trên 05

năm tù. Đối với người cầm đầu những tổ chức buôn lậu ma túy thì có thể bị

11

phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ 03 đến 05

năm tù. Bọn cơ hội phạm tội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm phạt từ 01

đến 03 năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có thể bị phạt

01 năm tù hoặc cho hưởng án treo...

Từ năm 1954, sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ đất nước chia cắt làm hai

miền Nam, Bắc nên chính sách pháp luật ở 2 miền lại khác nhau. Tại miền

Nam, tình hình buôn bán ma túy, nghiện hút phát triển nhanh và hết sức phức

tạp hơn miền Bắc. Tính đến năm 1975 (sau giải phóng) cả nước có khoảng

150.000 đến 300.000 người nghiện ma túy. Ngày 2/7/1976 Quốc hội ban hành

nghị quyết về thống nhất pháp luật và xây dựng pháp luật mới và ngày

25/3/1977, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về chống buôn

lậu thuốc phiện.

Đến năm 1982, trước tình hình hàng giả, ma túy tăng mạnh, Hội đồng

nhà nước đã ban hành pháp lệnh trừng trị các tội buôn lậu, đầu cơ, làm hàng

giả, kinh doanh trái phép (trong đó có ma túy được coi là đối tượng của buôn

lậu), mức hình phạt đối với những loại tội này rất nặng và có thể lên đến tử

hình. Tuy nhiên tình hình tội phạm về ma túy vẫn có chiều hướng diễn biến

tăng nhanh, phức tạp. Do vậy Đảng và Nhà nước ta đã có thái độ kiên quyết

hơn trong đấu tranh phòng chống ma túy

 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi

ban hành Bộ luật hình sự năm 2015:

Trong những năm 1980, tệ nạn ma túy có xu hướng gia tăng, đặc biệt

là nạn buôn bán ma túy. Trước tình hình này, BLHS đầu tiên được Nhà nước

ta thông qua ngày 27/6/1985 đã quy định TNHS đối với các hành vi phạm tội

liên quan đến ma túy tại các điều luật là Điều 97: “Tội buôn lậu hoặc vận

chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”; Điều 166: “Tội buôn bán

hàng cấm” và điều 203: “Tội tổ chức dùng chất ma túy”. Theo đó chỉ có hành

12

vi tổ chức dùng chất ma túy được quy định riêng tại điều 203 còn các hành vi

khác về ma túy chưa được quy định thành tội riêng mà những hành vi mua

bán, vận chuyển trái phép chất ma túy được quy định tại các điều 97 (qua biên

giới) và điều 166 (ở trong nước).

Ngày 28/12/1989 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS, trong đó tách tội phạm ma

túy thành một điều riêng nằm ở Mục B thuộc chương “Các tội phạm xâm

phạm an ninh quốc gia”. Như vậy, đến thời điểm này tội phạm về ma túy

được quy định thành hai tội là: “Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán

trái phép các chất ma túy” (Điều 96a BLHS) với ba khung hình phạt rất

nghiêm khắc, hình phạt cao nhất lên đến tử hình đối với các trường hợp đặc

biệt nghiêm trọng và “Tội tổ chức dùng chất ma túy” (Điều 203), với mức

hình phạt cao nhất là mười năm tù.

Tiếp đó, ngày 10/5/1997 tại kì họp thứ 11, Khóa IX, Quốc hội đã

thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS năm 1985. Lần này các tội

phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng là chương VII : “Các

tội phạm về ma túy” trong phần các tội phạm của BLHS gồm 14 điều từ điều

185a đến Điều 185o quy định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép

chất ma túy” được quy định tại Điều 185đ của Bộ luật này.

Lần sửa đổi này, các nhà làm luật đã đề cập đến nhiều loại ma túy hơn

ngoài thuốc phiện như: Cây coca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa

chất ma túy và đặc biệt còn tách các hành vi phạm tội thành các tội độc lập.

Mặt khác điều luật đã có quy định về định lượng các chất ma túy để làm căn

cứ truy cứu TNHS. Mức hình phạt đối với loại tội này cũng vô cùng nghiêm

khắc được quy định cụ thể tại 04 khung hình phạt (Điều 96a chỉ có 3 khung

hình phạt). Ngoài ra bổ sung thêm trong điều luật các tình tiết định khung mới

như “phạm tội nhiều lần” và bỏ hình phạt bổ sung là quản chế hoặc cấm cư

13

trú đối với những người phạm các tội này.

Có thể thấy qua nhiều lần sửa đổi bổ sung BLHS năm 1985 đã hoàn

thiện hơn trong kĩ năng lập pháp hình sự, cụ thể là các tội phạm về ma túy đã

được quy định tại một chương riêng, thể hiện chính sách hình sự của Nhà

nước ta là xử lý nghiêm khắc tội phạm ma túy. Tuy nhiên trong quá trình thực

tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn một số điều chưa hợp lý vì vậy BLHS năm

1999 ra đời.

Ngày 21/12/1999, BLHS năm 1999 được Quốc hội nước ta thông qua.

Theo đó tội MBTP chất ma túy quy định tại Điều 194 với tên gọi là Tội tàng

trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy.

Khác với BLHS 1985 thì BLHS năm 1999 đã gộp 4 tội danh độc lập

tại 04 điều luật khác nhau của BLHS năm 1985 là: Tội tàng trữ trái phép chất

ma túy (Điều 185 c); tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185 d); tội

mua bán trái phép chất ma túy (Điều 185 đ) và tội chiếm đoạt chất ma túy

(Điều 185 e) thành một tội danh chung. Việc nhập 04 tội danh thành 01 tội có

ý nghĩa làm cho BLHS chặt chẽ hơn về mặt khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng và

đặc biệt là đã giảm được 03 tội có mức án tử hình quy định trong BLHS, đảm

bảo được tính nhân đạo.

Tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng, chống

ma túy, có hiệu lực ngày 01/06/2001,đây là đạo luật đầu tiên quy định về

phòng chống ma túy và làm cơ sở pháp lý để đấu tranh với tệ nạn ma túy.

Tiếp đó, ngày 24/12/2007, liên ngành Bộ công an – Viện kiểm sát

nhân dân tối cao- Tòa án nhân dân tối cao – Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư

liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC quy định hướng dẫn

cụ thể việc áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma

túy” của BLHS 1999 (Thông tư 17), và ngày 14/11/2015 ban hành Thông tư

liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa đổi bổ sung một

14

số điểm của thông tư 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định

hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các điều 194 nói riêng và Chương XVIII “Các

tội phạm về ma túy” nói chung của BLHS 1999 (Thông tư 08) . Đây là những

văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định về tội phạm ma túy, góp phần tháo gỡ

nhiều vướng mắc trong quá trình giải quyết những vụ án ma túy.

 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay.

Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã biểu

quyết thông qua Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy do sơ suất về mặt kỹ thuật và

những lỗi nghiêm trọng dẫn đến không thể thi hành BLHS năm 2015. Trong

những Điều luật của BLHS năm 2015 có sai sót thì tội MBTP chất ma túy

được quy định tại Điều 251 cũng là Điều luật có nhiều sai sót nghiêm trọng

nhất. Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 và có hiệu

lực từ ngày 01/01/2018.

Tại Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định

về tội MBTP chất ma túy có nhiều điểm mới quan trọng so với Điều 194

BLHS năm 1999. Cụ thể là:

Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã tách 04 hành vi tại Điều 194 BLHS

năm 1999 thành 04 tội riêng biệt là: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều

249); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép

chất ma túy (Điều 251); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252). Nâng tổng số

điều luật trong chương XX BLHS năm 2015 lên 13 Điều.

Trong quá trình áp dụng pháp luật, có thể thấy tội MBTP chất ma túy

có hành vi nguy hiểm cho xã hội hơn tội tàng trữ hay chiếm đoạt chất ma túy,

trong khi đó Điều 194 lại qui định về định lượng, mức hình phạt đối với các

hành vi này giống nhau nên thực tế gặp nhiều khó khăn trong định tội danh và

hình phạt. Vì vậy để định tội danh và áp dụng mức hình phạt một cách phù

15

hợp giữa các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất

ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy, BLHS năm 2015 đã tách những hành vi

trên thành từng điều luật cụ thể.

Thứ hai, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã qui định

rõ ràng từ mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để có căn

cứ truy cứu trách nhiệm hình sự trong từng điều luật cụ thể.

Thứ ba: BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã qui định

thêm một số chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy đã được Chính

phủ quy định vào Điều luật cụ thể như chất ma túy Methamphetamine,

Amphetamine, MDMA, XLR-11 và bổ sung cụm từ “hoặc thể tích” vào từng

khoản, điềm quy định đối với 02 chất ma túy trở lên để đảm bảo quy định đầy

đủ chất ma túy ở thể lỏng.

Thứ tư, tương tự như các tội phạm về ma túy khác, trong Tội MBTP

chất ma túy, thuật ngữ “trọng lượng” cũng được thay đổi thành “khối lượng”

cho phù hợp.

Thứ năm, BLHS 2015 đã bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng

là “c) Đối với 02 người trở lên;”được quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Có thể thấy BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được ban

hành đã tháo gỡ được những khó khăn trong công tác xét xử về tội phạm về

ma túy nói chung và tội MBTP chất ma túy nói riêng.

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy.

 Khách thể của tội phạm:

Tội mua bán trái phép chất ma túy có khách thể trực tiếp là chế độ độc

quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các

chất ma túy. Những hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bao gồm:

“Nghiên cứu, sản xuất, vận chuyển,tàng trữ, mua bán, bảo quản, phân phối,

16

trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam chất ma túy,

tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”[30]. Từ đó có thể thấy, chỉ

những cá nhân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình trong hoạt động liên quan đến ma túy mới được coi là

hợp pháp; những trường hợp khác đều là bất hợp pháp và bị xử lý theo quy

định của pháp luật.

 Mặt khách quan của tội phạm:

Về hành vi:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy gồm những hành vi sau:

a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào

nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy

cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;

b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ

thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);

đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất

ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;

e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện

một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ

điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 Thông tư 17 đều bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.”[1]

Những hành vi này được quy định cụ thể tại tiểu mục 3.3, Mục 3 phần

II Thông tư liên tịch số17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP.

Theo đó hành vi khách quan của tội Mua bán trái phép chất ma tuý có 03

17

nhóm chính, đó là:

- Nhóm hành vi “Bán” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm a, b, c,

e, g mục 3.3, phần II, Thông tư 17): Người phạm tội bằng bất kể hành vi nào

để có được ma túy nhưng nhằm mục đích bán thì đã cấu thành tội này kể cả

hành vi bán hộ ma tuý thì cũng thuộc nhóm hành vi “bán”trái phép chất ma

tuý.

- Nhóm hành vi “Trao đổi” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm d, đ

mục 3.3): Việc trao đổi chất ma tuý này có thể là đổi ma tuý để lấy tài sản của

người nhận ma tuý (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc không ngang giá)

hoặc có thể là dùng ma tuý để thanh toán nợ, trừ nợ. Cũng như nhóm hành vi

“bán” thì trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý.

- Nhóm hành vi “Hỗ trợ” việc bán, trao đổi trái phép chất ma tuý

(phần cuối mục 3.3). Đây là các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành

vi bán, trao đổi chất ma tuý và có thể gọi chung là trường hợp đồng phạm với

hành vi bán, trao đổi ma tuý. Điểm cần lưu ý trong dấu hiệu khách quan của

tội Mua bán trái phépchất ma túy là: Tất cả các hành vi bán, trao đổi chất ma

túy phải có tính “trái phép”.

Đây cũng là điểm khác giữa tội MBTPCMT với Tội “Tàng trữ trái

phép chất ma túy”; Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định

tại Điều 250; Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” được quy định tại Điều 252.

Về mục đích:

Người phạm tội kiếm lợi bất chính dựa trên hoạt động mua bán trái

phép chất ma túy. Đối với loại tội này mục đích phạm tội tuy không phải là

dấu hiệu bắt buộc nhưng là dấu hiệu quyết định cho việc định tội danh. Ví dụ:

Cùng một hành vi mua ma túy, nhưng nếu mục đích là để sử dụng thì đối

tượng sẽ bị khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (nếu đủ khối lượng

quy định); Còn nếu mục đích là để bán thì sẽ bị khởi tố về tội Mua bán trái

18

phép chất ma túy.

Về hậu quả:

Tội mua bán trái phép chất ma túy có cấu thành tội phạm hình thức,

người phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy định tại tiểu mục

3.3, Mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP là tội phạm đã hoàn thành. Do vậy không xét đến hậu quả

của hành vi gây ra để định tội danh với loại tội phạm này. Những thiệt hại do

hành vi mua bán trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội không thể cân, đo

đong, đếm được. Vì vậy, điều luật mới chỉ dừng lại ở việc quyết định hình

phạt một phần dựa vào định lượng, khối lượng lượng ma túy. Định lượng,

khối lượng ma túy mà người phạm tội mua bán trái phép càng lớn thì hình

phạt càng nặng.

 Mặt chủ quan của tội phạm:

Trong mặt chủ quan của tội MBTP chất ma túy thì lỗi là yếu tố rất

quan trọng trong việc xác định tội phạm cũng như trách nhiệm hình sự. Đối

với loại tội này, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực

tiếp, không có trường hợp nào phạm tội do lỗi cố ý gián tiếp, tức là họ nhận

thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, biết được tác hại của ma túy, có đủ

điều kiện để không mua bán trái phép nhưng họ vẫn thực hiện và mong muốn

hậu quả đó xảy ra.

Ngoài yếu tố lỗi thì trong dấu hiệu mặt chủ quan của tội Mua bán trái

phép chất ma túy, cần chú ý những vấn đề sau:

Thứ nhất, nếu theo kết luận giám định chất thu giữ ko phải là ma túy,

nhưng người thực hiện hành vi mua bán, trao đổi… ý thức rằng đó là chất ma

túy thì bị xử lý về tội MBTP chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251

BLHS, nếu không có các tình tiết định khung tăng nặng khác.

Thứ hai, trong trường hợp người bán biết là chất ma túy giả nhưng

19

khiến người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi thì sẽ bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nếu thỏa mãn các dấu hiệu

khác trong cấu thành tội phạm của tội này chứ không phải truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội phạm ma túy.

Chủ thể của tội phạm:

Theo pháp luật hình sự Việt Nam, có thể hiểu “Chủ thể của tội phạm

là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi nhất định hoặc pháp

nhân thương mại đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

được pháp luật hình sự quy định , xâm phạm những khách thể được pháp luật

hình sự bảo vệ và trong một số trường hợp khác có dấu hiệu đặc biệt được chỉ

ra trong điều luật tương ứng”.

Xét về mặt chủ thể của tội phạm có thể nêu các yếu tố để cấu thành

tội phạm gồm:

Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Theo quy định tại điều 12 BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi

tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một

trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171,

173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và

304 của Bộ luật này.”[26]

Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) thì mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù (thuộc loại tội

nghiêm trọng). Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải

chịu TNHS về các hành vi phạm tội tại khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015

20

(sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhưng phải chịu TNHS về các hành vi phạm tội

theo các khung tăng nặng từ khoản 2 trở lên quy định tại các khoản 2,3,4 Điều

251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trừ trường hợp “phạm tội

nhiều lần”tại điểm b khoản 2 Điều 194 tương ứng với điểm b khoản 2 Điều

251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), theo hướng dẫn tại mục

10 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS

quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện

hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng

lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác

định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất cả các lần đó đến mức tối

thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 BLHS thì họ

không phải chịu TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy”.[33]

Về năng lực trách nhiệm hình sự:

Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực của chủ thể có thể phải chịu

trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm

hình sự là một dạng năng lực pháp lí và xác định dựa trên các cơ sở:

Thứ nhất, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có năng

lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Điều

này đảm bảo chủ thể của tội phạm là người có năng lực để có thể có lỗi khi

thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội

Thứ hai, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có độ tuổi phù

hợp với chính sách hình sự của nhà nước trong giai đoạn cụ thể. Điều này là

cần thiết để thể hiện chính sách hình sự của nhà nước đối với người chưa đủ

18 tuổi có hành vi gây thiệt hại cho xã hội.

Từ những phân tích trên, có thể khái quát chung chủ thể của tội phạm

mua bán trái phép chất ma túy theo BLHS năm 2015 là người có năng lực

21

trách nhiệm hình sự từ 16 tuổi trở lên có hành vi vi phạm Điều 251 BLHS

năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ 14 tuổi trở lên phạm vào khoản

2,3,4 Điều 251 năm BLHS năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017), (trừ trường

hợp điểm b Khoản 2 Điều 194 tương ứng điểm b Khoản 2 Điều 251 BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) theo hướng dẫn tại mục 10 Nghị quyết

01/2006/NQ- HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS).

 Về hình phạt đối với tội Mua bán trái phép chất ma túy:

Hình phạt của tội MBTP chất ma túy theo quy định tại Điều 251 BLHS

2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Hình phạt chính được quy định từ khoản 1 đến khoản 4 của Điều 251

BLHS và tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cụ thể:

- Khung hình phạt nhẹ nhất tại Khoản 1 là phạt tù từ 02 năm đến 07

năm;

- Khung hình phạt ở Khoản 2 là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;

- Khung hình phạt ở Khoản 3 là phạt tù từ 15 năm đến 20 năm;

- Khung hình phạt ở Khoản 4 là 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình

Ngoài các hình phạt chính, người phạm tội có thể phải chịu hình phạt

bổ sung bao gồm phạt tiền, cấm đảm nhận chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định hoặc tịch thu tài sản.

Tiểu kết chương

Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, văn bản pháp luật về ma túy và Tội

mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 BLHS năm 2015(sửa đổi, bổ

sung năm 2017), tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về khái niệm “ma

túy”, “tội phạm ma túy” và “tội mua bán trái phép chất ma túy”. Đồng thời,

tác giả đã đưa ra được dấu hiệu pháp lý, lịch sử lập pháp đối với tội mua bán

trái phép chất ma túy. Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản,

22

chung nhất của tội MBTP chất ma túy và công tác xét xử đối với tội phạm này

là cơ sở, tiền đề để chúng ta tiến đến nghiên cứu, phân tích thực tiễn xét xử tội

mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 05

năm từ (2016 – 2020) theo pháp luật hiện hành là Điều 251 BLHS năm 2015

23

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) tại chương 2.

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỘI

PHẠM MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử tội

mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

2.1.1. Khái quát chung về tỉnh Hải Dương.

 Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:

Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng với vị trí

địa lý: Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh,

phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp thành Phố Hải Phòng, phía

tây giáp tỉnh Hưng Yên và phía nam giáp tỉnh Thái Bình. Hải Dương có 2

thành phố (Hải Dương và Chí Linh) và 10 huyện, thị xã (thị xã Kinh Môn và

các huyện: Nam Sách, Cẩm Giàng, Bình Giang, Gia Lộc,Tứ Kỳ, Kim Thành,

Thanh Miện,Thanh Hà, Ninh Giang). Hải Dương có nhiều tuyến quốc lộ lớn

như quốc lộ 05, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng

nối liền nhiều tỉnh thành. Hải Dương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ

và theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong vùng thủ đô với vai trò là

một trung tâm công nghiệp của toàn vùng.

Hải Dương có diện tích 1.662 km², là tỉnh có diện tích trung bình

trong số các tỉnh thành ở Việt Nam và được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và

vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc của tỉnh, chiếm khoảng 11%

diện tích tự nhiên gồm 13 phường xã thuộc thành phố Chí Linh và 18 phường

xã thuộc thị xã Kinh Môn. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự

nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ.

Về tình hình kinh tế - xã hội:

Trên cơ sở số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố, năm

24

2019 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm

trước. Về dân số, năm 2020 tỉnh Hải Dương có 1.916.774 người, trong đó

nông thôn chiếm 67,8% và thành thị chiếm 32,2%.

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế – xã hội như

vậy, tỉnh Hải Dương có nhiều thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt đời sống,

xã hội. Tuy nhiên điều này cũng làm cho nhiều tệ nạn xã hội có chiều hướng

gia tăng trong đó có tệ nạn về ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương

Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, TAND tỉnh Hải Dương trực

thuộc Tòa án nhân dân tối cao; cơ cấu tổ chức gồm hai cấp gồm 12 Toà án

cấp huyện (trong đó có 09 Toà án nhân dân huyện, 01 Toà án nhân dân thị xã

và 02 Toà án nhân dân thành phố) và Toà án nhân dân tỉnh (trong đó có Toà

hình sự, Toà dân sự, Toà hôn nhân gia đình và người chưa thành niên, Toà

hành chính, Phòng giám đốc kiểm tra, Phòng tổ chức cán bộ và Văn phòng

Toà án nhân dân tỉnh).

TAND tỉnh Hải Dương hiện nay có tổng số 174 cán bộ công chức

trong toàn tỉnh trong đó đơn vị TAND cấp tỉnh có 43 biên chế, gồm: 01 Thẩm

phán cao cấp, 11 Thẩm phán trung cấp; 01 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thẩm tra

viên, 18 Thư ký và 02 Chuyên viên, 02 Cán sự, 02 kế toán và 01 nhân viên.

Ngoài ra đơn vị TAND tỉnh Hải Dương còn có 25 Hội thẩm nhân dân tham

gia vào hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật.

Nhìn chung đội ngũ cán bộ đảng viên toàn ngành có mặt bằng tương

đối đồng đều về trình độ chuyên môn, luôn chấp hành tốt Điều lệ Đảng, pháp

luật Nhà nước và Quy chế làm việc của cơ quan, có lối sống lành mạnh, tư

tưởng vững vàng, kiên định với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,

25

pháp luật của Nhà nước.

2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử tội mua bán

trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Theo số liệu thống kê từ Văn phòng TAND tỉnh Hải Dương trong 05

năm giai đoạn từ 01/01/2016 đến 30/12/2020, TAND tỉnh Hải Dương đã đưa

ra xét xử 7161 vụ án đối với 13093 bị cáo trong đó tội phạm về ma túy là

2104 vụ đối với 2356 bị cáo và tội mua bán trái phép chất ma túy là 472 vụ

đối với 555 bị cáo. Cụ thể:

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm ma túy với tình hình tội phạm nói

chung trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm 2016-2020

Số vụ án Số bị cáo

Năm Tỷ lệ Tỷ lệ Tội phạm Tội phạm Tội phạm Tội phạm

hình sự về ma túy hình sự về ma túy

Năm 2016 1150 234 20,3% 2051 264 12,8%

Năm 2017 1417 519 36,6% 2443 585 23,9%

Năm 2018 1763 574 32,6% 3067 631 20,5%

Năm 2019 1362 410 30,1% 2627 471 17,9%

Năm 2020 1469 367 25% 2905 405 13,9%

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương

Có thể thấy trong giai đoạn 05 năm từ năm 2016 -2020 các tội phạm

về ma túy có xu hướng tăng giảm không đồng đều nhưng đều có điểm chung

là chiếm số lượng lớn trong các vụ án hình sự của TAND tỉnh Hải Dương. Số

vụ án về ma túy chiếm khoảng 29% các vụ án hình sự của TAND tỉnh Hải

Dương. Năm 2018 là năm TAND tỉnh Hải Dương xét xử vụ án về ma túy

nhiều nhất (574 vụ án với 631 bị cáo). Những vụ án về ma túy mà đặc biệt là

mua bán trái phép chất ma túy luôn được TAND tỉnh Hải Dương chú trọng

26

trong công tác xét xử, đảm bảo tiến độ giải quyết các vụ án trong thời hạn luật

định nhưng vẫn đảm bảo chất lượng giải quyết vụ án, chưa có vụ án nào bị

hủy, sửa về xử sai tội danh hoặc bỏ lọt tội phạm, hành vi phạm tội đối với loại

tội này.

Bảng 2.2: So sánh tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma túy với

tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương

giai đoạn từ năm 2016-2020

Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020

Số Số Số Số Số Tội danh Bị Bị Bị Bị Bị vụ vụ vụ vụ vụ cáo cáo cáo cáo cáo án án án án án

Mua bán 60 85 105 112 137 156 95 111 75 91 TPCMT

Tàng trữ 172 177 409 467 430 468 308 352 289 310 TPCMT

Vận chuyển 2 2 5 6 7 7 4 5 1 2 TPCMT

Chứa chấp sử 0 0 0 0 0 0 3 3 2 2 dụng TPCMT

Tổng cộng 234 264 519 585 574 631 410 471 367 405

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương

Ngoài các tội phạm về ma túy tại bảng trên thì trong BLHS năm 2015

còn quy định về một số tội phạm ma túy khác như: Tội sản xuất trái phép chất

ma túy (Điều 248), Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252), Tội tổ chức sử

dụng trái phép chất ma túy (Điều 255),… nhưng trong giai đoạn từ năm 2016

27

-2020 TAND tỉnh Hải Dương chưa xét xử những loại tội phạm ma túy này.

Về tội mua bán trái phép chất ma túy, qua bảng trên có thể thấy loại

tội phạm này chiếm tỷ lệ khá lớn trong nhóm tội phạm về ma túy (chỉ sau tội

Tàng trữ trái phép chất ma túy). Cụ thể: Năm 2016 là 60 vụ đối với 85 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 25,6%), năm 2017 là 105 vụ với 112 bị cáo (chiếm tỷ lệ 20,2%),

năm 2018 là 137 vụ với 156 bị cáo(chiếm tỷ lệ 23,9%), năm 2019 là 95 vụ với

111 bị cáo (chiếm tỷ lệ 23,2%)và năm 2020 là 75 vụ với 91 bị cáo (chiếm tỷ

lệ 20,4%). Những vụ án về MBTP chất ma túy có chiều hướng tăng giảm qua

các năm không đồng đều, tuy nhiên số vụ án về mua bán đều chiếm tỷ lệ rất

cao trong loại tội phạm về ma túy.

 Về mức hình phạt đối với các bị cáo phạm tội mua bán trái phép

chất ma túy được thể hiện bảng dưới đây:

Bảng 2.3: Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi

xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn 2016-2020

Đơn vị tính: Bị cáo

Tù từ 03 Tù từ 07 Tù từ 15 Tù từ 03 năm đến năm đến năm đến Tù chung Tử hình Năm năm trở dưới 07 dưới 15 dưới 20 thân xuống Năm năm Năm

48

19

3

0

0

5

2016

57

14

5

4

0

11

2017

96

27

9

3

2

16

2018

67

25

2

3

1

13

2019

41

13

4

0

0

22

2020

3

301

102

25

10

71

Tổng

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương

Trong giai đoạn từ năm 2016-2018 có một số trường hợp được miễn

28

trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy do trong giai đoạn

xét xử, Tòa án trưng cầu giám định lại hàm lượng thì không đủ định lượng để

xử phạt bị cáo. Cụ thể: Năm 2016 là 10 bị cáo, năm 2017 là 21 bị cáo và năm

2018 là 01 bị cáo được miễn TNHS.

Về mức hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy có thể

thấy chủ yếu là hình phạt tù từ 03 năm trở xuống (chiếm tỷ lệ 58,7%). Những

vụ án MBTP chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương thường có tính chất nhỏ

lẻ, khối lượng ma túy dùng vào việc mua bán là không lớn. Do vậy khung

hình phạt tù từ 20 năm đến chung thân, tử hình là không cao. Chỉ có năm

2018 là tử hình 02 bị cáo và năm 2019 tử hình 01 bị cáo. Điều này cũng thể

hiện được phần nào chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

29

 Về đặc điểm nhân thân của bị cáo được thể hiện tại bảng sau:

Bảng 2.4. Đặc điểm nhân thân của các bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy

Đơn vị tính: Bị cáo

Nghề nghiệp Trình độ học vấn Năm Giới tính Độ tuổi Dân tộc

Trên Có Không Chưa Trình Trình Từ

Từ Từ 60 nghề Dân biết học độ độ 16 Lao Không Dân đến 18 - 30 – tuổi nghiệp tộc chữ hết THPT đại Nam Nữ động nghề tộc dưới 30 60 thiểu THPT học tự do nghiệp Kinh 18 tuổi tuổi số

tuổi

0 0 70 25 0 1 2016 80 5 4 81 82 2 85 0 0

1 0 74 37 1 0 2017 109 3 5 106 109 3 111 1 0

0 0 99 56 1 2 2018 151 5 11 145 150 4 156 0 0

0 0 86 25 0 1 2019 107 4 7 104 109 1 109 2 0

1 0 57 34 2 0 2020 89 2 8 79 87 4 91 0 1

2 3 0 4 Tổng 536 19 35 515 537 14 552 386 177 1 4

36

Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương

Về giới tính:

Theo số liệu, kết quả xét xử của TAND tỉnh Hải Dương cho thấy tỷ lệ

nữ giới phạm tội này không nhiều. Từ năm 2016 đến năm 2020, mỗi năm có

khoảng 111 bị cáo bị đưa ra xét xử về tội MBTP chất ma túy thì chỉ có

khoảng 4 bị cáo là nữ giới (chiếm khoảng 3,6% so với nam giới).

Về độ tuổi:

Đa số người phạm tội MBTP chất ma túy nằm trong độ tuổi đang lao

động, tuy nhiên vì mục đích nên các bị cáo bất chấp để thực hiện hành vi.

Có thể thấy số người ở độ tuổi dưới 18 phạm tội MBTP chất ma túy là

rất ít và đa số các năm đều không có những đối tượng này phạm tội. Chỉ có

duy nhất năm 2020 là có 01 bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội.

Về Nghề nghiệp:

Nghề nghiệp chủ yếu đối với loại tội phạm này chủ yếu rơi vào các

đối tượng lao động tự do (chiếm 97,6%), vì không có công việc ổn định, và

việc mua bán ma túy trái phép được lợi nhuận cao nên các đối tượng đã bất

chấp để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Về dân tộc:

Do đặc điểm của tỉnh Hải Dương là vùng đồng bằng nên người phạm

tội chủ yếu là dân tộc Kinh, những trường hợp dân tộc thiểu số thì hầu như là

ở các vùng núi và thực hiện hành vi MBTP chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải

Dương.

Về trình độ học vấn:

Số lượng chiếm đại đa số về trình độ học vấn của những người phạm

tội MBTP chất ma túy thường là những người chưa học hết bậc trung học phổ

thông nên trình độ nhận thức có phần hạn chế, không hiểu biết quy định pháp

luật về những hành vi vi phạm pháp luật trong đó có MBTP chất ma túy dẫn

37

đến việc thực hiện hành vi phạm tội.

2.3. Những hạn chế về hoạt động xét xử tội mua bán trái phép

chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

2.3.1.Về định tội danh:

Chương XX Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

gồm 13 tội phạm cụ thể từ Điều 247 đến Điều 259 đã quy định cụ thể hơn các

dấu hiệu của cấu thành tội phạm và định lượng đối tượng tác động, hậu quả

tội phạm gây ra; đồng thời phân hóa trách nhiệm giữa các hành vi phạm tội

nhằm bảo đảm tính công bằng trong việc xử lý tội phạm về ma túy. Tuy

nhiên, quá trình thực hiện đã nảy sinh một số vướng mắc trong một số trường

hợp cụ thể do chưa có sự thống nhất của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung

và cá nhân người tiến hành tố tụng nói riêng.

Thứ nhất, trường hợp đối tượng phạm tội khai mua về để bán nhưng

mới bán một ít cho 1 người thì bị bắt, phần còn lại bị CQĐT thu khi khám xét

(tổng khối lượng ma túy chỉ đủ để xử lý theo khoản 1 tội tương ứng; bản thân

đối tượng không sử dụng ma túy) thì xử lý về tội Mua bán trái phép chất ma

túy theo khoản 1 Điều 251 BLHS hay xử lý theo điểm b khoản 2 Điều 251

BLHS (hình sự sớm vì số ma túy mà đối tượng chưa bán được có thể sẽ được

bán một hoặc nhiều lần nữa nên bị coi là phạm tội 2 lần trở lên)?

Thứ hai, đối với những vụ án mua bán trái phép chất ma túy mà xác

định rõ được người mua hoặc bán ma túy thì việc xử lý trách nhiệm là không

quá khó khăn. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều vụ án về ma túy mà cơ

quan điều tra không xác định được đối tượng mua, bán nên việc chứng minh

hành vi phạm tội chủ yếu dựa vào lời khai của người bị bắt. Tuy nhiên, để có

thể chứng minh được ý thức chủ quan của một người là rất khó khăn dẫn đến

tình trạng là trong quá trình điều tra vụ án lúc đầu đối tượng khai nhận vận

chuyển hoặc cất giấu ma túy để nhằm mục đích bán thì sẽ khởi tố tội “Mua

38

bán trái phép chất ma túy”. Nhưng sau đó đối tượng lại thay đổi lời khai mục

đích để sử dụng dẫn đến việc không có đủ căn cứ để khởi tố về tội “Mua bán

trái phép chất ma túy” mà thay đổi khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma

túy. Cũng như vậy, tại phiên tòa, trường hợp bị cáo phản cung, thay đổi lời

khai mục đích cất giấu hoặc vận chuyển ma túy chỉ để sử dụng thì HĐXX

không có cơ sở để tuyên bị cáo tội Mua bán trái phép chất ma túy, trường hợp

này HĐXX có thể trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra lại.

Thứ ba, đối tượng phạm tội mua bán ma túy chủ yếu là nam giới, lứa

tuổi phạm tội từ 18 đến 45 tuổi; phần lớn các đối tượng bị phát hiện là người

nghiện ma túy. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng, song phần lớn người nghiện

mua ma túy về sử dụng sau đó làm quen với đường dây, rồi lấy ma túy về bán

để kiếm lời lấy ma túy sử dụng. Các đối tượng trong đường dây ma túy hoạt

động bí mật và tính tổ chức chặt chẽ nên khi một đối tượng trong đường dây

bị phát hiện chúng thường không khai đồng bọn nên trong quá trình điều tra

thường chỉ phát hiện được một đối tượng còn những đối tượng khác không bị

phát hiện. Trong hầu hết các vụ án về mua bán ma túy, với những đối tượng

chưa điều tra được nhân thân cụ thể thì cơ quan điều tra đều tách ra để xử lý

sau. Ngoài ra, theo lời khai của bị can, bị cáo thì đã bán ma túy cho nhiều đối

tượng, tuy nhiên việc điều tra, truy tố, xét xử đối với những đối tượng này là

chưa triệt để.

Ví dụ thực tế:

Khoảng 22 giờ ngày 15/5/2020, Nguyễn Đức Duy gọi điện thoại cho

Nguyễn Đình Ninh hỏi mua 01 viên ma túy loại thuốc lắc; Ninh đồng ý nói

giá là 350.000 đồng và chỉ dẫn Duy đi đến nhà trọ do Ninh đang thuê ở thôn

Quỳnh Khê, xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành. Khoảng 30 phút sau, Duy đến

nhà trọ của Ninh, khi đó có Nguyễn Văn Quảng đang ở cùng. Duy nói với

Ninh: “Anh còn hàng không?”, Ninh trả lời: “Còn”; nghe thấy Duy và Ninh

39

nói với nhau như vậy thì Quảng hiểu là Duy hỏi Ninh còn ma túy không để

Duy mua. Duy lấy số tiền 350.000 đồng ở trong túi quần ra, Quảng cầm tiền

đếm còn Ninh lấy ở trong chiếc ví da màu đen một túi nilon chứa ma túy loại

thuốc lắc đã được nghiền thành bột đưa cho Duy, sau đó Ninh đi vào nhà vệ

sinh. Ngay lúc đó, Công an đến kiểm tra nhà trọ do Ninh đang thuê, Duy đã tự

nguyện lấy 01 túi nilon chứa chất bột màu xám (niêm phong ký hiệu M1) ở

trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp cho lực lượng công an, Duy khai

đó là thuốc lắc do Duy vừa mua của Ninh với giá 350.000 đồng, mục đích để

sử dụng. Lực lượng công an thu giữ một số đồ vật trong nhà, kiềm tra bên

ngoài trọ, phát hiện và thu giữ trên mặt đất phía dưới cửa sổ nhà vệ sinh của

nhà trọ 01 chiếc ví da màu đen kích thước 15 x 25 cm, bên trong có 10 túi

nilon chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu M3); 01 túi

nilon chứa chất bột màu xám (niêm phong ký hiệu M4); 12 túi nilon chứa chất

rắn dạng tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M5).

Tại bản kết luận giám định số 224/KLGĐ-PC09 ngày 18/5/2020 của

Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:

5.1/ Chất bột màu xám niêm phong trong phong bì ký hiệu M1 gửi đến

giám định có khối lượng 0,110 gam, là ma túy loại MDMA.

5.2/ Chất bột dạng cục màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu

M3 gửi đến giám định có tổng khối lượng 2,795 gam, là ma túy loại Heroine.

5.3/ Chất bột màu xám niêm phong trong phong bì ký hiệu M4 gửi đến

giám định có khối lượng 24,293 gam, là ma túy loại MDMA.

5.4/ Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ký

hiệu M5 gửi đến giám định có tổng khối lượng 10,944 gam, là ma túy loại

Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HSST ngày 21/9/2020 của Tòa

40

án nhân dân huyện Kim Thành đã xử phạt Nguyễn Đình Ninh 28 tháng tù,

Nguyễn Văn Quảng 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và

Nguyễn Đức Duy 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Nhận xét:

Trong vụ án này, Cơ quan công an đã thu giữ bên ngoài nhà trọ do

Ninh thuê 2,795 gam Heroine; 24,293 gam MDMA; 10,944 gam

Methamphetamine. Theo lời khai của Ninh và Quảng đều không biết được số

ma túy này từ đâu ra. Tại nhà trọ cũng như khu vực xung quanh không có

camera, cơ quan điều tra không làm rõ được nguồn gốc của số ma túy này, do

vậy không có đủ căn cứ để khởi tố vụ án, bị can. Nếu không thể tiếp tục điều

tra làm rõ sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm.

2.3.2. Về vấn đề giám định hàm lượng chất ma túy, tính khối lượng

ma túy

Thứ nhất, việc giám định hàm lượng chất ma túy đối với ma túy ở thể

rắn, thể lỏng, các chất ma túy mới như “nước vui”, “tem giấy”, “nước biển”

“nấm ma túy”, giám định hàm lượng chất ma túy chứa trong thuốc tân dược

(như tranxene, valium…) tại nhiều địa phương còn nhiều bất đồng và phải

chờ kết quả giám định của cơ quan chuyên môn.

Thứ hai, hiện nay, việc tính khối lượng ma túy trong một số vụ án mặc

dù đã được giám định hàm lượng, song các cơ quan điều tra và truy tố khi

tính khối lượng chất ma túy để xém xét trách nhiệm hình sự đều căn cứ khối

lượng khi thu giữ (bao gồm cả tinh chất và tạp chất). Việc này dẫn đến đánh

giá tính chất, mức độ phạm tội trong các vụ án không bảo đảm công bằng và

khách quan cho người phạm tội vì nhiều trường hợp tạp chất nhiều hơn tinh

chất. Tuy nhiên Viện kiểm sát vẫn truy tố theo khối lượng khi thu giữ, trong

trường hợp Tòa án căn cứ vào hàm lượng chất ma túy để quy đổi ra khối

41

lượng thực và xử theo khối lượng thực đó thì sẽ bị Viện kiểm sát kháng nghị.

Thứ ba, theo quy định tại 19/2018/NĐ- CP ngày 02/2/2018 của Chính

Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số

điều của BLHS năm 2015 (Nghị định 19) về việc tính tổng khối lượng hoặc

thể tích chất ma túy thì đối với chất ma túy ở thể rắn nhưng bị hòa thành dung

dịch phải giám định hàm lượng. Tuy nhiên, kết quả giám định hàm lượng lại

tính bằng đơn vị gam/ml, vậy căn cứ theo khối lượng ở thể rắn hay căn cứ

theo thể tích riêng của tinh chất ma túy có trong dung dịch để xác định truy

cứu trách nhiệm hình sự?.

Thứ tư, Nghị định 19 chỉ quy định cách tính tổng khối lượng hoặc thể

tích của một chất ma túy được giám định. Tuy nhiên trong trường hợp Công

an bắt được đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán chất ma túy, khi thu

giữ, và gửi giám định thì kết quả giám định gói ma túy có chứa thành phần

của nhiều chất ma túy khác nhau, không thể tách riêng từng chất ma túy để

giám định được thì Nghị định 19 lại không quy định cách tính tổng khối

lượng hoặc thể tích trong trường hợp này.

Ngoài ra từ các hoạt động của các Cơ quan bổ trợ tư pháp, cũng xuất

hiện tình huống đó là: Hiện nay một số địa phương bắt giữ được đối tượng

cùng tang vật, các đối tượng khai nhận đó là ma túy tổng hợp được tẩm ướp

trong thảo mộc sấy khô nhưng cơ quan giám định địa phương lại không có

mẫu chuẩn để giám định. Mặt khác, đây là trường hợp không bắt buộc phải

giám định hàm lượng để tính khối lượng chất ma túy theo quy định tại Nghị

định 19, cơ quan giám định từ chối thực hiện giám định hàm lượng thì có thể

xác định khối lượng chất ma túy để xử lý trách nhiệm hình sự là tổng khối

lượng của thảo mộc và ma túy được tẩm ướp vào thảo mộc hay không?

Ví dụ:

Khoảng 14 giờ ngày 25/6/2016 tại khu vực Bến Hàn, Phường Cẩm

42

Thượng, TP Hải Dương, Hoàng Mạnh Cường được một người phụ nữ tên

Kiều (không rõ họ, tuổi địa chỉ) đặt vấn đề mua khoảng 1300 viên ma tuý

tổng hợp (thuốc lắc). Cường nói giá 140.000.000đ, Kiều đồng ý mua và hẹn

giao nhận ma tuý tại Phòng 301 khách sạn Phương Nguyên thuộc Ph êng

Cẩm Thượng, TP Hải Dương. Do quen và biết Phương (không rõ họ, tuổi, địa

chỉ) ở Hải Phòng có ma tuý tổng hợp bán nên khoảng 16 giờ cùng ngày,

Cường ra khu vực Bến Hàn gặp nói với Phương “có khách muốn mua thuốc

lắc với số lượng 1300 viên”, Phương đồng ý bán với giá là 120.000.000đ và

hẹn Cường đến khu vực siêu thị BigC Hải Phòng để giao tiền và nhận ma tuý.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Cường ra đường Tuệ Tĩnh thuê anh Đỗ Văn

Dương sinh năm 1988 ở Tân Hưng, TP Hải Dương là lái xe taxi cho hãng taxi

Rạng Đông chở đến khu vực siêu thị BigC Hải Phòng. Đến nơi Cường xuống

xe bảo anh Dương đợi, còn Cường đi bộ vào đoạn đường vắng gặp đưa cho

Phương 120.000.000đ và nhận 1280 viên nén ma tuý tổng hợp được đựng

trong 02 túi nilon màu trắng. Cường cầm 02 túi ma tuý mua được quay ra bảo

anh Dương chở về khách sạn Phương Nguyên. Đến khoảng 1 giờ 50 phót

ngày 26/6/2016, Cường cầm số ma tuý vừa mua được lên phòng 301 bỏ ra

giường kiểm đếm để giao bán cho Kiều, thì bị Công an tỉnh Hải Dương phối

hợp với Công an Ph êng Cẩm Thượng phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 túi

nilon màu trắng bạc, một túi chứa bên trong 990 viên nén và một túi chứa 290

viên nén, các viên nén có hình tam giác, trên một mặt viên nén đều in chìm

chữ VL; 01 điện thoại di động màu đen, Model RM-1035. Lợi dụng sơ hở

Kiều và bạn trai Kiều đã bỏ trốn.

Tại Kết luận giám định số 2789/C54(TT2) ngày 20/7/2016 của Viện

khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát Bộ công an, kết luận:

- Các viên nén màu xám, hình tam giác, trên một mặt mỗi viên in chìm

chữ VL trong 02 túi nilon màu trắng bạc gửi giám định đều có thành phần

43

MDMA và Methamphetamine, tổng trọng lượng 377,21 gam.

Tại bản cáo trạng số 30/VKS-HS ngày 24/10/2016, Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Hải Dương truy tố Hoàng Mạnh Cường về tội “Mua bán trái

phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/2016/HSST ngày 28/12/2016 TAND

tỉnh Hải Dương đã xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh Cường 15 năm 06 tháng tù về

tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật

hình sự.

Nhận xét:

Trong vụ án này VKSND tỉnh Hải Dương đã căn cứ vào kết luận giám

định số 2789/C54 (TT2) ngày 20/7/2016 của Viện khoa học hình sự, Tổng

cục cảnh sát Bộ công an để truy tố Cường về tội Mua bán trái phép chất ma

túy theo điểm e khoản 4 Điều 194 BLHS là chưa chính xác. Bởi lẽ trong bản

kết luận giám định chỉ xác định thành phần ma túy trên mẫu vật đã thu giữ mà

không xác định hàm lượng cụ thể của từng loại ma túy. Do vậy để có cơ sở

xác định chính xác lượng ma túy mà bị cáo đã mua bán, TAND tỉnh Hải

Dương đã trưng cầu giám định lại đề nghị Viện khoa học hình sự Bộ công an

giám định xác định hàm lượng ma túy cụ thể trong từng mẫu vật. Căn cứ vào

kết luận giám định số 802/C54(TT2) ngày 01/12/2016 của Viện khoa học hình

sự Bộ công an và hướng dẫn của thông tư liên tịch số 17 cho thấy chỉ có căn

cứ xác định lượng ma túy thu giữ của Nguyễn Mạnh Cường là 105,8 gam

MDMA và Methamphetamine. Đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự,

Hội đồng xét xử TAND tỉnh Hải Dương đã xét xử bị cáo Cường về tội Mua

bán trái phép chất ma túy theo điểm e khoản 3 Điều 194 BLHS 1999 (sửa đổi,

bổ sung năm 2009).

2.3.3. Về áp dụng biện pháp tư pháp và hình phạt bổ sung

Trong quá trình xét xử vụ án về mua bán trái phép chất ma túy, không

44

chỉ xem xét về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo mà còn phải xem xét

đến những khía cạnh khác như vật chứng, hình phạt bổ sung và biện pháp tư

pháp. Điển hình có những vụ án người phạm tội khai được hưởng lợi do việc

bán ma túy, tuy nhiên tòa án không tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Ví dụ:

Ngày 22/9/2020, TAND huyện Bình Giang đã xét xử sơ thẩm bị cáo

Nguyễn Hữu Hải và đồng bọn về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Nội dung

vụ án như sau: Khoảng 22 giờ ngày 03/5/2020, Nguyễn Hữu Hải đi bộ đến bờ

đê thôn Ngọc Mai, xã Vĩnh Hưng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương gặp và

mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy với số tiền

2.000.000 đồng mục đích về bán cho người nghiện khác để kiếm lời. Hải

mang ma túy về nhà cất giấu trong vỏ hộp thuốc lá Thăng Long. Khoảng 01

giờ ngày 04/5/2020, Phạm Đức Mạnh đến nhà Hải chơi, trong lúc ngồi chơi

Hải lấy một phần trong túi ma túy đã mua trước đó ra để sử dụng cùng với

Mạnh. Sau khi lấy ma túy để sử dụng, Hải cất số ma túy còn lại đi.

Nguyễn Hữu Hải và Bùi Văn Quang có mối quen biết xã hội. Khoảng

17 giờ ngày 04/5/2020, Hải điện thoại cho Quang nói chuyện. Trong lúc nói

chuyện, Quang bảo Hải bán cho Quang ma túy đá với số tiền 2.300.000 đồng.

Quang đã chuyển khoản 500.000 đồng trước cho Hải. Đến khoảng 20 giờ

cùng ngày, Quang gọi điện cho Hải để lấy ma túy, Hải hẹn Quang đến cổng

nhà Hải. Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi Quang đến, theo sự chỉ đạo của Hải,

Mạnh đã lấy ma túy đưa cho Quang và nhận 1.800.000 đồng của Quang.

Mạnh cầm tiền lên tầng 2 đưa cho Hải, cùng Hải tiếp tục sử dụng hết số ma

túy Hải, đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì Mạnh đi về nhà. HĐXX sơ

thẩm đã xử phạt Nguyễn Hữu Hải 34 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất

ma túy” và tuyên hình phạt đối với các bị cáo khác. Tuy nhiên đối với số tiền

2.300.000 đồng Hải thu lợi bất chính do việc bán trái phép chất ma túy cho

45

Quang thì lại không đề cập đến. Việc này là chưa đúng quy định của pháp

luật, do vậy TAND tỉnh Hải Dương đã xử phúc thẩm và sửa bản án sơ thẩm,

tuyên Hải phải sung quỹ nhà nước 2.300.000 đồng do việc thu lợi bất chính.

2.4. Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động xét xử tội mua bán

trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.

2.4.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có

hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 những áp dụng pháp luật ở một số nội

dung như đã nêu trên còn chưa thống nhất, gây khó khăn cho việc xét xử các

vụ án trong đó có vụ án về mua bán trái phép chất ma túy.

Thứ hai, trong những năm gần đây số lượng các vụ án về tội phạm ma

túy tăng nhanh; phương thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi; tính chất tội phạm

ngày càng nguy hiểm, manh động, liều lĩnh; trang bị các loại vũ khí “nóng”,

phương tiện hiện đại, chống trả quyết liệt lực lượng chức năng khi bị phát

hiện, bắt giữ.

Thứ ba, trong công tác giám định thì hiện nay chỉ có Viện Khoa học

hình sự - Bộ Công an đáp ứng cơ bản được yêu cầu giám định các chất ma túy

trong danh mục cần kiểm soát, kể cả những chất ma túy mới, còn hầu hết

những chất ma túy nghi là ma túy mới, phức tạp đều vượt quá năng lực giám

định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an cấp tỉnh do thiếu phương tiện, máy

móc chuyên dụng cũng như chất chuẩn. Ngoài ra thì chế độ kinh phí chưa

được tương xứng với tính chất đặc thù của ngành Tòa án nhất là đối với hoạt

động xét xử chưa được thực sự quan tâm đúng mức.

2.4.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, việc nhận thức, cập nhật pháp luật của một số Thẩm phán,

cán bộ Tòa án còn hạn chế; năng lực, trình độ, kinh nghiệm chuyên môn chưa

vững làm ảnh hưởng tới chất lượng giải quyết án. Trên thực tế, các Thẩm

46

phán thuộc TAND cấp huyện thường không chuyên trách trong hoạt động xét

xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án về MBTP chất ma túy nói riêng. Do

đó trong hoạt động xét xử, một số Thẩm phán không hiểu rõ và không áp

dụng đúng quy định pháp luật hình sự và hướng dẫn về đường lối xử lý đối

với tội phạm về ma túy. Nên việc đưa ra phán quyết, quyết định hình phạt

trong một số trường hợp không tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội.

Thứ hai, về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng: Trong

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về MBTP chất ma túy, các cơ

quan tiến hành tố tụng chưa có sự phối kết hợp đồng bộ và chặt chẽ, có sự

thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng

hình sự.

Thứ ba, việc đưa ứng dụng công nghệ vào quá trình làm việc chưa

được chú trọng dẫn đến việc tiến hành thủ tục tố tụng gây mất thời gian cho

công tác xét xử.

Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát chưa được thường xuyên và triệt

để đối với cán bộ công chức khi thực hiện nhiệm vụ.

Thứ năm, trình độ, nhận thức của người tham gia tố tụng còn hạn chế

nên việc tranh tụng tại phiên tòa, việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

bị cáo và những người kham gia tố tụng khác chưa thực sự hiệu quả. Hầu hết

những bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy đều có trình độ học vấn

thấp nên khi tham gia phiên tòa họ không đủ hiểu biết pháp luật để tự bào

chữa cho mình, hơn nữa cũng không đủ khả năng để chi trả chi phí thuê luật

sư bào chữa.

Tiểu kết chương

Qua số liệu thống kê, phân tích những vụ án về tội mua bán trái phép

chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải Dương có thể thấy rằng TAND tỉnh Hải

Dương đã đạt được nhiều thành quả đáng kể, góp phần đảm bảo trật tự an

47

toàn xã hội, bảo đảm lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên qua đó cũng thấy được nhiều hạn chế trong công tác xét xử các vụ

án về mua bán trái phép chất ma túy và do nhiều nguyên nhân gây ra. Tác giả

đã trình bày cụ thể những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác

xét xử các vụ án về mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hải

Dương để từ đó có thể triển khai những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

48

và công tác xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy tại Chương 3.

Chương 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY

ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

3.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật về tội mua bán trái phép

chất ma túy.

3.1.1. Hoàn thiện qui định pháp luật về khái niệm tội phạm ma túy

Hiện nay BLHS năm 2015 chưa đưa ra khái niệm về tội phạm ma túy.

Do đó, đề nghị nhà làm luật cần bô sung quy định rõ khái niệm tội phạm ma

túy trong điều luật cụ thể. Theo tác giả, cần bổ sung thêm điều 247a khái niệm

tội phạm về ma túy như sau: “Tội phạm ma túy là những hành vi xâm phạm

chế độ quản lý của nhà nước về chất gây nghiện và chất hướng thần cũng như

trong việc trồng, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất

ma túy và các hành vi khác có liên quan”.

3.1.2. Hoàn thiện qui định pháp luật về định tội danh đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy

Thứ nhất, tội MBTP chất ma túy có cấu thành cắt xén (chỉ cần giao

nhận ma túy xong và nhằm để bán là đã hoàn thành tội). Do vậy, việc chứng

minh nguồn chất ma túy có ý nghĩa quan trọng trong xác định số lần phạm tội.

Theo tôi, 1 lần mua ma túy được xác định là 1 nguồn, 2 lần mua ma túy (của

cùng 1 người, hoặc của 2 người) là 2 nguồn. Mỗi lần mua ma túy thì tội phạm

đã hoàn thành từ thời điểm giao nhận (tàng trữ hoặc mua bán), do đó khi áp

dụng pháp luật trong trường hợp ma túy có được từ 2 nguồn phải xác định

tính nguy hiểm cao hơn và bị xử lý nghiêm khắc hơn.

Để xác định một người phạm tội về ma túy một lần hay nhiều lần thì

vấn đề phải chứng minh “nguồn ma túy” bằng các tài liệu, chứng cứ có đầy

đủ tính khách quan, khoa học, không dùng lời khai của người phạm tội là

49

chứng cứ duy nhất. Cụ thể người phạm tội khai số ma túy có được mua từ hai

hay nhiều nguồn khác nhau thì phải làm rõ:

- Mua của ai, ở đâu, thời gian, địa điểm, giá cả chủng loại. (khi lấy lời

khai tiến hành ghi âm, ghi hình có âm thanh theo quy định);

- Thu giữ list điện thoại, tin nhắn các cuộc trao đổi mua bán ma túy

(nếu có thể );

- Đặc điểm loại ma túy, vỏ bao gói….của các nguồn đó có giống hay

khác nhau (mô tả chi tiết khi thu giữ);

- Hàm lượng ma túy để xác định các nguồn khác nhau (tùy trường hợp

cụ thể);

- Người phạm tội có sử dụng ma túy không, sử dụng loại ma túy gì, có

trùng với loại ma túy thu giữ không (Test thử ma túy đối với người phạm tội).

Hiện nay, việc test thử ma túy với người phạm tội chưa được tiến hành trong

tất cả các vụ án nên có phần ảnh hưởng đến việc định tội danh (sẽ đề cập ở

phần các tình huống cụ thể).

Trên cơ sở đánh giá toàn diện các chứng cứ thu thập được để xác định

các loại ma túy đã bán, tàng trữ mà Cơ quan điều tra thu giữ được có từ một

nguồn hay nhiều nguồn ma túy để có quyết định định tội danh cho đúng.

Thứ hai , để chứng minh mục đích bán trái phép chất ma túy trong

trường hợp tàng trữ nhằm để bán cần phải làm rõ đối với người phạm tội:

- Có ai hỏi mua chưa (con người cụ thể, điện thoại trao đổi, mặc cả về

giá…) hay cứ gặp ai thì bán hoặc cứ hỏi mua thì bán (bán rong);

- Đối tượng có sử dụng ma túy không, loại gì, test thử có cùng loại ma

túy thu giữ không?.

Trên cơ sở đánh giá tài liệu, chứng cứ khác để khẳng định tính có căn

cứ trong lời khai của người phạm tội; nếu người phạm tội khai mua ma túy

vừa để sử dụng vừa để bán, bản thân họ có sử dụng ma túy cùng loại mà Cơ

50

quan điều tra thu giữ và chưa chứng minh được người đó đã bán cho người

khác thì phải xử lý về hành vi tàng trữ (theo nguyên tắc có lợi, quyết định tội

danh nhẹ hơn).

Thứ ba, đối với những trường hợp không rõ người mua hay người bán

ma túy cho bị can, bị cáo thì cần phải có những biện pháp nghiệp vụ để điều

tra triệt để, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm. Cụ thể: Trích xuất camera từ

những hộ dân nơi xảy ra hành vi phạm tội, lấy lời khai của những người làm

chứng chứng kiến việc mua bán ma túy, kiểm tra điện thoại của đối tượng bị

thu giữ,…

3.1.3. Hoàn thiện qui định về giám định hàm lượng, tính khối lượng

các chất ma túy

Từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành đến nay, Chính phủ đã

ban hành 02 Nghị định hướng dẫn về nhóm tội phạm ma túy đó là: Nghị định

19 và Nghị định số 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, Quy

định danh mục các chất ma túy và tiền chất (Nghị định số 73), tuy nhiên hiện

chưa có một văn bản dưới luật nào của đơn ngành, hoặc liên ngành tố tụng

Trung ương hướng dẫn áp dụng một số quy định của nhóm tội phạm về ma

túy được quy định trong BLHS năm 2015. Trên thực tiễn hiện nay, các cơ

quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) vẫn đang vận dụng tinh thần của Thông tư

liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày

24/12/2007 của Bộ Công an- Viện kiểm sát ND Tối cao- Tòa án ND Tối cao-

Bộ Tư pháp “Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII- Các tội

phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (Thông tư 17). Thông tư liên tịch số

08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015, về việc

sửa đổi, bổ sung một số điểm của TTLT số 17 (Thông tư 08). Tuy nhiên về

nguyên tắc thì kể từ ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành thì không

được viện dẫn các Thông tư nêu trên, chính vì vậy qua hai năm thi hành

51

BLHS năm 2015 đã nảy sinh những vướng mắc, cần thiết phải được thống

nhất nhận thức trong việc áp dụng luật.

Thứ nhất, Thông tư 08 hướng dẫn “…Nếu có căn cứ và xét thấy cần

thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm cho việc xét xử đúng

pháp luật…”. [2] Tuy nhiên lại không có văn bản hướng dẫn trong trường

hợp Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định hàm lượng ma túy, thì Cơ quan nào

thực hiện việc đi giám định? Thủ tục việc giám định như thế nào? Kinh phí

giám định do ai chịu trách nhiệm? Việc giám định có vi phạm thủ tục tố tụng

không?

Thứ hai: Thông tư số 08 có hướng dẫn “…Trường hợp không thu giữ

được vật chứng là chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được

trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua bán, vận

chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng.”[2]

Hướng dẫn trên nhằm khắc phục những vụ án về ma túy nhưng không

thu giữ được ma túy hoặc tiền chất. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào lời khai của

người phạm tội hoặc của các đồng phạm là chưa chính xác, không có căn cứ

để xác định trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua bán

là bao nhiêu. Thực tế, khi hỏi cung, người phạm tội chủ yếu chỉ khai mua hay

bán bao nhiêu bánh hoặc mấy viên MDMA nhưng lại không có căn cứ để tính

khối lượng một bánh Hêroin hay viên MDNA là bao nhiêu gam hoặc trong

những viên ma túy tổng hợp lại chứa nhiều chất khác nhau. Như vậy là rất

khó cho việc điều tra, xét xử. Thực tế cho thấy khối lượng các bánh Hêroin

thu giữ trong các vụ án về ma túy là không giống nhau (có bánh là 350 gam,

có bánh là 300 gam hoặc ít hơn 300 gam)… Nếu vậy câu hỏi đặt ra là việc

xác định khối lượng ma túy có chính xác không? Ngoài ra, trong thực tiễn,

nhiểu trường hợp bị can nhận tội tại các giai đoạn điều tra, tuy tố nhưng tại

52

phiên tòa bị cáo lại phản cung vì cho rằng không có vật chứng thu giữ. Việc

này gây khó khăn cho công tác xét xử, buộc HĐXX phải trả hồ sơ cho Viện

kiểm sát để điều tra bổ sung.

Từ những khúc mắc trong việc áp dụng thông tư 08, đề nghị ba ngành

Công an, Viện Kiểm Sát, Tòa án có sự thống nhất và đưa ra hướng dẫn cụ thể.

Thứ ba, đối với chất ma túy ở thể rắn nhưng bị hòa thành dung dịch

phải giám định hàm lượng thì cần có văn bản hướng dẫn về việc truy cứu

trách nhiệm hình sự thì căn cứ theo khối lượng ở thể rắn hay căn cứ theo thể

tích riêng của tinh chất ma túy có trong dung dịch để xử lý.

Thứ tư, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về cách tính tổng khối lượng

hoặc thể tích trong trường hợp ma túy tổng hợp có chứa thành phần của nhiều

chất ma túy khác nhau, không thể tách riêng từng chất ma túy.

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tội mua bán trái

phép chất ma túy

3.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự

Thứ nhất, việc tách 4 hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép,

chiếm đoạt chất ma túy tại Điều 194 BLHS năm 1999 thành 04 Điều luật

riêng biệt theo Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thể

hiện nhiều điểm tiến bộ của các nhà làm luật nhưng việc việc thay đổi kỹ

thuật lập pháp này cũng khiến đường lối xử lý các vụ án về tội phạm ma túy

có sự không thống nhất. Hiện nay mới chỉ có Nghị định 19 quy định về việc

tính khổi lượng, thể tích tại một số điều của BLHS năm 2015. Ngoài ra chúng

ta vẫn vận dụng Thông tư 17 và Thông tư 08 là những thông tư hướng dẫn

BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009). Nhưng những văn bản hướng dẫn này

đã cũ không còn phù hợp về hình thức vì đối tượng hướng dẫn của các văn

bản này (Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) đã

53

hết hiệu lực thi hành dẫn đến thiếu thống nhất giữa các ngành, các cấp trong

đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án. Trong khi theo

quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ có Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao mới

có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn luật về nội dung; trong thực tiễn Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội hiếm khi thực hiện giải thích luật, còn Hội đồng Thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao có ban hành Nghị quyết hướng dẫn, giải thích

nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của lĩnh vực tội phạm về ma tuý. Do vậy

cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn các tội phạm về ma túy trong đó có

tội mua bán trái phép chất ma túy, đặc biệt là vấn đề định tội danh.

Thứ hai, nghiên cứu ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số

01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001 theo hướng quyết định hình phạt căn cứ vào

khối lượng các chất ma túy ở tất cả các khung hình phạt chứ không chỉ khoản

4 ở một số tội như hiện nay.

3.2.2. Hoàn thiện công tác tổ chức

Các chủ thể tiến hành tố tụng phải được làm việc trong một cơ cấu tổ

chức được sắp xếp khoa học, hợp lý thì mới hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ

của mình từ đó nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự về tội phạm mua

bán trái phép chất ma túy nói riêng và các loại tội phạm khác nói chung của

TAND.

Cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo

Điều 38 Luật tổ chức TAND năm 2014 gồm có: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa

kinh tế, Tòa hành chính, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa lao

động. Hiện nay, TAND tỉnh Hải Dương đã thành lập Tòa gia đình và người

chưa thành niên, do vậy đối với những vụ án mua bán trái phép chất ma túy

do người chưa thành niên phạm tội thì nên giao lại cho Tòa hôn nhân, gia

54

đình và người chưa thành niên xét xử cho chính xác và phù hợp với lứa tuổi

của người phạm tội cũng như để để giảm tải việc xét xử những vụ án hình sự

cho Tòa hình sự, mục tiêu cuối cùng là để nâng cao chất lượng xét xử.

Hiện nay, hầu hết hệ thống Tòa án nhân dân trong cả nước đều đang

trong tình trạng thiếu thẩm phán, đây cũng là một vấn đề nan giải của ngành

TAND tỉnh Hải Dương. Do áp lực công việc quá lớn nên thẩm phán ở một số

Tòa án trên toàn quốc đã xin nghỉ việc. Theo thống kê của TAND tỉnh Hải

Dương thì trung bình mỗi thẩm phán phải xét xử 08 vụ/tháng, như vậy nếu

tính số ngày làm việc thì mỗi Thẩm phán chỉ có khoảng 3 ngày để giải quyết

xong một vụ án, việc này dẫn đến chất lượng xét xử các vụ án không đảm

bảo. Do vậy kiến nghị cần có thêm chỉ tiêu biên chế Thẩm phán để có thể đáp

ứng được yêu cầu công việc và nhiệm vụ chính trị đề ra. Cần đẩy nhanh tiến

độ, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết các loại án, tăng cường

xét xử lưu động các loại án về tội phạm ma túy để tuyên truyền, phổ biến

pháp luật đến người dân.

3.2.3. Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống

Tòa án nhân dân

Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất của ngàng Tòa án đã được Nhà nước

quan tâm, nhưng thực tế kinh phí hoạt động của Tòa án các cấp vẫn còn hạn

hẹp, trang thiết bị phục vụ cho công tác xét xử các vụ án trong có có những vụ

án về ma túy còn hạn chế. Ví dụ như việc tống đạt đối với một số bị cáo tại

ngoại không ở trong tỉnh gặp khó khăn do không được cấp phương tiện đi lại,

chi phí được thanh toán không đủ so với kinh phí đi lại. Các Thẩm phán gặp

nhiều khó khăn trong việc tìm tài liệu, văn bản pháp luật; Hội trường xét xử

không đủ để xét xử trong trường hợp 01 ngày có nhiều phiên tòa. Công tác

theo dõi hồ sơ, số liệu vẫn theo thủ công, không đáp ứng được yêu cầu của

55

công tác xét xử.

Do vậy, theo tôi cần tăng cường điều kiện về cơ sở vật chất cho các

Tòa án nhân dân, cụ thể: Hiện đại hóa các trang thiết bị, phương tiện phục vụ

cho công tác xét xử, ví dụ có thể trang bị cho mỗi Thẩm phán 01 máy tính

riêng và phần mềm lưu trữ văn bản pháp luật để các Thẩm phán có điều kiện

thuận lợi trong công tác giải quyết vụ án. Tăng cường việc cấp các tạp chí lý

luận chuyên ngành về ma túy để họ có thể kịp thời nắm bắt được các loại ma

túy cũng như có hướng xét xử án ma túy trong thời kì mới.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc theo dõi vụ án, thụ lý án, lưu

trữ dữ liệu,…

Hiện đại hóa và cải tạo thêm phòng xét xử, trang bị đầy đủ cơ sở vật

chất cho các Tòa án nhân dân theo như hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối

cao. Phối hợp với lực lượng Cảnh sát bảo vệ phiên tòa đảm bảo an toàn trật tự

tại phiên tòa để đảm bảo phiên tòa được trang nghiêm.

Bên cạnh việc tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất cho ngành Tòa

án thì một vấn đề nữa phải chú tâm đến là chế độ chính sách cho Thẩm phán

và cán bộ Tòa án. Bởi hiện nay, lương tháng của Thư ký trung bình khoảng 5

triệu đồng, Thẩm phán sơ cấp là 6 triệu đồng, Thẩm phán trung cấp là 8 triệu

đồng. Rõ ràng, mức thu nhập như vậy là quá thấp, không đáp ứng đủ các nhu

cầu của gia đình. Do vậy kiến nghị cần tăng lương đối với Thẩm phán và cán

bộ Tòa án để họ có thể yên tâm công tác.

3.2.4. Nâng cao năng lực chuyên môn của Thẩm phán

Để đảm bảo tốt cho công tác xét xử các loại án về mua bán trái phép

chất ma túy thì việc nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, bồi dưỡng phẩm

chất chính trị cho Thẩm phán là một vấn đề vô cùng quan trọng. Hiện nay

xuất hiện nhiều loại ma túy mới, nhiều hình thức sử dụng ma túy khác nhau.

Mặc dù đa số Thẩm phán có trình độ đại học Luật nhưng kiến thức về ma túy

56

còn hạn chế. Việc nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ Thẩm phán và cán

bộ Tòa án là công việc quan trọng, nên cần tiến hành thường xuyên, liên tục.

Cụ thể:

Thứ nhất, phải có kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ

cử đi học nghiệp vụ xét xử, chỉ những người có đủ điều kiện mới được đi học,

không để đi học tràn lan, ảnh hưởng đến hoạt động các Toà án, lãng phí tiền

của Nhà nước. Sau khi học xong thì phải xem xét đến phẩm chất, tư cách đạo

đức, năng lực chuyên môn để việc bổ nhiệm Thẩm phán được đúng đắn, tránh

việc bổ nhiệm nhưng không hoàn thành nhiệm vụ.

Thứ hai, thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn hoặc hội thảo để trao

đổi, thảo luận về nghiệp vụ xét xử các vụ án hình sự trong đó có các vụ án về

mua bán trái phép chất ma túy. Từ đó đưa ra được những vướng mắc và thống

nhất được quan điểm trong giải quyết các vụ án về ma túy. Đối với những văn

bản pháp luật và những văn bản hướng dẫn luật thường xuyên thay đổi nên

đòi hỏi Thẩm phán phải nhanh chóng nắm bắt, cập nhật những thay đổi của

pháp luật để có thể xét xử một các công minh, hợp pháp.

Thứ ba, đặc biệt quan tâm đến kỹ năng viết bản án của các Thẩm

phán. Thực tế nhiều bản án bị kháng cáo là do việc trình bày bản án không rõ

ràng, thiếu tính lôgic; không thể hiện đầy đủ, cụ thể, rõ ràng các quyết định

của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án; thậm chí có

bản án phần nhận định và quyết định mâu thuẫn nhau, dẫn đến việc bị cáo

không hiểu rõ việc ra quyết định của Tòa án nên kháng cáo.

Thứ tư, để công tác giải quyết và xét xử các vụ án ma túy của Tòa án

đạt chất lượng, hiệu quả thì cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng

phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp tốt và

hơn hết là có kiến thức vững vàng về tội phạm ma túy. Để làm được điều này

57

cần thường xuyên triển khai, quán triệt các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải

cách tư pháp nhằm nâng cao trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ

trong cơ quan.

Tóm lại, cần tiến hành thường xuyên việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của

Toà án cũng như nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ

Tòa án, Thẩm phán từ đó nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án trong đó

có các vụ án về mua bán trái phép chất ma túy.

3.2.5. Nâng cao chất lượng hội thẩm nhân dân

Theo quy định tại Điều 103 Hiến pháp 2013, Điều 8 Luật tổ chức tòa

án nhân dân 2014, Điều 22 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định việc xét xử

sơ thẩm của tòa án phải có Hội thẩm nhân dân tham gia trừ trường hợp xét xử

theo thủ tục rút gọn. Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc xét xử. Phán quyết của Tòa án ảnh

hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước.

Do vậy việc xét xử phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm nhưng không xử oan người

vô tội. Một trong những nguyên tắc cơ bản cùa tổ tụng hình sự là việc xét xử

của Tòa án phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, Tòa án phải xét xử

tập thể và quyết định theo đa số. Thẩm phán đại diện cho Nhà nước và Hội

thẩm đại diện cho nhân dân; sự kết hợp này để đảm bảo cho bản án, quyết

định của Tòa án nghiêm minh, đúng pháp luật nhưng cũng để đảm bảo quyền

lợi cho người bị xét xử. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hình sự,

khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật. Do vậy Ngành tòa án muốn giải quyết tốt các vụ án hình sự thì ngoài

nâng cao kiến thức cho thẩm phán còn phải quan tâm đến chất lượng của hội

thẩm nhân dân trong đó có kiến thức về ma túy.

Để nâng cao chất lượng tham gia xét xử của hội thẩm nhân dân cần

58

thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện về cơ chế bầu cử và tiêu chuẩn lựa chọn hội

thẩm nhân dân các cấp;

Khi lựa chọn HTND, ngoài các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, tư

tưởng chính trị thì yếu tố kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn là rất

quan trọng. Khi tham gia Hội đồng xét xử, HTND có quyền độc lập biểu

quyết, quyết định, nên HTND phải là người có kiến thức, hiểu biết pháp luật.

Sau khi được Hội đồng nhân dân bầu thì cần có lớp tập huấn, bồi dưỡng các

kiến thức pháp luật cũng như kiến thức xét xử những loại vụ án về ma túy.

Đồng thời TAND cần cung cấp đủ các tài liệu là văn bản, quy định, hướng

dẫn hiện hành về xét xử các loại án trong đó có các tội phạm về ma túy.

Thứ hai, thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ

cho HTND để họ có thêm những kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn, kiến

thức pháp luật cần thiết phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ trong đó có

kiến thức về tội phạm ma túy.

Thứ ba, cần quan tâm hơn nữa đến chế độ lương thưởng của HTND

như nguồn kinh phí thường xuyên, trang phục, phương tiện đi lại. Thời gian

gần đây, mặc Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới HTND, nhưng nhìn chung

kinh phí hoạt động cho hội thẩm nhân dân còn quá eo hẹp, chủ yếu dựa vào

sự hỗ trợ từ Tòa án . Quy định hiện nay về mức thanh toán cho HTND hiện

nay là 90.000 đồng /vụ. Chí phí này là quá thấp, chưa phù hợp vì Hội thẩm

vừa phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ và vừa tham gia xét xử. Do vậy đề

nghị Tòa án tối cao có quy định cụ thể để khắc phục tình trạng này.

Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của HTND khi tham gia vào quá

trình xét xử các vụ án ma túy thì pháp luật cũng cần có quy định cụ thể về

trách nhiệm của HTND đối với các bản án, quyết định mà mình tham gia Hội

59

đồng xét xử. Nếu xét thấy cần thiết, cần xem xét miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm

đối với HTND nào có nhiều bản án bị hủy, sửa hay những hội thẩm vi phạm

đạo đức nghề nghiệp.

3.2.6. Nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

Để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án ma túy, góp phần đẩy lùi

tệ nạn ma túy cần có những biện pháp nâng cao chất lượng phối hợp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng sau:

Thứ nhất, tăng cường phối hợp giữa 3 ngành (Công an, Viện kiểm sát,

Tòa án): Giai đoạn điều tra, truy tố, với những vụ án ma túy trọng điểm, phức

tạp, bị can không nhận tội thì Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Điều tra

viên lập kế hoạch xét hỏi, rà soát, đánh giá, phân tích chứng cứ, thống nhất

phương án kiên quyết đấu tranh với tội phạm, đạt kết quả cao. Trước khi hết

hạn điều tra hoặc hết hạn tạm giam thì Điều tra viên và Kiểm sát viên phải có

đánh giá về kết quả điều tra, cùng thống nhất đánh giá chứng cứ, và căn cứ để

gia hạn tạm giam hoặc nội dung yêu cầu điều tra tiếp theo. Giai đoạn chuẩn bị

xét xử, nếu có sự khác biệt về tội danh, áp dụng điều luật trong Cáo trạng thì

Thẩm phán và Kiểm sát viên chủ động trao đổi, thống nhất về quan điểm và

áp dụng điều luật. Nếu không thống nhất được thì báo cáo lãnh đạo hai ngành,

chủ động họp thống nhất quan điểm và đường lối xử lý vụ án, hạn chế đến

mức thấp nhất việc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

Thứ hai, để tránh hạn chế trong việc thiếu nhất quán áp dụng pháp luật

về quá trình giải quyết các vụ án ma túy cần tăng cường sự phối kết hợp giữa

lãnh đạo cơ quan và cấp dưới, giữa các ngành tư pháp với nhau. Khi thấy

vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, cấp dưới có thể thẳng thắn trao

đổi với lãnh đạo cấp phòng, nếu không có sự thống nhất thì trao đổi lại với

lãnh đạo cơ quan để từ đó có cách hiểu thống nhất trong giải quyết vụ án ma

60

túy. Đối với lãnh đạo cũng cần tăng cường công tác lãnh đạo nhất là trong

việc đôn đốc giám sát việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy để việc

giải quyết vụ án có hiệu quả.

Thứ ba, sau mỗi vụ án còn chưa thống nhất việc áp dụng pháp luật,

các cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

chủ động họp để đánh giá công tác phối hợp. Viện kiểm sát và Tòa án có thể

thống nhất phối hợp để đưa ra xét xử một số vụ án rút kinh nghiệm hoặc

phiên tòa mẫu, trực tuyến làm tiêu chí cho các Kiểm sát viên và Thẩm phán

học tập rút kinh nghiệm để có thể nâng cao chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp, được dư luận quan tâm

khi tiến hành kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát nên chủ động mời Tòa án tham

gia để nắm chắc nội dung vụ án phục vụ cho công tác truy tố và xét xử.

Thứ tư, định kỳ hàng năm liên ngành Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,

Tòa án cần tổ chức tổng kết việc giải quyết các vụ án về ma túy để nêu lên

những hạn chế, bất cập và đưa ra giải pháp để tháo gỡ.

3.3. Các giải pháp khác

Thứ nhất, hàng năm định kỳ tổ chức những cuộc họp rút kinh nghiệm

xét xử giữa lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh với lãnh đạo Tòa án nhân dân

cấp huyện (có báo cáo tổng hợp thiếu sót, sai phạm của Tòa án cấp sơ thẩm

làm tài liệu để các Tòa án cấp sơ thẩm tham khảo). Tại cuộc họp thì cấp sơ

thẩm sẽ báo cáo với Lãnh đạo Tòa phúc thẩm những vấn đề băn khoăn, vướng

mắc cũng như những nội dung chưa thống nhất khi áp dụng pháp luật. Việc tổ

chức những cuộc họp như vậy không chỉ để nâng cao chất lượng xét xử giữa 2

cấp sơ thẩm, phúc thẩm mà còn tạo điều kiện để các Tòa án địa phương cùng

nhau học hỏi, rút kinh nghiệm trong công tác xét xử, góp phần hạn chế trường

hợp cùng với một hành vi phạm tội giống nhau, các tình tiết tăng nặng giảm

nhẹ như nhau, nhưng tùy thuộc vào quan điểm của của mỗi địa phương mà

61

quyết định về hình phạt quá chênh lệch.

Thứ hai, tổ chức những phiên tòa lưu động về tội phạm ma túy nhằm

tuyên truyền cho người dân có ý thức pháp luật để không vi phạm về loại tội

phạm này.

Thứ ba, cần quán triệt tốt việc công khai bản án trên cổng thông tin

điện tử của Tòa án. Hiện nay thực trạng của TAND tỉnh Hải Dương, một số

bản án, quyết định phải công bố nhưng không được các thẩm phán công bố

hoặc công bố chậm thời hạn. Việc công bố bản án là hết sức cần thiết vì Thẩm

phán có thể tham khảo những bản án được công bố đó để xem xét việc áp

dụng điều luật, luật và cách giải quyết vụ án của những thẩm phán khác để từ

đó có thể xem xét vụ án một cách toàn diện, đúng người, đúng đúng tội, đúng

pháp luật.

Tiểu kết chương

Trên cơ sở phân tích nghiên cứu lý luận về tội mua bán trái phép chất

ma túy từ các quy định của pháp luật hình sự nước ta và thực tiễn xét xử loại

tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn 05 năm từ 2016-2020, tác

giả đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện các quy định của pháp

luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy và giải pháp nâng cao chất

62

lượng xét xử đối với loại tội phạm này của hệ thống Tòa án nhân dân.

KẾT LUẬN

Tội phạm ma túy là loại tội phạm mang tính cấp bách trên quy mô

toàn cầu, trong đó tội mua bán trái phép chất ma túy là tội nguy hiểm nhất bởi

nó là nguồn gốc phát sinh các tội phạm ma túy khác. Việt Nam là một nước

có vị trí thuận lợi cho hoạt động của tội phạm ma túy quốc tế. Những năm gần

đây, cùng với chính sách mở cửa, hội nhập của nước ta đã làm cho tình hình

tội phạm về ma túy nói chung và tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng

liên tục gia tăng. Thực tiễn tội phạm ma túy đã xuất hiện nhiều biến tướng,

phương thức, thủ đoạn mới, tinh vi cùng với việc hình thành nhiều đường dây

mua bán ma túy với số lượng rất lớn. Trong công cuộc cải cách và phát triển

đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư nhân lực, công sức, tiền

của trong công tác phòng chống các tội phạm về ma túy. Từ lý luận chung

nhất của Bộ luật hình sự, luận văn đã đưa ra quan điểm về khái niệm “ma

túy”,“chất ma túy” và “tội mua bán trái phép chất ma túy”, khái quát về lịch

sử lập pháp của tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như công tác xét xử

về tội phạm này; xác định rõ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội mua bán

trái phép chất ma túy như: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan

... là căn cứ để xác định chính xác tội danh trong thực tiễn xét xử. Thông qua

số liệu thống kê, luận văn đã phân tích, đánh giá các chất lượng thực tiễn xét

xử tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 05

năm (từ năm 2016 đến năm 2020). Từ đó nhận thấy việc áp dụng quy định

của Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về tội mua bán

trái phép chất ma túy và các văn bản hướng dẫn áp dụng còn nhiều hạn chế,

vướng mắc cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện.Do vậy tác giả đã đưa ra

một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như giải pháp bảo đảm áp

dụng pháp luật đối với tội mua bán trái phép chất ma túy. Những nghiên cứu

63

của luận văn đã đóng góp một phần vào công tác thực tiễn áp dụng pháp luật

về tội mua bán trái phép chất ma túy từ đó để chất lượng xét xử, giải quyết

những vụ án về mua bán trái phép chất ma túy được tốt hơn, tránh những sai

xót đáng tiếc có thể xảy ra.

Những kết quả đạt được trong luận văn là sự cố gắng của bản thân tác

giả cũng như sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh

Hải Dương và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn khoa

học. Tuy nhiên do điều kiện nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, kinh

nghiệm thực tiễn của tác giả còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi

những thiếu sót nhất định. Tác giả mong nhận được sự quan tâm và giúp đỡ

của các nhà khoa học, quý thầy giáo, cô giáo, các độc giả để luận văn được

64

hoàn thiện hơn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối

cao, Bộ tư pháp (2007) Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007

quy định về việc hướng áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội

phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, ban hành ngày 24/12/2007,

Hà Nội.

2. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối

cao, Bộ tư pháp (2015) Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLN ngày 14/11/2015

sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLN ngày

24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương

XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, ban hành

ngày 14/11/2015, Hà Nội.

3. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội;

4. Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),

NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5. Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Mai Ngọc Chính (2017), Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội, năm

2017.

7. Chính phủ (2013), Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013

quy định về việc Ban hành danh mục chất ma túy và tiền chất, Hà Nội.

8. Chính phủ (2018), Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 quy

định về tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của

65

BLHS năm 2015, Hà Nội.

9. Lê Văn Đệ (2010), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật

hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6 của bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

11. Nguyễn Minh Đức (2015), Những khó khăn, vướng mắc trong

việc áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án ma túy, Tạp

chí kiểm sát, số 20, tr. 7 - 13.

12. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Trần Minh Hưởng (2013), Bình luận khoa học luật hình sự Việt

Nam (có sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Hồng Đức, HàNội.

14. Kĩ

năng giải quyết các vụ án hình sự,

http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676677/27982384?tailieu_=

15 2

15. Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) – Phần tội phạm, nxb. Công an nhân

dân, 2017.

16.

Cao Thị Oanh (2012), Một số vấn đề liên quan đến hướng dẫn

áp dụng Điều 194 Bộ luật hình sự, Luật học.

17. Trương Văn Phong (2000), Cuộc chiến chống ma túy của thế

giới đương đại, NXB Trẻ.

18. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình

phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự -

Phần các tội phạm (tập IV) Các tội phạm về ma túy, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh.

20. Đinh Văn Quế (2017), Bình luận Bộ Luật Hình Sự năm 2015 -

66

Những Quy Định Chung, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội;

21. Đinh Văn Quế (2021), Bình luận khoa học bộ luật hình sự 2015

Phần Thứ 2: Các Tội Phạm - Chương XX (Tội Phạm Về Ma Tuý), Nxb Thông

tin và Truyền thông, Hà Nội;

22. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội

23. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung), Hà

Nội.

27. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội

28. Quốc hội (2001), Hiến pháp, Hà Nội.

29. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội (2000), Luật phòng, chống ma túy, Hà Nội.

31. Quốc hội (2008), Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi, bổ

sung), Hà Nội.

32. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

33. Phan Thị Hồng Thắng (2013), Định tội danh đối với tội tàng trữ,

vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn tỉnh

Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự, Hà Nội.

35. Nguyễn Thị Thu Thảo (2013), Các tội phạm về ma túy trong luật

hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn

2000-2010, luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam

67

(tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2014.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(phần chung), Nxb. CAND, Hà Nội, 2019;.

38. Phạm Minh Tuyên (2013), Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam

cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử (tài liệu tham khảo dùng cho các Thẩm phán,

thư kí Tòa án), nxb Hồng Đức.

39. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (1996), Nxb Đà Nẵng và

Trung tâm từ điển học, tr.583.

40. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (2005), Nxb Công an nhân

dân, tr.28.

41. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh. Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần

chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần

các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

45. Nguyễn Xuân Yêm, Trần Văn Luyện (2002), Hiểm họa ma túy

và cuộc chiến mới, Nxb Công an nhân dân.

46. Http://www.un.org.vn

47. Http://www.who.int

68

69