ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 822.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP PGS.TS. CAO THỊ HẢO

THÁI NGUYÊN - 2019

2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu

trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng Thị Thập và

PGS.TS. Cao Thị Hảo - những người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều

kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Khoa Ngữ văn, các cán bộ Khoa

Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em

trong quá trình học tập.

Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là

nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên ngày 05 tháng 7 năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9

6. Dự kiến những đóng góp của luận văn .......................................................... 10

7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10

Chương 1. CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP CỦA

NAM CAO VÀ O’HENRY ................................................................... 11

1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry ............................ 11

1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao .................................................. 11

1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry ................................................... 15

1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà

văn ........................................................................................................... 18

1.2. Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry ...................................... 20

1.3. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry .................................. 25

1.4. Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh ............. 31

1.4.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................ 31

1.4.2. Về văn học so sánh .................................................................................. 31

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31

Chương 2. NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY

TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH .......................................................... 33

2.1. Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry ....................... 33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ............... 33

2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức .................................................. 36

2.1.3. Những đề tài khác biệt ............................................................................. 40

2.2. Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao .................................. 44

2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng ............................................................ 44

2.2.2. Những chủ đề khác biệt ........................................................................... 56

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60

Chương 3. NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ

O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH ...................................... 61

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry ................... 61

3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện ............................................... 61

3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện ................................... 65

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry ...................... 76

3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................................... 76

3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật .............................................................. 79

3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật ......................................................................... 81

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 83

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri. Ông là một trong những

nhà văn lớn của thế kỷ XX được nhiều người nghiên cứu. Nam Cao không chỉ được

đánh giá là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà ông

còn là một nhà văn có quan điểm về nghệ thuật tiến bộ và nhất quán. Trong các nhà

văn Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn.

O’Henry (1862-1910) tên thật là William Sydney Porter, là một nhà văn nổi

tiếng người Mỹ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông được mệnh danh là “cây đại

thụ” của nền văn học Mỹ. Cùng với nhà văn Anton Chekhov (Nga) và Guyde

Maupassant (Pháp), O’Henry được coi là một trong ba bậc thầy về nghệ thuật

truyện ngắn thế giới. Truyện ngắn của ông đều là những tác phẩm có giá trị và để

lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tên ông được đặt cho “Giải thưởng Kỷ

niệm O’Henry” - giải thưởng hàng năm của văn học Mỹ - nhằm tôn vinh những

tác giả có truyện ngắn xuất sắc.

1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao chỉ gói gọn trong 15 năm (1936- 1951)

nhưng ông đã để lại khối lượng tác phẩm khá lớn (gần 60 truyện, chủ yếu là truyện

ngắn). Cho tới nay, ông vẫn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê

bình và bạn đọc. Tác phẩm của ông vẫn khiến người đọc “nghĩ tiếp”, khơi sâu vào

những “địa tầng” mới để kiếm tìm những “vỉa vàng” lấp lánh.

Với vốn sống phong phú, trong một thời gian ngắn O’Henry cũng đã sáng tác

được một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ (gần 400 truyện ngắn và một số bài thơ).

Kết cấu truyện chặt chẽ, cốt truyện được xếp vào hàng mẫu mực nhất của truyện

ngắn (thế kỷ XX) đã đưa tên tuổi ông vang xa trên toàn thế giới. Truyện ngắn của

O’Henry không chỉ tái hiện xã hội Mỹ đầu thế kỷ XX mà còn thể hiện cái nhìn nhân

văn và lạc quan về con người, cuộc sống. Trải qua thời gian, truyện ngắn của ông

vẫn hấp dẫn độc giả trên toàn thế giới với những ý nghĩa mới mẻ. Vì vậy nghiên

cứu về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của ông vẫn rất cần thiết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1.3. Văn học so sánh là tên gọi một phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nó

không chỉ cho phép nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác

nhau theo quan hệ giao lưu, ảnh hưởng mà còn cho phép so sánh văn học theo quan

hệ tương đồng. Việc đặt truyện ngắn Nam Cao và O’Henry cạnh nhau trong thế đối

so sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về hai tác giả.

Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của hai tác giả Nam

Cao và O’Henry nhưng việc đặt chúng trong quan hệ so sánh để thấy ngòi bút đậm

chất nhân văn của hai tác giả thì chưa công trình nào thực hiện có hệ thống.

1.4. Tác phẩm của Nam Cao và O’Henry đã được đưa vào chương trình Ngữ

văn phổ thông và chuyên ngành văn ở các trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Ở bậc

Đại học, Nam Cao là tác giả được nghiên cứu khá kĩ càng. Ở bậc trung học phổ

thông có truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao; trong chương trình trung học cơ sở

có truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) và Chiếc lá cuối cùng của O’Henry. Đây là

những tác phẩm có nhiều giá trị. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần vào

công việc giảng dạy, học tập tác phẩm của hai nhà Nam Cao và O’Henry ở Việt

Nam.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học

nước ngoài

2.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao

Nam Cao là một tài năng, một hiện tượng lớn trong nền văn học hiện đại đầu

thế kỷ XX. Vì vậy, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ông (khoảng hơn

200 tài liệu). Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu tác phẩm

Nam Cao vẫn chưa được chú ý. Ngoài lời “tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn

Trương thì chưa có công trình nào nghiên cứu chính thức về Nam Cao. Phải từ sau

Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao mới được giới nghiên cứu văn học biết đến.

Người đầu tiên quan tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn

Đình Thi trong bài Nam Cao ông viết vào những năm 50.

Sang đến những năm 1960 có thêm nhiều công trình khác về Nam Cao ra đời.

Mở đầu là hai bài viết: Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của nhà

văn hiện thực và Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao của Huệ Chi -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phong Lê. Ở các bài viết này, hai nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nhận định và đánh

giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.

Năm 1961, Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức cũng có hai công trình nghiên cứu

về Nam Cao. Với cuốn Văn học Việt Nam 1930-1945, Phan Cư Đệ đã dành một bài

tìm hiểu về cuộc sống và sáng tác của Nam Cao. Hà Minh Đức trong công trình

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc lại nhìn Nam Cao ở một góc độ khác. Ông cho

rằng, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt tới trình

độ điển hình hóa cao trên nhiều phương diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu

tả tâm lý nhân vật.

Năm 1973, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao tiếp tục được ra đời.

Trong đó có giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 của Nguyễn Hoành

Khung. Trong chương Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh đến tài năng

của Nam Cao trong việc lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày.

Trong cuốn sách Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), nhà nghiên cứu Phan

Cư Đệ một lần nữa nhắc đến Nam Cao và có nhiều phát hiện mới, độc đáo về sáng

tác của nhà văn này. Theo ông, điểm đặc sắc trong các tác phẩm của Nam Cao chính

là ở nghệ thuật.

Năm 1982, Giáo sư Hà Minh Đức viết cuốn Nam Cao và đôi nét nghệ thuật

sáng tạo tâm lý. Trong đó, ông nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam

Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhưng vẫn quanh quẩn tù túng không tìm được

lối thoát. Nó không được giao lưu với hành động nên có những phát triển ở bên

trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostoievski và

Sekhov” [10, tr.73]. Như vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng

trong sáng tác của Nam Cao. Đó là sự ảnh hưởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật

từ văn học châu Âu thế kỷ XIX.

Năm 2002, bài viết Nhớ Nam Cao và những bài học của ông của Nguyễn Đăng

Mạnh hoàn thành và in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao

như sau: “Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của ông. Nam Cao chú ý đến nhiều nội tâm ngoại hình nhân vật” [18, tr.183]. Đặc

biệt, khi đi sâu vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn

khẳng định:“Nam Cao có một lối kể rất biến hóa, cứ nhập thẳng vào đời sống bên

trong nhân vật mà dẫn dắt mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể chuyện

theo quan điểm nhân vật như thế nào tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một

thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tùy tiện mà thực ra hết sức chặt chẽ như

không thể nào phá vỡ nốt” [18, tr.183].

Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao, Viện Văn học cùng

Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao

do giáo sư Phong Lê làm chủ biên. Cuốn sách là tập hợp rất nhiều ý kiến, đánh giá

và tìm tòi khám phá mới về Nam Cao. Chúng tôi quan tâm đến những bài viết liên

quan đến quan đến nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao trong cuốn

sách này.

2.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài

Nam Cao là một nhà văn lớn. Điều này đã được chứng minh qua việc nhà

nghiên cứu N.I. Niculin (Liên xô) trong ba cuốn từ điện đồ sộ: Từ điển bách khoa

văn học giản yếu, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, Từ điển bách khoa văn học đều

đã dành một mục để viết về Nam Cao.

Ở Việt Nam, hướng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với tác giả văn học

nước ngoài đã được manh nha từ những năm 60. Hai nhà nghiên cứu đầu tiên đặt

Nam Cao bên cạnh Dostorevski, Sekhov - các nhà văn lớn trên thế giới - là Phan

Cư Đệ và Hà Minh Đức.

Sang thập 90, phương pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh được các nhà

nghiên cứu đặc biệt quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong cuốn Nghĩ tiếp

về Nam Cao do Phong Lê chủ biên đã tập hợp và giới thiệu với bạn đọc ba bài viết

về Nam Cao từ góc độ so sánh của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn Ảnh với Tsêkhov

và Nam Cao - một sáng tác hiện thực kiểu mới ;Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa

M.Gorki và Nam Cao; Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ .

Năm 2004, Viện Văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỉ niệm 100 năm ngày

mất của A.Chekhov. Tại hội thảo này, có rất nhiều bài tham luận viết về cuộc sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó có bài viết so sánh A.Chekhov

và Nam Cao rất sâu sắc của Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn

học. Với bài viết này, tác giả Phong Lê đã tìm ra những nét giống và khác nhau

trong sáng tác của Nam Cao và A.Chekhov. Từ việc so sánh đó, nhà nghiên cứu

khẳng định sự tương đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ

mệnh ở mỗi người đối với lịch sử dân tộc” và “ở lối tư duy nghệ thuật độc đáo đào

sâu vào đời sống tâm lý và hướng vào cuộc sống nhỏ nhặt thường ngày” [16,

tr.203].

Ngoài ra, ở trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên có một số luận văn Thạc sĩ

so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Đó là luận văn của Phạm Thị Thu:

“So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Runkê

Akutagawa (Nhật Bản)”, luận văn của Lương Thị Lan “Một số vấn đề thi pháp

truyện ngắn Nam Cao” (so sánh với thi pháp truyện ngắn A.Sekhov).

Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong

phú và đa dạng, với hàng trăm tài liệu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, chúng

tôi muốn tập trung khai thác các tài liệu liên quan đến truyện ngắn của Nam Cao và so

sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng sẽ

khám phá những điều còn ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời so sánh với

truyện ngắn của O’Henry để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt.

2.2. Vấn đề nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry

2.2.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry ở nước ngoài

Các tác phẩm của O’Henry ra đời đã hơn một thế kỷ nhưng đến nay vẫn

còn nguyên giá trị. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các

tác phẩm của ông. Đánh từ khóa O’Henry trên Google, trong 2 giây ta có

15.600.000 kết quả. Có thể nói, O’Henry đã chinh phục hàng triệu độc giả cũng

như nhiều nhà phê bình văn học thế giới. Trong các tài liệu mà chúng tôi tìm được,

có một số bài viết và công trình đáng chú ý như: O’Henry, con người và tác phẩm

(O’Henry, the man and his work, 1949) của Eugence Hudsonlong, Bút danh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry: A biography of William

Sidney porter, 1957) của Gerald Langford....

Cuốn O’Henry, con người và tác phẩm (O’Henry,the man and his work, 1949)

của Eugene Hudsonlong là một cuốn tiểu sử về O’Henry khá đầy đủ vào thời đó.

Eugene Hudsonlong đã giới thiệu cặn kẽ về O’Henry và các sáng tác của ông. Từ

đó, Eugene Hudsonlong đưa ra một cái nhìn tổng quan về tác phẩm của O’Henry,

đồng thời cung cấp bối cảnh lịch sử giúp độc giả đọc các câu chuyện và thơ của

O’Henry dễ dàng hơn. Theo nghiên cứu của Eugence Hudsonlong, O’Henry đã từng

viết thơ nhưng ông nổi tiếng, thành công với truyện ngắn. Cuốn sách này là một bức

tranh sinh động về cuộc đời của O’Henry và bước đầu có những nhận định chính

xác về tư tưởng, nhân cách của nhà văn này.

Cuốn Bút danh O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry:

A biography of William Sidney porter, 1957) của Gerald Langford đã đi sâu tìm hiểu

sự nghiệp của nhà văn O’Henry và quá trình trưởng thành của ông. Cuốn sách tập

trung vào 2 giai đoạn trong cuộc đời của O’Henry là thời gian ông ở Texas và thời

trong tù ở New York. Cuốn sách cũng viết về những thất bại của ông khi còn trẻ, về

việc ông đối mặt với thử thách trong cuộc sống, về vấn đề O’Henry có thật sự có tội

trong vụ biển thủ Ngân hàng Austin. Qua đó, Gerald Langford cũng cung cấp thông

tin, bối cảnh xã hội thời O’Henry.

Trong cuốn Truyện của O’Henry (Story by O’Henry, 1962), nhà nghiên cứu

Mildred H.Larson đã trình bày các nghiên cứu của mình về truyện ngắn của

O’Henry. Ông đánh giá cao cách kết thúc truyện bất ngờ thường có trong truyện

ngắn của O’Henry: “...trong mạch văn lai láng ông triển khai những câu chuyện

một cách khéo léo và phong phú, khiến độc giả không thể bỏ lửng cốt truyện mà

phải đọc từ đầu đến cuối với một ngạc nhiên’’ [22, tr.76].

2.2. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn của O’Henry ở Việt Nam

O’Henry là nhà văn Mỹ sớm được nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền

Nam Việt Nam (từ những năm 1940). Tuy nhiên với thời gian hạn hẹp, chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chỉ có thể bao quát được một số tài liệu xuất hiện trong vòng 20 năm gần đây. Chúng

tôi điểm qua một số công trình đáng chú ý như sau:

Trong cuốn Hành trình văn học Mỹ (1966), phần viết về nhà văn O’Henry,

tác giả Nguyễn Đức Đàn đã chỉ ra rằng: “Ông tìm kiếm không mệt mỏi những cái

bất ngờ và kì lại. Cốt truyện không bao giờ diễn biến một cách logic và phần cuối

bao giờ cũng có một sự kiện đột ngột” [8, tr.86].

Năm 2004, trong cuốn Tác gia văn học Mỹ thế kỷ XVIII-XX của Lê Đình Cúc,

ông đã dành một mục viết về O’Henry. Bài viết có tiêu đề “Tên cảnh sát và bản

thánh ca của văn học Mỹ”. Trong đó Lê Đình Cúc đã nhận xét: “Và còn gì của

O’Henry để lại cho thế hệ mai sau ngoài chất liệu hiện thực cuộc sống, ngoài một

chủ nghĩa nhân đạo bao la, ngoài một tấm lòng nhân hậu đối với thế giới bình dân

chính là ngòi bút châm biếm hài hước của mình” [7, tr.439].

Năm 2009, Nguyễn Hồng Dũng có bài Truyện ngắn của O’Henry đăng trên

Tạp chí Sông Hương (số 183, 2009). Nguyễn Hồng Dũng đã viết về O’Henry: “Ông

hiểu rõ tâm lí những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ

chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động.

Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng

cười gợi lên sự vị tha, nhân ái” [tapchisonghuong.com] [23].

Ngô Vĩnh Viễn trong lời giới thiệu tập Chiếc lá cuối cùng (2014, NXB Văn

học) đã chỉ ra điểm hấp dẫn nhất trong truyện O’Henry là: “Niềm tin của ông vào

con người, vào cuộc sống, cái nhìn vui vẻ, yêu đời trước những thăng trầm của một

số con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, bất hạnh”. Dịch giả Ngô Vĩnh

Viễn ngợi ca: “O’Henry không có cái thâm trầm sâu xa về mặt tư tưởng, không có

tầm rộng lớn về mặt khái quát, điển hình hoặc tính sắc biến trong phê phán xã hội

đương thời như 2 văn hào Nga và Pháp (Sêkhôp và Ghi Đơ Môpat xăng) nhưng tên

tuổi và tác phẩm của ông vẫn tồn tại mãi trong sự yêu thích và mến chuộng của

người đọc khắp nơi trên thế giới, vì niềm tin của ông vào con người và cuộc sống,

vì cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông những thăng trầm của số phận con người” [21,

tr.5].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn

O’Henry. Trong cuốn Giáo trình văn học phương Tây (2012, NXB Đại học Sư

phạm), ông đã nhận định về O’Henry: “Đứng về phía thân phận cơ hàn, O’Henry tỏ

rõ tấm lòng yêu thương những người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên không phải vì thế

mà ông không chỉ ra những hạn chế những yếu kém trong tư duy và hành động của

những người thuộc lớp dưới này. Nhưng do phải sáng tác nhanh để đáp ứng nhu cầu

của độc giả, nên ở O’Henry ta thấy nhiều môtip truyện lặp lại điều này cũng sẽ gây

nhàm chán” [3, tr.163].

Qua việc tìm hiểu các công trình trên, chúng tôi rút ta kết luận như sau: Ở nước

ngoài cũng như ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp

cũng như truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry. Các công trình kể trên

đã có những phân tích kĩ lưỡng, những khái quá khách quan, đánh giá đúng thành công

và đóng góp của hai nhà văn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình chuyên

biệt nào so sánh hai nhà văn này. Đây chính là vấn đề chúng tôi quan tâm và triển khai

đề tài. Những công trình này sẽ là tài liệu quý báu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu

thực hiện đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài này chúng tôi hướng đến khám phá và lý giải về truyện ngắn của

Nam Cao và O’Henry trên trên cơ sở so sánh; khẳng định thêm những đóng góp của

Nam Cao và O’Henry ở thể loại truyện ngắn trong hai nền văn học Việt Nam và

Mỹ; từ đó, khẳng định vị trí của truyện ngắn Nam Cao trong dòng chảy của văn học

thế giới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định ba nhiệm vụ chính của

đề tài như sau:

- Khảo cứu tình hình lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Mỹ nửa sau thế kỷ

XIX, đầu thế kỷ XX; nghiên cứu sự tác động của yếu tố đó đến truyện ngắn của hai

nhà văn Nam Cao và O’Henry.

- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện

nội dung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện

nghệ thuật.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry

trong cái nhìn đối sánh là nội dung, nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và

O’Henry trong sự so sánh tương đồng và khác biệt.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Thực hiện đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối

sánh chúng tôi sẽ tập trung khảo cứu vào các tập truyện ngắn có giá trị và được giới

nghiên cứu đánh giá cao của Nam Cao và O’Henry:

Với Nam Cao chúng tôi tập trung khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập:

- Nam Cao - truyện ngắn chọn lọc của Nhà xuất bản Văn học (2012).

- Tuyển tập Nam Cao (tập 1,tập 2) Nhà xuất bản Văn học (1999), do Hà Minh

Đức biên soạn.

Còn O’Henry với khối lượng tác phẩm đồ sộ nhưng chúng tôi tập trung vào

nghiên cứu các truyện ngắn trong 2 tập truyện:

- O’Henry Truyện ngắn chọn lọc (NXB văn học, 2009) do Mạnh Chương dịch,

gồm 35 truyện ngắn.

- Chiếc lá cuối cùng (Tập truyện, NXB Văn hóa, 2017) do Ngô Vĩnh Viễn,

Mạnh Chương, Trần Thanh Phương, Nguyễn Việt Long và Ngọc Khánh dịch; gồm

29 truyện ngắn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp văn học so sánh: Với tư cách là phương pháp luận, văn học

so sánh giúp chúng tôi nghiên cứu, nhìn nhận tác phẩm trong cái nhìn tương quan

để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt từ đó đánh giá tác phẩm một cách chính

xác, khách quan.

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên

cứu giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng

nghiên cứu: truyện ngắn Nam Cao và O’Henry.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên

cứu xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản

tác phẩm một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình

thức cũng như nội dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội

giúp chúng tôi đánh giá toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nam

Cao và O’Henry.

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: khảo

sát, thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh,…

6. Dự kiến những đóng góp của luận văn

Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến việc so sánh truyện ngắn của hai nhà văn

Nam Cao và O’Henry để đánh giá, khẳng định nhà văn Nam Cao trong dòng chảy

của văn học thế giới. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc

học và dạy học, nghiên cứu các tác phẩm của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry nói

riêng, học và dạy văn học hiện đại nói chung.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận gồm 3 chương:

Chương 1: Cuộc đời, quan niệm sáng tác, sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry.

Chương 2: Nội dung truyện ngắn Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh.

Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn

đối sánh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 1

CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP

CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY

1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry

1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao

Lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu và nửa đầu thế kỉ XX là thời kì nhân

dân Việt Nam chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Năm 1958, thực dân Pháp nổ

súng xâm lược nước ta. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến

hành đấu tranh quyết liệt chống lại quân thù. Mặc dù vậy, giai cấp phong kiến Việt

Nam đã dần thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh nổ ra của

nhân dân đều bị thất bại.

Với việc kí kết hiệp ước Harmand (1883-1884), triều đình nhà Nguyễn chính

thức công nhận sự đô hộ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Sang đầu thế kỷ XX khi

bình định thành công nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay ngay vào công

cuộc khai thác thuộc địa.

Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông

Dương dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp

khủng bố mọi sự chống đối, dùng chính sách “chia để trị” chia nước ta thành ba

kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Chúng duy trì triều đình phong kiến nhà

Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột

về kinh tế. Nhân dân ta mất nước, trở thành nô lệ, bị đàn áp bóc lột, cuộc sống vô

cùng cực khổ.

Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Đông Dương lần

thứ nhất (1897-1918), khai thác thuộc địa lần hai (1919-1929), trong đó lấy Việt

Nam làm trọng điểm. Tư bản Pháp bỏ vồn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập đồn cao

su, cà phê, chè…) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng…) để thu lợi

nhuận nhiều và nhanh. Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường

sắt, phát triển cơ sở công nghiệp chế biến, độc quyền ngoại thương, Ngân hàng

Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính đặt ra hàng trăm thứ thuế tàn ác nhất là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả nền kinh tế nước

ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh

tế thuộc địa, phụ thuộc vào Pháp.

Cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa nước ta trong giai đoạn

này cũng có những biến đổi sâu sắc. Đó là xung đột giữa cái “cũ” và cái “mới”.

Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hóa, xóa bỏ hệ thống giáo dục phong kiến

thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Chúng mở nhà tù, trại giam nhiều hơn

trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn

chế in sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả hơn 90% dân ta bị mù chữ, bị bưng

bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài. Xã hội Việt Nam có những thay đổi rõ nét từ

xã hội phong kiến thành xã hội nửa phong kiến. Lúc này trong xã hội Việt Nam nổi

lên 2 mẫu thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực

dân Pháp còn gọi là mâu thuẫn dân tộc. Mẫu thuẫn thứ hai là mối mâu thuẫn của

nhân dân Việt Nam, mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến còn gọi là mâu

thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này tồn tại song song và đặt ra yêu cầu phải giải quyết

lúc bấy giờ.

Giữa một thời kì xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến tối tăm và ngột ngạt

ấy, Nam Cao đã ra đời. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1917 tại

làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam.

Làng Đại Hoàng nơi ông sống thời bấy giờ giống như một bức tranh thu nhỏ của xã

hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là một ngôi làng xa phủ, xa huyện, chính vì vậy quan

lại, cường hào trong làng có cơ hội hoành hành. Tại ngôi làng của ông, thường xảy

ra các vụ kiện tụng nhau giữa bọn quyền thế, giàu có vì vậy không ít người dân phải

li hương. Những sự việc có thực đã diễn ra ở vùng quê tối tăm này đều được Nam

Cao ghi lại trong những trang sách của mình với dấu ấn nặng nề…

Ông sống trọn nửa đầu thế kỉ XX. Cuộc đời ông gắn với một giai đoạn lịch

sử đau thương của dân tộc. Những biến động xã hội, văn hóa và thân phận con người

trong thời kỳ này được ông cảm nhận, phản ánh hết sức sinh động trong toàn bộ

sáng tác của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống gặp rất nhiều khó

khăn. Trong gia đình, chỉ có Nam Cao được đi học. Cái đói, cái nghèo, bệnh tật đeo

đuổi và giày vò ông ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi thi trượt Thành chung, Nam Cao

rời bỏ làng quê nghèo khổ vào Sài Gòn kiếm sống theo một người cậu làm may.

Rời quê, Nam Cao ấp ủ nhiều dự định, nhiều mơ ước. Ông mơ ước được sang Pháp

để mở rộng tầm biểu biết, nhưng cuối cùng bệnh tật lại trả ông về với quê hương.

Về Sài Gòn, Nam Cao tiếp tục ôn lại và thi đậu Thành chung. Ông định xin làm

công chức nhưng rồi bệnh tật nên không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy

học ở một trường tư thục do người nhà mở. Cuộc sống của một anh giáo khổ trường

tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư

sản nghèo trong xã hội cũ.

Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, ngôi trường bị đóng cửa. Nam

Cao phải sống chật vật bằng nghề viết văn, dạy thuê và cuối cùng không tồn tại ở

chốn thị thành này được Nam Cao phải về quê “ăn bám” vợ.

Năm 1943 Nam Cao ra nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn khác

như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyên Hồng… Khi cơ sở văn

hoá cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về

quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.

Năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau đó được

làm chủ tịch ủy ban khởi nghĩa xã. Ít lâu sau Nam Cao được điều lên Hà Nội rồi

công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân tiến vào vùng Nam

Trung Bộ. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến đồng

thời làm cán bộ thông tin tuyên truyền: viết tin, viết tài liệu, viết truyền đơn… Thời

gian này, Nam Cao vinh dự ra nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1948). Vào tháng

11 năm 1951, khi tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu Liên

khu III. Nam Cao có ý định nhân dịp này ghé về quê mình, thu thập thêm tài liệu để

viết về một tác phẩm về quê hương trong cách mạng. Nhưng không may Nam Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đã ngã xuống gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình) khi tài năng đương độ chín và biết

bao dự định sáng tạo vẫn còn dang dở.

Cuộc đời của nhà văn Nam Cao mang nhiều nét tiêu biểu cho tầng lớp trí

thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Có hoài bão, có ước mơ, có lý tưởng nhưng

đều không thực hiện được. Cuộc sống của ông phải vật lộn với miếng cơm, manh

áo, trải qua nhiều lần thất nghiệp, ngược xuôi trong Nam, ngoài Bắc, nhưng cuộc

đời của Nam Cao đã sớm được soi sáng nhờ ánh sáng của Đảng và Cách mạng.

Chính điều này đã giúp ông thoát khỏi những bế tắc, và mang đến cuộc sống có ý

nghĩa cho ông.

Nói tới Nam Cao, chúng ta nhớ ngay đến một con người có tấm lòng sâu sắc,

có ý thức gắn bó thủy chung với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết

đó là những người thân trong gia đình. Bề ngoài, Nam Cao có vẻ lạnh lùng ít nói,

nhưng đời sống nội tâm vô cùng phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với

bản thân để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới một cuộc sống cao

đẹp.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng đôn hậu, hiền hòa,

chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những

người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ với xã hội đương

thời. Ông cho rằng: Không có tình thương thì không xứng đáng gọi là người. Ông

không nỡ ăn bát cơm ngon dành cho riêng mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả

nhà, vì vậy viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót

thương, cảm thông. Ông luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống vì thế dù

những chuyện rất thường ngày nhưng Nam Cao lại nêu lên được vấn đề xã hội lớn

lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc.

Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất, bi phẫn

của một trí thức. Họ là những người có ý thức về sự sống mà không được sống cho

ra người. Nam Cao là một nhà văn chân chính, có tấm lòng nhân hậu, chan chứa

yêu thương, có đời sống tinh thần phong phú. Những tác phẩm ông sáng tác đều

chứa tinh thần nhân đạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thời kỳ nước Mỹ vừa trải qua nội chiến, tái

thiết đất nước, kinh tế, xã hội Mỹ đã bước vào thời kỳ khá phát triển và ổn định.

Tuy nhiên cũng chính từ đây đã nảy sinh ra những vấn đề xã hội của việc đô thị hóa

và công nghiệp hóa. Sự phân cách giàu - nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ

ngày càng nhiều cùng với tình trạng khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự

thành đạt, giàu sang song hành với đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Đời sống xã hội

Mỹ vì thế cực kỳ phức tạp với bao điều tương phản: phồn vinh và cùng khổ, tự do

dân chủ và bất công bạo ngược.

Tình hình tư tưởng xã hội ở Mỹ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX khá phức

tạp. Có những học thuyết du nhập từ Châu Âu, thích ứng với điều kiện lịch sử xã

hội Mỹ, đã tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong đời sống, chính trị, văn hóa Mỹ. Là

đất nước của tự do tôn giáo nên Mỹ có nhiều loại hình tín ngưỡng, giáo phái và nhà

thờ. Khó có thể mô tả lối sống hay đặc tính Mỹ điển hình. Người Mỹ được người

nước ngoài nhận thức qua cách cử xử ít nhiều sự mâu thuẫn: ít đặt nặng tầm quan

trọng của danh dự và phẩm giá; khiêm tốn trước lời khen và thích chế nhạo lỗi lầm

yếu kém của bản thân; tự hào kín đáo về những gì mình đạt được và phê phán những

sự việc chưa hoàn thiện…

Nhìn chung, đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống về quyền bình đẳng, tự

do, ảnh hưởng của các hệ thống tư tưởng và sự phát triển nhanh và mạnh của xã hội

công nghiệp - tiêu thụ cuối thế kỷ XIX đầu XX, đã làm nảy sinh trong tâm lý người

Mỹ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa lạc quan. O’Henry là một

trong những “đứa con” sinh ra trong thời đại đó.

O’Henry tên thật William Sydney Porter. Ông có nhiều bút danh như SH

Peters, Janmes L.Bliss, TB Dowd và Howard Clark. O’Henry sinh ngày 11 tháng 9

năm 1862 tại Greensboro, North Carlina. Cuộc đời ông có khá nhiều biến cố.

O’Henry sinh ra và lớn lên trong một gia đình không giàu có nhưng được ngưỡng

mộ vì Porter là dòng họ tri thức, có nhiều đóng góp nhân đạo cho xã hội. Cha

O’Henry là bác sỹ Algernon Sidney (1825-1888) nổi tiếng ở quận Guifox... Mẹ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

O’Henry là bà Mary Jane Virginia Swaim Porter (1833-1865), con gái của chủ bút

tờ báo Ái Quốc ở Grinsboro.

Khi lên 3 tuổi thì cơn khủng hoảng đen tối đã đổ xuống gia đình ông. Chiến

tranh đã khiến ông và người thân chịu nhiều mất mát. Mẹ ông mất sau khi sinh em

của ông được sáu tháng. Không lâu sau, đứa bé ấy cũng qua đời. Tinh thần của cha

ông suy sụp. Vài năm sau, cha ông nghiện rượu và qua đời. Đứa trẻ tội nghiệp

William lại phải chịu thêm mất mát về tình yêu thương và giáo dục của cha mẹ.

Khi còn nhỏ, Porter luôn thích đọc sách, ông đọc mọi thứ từ tác phẩm kinh điển

đến tiểu thuyết rẻ tiền hoặc bất cứ cuốn sách nào rơi vào tay mình. Chính vì vậy, ông

không bao giờ cảm thấy cô đơn kể cả khi một mình sống trong trang trại bao la rộng

lớn. Porter tốt nghiệp từ trường tiểu học của người cô ruột Evelina Maria Porter vào

năm 1876. Sau đó, ông theo học tại trường Trung học Lindsey Street.

Năm 1879, ông bắt đầu làm việc tại nhà thuốc của người chú ở Greensboro.

19 tuổi, Porter đã được cấp phép làm dược sĩ. Tại hiệu thuốc, ông cũng thể hiện tài

năng nghệ thuật thiên bẩm của mình bằng cách vẽ phác họa những người đến cửa

hàng và ông được mọi người ngưỡng mộ bởi kỹ năng vẽ của mình.

Năm 1882, O’Henry phát hiện mình có triệu chứng bị lao. Vào tháng 3 năm

đó ông cùng bác sĩ Jame K.Hall đến Texas, hi vọng rằng không khí đồng nội sẽ giúp

giảm bớt căn bệnh ngày càng trầm trọng của ông. Sau khi hồi phục, vào khoảng

năm 1884, ông chuyển đến Austin. Tại đó ông làm nhiều công việc khác nhau: từ

dược sĩ, đến phóng viên, ngân hàng, nhân viên địa chính, vẽ kỹ thuật và kiến trúc,

đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in, nhà báo… Ông

cũng bắt đầu viết văn và có những truyện ngắn đầu tay, các mẩu truyện cười đăng

trên các nhật báo, tuần báo miền Tây Nam. Ngoài ra O’Henry là một ca sĩ, nhạc sĩ

giỏi và rất thích đóng phim truyền hình.

Chuyện tình cảm riêng tư của O’Henry cũng có nhiều thăng trầm. Ông yêu

Athol Estes, một cô gái chỉ 17 tuổi, con một gia đình giàu có. Vào năm 1887,

O’Henry kết hôn với Athol. Athol đã luôn khuyến khích, ủng hộ chồng theo đuổi

sự nghiệp viết văn. Năm 1888, Athol sinh một con trai nhưng đứa trẻ đã chết ngay

sau đó vài giờ. Năm kế tiếp bà sinh cô con gái Margaret Worth Porter.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người bạn cũ của O’Henry là Richard Hall đã giới thiệu ông một công việc.

Ông bắt đầu làm người soạn thảo, vẽ bản đồ khảo sát và ghi chép hiện trường tại

văn phòng Địa chính Texas (GLO) vào năm 1887 với mức lương 100 đôla một

tháng. Tiền lương đủ để nuôi sống gia đình nhưng ông vẫn tiếp tục viết bài cho các

tạp chí. Khi người bạn của ông thua cuộc bầu cử, Porter phải thôi việc vào đầu năm

1891. Cùng năm đó, Porter đã bắt đầu làm việc tại Ngân hàng nhưng do bất cẩn

trong việc giữ sổ sách hoặc có thể đã thật sự tham ô quỹ mà ông bị buộc tội tham ô

và chấm dứt công việc của mình.

O’Henrey yêu thích văn học cổ điển. Trong khi theo đuổi nhiều kế hoạch của

mình, O’Henry đã bắt đầu viết văn. Ông làm việc ở tuần báo của chính mình mang

tên The Rolling Stone nhưng nó đã thất bại vì không đủ chi phí để hoạt động. Tuy

nhiên, bài viết và bản vẽ của ông đã thu hút sự chú ý của biên tập viên tại tờ báo

Houston Post.

Trong thời gian sống ở Houston, ông bị bắt vì tội tham ô tại ngân hàng ở

Austin vì kểm toán viên liên bang kiểm tra ngân hàng đã tìm thấy sự thiếu hụt quỹ.

Cha vợ của O’Henry bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù. Ông đã bị xét xử vào ngày 7 tháng

7 năm 1896. Một ngày trước đó, ông bất ngờ chạy trốn đến New Orleans và

Honduras (Trung Mỹ). Ở Honduras, ông đã viết tác phẩm Lũ cắp vặt và những ông

hoàng (Cabbages anh Kings), tác phẩm đầu tay chính thức của ông.

Lúc đó, Athol bị ốm nặng. Biết được tin vợ mình sắp qua đời, Porter quay

trở lại Austin và tháng 2 năm 1897 và tự thú trước tòa. Trong khi chờ đợi xét xử, bố

vợ của Porter một lần nữa gửi tiền bảo lãnh để ông có thể ở lại với Athol và con gái

Margaret. Porter bị buộc tội tham ô vào tháng 2 năm 1898 và bị kết án năm năm tù

giam tại Ohio Penitentiary. Vì O’Henry là một dược sĩ được cấp phép, ông đã được

đưa đến làm việc tại bênh viện của nhà tù.

Ở trong tù, ông đã bắt đầu viết truyện. Sau khi bị giam ba năm, O’Henry

được thả vào ngày 24 tháng 7 năm 1901 vì cải tạo tốt. O’Henry đoàn tụ với cô con

gái 11 tuổi Margaret. Sau khi ra tù, ông được mời ký hợp đồng với một tòa soạn và

ngày lập tức trở thành nhà văn được đón nhận nhanh nhất. Năm 1902, ông di chuyển

đến New York. Ở đó, ông đã viết truyện ngắn cho tuần báo New York World Sunday

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Magazine. Sau đó, O’Henry nghiện rượu nặng và đến 1908, sức khỏe của ông đã

xấu vì thế không thể viết tiếp được. Người vợ thứ hai đã bỏ ông. Ông qua đời vào

năm 1910 do xơ gan biến chứng của bênh tiểu đường cùng sự cô đơn, nghèo túng.

O’Henry là một nhà văn viết truyện tài năng và đã để lại cho chúng ta một di

sản phong phú là những câu chuyện tuyệt vời. Ông đã sống một cuộc đời rất phong

phú, phải nếm trải không ít những mất mát, đắng cay, tủi nhục: tuổi thơ không được

yêu thương, chăm sóc; thời thanh niên lang bạt, kiếm sống vất vả bằng nhiều nghề

khác nhau; khi trưởng thành phải chịu nỗi đau mất người thân và từng chịu cảnh tù

tội. Các biến cố trong cuộc đời đã đưa O’Henry ông đến với con đường văn chương

và chi phối đến những vấn đề ông phản ánh trong tác phẩm của mình. O’Henry là

một trong những người lao động khốn khổ của thời đại đó. Ông đã viết những trang

truyện ngắn về đời sống của những người thuộc tầng lớp mình với sự am hiểu sâu

sắc cùng tấm lòng nhân ái bao la.

O’Henry không phải là một nhà tư tưởng, cũng không chịu ảnh hưởng sâu

đậm của một triết thuyết cụ thể nào. Theo cách của riêng mình, O’Henry cũng như

nhiều tác giả Mỹ khác đã thể hiện tư tưởng trong tác phẩm. Ông bênh vực những

người nghèo khổ và đồng thời phê phán bất công xã hội, thủ đoạn bóc lột tàn bạo

của tầng lớp tư sản Mỹ. Nét đặc biệt là sự khôi hài với những biến tấu đa dạng:

hài hước vui nhộn, giễu cợt sâu cay, những trò lừa tinh tế…

1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà văn

Nam Cao và O’Henry không chỉ sinh trưởng ở hai quốc gia với hai nền văn

hóa khác nhau mà còn có sự cách biệt thời đại. O’Henry sống chủ yếu ở nửa sau

của thế kỷ XIX, Nam Cao sống ở nửa đầu của thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam nửa đầu

thế kỉ XX vẫn chưa phát triển đáng kể, nếu không muốn nói là vẫn rất lạc hậu. Trong

khi đó, nửa sau thế kỉ XIX, kinh tế xã hội Mỹ đã phát triển mạnh, đi trước kinh tế

xã hội Việt Nam rất nhiều. Điểm khác biệt nổi bật và xuyên suốt lịch sử Việt Nam

và Mỹ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là sự khác biệt về thể chế. Với sự chi phối của

nhiều yếu tố khác nhau nên cùng một thời điểm lịch sử hai nước là hai con đường,

hai chế độ chính trị khác nhau…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ở Việt Nam lúc này nhân dân đang phải chịu sự áp bức bóc lột tàn bạo của

thực dân Pháp. Vì thế trong những năm đầu thế kỉ XX, nước ta chính thức trở thành

nước nửa thuộc địa nửa phong kiến - một chế độ mà ở đó còn tồn tại đan xen cả

hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp

tư sản, công nhân xã hội phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền (mặc dù đó chỉ là

hình thức).

Còn ở Mỹ, trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nền kinh tế nước

Mĩ vươn lên đứng hàng đầu thế giới, trở thành nước tư bản chủ nghĩa Mỹ chủ trương

đi xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ ở các nước thuộc địa.

Thời đại của hai nhà văn Nam Cao và O’ Henry tuy có khác nhau về thời

gian, có sự khác biệt về thể chế nhưng giữa Việt Nam và Mĩ vẫn có điểm tương

đồng nhất định. Điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất là cuộc sống của tầng lớp nhân

dân lao động.

Mặc dù Mỹ đã trở thành nước tư bản phát triển từ thế kỉ XIX nhưng điều đó

không làm cho đời sống của nhân dân lao động nước Mỹ trở nên tốt đẹp hơn. Việc

đô thị hóa và công nghiệp hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Sự phân cách giàu

nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ ngày càng nhiều cùng với tình trạng

khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự thành đạt giàu sang song hành với

đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Thành phố New York cuối thế kỷ XIX đã trở

thành phố lớn, hiện đại nhưng dưới vẻ hào nhoáng vẫn có những khu phố nghèo,

đầy rẫy những người thất nghiệp, vô gia cư. Bản thân nhà văn O’Henry cũng từng

trải qua những năm tháng kiếm sống vất vả như hàng triệu người lao động nghèo

khác.

Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, dưới chế độ thực dân nửa phong

kiến, từ thành thị đến nông thôn, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, bấp bênh.

Đặc biệt là tầng lớp lao động thị dân nghèo và nông dân. Sự lạc hậu và đói nghèo

là điểm nổi bật nhất trong đời sống của người Việt Nam trước Cách mạng tháng

Tám.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Điểm tương đồng thứ hai là về cuộc đời của hai nhà văn: Dù sống ở hai quốc

gia khác nhau, hai thời đại khác nhau nhưng cuộc đời của hai nhà văn lại có sự gặp

gỡ. Cả hai nhà văn đều chứng kiến xã hội bất công, chính những điều này đã ảnh

hưởng không ít đến nội dung trong các tác phẩm của họ. Hơn thế, họ là những người

trải nghiệm cuộc sống khốn khó của tầng lớp thấp trong xã hội. O’Henry và Nam

Cao đều là những người lao động phải lao động cật lực cùng những người trong

tầng lớp lao động để kiếm sống. Cả hai đều phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác

nhau. Điều này lý giải vì sao của hai nhà văn tuy sống ở hai quốc gia khác nhau, ở

hai thời đại khác nhau mà tác phẩm của họ lại có những điểm gặp gỡ về giá trị thẩm

mĩ. Điểm gặp gỡ giữa họ chính là cách cảm nhận cuộc sống từ góc nhìn đầy nhân

văn. Chính điều này đã qui định quan điểm sáng tác và nội dung hiện thực phản ánh

trong các tác phẩm của họ.

1.2. Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry

Nam Cao và O’Henry là nhà văn. Họ không phải là các nhà lý thuyết hay phê

bình văn học. Cả hai nhà văn không đưa những vấn đề lý thuyết mà chỉ chuyên tâm

sáng tác. Tuy nhiên trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà văn này, đều thể hiện được

quan điểm viết văn của mình.

Nam Cao không chỉ được biết đến là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư

tưởng nhân đạo phong phú và sâu sắc, mà còn là nhà văn có quan điểm nghệ thuật

tiến bộ và nhất quán. Những quan niệm này ít khi được phát biểu trực tiếp dưới dạng

lí luận mà thường được bộc lộ trong những sáng tác và hình tượng nghệ thuật của

Nam Cao.

Ban đầu, chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li thi vị

hóa hiện thực, Nam Cao đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí dễ dãi. Nhưng

vốn là một nghệ sĩ chân chính, giàu tính thương yêu quần chúng lao khổ, Nam Cao

đã sớm nhận ra thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than của đông

đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con

đường nghệ thuật hiện thực chân chính. Trong Giăng sáng Nam Cao viết: “Chao

ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than” [12, tr.318].

Tác giả đã mượn lời của nhân vật Điền để bày tỏ thái độ phủ định của mình với

quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông cho rằng loại văn chương mơ mộng hão

huyện cũng giống như ánh trăng xanh huyền ảo chứa đầy dối lừa bởi ánh trăng làm

đẹp cả những cảnh thực ra chỉ tầm thường, xấu xa. Có biết đâu những căn lều nát,

nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp người. Theo Nam Cao “Người

cầm bút chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong lao khổ,

mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…” [12, tr.318]. Không

những vậy, Nam Cao còn quan niệm văn chương chân chính thì phải thấm đượm tư

tưởng nhân đạo (Nghệ thuật phải phụng sự con người, vì con người). Tác phẩm văn

học có giá trị không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn phải có giá trị nhân đạo

sâu sắc. Quan niệm này được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa: “Một tác phẩm thật

sự có giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho

cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì vừa lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại

vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người

gần người hơn” [13, tr.16].

Chủ trương văn học phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng

đau khổ của quần chúng, Nam Cao cũng không tán thành loại sáng tác “tả chân”,

hời hợt “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Ông chủ trương nghệ thuật là một lĩnh

vực hoạt động đòi hỏi khám phá, đào sâu, tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Qua

nhân vật Hộ trong Đời thừa, Nam Cao đã khẳng định; “Văn chương không cần đến

những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung

nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi sáng tạo

những gì chưa có…”[13, tr.8]. Quan niệm này trở thành phương châm phấn đấu

trong quá trình sáng tác của Nam Cao.

Nam Cao coi lao động nghệ thuật là hoạt động nghiêm túc, công phu. Nhiệm

vụ của văn chương là bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho con người. Vì vậy đòi hỏi người

cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm trong nghề của mình. Ông lên án gay

gắt sự cẩu thả trong nghề văn: “Sự cẩu thả bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương

rồi nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” [13, tr.8]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao chiến đấu ở Việt Bắc. Từ khói lửa

chiến tranh, ông không nguôi nghĩ về tư cách “con dân nước Việt” về trách nhiệm

của nhà văn trước vận mệnh dân tộc trong kháng chiến, Trong nhật kí Ở rừng Nam

Cao tâm sự: “Nhiều khi phải quên mình đi, quên cái tuổi của mình để thành người

có ích. Có cần gì phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử ? Tạo ra lịch sử lại là sự

nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số đông nhiều hơn ta. Trước sự gian khổ

và hi sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi người cần: biết hi sinh, biết

chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không biết đến tên mình, không nghĩ đến cả

thân mình nữa” [13, tr.361]. Nam Cao say sưa trong mọi công tác, không nề hà lớn

nhỏ với ý nghĩ dứt khoát đặt lợi ích cách mạng, dân tộc lên trên hết. Kháng chiến

bùng nổ, nhà văn “muốn vứt tất cả đi để cầm lấy súng” như một người công dân

yêu nước thật sự. Nam Cao nhủ “sống đã rồi hãy viết” và hăng hái lao mình vào

phục vụ kháng chiến. Không phải ông không còn say mê với văn chương mà ông

hiểu rằng cuộc sống cách mạng còn thiêng liêng hơn gấp nhiều lần. Trước sau nhà

văn vẫn trung thành với một ý nghĩ “góp sức vào việc không nghệ thuật lúc này

chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Đó là một thái độ đúng đắn,

đẹp đẽ nhất của người nghệ sĩ chân chính lúc đó.

Những quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước và sau Cách mạng tháng

Tám cho thấy ông luôn sáng tác văn chương bằng một cái tâm trong sáng, đầy nhiệt

huyết. Chính điều đã nuôi dưỡng và phát lộ tài năng văn chương xuất chúng của ông,

đưa ông trở thành nhà nhân đạo lớn, môt nhà hiện thực bậc thầy.

Giữa những xu hướng văn chương thoát li thi vị hóa đời sống hiện thực và

chạy theo những thị hiếu tầm thường của một số ít độc giả trước đây, quan điểm

nghệ thuật của Nam Cao vừa đúng đắn, vừa tiến bộ, vừa có ý nghĩa chiến đấu rõ

rệt.

Cũng giống như Nam Cao, O’Henry trước hết là một nhà hiện thực. Tác phẩm

của ông lấy chất liệu từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống, thể hiện cảm thức trước

cuộc sống.

Khi trò chuyện với bạn bè trong một hiệu ăn, trả lời cho câu hỏi làm thế nào

để tìm được cốt truyện cho nhiều truyện ngắn, O’Henry có nói: “Từ mọi nơi, mọi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thứ đều có sẵn câu chuyện trong bản thực đơn này”. Sau đó là sự ra đời của truyện

ngắn Xuân về trên thực đơn

O’Henry quan niệm: “truyện ngắn hay giống như viên thuốc đắng bọc

đường”. Ông sáng tạo ra các tác phẩm một cách nghiêm túc, không hề xem văn

chương là trò đùa mặc dù ông luôn xây dựng nhiều nghịch cảnh khôi hài trong văn

chương. Nhân vật người kể chuyện trong Kí tự và cành ghép quan niệm: “Nghệ

thuật trần thuật tập trung thể hiện cho độc giả mọi thứ họ muốn biết nhưng chỉ sau

khi anh bộc lộ những quan niệm yêu thích của riêng mình vào những chủ đề xa lạ

với chủ đề chính. Một truyện ngắn hay thì giống như viên thuốc đắng bọc đường”

[3, tr.275]. Chính quan niệm này đã thể hiện trọn vẹn đặc trưng tự sự của ông. Hầu

hết truyện ngắn của O’Henry đều dễ đọc. Người đọc bị lôi cuốn vào những tình

huống gay cấn, vào những câu văn dung dị, đầy hình ảnh và lối chơi chữ dí dỏm

góp phần đắc lực trong việc tạo nên tiếng cười. Nhưng đằng sau nó lại là câu chuyện

khác.

Bông hồng Đixie là một trong số truyện ngắn thành công nhất của O’Henry

về phương diện này. Đây là truyện ngắn hài hước, châm biếm tiêu biểu bậc nhất của

O’Henry. Nó thể hiện cách giấu đi “chủ đề chính” trong kĩ thuật tự sự “bọc đường”.

Nhưng một khi lớp vỏ bọc hài hước ấy tan ra thì cả một hiện thực nghiệt ngã hiện

lên. O’Henry không chỉ châm biếm cách làm báo thiếu trách nhiệm mà còn phê

phán cái xã hội dung túng cho điều đó.

Ngoài ra O’Henry còn cho rằng: thiên chức của nghệ thuật là thanh lọc tâm

hồn hướng thiện cho con người.

Trong nhiều tác phẩm, thông qua người kể chuyện, O’Henry đưa ra quan

niệm về sáng tạo nghệ thuật của mình. Khác với nhà văn Nam Cao, O’Henry ít khi

phát biểu trực tiếp quan niệm về sáng tạo văn học nhưng qua truyện của ông, ta thấy

ông dụng công đan cài nhiều ý tưởng của riêng mình.Việc này đã góp phần tạo nên

sức hấp dẫn cho mạch trần thuật, khiến người đọc phải lần theo mối dây tư tưởng

trực tiếp ấy để tác giả thực sự muốn nói với họ.

Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng là quan niệm của O’Henry về thiên

chức và sức mạnh của nghệ thuật. Chiếc lá cụ Behrman vẽ lên tường giống y như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thật đã cứu sống Johnsy. Điều này đã khẳng định vai trò vinh quang của nghệ thuật:

Nghệ thuật phục vụ cho cuộc sống con người.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà O’Henry nhắc nhiều đến nghệ thuật, đặc biệt là

âm nhạc và hội họa. O’Henry yêu nghệ thuật nhưng không đến mức mù quáng cho

rằng nghệ thuật có thể làm nên tất cả. Nghệ thuật là vĩ đại nhưng vẫn có giới hạn

của nó. Quả thật, con người ta không thể sống chỉ bằng âm nhạc và hội họa. Nghệ

thuật chỉ có có thể giúp thanh lọc tâm hồn nhưng hoàn toàn không thể ‘thanh lọc dạ

dày’.

Nghệ thuật cảnh tỉnh con người bởi nghệ thuật am hiểu sâu sắc bản chất con

người. Với quan niệm này O’Henry đã dựng lên một họa sĩ tài năng độc đáo mà qua

nét vẽ của anh, bản chất con người từ cao thượng, thấp hèn, lọc lừa đến dối trá đều

lộ rõ. Con người sáng tạo nên nghệ thuật và đến lượt mình, nghệ thuật giúp con

người sống đẹp hơn. O’Henry thấu hiểu điều đó vì vậy ông rất chú trọng đến thế

giới của nghệ sĩ nghèo.

Sự nghiệp của O’Henry nổi danh từ khi lên New York. Nhờ chịu khó đi nhiều

viết nhiều và tiếp xúc với đủ hạng người nên theo nhà nghiên cứu Van Uych Brucx:

“New York dường như thuộc về O’Henry” bởi vì “Sự hiếu kì mới mẻ mà với nó,

ông đã mang lại tình cảm kì diệu của ông về mảnh đất ấy… khiến sự tinh khôi văn

học vượt qua cái giản dị mà đôi lúc có phần bình thường của ông, cả trò khôi hài

không thể nhịn được cười lẫn hành văn hơn điệu của ông” [1, tr.143]. Với nhận xét

này Van Uych Brucx đã thâu tóm hết những đặc điểm chính trong phong cách nghệ

thuật của O’Henry.

Mỗi nhà văn có cách bày tỏ quan niệm về nghệ thuật khác nhau. Nam Cao

thường bày tỏ về quan niệm nghệ thuật qua những lời phát biểu của nhân vật trong

các tác phẩm văn chương, còn O’Henry ít khi đưa ra quan niệm nghệ thuật qualời

phát biểu của nhân văn học mà ông dụng công đan cài ý tưởng qua sự kiện, ý nghĩa

câu chuyện. Việc làm này cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho các câu chuyện

của ông. Dù theo các cách nào ta đều thấy ở hai nhà văn điểm chung, họ là người

có trách nhiệm với việc viết văn, luôn tìm tòi sáng tạo, xem sự sáng tạo quyết định

sự sống còn của nghề viết. Đặc biệt họ đều xác định mục đích của nghệ thuật là vì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con người. Tác phẩm của họ được sáng tạo ra một cách nghiêm túc, và ta đều nhận

ra rằng: quan điểm nghệ thuật của Nam Cao và O’Henry vừa đúng đắn, vừa tiến bộ,

vừa có ý nghĩa chiến đấu rõ rệt. Sự nghiệp văn chương của họ thống nhất với quan

điểm sáng tạo văn chương của họ.

1.3. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry

Nhắc đến sự nghiệp văn chương của nhà văn Nam Cao, ta thấy trong suốt

cuộc đời cầm bút Nam Cao luôn xác định đúng đắn mối quan hệ giữa sống và viết.

Mấy năm đầu, nhà văn chịu ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn thoát ly hiện

thực, nhưng cũng nhanh chóng nhận ra đó là thứ văn chương xa lạ với đời sống

khốn cùng của nhân dân và đã quyết định từ bỏ để đến với con đường nghệ thuật

hiện thực chủ nghĩa.

Trước cách mạng, Nam Cao bắt đầu có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng tên

tuổi của ông chỉ thực sự được biết đến với sự xuất hiện của kiệt tác Chí Phèo (1941).

Sự nghiệp văn học của Nam Cao chia làm 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng

tháng Tám.

Trước cách mạng, Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Các sáng tác

của ông tập trung vào hai đề tài chính: người trí thức tiểu tư sản nghèo và người

nông dân nghèo. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn:

Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ,

Cười... và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã

miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những nhà văn

nghèo, những “giáo khổ trường tư”, học sinh thất nghiệp...

Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó đặt ra

những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi

kịch dai dẳng thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về sự sống

nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng áo

cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống một cuộc “đời

thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự

sống tàn phá tâm hồn con người, đồng thời đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong

của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự

có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ở đề tài người nông dân, Nam Cao quan tâm đến những người hẩm hiu bị áp

bức bóc lột nhiều nhất. Ông đi sâu vào số phận của những con người bị chà đạp.

Tuy giọng văn có khi lạnh lùng nhưng Nam Cao đã bênh vực quyền sống, quyền

nhân phẩm của con người bất hạnh đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lão

Hạc, Một đám cưới). Viết về người nông dân bị tha hóa, nhà văn lên án chế độ

phong kiến tàn bạo, bên cạnh đó cũng ca ngợi bản chất của người nông dân ngay cả

khi họ bị vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi

cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý

trong tâm hồn họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo...). Từ đó, Nam Cao đã tố cáo

gay gắt xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống, hủy hoại tài năng, hủy diệt tâm

hồn, đồng thời nhà văn ca ngợi cuộc đấu tranh trung thực, dũng cảm của người trí

thức để vươn tới một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, xứng đáng với con người. Đây

chính là chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.

Dù ở đề tài nào, sáng tác của Nam Cao cũng chứa đựng nội dung triết lý sâu

sắc, khái quát được bản chất cuộc sống thông qua các mối quan hệ: vật chất - ý thức,

hoàn cảnh - tính cách, hiện tượng - bản chất. Đồng thời ta thấy ở đó niềm trăn trở,

sự day dứt, trước tình trạng nhân cách, nhân phẩm của con người bị biến đổi dưới

tác động của hoàn cảnh sống khắc nghiệt, nỗi đau đớn trước thực trạng con người

bị “chết mòn” về tinh thần, lẽ sống, bị hủy hoại cả nhân hình, nhân tính trong cái xã

hội ngột ngạt, vô nhân đạo đương thời.

Sau cách mạng, Nam Cao nhanh chóng hòa nhập vào cuộc kháng chiến của

dân tộc và trở thành một trong những cây bút tiên phong của văn học cách mạng.

Đề tài chủ yếu là viết về cuộc sống kháng chiến với các tác phẩm: Đôi Mắt, Nhật kí

Ở rừng, Chuyện biên giới…

Truyện Đôi mắt kể về một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng vẫn

giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và “đôi mắt” khinh bạc tệ hại đối với quần

chúng. Đó là hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc

bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ,

lối sống cũ và quyết tâm “Cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt” trở

thành những chiến sỹ trên mặt trận văn hoá. Đó là những thành tựu đầu tiên của nền

văn xuôi kháng chiến, trong đó “Đôi Mắt” là một tác phẩm xuất sắc, được coi như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao và lớp nhà văn cũ trong quá trình “tìm

đường” “nhận đường”.

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Với

những sáng tác văn chương xuất sắc và một hệ thống quan điểm nghệ thuật sâu sắc

tiến bộ, Nam Cao đã đóng góp quan trọng cho tiến trình hiện đại hóa văn học nước

nhà.

Về O’Henry, có thể nói đương thời, ít có nhà văn nào trong một thời gian

ngắn mà viết và in được nhiều truyện ngắn như O’Henry. Nhờ sáng tạo không ngừng

nghỉ và cố gắng nỗ lực mà số tác phẩm O’Henry có rất đồ sộ, có giá trị về nội dung

lẫn nghệ thuật. Một người bạn của ông sau này đã nhận xét: “Nếu O’Henry không

viết hai mươi bốn tiếng và bằng cả hai tay thì ông không thể nào đáp ứng được một

phần mười nhu cầu đang được các chủ báo cạnh tranh ráo riết” [6, tr.233]. Nhà nghiên

cứu Lê Đình Cúc trong cuốn Văn học Mỹ, mấy vấn đề và tác giả đã khẳng định:

“O’Henry có một vị trí đặc biệt trong văn học Mỹ bởi tính cổ điển nhưng lại rất Mỹ

trong truyện ngắn” [6, tr.299].

O’Henry chính thức viết văn vào những năm tháng ông sống trong tù. Ở đó,

ông đã cho ra đời 14 tác phẩm dưới cái tên giả “O’Henry” xuất hiện lần đầu tiên

trong truyện ngắn Chiếc tất đựng quà Giáng sinh của Whisling Dick (Whisling

Dick’s Chistmas Stocking, 1899). Ở sau song sắt, O’Henry lấy tờ giấy trắng, cây

bút và bắt đầu chép câu chuyện mà ông chưa kịp kể cho gia đình mình. Sau đó

O’Henry gửi truyện ngắn tới một tạp chí và được đăng ngay mà không bị sửa chữa

gì.

Các nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry là các bạn tù của ông, còn cốt

truyện đước rút ra từ cuộc đời của họ. Trước khi gửi tác phẩm của mình cho nhà

xuất bản, O’Henry thường đọc cho các bạn tù nghe. Hơn ba năm sau khi bị bắt,

O’Henry được trả tự do sớm nhờ tư cách tốt. Tòa soạn tuần báo New York World

Sunday Magazine đã mời ông ký một hợp đồng dài hạn. Hàng tuần ông phải gửi

cho họ một truyện ngắn, còn họ trả cho ông 100 USD - số tiền mơ ước của bất cứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhà văn Mỹ nào lúc bấy giờ. O’Henry ngay lập tức nhận lời. Cả tòa soạn háo hức

chờ đợi ông, ai cũng muốn được là người đầu tiên đọc tác phẩm mới của nhà văn.

O’Henry rất khó viết về những gì không được tận mắt chứng kiến. Một trong

số tập truyện hay nhất và được biết đến nhất của ông là Lũ cắp vặt và những ông

hoàng (Cabbages and Kings, 1904) - tập truyện đầu tiên của ông gồm những câu

chuyện đã được xuất bản trước đó. Tiếp theo có mười ba tập truyện ngắn ra đời và

một số tập được xuất bản sau khi ông mất. Trong đó có những tập truyện nổi tiếng

như: Bốn triệu (1906), Trái tim miền Tây (1907), Tiếng nói thị thành (1908), Đường

định mệnh (1909), Công việc nghiêm khắc (1910), Sáu và bảy (1911), Đá lăn

(1912), Trẻ bơ vơ (1917), Tổng tập O’Henry (1953).

Đỉnh cao sự nghiệp của O’Henry được thể hiện qua các tác phẩm: Món quà

của các thầy pháp, Căn phòng có sẵn đồ cho thuê, Tên cớm và bản thánh ca, Câu

chuyện chưa kết thúc… Mảng truyện này đề cập đến thân phận của người dưới đáy

xã hội. Qua những truyện này O’Henry đã gửi thông điệp nhân đạo về những người

thấp cổ bé họng, vô danh ở Mỹ.

Những năm cuối đời, O’Henry hầu như không viết gì. Ông uống rượu nhiều,

sức khỏe ngày càng sút kém. Tác phẩm cuối cùng của ông là Giấc mộng (The

Dream, 1910) một truyện ngắn dành cho Tạp Trí The Cosmopolitan (Quốc tế)

nhưng lại chưa hoàn thiện vào thời điểm ông qua đời. Tổng cộng, trong cả cuộc đời

mình O’Henry đã viết khoảng 381 truyện ngắn. Toàn tập tác phẩm của ông gồm 18

tập.

Đề tài trong truyện ngắn của ông chủ yếu của ông xoay quanh tình yêu đôi

lứa, tình vợ chồng, tiền bạc, những người nghệ sĩ, gia đình… Những câu chuyện

đời thường mà ông đem đến đầu ẩn chứa nhiều chủ đề tư tưởng sâu sắc và dạy cho

người đọc bao bài học ý nghĩa như: sự hi sinh, cái con người ta cho đi, cách ứng xử

khôn khéo; đồng thời cũng phản ánh cái xã hội quá đề cao đồng tiền, con người

chìm đắm trong công việc kiếm sống mà bỏ quên đi quá nhiều thứ, phê phán xã hội

khiến những người hiền lành, tài năng dù đã cho cố gắng đến đâu cũng không thể

thoát ra được vòng xoáy khốn khổ…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

O’Henry có một óc sáng tạo kì diệu, ông biến những sự kiện thông thường

nhất (Một Thực Đơn; Một tờ báo; Một căn phòng…) thành những câu chuyện độc

đáo trong sáng tác của ông. Lối dựng chuyện của ông thể hiện qua những kinh

nghiệm sống. Những nhân vật của ông được đặt trên nền những con người có thật

mà ông quen biết.

Các sáng tác của ông viết về những vấn đề xã hội và kinh tế của những giai

cấp bị áp bức. Ông đưa những con người thấp cổ bé họng này vào tác phẩm của

mình với lòng trắc ẩn và cảm thông. Những cô gái bán hàng, những nghệ sĩ và

những diễn viên lo từng miếng ăn, những đôi tình nhân trẻ bất hạnh, những kẻ đầu

trộm đuôi cướp, và những viên cảnh sát... đều là những nhân vật xuất hiện trong

những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.

Không gian trong truyện O’Henry có ba điểm chính: Texas, Trung Mỹ và

New York. Texas và Trung Mỹ chỉ chiếm phần nhỏ trong sư nghiệp văn chương

của O’Henry, khoảng 80 truyện trong số gần 400 truyện mà ông đã viết. Phần lớn

ông viết về New York - thành phố lớn thứ năm ở bờ biển phía đông nước Mỹ. Ông

vô cùng yêu New York, ông đã bị mê hoặc bởi các cửa hàng và cuộc sống về đêm.

Ông cũng bị quyến rũ bởi những cám dỗ. Vào thời đỉnh cao của sự nổi tiếng,

O’Henry có thể ăn trong các nhà hàng đẹp nhất và mua vé của những chương trình

được yêu thích nhất. Song không bao giờ ông quên hàng ngàn tầng lớp lao động nơi

đây sống rất khác. Ngay cả khi cuộc sống của ông rất thành công, ông vẫn để tâm

đến “người dân bình thường” và viết về “bốn triệu người New York” mà đôi khi

các nhà văn khác có xu hướng bỏ qua.

Truyện ngắn O’Henry có đặc điểm chung là hướng về độc giả bình dân, ngắn

gọn, súc tích và dễ hiểu. Khi ở trong tù là khoảng thời gian ông chuyên tâm vào

sáng tác và sau đó đã dần định hình một phong cách riêng. Ông viết về những gì đã

chứng kiến, đã được nghe, được trải qua trong những ngày tháng lăn lộn, in dấu

chân mình trên khắp các vùng đất. Ông từng đi nhiều và lăn lộn đủ nghề để kiếm

sống. Đề tài trong truyện của ông lấy từ chính thế giới của những người dân và được

kể lại theo cách của ông, chính bởi vậy độc giả luôn tìm thấy một chút bản thân hay

cuộc sống của mình khi đọc truyện ngắn O’Henry.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

O’Henry là một nhà văn có học vấn không cao (ông chỉ học ở một trường tư

cho đến năm 15 tuổi) nhưng lại rất thành công với mảng truyện ngắn. Ông đã đưa

vào tác phẩm của mình một xã hội đa dạng và rộng lớn của nước Mỹ cuối thế kỷ

XIX - đầu thế kỷ XX. Trong văn chương O’Henry là thế giới của những người vô

gia cư, cuộc sống phiêu lưu của những kẻ cao bồi hay dòng người đi tìm vàng cho

đến cuộc sống giàu sang nơi thành phố New York. Người đọc bị cuốn vào những bi

kịch có vẻ rất ngẫu nhiên trong đời sống, đến những câu chuyện ngang trái hay

những tình huống đầy bất ngờ của nhà văn. Độc giả sẽ ngạc nhiên khi vừa đọc một

câu chuyện có vẻ như bông đùa về tình yêu, về lòng tốt từ sự ngẫu nhiên rất bi hài,

cảm động về lòng bao dung, hi sinh của con người… Tiêu biểu như Chiếc là cuối

cùng - tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng, có mặt trong nhiều cuốn sách giáo

khoa tại nhiều trường học trên thế giới. Điều này cho thấy tính mẫu mực từ tác phẩm

của ông. Giới nghiên cứu xếp truyện ngắn của O’Henry vào dạng “Cổ điển đương

đại” như những giá trị đã trở thành khuôn mẫu.

Các nhân vật trong các sáng tác của nhà văn này hầu hết là con người bé nhỏ,

bị đối xử bất công, cái nghèo đói đeo đuổi cuộc đời của họ. Nhưng ông luôn đặt

niềm tin vào con người và cuộc sống cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông trước những

thăng trầm của số phận con người, đặc biệt là những con người bất hạnh. Vì vậy,

thế giới của của O’Henry luôn hồn hậu, thủy chung và tràn đầy lạc quan. Truyện

của ông giàu chất trí tuệ nhưng không vì thế mà khô khan ngược lại rất giàu chất

thơ.

Như vậy, cả Nam Cao và O’Henry đều rất thành công ở thể loại truyện ngắn.

Tuy số lượng tác phẩm truyện ngắn của mỗi nhà văn là không giống nhau: Nam

Cao là gần 60 truyện, O’Henry là 381 truyện ngắn. Sự nghiệp sáng tác của Nam

Cao chia theo từng giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám với mỗi giai đoạn

tương ứng với thể loại và chủ đề và đề tài khác nhau điều này cũng chính là điểm

khác biệt giữa Nam Cao và O’Henry. Nhưng dù viết về đề tài gì, ta đều thấy nội

dung chủ yếu trong các tác phẩm của hai nhà chứa đựng nội dung triết học sâu sắc,

khái quát được bản chất cuộc sống thông qua các mối quan hệ: vật chất - ý thức,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hoàn cảnh - tính cách, hiện tượng - bản chất. Đồng thời ta thấy trong các tác phẩm

của họ còn chứa đựng ở đó niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận con người.

1.4. Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh

1.4.1. Khái niệm truyện ngắn

Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về thể loại truyện ngắn. Có

người cho rằng: Truyện ngắn là một tác phẩm có bề sâu nhưng lại không được dài,

người khác lại nhận định: Truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết. Qua những

ý kiến trên chúng tôi nhận thấy: Truyện ngắn là một thể loại văn học thường kể bằng

văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, nội dung thường xoay quanh một tình hướng

truyện chủ chốt nào đó. Như vậy đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là tính ngắn gọn,

cô đúc, kiệm lời, dung lượng nhỏ, nhưng sức chứa lớn.

1.4.2. Về văn học so sánh

Văn học so sánh là tên gọi một hệ phương pháp luận, một bộ môn trong

khoa nghiên cứu văn chương. Nó phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù của

bộ môn. Cụ thể, nó chỉ bao hàm những so sánh liên văn học: nó tiến hành đối

sánh các nền văn học dân tộc với nhau. Quá trình đối sánh này phải bảo đảm tính

khách quan, phi định kiến: nhà nghiên cứu, không vì lòng tự tôn, tự ti dân tộc,

mà nhân danh văn học so sánh để hạ thấp các nền văn học dân tộc khác, hoặc

mặc cảm về văn học dân tộc mình. Thao tác so sánh phải trên cơ sở cùng loại:

tác phẩm sánh cùng tác phẩm, tác giả đi bên tác giả… Sự so sánh phải đa diện,

với nhiều cấp độ, nhiều hệ thống. Tất cả hướng về lợi ích quốc tế, giải quyết mọi

cái riêng qua cái chung. Sự giàu có của văn học thế giới phải hội tụ từ vẻ đẹp

phong phú, đặc sắc của từng nền văn học dân tộc. Ngược lại, văn học từng dân

tộc, cũng nhờ đặt trong hệ thống, mà thấy mình độc đáo, đầy sức sống. Có 2 xu

hướng trong văn học so sánh: Xu hướng so sánh theo quan hệ giao lưu và so sánh

văn học theo quan hệ tương đồng. Luận văn của chúng tôi đi theo xu hướng so

sánh tương đồng.

Tiểu kết chương 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mặc dù hai nhà văn sinh ra và trưởng thành ở hai quốc gia với hai chế độ

chính trị khác biệt, mỗi người lại có một số phận riêng nhưng trong cuộc đời và

sự nghiệp văn học của họ ta vẫn thấy có điểm tương đồng thú vị. Với tâm hồn của

một người nghệ sĩ yêu văn chương cả Nam Cao và O’Henry đều rất quan tâm đến

cuộc sống số phận của con người trong xã hội mà họ sinh sống. Qua các tácphẩm

của mình hai nhà văn đã tái hiện một cách chân thực cuộc sống, số phận của con

người.

Nam Cao và O’Henry có nhiều điểm tương đồng về cuộc đời và đặc biệt là

quan niệm sáng tác. Qua quan niệm sáng tác ta thấy được lòng nhiệt huyết, tình yêu

văn chương, ý thức sáng tạo tác phẩm một cách chân chính của hai nhà văn. Chính

điều này đã ảnh hưởng sâu sắc nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của hai nhà

văn.

Sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry đều thành công ở thể loại truyện ngắn.

Những tác phẩm của hai nhà văn đều là sản phẩm của tài năng và sự trải nghiệm

cuộc sống của những người gần gũi cuộc sống bình dân. Ngoài những điểm chung,

chắc chắn sáng tác của hai nhà văn có rất nhiều điểm khác biệt. Chúng tôi sẽ tìm ra

một số điểm tương đồng, khác biệt đó để thêm một cách đọc tác phẩm của cả hai

nhà văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 2

NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY

TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH

2.1. Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry

2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry

Để xác định chính xác hệ thống đề tài trong truyện ngắn của hai nhà văn Nam

Cao và O’Henry, chúng tôi tiến hành khảo sát văn bản và lập bảng thể hiện kết quả

khảo sát. Như ở phạm vi nghiên cứu đề tài đã nêu, với nhà văn Nam Cao chúng tôi

sẽ tập trung khảo sát truyện ngắn của Nam Cao thời kì trước cách mạng tháng Tám

năm 1945. Còn với nhà văn O’Henry chúng tôi sẽ tiến hành khảo tập trung chủ yếu

vào tập truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.

Bảng 1.1: Khảo sát đề tài trong truyện ngắn Nam Cao

Đề tài

Stt Tên tác phẩm Người nông Người Ghi chú dân trí thức

1 Nghèo X

2 Đui mù X

3 Chí Phèo X

4 Dì Hảo X

5 Nửa đêm X

6 Đôi móng giò X

7 Lão Hạc X

8 Con mèo X

9 Một đám cưới X

10 Tre con không được ăn thịt chó X

11 Quái dị X

12 Một bữa no X

13 Từ ngày mẹ chết X

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đề tài

Stt Tên tác phẩm Người nông Người Ghi chú dân trí thức

14 Làm tổ X

15 Thôi đi về X

16 Tư cách mõ X

17 Mua danh X

18 ở hiền X

19 Rửa hờn X

20 Rình trộm X

21 Một truyện Xú-Vơ-Nia X

22 Nhìn người ta sung sướng X

23 Lang rận X

24 Điếu văn X

25 Cái chết của con mực X

26 Nhỏ nhen X

27 Cái mặt không chơi được X

28 Những chuyện không muốn viết X

29 Giăng sáng X

30 Mua nhà X

31 Truyện tình X

32 Đón khách X

33 Đời thừa X

34 Sau lại thế này X

35 Cười X

36 Nước mắt X

37 Bài học quét nhà X

38 Xem bói X

39 Quên điều độ X

Tổng số 24 15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bảng 2.2: Khảo sát đề tài trong truyện ngắn O’Henry

Đề tài

STT

Truyện ngắn

Người trí

Người du

Các đề tài

thức

thủ, du thực

khác

Trái tim và chữ thập

X

1

Tiền tài và thần ái tình

X

2

Món quà của các thầy Pháp

X

3

Căn buồng có sẵn đồ thuê

X

4

Hai mươi năm sau

X

5

Psyche và nhà chọc trời

X

6

Chiếc lá cuối cùng

X

7

Dấu vết của Bill Đen

X

8

Jeff Peters - nhà thôi miên

X

9

Mối tình của ngài khoán dịch viên

X

10

Một sự giúp đỡ của tình yêu

X

11

Ái tình theo khẩu phần

X

12

Bên bị

X

13

Chuyện một tờ báo

X

14

Bị bắt

X

15

Những mẩu bánh mỳ kiến hiệu

X

16

Buồng tầng thượng

X

17

Một sự cải tạo được cứu vãn

X

18

Bánh rán miền Pimienta

X

19

Tên cớm và bản thánh ca

X

20

Những con đường chúng ta chọn

X

21

Người đánh giá sự thành công

X

22

Đêm Ả Rập tại quảng trường Madison

X

23

Một câu chuyện dang dở

X

24

Một giả định phá sản

X

25

Quả lắc

X

26

Gương mặt trông nghiêng kì diệu

X

27

Một cơn gió dịu

X

28

Câu chuyện tỉnh lẻ

X

29

10

7

Tổng số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Qua so sánh kết quả khảo sát về hệ thống đề tài ở bảng 1 và 2, chúng tôi rút

ra ba nhận xét:

Thứ nhất: Hai nhà văn Nam Cao và O’Henry đều quan tâm đến đời sống của

người tài người trí thức, tiểu tư sản nghèo thành thị. Nhiều tác phẩm của họ đều viết

về đề tài người trí thức nghèo.

Thứ hai: Hai nhà văn này còn quan tâm đến các đề tài khác nhau. Nhà văn

Nam Cao tập trung viết về đời sống của người nông dân nghèo. Trong khi đó O’Henry

lại quan tâm đến thể hiện phản ánh đời sống của những người không nghề nghiệp, vô

gia cư nơi thị thành. O’Henry cũng đưa vào tác phẩm của mình những cảnh sống của

giới chính trị, tuy số lượng tác phẩm viết về đề tài này không nhiều.

Thứ ba: Dù đối tượng cụ thể khác nhau, song, hai nhà văn Nam Cao và

O’Henry lại có điểm chung lớn đó là họ đều quan tâm đến tầng lớp người lao động

nghèo trong xã hội.

Từ ba nhận xét trên đây, chúng tôi muốn làm rõ hơn các tầng bậc ý nghĩa, giá

trị thẩm mĩ truyện ngắn của hai nhà văn này trong sự đối sánh.

2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức

Về đề tài người trí thức trong tác phẩm của Nam Cao, giới nghiên cứu phê

bình Việt Nam đã bàn luận rất nhiều. Đó là các bài viết của Huệ Chi, Phong Lê,

Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Xuân Nguyên... Các công trình của các nhà nghiên cứu

đều khẳng định Nam Cao rất thành công trong việc phản ánh đời sống, con người

của giới trí thức Việt Nam trước và trong Cách mạng tháng Tám. Trong “Nam Cao

khát vọng về một cuộc sống lương thiện, xứng đáng”, Nguyễn Văn Hạnh đã cho

rằng, Nam Cao dồn nhiều suy nghĩ thiện cảm cho người trí thức nghèo “có nhiều

điều băn khoăn về ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị làm người”. Qua đó “Nam Cao

đã đề cập đến một tấn bi kịch của con người và xã hội mà càng từng trải, càng có ý

thức về nhân phẩm, về cống hiến, về ý nghĩa của cuộc sống, người ta càng thấy ghê

rợn, đó là bi kịch sống mòn” [14, tr.22-26]. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, Nam

Cao có các truyện ngắn tiêu biểu: Những chuyện không muốn viết, Giăng sáng, Mua

nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt; Đời thừa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trong Giăng sáng, Điền là một nhân vật có quá trình tự ý thức nhiều đau

khổ. Nam Cao đã để cho nhân vật tự suy nghĩ, tự mổ xẻ bản thân để tìm cho mình

một lối đi trong lao động nghệ thuật cũng như trong hiện thực cuộc sống. Ban đầu

khi còn trẻ, Điền cũng như Nam Cao tìm đến thứ văn chương lãng mạn để làm thi

vị hoá hiện thực đói nghèo và lam lũ nơi làng quê. Điền “nguyện cam chịu tất cả

những thiếu thốn đọa đày” miễn là được thoả “cái mộng văn chương”. Với Điền,

“nghệ thuật chính là ánh trăng xanh huyền ảo”. Điền hướng lòng mình đến cái đẹp

đầy ảo tưởng. Nhưng khi đã trở thành một người có gia đình, có vợ và có con, Điền

hàng ngày phải lo kiếm miếng cơm, manh áo để vun đắp cho cái gia đình nhỏ bé và

nheo nhóc của mình thì Điền ý thức được rằng: ánh trăng kia có đẹp, có thi vị đến

đâu cũng không thể làm đẹp cuộc sống lam lũ của Điền, gia đình Điền và bao kiếp

người đau khổ khác. Trong tâm tưởng của Điền, mọi ước mơ, mộng tưởng cao xa,

đẹp đẽ đều tan biến hết. Điền nói cho mình mà như nói cho cả giai cấp mình: “Nghệ

thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ

là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Và nếu nghệ thuật chỉ là trò

giải trí của “những người đàn bà nhàn nhã ngả mình bên những cái ghế xích đu nhún

nhảy” thì nghệ thuật ấy sẽ chẳng có giá trị nào hết. Để rồi cuối cùng Điền hiểu ra

như hiểu một chân lý: nghệ thuật chỉ thực sự có giá trị khi nghệ thuật ấy là chính

cuộc đời đau khổ của Điền, của thế hệ Điền. “Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng

cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy tất cả những vang

động của đời”. Trong số những nhân vật trí thức của Nam Cao, có thể nói, Điền là

nhân vật tìm được hướng đi khả dĩ cho mình sau quá trình tự ý thức nhiều đau khổ.

Cũng như Điền, Hộ trong Đời thừa cũng là một văn sĩ nhưng quá trình tự ý

thức ở nhân vật này lại kết thúc bằng một bi kịch không lối thoát. Hộ luôn mong

muốn làm được một điều gì đó cao cả từ sự nghiệp văn chương. Hộ mơ ước có tác

phẩm đoạt giải Nobel và cố gắng làm việc không mệt mỏi để đạt điều đó. Với Hộ,

trong sáng tác văn chương cần phải có nguyên tắc: “Văn chương không cần đến

những người thợ khéo tay... Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào

sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hộ cho rằng tác phẩm văn chương do mình làm ra phải thực sự có giá trị. “Nó chứa

đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng

thương, tình bác ái, sự công bằng... Nó làm cho người gần người hơn”. Với nguyên

tắc ấy, Hộ còn muốn trong cuộc sống, Hộ có thể “nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của

mình”. Hộ có thể hi sinh nghiệp văn để đổi lấy tình thương. Vậy mà cuối cùng mọi

ước mơ của Hộ tan biến hết chỉ vì Hộ cần tiền để nuôi vợ con nhưng tiền không

kiếm được thì Hộ lại dằn vặt, trách móc vợ con và vi phạm chính nguyên tắc sống

do mình đề ra. Hộ lâm vào bi kịch không lối thoát nhưng trong phút giây đau đớn

nhất, Hộ đã tự ý thức lại mình, tự trách và đay nghiến bản thân là “một thằng... khốn

nạn”. Sự tự ý thức đã đưa Hộ trở lại với bản chất con người vốn có của mình.

Ngoài nhân vật Điền (Giăng sáng), Hộ (Đời thừa), còn có Hài (Quên điều

độ), nhân vật “Tôi” trong Những chuyện không muốn viết... Hầu hết các nhân vật

này đều là những nhân vật cả nghĩ, có đời sống tư tưởng và tình cảm phong phú,

nhiều sắc thái. Họ luôn sống trong trạng thái suy tư, trăn trở, có khi nổi giận vô cớ

với vợ con nhưng rồi lại ân hận, xót xa. Họ xuất thân là những nhà văn, nhà giáo

luôn ấp ủ những giấc mơ, hoài bão chính đáng nhưng lại bị nỗi lo cơm áo “ghì sát

đất”. Bởi vậy, họ lâm vào bi kịch tinh thần và luôn tự ý thức để tìm cách thoát khỏi

thực tại nghiệt ngã, nhiều khi họ còn giằng xé nội tâm để vươn lên cuộc sống cơm

áo tầm thường.

Viết về đề tài này, Nam Cao đã miêu tả một cách chân thực tình cảnh nghèo

khổ, sống dở, chết dở của những nhà văn nghèo. Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những

bi kịch tâm hồn của họ, từ đó đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, vượt

khỏi phạm vi của đề tài. Đó là bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí

thức, có ý nghĩa sâu sắc về sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp

tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công, vô

lý làm cho bị chết mòn về tinh thần. Những tác phẩm đó đã phê phán xã hội phi

nhân đạo bóp nghẹt sự sống và tàn phá con nguời. Đồng thời, chúng thể hiện sự vật

lộn bên trong của người trí thức tiểu tư sản trong thực tế cố vươn tới một cuộc sống

có ý nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ở đề tài người trí thức, O’Henry dành nhiều sự quan tâm những người nghệ

sĩ. Qua đó, ông muốn thể hiện những vấn đề xung quanh vấn đề nghệ thuật, cũng

như giới nghệ sĩ thời bấy giờ. Đề tài này không ít lần xuất hiện trong sáng tác của

O’Henry. Đa phần những người nghệ sĩ này đều có tài năng nhưng số phận không

mỉm cười với họ. Họ phải sống cuộc sống nghèo nàn, ở những nơi chật hẹp và phải

đánh đổi nhiều điều để theo đuổi đam mê.

Trong Một sự giúp đỡ của tình yêu, Joe mang dòng máu của thiên tài về nghệ

thuật hội họa và Delia có một giọng hát đầy hứa hẹn. Họ đi lên miền Bắc để tìm cơ

hội phát triển rồi gặp gỡ và yêu nhau. Cuộc sống quá khó khăn khiến họ phải bỏ

học và gác tình yêu nghệ thuật sang một bên bởi lẽ con người không thể chỉ sống

bằng hội họa và âm nhạc. Trong tác phẩm này, câu nói “khi người ta yêu nghệ thuật

thì có việc gì khó” được lặp lại trong tác phẩm như một lời khẳng định. Nhưng cuộc

sống nghèo khổ của đôi vợ chồng trẻ, tình yêu nghệ thuật của họ đã nhường chỗ cho

lòng yêu thương và sự hy sinh cho nhau: họa sĩ tương lai Joe đi làm thợ đốt lò, nhạc

sĩ tương lai Delia trở thành thợ là quần áo. Người kể chuyện thú nhận với độc giả:

“Khi người ta yêu nghệ thuật thì không có việc gì khó. Đấy là tiền đề của chúng

tôi”. Câu chuyện thật sự là một cảnh đời khái quát nhiều cảnh đời của trí thức nghèo

Mỹ đầu thế kỷ XX.

Gần giống truyện Một sự giúp đỡ của tình yêu, trong Đêm Ả Rập tại quảng

trường Madison là câu chuyện về một họa sĩ thiên tài. Ông từng có một bức tranh

giá hai nghìn đôla. Ông vẽ tranh chân dung chân thật, sống động đến không ngờ và

cũng chính bởi vậy mà dần dần không ai dám thuê ông vẽ. Từ tranh của ông, người

ta có thể nhìn thấy bản chất thật của họ, mà có ai muốn “lộ nguyên hình trên tranh”.

Vì lí do đó, từ một họa sĩ nổi tiếng, ông bỏ nghề và gia nhập hàng ngũ những người

xin ngủ nhờ ở quảng trường, kể truyện để xin ăn tại các nhà hàng. Tác phẩm còn là

nỗi chua xót, ngậm ngùi của tác giả trước số phận của nghệ thuật, số phận của những

nghệ sĩ tài hoa.

Có lẽ may mắn hơn họ, Sue và Johnsy trong Chiếc lá cuối cùng là những

người nghệ sĩ được thỏa mãn đam mê vẽ của mình. Nhưng họ nào có được vẽ đúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

theo tài năng và sở thích, họ phải vẽ minh họa cho tạp chí, truyện ngắn để trang trải

cuộc sống. Dẫu vậy, họ vẫn lạc quan và ước mơ một ngày sẽ được vẽ vịnh Naples.

Cũng giống như những cô họa sĩ trẻ, cụ Behrman lâu nay không vẽ được gì, chỉ

thỉnh thoảng nguệch ngoạc vài bức cho ngành quảng cáo hay buôn bán. Ngoài ra,

ông chỉ kiếm được chút ít nhờ làm mẫu cho những nghệ sĩ trẻ nghèo. Họ gọi ông là

“một người thất bại trong nghệ thuật”. Ông luôn mong ước sẽ để lại một bức kiệt

tác mà bốn mươi năm nay ông vẫn chưa làm được. Cho đến cuối đời, dấu ấn ông để

lại chính là chiếc lá thường xuân đã đem lại sự sống cho Johnsy, chắc hẳn đó là một

kiệt tác ông mơ ước. Bởi lẽ, ông đã dành cả tình cảm, đam mê và cả sinh mạng của

mình. Và nghệ thuật mà ông theo đuổi không ở đâu xa, không phải là vịnh Naples,

không phải là bức họa kiệt tác ngàn đời ca tụng. Đó là khi ta mở lòng, đem lại niềm

tin vào cuộc sống, ta hi sinh cho người khác. O’Henry coi đó là nghệ thuật chân

chính.

Những người nghệ sĩ trong các sáng tác của O’Henry đều có một điểm chung

là yêu nghệ thuật và khát khao được thành danh, có một dấu ấn để đời. Song, cuộc

sống của họ không mấy khi thuận lợi. Dù vậy, không một người nghệ sĩ nào trong

những câu truyện của O’Henry quay lưng lại với nghệ thuật hay bị số phận đánh

ngã, họ vẫn luôn giữ niềm tin và tình yêu với đam mê của mình.

Không đi sâu vào phản ánh những bi kịch tinh thần của người trí thức như

Nam Cao, O’Henry đem lại cái nhìn nhẹ nhàng về cuộc sống từ đó nói lên ước mơ,

hoài bão trong các nhân vật trí thức trong các sáng tác của nhà văn.

2.1.3. Những đề tài khác biệt

2.1.3.1. O’Henry và đề tài người du thủ, du thực

Khảo sát tác phẩm của O’Henry, chúng tôi nhận thấy, so với Nam Cao,

O’Henry có mối quan tâm đặc biệt đến một đề tài mà trong tác phẩm của Nam Cao

không có. Đó là ông quan tâm phản ánh đời sống của những người không nghề

nghiệp, sống lang thang ở thị thành, làm những việc không thể gọi là nghề như trộm

cắp, lừa đảo... Chúng tôi tạm gọi đó là những kẻ du thủ, du thực. Với 7/29 viết về

những người du thủ du thực, có thể nói O’Henry rất quan tâm chú ý đến cuộc sống

của những người này. Cuộc đời của O’Henry trừ một thời gian ngắn sống lưu vong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ở một quốc gia Trung Mỹ và hơn 3 năm ở Texas, phần lớn cuộc đời ông sống ở

thành phố, đặc biệt là ở New York, một thành phố lớn, hiện đại bậc nhất của Mỹ.

Tuy sống ở thành phố nhưng O’Henry không sống vương giả như giới nhà giàu mà

chủ yếu sống bằng nhiều nghề lao động, thậm chí từng ở tù. Cuộc sống ấy cho ông

điều kiện tiếp xúc với đủ hạng người, kể cả những người phạm tội. Ông không chỉ

quan sát mà thấu hiểu họ. Đối với họ, ông rất đồng cảm yêu thương. Bởi vì đã có

lúc ông đã từng rơi vào hoàn cảnh như họ, những con người dưới đáy xã hội.

Tên cớm và bản thánh ca kể về một anh chàng không nghề nghiệp anh ta tìm

mọi cách để được đi tù vì ở trong đó không phải lo lắng về chỗ ngủ và những cơn

đói. Tuy nhiên, trớ trêu thay Soapy làm mọi cách từ ăn quỵt, ném vỡ cửa sổ, trêu

ghẹo một cô gái, làm rối loạn trật tự… nhưng hắn vẫn không được viên cảnh sát chú

ý tới. Hắn bỏ cuộc định trở về công viên ngủ thì nghe thấy bản thánh ca vọng ra từ

một nhà thờ. Hắn bỗng nhớ lại ngày trước hắn cũng có ước mơ về một cuộc sống

bình thường như bao người khác. Hắn muốn chống lại số phận, hắn muốn tìm việc

và khát khao tự do hơn bao giờ hết. Ngay lúc đó một viên cảnh sát tới bắt và hắn bị

giam ba tháng. Soapy vốn là một kẻ vô gia cư nhưng anh ta luôn quan niệm “pháp

luật còn dễ chịu hơn lòng từ thiện”, “mọi thứ nhận được từ các bàn tay từ thiện, nếu

không phải trả bằng tiền thì lại phải trả bằng sự trói buộc về tinh thần”. Vì vậy, anh

ta không đến với những tổ chức từ thiện để được cho ăn, cho ngủ. Khi mùa đông

đến để tránh cái rét khắc nghiệt, Soapy phải lập kế hoạch để được đi tù, hắn thà vậy

còn hơn chịu sự trói buộc về tinh thần. Vào tù tránh giá rét, lại có cơm ăn, có chỗ

nằm với giường gối và an toàn. Trong khi lang thang tìm cách vào tù, hắn đi qua

nơi sang trọng, xa hoa không thuộc về thế giới của hắn, cách đối xử của họ cũng

thật khác. Soapy định bụng vào một khách sạn đắt tiền ăn quỵt một bữa nhưng vừa

nhìn thấy chiếc quần sờn gấu và đôi giầy tàng thì “sếp” tiệm ăn tống ra vỉa hè. Cho

đến khi hắn thức tỉnh nhờ bản thánh ca, hắn muốn làm lại từ đầu, sống một cuộc

sống như hắn từng mơ ước, khát vọng sống của hắn đã ngủ quên từ lâu trỗi dậy bản

chất tốt đẹp của một kẻ lang thang du đãng muốn vào tù. O’Henry đã thể hiện cho

độc giả thấy sức mạnh của nghệ thuật. Nghệ thuật có thể đánh thức những điều tốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đẹp bên trong con người. Soapy là nhân vật tiêu biểu cho lớp người du thủ du thực

với cuộc sống khốn khổ, loay hoay của con người trong xã hội Mỹ khốc liệt, tàn ác

ấy. Qua đó O’Henry muốn giành sự ưu ái cho những tầng lớp thấp bé của xã hội

Một sự cải tạo được cứu vãn xoay quanh nhân vật Jimmy Valentine -một

người không nghề nghiệp sống nhờ vào việc đi phá két sắt được mệnh danh là: “anh

chàng chạy két sắt cừ khôi”. Từ một kẻ phạm tội anh ta trở thành người lương thiện

“do ngọn lửa tiến công đột ngột của tình yêu song phương để lại”. Đó là tình yêu

giữa con gái ông chủ ngân hàng Enmo. Từ đống tro tàn của Jimmy, Rap D.Spenso

phục sinh. Anh ta bỗng chốc trở thành chủ hiệu giày, làm ăn phát đạt và đính hôn

với Anaben. Anh viết một lá thư gửi bạn Bily - người anh muốn tặng bộ đồ nghề ăn

cắp, anh viết: “Tớ đang kiếm sống một cách lương thiện, và hai tuần nữa sẽ cưới

một cô gái đẹp nhất trên đời này. Chỉ có thể sống như thế được thôi, Bily ạ, sống

ngay thẳng”. Tuy nhiên lá thư bị thám tử Benpraixơ phát hiện và tìm đến thành phố

ấy bắt Jimmy. Mâu thuẫn của truyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa bé con chị gái

Annamen bị kẹt trong hầm két mới do ông ngoại mới thuê người làm với một bộ

khóa rất tinh vi. Lúc ấy, nếu Jimmy ra tay cứu đứa bé chẳng khác nào anh tự khai

sự thật về mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc hôn ước bị hủy bỏ. Nhưng sau

phút do dự đó, nghe theo lời đề nghị của Annamen, anh bắt tay vào việc phá bỏ

khóa. Mười phút sau, cánh cửa bật tung đứa bé được cứu thoát, Jimmy thanh thản

về phía cửa nơi thám tử đang đợi. Hành động của Jimmy chứng tỏ anh đã hoàn toàn

lương thiện. Và còn hơn cả lương thiện khi anh ta biết hi sinh hạnh phúc của mình,

cứu lấy đứa nhỏ. Chính tình yêu đã làm cho Jimmy thay đổi điều đó.

Dưới ngòi bút của O’Henry những con người du thủ, du thực hiện lên với

những vẻ đẹp về tâm hồn, họ cũng có những ước mơ những khát vọng. Qua đó còn

thể hiện sự trân trọng của O’Henry đối với những con người ấy.

2.1.3.2. Nam Cao và đề tài người nông dân

Khác với O’Henry, cuộc sống của Nam Cao gắn với cuộc sống ở nông thôn

Việt Nam trước Cách mạng Tháng tám. Dù ông là trí thức nhưng cuộc sống của ông

vẫn gắn liền với cuộc sống lạc hậu ở nông thôn lúc bấy giờ. Một trong những đề tài

tiêu biểu và khác biệt của nhà văn Nam Cao với O’Henry chính là đề tài về nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân. Trong số 39 tác phẩm chúng tôi tiến hành khảo sát có đến 15 tác phẩm ông viết

về người nông dân. Con số đó cho thấy rằng, ông đặc biệt quan tâm đến đối tượng

này trong xã hội. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài Viết về Nam Cao ở Báo

văn nghệ số 18-7-1987 có nhận xét: “Cả cuộc đời người cầm bút của Nam Cao cứ

đau đáu nhìn vào cái nhân cách. Cái sự săn đuổi chính mình và các nhân vật của

mình đầy róng riết cũng chính là sự săn đuổi cái nhân cách của con người ta nói

chung” [4]. Phần lớn nhân vật nông dân của ông là con người ở bậc thang xã hội

cuối cùng. Họ bị hoàn cảnh xã hội tàn phá, bị chà đạp cả về thể xác lẫn nhân phẩm.

Thật đúng như vậy, văn chương Việt Nam có nhiều tác giả viết về tình cảnh

thê thảm của người nông dân như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Mỗi tác phẩm

của họ ta đều thấy được nỗi khổ, sự quằn quại vật lộn trong cái đói, miếng ăn. Với

nhà văn Nam Cao ông không chỉ dừng lại ở đó mà ông còn phát hiện ra quy luật

tha hoá, sự xuống dốc tột cùng nhân phẩm con người. Việc phát hiện ra quy luật

tha hoá ông cũng chỉ ra được nguyên nhân đó là do xã hội thực dân phong kiến đã

đè nén, chèn ép đẩy con người xuống vực thẳm vạch cho họ con đường đi từ lương

thiện đến lưu manh mà không họ con đường trở về thành người lương thiện.

Trong đề tài này, đáng chú ý nhất là các truyện: Chí Phèo; Trẻ con không

được ăn thịt chó; Tư cách mõ; Điếu văn; Một bữa no; Lão Hạc; Một đám cưới; Dì

Hảo; Nửa đêm; Lang Rận…

Một đám cưới là câu chuyện viết về cuộc sống gia đình Dần. Sinh ra trong

cảnh gia đình nghèo khó, từ bé Dần đã phải làm thuê cho nhà địa chủ. Mẹ mất, mới

mười lăm tuổi Dần phải quán xuyến mọi việc trong nhà giúp bố. “Nhưng ông trời

hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống ngày một khó khăn

thêm thóc cao, gạo kém. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn” [12, tr.125]. Khiến

bố Dần phải nhận lời gả con gái cho một nhà cũng nghèo ở xóm bên, còn hai đứa con

nhỏ đem gửi để mình lên rừng để kiếm ăn.Từ đây đã diễn ra một đám cưới chạy đói…

Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cuộc đời cơ cực, nhiều cay

đắng của người nông dân thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Chỉ vì cái đói, vì

muốn giữ trọn số tiền và mảnh vườn cho đứa con trai mà lão chỉ dám ăn củ, ăn khoai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và rồi dần dần củ, khoai cũng hết lão phải tìm đến cái chết bằng cách ăn bả chó. Cái

chết của Lão Hạc để lại trong lòng người đọc đầy tính nhân văn, cũng như phán ánh

đúng thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang đè nặng lên đôi vai của những

người nông dân.

Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những thành công của Nam Cao viết về

đề tài nông dân. Chí Phèo ngật ngưỡng bước lên trang sách, ta ngỡ ngàng nhận ra

đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người. Chí

Phèo sinh ra trong đói nghèo, tủi nhục, cô độc. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là

“thằng cùn hơn cả dân cùng”: không cha không mẹ, không họ hàng thân thích,

không nhà, không cửa, không thước đất cắm dùi. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ

được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”. Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã bị vứt

khỏi lề cuộc sống. Vận mệnh của đứa con hoang này chỉ trông chờ vào sự may mắn

tình cờ, vào lòng chắc ẩn của những kẻ qua đường. Từ khi bị tha hóa Chí Phèo tồn

tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Rồi Chí Phèo chết đi cũng trong sự

tủi nhục cô độc. Có thể nói Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu đai diện cho số phận của

người nông dân Việt Nam bị đẩy vào con đường bần cùng hóa. Ở đó con người còn

bị trà đạp lên nhân phẩm.

Còn biết bao câu chuyện thương tâm về người nông dân bị đầy đọa, nhọc

nhằn xoay quanh cái đói: Trẻ con không được ăn thịt chó, Nghèo, Từ ngày mẹ chết,

Đòn chồng… Viết đề tài người nông dân một lần nữa Nam Cao muốn tố cáo xã hội

thực dân nửa phong kiến chà đạp người nông dân lương thiện gây bao cho người

nông dân.

Như vậy, dù truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry có sự khác nhau về đề

tài. Nhưng ở hai tác giả đều có điểm chung đó là cùng có mối quan tâm đến con

người và ý nghĩa của cuộc sống, họ đều mong muốn cuộc sống đẹp hơn. Vì thể sẽ

có những mối quan tâm đến các chủ đề tương đồng trong sự khác biệt nhất định.

2.2. Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao

2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng

2.2.1.1. Chủ đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Qua những tác phẩm của mình, cả Nam Cao và O’Henry đều thể hiện mối

quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Đó là nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc sống

con người.

Với nhà văn Nam Cao “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ

thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát

ra từ những kiếp lầm than kia” (Giăng sáng). Rõ ràng ta thấy nghệ thuật ở đây bắt

nguồn từ chính cuộc sống con người.

Giăng sáng là câu chuyện về nhân vật Điền, một trí thức nghèo đang thất

nghiệp. Điền ôm ấp một giấc mộng văn chương rất lớn nhưng chưa có điều kiện

biến giấc mộng ấy thành hiện thực. Đã vậy, cuộc sống vật chất túng quẫn hằng

ngày ràng buộc, khiến con người anh trở nên tầm thường bởi những tính toán

vụn vặt, nhỏ nhoi. Tuy thế, ước mơ trở thành văn sĩ nổi tiếng trong anh chưa tắt.

Nhân một đêm trăng sáng, sau bữa cơm rau dưa đạm bạc, Điền mang ghế ra sân

ngồi ngắm trăng lên. Dưới ánh trăng xanh huyền ảo, mọi vật trở nên đẹp đẽ bội

phần, thôi thúc mộng văn chương trong lòng Điền. Anh tự nhủ sẽ viết ra những

tác phẩm lời phải đẹp, ý phải thanh cao, khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ

mộng… người sẽ đọc văn anh sẽ mê văn anh. Các quý bà, quý cô sẽ gửi cho anh

những bức thư tỏ tình sực nức mùi nước hoa đắt tiền và anh sẽ thành văn sĩ nổi

tiếng…

Đôi cánh kì diệu của trí tưởng tượng không biết sẽ đưa Điền bay bổng đến

đâu nếu không có tiếng càu nhàu gắt gỏng của vợ anh, tiếng khóc lóc rên rĩ của con

anh vì đau bụng mà không có thuốc uống. Những âm thanh trần tục ấy kéo anh trở

về với thực tế phũ phàng: vợ yếu, con đau, hết tiền, hết gạo. Vụt cái, trăng mất đẹp.

Điền cúi mặt bẽn lẽn như bị bắt quả tang làm việc xấu… Anh bừng tỉnh nhận ra

rằng tất cả những điều mình mới nghĩ đây thôi chỉ là phù phiếm, vô vị trước thực

tại này: Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối… Tác giả mượn

lời Điền để bày tỏ thái độ phủ định của mình đối với quan điểm nghệ thuật vị nghệ

thuật, ông cho rằng loại văn chương mơ mộng hão huyền cũng giống như ánh trăng

xanh huyền ảo chứa đầy dối lừa bởi ánh trăng làm đẹp cả những cảnh thật ra chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tầm thường, xấu xa. Có biết đâu trong những căn lều nát… biết bao người quằn

quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp người.

Đời thừa cũng là một câu chuyện tương tự. Hộ một nhà văn luôn có suy nghĩ

đúng đắn, nghiêm túc trong nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng một tác phẩm thật

có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm ra cùng thời” thậm chí có thể trao giải Nobel.

Nhưng thực tế cuộc sống lại phũ phàng. Hộ làm quần quật nhưng vẫn không đủ tiền

nuôi sống gia đình. Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực

hiện điều mình ưa thích. Hộ phải viết văn cẩu thả để kiếm tiền, tạo ra những tác

phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn laị đỏ mặt lên, cau mày nghiến răng, vò nát sách mà

mắng mình như một thằng khốn nạn” ngay cả những người có hoài bão, ước mơ lao

động cần cù cuối cùng cũng bị cuộc sống chi phối.

Thể hiện chủ đề nghệ thuật với đời sống con người, O’Henry không để các

nhân vật của mình rơi vào những bi kịch bế tắc như nhân vật của Nam Cao mà ông

thường để nhân vật tiệm cận đến ước mơ, khát vọng đẹp.

Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, hình tượng nghệ thuật được gắn liền

với chiếc là thường xuân cuối cùng. Những họa sĩ trong câu truyện đều mơ ước có

một tác phẩm kiệt xuất và đưa tất cả thoát khỏi cuộc sống nghèo túng. Họ muốn vẽ

vịnh Naples, muốn có tác phẩm để đời. Đó là khát vọng sáng tạo, khát vọng danh

tiếng.

Dù vậy, họ lại chưa từng bắt đầu tạo nên kiệt xuất mà họ mong muốn. Bởi

nghệ sĩ cũng phải lao vào cuộc sống mưu sinh như bao người khác. Họ phải làm

những điều mình không muốn để kiếm tiền như vẽ quảng cáo, vẽ minh họa tạp chí

hay làm người mẫu cho họa sĩ khác vẽ. Nhưng cho đến cuối đời, cụ Berhman cũng

tạo được một tác phẩm kiệt xuất để đời của mình. Từ sự cảm thông cho số phận

cô gái tài năng như Johnsy mà phải chịu đựng những nỗi đau từ bệnh tật, nghèo

túng cũng như chính bản thân ông. Người họa sĩ già Berhman quyết định chống

chọi lại với cơn bão đêm để vẽ lên tường chiếc lá thường xuân đã rụng với mong

muốn kéo dài sự sống, đem lại niềm tin cho cô họa sĩ trẻ Johnsy. Giữa cơn mưa

bão kèm theo gió rét lạnh lẽo, một ông lão đứng trên chiếc thang chỉ với một chiếc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đèn nhỏ và bảng màu, bằng cả tấm lòng của mình ông đã cố gắng vẽ chiếc lá

thường xuân giống thật nhất. Nếu Johnsy phát hiện chiếc lá đó là giả có lẽ cô đã

tuyệt vọng mà chết.

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy, việc sáng tạo nghệ thuật vô cùng khó

khăn. Nhưng với nghị lực và tấm lòng yêu mến, cảm thông dành cho cô gái trẻ, ông

đã hoàn thiện tác phẩm của mình và nó đẹp đến mức trước khi biết về sự ra đi của

cụ Berhman thì không ai biết chiếc lá trên tường kia là giả. Quả thật, nhìn chiếc lá

sống động đó Johnsy được cứu sống và cũng vì nó đó mà cụ Berhman đã không

còn. Dù chỉ là một chiếc lá nhưng nó đã đích thực là một tác phẩm nghệ thuật để

đời của người họa sĩ già. Bằng sự quyết tâm và lòng nhân ái, ông đã tạo nên kiệt tác

này và biến cuộc sống tuyệt vọng của một người trở nên tươi sáng, đầy hi vọng.

Mở đầu truyện ngắn Một sự giúp đỡ của tình yêu là câu: “Khi người ta yêu

nghệ thuật thì không có việc gì khó”. Trong truyện này, O’Henry đã chứng minh

tiền đề này không đúng bằng câu chuyện tình yêu của Joe và Delia. Họ là những

đứa con của nghệ thuật, họ là những người có tài năng thiên bẩm và yêu nghệ thuật.

Nghệ thuật đã đưa họ đến với nhau. Nghệ thuật cho họ động lực để đồng cam cộng

khổ, hi sinh vì nhau. Những tưởng là tình yêu nghệ thuật có thể cho họ tất cả nhưng

cuộc sống không hề dễ dàng như vậy. Họ xuất thân từ gia đình nghèo và ôm theo

mơ ước thành danh mà đi tới New York. Tại đây, họ phải đối mặt với cuộc sống xô

bồ, vật giá đắt đỏ và họ phải chạy theo học phí cao ngất.

Delia nghỉ học để đi dạy kèm cho con gái một vị tướng để Joe tiếp tục được

học. Nhưng thực chất cô làm việc tại xưởng giặt là. Joe mang tiền về nhà nhờ và

nói anh bán được tranh. Sự thật anh làm thợ đốt lò ở cùng một xưởng giặt là với

Delia. Họ chỉ phát hiện ra người kia nói dối khi Delia bị thương ở tay. Đối với người

nghệ sĩ đánh đàn thì đôi tay là cả mạng sống. Cô không lo lắng về điều đó mà chỉ

suy nghĩ làm sao giải thích cho Joe tin rằng mình bị bỏng vì nấu ăn. Họ đều lừa dối

nhau, lừa dối chính bản thân mình bằng “tình yêu nghệ thuật”. Đến cuối cùng, họ

mới nhận ra rằng, chính tình yêu họ dành cho nhau mới khiến họ hi sinh đến vậy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Câu chuyện tạo âm vang trong lòng người đọc với sự ấm áp của tình yêu giữa

Joe là Delia nhưng cũng rơi nước mắt xót xa cho bi kịch của họ. O’Henry yêu nghệ

thuật nhưng ông hiểu được giới hạn của nó. Tình yêu nào cũng phải đứng trước sự

thật nghiệt ngã là con người phải lấp đầy dạ dày, cuộc sống phải có tiền để nuôi bản

thân và mơ ước. Trong tác phẩm này, một lần nữa O’Henry khẳng định mối quan

hệ mật thiết giữa nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thuật không được xa rời cuộc

sống. Nghệ thuật có sức mạnh to lớn nhưng không được mù quáng và tuyệt đối hóa

nó.

2.2.1.2. Chủ đề tình yêu thương và sự cảm thông

Có lẽ mọi nhà văn lớn đề gặp nhau ở một điểm chung: đó là cái nhìn đầy

nhân văn đối với con người dù người đó là ai, họ làm gì. Đọc mỗi tác phẩm của

Nam Cao và O’Henry ta thấy cái nhìn đầy nhân đạo, đầy yêu thương mà mỗi nhà

văn dành cho các nhân vật trong tác phẩm của mình.

Mọi vấn đề của xã hội, mọi số phận con người đều được Nam Cao gắn với

câu chuyện nhân cách trong tình cảm xót thương, trân trọng và sự đòi hỏi của con

người. Tính nhất quán và tầm cao lớn cao của tư tưởng nghệ thuật Nam Cao ở chính

ở chỗ đó.

Nam Cao không phải là người khởi nguồn lấy văn chương để gửi gắm những

triết lí về cuộc đời, về con người, về cách ứng xử của mỗi người nhưng Nam Cao là

người đã kế tục được truyền thống đó của văn chương và nâng nó lên một tầm cao

mới, sâu sắc hơn và toàn diện hơn.

Đọc truyện ngắn Lão Hạc của ông, ta càng thêm khẳng định một cách chắc

chắn và thấm thía điều đó. Trong truyện ngắn Lão Hạc, tình yêu thương và sự cảm

thông của Nam Cao được biểu hiện ở hai phương diện: trực tiếp và gián tiếp qua

những ý nghĩ được phát ra thành lời của nhân vật ông giáo và qua suy nghĩ hành vi,

việc làm của nhân vật lão Hạc. Trước hết, ta tìm hiểu tình yêu thương và sự cảm

thông của Nam Cao qua nhân vật lão Hạc. Để biểu hiện được những triết lí của mình,

Nam Cao đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc biệt: nghèo khổ về vật chất, thiếu thốn

về tình cảm, vừa phải vật lộn để mưu sinh, vừa phải đối mặt với những thách thức,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giằng xé với bao trách nhiệm với bản thân, với con cái, với cuộc đời. Trong hoàn

cảnh như thế, lão Hạc đã xử trí thế nào?

Không phải chỉ đến Lão Hạc, Nam Cao mới tạo tình huống để thử thách nhân

vật của mình, ông đã thực hiện điều này trong một loạt các sáng tác văn chương

khác nhau. Hầu hết các nhân vật của ông đã phải đầu hàng hoàn cảnh, buông xuôi

theo dòng xoáy của cuộc đời, trở nên méo mó, dị dạng cả về thể chất lẫn tâm hồn.

Âu đó cũng là một ngụ ý của Nam Cao đề lên thành những triết lí khác nhau về con

người, về cuộc đời.

Trở lại với nhân vật lão Hạc, hoàn cảnh nghiệt ngã đã không khuất phục được

lão. Cuộc đời càng đầy lên những khó khăn và bất hạnh, thì tâm hồn lão càng được

mài dũa sáng trong thêm, nhân cách của lão càng tỏa rạng hơn. Đỉnh cao của lòng

nhân ái, đức hi sinh, lòng tự trọng, sự cao thượng và vị tha, ý thức trách nhiệm, là

hành động ứng xử đầy dũng cảm của nhân vật: chọn cái chết. Một cái chết bất thình

lình và đau đớn. Nhưng từ cuộc đời và cái chết của lão Hạc, ta cảm nhận được bao

ý nghĩa về cuộc đời.

Suy nghĩ và hành động của lão Hạc chính là những triết lí của Nam Cao về

cuộc đời: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn. Nam Cao đã tạo dựng niềm tin cho

mọi người về một cuộc đời sẽ có thể tốt đẹp lên nếu ai cũng biết sống đẹp như lão

Hạc.

Nam Cao không chỉ đã tạo niềm tin cho mọi người về cuộc đời, ông còn tạo

niềm tin cho mọi người về con người. Con người không thể buông xuôi đầu hàng

hoàn cảnh để đánh mất lương tri và nhân phẩm. Triết lí của lão Hạc là sống nghèo

còn hơn sống hèn, sống nhơ bẩn, thà chết trong còn hơn sống đục, thà chấp nhận

một cuộc đời ngắn ngủi còn hơn sống mà để phiền lụy đến mọi người, sống mà vô

trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời và cả với thế hệ sau. Đó là những triết lí sống

đẹp.

Bên cạnh cách thể hiện triết lí qua việc xây dựng tính cách nhân vật, Nam

Cao còn trực tiếp phát biểu ra những quan điểm, suy nghĩ của mình. Và nhà văn đã

mượn lời ông giáo để nói hộ quan điểm của mình: “Chao ôi! Đối với những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần

tiện, xấu xa, bỉ ổi,… toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương,… Cái

bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất” (Lão

Hạc). Đây là một triết lí khá sâu sắc về con người, về cách nhìn nhận đánh giá về

con người. Nam Cao đã có một phát hiện mới mẻ về con người. Theo Nam Cao

không có con người hoàn toàn thánh thiện, cũng như không có con người hoàn toàn

xấu. Con người là tổng hòa của nhiều mặt đối lập: vừa đẹp đẽ, vừa xấu xa; vừa cao

thượng, vừa tầm thường; vừa vị tha, vừa ích kỉ; vừa đáng thương, vừa đáng giận;

vừa đáng yêu, vừa đáng ghét. Cũng theo quan điểm của Nam Cao, trong những con

người tưởng chừng như chỉ là toàn những thói xấu như gàn dở, ngu ngốc, bần tiện,

xấu xa, bỉ ổi, nếu ta có sự cảm thông, chia sẻ ta vẫn tìm thấy ở họ ánh sáng của

lương tri, ý thức của nhân phẩm, một nét đẹp nào đấy của tâm hồn mà ta cần trân

trọng. Triết lí này đã được Nam Cao khẳng định qua rất nhiều sáng tác của ông.

Triết lí nhân sinh cao đẹp này của Nam Cao xuất phát từ lòng yêu thương và trân

trọng.

Gần giống như Nam Cao, chủ đề tình yêu thương và sự cảm thông được

O’Henry thể hiện rõ qua đề tài tình yêu và tình bạn. Những tấm lòng nhân ái, nhân

cách cao đẹp đôi khi được O’Henry làm nổi bật lên từ không gian sống của nhân

vật. Căn phòng của vợ chồng Joe và Delia chật hẹp và được ví von theo con mắt âm

nhạc của Delia: “Đó là một không gian riêng biệt, trông na ná như một nốt lá giáng

chúc cái đuôi xuống phím dương cầm” (Một sự giúp đỡ của tình yêu). Hay căn

phòng nghèo nàn, tù túng của Dulcie (Một câu chuyện dở dang), nơi mà được coi

là “có đói cũng không ai biết”. Hay như anh chàng Joe thầm yêu có Daisy (Psyche

và nhà chọc trời) anh có một cửa hàng “bằng cỡ lỗ mũi và tựa như cái tổ chim én”.

Song, những con người không gian bé nhỏ, ngột ngạt đó lại có tâm hồn đẹp đẽ,

cao thượng. Những căn buồng chặt hẹp, tù túng ngoài giá trị biểu thị cuộc sống

nghèo khổ của các nhân vật thì nó còn được dùng để khai thác những giá trị nhân

đạo trong tâm hồn con người. Môi trường sống tù hãm khổ cực là thế song không

hề làm biến dạng tâm hồn, biến đổi bản chất tốt đẹp của con người. Dù gần chết,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cận kề cái chết, hay uất ức mà tự vẫn chết họ vẫn luôn giữ vững giá trị, nhân cách,

giữ vững tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng và tình bằng hữu.

Trong truyện ngắn Bên bị, Lizzie khi còn nhỏ bị mẹ cấm ra đường vì sợ học

nhiều điều xấu, cô bé không biết làm gì nên rụt rè đề nghị bố chơi một ván cờ với

mình, nhận lại cái cau mày và yêu cầu hãy ra ngoài chơi, đừng làm phiền bố. Lizzie

trưởng thành, có một vị hôn phu là tay chơi muốn cho cô một bài học vì luôn coi

hắn ta thuộc quyền sở hữu và thói ghen tuông của cô nên đã mời một cô gái khác là

Annie nhảy. Lizzie lúc này với bộ dạng ăn mặc diêm dúa, với mỗi câu nói cô lại

nốc một ly rượu, khi chếnh choáng say cô đã giết Annie, sau đó cô bỏ đi hòa mình

vào dòng sông East. Câu chuyện kết thúc bằng một phiên tòa trên thiên đường,

người bị xét xử là Lizzie nhưng cô được tha bổng và người cần ra hầu tòa cho tội

trạng của cô chính là người cha đã bỏ mặc cô.

O’Henry luôn đề cao, ca ngợi những con người giàu đức hi sinh, chung thủy,

có tấm lòng cao thượng, khát vọng sống vươn lên và lạc quan, yêu đời đồng thời

lên án những cái xấu và cảnh báo để mọi người tránh vấp phải. Chính bởi vậy,

O’Henry cho rằng nghệ thuật truyện ngắn nói riêng và nghệ thuật nói chung cần

phải đem đến cho mọi người một bài học để họ suy ngẫm, đánh thức họ khỏi những

u mê, sai trái như khi Soapy trong Tên cớm và bản thánh ca thức tỉnh khi nghe thấy

tiếng nhạc vọng ra từ nhà thờ. Hầu hết những sáng tác của mình O’Henry đều đem

đến một kết thúc có hậu, bởi ông quan niệm nghệ thuật phải đem đến cho con người

niềm tin vào cuộc sống, thanh lọc tâm hồn.

2.2.1.3. Chủ đề tha hóa

Tha hóa vốn là vấn đề phổ biến trong xã hội có phân chia giai cấp. Chủ đề

tha hóa không phải là vấn đề mới mẻ trong văn học. Cả hai nhà văn Nam Cao và O’

Henry ít nhiều đều đề cập đến vấn đề này. Có lẽ, đọc văn Nam Cao, ta cảm thấy đau

đớn không nguôi trước những số phận người, những con người đang trượt dài trên

con đường của sự tha hóa nhân cách. Hướng ngòi bút vào khám phá chiều sâu cuộc

sống, len vào những ngõ hẻm đường quê để cảm thông với con người, Nam Cao đã

xót xa khi phát hiện ra sự tha hóa con người đang diễn ra khắp nơi. Kiểu con người

tha hóa đó ta gặp trong hình ảnh của Lang Rận, của người cha trong Trẻ con không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ăn thịt khó, của bà cái Đĩ trong Một bữa no…và với Chí Phèo, nó hiện thân trong

nhân vật Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức.

Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu khi hắn bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà tù trở

về làng Vũ Đại. Cái anh chàng Chí hiền lành, chân chất ở tuổi hai mươi thuở xưa

đã không còn nữa. Thay vào đó là một Chí Phèo biến dạng, tha hóa về cả nhân tính

lẫn nhân hình. Trước đây, hắn là một thằng “hiền lành như đất” và cũng ý thức rất

rõ về nhân cách, rất giàu lòng tự trọng. Khi bà Ba bắt hắn bóp đùi, hắn cảm thấy

“nhục hơn là thích” và hắn nghĩ “người ta không thích cái gì người ta khinh”. Hắn

cũng có ước mơ giản dị như bao người về một mái gia đình “Chồng cuốc mướn cày

thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua

dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi, Bá Kiến cùng nhà tù thực dân đã nhào nặn lại

hình hài và nhân cách Chí Phèo trong một bộ dạng khác: dị dạng, méo mó, trở thành

“con quỹ dữ của làng Vũ Đại” - nỗi khiếp sợ của bao người. Dường như, sau bảy

tám năm ở tù về, Chí Phèo đã trượt dài trên đường ray của sự tha hóa: tha hóa nhân

hình, tha hóa nhân tính, tha hóa cả những suy nghĩ. Nhân hình của Chí không còn

là nhân hình của một người bình thường “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì

trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm

gườm trông gớm chết! (...). Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng

với một ông thầy tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!” (Chí

Phèo). Đó là nhân hình của một người dị dạng, không giống người. Xưa kia Chí

cũng là một anh canh điền trẻ, khỏe mạnh, bình thường. Thế nhưng, bây giờ nó là

sản phẩm của sự tha hóa triệt để “Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không

còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao

giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn

ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo” (Chí Phèo). Rõ ràng, Chí đã bị cướp

mất hình hài của một con người. Phải chăng, cái ngoại hình dữ tợn bị tha hóa kia

cũng là sự phản ánh cho đời sống nội tâm, cho phần nhân tính bên trong cũng đã bị

hủy hoại, tha hóa không kém gì cái hình hài bên ngoài? Nhân tính của hắn là nhân

tính của một “con quỹ dữ”. Hắn bây giờ không phải là anh canh điền “hiền lành

như đất” mà “Hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, tác quái cho bao nhiêu dân làng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(...) hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao

nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Cuộc đời của hắn bây giờ là triền miên trong những cơn say, triền miên trong những

cảnh ức hiếp, đâm chém, rạch mặt, ăn vạ... Những suy nghĩ, những ngộ nhận của

hắn cũng phản ánh nội tâm của một con người bị tha hóa hoàn toàn. Không phải Bá

Kiến xảo quyệt, không phải nhà tù thực dân hủy hoại hắn hoàn toàn mà chính hắn

cũng đang từng ngày hủy hoại mình mà không hề hay biết. Hắn vênh vang đắc chí

khi nghĩ rằng “Không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến

bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá

hộ tiên chỉ làng Vũ Ðại” và “hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng

làng này cóc có thằng nào bằng ta !”. Suy nghĩ đó của Chí phản ánh sự tha hóa đến

tận cùng về nhân cách. Bây giờ, hắn sống trong trạng thái mơ hồ, nhòe mờ về thời

gian và cuộc sống “Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao

nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu

hại người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời

mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi” [12, tr.37]. Đối với hắn không còn

khái niệm ngày tháng nữa mà đời là một cơn say dài kéo lê từ ngày này qua ngày

khác. Hắn không còn ý thức bình thường của một con người.

Có thể thấy, nhân vật Chí Phèo là nhân vật điển hình cho mẫu con người tha

hóa trong truyện Nam Cao. Chí tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa suy

nghĩ và mơ hồ về cuộc sống... Thực tế, Chí Phèo là con người nhưng đã tha hóa đến

bên bờ vực ranh giới của cuộc sống con vật. Sự tha hóa đó của nhân vật Nam Cao

phản ánh nỗi đau của cuộc đời, của số phận con người trong xã hội cũ. Dĩ nhiên

không thể đổ lỗi hết cho hoàn cảnh bởi con người có khả năng chống lại hoàn cảnh

nhưng xã hội cũ xấu xa, độc ác, nham hiểm với những con người như Bá Kiến đã

không cho người ta sống cuộc sống như một con người. Xã hội đó đã đẩy người ta

xuống bùn đen, tha hóa hình hài, nhân cách. Thể hiện sự tha hóa của Chí Phèo, trang

văn Nam Cao đã mở ra một bức tranh hiện thực đầy rẫy bất công, u tối. Nó phản

ánh cái nhìn đầy cảm thông và thăm thẳm chiều sâu nhân văn về người nông dân

trong xã hội cũ của nhà văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đó là hình ảnh người bà tội nghiệp, đáng thương trong Một bữa no, chỉ vì

quá đói mà phải lặn lội đến tận nhà bà phó Thụ - nhà mà đứa cháu bà đang đi ở. Đến

là để thăm cháu, nhưng mục đích chính của bà là đi tìm miếng ăn. Hay chỉ vì tính

tham ăn, thèm ăn, thiếu ăn mà người bố trong Trẻ con không biết ăn thịt chó nhẫn

tâm ăn hết phần của vợ con mình, đó là anh cu Lộ trong Tư cách mõ đem đức hi

sinh danh dự, lòng tự trọng của mình để đổi lấy việc được ăn ngon, ăn đủ, ăn không

bỏ sót khi có cơ hội…

Với O’Henry, chủ đề tha hóa được thể hiện qua đề tài đồng tiền, cái ác - cái

thiện. O’Henry đề cập hai mặt “thiên thần và ác quỷ” trong một con người. Điều

này ta thấy hiện lên rõ ràng nhất ở hình tượng “những kẻ lừa đảo cao thượng”. Jeff

Peters- nhà thôi miên, Một sự cải tạo được cứu vãn, Một cơn gió dịu… là những

câu chuyện xuất hiện kẻ lừa đảo. Họ lừa bịp hết người nọ đến người kia đề kiếm

sống. Tuy nhiên, khi đọc tới cuối truyện, độc giả luôn hả hê, thậm chí có đôi lời

khen ngợi những tay lừa đảo này. Bởi lẽ, họ là những “ác quỷ mang tâm hồn thiên

thần”. Jeff Peter đã cùng Andy Tucker cho ông thị trưởng ngu dốt, tham lam - đã

ban hành ra cái lệnh cấm bác sĩ được chữa bệnh để cho Hoskins, anh rể của ông ta

trở thành bác sĩ duy nhất - một vố đau đớn (Jeff Peter - nhà thôi miên).

Parleyvoo Pickens và Buckingham Skinner (Một cơn gió dịu) cùng đồng

bọn dựng nên một ngân hàng và lừa người dân đến mua cổ phiếu. Khi họ phát hiện

ra nạn nhân của mình là bà già ốm yếu, chú bé bán báo, những cô gái công nhân

nhà máy… đã dành số tiền tích góp cả năm trời để mua cổ phiếu, Pikens và Buck

đã lấy số tiền kiếm được và trả lại cho tất cả nạn nhân nghèo khổ. Họ giao số tiền

còn lại cho tay nhà báo và chạy trốn với đôi bàn tay trắng, cùng bắt đầu lại sự

nghiệp bán hàng rong. Hoặc như Jimmy Valentine (Một sự cải tạo được cứu vãn)

đã trút bỏ công sức rũ bỏ thân thế là một kẻ phá két nổi tiếng trở thành Ralph

D.Spencer ông chủ cửa hàng giày để xứng đôi với tình yêu của nàng Annabel.

Đúng lúc tưởng như hắn có thể xóa bỏ hoàn toàn quá khứ thì hắn phải phá két để

cứu một bé gái bị nhốt trong đó bằng ngón nghề quen thuộc. Cũng từ giây phút

đó, Spencer đã biến mất, Jimmy Valentine chuyên phá két hiện nguyên hình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Truyện của O’Henry là như thế. Những người vì hoàn cảnh phải hành động trái

với pháp lý nhưng trong sâu thẳm vẫn ẩn chứa bản chất lương thiện.

Trong Buồng tầng thượng, để có chỗ trú ngụ rẻ tiền, cô gái trẻ, nghèo và thất

nghiệp Leeson đã phải chọn căn buồng với giá 2 đôla: “Bốn bề tường trơ trụi như

ép lấy bạn chẳng khác gì những tấm ván quan tài, và khi ngước mắt nhìn lên, cảm

giác như mình ở đáy giếng”. Cầu thang thì “tối như địa ngục”, một căn hầm có chút

ánh sáng lờ mờ, “tối như ngục âm ti”. Nó chật chội, tối tăm, hôi hám và khi chui

vào phòng thì có cảm giác chui vào quan tài hay thùng phuy. Hằng đêm, sau những

ngày dài đi xin việc và bị từ chối, Lixơn hướng về ô cửa sổ nóc buồng để ngắm

những ngôi sao mà cô đã đặt tên cho chúng. Tuy nhiên, cô luôn lạc quan và yêu đời.

Những người hàng xóm của cô đều yên mến cô. Lixơn không hề bộc lộ sự khó khăn

mà cô gặp phải trước khi trở về căn phòng của mình. Mọi người chỉ biết cô không

xin được việc và không có gì để ăn khi cô ngất, được bác sĩ đưa đi.

Một câu chuyện dở dang cũng diễn ra trong không gian của phòng trọ rẻ tiền,

ở tầng bốn, nơi Dulcie phải trả hai đôla một tuần. Căn phòng ở phía sau trong một

tòa nhà mặt trước lát đá nâu ở khu West Side, khu phố nghèo của New York. Trong

căn phòng trọ ấy, để tồn tại, Dulcie nấu những bữa điểm tâm mười xu, bữa tối một

đôla năm xu trong tổng số sáu đôla kiếm được mỗi tuần bằng cái bếp hơi được đậy

kín bằng vữa lỏng mà để cậy miệng bếp ngón tay cô gái đã phải đỏ lên và bị toét

ra… Cô gần như đã buông xuôi bản thân mình khi được Piggy mời đi ăn. Dulice là

nhân vật O’Henry gửi gắm vào đó sự thức tỉnh, sự kiềm chế bản thân trước cám dỗ

của đồng tiền, của những bữa tiệc xa hoa.

O’Henry thường nhấn mạnh đến sự tự đấu tranh chống lại sự tha hóa của con

người. Ví dụ, nhân vật Della trong truyện Món quà của các thầy pháp. Dù chỉ có

“một đôla tám hào bảy xu”, Della bán mái tóc đáng tự hào của mình để có tiền mua

quà giáng sinh chứ không bán đi nhân phẩm. Nhân vật Dulcie suýt nữa thì mờ mắt

sa ngã bởi một bữa ăn thịnh soạn nhưng may thay kịp thời được cảnh tỉnh. Trong

truyện ngắn của O’Henry, những con người bị đồng tiền chi phối một cách mù

quáng cũng không có được một kết cục tốt. Ví dụ viên tổng thống Miraflores bỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trốn cùng tiền ngân khố nhà nước (Bị bắt) hay thiếu tá Wentworth Caswell cướp

tiền của vợ từng đồng và bỏ mặc bà thiếu ăn (Câu chuyện tỉnh lẻ) đều có kết cục

không mấy tốt đẹp, thậm chí phải trả giá bằng mạng sống. Phải chăng O’Henry

muốn dùng những cái kết có hậu như cổ tích để gieo mầm cho sự hướng thiện, khơi

gọi mầm hạnh phúc được trồng từ hạt giống lương thiện?

2.2.2. Những chủ đề khác biệt

2.2.2.1. Nam Cao và chủ đề đấu tranh giữ nhân phẩm

Chủ đề này được đề cập trong nhiều tác phẩm của Nam Cao: Đời thừa, Lão

Hạc, Một bữa no, Nghèo, Những truyện không muốn viết… Hầu hết các nhân vật trong

truyện luôn phải tự đối diện với chính mình và nhà văn miêu tả cuộc đấu tranh khó

khăn đó để đề cao nhân phẩm của mỗi con người.

Trong tác phẩm Đời thừa, Hộ là một nhân vật giàu lòng nhân ái, luôn coi trọng

tình yêu thương đồng loại. Theo anh, con người chân chính phải là con người có tình

yêu thương đồng loại; mà “đồng loại” gần gũi nhất chính là vợ và con. Đối với Hộ,

“không thể bỏ lòng thương”, bởi vì anh “là con người, chứ không phải là quái vật”.

Như vậy, trong quan niệm của Hộ, tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt con người và con

vật là tình thương. Chỉ khi nào có tình thương mới đủ tư cách được gọi là con người.

Anh quan niệm: “kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng

ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

Đấy không phải chỉ là một ý nghĩ suông, Hộ đã thực sự sống với triết lý ấy.

Trước cảnh ngộ đáng thương của Từ - một người phụ nữ bị người tình phụ bạc, bỏ

rơi cùng với một đứa con mới đẻ, và một bà mẹ già mù “quanh năm nay ốm mai

đau, mà Từ vẫn phải nuôi” , “Hộ đã cúi xuống nỗi đau của Từ, nhận nàng làm vợ,

"nuôi Từ, nuôi mẹ già con Đại cho Từ”… Lòng thương người tất nhiên đòi hỏi phải

nỗ lực. Hộ phải lo cái ăn cái mặc cho một gia đình đông con. Điều này buộc Hộ

phải đứng trước một sự lựa chọn thật khắc nghiệt: hoặc bỏ mặc vợ con để chuyên

chú vào nghiệp văn chương hoặc phải hi sinh sự nghiệp văn chương để nuôi sống

vợ con. Ở Hộ, con người chân chính cao thượng đã chiến thắng. Anh đã hi sinh nghệ

thuật, nói rộng ra là hi sinh cuộc đời mình vì tình thương, vì con người. Còn gì đau

đớn hơn đối với một người trí thức có hoài bão lớn, khao khát sống chói lọi, mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phải chấp nhận một cuộc đời vô ích, vô nghĩa. Nhưng đó lại chính là vẻ đẹp của

nhân vật Hộ với tư cách là một con người và qua nhân vật Hộ thấy được cội nguồn

của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.

Đọc truyện ngắn Lão Hạc ta lại cảm nhận được một tâm hồn và tình yêu tha

thiết, niềm tin và nhân cách cao thượng của người nông dân già nua, nghèo hèn phải

tìm đến cái chết. Cái chết của Lão Hạc không đơn giản là nghèo đói mà ở đây Nam

Cao đã khơi vào “luồng chưa ai khơi” trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách

nhiệm, lòng yêu thương nhân ái, sự hi sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh

vật lộn với cái chết. Lão chết là để bảo toàn cái danh dự và nhân cách, để giữ trọn

tình yêu cho con, để ra đi một cách thanh thản sau những gửi gắm về mảnh vườn,

số tiền cho con cưới vợ, xa hơn là tiền lo ma chay cho lão. Chính sự chất phác lương

thiện đã giúp lão có hành động đầy tự trọng ấy, lão không muốn liên lụy tới ai mà

chỉ chịu khổ một mình.

Khác với hai tác phẩm trên, Một bữa no là hình ảnh xót thương của bà cụ

co ro trước cổng của chủ nhà nơi đứa cháu gái bà làm. Càng xót thương hơn khi

cái giọng điệu lạnh người, những lời buộc tội với mục đích đuổi bà cụ đi. Nhưng

bà vẫn ở lại ăn một bữa cơm. Một bữa cơm dưới sư coi thường của cả chủ lẫn tớ.

Và bữa ăn đó cũng là bữa ăn cuối cùng của bà, có thể là do một bữa no, cũng có

thể là do đói khổ cả cuộc đời… Mặc dù bà lão trong câu truyện không thắng được

trong cuộc chiến với chính mình nhưng nhà văn vẫn muốn con người phải ý thức

về nhân phẩm.

Viết về chủ đề này nhà văn đang muốn ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp về

con người. Dù họ là ai, thuộc tầng lớp lứa tuối nào thì bên trong con người của họ

vẫn ẩn chứa những điều tối đẹp. Đó là điều mà nhà văn muốn hướng tới.

2.2.2.2. O’Henry và chủ đề ngợi ca thiên nhiên

O’Henry không đi vào những bi kịch tinh thần như Nam Cao. Ông hướng

ngòi bút vào những vấn đề nhẹ nhàng hơn. Ông chú tâm vào thể hiện cái đẹp của

cuộc sống xung quanh con người, đề cao thiên nhiên. Thái độ trân trọng, ca ngợi vẻ

đẹp thiên nhiên trong tác phẩm của ông rất rõ. O’Henry say mê những trang miêu

tả thiên nhiên nước Mĩ với tất cả sự vẫy chào, mời gọi, đong đưa của nó: “Những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tấm cọ đang phất phơ trong gió như chào mời chúng ta hãy vui chơi hoan hỉ” (Bị

bắt), hay đó là cảnh: “Cây xương rồng với những chiếc lá dài thõng liên tục đong

đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như đang ra dấu hiệu gì đó”

(Cây xương rồng).

Dưới cái nhìn tinh tế của O’Henry, cảnh vật đa phần hiện lên trong trạng thái

động nhưng không phải là cái động dữ dội, mãnh liệt mà ta thường thấy trong một số

trang miêu tả thiên nhiên của các nhà văn Mĩ ưa cảm giác mạnh, mà nó chỉ là những

chuyển động nhẹ nhàng, ở đó vạn vật có sự hài hòa với nhau: “những tấm cọ thì phất

phơ trong gió, những lá cây xương rồng thì liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất,

còn con người thì nhìn thấy ở trong thiên nhiên một sự giao cảm, dường như nó đang

mời chào đang ra dấu hiệu gì đó cho ta”(Cây xương rồng).

O’Henry cho rằng thờ ơ, dửng dưng trước vẻ đẹp là một thứ bệnh gặm nhấm

làm khô cứng hủy hoại tâm hồn con người.Vì vậy, ông đã không bỏ qua bất kì một

vẻ đẹp nào của thiên nhiên cho dù đó chỉ là “chiếc lá vàng rơi - tấm danh thiếp của

thần rét” hay “bầu trời ru ngủ của miền Nam nước Mĩ”, “những tia nắng đầu tiên

của mặt trời nhuốm vàng các tòa nhà cao ngất dẹt như một con dao rọc giấy ở phía

tây công viên” (Tên cớm và bản thánh ca), thậm chí là “con đường trắng xóa trong

ánh trăng” (Hoàng tử đồng xanh), “dòng nước trong vắt từ ngọn đồi chảy róc rách

xuống nền đá” (Ngôi giáo đường với cối xay nước). Những chi tiết rất nhỏ ấy của

thiên nhiên nhiều khi con người hay vô tình lãng quên đi trong cuộc sống mưu sinh

đầy vội vàng, lo toan nhưng với sự mẫn cảm của một nhà văn như O’Henry, tất cả

đều được ghi lại và trở thành khoảnh khắc đáng nhớ.

Thiên nhiên trong truyện ngắn của O’Henry không chỉ tràn ngập màu: màu

vàng của những chiếc lá rơi cuối thu, của những tia nắng mặt trời đầu tiên, màu

trắng xóa của con đường trong đêm trăng, màu trong veo của dòng nước từ ngọn

đồi chảy xuống mà còn trở nên hữu tình hơn khi nó chứa trong lòng mùi thơm của

hương cỏ đồng nội, âm thanh của các loài chim. Đó là tiếng líu ríu của bầy sẻ mơ

màng dưới các mái hiên, là tiếng hót của chim bách thanh lảnh lót cất lên một bản

tình ca. Những âm thanh ấy không làm cho không gian trở nên buồn thảm, u sầu mà

trái lại chúng làm cho cảnh vật trở nên quyến rũ, mơ màng hơn. “Cảnh đêm trước

giáng sinh có một chút gì giá lạnh trong không khí xa xôi lăn tăn như nước khoáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lại được ướp thoang thoảng của mùi hoa cỏ đồng nội” (Món quà giáng sinh đồng

nội). Sự miêu tả thật là tinh tế. Không khí là cái mà ta hít thở từng ngày. Nó vốn vô

hình, nhưng qua ngòi bút của nhà văn nó hiện lên thật hữu hình, trong trẻo đến lạ

thường.

Thiên nhiên trong truyện ngắn O.Henry còn gây ấn tượng với chúng ta bởi

đường nét tạo hình, đó là “vẻ đẹp nghiêng nghiêng của dãy rừng thông trong những

buổi chiều mơ màng vàng rực trong không khí u tịch huyền bí” (Ngôi giáo đường với

cối xay nước). Khi đứng trước một thiên nhiên nên thơ bình dị như vậy, bạn đọc luôn

có cảm giác bình yên, nhẹ nhàng, êm dịu. Đó phải chăng là những khoái cảm thẩm

mĩ mà nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã nhắc tới khi bàn về chất thơ trong văn xuôi,

hay là cảm xúc của một ai đó đã từng gọi tên: “khoái cảm khi đọc một truyện ngắn

đầy chất thơ thú vị, sẽ giống như những giây phút tuyệt diệu của một cặp tình nhân

sánh bước bên nhau” [www.qdnd.vn. Đời sống Văn hóa] [24].

Mặc dù xuất hiện không nhiều, và tồn tại trong tác phẩm chỉ bằng những đoạn

văn ngắn nhưng thiên nhiên đã góp phần làm nên trong truyện ngắn O’Henry một

sắc thái trong trẻo, thơ mộng. Điều này đã tô đậm thêm cái hay cho những sáng tác

của O’Henry và được cả thế giới mệnh danh là người viết truyện ngắn có “duyên”

nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết chương 2

Nam Cao và O’Henry là những nhà văn có sự cảm nhận tinh tế, vốn sống

phong phú. Cả Nam Cao và O’Henry đã đưa vào tác phẩm của mình hệ thống đề

tài, chủ đề vô cùng đa dạng. Hệ thống đề tài ấy không chỉ là nội dung phản ánh thế

giới xung quanh mà còn bộc lộ quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Những đề tài mà Nam Cao và O’Henry đề cập tới đều là những đề tài tiêu

biểu, phổ biến trong văn học, song qua ngòi bút của hai nhà văn, chúng trở nên

phong phú, sâu sắc. Cùng có những mối quan tâm chung về đời sống của giới trí

thức, cả hai nhà văn đều nhìn thấy ở đề tài này những mối quan hệ đời sống đa dạng,

mối cảm thông sâu sắc. Những truyện của Nam Cao và O’Henry đề cao giá trị đạo

đức con người. Các nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao thường rơi vào những bi

kịch mà chủ yếu là bi kịch tinh thần. Còn các tác phẩm của O’Henry các nhân vật

luôn tìm được lối thoát khiến người đọc vui vẻ khi đọc kết truyện. Tuy nhiên dù

kiểu nhân vật nào thì người đọc phải xót xa, và làm cho độc giả phải suy nghĩ rút ra

bài học cho bản thân. Điều này giúp con người có ý chí, nghị lực vươn lên, nhìn

cuộc sống một cách lạc quan yêu đời.

Viết về chủ đề của truyện: cả Nam Cao và O’Henry đề có sự gặp gỡ trong

việc hướng đến những điều tốt đẹp của con người đó là tình yêu thương sự cảm

thông, bên cạnh đó Nam Cao còn đưa đến chủ đề đấu tranh để giữ gìn nhân phẩm

điều này đã phản ánh thực tại xã hội Việt nam lúc bấy giờ. O’Henry là dành sự quan

tâm cho thiên nhiên nhẹ nhàng mà tinh tế.

Trong mỗi câu chuyện cả Nam Cao và O’Henry cất giấu nhiều đề tài khác

nhau, đồng nghĩa với việc chủ đề tư tưởng mà hai nhà văn đem đến đem đến không

chỉ có một và độc giả có thể rút ra nhiều bài học từ đó trở thành người hoàn thiện

cả về chân, thiện, mĩ. Với mỗi nhà văn nghệ thuật không chỉ dừng lại ở yếu tố

thẩm mĩ, chỉ vì cái đẹp mà nghệ thuật chỉ đúng nghĩa khi nó phục vụ con người,

tác động đến xã hội chứ không phải con người phục vụ cho nghệ thuật, chức năng

của nghệ thuật là thức tỉnh con người và thanh lọc tâm hồn.

.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY

TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry

3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện

Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện biến cố, hành động trong tác

phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong

một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Thông

qua cốt truyện, nhà văn vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn

tình cảm và sự đánh giá chủ quan của họ đối với đời sống. Vì vậy, cùng xuất phát từ

một xung đột xã hội giống nhau. Mỗi nhà văn sẽ xây dựng một cốt truyện của riêng

mình nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng phong cách nghệ thuật cá tính

sáng tạo của nhà văn đối với mỗi cuộc sống.

Nhắc đến cốt truyện trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry, ta thấy ở

họ có sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện. Đó là những cốt truyện đơn giản

xoay quanh những vấn đề của cuộc sống thường ngày nhưng lại để lại những ý nghĩa

vô cùng to lớn rút ra từ câu chuyện.

Vũ Khắc Chương nhận định: Truyện ngắn Nam Cao sớm được đánh giá là

cốt truyện ít sự kiện, cốt truyện không gay cấn. Tác giả Vũ Thăng trong bài Một vài

đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao (2000) cho rằng: “Đa số truyện Nam Cao có kết

cấu mở, truyện không có cốt truyện, từng quãng đời nhân vật với bao thăng trầm được

chêm vào tác phẩm, đẩy tình huống truyện vận động theo một xu thế mà mỗi một lần

có thay đổi lại là một điểm nhấn, một bước ngoặt quyết định xu hướng tác phẩm và

tính cách nhân vật” [20, tr.123].

Trong cuốn Nhà văn Việt Nam tập 2 (1983), Hà Minh Đức đã chỉ ra đặc điểm

cốt truyện truyện ngắn Nam Cao: “Ở loại truyện này Nam Cao không chú ý xây dựng

một cốt truyện hoàn chỉnh, có đầu có cuối, sự kiện và hành động phát triển theo một

mạch khép kín. Nam Cao chú ý đến những trạng thái tâm lý do mọi cảnh ngộ tạo nên,

trạng thái tâm lý mang ý nghĩa tiêu biểu điển hình cho một loại tính cách và hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cảnh xã hội từ trạng thái tâm lý ấy, một đường dây cốt truyện được hình thành phù

hợp. Cười; Nước mắt; Giăng sáng; Mua nhà; Quên điều độ; Cái mặt không chơi

được… được xây dựng theo hướng đó” [11, tr.158].

Quả thực, cốt truyện của Nam Cao có cách tổ chức đặc biệt. Ta có thể kể đến

một số tác phẩm như: Nghèo; Con mèo; Đòn chồng; Đôi móng giò; Đón khách; Quái

dị ; Làm tổ; Một bữa no; Rửa đòn; Rình trộm; Lang rận…Các tác phẩm này chủ yếu

viết về người nông dân xoay quanh cái nghèo đói của họ. Có truyện nói đến sự sa

sút mất dần nhân phẩm do cái nghèo, cái đói mang lại, có truyện lại nêu lên những

mâu thuẫn đời thường diễn ra hằng ngày của người nông dân… Tất cả vấn đề đó

đều được xây dựng bằng một cốt truyện sự kiện đơn giản nhưng không kém phần

hấp dẫn.

Một bữa no là cái chết đáng thương của bà lão chết vì bội thực. Vì đói quá

hơn nữa lại già yếu nên bà đã phải đi ăn xin, chịu sự khinh bỉ, dè bỉu của bà phó

Thụ. Bữa cơm no nhất mà bà được ăn cũng chính là bữa cơm cuối cùng trong cuộc

đời bà.

Đòn chồng kể về một câu chuyện chị vợ ăn lường bánh giày ngoài chợ, bị

người bán hàng bóp cổ vạch mặt ngay tại chợ. Đỉnh điểm của câu chuyện chính

là trận đòn nên thân của anh chồng muốn trị tội chị vợ. Và mặc dù bị đánh nhưng

chị ta vẫn cố ăn hết nồi cháo trai. Có lẽ cái đói ở đây đã khiến cho người ta mất

nhân cách.

Nghèo là tác phẩm thể hiện tình huống túng quẫn của con người khi anh đĩ

Chuột ăn cháo cám của mấy đứa con, là người cha phải thắt cổ tự tử thật đáng

thương. Trong khi đó tiếng đòi nợ của bà Huyên còn đang văng vẳng ngoài đầu ngõ

trong những trang cuối truyện. Như vậy, cái đói dường như đã khiến cho con người

mất dần đi nhân cách của mình và Nam Cao đã khéo léo đưa chúng vào trong tác

phẩm để nói lên thực trạng đau lòng của người nông dân.

Cốt truyện Đời thừa khá đơn giản. Truyện diễn ra trong một không gian chật

hẹp: không gian gia đình. Vì nghèo đói nên hai vợ chồng thường xuyên xảy ra những

va chạm, nhưng không có mâu thuẫn gay gắt, và gây ra biến cố gì lớn. Mâu thuẫn

là trong lòng nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ngoài ra, trong truyện ngắn của Nam Cao cũng nói nhiều đến sự kiện đời

thường, những thói hư, tật xấu của người nông dân ở làng quê. Con mèo là cuộc

tranh cãi giữa đôi vợ chồng về một lý do hết sức đơn giản. Những mâu thuẫn khá

căng thẳng liên tục được tăng lên và đỉnh điểm là những trận đòn ầm ĩ. Nhưng kết

thúc truyện tất cả đều được hóa giải một cách tự nhiên. Rình trộm cũng là câu truyện

có cốt truyện đơn giản kể về việc rình trộm của anh chồng trẻ khi nhà bị mất chuối.

Nhưng trộm thì không bắt được, anh còn bị nghi ngờ là câu trộm cá,vì vậy nhà anh

bị khoét vách lần nữa.

Hầu hết truyện ngắn kể trên đều giống nhau ở chỗ cốt truyện đơn giản. Nam

Cao không chú tâm xây dựng những sự kiện ly kì mà ông thường viết về những vấn

đề của cuộc sống thường ngày. Song, từ những chuyện bình thường trong sinh hoạt

hàng ngày ấy nhà văn đã đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh to lớn, sâu

sắc. Qua những trang viết ấy ta thấy rằng ông vẫn luôn trăn trở về cuộc sống tối

tăm, cùng cực của người dân ở chốn nông thôn.

O’Henry cũng vậy, trong Giáo trình văn học phương Tây, Lê Huy Bắc nhận

xét truyện ngắn của O’Henry hầu hết dễ đọc và lôi cuốn độc giả. Cốt truyện O’Henry

là cốt truyện truyền thống, đơn giản và hoàn chỉnh. “Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu

trần thuật, đối thoại… đều có thể được xem như là một trong khuôn mẫu của thể loại

truyện ngắn thể kỉ XIX” [3, tr.171]. Nhận xét rất chính xác.

Với vốn sống, sự từng trải, khả năng quan sát tinh tế mà ít nhà văn nào có

được và sức tưởng tượng phong phú, hư cấu tuyệt vời đã giúp ông tái hiện lại hiện

thực cuộc sống một cách đa dạng, hấp dẫn. Cách lựa chọn ít sự kiện và làm nổi

bật lên mâu thuẫn, sự trùng hợp để dẫn tới kết thúc bất ngờ là điểm đặc sắc trong

truyện ngắn O’Henry. Cốt truyện trong các sáng tác của ông thường đơn giản tuy

nhiên lại biến hóa linh hoạt, hấp dẫn người đọc khiến phải đọc từ đầu đến cuối tác

phẩm...

Truyện ngắn Hai mươi năm sau chỉ có sự kiện về hai người bạn hẹn gặp nhau

sau hai mươi năm. Khi gặp lại, một người là cảnh sát còn người kia là tội phạm.

Tương tự, tác phẩm Những mẩu bánh mì kiến hiệu có cốt truyện đơn giản, kể về

một nữ chủ cửa hàng bánh đã tứ tuần thích một họa sĩ trung tuổi luôn chỉ mua hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chiếc bánh mì đã khô. Vì tưởng người họa sĩ này nghèo chỉ đủ tiền ăn như vậy nên

bà đã lén cho vào hai chiếc bánh mì của ông lát bơ thật to bà đã làm hỏng bản vẽ

của ông họa sĩ.

Chúng ta có thể tóm tắt bất kỳ một tác phẩm nào đó của O’Henry bằng một

vài câu ngắn gọn bởi cốt truyện đơn giản, ý định của tác giả đã bộc lộ ngay từ đầu.

Tuy nhiên, các sáng tác của ông vô cùng hoàn chỉnh từ mở đầu cho tới kết thúc, các

chi tiết truyện liên kết với nhau rất chặt chẽ, cái trước làm nảy sinh cái sau.

Cốt truyện theo kiểu cổ điển và đầy đủ năm phần “mở nút - thắt nút - phát

triển - đỉnh điểm - kết thúc”. Với phương châm “giấu kĩ, bày nhanh”, O’Henry mở

ra cho người đọc một cái kết có hậu, khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn. Truyện

ngắn Căn buồng có sẵn đồ cho thuê của O’Henry sử dụng cốt truyện truyền thống.

Phẩn mở đầu trình bày các trạng thái, quan hệ của truyện. Tình huống truyện là đoàn

nghệ thuật nghèo không có một chỗ ở cố định và một thanh niên đi tìm người yêu

với cái túi xách lép kẹp đến thuê nhà ở khu West Side. Tiếp theo là việc anh thanh

niên cảm thấy hình bóng người yêu mình trong căn phòng anh đang ở. Phần phát

triển của truyện là anh thanh niên chạy đi hỏi bà chủ nhà về người yêu của mình

nhưng không được câu trả lời như ý. Phần đỉnh điểm của truyện là lúc anh thanh

niên quá tuyệt vọng nên đã quyết định tự tử. Phần kết của truyện chính là cảnh hai

bà chủ nhà trọ nói chuyện với nhau về cô gái đã từng thuê phòng anh thanh niên

đang ở, cô đã tự tử bằng khí ga vào tuần trước.

Trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng có thể tóm lược theo các bước sau: Trình

bày tình huống: tại một khu nhà trọ nghệ sĩ có một cô họa sĩ trẻ bị viêm phổi đang

nằm đợi chết. Phát triển: sức khỏe Johnsy càng yếu dần. Thắt nút: cô gái phó mặc

cuộc sống cho chiếc lá thường xuân đang rụng. Đỉnh điểm: chỉ còn một chiếc lá trên

tường, khi chiếc lá ấy rơi thì sự sống của Johnsy cũng chấm dứt. Kết thúc: chiếc lá

không rơi, Johnsy tìm lại được niềm tin. Kết thúc bất ngờ, có hậu thể hiện niềm tin

vào cuộc sống của Johnsy, cũng như ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.

O’Henry đã đánh thức bản nguyên của con người. Niềm tin, hi vọng đều tiềm ẩn

trong chúng ta, điều quan trọng là chúng ta biết cách thức tỉnh nó để hướng đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những giá trị tốt đẹp. Johny nhờ ý chí, nhờ nghị lực vươn lên mà cô đã thoát khỏi

lưỡi hái của tử thần.

Truyện ngắn O’Henry có cốt truyện không quá rắc rối, yêu cầu người đọc

phải có vốn hiểu biết nhất định và suy ngẫm quá nhiều để hiểu được ý đồ ẩn chứa

trong tác phẩm như một số nhà văn khác. Ông luôn đem lại những câu chuyện dễ

đọc, dễ hiểu. Tuy cốt truyện của ông đơn giản nhưng lại được khai thác ở những

khía cạnh ít ai để ý tới và quan sát thấy. Cái độc đáo chính là ông luôn tạo tình

huống nằm ngoài dự định của người đọc ở cuối truyện. Độc giả bị dẫn dắt vào những

tình huống bất ngờ và vỡ òa, sung sướng với cái kết có hậu như cổ tích của ông.

Truyện ngắn O’Henry là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh về mặt cốt truyện.

Người đọc có thể hiểu hết mọi thứ, thấu được ý nghĩa và dụng ý của ông, đồng thời

cảm nhận được chiều sâu của cuộc sống.

Qua cách xây dựng cốt truyện đơn giản, O’Henry đã thể hiện quan niệm của

mình đối với nghệ thuật truyện ngắn. Nghệ thuật không cần phải là những tác phẩm

đồ sộ mà là những tác phẩm ngắn gọn. Yếu tố đơn giản làm nên sự thành công.

O’Henry không dụng tâm xây dựng những tác phẩm lớn. Ông cho rằng dù nhỏ

nhưng giống như viên thuốc đắng bọc đường. Quan trọng ý nghĩa mà tác phẩm nghệ

thuật đó đem lại là niềm tin, khơi dậy những điều tốt đẹp ở con người, đó chính là

nghệ thuật chân chính.

3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện

Cả Nam Cao và O’Henry đều rất thành công ở thể loại truyện ngắn. Trong

truyện ngắn cốt truyện là vô cùng quan trọng. Trong đó đặc biệt lưu ý đến việc lựa

chọn tình huống truyện và xây dựng cốt truyện. Nam Cao và O’Henry bên cạnh

những điểm tương đồng trong việc xây dựng cốt truyện thì mỗi nhà văn lại có cách

xây dựng cốt truyện riêng biệt tạo nên nét độc đáo trong tác phẩm cũng như phong

cách riêng của mỗi nhà văn.

Điểm khác biệt đầu tiên trong việc xây dựng cốt truyện đó chính là cách lựa

chọn và xây dựng tình huống truyện.

Trong bài viết Một vài đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao (1998), Phạm

Quang Long cho rằng: “Một trong những đặc điểm nổi bật của truyện Nam Cao là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ông đã sử dụng rất tài tình cả một hệ thống các tình huống truyện dưới dạng tình

huống nhận thức lựa chọn gắn chặt với tình huống tâm lý và trên cơ sở miêu tả, lý

giải mọi khía cạnh phong phú, phức tạp của quá trình này mà đi sâu vào thế giới

tâm lý con người, vào những đối thoại tư tưởng giữa nhà văn với người đọc không

phải dưới dạng triết lý trừu tượng mà những tư tưởng triết lý, những quan niệm đạo

đức, nhân sinh ấy được cảm nhận từ hệ thống hình tượng, từ những rung động thẩm

mĩ” [17, tr.216]. Ý kiến này khá xác đáng. Tác giả đã chỉ ra những loại tình huống

tiêu biểu trong truyện ngắn Nam Cao.

Nam Cao xây dựng nhiều kiểu tình huống khác nhau trong truyện ngắn của

mình. Hầu hết các tình huống của ông đưa ra trong truyện luôn hấp dẫn bạn đọc.

Các tình huống truyện ông đều để nhân vật bộc lộ được tính cách, tâm trạng của

mình một cách rõ ràng. Chính điều này đã tạo nên sự thành công trong truyện ngắn

của ông.

Trong truyện ngắn của Nam Cao chúng tối có thể điểm qua một vài dạng tình

huống tiêu biểu:

Tình huống kịch: đó là tình huống bao hàm các xung đột diễn ra trong đời

sống mang tính kịch cao. Ở đó, sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay gắt, bị

dồn nén trong một không gian thời gian và hành động theo quy tắc “tam duy nhất”

của kịch. Trong sự va chạm ấy nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét

nhất. Có thể kể đến những truyện thuộc kiểu tình huống này như: Con mèo; Đòn

chồng; Thôi đi về; Rình trộm… Ở những truyện này, tình huống đều xoay quanh

những câu truyện gia đình.

Trong truyện Con mèo, tình huống bắt đầu từ truyện con mèo có ý định ăn

vụng, nhưng đó chỉ là mở đầu cho mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Cu phát sinh. Kịch

tính bắt đầu khi xuất hiện mâu thuẫn vợ chồng họ chửi bới nhau. Nhưng chỉ đến

đêm mâu thuẫn lại tan biến. Họ lại làm hòa. Tình huống trong truyện đơn giản diễn

ra nhanh dữ dội nhưng rồi cũng tan biến rất nhanh.

Ở truyện Đòn chồng, tình huống truyện bắt nguồn từ việc chị vợ ăn lường

bánh dầy ngoài chợ. Chị ta bị những người bán bánh ngoài chợ đánh. Đỉnh điểm là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

việc anh chồng cột vợ vào cột nhà và đánh. Anh cảm thấy thật nhục nhã khi có một

người vợ ăn gian. Cô vợ đau đớn, thét gào, van lậy nhưng khi vừa được cởi trói thì

lại sà ngay xuống ăn sạch nồi cháo.

Kiểu tình huống thứ 2 là tình huống tâm trạng. Đó là kiểu tình huống với

mục đích làm nổi bật tâm trạng và suy nghĩ nhân vật. Nhà văn Nguyễn Minh Châu

cho rằng: Có những nhà văn lại cố tình đưa nhân vật của mình vào những va chạm

bình thường hằng ngày, những tình thế giao tiếp hằng ngày ai cũng đã trải qua và

các tình thế xảy ra lại nằm trong tâm trạng, tính cách nhân vật. Có thể kể tới một số

truyện xuất hiện tình huống tâm trạng như: Đời thừa; Giăng sáng; Nước mắt; Bài

học quét nhà…

Ở những truyện ngắn trên nhân vật trí thức thường được đặt trong mối quan

hệ gia đình và xã hội. Họ được đặt trong hoàn cảnh nghèo khó, tù túng vì cuộc sống

cơm áo gạo tiền.

Trong truyện Nước mắt, nhân vật Điền vốn là một người chồng người cha

thương vợ thương con nhưng vì cuộc sống quá khó khăn nên Điền thường xuyên

cáu gắt với vợ con. Anh còn tỏ ra chán nản và “chỉ thở dài ngao ngán cho kiếp

mình”. Nỗi bực dọc uất ức trong Điền dần tan đi khi anh nghe thấy tiếng con khóc

vì đau ốm. Lúc này anh mới nhận ra sự tàn nhẫn của mình đối xử với vợ con trong

thời gian qua. Trong tình huống ấy Điền đã bộc lộ tất cả những tính cách và suy

nghĩ trong nội tâm của mình.

Ngoài ra còn kiểu tình huống tự nhận thức, loại tình huống luôn gắn liền với khả

năng tự ý thức của nhân vật. Đó là kiểu tình huống được sử dụng khá nhiều trong

truyện ngắn của Nam Cao. Có thể kể đến các tác phẩm như: Chí Phèo; Cái mặt

không chơi được; Giăng sáng; Đời thừa; Nước mắt…

Chí Phèo được đặt trong hoàn cảnh với chính bản thân mình. Thức tỉnh trong

cuộc gặp gỡ vô tình với Thị Nở và trận ốm dữ dội, hắn ý thức về tuổi già của mình

và nhớ lại những mơ ước ở một thời xa xôi: “tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn

cô độc. Buồn thay cho đời”. Hắn bắt đầu khao khát trở thành người lương thiện:

“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng chính sự nhận thức này đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi, khi vung dao

giết Bá Kiến. Đây là kết cục của quá trình nhận thức của Chí Phèo.

Ở những truyện như Giăng sáng; Đời thừa; Nước mắt… Nam Cao đã đặt

nhân vật của mình vào những tình huống khác nhau để nhận thức về bản thân, về

cuộc sống, gia đình và xã hội, về những khát vọng trong nghề nghiệp và những thất

vọng, chán nản trước sự nghiệp tù túng, quẫn bách.

Trong các tác phẩm của O’Henry. Ông chủ yếu xây dựng truyện từ những

tình huống ngẫu nhiên. Trong số các tác phẩm của O’Henry, nhiều truyện đỉnh điểm

mang tính chất ngẫu nhiên.

Tác phẩm Hai mươi năm sau kể về cuộc gặp gỡ giữa Bob và Jimmy Well

trong một dịp “đặc biệt”. Ngày Bob đến gặp người bạn Jimmy Well sau hai mươi

năm xa cách là ngày người bạn của anh đưa anh vào tù. Cuộc hội ngộ đớn đau của

Bob với Jimmy là tình huống không thể tin được trong cuộc sống. Cả hai cùng đến

điểm hẹn đúng ngày giờ nhưng trớ trêu Bob đến tìm bạn, còn bạn đến tìm mình với

tư cách một nhà hành pháp đi bắt tội phạm. Việc nhà chức trách bắt tên tội phạm

miền Tây không phải vấn đề, vấn đề là cách nhà chức trách này hành động. Trong

trái tim Bob, Jimmy luôn là một người bạn tuyệt vời: “Thằng bạn thân nhất của tôi,

một tay tốt bụng nhất trên đời. Nó với tôi cùng lớn lên ở New York này như hai anh

em… Trung hậu và thành thật nhất đời, nhất định nó sẽ không quên”. Bob rất trân

trọng tình bạn giữa hai người: “Tôi đã đi một nghìn dặm đến đứng ở cái cửa này

đêm nay, nhưng nếu thằng bạn cũ của tôi mà đến đây thì cũng thật bõ công”. Sự

tin tưởng vào tình cảm ấy đã làm anh rơi vào bẫy. Trái lại, trong mắt Jimmy, Bob

chỉ còn là một tên tội phạm gã từng hẹn gặp cách đây hai mươi năm. Gã đã khai

thác sự chân thành của Bob để tóm cổ anh. Chính trong giây phút Bob hạnh phúc

nhất thì gã thẳng chân đạp bạn xuống vực. Tình huống dở khóc dở cười của Bob

gần giống với tình huống của Minh (vở Tướng cướp Bạch Hải Đường của Nguyễn

Huỳnh). Minh không khóc khi bị bạn thân của mình là ông cò Bằng đến bắt mà

anh khóc vì bị chính vợ mình đi tố cáo. Bob cũng cùng tâm trạng như Minh: Khi

đọc xong bức thư của Jimy, tay anh “run run”. Nếu Jimy đến điểm hẹn rồi trực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tiếp bắt anh, anh sẽ không đau đớn bằng việc Jimy giẫm đạp lên tình cảm của anh.

Tình huống truyện làm bạn đọc không khỏi xót xa về sự phũ phàng với tình bạn

của những người máu lạnh. Không cần phải hư cấu nhiều, hiện thực cuộc sống

luôn tạo ra những tình huống kì thú để nhà văn ghi nhận.

Tình huống trong truyện Món quà của các đạo sĩ là tình huống không để lại

dấu vân tay hư cấu. Hoàn cảnh sống, tình yêu của các nhân vật dành cho nhau tự

tạo ra tính chất ngẫu nhiên cho tình huống truyện. Sự nghèo khó làm tiền đề để

Della và Jim kẻ bán tóc, người bán kỉ vật để mua quà giáng sinh tặng nhau. “Thời

kì sung túc trước đây, khi chủ nợ còn được trả ba mươi đô một tuần, tấm danh thiếp

“Đi-linh-gim” đã theo gió bay đi khắp nơi. Bây giờ thu nhập co lại chỉ còn hai mươi

đô thì những chữ “Đi-linh-gim” mờ đi như thể muốn thu mình lại chỉ còn một chữ

“Đ” khiêm tốn và nhũn nhặn”. Chắt mót, dành dụm từng xu bao nhiêu tháng trời

nhưng ngày Lễ Giáng sinh sắp đến mà Della vẫn chỉ có một đô tám hào bảy xu,

không thể mua một món quà xứng đáng tặng Jim. Nhưng hạt nhân làm động lực

đưa đến quyết định của cả hai vợ chồng là tình yêu họ dành cho nhau. Jim là tất cả

với Della: “Tóc trên đầu em hoạ chăng có thể đếm được, nhưng không ai có thể đếm

được tình yêu của em đối với anh”. Della đã quyết định bán tóc để mua quà tặng

chồng mình. Bán đi bộ tóc mình yêu quý với Della không phải việc dễ dàng. “Cô

ngập ngừng trong giây lát và đứng im, một hai giọt nước mắt nhỏ xuống tấm thảm

đỏ đã sờn”. Nhưng để Jim được hãnh diện, cô đã hi sinh bộ tóc “gợn sóng và óng ả

như một thác nước màu đen” của mình với giá hai mươi đô để mua “một chiếc dây

đồng hồ bằng bạch kim, kiểu giản dị và thanh nhã” xứng đáng với chiếc đồng hồ

vàng của Jim. Éo le thay, tình yêu của Gim dành cho Della cũng không hề kém:

“Anh không hề có ý nghĩ cho rằng một kiểu cắt tóc, một kiểu cạo hay một kiểu gội

có thể làm anh bớt yêu em của anh đi một chút nào”. Trong đêm Noel, Jim đã sững

sờ khi thấy bộ tóc của Della biến mất, vì anh đã mua một bộ lược cài đầu mà Della

từng mơ ước. Anh bán đồng hồ để mua lược cho Della thì Della không còn tóc,

Della bán tóc mua dây đeo đồng hồ cho Jim thì Jim không còn đồng hồ. O’Henry

đã cảm động viết những dòng tinh nghịch kết truyện Món quà của các đạo sĩ: “…Tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đã kể lại một cách vụng về cho các bạn nghe câu chuyện không lấy gì làm li kì về

hai đứa trẻ ngốc nghếch sống trong một căn buồng nhỏ, đã hi sinh cho nhau một

cách chẳng khôn ngoan tí nào những của cải quí giá nhất trong nhà”. Món quà Jim

và Della tặng cho nhau cuối cùng quí giá hơn tất cả chính là tình yêu họ đã dành

cho nhau.

Giô và Đêlya (Một sự giúp đỡ của tình yêu) cũng đã thầm lặng hi sinh cho

nhau như thế. Cuộc sống eo hẹp dần đưa cả hai đến gần nhau hơn bao giờ hết. Đêlya

thì dối rằng mình đi dạy nhạc ở nhà Đại tướng Pinkin, còn chàng Giô dối rằng

mình bán tranh cho người ở Pê-ô-ri-a nhưng thực sự họ đã nuôi nhau, nương tựa

nhau bằng những đồng tiền mặn đắng vị mồ hôi. Chỉ khi Đêlya bị bỏng bàn là, Giô

chuyển bông vụn và dầu sang giúp nàng, anh mới phát hiện ra người yêu mình

đang làm thợ là. Đến lúc đó, sự hi sinh “bị vạch mặt” họ mới thực sự hiểu hết tình

yêu mình dành cho nhau. Họ yêu nhau chứ không phải họ yêu nghệ thuật. Đêlya

nói đúng: “Chỉ cần người ta yêu thôi là đủ”. Đúng là những sự ngẫu nhiên đầy

ngọt ngào vị tình yêu. Bằng cách này hay cách khác thì những tình huống truyện

“ngẫu nhiên” trong truyện của O’Henry đều đem đến cho bạn đọc những suy nghĩ

thú vị về sức mạnh của tình yêu chân chính, của tình người, kể cả những dối trá,

phản bội, mưu tính hèn hạ.

Điểm khác biệt thứ 2 trong xây dựng cốt truyện đó chính là cách kết thúc

truyện của mỗi nhà văn:

Những kết thúc trong truyện ngắn của Nam Cao thường là kết thúc bỏ ngỏ.

Tác phẩm của Nam Cao thường mở đầu khi sự kiện đã xảy ra rồi và kết thúc ở điểm

khi sự việc chưa hoàn thành xong xuôi. Ví dụ như trong tác phẩm Chí phèo mở đầu

bằng việc “Hắn vừa đi vừa chửi” trải qua quá trình hắn muốn trở thành người lương

thiện nhưng kết thúc câu chuyện lại là cái chết bên xác kẻ thù. Rõ ràng Nam Cao

muốn tập trung biểu hiện một số vấn đề của xã hội, sự uất hận chưa được ý thức,

lòng khao khát muốn trở thành người lương thiện nhưng tất cả đều chưa được giải

quyết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Một cách kết thúc nữa cũng thường gặp trong truyện ngắn Nam Cao đó là

những kết thúc không có hậu cái kết luôn hiện hữu cái chết nhằm mục đích kích

thích trí tuệ đối với người đọc...: Trong truyện Nghèo là cái chết của anh đĩ Chuột

trong tiếng đòi nợ:

“- Bu mày đâu?

Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:

- Bẩm bà, bu con đi vắng.

- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai trả tiền không

trả tiền thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.

Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng

xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị

bẫy. Sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợ thừng khủng lẳng. Ở ngoài ngõ

mẹ con chị chuột vừa kêu vừa khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo

mới đong để trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc”

[13, tr.15-16].

Đọc đến đấy ta cũng cảm nhận được phần nào sự túng quẫn của gia đình anh

đĩ Chuột và mối nợ sẽ đeo bám họ cho đến bao giờ?

Bên cạnh đó còn là những cái chết: chết vì no của bà cái Đĩ (Một bữa no),

có cái chết quằn quại vì ăn bả chó của lão Hạc (Lão Hạc), lại có cái chết của lang

Rận và mụ Lợi là cái chết vì xấu hổ. Nhưng tất cả mọi vấn đề dường như chưa được

giải quyết họ phải đối mặt với kế sinh nhai thế nào mà vẫn giữ được mình… Vấn

đề hiện thực được đặt ra nhưng vẫn còn “ngổn ngang’ trong các sáng tác của Nam

Cao.

Khác với cách kết thúc truyện của Nam Cao, O’Henry thường xây dựng cách

kết thúc bất ngờ, đảo ngược tình huống đây cũng chính là một thành công trong việc

sáng tác truyện ngắn của O’Henry. O’Henry coi kết thúc bất ngờ là cách kết truyện

hay nhất và chỉ sử dụng cách kết truyện này. Được coi là điểm đặc sắc, nổi bật nhất

của O’Henry và “nổi tiếng đến mức trở thành “thương hiệu”. Đó là cách kết thúc

truyện. Bởi ông không chỉ sử dụng nó trong tất cả các truyện của mình mà ông còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

làm chủ và khéo léo, sử dụng nhuần nhuyễn kết thúc bất ngờ với nhiều cách biến

thể khác nhau.

Nhằm tạo nên kết thúc bất ngờ, O’Henry đã xây dựng nên những câu chuyện

bằng một loạt những tình huống “ngẫu nhiên”. Sự trùng hợp đóng vai trò như một

sự khởi đầu cho kết thúc bất ngờ của câu chuyện. Ông thích dùng tình huống ngẫu

nhiên và yếu tố bất ngờ bởi nó thu hút sự độc giả và giữ sự hồi hộp, gay cấn cho

toàn bộ tác phẩm. Trong Hai mươi năm sau, vào đúng thời điểm hẹn gặp của hai

người bạn thì lúc này trùng hợp một người là cảnh sát và một người là tội phạm truy

nã. Khi Della suy tính mãi về món quà Giáng sinh cho chồng thì ngẫu nhiên chồng

cô - Jim cũng nó nỗi băn khoăn như vậy. Càng ngẫu nhiên hơn nữa khi cùng bán đi

thứ có liên quan đến món quà của người kia đã hi sinh để tặng nhau (Món quà của

các đạo sĩ).

Một sự trùng hợp thật lớn kéo theo diễn biến của toàn bộ câu chuyện trong

Những giả định phá sản. Cả ba người trong tác phẩm đặt trong mối quan hệ tình tay

ba. Sau quãng đường rất xa rượt đuổi nhau họ lại cùng nhau đến văn phòng luật sư

Phineas C.Gooch để giải quyết vụ li hôn. Càng ngẫu nhiên hơn nữa khi hai người

đàn ông lại nói dối về thân phận thật của mình khiến luật sự tham lam lầm tưởng và

cuối cùng mất trắng “vụ béo bở” này. Ta có thể dễ dàng bắt gặp nhiều sự trùng hợp

khác nhau trong các tác phẩm của O’Henry. Ngoài nhiệm vụ tạo tiền đề cho yếu tố

bất ngờ ở kết truyện, O’Henry muốn gửi đến độc giả rằng cuộc sống rất khó lường,

không ai có thể biết trước điều gì sẽ xảy ra với mình.

Kết hợp với yếu tố ngẫu nhiên, O’Henry đã sử dụng thủ pháp “đảo ngược

tình huống” để đem tới sự ngạc nhiên cho độc giả ở cuối truyện. Hướng phát triển

của câu chuyện sẽ bị đảo ngược hoàn toàn ở kết thúc. Tính cách của nhân vật ở

đoạn cuối cũng trái ngược với những gì đã thể hiện trước đó. Thủ pháp này đã

được O’Henry vận dụng để đảo ngược câu chuyện, bộc lộ mặt trái tính cách hay

đảo ngược tình thế hai lần. Thủ pháp này đã biến hóa linh động và đa dạng trong

từng truyện ngắn cụ thể. Một số tác phẩm thể hiện rõ thủ pháp này gồm: Dấu vết

của Bill Đen, Tiền tài và thần ái tình, Quả lắc, Một cơn gió dịu…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Xét về phương diện nội dung, ông có những cái kết triết lí. Còn ở phương

diện cấu trúc, O’Henry có kết đóng và kết mở. Dù kết thúc theo góc độ nào đi nữa

thì ngòi bút của ông luôn hướng về những cái kết tốt đẹp, đem đến giây phút hạnh

phúc và viên mãn. Món quà của các đạo sĩ là một câu chuyện kết thúc hoàn chỉnh

khi Della bán tóc để mua tặng Jim dây đeo đồng hồ nhưng bất ngờ Jim đã bán chiếc

đồng hồ để mua bộ lược cài tóc cho Della. Cuối cùng cả hai món quà đều không

dùng được nhưng họ đều hạnh phúc vô cùng và người đọc đều cảm nhận được sự

ấm áp từ sự hị sinh vì nhau của họ. Cũng có những truyện kết thúc bất ngờ khiến

độc giả phải băn khoăn suy nghĩ.

Truyện điển hình cho kiểu kết thúc mở mà tác phẩm tiêu biểu phải kể tới đó

là Buồng tầng thượng: Một cô gái nghèo thuê buồng tầng thượng, tầng cao nhất của

nhà trọ vì càng lên cao giá càng rẻ. Ở tầng trên cùng nên đêm cô ngước nhìn lên bầu

trời qua ô kính trổ trên mái, cô thấy một ngôi sao sáng to, cô gọi tên ngôi sao là

Billy Jackson. Thời gian sau cô tốt nghiệp, tuy làm rất nhiều việc nhưng không có

tiền ăn và kiệt sức nằm trên giường trong đêm sao Billy Jackson tỏa chiếu. Sáng

hôm sau người ta phát hiện ra cô đã lả đi. Một bác sĩ trẻ theo xe cấp cứu đến đưa cô

vào bệnh viện. Mẩu báo đăng tin: William Jackson- một bác sĩ sẽ cứu sống cô. Điểm

không rõ ở chuyện này là giữa bác sĩ trẻ ấy và cô gái có quan hệ gì. Chỉ biết cô gái

yêu quý Billy Jackson thì mới mang tên anh đặt cho ngôi sao cô coi như người bạn.

Còn William Jackson khi đưa cô ra xe thì không đặt cô xuống mà luôn bế trên tay

và bảo tài xế chạy nhanh về bệnh viện. Đọc truyện, ta thấy Lixơn - cô gái xinh xắn,

hồn nhiên và hòa đồng với mọi người chứ không hề biết cô từ đâu đến. Truyện kết

thúc nhưng bí mật của truyện chưa được giải đáp.

Ngoài gây cho người đọc một sự bất ngờ ở cuối truyện, đôi khi O’Henry còn

khiến người đọc ngạc nhiên nhiều lần. Trong truyện Chiếc lá cuối cùng, chiếc lá

thường xuân còn lại trên bức tường gạch cũ đã cứu được Johnsy khi cô đang ở giữa

ranh giới của cuộc sống và cái chết thực chất là một bức tranh của người họa sĩ già

Behrman. Đó là một bất ngờ lớn nhưng không phải là duy nhất kết ở kết thúc. Sự

hồi sinh của Johnsy đã phải đánh đổi bằng mạng sống của bác Behrman là một bất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngờ nữa xuất hiện tiếp sau trong mối quan hệ nhân quả, cùng tạo nên ấn tượng sâu

đậm về sự vĩ đại của tình thương, sự kỳ diệu của nghệ thuật. Tương tự, trong truyện

Tên cớm và bản thánh ca cũng có kết thúc bất ngờ như vậy. Truyện kể về Soapy,

kẻ lang thang muốn qua mùa đông trong tù vì cảm thấy “pháp luật còn dễ chịu hơn

là lòng từ thiện” đã cố gắng được vào tù mà không được. Khi không muốn vào tù

nữa thì lại bị túm cổ vào tù.

Đọc truyện ngắn của O’Henry ta khó lường trước kết cục. Mâu thuẫn lôi cuốn

người đọc đôi lúc chỉ là mâu thuẫn giả. Để thỏa mãn và tạo sức lôi cuốn cho tác

phẩm, O’Henry tỏ ra rất thiện nghệ trong nghệ thuật xây dựng và dẫn dắt tình huống

truyện phát triển. Bút pháp tự sự của ông là “giấu kỹ bày nhanh”. Rất nhiều chuyện

của ông đến đoạn cuối độc giả mới nhận được điều tác giả muốn nói. Và ở đôi

truyện, nếu tác giả không nói thì chưa chắc độc giả đã hiểu.

Mục đích O’Henry xây dựng kết thúc bất ngờ cho những câu chuyện của

mình ngoài tạo sự hấp dẫn cho các sáng tác của mình là ông muốn người đọc sau

sự bất ngờ đó sẽ cảm nhận được sự hạnh phúc, ấm áp. Tuy nhiên ngay sau đó cái

ám ảnh trong đầu người đọc là sự đen tối đằng sau đó. Lê Huy Bắc nhận định trong

Giáo trình văn học phương Tây rằng: “Đối với O’Henry, ông không hể xem văn

chương là trò đùa, mặc dù ông luôn xây dựng nhiều nghịch cảnh khôi hài trong văn

chương”. Nhân vật người kể chuyện trong Ký tự và cành ghép quan niệm: “nghệ

thuật trần thuật tập trung vào việc thể hiện cho độc giả mọi thứ họ muốn biết nhưng

chỉ sau khi anh bộc lộ những quan điểm riêng thích của riêng mình vào những chủ

đề xa lạ với chủ chính. “Một truyện ngắn hay giống như viên thuốc đắng bọc

đường”. Xem thế để thấy O’Henry rất ý thức xây dựng nhiều chủ đề trong tác phẩm

và chủ đề chính có khi không trực tiếp xuất hiện mà phải đợi khi tác giả đặt bút

chấm hết thì ta mới hiểu chủ đề chính của truyện. Đây là cơ sở để O’Henry tạ dựng

cái kết bất ngờ” [3, tr.275].

Từ nhận định của Lê Huy Bắc ta có thể nhận thấy O’Henry muốn đưa kết

thúc bất ngờ vào các câu chuyện nhằm mục đích chính là để người đọc cảm thấy

ngọt ngào khi đọc xong những vị đắng sẽ dần dần thấm vào lòng họ cũng như khiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đọc giả phải suy nghĩ về hiện thực khốc liệt ẩn chứa trong câu chuyện. Món quà của

các đạo sĩ khiến ta thấy ấm lòng vì tình yêu của Jim và Della thật đẹp nhưng ngay

sau đó lại thấy xót xa cho họ. Cuối cùng họ hi sinh thứ mình có đổi lại kết quả cả

hai đều không thật sự nhận được món quà Noel đó. Phải chăng họ có cố gắng thế

nào đi nữa, hi sinh nhiều đến đâu chăng nữa thì họ vẫn trắng tay. Xã hội ấy đã và

đang làm gì khiến những con người tốt đẹp, lương thiện, cao cả như vậy quay cuồng

trong nghèo đói? Dù Della đã chi tiêu cò kè, chi li, sống rất tiết kiệm, làm việc chăm

chỉ, vất cả quần quật nhưng vẫn luôn ở mức báo động không đủ và túng thiếu cho

nên cuộc sống của họ vẫn là một bi kịch. Đó là bi kịch của những thân phận con

người không có địa vị xã hội, không có việc làm.

Trong Một cơn gió dịu chắc hẳn người đọc đều thỏa mãn với cái kết những

tên lừa đảo trả lại hết số tiền cho những người nghèo và tiếp tục sống bằng nghề bán

hàng rong, song cũng khiến độc giả phải suy nghĩ về cuộc sống, về chính bản thân

mình: sống trong bối cảnh khó nghèo, cơm không đủ no, mặc không đủ ấm, cạm

bẫy xã hội rình rập khắp nơi, đời sống con người o ép bởi những công việc nặng

nhọc đưa lại những đồng lương ít ỏi. Tình người lại là một thứ xa xỉ, khan hiếm, họ

sống với nhau bằng lọc lừa, chà đạp lên người khác để mình sống. Khắp nơi tiếng

kêu khóc, gào thét bởi chiến tranh. Chuyện trộm cắp, lừa lọc lẫn nhau xẩy ra như

một điều tất yếu. Không khí ảm đạm ngột ngạt u tối. Sống trong hoàn cảnh này,

người ta khó bề mà giữ được thiện lương.

Trong truyện ngắn của O’Henry ông đã không ngần ngại tái diễn những hoàn

cảnh đó. Với tấm lòng bao dung, nhân hậu, ông xây dựng nên những kẻ lừa đảo

lương thiện. Vì rằng họ đói, họ cần được ăn và họ cần được sống như bao người

khác, nên buộc họ phải hành động. Trong xã hội như thế, các nhân vật được ông

xây dựng ngoài tâm hồn cao thượng còn sẵn sàng hi sinh cho nhau. Chúng ta thấy

rằng ở trong những môi trường hòa bình, ấm no hạnh phúc, người ta hi sinh vì nhau

đã là hiếm và cao quý, trong môi trường đầy rẫy tội lỗi, mưu mô các nhân vật có

tấm lòng hi sinh cho đồng loại càng cao quý hơn. Với đức tính đáng quý này họ cần

được tôn vinh, khen ngợi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

O’Henry cho rằng cuộc sống luôn tràn đầy sự bất ngờ, không ai biết tương

lai mình sẽ ra sao. Ông quan niệm nghệ thuật cũng phải đưa được những yếu tố bất

ngờ đó đến với độc giả. Sự bất ngờ ở kết thúc sẽ tạo cảm xúc ngạc nhiên, có thể sẽ

gây nên những trạng thái tâm lý khác nữa ở độc giả: vui sướng, đau khổ, căm giận,

ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ… Những cảm xúc này ở cường độ và trong sự

tương tác nhất định, có thể đưa đến hiệu quả thanh lọc tình cảm, tầm hồn người đọc,

gợi cho người đọc những chiêm nghiệm về cuộc đời. Tuy nhiên dù đắng nhưng đó

lại là một viên thuốc, thuốc chữa được bệnh thì nghệ thuật thanh lọc được tâm hồn,

chữa được bệnh trong tinh thần, suy nghĩ. Chính bởi vậy O’Henry muốn truyện

ngắn nói riêng và tác phẩm nghệ thuật nói chung không chỉ đẹp mà cần chứa đựng

mạch ngầm ở bên trong, chứa đựng những ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa nhân sinh, gợi

suy suy tư về bản chất của cuộc sống, về giá trị con người.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry

3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật

Khi viết ngoại hình nhân vật cả Nam Cao và O’Henry đều rất chú trọng miêu

tả ngoại hình của nhân vật một cách chân thực. Và thông qua việc miêu tả ngoài

hình hai nhà văn thường làm nổi bật lên nét tính cách của nhân vật.

Giáo sư Trần Đăng Suyền trong bài viết: Nam Cao- nhà văn hiện thực xuất

sắc nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn đã viết: “Nam Cao chỉ chú ý đến những chi tiết

ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật” [19, tr.156]. Nam Cao lấy nguyên

mẫu nhân vật phần lớn trong cuộc sống xung quanh ông nên đường nét miêu tả là

chất liệu từ hiện thực. Bút pháp này khắc hoạ những nét ngoại hình như: “Thân hình

mảnh dẻ như một tàu lá run trước gió”, “bộ da bọc xương”, “cái bụng gần dính

lưng” của anh đĩ Chuột, của những đứa trẻ con nhà nghèo đói ăn, bút pháp ấy được

nhà văn công khai trong “cái mặt không chơi được”: “Giá tôi yêu hơn chút nữa thì

tôi phải tả Bình với một cái dáng hình thơ mộng hơn, nhưng tôi yêu sự thật thà, mà

muốn thật thà thì phải nói là Bình không đẹp lắm,…”. Như vậy nhà văn chân thực

trong từng chi tiết, sự chân thực của chi tiết cũng là một đặc điểm thi pháp của chủ

nghĩa hiện thực khái quát trong lý luận văn học. Với người có thể tạm gọi là yêu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghĩ đến cách “chiếm lòng” Nam Cao vẫn ‘thật thà” miêu tả ngoại hình đến vậy, dù

cho “bảo cô xấu cũng được” có một điều gì tạo nên chất hài ở đây. Nó bắt nguồn từ

cách thể hiện của Nam Cao.

Trong những truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam

Cao, ta bắt gặp sự trở đi trở lại hình ảnh quần nái đen, cái áo tây vàng (phục trang

của Chí Phèo khi đi tù và biệt tích bảy tám năm trở về, anh chồng dì Hảo cũng sau

một thời gian biệt tăm quay lại. …). Nó là dấu ấn của một thời kỳ xã hội. Bên cạnh

nét chân thực ấy, những manh áo quần rách tả tơi, bẩn thỉu,… cũng là nét ngoại hình

mà Nam Cao nhấn mạnh. Tất cả những người Nam Cao miêu tả mang chất sống

ngồn ngộn, không thể trộn lẫn và có ý nghĩa biểu đạt sâu sắc. Nội dung đường nét,

Nam Cao đều dùng ngòi bút tả thực của mình mà khắc hoạ, từ khuôn mặt, đầu tóc,

làn da, thân hình trang phục....

Chính đặc điểm thi pháp này quy định giọng văn lạnh lùng chua chát, dửng

dưng và có phần tàn nhẫn khi miêu tả nhân vật nói chung, ngoại hình nhân vật nói

riêng, quy định điểm nhìn trần thuật của nhà văn. Bản lĩnh ngòi bút đã cho phép

Nam Cao khắc hoạ ngoại hình nhân vật một cách thản nhiên, tỉnh táo trước mỗi lần

cần xử lý, giải phẫu để đưa nhân vật ra trước mặt người đọc.

Nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry được khắc họa từ điểm nhìn bên

ngoài. Truyện của ông đầy ắp các sự kiện, những sự kiện hấp dẫn được chọn lọc

kỹ càng và được dày công sắp xếp, nhằm gây hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Ông rất

chú trọng miêu tả, ngoại hình, tên tuổi của nhân vật. Người kể chuỵên của O’Henry

thường đứng ở điểm nhìn bên ngoài để quan sát các nhân vật, vị trí này làm cho

giữa người kể chuyện và nhân vật có một khoảng cách ngăn cản sự “nhập thân”

của người kể chuyện vào thế giới bên trong của nhân vật, dẫn đến các nhân vật

của ông hiện lên rõ với những biểu hiện ở bề ngoài như: hình dáng, cử chỉ, thái

độ…

Trong câu chuyện “Người đánh giá sự thành công”, nhân vật Môli được nhà

văn miêu tả: “Môli ăn mặc chải chuốt và gọn gàng. Đó là kết quả của một bản năng

nhờ vào dòng dõi và giáo dục mà có. Chúng ta không có được khả năng nhìn sâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong lòng một con người mà phải dừng lại ở lớp hồ cứng trên ngực áo sơ mi anh ta,

cho nên chúng ta chỉ còn cách kể lại những sự đi lại và những cuộc trò chuỵên của

anh ta mà thôi”. Ngoại hình của mỗi người bao giờ cũng bộc lộ phần nào bản chất

tính cách của con người đó. Khi miêu tả nhân vật, O’Henry đều cố gắng thể hiện

những nét tính cách đằng sau ngoại hình đó. Qua cách ăn mặc “chải chuốt” và “bản

năng nhờ vào dòng dõi và giáo dục” của Môli người đọc đã cảm nhận anh không thật

là con người đàng hoàng, có nhân cách, đạo đức. Điều đó càng lộ rõ khi anh ta lẩm

bẩm một mình: “Cứ trơ tráo là được! Đấy là chủ bài trong ván bạc. Sao mà chúng nó

dễ tin thế. Đàn ông, đàn bà, trẻ con - những chuyện giả mạo, những trò dối trá, muối

pha nước lã - sao mà chúng nó dễ tin thế…”.

Trong truyện Những ổ bánh mì phù thủy,O’Henry miêu tả một người đàn ông

trung niên thường đến hiệu bánh mua những chiếc bánh mì cũ rẻ tiền: “Quần áo của

ông mặc đã sờn, mạng vá vài chỗ này, nhăn nheo và lụng thụng vài chỗ khác”. Điều

này toát lên sự nghèo của ông họa sĩ. Nhưng trông ông có vẻ ngăn nắp, tư cách lại

rất tề chỉnh. Trước một đối tác đầy đủ các yếu tố “khớp” với nhu cầu và khả năng

của cô Martha, một người phụ nữ trung niên bốn mươi tuổi chưa có gia đình lại là

chủ tiệm bánh mì nên con tim khát khao và “giàu lòng cảm thông” của cô mở lòng

và thổn thức.

Cùng miêu tả ngoại hình nhưng mỗi nhà văn lại có cách thể hiện khác nhau.

Nam Cao khi miêu tả ngoại hình gắn với bộc lộ tâm trạng, cái được gọi là “ngoại

hình tâm lý” là một nét đặc sắc của chủ nghĩa hình thực mà Nam Cao kế thừa và

phát triển thành đặc trưng nghệ thuật của mình. Nam Cao thấy “mỗi lúc một khác,

một ngày có thể đến một trăm thứ mặt” của nhân vật mình khắc hoạ theo từng diễn

biến tâm lý nhất định. Ta có thể nhận ra từ ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật của ông

phần lớn lại nghiêng về sắc thái tâm lý, chứ không đơn thuần chỉ là nét ngoại hình.

Ông viết về Thị Nở “Cái mũi đỏ rị xuống rồi lại bạnh ra ” để bộc lộ tâm trạng tức

tối, điện lộn ruột với anh nhân tình Chí Phèo; khuôn mặt Lão Hạc “Co rúm lại,

những vết nhăn sô lại với nhau” biểu thị một tâm trạng đau đớn đến tột độ; cái

“miệng ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng” của Chí Phèo biểu lộ mong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

muốn, khát vọng hoàn lương - khát vọng cao quý, nhân bản của người nông dân bị

tha hoá....

Viết truyện ngắn, Nam Cao đã dùng “nét bút” tiểu thuyết. Đúc một dung

lượng lớn vấn đề chỉ qua vài trang giấy, nên chi tiết Nam Cao dùng rất hàm súc,

cô đọng, ý tại ngôn ngoại, chú ý đến cái thần chứ không miêu tả một cách tràn

lan, không có dùng ý. Chính vì thế, những nét ngoại hình biểu hiện tâm trạng sẽ

giúp ngòi bút nhà văn xử lý hài hoà, đồng thời nhiều vấn đề trong một phạm vi

câu chữ nhỏ.

Còn nhân vật của O’Henry ngoại hình thường dùng thủ pháp so sánh nhằm

mục đích là nổi bật hình tượng nhân vật. Johnsy trong truyện ngắn Chiếc lá cuối

cùng thì “yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá”. So sánh với chiếc lá cũng hết

sức gần gũi và thực tế bởi cô gái trẻ đang phải chống chọi với bệnh tật, phải đối mặt

với tử thần. Chiếc lá gắn với quan sát yếu ớt mỗi khi thức dậy hàng ngày, chiếc lá

gắn với nhịp đếm ngược chậm rãi, mệt mỏi. Hơn tất cả, chiếc lá ấy là niềm hi vọng

cuối cùng của Johnsy. So sánh cũng làm nổi bật nét ngoại hình của cô gái trẻ Đanxi

trong Một câu chuyện dở dang. Nhà văn miêu tả mắt sáng long lanh, má ửng hồng

phơn phớt của buổi bình minh đang tới của cuộc đời Đanxi - cuộc đời thật sự. So

sánh đó làm nổi bật hi vọng nhỏ nhoi về cuộc sống sẽ có những thay đổi của Đanxi.

Trong Buồng tầng thượng ông viết: “Leeson là một cô gái nhỏ nhắn nhưng

sau khi cô thôi không lớn nữa thì đôi mắt và bộ tóc của cô vẫn cứ to lên và dài mãi ra

trông lúc nào cũng có vẻ chúng nói lên rằng: “- Trời đất ơi! Sao cô chẳng chịu lớn

lên cùng với chúng tôi?”. Với vóc dáng nhỏ bé của Lixơn tương phản với các bộ phận

cơ thể của cô: đôi mắt “cứ to lên” và mái tóc cứ “dài ra”. Hình ảnh của cô gái gầy gò

thiếu ăn hiện lên vừa hài hước vừa đáng thương.

3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật

Hành động nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường gắn liền với tính

cách nhân vật. Trong truyện ngắn Chí Phèo hành động của nhân vật gắn liền với sự

tha hóa của nhân vật. Đó là những biểu hiện của Chí Phèo khi gặp thị Nở. Tuy đang

ở trạng thái say khướt nhưng toan tính: “Chí Phèo vẫn say sưa nhìn và run run. Bỗng

nhiên hắn rón rén lại gần Thị Nở; lần đầu tiên hắn rón rén từ khi về làng, thoạt tiên,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị... và Thị Nở giật

mình. Thị mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị... thị vùng vẫy để ra,

thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn và

hổn hển: “ Ô hay... Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... buông ra. Tôi kêu làng lên

bây giờ. Thằng đàn ông cười phì. Sao lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn

mới kêu làng thôi; sao ngươi lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu làng.

Hắn kêu như một kẻ bị đâm. Vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố mắt

ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao mà hắn lại kêu làng nhỉ? mà hắn vẫn chưa chịu thôi

kêu làng” [12, tr.43-44]. Nam Cao miêu tả hành động nhân vật phát triển theo từng

giai đoạn, từ thấp đến cao, luôn luôn có sự đột biến trong miêu tả hành động. Hành

động của nhân vật có tính tha hóa rất đa dạng, phong phú phù hợp với hoàn cảnh và

tính cách nhân vật.

Nhân vật vợ Điền trong truyện ngắn Giăng sáng đã nhiều lần bức xúc mà

mắng chửi con “Kệ cha mày! Cho mày chết!” hay “Mày có câm ngay không tao tát

cho vỡ mặt”… Có thể thấy, hành động chửi của nhân vật phần nào thể hiện những

trăn trở, nghĩ suy, dằn vặt trước những thói hư tật xấu hay nhân cách không hoàn

thiện của người thân, của chính mình.

Hành động của các nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry thường có những

hành động bất ngờ mà người đọc khó có thể dự đoán trước được. Sau khi Jimmy ra

tù, một loạt các vụ trộm két nhà băng lại gây xôn xao. Sự lộng hành của Jimmy gây

chấn động đến nỗi chánh thanh tra BenPrice phải vào cuộc, truy đuổi anh đến cùng.

Tuy nhiên số phận Jimmy rẽ ngoặt khi anh trúng phải tiếng sét ái tình từ cô con gái

cưng của chủ nhà băng Elmore. Từ một tên trộm nổi tiếng, anh xếp lại đồ nghề để

trở thành một chủ tiệm giày lương thiện, thành đạt. Không phải vì án tù, hay vì sự

truy đuổi của pháp luật, mà chỉ đơn giản là vì lòng tin của người con gái anh yêu,

Jimmy Valentine quyết tâm dứt bỏ quá khứ tội lỗi.

Thử thách cuối cùng được đặt ra khi cháu gái nhỏ của người anh yêu bị nhốt

trong chiếc két lớn. Mọi người cầu cứu sự giúp đỡ của anh. Trong khi đó, viên chánh

thanh tra đang dõi theo từng cử động của anh. Jimmy phải lựa chọn. Một là lặng im,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đóng tròn vai lương thiện mà anh đã tạo dựng lâu nay, hai là mở bộ đồ nghề bí mật

để cứu cô cháu gái, đồng nghĩa rằng chứng minh mình là tên tội phạm khét tiếng

lâu nay. Jimmy đã quyết định cứu cô cháu gái bằng những thủ thuật đạo chích của

mình. Khi anh sẵn sàng ra đi cùng viên cảnh sát, anh nhận được phán quyết cuối

cùng đầy bất ngờ…

Món quà của các đạo sĩ là một câu chuyện về Giáng sinh cảm động. Jim và

Della là đôi vợ chồng nghèo, sống yêu thương nhau. Sắp đến ngày Giáng sinh nên

cả hai đều muốn tặng nhau những món quà để thể hiện tình cảm với nhau. Vì muốn

mua tặng chồng chiếc dây đồng hồ nhưng số tiền dành dụm được quá ít, Della quyết

định bán đi mái tóc của mình. Cũng như để mua những chiếc lược cài đầu thật đẹp

tặng vợ, Jim đã bán chiếc đồng hồ quý giá. Jim và Della rơi vào tình huống dở khóc

dở cười. Chiếc dây đồng hồ của Della trở nên lạc lõng vì giờ đây Jim không còn sở

hữu chiếc đồng hồ nữa. Còn bộ lược cài đầu của Jim thì tạm thời trở nên vô ích

trước mái tóc cụt ngủn của vợ. Chỉ vì không có tiền mà lại hết mực thương yêu nhau

nên họ đã bán đi những vật quý giá nhất để mua những thứ vô duyên nhất. Tuy vậy

họ lại thể hiện được một thứ quý giá nhất mà không phải lúc nào cũng dễ dàng thể

hiện hay bán mua được, đó là tình cảm.

3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật

Khi miêu tả nội tâm nhân vật Nam Cao và O’Henry đều chú trọng vào việc

đi sâu vào miêu tả những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật.

Các truyện ngắn của Nam Cao là những mâu thuẫn nội tâm giằng xé. Đó là

mâu thuẫn giữa những ước mơ chính đáng, giàu lòng nhân ái với thực tại cuộc sống

nghèo đói, thấp hèn chính vì vậy họ đều bị rơi vào bi kịch tinh thần. Hộ trong Đời

thừa là một minh chứng như vậy. Hộ vốn là một văn nghệ sĩ. Trong sự nghiệp của

mình, anh luôn mong muốn làm được một điều gì đó cao cả là cầm giải Nobel nhưng

vì phải kiếm tiền, anh lại viết ra những tác phẩm nhạt nhẽo, vô ý nghĩa. Hộ đã tự

đấu tranh nội tâm với chính bản thân mình. Điền trong Nước mắt cũng là một trí

thức. Và Điền cũng vì vợ, vì con, vì nỗi lo cơm áo mà trở nên “độc ác”, “tàn nhẫn”.

Đã có lúc Điền tự nhủ với mình, hắn sẽ đi phắt một nơi nào, sống cho một mình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

“đứa nào chết mặc thây”. Nhưng rồi sau cơn nóng giận, Điền lại trở về với chính

mình - một con người yêu vợ, thương con. Từ tận đáy lòng, Điền nói ra những lời

yêu thương trìu mến: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương

vợ, thương con, thương tất cả những người phải đau khổ” [12, tr.56].

O’Henry cũng chú trọng rất nhiều vào đời sống nội tâm nhân vật. Từng

chuyển biến của tâm lý nhân vật được thể hiện một cách khéo léo qua suy nghĩ,

hành động, qua cảnh vật, qua những mối quan hệ. O’Henry thường bắt lấy những

góc tâm hồn, những mảnh đời, những câu chuyện nhỏ mà có sức lay động. Con

người trong tác phẩm của ông có tình yêu, có lòng cao cả, có những đam mê, và có

cả những nhỏ nhen, vị kỷ, hám lợi, tha hóa. Và tất cả nằm trong một hiện thực rất

Mĩ, những tính cách rất Mĩ.

Trong truyện Tên cớm và bản thánh ca, bên cạnh việc am hiểu hành động, cử

chỉ, lời nói của nhân vật, O’Henry còn thông tỏ mọi suy nghĩ, niềm khát khao, sự

thức tỉnh của nhân vật. Nghĩa là thế giới nội tâm của nhân vật không có gì bí ẩn đối

với nhà văn: “Soapy trằn trọc trên chiếc ghế ở công viên...”. Chiều sâu thầm kín

trong tâm hồn Soapy được O’Henry khắc họa đậm nét, nhà văn thể hiện thế giới

tâm hồn ấy bằng những suy nghĩ như được chính nhân vật nói ra, nhân vật tự bộc

bạch, giãi bày.

Cùng miêu tả về nội tâm nhưng mỗi nhà văn lại có cách thể hiện khác nhau.

Nam Cao chú trong sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm khi miêu tả nội tâm nhân

vật. Nhà nghiên cứu Vũ Thăng, trong chuyên luận Một vài đặc điểm thi pháp truyện

Nam Cao, đã ra nhận xét: “Tính chất đa thanh, phức điệu của tác phẩm Nam Cao

có nguồn gốc sâu xa từ cái nhìn hiện thực mới mẻ rất đỗi đời thường của ông... Đặc

điểm của tính phức điệu trong tác phẩm Nam Cao là khả năng đối thoại, độc thoại

đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp...” [20, tr.60]. Nam Cao đã diễn tả độc thoại nội tâm

trong tâm trạng đơn độc của nhân vật. Độc thoại nội tâm của nhân vật có thể là ý

nghĩ bột phát, nảy sinh tức thời như Chí Phèo: “Và lắm lúc thì ngạc nhiên: sao người

ta ghê hắn thế” (Chí Phèo); “dù thấy bồn chồn mà vẩn vơ, thương, hối hận hay là

thẹn... Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm trò gì nữa nếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phải giết một con chó mà tim cũng đập? ” (Cái chết của con chó mực)... Cũng có

khi độc thoại nội tâm là day dứt, chiêm nghiệm: “Buồn thay cho đời! Có lý nào như

thế được? hắn già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu”... (Chí Phèo). Đó có lẽ là

những độc thoại nội tâm diễn tả tâm trạng sâu kín nhất trong truyện ngắn Nam Cao.

O’Henry lại khác, truyện ngắn của O’Henry không có độc thoại nội tâm, con

người của ông thiên về kiểu người hành động. Ông chú trọng miêu tả tên tuổi, ngoại

diện. Đây là nét không thể thiếu với bất kì nhà hiện thực cổ điển nào. “Chỉ vừa trông

thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng thống kê dân số đã phạm một sự nhầm

lẫn. Ở hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi

tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt đẹp, lại còn điệu

bộ nữa chứ” (Ái tình theo khẩu phần).

Hơn nữa khi miêu tả về thế giới nội tâm nhà văn chủ yếu bộc lộ những nhận

xét, đánh giá của nhà văn về những sự kiện, hoặc nhằm định hướng cho bạn đọc.

Trong truyện ngắn Căn phòngcó sẵn đồ cho thuê, người thanh niên trong hành trình

đi tìm người yêu đã quá mỏi mệt khi dấu hiệu về nàng cứ mờ dần. Anh biết chắc

người yêu mình ở thành phố này nhưng cũng nhận ra đó không phải là chốn dung

thân của những nghệ sĩ muốn khẳng định mình bằng lao động chân chính. Đặt niềm

hi vọng rồi lại mất hi vọng trong sự nhộn nhạo của thành phố này, cuộc sống của

con người thật hữu hạn, mong manh mà khát vọng thì to lớn.

Tiểu kết chương 3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nói về tác phẩm có giá trị thì ngoài phương diện nội dung không thể bỏ qua

phương diện nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm của Nam Cao và O’Henry ta thấy giữa

nôi dung và nghệ thuật luôn luôn có sự thống nhất, gắn bó với nhau. Nội dung của

tác phẩm hay phần lớn là nhờ nghệ thuật. Nghệ thuật luôn được đưa ra phù hợp với

nội dung.

Về nghệ thuật xây dựng cốt truyện: Bên cạnh những điểm tương đồng trong

việc xây dựng những cốt truyện truyền thống, thì mỗi nhà văn lại có cách xây dựng

cốt truyện riêng, đặc biệt là cách lựa chọn và xây dựng tình huống truyện và cách

kết thúc truyện.

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Với tâm hồn nhạy cảm, yêu văn chương

cả Nam Cao và O’Henry đều có những phát hiện tinh tế khi miêu tả ngoại hình,

hành động cũng như nội tâm nhân vật. Phải rất tinh tế thì Nam Cao và O’Henry mới

miêu tả chi tiết nhỏ về ngoại hình của nhân vật, những hành động mang tính tiêu

biểu là những lát cắt trong tâm hồn của nhân vật. Qua đó giúp ta hình dung ra thế

giới nội tâm phong phú của họ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

Khi so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry, điều đầu tiên ta phải

nhắc đến những nét nét tương đồng và khác biệt của hai nhà văn. Nét khác biệt cơ

bản giữa Việt Nam và Mỹ là về thể chế. Dù trong cùng một thời điểm lịch sử, hai

nước có hai con đường, hai chế độ chính trị hoàn tác khác nhau. Suốt những năm

cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nếu như Việt Nam bị xâm lược và trở thành nước

thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của Thực dân Pháp, thì Mỹ lại vươn

lên đứng hàng đầu trên thế giới trở thành đế quốc tiến hành xâm lược các nước

thuộc địa.

Tuy nhiên dù khác biệt về thể chế chính trị cuộc sống của nhân dân hai nước

lại có nhiều nét tương đồng. Dù ở chế độ chính trị nào thì quyền lợi đều rơi vào tay

giai cấp thống trị, và nhân dân luôn là người chịu nhiều thiệt thòi.

Cả Nam Cao và O’Henry là hai nhà văn đều trưởng thành trong giai lịch sử

dân tộc có nhiều biến động. Đều chứng kiến những bất công trong xã hội. Hơn nữa,

họ đều xuất thân từ những người lao động khổ cực, phải sống bằng nhiều nghề khác

nhau vì vậy giữa họ có sự gặp gỡ về quan điểm thẩm mĩ. Điểm gặp gỡ của họ chính

là cách cảm nhận cuộc sống từ góc nhìn đầy nhân văn

Mỗi nhà văn đều bày tỏ quan niệm về nghệ thuật khác nhau nhưng ta đều

thấy ở họ là người có trách nhiệm trong việc viết văn, luôn tìm tòi sáng tạo, xem sự

sáng tạo quyết định sự sống còn của nghề viết. Đặc biệt họ đều xác định nghệ thuật

vì con người. Vì vậy ta nhận thấy sự tiến bộ, đúng đắn trong truyện ngắn của Nam

Cao và O’Henry.

Nam Cao và O’Henry đều là những nhà văn có những cảm nhận tinh tế, với

vốn sống phong phú hai nhà văn đã đưa vào trong tác phẩm của mình hệ thống chủ

đề, và những đề tài vô cùng phong phú và đa dạng. Qua hệ thống chủ đề, đề tài họ

đều hướng đến những điều tốt đẹp cho con người đó là tình yêu thương và sự cảm

thông.

Nam Cao và O’Henry cho rằng nghệ thuật không chỉ dùng lại ở yếu tố thẩm

mĩ, chỉ đơn giản là vì cái đẹp mà nghệ thuật phải phục vụ con người, phục vụ cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống, khiến người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm về cái tốt con người và cái xấu

của những vấn đề xung quanh. Từ đó nghệ thuật phải góp phần thanh lọc tâm hồn,

thúc đẩy xã hội ngày một phát triển.

Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry không chỉ được đón nhận ở thời điểm

mà các nhà văn sinh sống mà giá trị của các tác phẩm mà hai nhà văn đem lại sẽ

mãi trường tồn..

Nam Cao là nhà văn Việt Nam. Đặt bên cạnh nhà văn O’Henry - một nhà văn

tầm cỡ thế giới - Nam Cao chưa hẳn ngang tầm, song nhìn từ mọi phương diện, ông

không thua kém bao nhiêu. Những tìm tòi, sáng tạo nhệ thuật của ông xứng đáng

được sánh với các nhà văn thế giới bởi những đóng góp của ông với văn học Vệt

nam và nhân loại./.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Huy Bắc (2002), Văn học Mỹ, NXB Đại học sưp hạm.

2. Lê Huy Bắc (2010), Văn học Mỹ, NXB Đại học sư phạm.

3. Lê Huy Bắc (2012), Giáo trình văn học phương Tây, NXB Giáo dục Việt Nam.

4. Nguyễn Minh Châu (1987), Viết về Nam Cao, Báo văn nghệ số 18-7-1987.

5. Mạnh Chương (Dịch) (2015), O’Henry truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học,

Hà Nội.

6. Lê Đình Cúc (2001), Văn học Mỹ mấy vấn đề về tác giả, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

7. Lê Đình Cúc (2004), Tác gia văn học Mỹ Thế kỉ XVIII-XX, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

8. Nguyễn Đức Đàn (1966), Hành trình văn học Mỹ, NXB Văn học, Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn hóa,

Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (1982), “Nam Cao và đôi nét nghệ thuật sáng tạo tâm lý”,

Tạp chí văn học, số 6.

11. Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

12. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.

13. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Hạnh (1992), Nam Cao khát vọng về cuộc sống lương thiện,

xứng đáng, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

15. Phong Lê (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

16. Phong Lê (2004), A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học, Tạp chí văn

học nước ngoài, số 4, NXB Hội nhà văn Việt Nam.

17. Phạm Quang Long (1988), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Việt Nam, NXB

Văn học, Hà Nội.

18. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Nhớ Nam Cao và những bài học của ông, Con

đường đi và thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

19. Trần Văn Suyền (2003), Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc nhà nhân đạo

chủ nghĩa lớn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

20. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB Quân đội

nhân dân.

21. Ngô Vĩnh Viễn (Dịch) (2014), O’Henry, Chiếc lá cuối cùng, NXB Văn học,

Hà Nội.

II. Tài liệu tiếng Anh

22. Mildred H. Larson (1962), Story by O’Henry, English Language Services,

United kingdom

III. Tài liệu trên Internet

23. Nguyễn Hồng Dũng (2009), “Truyện ngắn O’Henry”, Tạp chí Sông Hương

số 183, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c172/n3099/Truyen-ngan-O-

Henry.html

24. Đỗ Lai Thúy (2012), Chất thơ trong văn xuôi, Báo quân đội, https://realsv.

qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/chat-tho-trong-van-xuoi-410212

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn