ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÚY TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 822.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP PGS.TS. CAO THỊ HẢO
THÁI NGUYÊN - 2019
2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thúy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng Thị Thập và
PGS.TS. Cao Thị Hảo - những người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Khoa Ngữ văn, các cán bộ Khoa
Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em
trong quá trình học tập.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên ngày 05 tháng 7 năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thúy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn .......................................................... 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
Chương 1. CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP CỦA
NAM CAO VÀ O’HENRY ................................................................... 11
1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry ............................ 11
1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao .................................................. 11
1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry ................................................... 15
1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà
văn ........................................................................................................... 18
1.2. Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry ...................................... 20
1.3. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry .................................. 25
1.4. Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh ............. 31
1.4.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................ 31
1.4.2. Về văn học so sánh .................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31
Chương 2. NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH .......................................................... 33
2.1. Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry ....................... 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ............... 33
2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức .................................................. 36
2.1.3. Những đề tài khác biệt ............................................................................. 40
2.2. Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao .................................. 44
2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng ............................................................ 44
2.2.2. Những chủ đề khác biệt ........................................................................... 56
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60
Chương 3. NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ
O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH ...................................... 61
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry ................... 61
3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện ............................................... 61
3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện ................................... 65
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry ...................... 76
3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................................... 76
3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật .............................................................. 79
3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật ......................................................................... 81
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 83
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri. Ông là một trong những
nhà văn lớn của thế kỷ XX được nhiều người nghiên cứu. Nam Cao không chỉ được
đánh giá là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà ông
còn là một nhà văn có quan điểm về nghệ thuật tiến bộ và nhất quán. Trong các nhà
văn Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn.
O’Henry (1862-1910) tên thật là William Sydney Porter, là một nhà văn nổi
tiếng người Mỹ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông được mệnh danh là “cây đại
thụ” của nền văn học Mỹ. Cùng với nhà văn Anton Chekhov (Nga) và Guyde
Maupassant (Pháp), O’Henry được coi là một trong ba bậc thầy về nghệ thuật
truyện ngắn thế giới. Truyện ngắn của ông đều là những tác phẩm có giá trị và để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tên ông được đặt cho “Giải thưởng Kỷ
niệm O’Henry” - giải thưởng hàng năm của văn học Mỹ - nhằm tôn vinh những
tác giả có truyện ngắn xuất sắc.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao chỉ gói gọn trong 15 năm (1936- 1951)
nhưng ông đã để lại khối lượng tác phẩm khá lớn (gần 60 truyện, chủ yếu là truyện
ngắn). Cho tới nay, ông vẫn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê
bình và bạn đọc. Tác phẩm của ông vẫn khiến người đọc “nghĩ tiếp”, khơi sâu vào
những “địa tầng” mới để kiếm tìm những “vỉa vàng” lấp lánh.
Với vốn sống phong phú, trong một thời gian ngắn O’Henry cũng đã sáng tác
được một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ (gần 400 truyện ngắn và một số bài thơ).
Kết cấu truyện chặt chẽ, cốt truyện được xếp vào hàng mẫu mực nhất của truyện
ngắn (thế kỷ XX) đã đưa tên tuổi ông vang xa trên toàn thế giới. Truyện ngắn của
O’Henry không chỉ tái hiện xã hội Mỹ đầu thế kỷ XX mà còn thể hiện cái nhìn nhân
văn và lạc quan về con người, cuộc sống. Trải qua thời gian, truyện ngắn của ông
vẫn hấp dẫn độc giả trên toàn thế giới với những ý nghĩa mới mẻ. Vì vậy nghiên
cứu về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của ông vẫn rất cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.3. Văn học so sánh là tên gọi một phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nó
không chỉ cho phép nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác
nhau theo quan hệ giao lưu, ảnh hưởng mà còn cho phép so sánh văn học theo quan
hệ tương đồng. Việc đặt truyện ngắn Nam Cao và O’Henry cạnh nhau trong thế đối
so sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về hai tác giả.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của hai tác giả Nam
Cao và O’Henry nhưng việc đặt chúng trong quan hệ so sánh để thấy ngòi bút đậm
chất nhân văn của hai tác giả thì chưa công trình nào thực hiện có hệ thống.
1.4. Tác phẩm của Nam Cao và O’Henry đã được đưa vào chương trình Ngữ
văn phổ thông và chuyên ngành văn ở các trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Ở bậc
Đại học, Nam Cao là tác giả được nghiên cứu khá kĩ càng. Ở bậc trung học phổ
thông có truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao; trong chương trình trung học cơ sở
có truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) và Chiếc lá cuối cùng của O’Henry. Đây là
những tác phẩm có nhiều giá trị. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần vào
công việc giảng dạy, học tập tác phẩm của hai nhà Nam Cao và O’Henry ở Việt
Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học
nước ngoài
2.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao
Nam Cao là một tài năng, một hiện tượng lớn trong nền văn học hiện đại đầu
thế kỷ XX. Vì vậy, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ông (khoảng hơn
200 tài liệu). Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu tác phẩm
Nam Cao vẫn chưa được chú ý. Ngoài lời “tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn
Trương thì chưa có công trình nào nghiên cứu chính thức về Nam Cao. Phải từ sau
Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao mới được giới nghiên cứu văn học biết đến.
Người đầu tiên quan tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn
Đình Thi trong bài Nam Cao ông viết vào những năm 50.
Sang đến những năm 1960 có thêm nhiều công trình khác về Nam Cao ra đời.
Mở đầu là hai bài viết: Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của nhà
văn hiện thực và Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao của Huệ Chi -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phong Lê. Ở các bài viết này, hai nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nhận định và đánh
giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.
Năm 1961, Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức cũng có hai công trình nghiên cứu
về Nam Cao. Với cuốn Văn học Việt Nam 1930-1945, Phan Cư Đệ đã dành một bài
tìm hiểu về cuộc sống và sáng tác của Nam Cao. Hà Minh Đức trong công trình
Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc lại nhìn Nam Cao ở một góc độ khác. Ông cho
rằng, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt tới trình
độ điển hình hóa cao trên nhiều phương diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu
tả tâm lý nhân vật.
Năm 1973, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao tiếp tục được ra đời.
Trong đó có giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 của Nguyễn Hoành
Khung. Trong chương Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh đến tài năng
của Nam Cao trong việc lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày.
Trong cuốn sách Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), nhà nghiên cứu Phan
Cư Đệ một lần nữa nhắc đến Nam Cao và có nhiều phát hiện mới, độc đáo về sáng
tác của nhà văn này. Theo ông, điểm đặc sắc trong các tác phẩm của Nam Cao chính
là ở nghệ thuật.
Năm 1982, Giáo sư Hà Minh Đức viết cuốn Nam Cao và đôi nét nghệ thuật
sáng tạo tâm lý. Trong đó, ông nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam
Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhưng vẫn quanh quẩn tù túng không tìm được
lối thoát. Nó không được giao lưu với hành động nên có những phát triển ở bên
trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostoievski và
Sekhov” [10, tr.73]. Như vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng
trong sáng tác của Nam Cao. Đó là sự ảnh hưởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật
từ văn học châu Âu thế kỷ XIX.
Năm 2002, bài viết Nhớ Nam Cao và những bài học của ông của Nguyễn Đăng
Mạnh hoàn thành và in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao
như sau: “Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của ông. Nam Cao chú ý đến nhiều nội tâm ngoại hình nhân vật” [18, tr.183]. Đặc
biệt, khi đi sâu vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn
khẳng định:“Nam Cao có một lối kể rất biến hóa, cứ nhập thẳng vào đời sống bên
trong nhân vật mà dẫn dắt mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể chuyện
theo quan điểm nhân vật như thế nào tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một
thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tùy tiện mà thực ra hết sức chặt chẽ như
không thể nào phá vỡ nốt” [18, tr.183].
Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao, Viện Văn học cùng
Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao
do giáo sư Phong Lê làm chủ biên. Cuốn sách là tập hợp rất nhiều ý kiến, đánh giá
và tìm tòi khám phá mới về Nam Cao. Chúng tôi quan tâm đến những bài viết liên
quan đến quan đến nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao trong cuốn
sách này.
2.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài
Nam Cao là một nhà văn lớn. Điều này đã được chứng minh qua việc nhà
nghiên cứu N.I. Niculin (Liên xô) trong ba cuốn từ điện đồ sộ: Từ điển bách khoa
văn học giản yếu, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, Từ điển bách khoa văn học đều
đã dành một mục để viết về Nam Cao.
Ở Việt Nam, hướng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với tác giả văn học
nước ngoài đã được manh nha từ những năm 60. Hai nhà nghiên cứu đầu tiên đặt
Nam Cao bên cạnh Dostorevski, Sekhov - các nhà văn lớn trên thế giới - là Phan
Cư Đệ và Hà Minh Đức.
Sang thập 90, phương pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh được các nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong cuốn Nghĩ tiếp
về Nam Cao do Phong Lê chủ biên đã tập hợp và giới thiệu với bạn đọc ba bài viết
về Nam Cao từ góc độ so sánh của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn Ảnh với Tsêkhov
và Nam Cao - một sáng tác hiện thực kiểu mới ;Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa
M.Gorki và Nam Cao; Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ .
Năm 2004, Viện Văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỉ niệm 100 năm ngày
mất của A.Chekhov. Tại hội thảo này, có rất nhiều bài tham luận viết về cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó có bài viết so sánh A.Chekhov
và Nam Cao rất sâu sắc của Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn
học. Với bài viết này, tác giả Phong Lê đã tìm ra những nét giống và khác nhau
trong sáng tác của Nam Cao và A.Chekhov. Từ việc so sánh đó, nhà nghiên cứu
khẳng định sự tương đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ
mệnh ở mỗi người đối với lịch sử dân tộc” và “ở lối tư duy nghệ thuật độc đáo đào
sâu vào đời sống tâm lý và hướng vào cuộc sống nhỏ nhặt thường ngày” [16,
tr.203].
Ngoài ra, ở trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên có một số luận văn Thạc sĩ
so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Đó là luận văn của Phạm Thị Thu:
“So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Runkê
Akutagawa (Nhật Bản)”, luận văn của Lương Thị Lan “Một số vấn đề thi pháp
truyện ngắn Nam Cao” (so sánh với thi pháp truyện ngắn A.Sekhov).
Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong
phú và đa dạng, với hàng trăm tài liệu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, chúng
tôi muốn tập trung khai thác các tài liệu liên quan đến truyện ngắn của Nam Cao và so
sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng sẽ
khám phá những điều còn ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời so sánh với
truyện ngắn của O’Henry để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt.
2.2. Vấn đề nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry
2.2.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry ở nước ngoài
Các tác phẩm của O’Henry ra đời đã hơn một thế kỷ nhưng đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các
tác phẩm của ông. Đánh từ khóa O’Henry trên Google, trong 2 giây ta có
15.600.000 kết quả. Có thể nói, O’Henry đã chinh phục hàng triệu độc giả cũng
như nhiều nhà phê bình văn học thế giới. Trong các tài liệu mà chúng tôi tìm được,
có một số bài viết và công trình đáng chú ý như: O’Henry, con người và tác phẩm
(O’Henry, the man and his work, 1949) của Eugence Hudsonlong, Bút danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry: A biography of William
Sidney porter, 1957) của Gerald Langford....
Cuốn O’Henry, con người và tác phẩm (O’Henry,the man and his work, 1949)
của Eugene Hudsonlong là một cuốn tiểu sử về O’Henry khá đầy đủ vào thời đó.
Eugene Hudsonlong đã giới thiệu cặn kẽ về O’Henry và các sáng tác của ông. Từ
đó, Eugene Hudsonlong đưa ra một cái nhìn tổng quan về tác phẩm của O’Henry,
đồng thời cung cấp bối cảnh lịch sử giúp độc giả đọc các câu chuyện và thơ của
O’Henry dễ dàng hơn. Theo nghiên cứu của Eugence Hudsonlong, O’Henry đã từng
viết thơ nhưng ông nổi tiếng, thành công với truyện ngắn. Cuốn sách này là một bức
tranh sinh động về cuộc đời của O’Henry và bước đầu có những nhận định chính
xác về tư tưởng, nhân cách của nhà văn này.
Cuốn Bút danh O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry:
A biography of William Sidney porter, 1957) của Gerald Langford đã đi sâu tìm hiểu
sự nghiệp của nhà văn O’Henry và quá trình trưởng thành của ông. Cuốn sách tập
trung vào 2 giai đoạn trong cuộc đời của O’Henry là thời gian ông ở Texas và thời
trong tù ở New York. Cuốn sách cũng viết về những thất bại của ông khi còn trẻ, về
việc ông đối mặt với thử thách trong cuộc sống, về vấn đề O’Henry có thật sự có tội
trong vụ biển thủ Ngân hàng Austin. Qua đó, Gerald Langford cũng cung cấp thông
tin, bối cảnh xã hội thời O’Henry.
Trong cuốn Truyện của O’Henry (Story by O’Henry, 1962), nhà nghiên cứu
Mildred H.Larson đã trình bày các nghiên cứu của mình về truyện ngắn của
O’Henry. Ông đánh giá cao cách kết thúc truyện bất ngờ thường có trong truyện
ngắn của O’Henry: “...trong mạch văn lai láng ông triển khai những câu chuyện
một cách khéo léo và phong phú, khiến độc giả không thể bỏ lửng cốt truyện mà
phải đọc từ đầu đến cuối với một ngạc nhiên’’ [22, tr.76].
2.2. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn của O’Henry ở Việt Nam
O’Henry là nhà văn Mỹ sớm được nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền
Nam Việt Nam (từ những năm 1940). Tuy nhiên với thời gian hạn hẹp, chúng tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chỉ có thể bao quát được một số tài liệu xuất hiện trong vòng 20 năm gần đây. Chúng
tôi điểm qua một số công trình đáng chú ý như sau:
Trong cuốn Hành trình văn học Mỹ (1966), phần viết về nhà văn O’Henry,
tác giả Nguyễn Đức Đàn đã chỉ ra rằng: “Ông tìm kiếm không mệt mỏi những cái
bất ngờ và kì lại. Cốt truyện không bao giờ diễn biến một cách logic và phần cuối
bao giờ cũng có một sự kiện đột ngột” [8, tr.86].
Năm 2004, trong cuốn Tác gia văn học Mỹ thế kỷ XVIII-XX của Lê Đình Cúc,
ông đã dành một mục viết về O’Henry. Bài viết có tiêu đề “Tên cảnh sát và bản
thánh ca của văn học Mỹ”. Trong đó Lê Đình Cúc đã nhận xét: “Và còn gì của
O’Henry để lại cho thế hệ mai sau ngoài chất liệu hiện thực cuộc sống, ngoài một
chủ nghĩa nhân đạo bao la, ngoài một tấm lòng nhân hậu đối với thế giới bình dân
chính là ngòi bút châm biếm hài hước của mình” [7, tr.439].
Năm 2009, Nguyễn Hồng Dũng có bài Truyện ngắn của O’Henry đăng trên
Tạp chí Sông Hương (số 183, 2009). Nguyễn Hồng Dũng đã viết về O’Henry: “Ông
hiểu rõ tâm lí những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ
chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động.
Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng
cười gợi lên sự vị tha, nhân ái” [tapchisonghuong.com] [23].
Ngô Vĩnh Viễn trong lời giới thiệu tập Chiếc lá cuối cùng (2014, NXB Văn
học) đã chỉ ra điểm hấp dẫn nhất trong truyện O’Henry là: “Niềm tin của ông vào
con người, vào cuộc sống, cái nhìn vui vẻ, yêu đời trước những thăng trầm của một
số con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, bất hạnh”. Dịch giả Ngô Vĩnh
Viễn ngợi ca: “O’Henry không có cái thâm trầm sâu xa về mặt tư tưởng, không có
tầm rộng lớn về mặt khái quát, điển hình hoặc tính sắc biến trong phê phán xã hội
đương thời như 2 văn hào Nga và Pháp (Sêkhôp và Ghi Đơ Môpat xăng) nhưng tên
tuổi và tác phẩm của ông vẫn tồn tại mãi trong sự yêu thích và mến chuộng của
người đọc khắp nơi trên thế giới, vì niềm tin của ông vào con người và cuộc sống,
vì cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông những thăng trầm của số phận con người” [21,
tr.5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn
O’Henry. Trong cuốn Giáo trình văn học phương Tây (2012, NXB Đại học Sư
phạm), ông đã nhận định về O’Henry: “Đứng về phía thân phận cơ hàn, O’Henry tỏ
rõ tấm lòng yêu thương những người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên không phải vì thế
mà ông không chỉ ra những hạn chế những yếu kém trong tư duy và hành động của
những người thuộc lớp dưới này. Nhưng do phải sáng tác nhanh để đáp ứng nhu cầu
của độc giả, nên ở O’Henry ta thấy nhiều môtip truyện lặp lại điều này cũng sẽ gây
nhàm chán” [3, tr.163].
Qua việc tìm hiểu các công trình trên, chúng tôi rút ta kết luận như sau: Ở nước
ngoài cũng như ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp
cũng như truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry. Các công trình kể trên
đã có những phân tích kĩ lưỡng, những khái quá khách quan, đánh giá đúng thành công
và đóng góp của hai nhà văn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình chuyên
biệt nào so sánh hai nhà văn này. Đây chính là vấn đề chúng tôi quan tâm và triển khai
đề tài. Những công trình này sẽ là tài liệu quý báu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu
thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi hướng đến khám phá và lý giải về truyện ngắn của
Nam Cao và O’Henry trên trên cơ sở so sánh; khẳng định thêm những đóng góp của
Nam Cao và O’Henry ở thể loại truyện ngắn trong hai nền văn học Việt Nam và
Mỹ; từ đó, khẳng định vị trí của truyện ngắn Nam Cao trong dòng chảy của văn học
thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định ba nhiệm vụ chính của
đề tài như sau:
- Khảo cứu tình hình lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Mỹ nửa sau thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX; nghiên cứu sự tác động của yếu tố đó đến truyện ngắn của hai
nhà văn Nam Cao và O’Henry.
- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện
nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện
nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry
trong cái nhìn đối sánh là nội dung, nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và
O’Henry trong sự so sánh tương đồng và khác biệt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối
sánh chúng tôi sẽ tập trung khảo cứu vào các tập truyện ngắn có giá trị và được giới
nghiên cứu đánh giá cao của Nam Cao và O’Henry:
Với Nam Cao chúng tôi tập trung khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập:
- Nam Cao - truyện ngắn chọn lọc của Nhà xuất bản Văn học (2012).
- Tuyển tập Nam Cao (tập 1,tập 2) Nhà xuất bản Văn học (1999), do Hà Minh
Đức biên soạn.
Còn O’Henry với khối lượng tác phẩm đồ sộ nhưng chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu các truyện ngắn trong 2 tập truyện:
- O’Henry Truyện ngắn chọn lọc (NXB văn học, 2009) do Mạnh Chương dịch,
gồm 35 truyện ngắn.
- Chiếc lá cuối cùng (Tập truyện, NXB Văn hóa, 2017) do Ngô Vĩnh Viễn,
Mạnh Chương, Trần Thanh Phương, Nguyễn Việt Long và Ngọc Khánh dịch; gồm
29 truyện ngắn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn học so sánh: Với tư cách là phương pháp luận, văn học
so sánh giúp chúng tôi nghiên cứu, nhìn nhận tác phẩm trong cái nhìn tương quan
để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt từ đó đánh giá tác phẩm một cách chính
xác, khách quan.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên
cứu giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng
nghiên cứu: truyện ngắn Nam Cao và O’Henry.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên
cứu xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản
tác phẩm một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình
thức cũng như nội dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội
giúp chúng tôi đánh giá toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nam
Cao và O’Henry.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: khảo
sát, thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh,…
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến việc so sánh truyện ngắn của hai nhà văn
Nam Cao và O’Henry để đánh giá, khẳng định nhà văn Nam Cao trong dòng chảy
của văn học thế giới. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
học và dạy học, nghiên cứu các tác phẩm của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry nói
riêng, học và dạy văn học hiện đại nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cuộc đời, quan niệm sáng tác, sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry.
Chương 2: Nội dung truyện ngắn Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh.
Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn
đối sánh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 1
CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP
CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY
1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry
1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao
Lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu và nửa đầu thế kỉ XX là thời kì nhân
dân Việt Nam chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Năm 1958, thực dân Pháp nổ
súng xâm lược nước ta. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến
hành đấu tranh quyết liệt chống lại quân thù. Mặc dù vậy, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã dần thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh nổ ra của
nhân dân đều bị thất bại.
Với việc kí kết hiệp ước Harmand (1883-1884), triều đình nhà Nguyễn chính
thức công nhận sự đô hộ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Sang đầu thế kỷ XX khi
bình định thành công nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay ngay vào công
cuộc khai thác thuộc địa.
Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông
Dương dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp
khủng bố mọi sự chống đối, dùng chính sách “chia để trị” chia nước ta thành ba
kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Chúng duy trì triều đình phong kiến nhà
Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột
về kinh tế. Nhân dân ta mất nước, trở thành nô lệ, bị đàn áp bóc lột, cuộc sống vô
cùng cực khổ.
Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Đông Dương lần
thứ nhất (1897-1918), khai thác thuộc địa lần hai (1919-1929), trong đó lấy Việt
Nam làm trọng điểm. Tư bản Pháp bỏ vồn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập đồn cao
su, cà phê, chè…) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng…) để thu lợi
nhuận nhiều và nhanh. Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường
sắt, phát triển cơ sở công nghiệp chế biến, độc quyền ngoại thương, Ngân hàng
Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính đặt ra hàng trăm thứ thuế tàn ác nhất là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả nền kinh tế nước
ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh
tế thuộc địa, phụ thuộc vào Pháp.
Cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa nước ta trong giai đoạn
này cũng có những biến đổi sâu sắc. Đó là xung đột giữa cái “cũ” và cái “mới”.
Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hóa, xóa bỏ hệ thống giáo dục phong kiến
thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Chúng mở nhà tù, trại giam nhiều hơn
trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn
chế in sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả hơn 90% dân ta bị mù chữ, bị bưng
bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài. Xã hội Việt Nam có những thay đổi rõ nét từ
xã hội phong kiến thành xã hội nửa phong kiến. Lúc này trong xã hội Việt Nam nổi
lên 2 mẫu thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp còn gọi là mâu thuẫn dân tộc. Mẫu thuẫn thứ hai là mối mâu thuẫn của
nhân dân Việt Nam, mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến còn gọi là mâu
thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này tồn tại song song và đặt ra yêu cầu phải giải quyết
lúc bấy giờ.
Giữa một thời kì xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến tối tăm và ngột ngạt
ấy, Nam Cao đã ra đời. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1917 tại
làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam.
Làng Đại Hoàng nơi ông sống thời bấy giờ giống như một bức tranh thu nhỏ của xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là một ngôi làng xa phủ, xa huyện, chính vì vậy quan
lại, cường hào trong làng có cơ hội hoành hành. Tại ngôi làng của ông, thường xảy
ra các vụ kiện tụng nhau giữa bọn quyền thế, giàu có vì vậy không ít người dân phải
li hương. Những sự việc có thực đã diễn ra ở vùng quê tối tăm này đều được Nam
Cao ghi lại trong những trang sách của mình với dấu ấn nặng nề…
Ông sống trọn nửa đầu thế kỉ XX. Cuộc đời ông gắn với một giai đoạn lịch
sử đau thương của dân tộc. Những biến động xã hội, văn hóa và thân phận con người
trong thời kỳ này được ông cảm nhận, phản ánh hết sức sinh động trong toàn bộ
sáng tác của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống gặp rất nhiều khó
khăn. Trong gia đình, chỉ có Nam Cao được đi học. Cái đói, cái nghèo, bệnh tật đeo
đuổi và giày vò ông ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi thi trượt Thành chung, Nam Cao
rời bỏ làng quê nghèo khổ vào Sài Gòn kiếm sống theo một người cậu làm may.
Rời quê, Nam Cao ấp ủ nhiều dự định, nhiều mơ ước. Ông mơ ước được sang Pháp
để mở rộng tầm biểu biết, nhưng cuối cùng bệnh tật lại trả ông về với quê hương.
Về Sài Gòn, Nam Cao tiếp tục ôn lại và thi đậu Thành chung. Ông định xin làm
công chức nhưng rồi bệnh tật nên không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy
học ở một trường tư thục do người nhà mở. Cuộc sống của một anh giáo khổ trường
tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư
sản nghèo trong xã hội cũ.
Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, ngôi trường bị đóng cửa. Nam
Cao phải sống chật vật bằng nghề viết văn, dạy thuê và cuối cùng không tồn tại ở
chốn thị thành này được Nam Cao phải về quê “ăn bám” vợ.
Năm 1943 Nam Cao ra nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn khác
như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyên Hồng… Khi cơ sở văn
hoá cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về
quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.
Năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau đó được
làm chủ tịch ủy ban khởi nghĩa xã. Ít lâu sau Nam Cao được điều lên Hà Nội rồi
công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân tiến vào vùng Nam
Trung Bộ. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến đồng
thời làm cán bộ thông tin tuyên truyền: viết tin, viết tài liệu, viết truyền đơn… Thời
gian này, Nam Cao vinh dự ra nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1948). Vào tháng
11 năm 1951, khi tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu Liên
khu III. Nam Cao có ý định nhân dịp này ghé về quê mình, thu thập thêm tài liệu để
viết về một tác phẩm về quê hương trong cách mạng. Nhưng không may Nam Cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đã ngã xuống gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình) khi tài năng đương độ chín và biết
bao dự định sáng tạo vẫn còn dang dở.
Cuộc đời của nhà văn Nam Cao mang nhiều nét tiêu biểu cho tầng lớp trí
thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Có hoài bão, có ước mơ, có lý tưởng nhưng
đều không thực hiện được. Cuộc sống của ông phải vật lộn với miếng cơm, manh
áo, trải qua nhiều lần thất nghiệp, ngược xuôi trong Nam, ngoài Bắc, nhưng cuộc
đời của Nam Cao đã sớm được soi sáng nhờ ánh sáng của Đảng và Cách mạng.
Chính điều này đã giúp ông thoát khỏi những bế tắc, và mang đến cuộc sống có ý
nghĩa cho ông.
Nói tới Nam Cao, chúng ta nhớ ngay đến một con người có tấm lòng sâu sắc,
có ý thức gắn bó thủy chung với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết
đó là những người thân trong gia đình. Bề ngoài, Nam Cao có vẻ lạnh lùng ít nói,
nhưng đời sống nội tâm vô cùng phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với
bản thân để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới một cuộc sống cao
đẹp.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng đôn hậu, hiền hòa,
chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những
người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ với xã hội đương
thời. Ông cho rằng: Không có tình thương thì không xứng đáng gọi là người. Ông
không nỡ ăn bát cơm ngon dành cho riêng mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả
nhà, vì vậy viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót
thương, cảm thông. Ông luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống vì thế dù
những chuyện rất thường ngày nhưng Nam Cao lại nêu lên được vấn đề xã hội lớn
lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất, bi phẫn
của một trí thức. Họ là những người có ý thức về sự sống mà không được sống cho
ra người. Nam Cao là một nhà văn chân chính, có tấm lòng nhân hậu, chan chứa
yêu thương, có đời sống tinh thần phong phú. Những tác phẩm ông sáng tác đều
chứa tinh thần nhân đạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thời kỳ nước Mỹ vừa trải qua nội chiến, tái
thiết đất nước, kinh tế, xã hội Mỹ đã bước vào thời kỳ khá phát triển và ổn định.
Tuy nhiên cũng chính từ đây đã nảy sinh ra những vấn đề xã hội của việc đô thị hóa
và công nghiệp hóa. Sự phân cách giàu - nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ
ngày càng nhiều cùng với tình trạng khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự
thành đạt, giàu sang song hành với đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Đời sống xã hội
Mỹ vì thế cực kỳ phức tạp với bao điều tương phản: phồn vinh và cùng khổ, tự do
dân chủ và bất công bạo ngược.
Tình hình tư tưởng xã hội ở Mỹ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX khá phức
tạp. Có những học thuyết du nhập từ Châu Âu, thích ứng với điều kiện lịch sử xã
hội Mỹ, đã tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong đời sống, chính trị, văn hóa Mỹ. Là
đất nước của tự do tôn giáo nên Mỹ có nhiều loại hình tín ngưỡng, giáo phái và nhà
thờ. Khó có thể mô tả lối sống hay đặc tính Mỹ điển hình. Người Mỹ được người
nước ngoài nhận thức qua cách cử xử ít nhiều sự mâu thuẫn: ít đặt nặng tầm quan
trọng của danh dự và phẩm giá; khiêm tốn trước lời khen và thích chế nhạo lỗi lầm
yếu kém của bản thân; tự hào kín đáo về những gì mình đạt được và phê phán những
sự việc chưa hoàn thiện…
Nhìn chung, đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống về quyền bình đẳng, tự
do, ảnh hưởng của các hệ thống tư tưởng và sự phát triển nhanh và mạnh của xã hội
công nghiệp - tiêu thụ cuối thế kỷ XIX đầu XX, đã làm nảy sinh trong tâm lý người
Mỹ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa lạc quan. O’Henry là một
trong những “đứa con” sinh ra trong thời đại đó.
O’Henry tên thật William Sydney Porter. Ông có nhiều bút danh như SH
Peters, Janmes L.Bliss, TB Dowd và Howard Clark. O’Henry sinh ngày 11 tháng 9
năm 1862 tại Greensboro, North Carlina. Cuộc đời ông có khá nhiều biến cố.
O’Henry sinh ra và lớn lên trong một gia đình không giàu có nhưng được ngưỡng
mộ vì Porter là dòng họ tri thức, có nhiều đóng góp nhân đạo cho xã hội. Cha
O’Henry là bác sỹ Algernon Sidney (1825-1888) nổi tiếng ở quận Guifox... Mẹ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
O’Henry là bà Mary Jane Virginia Swaim Porter (1833-1865), con gái của chủ bút
tờ báo Ái Quốc ở Grinsboro.
Khi lên 3 tuổi thì cơn khủng hoảng đen tối đã đổ xuống gia đình ông. Chiến
tranh đã khiến ông và người thân chịu nhiều mất mát. Mẹ ông mất sau khi sinh em
của ông được sáu tháng. Không lâu sau, đứa bé ấy cũng qua đời. Tinh thần của cha
ông suy sụp. Vài năm sau, cha ông nghiện rượu và qua đời. Đứa trẻ tội nghiệp
William lại phải chịu thêm mất mát về tình yêu thương và giáo dục của cha mẹ.
Khi còn nhỏ, Porter luôn thích đọc sách, ông đọc mọi thứ từ tác phẩm kinh điển
đến tiểu thuyết rẻ tiền hoặc bất cứ cuốn sách nào rơi vào tay mình. Chính vì vậy, ông
không bao giờ cảm thấy cô đơn kể cả khi một mình sống trong trang trại bao la rộng
lớn. Porter tốt nghiệp từ trường tiểu học của người cô ruột Evelina Maria Porter vào
năm 1876. Sau đó, ông theo học tại trường Trung học Lindsey Street.
Năm 1879, ông bắt đầu làm việc tại nhà thuốc của người chú ở Greensboro.
19 tuổi, Porter đã được cấp phép làm dược sĩ. Tại hiệu thuốc, ông cũng thể hiện tài
năng nghệ thuật thiên bẩm của mình bằng cách vẽ phác họa những người đến cửa
hàng và ông được mọi người ngưỡng mộ bởi kỹ năng vẽ của mình.
Năm 1882, O’Henry phát hiện mình có triệu chứng bị lao. Vào tháng 3 năm
đó ông cùng bác sĩ Jame K.Hall đến Texas, hi vọng rằng không khí đồng nội sẽ giúp
giảm bớt căn bệnh ngày càng trầm trọng của ông. Sau khi hồi phục, vào khoảng
năm 1884, ông chuyển đến Austin. Tại đó ông làm nhiều công việc khác nhau: từ
dược sĩ, đến phóng viên, ngân hàng, nhân viên địa chính, vẽ kỹ thuật và kiến trúc,
đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in, nhà báo… Ông
cũng bắt đầu viết văn và có những truyện ngắn đầu tay, các mẩu truyện cười đăng
trên các nhật báo, tuần báo miền Tây Nam. Ngoài ra O’Henry là một ca sĩ, nhạc sĩ
giỏi và rất thích đóng phim truyền hình.
Chuyện tình cảm riêng tư của O’Henry cũng có nhiều thăng trầm. Ông yêu
Athol Estes, một cô gái chỉ 17 tuổi, con một gia đình giàu có. Vào năm 1887,
O’Henry kết hôn với Athol. Athol đã luôn khuyến khích, ủng hộ chồng theo đuổi
sự nghiệp viết văn. Năm 1888, Athol sinh một con trai nhưng đứa trẻ đã chết ngay
sau đó vài giờ. Năm kế tiếp bà sinh cô con gái Margaret Worth Porter.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Người bạn cũ của O’Henry là Richard Hall đã giới thiệu ông một công việc.
Ông bắt đầu làm người soạn thảo, vẽ bản đồ khảo sát và ghi chép hiện trường tại
văn phòng Địa chính Texas (GLO) vào năm 1887 với mức lương 100 đôla một
tháng. Tiền lương đủ để nuôi sống gia đình nhưng ông vẫn tiếp tục viết bài cho các
tạp chí. Khi người bạn của ông thua cuộc bầu cử, Porter phải thôi việc vào đầu năm
1891. Cùng năm đó, Porter đã bắt đầu làm việc tại Ngân hàng nhưng do bất cẩn
trong việc giữ sổ sách hoặc có thể đã thật sự tham ô quỹ mà ông bị buộc tội tham ô
và chấm dứt công việc của mình.
O’Henrey yêu thích văn học cổ điển. Trong khi theo đuổi nhiều kế hoạch của
mình, O’Henry đã bắt đầu viết văn. Ông làm việc ở tuần báo của chính mình mang
tên The Rolling Stone nhưng nó đã thất bại vì không đủ chi phí để hoạt động. Tuy
nhiên, bài viết và bản vẽ của ông đã thu hút sự chú ý của biên tập viên tại tờ báo
Houston Post.
Trong thời gian sống ở Houston, ông bị bắt vì tội tham ô tại ngân hàng ở
Austin vì kểm toán viên liên bang kiểm tra ngân hàng đã tìm thấy sự thiếu hụt quỹ.
Cha vợ của O’Henry bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù. Ông đã bị xét xử vào ngày 7 tháng
7 năm 1896. Một ngày trước đó, ông bất ngờ chạy trốn đến New Orleans và
Honduras (Trung Mỹ). Ở Honduras, ông đã viết tác phẩm Lũ cắp vặt và những ông
hoàng (Cabbages anh Kings), tác phẩm đầu tay chính thức của ông.
Lúc đó, Athol bị ốm nặng. Biết được tin vợ mình sắp qua đời, Porter quay
trở lại Austin và tháng 2 năm 1897 và tự thú trước tòa. Trong khi chờ đợi xét xử, bố
vợ của Porter một lần nữa gửi tiền bảo lãnh để ông có thể ở lại với Athol và con gái
Margaret. Porter bị buộc tội tham ô vào tháng 2 năm 1898 và bị kết án năm năm tù
giam tại Ohio Penitentiary. Vì O’Henry là một dược sĩ được cấp phép, ông đã được
đưa đến làm việc tại bênh viện của nhà tù.
Ở trong tù, ông đã bắt đầu viết truyện. Sau khi bị giam ba năm, O’Henry
được thả vào ngày 24 tháng 7 năm 1901 vì cải tạo tốt. O’Henry đoàn tụ với cô con
gái 11 tuổi Margaret. Sau khi ra tù, ông được mời ký hợp đồng với một tòa soạn và
ngày lập tức trở thành nhà văn được đón nhận nhanh nhất. Năm 1902, ông di chuyển
đến New York. Ở đó, ông đã viết truyện ngắn cho tuần báo New York World Sunday
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Magazine. Sau đó, O’Henry nghiện rượu nặng và đến 1908, sức khỏe của ông đã
xấu vì thế không thể viết tiếp được. Người vợ thứ hai đã bỏ ông. Ông qua đời vào
năm 1910 do xơ gan biến chứng của bênh tiểu đường cùng sự cô đơn, nghèo túng.
O’Henry là một nhà văn viết truyện tài năng và đã để lại cho chúng ta một di
sản phong phú là những câu chuyện tuyệt vời. Ông đã sống một cuộc đời rất phong
phú, phải nếm trải không ít những mất mát, đắng cay, tủi nhục: tuổi thơ không được
yêu thương, chăm sóc; thời thanh niên lang bạt, kiếm sống vất vả bằng nhiều nghề
khác nhau; khi trưởng thành phải chịu nỗi đau mất người thân và từng chịu cảnh tù
tội. Các biến cố trong cuộc đời đã đưa O’Henry ông đến với con đường văn chương
và chi phối đến những vấn đề ông phản ánh trong tác phẩm của mình. O’Henry là
một trong những người lao động khốn khổ của thời đại đó. Ông đã viết những trang
truyện ngắn về đời sống của những người thuộc tầng lớp mình với sự am hiểu sâu
sắc cùng tấm lòng nhân ái bao la.
O’Henry không phải là một nhà tư tưởng, cũng không chịu ảnh hưởng sâu
đậm của một triết thuyết cụ thể nào. Theo cách của riêng mình, O’Henry cũng như
nhiều tác giả Mỹ khác đã thể hiện tư tưởng trong tác phẩm. Ông bênh vực những
người nghèo khổ và đồng thời phê phán bất công xã hội, thủ đoạn bóc lột tàn bạo
của tầng lớp tư sản Mỹ. Nét đặc biệt là sự khôi hài với những biến tấu đa dạng:
hài hước vui nhộn, giễu cợt sâu cay, những trò lừa tinh tế…
1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà văn
Nam Cao và O’Henry không chỉ sinh trưởng ở hai quốc gia với hai nền văn
hóa khác nhau mà còn có sự cách biệt thời đại. O’Henry sống chủ yếu ở nửa sau
của thế kỷ XIX, Nam Cao sống ở nửa đầu của thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX vẫn chưa phát triển đáng kể, nếu không muốn nói là vẫn rất lạc hậu. Trong
khi đó, nửa sau thế kỉ XIX, kinh tế xã hội Mỹ đã phát triển mạnh, đi trước kinh tế
xã hội Việt Nam rất nhiều. Điểm khác biệt nổi bật và xuyên suốt lịch sử Việt Nam
và Mỹ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là sự khác biệt về thể chế. Với sự chi phối của
nhiều yếu tố khác nhau nên cùng một thời điểm lịch sử hai nước là hai con đường,
hai chế độ chính trị khác nhau…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở Việt Nam lúc này nhân dân đang phải chịu sự áp bức bóc lột tàn bạo của
thực dân Pháp. Vì thế trong những năm đầu thế kỉ XX, nước ta chính thức trở thành
nước nửa thuộc địa nửa phong kiến - một chế độ mà ở đó còn tồn tại đan xen cả
hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp
tư sản, công nhân xã hội phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền (mặc dù đó chỉ là
hình thức).
Còn ở Mỹ, trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nền kinh tế nước
Mĩ vươn lên đứng hàng đầu thế giới, trở thành nước tư bản chủ nghĩa Mỹ chủ trương
đi xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ ở các nước thuộc địa.
Thời đại của hai nhà văn Nam Cao và O’ Henry tuy có khác nhau về thời
gian, có sự khác biệt về thể chế nhưng giữa Việt Nam và Mĩ vẫn có điểm tương
đồng nhất định. Điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất là cuộc sống của tầng lớp nhân
dân lao động.
Mặc dù Mỹ đã trở thành nước tư bản phát triển từ thế kỉ XIX nhưng điều đó
không làm cho đời sống của nhân dân lao động nước Mỹ trở nên tốt đẹp hơn. Việc
đô thị hóa và công nghiệp hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Sự phân cách giàu
nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ ngày càng nhiều cùng với tình trạng
khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự thành đạt giàu sang song hành với
đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Thành phố New York cuối thế kỷ XIX đã trở
thành phố lớn, hiện đại nhưng dưới vẻ hào nhoáng vẫn có những khu phố nghèo,
đầy rẫy những người thất nghiệp, vô gia cư. Bản thân nhà văn O’Henry cũng từng
trải qua những năm tháng kiếm sống vất vả như hàng triệu người lao động nghèo
khác.
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, dưới chế độ thực dân nửa phong
kiến, từ thành thị đến nông thôn, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, bấp bênh.
Đặc biệt là tầng lớp lao động thị dân nghèo và nông dân. Sự lạc hậu và đói nghèo
là điểm nổi bật nhất trong đời sống của người Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Điểm tương đồng thứ hai là về cuộc đời của hai nhà văn: Dù sống ở hai quốc
gia khác nhau, hai thời đại khác nhau nhưng cuộc đời của hai nhà văn lại có sự gặp
gỡ. Cả hai nhà văn đều chứng kiến xã hội bất công, chính những điều này đã ảnh
hưởng không ít đến nội dung trong các tác phẩm của họ. Hơn thế, họ là những người
trải nghiệm cuộc sống khốn khó của tầng lớp thấp trong xã hội. O’Henry và Nam
Cao đều là những người lao động phải lao động cật lực cùng những người trong
tầng lớp lao động để kiếm sống. Cả hai đều phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác
nhau. Điều này lý giải vì sao của hai nhà văn tuy sống ở hai quốc gia khác nhau, ở
hai thời đại khác nhau mà tác phẩm của họ lại có những điểm gặp gỡ về giá trị thẩm
mĩ. Điểm gặp gỡ giữa họ chính là cách cảm nhận cuộc sống từ góc nhìn đầy nhân
văn. Chính điều này đã qui định quan điểm sáng tác và nội dung hiện thực phản ánh
trong các tác phẩm của họ.
1.2. Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry
Nam Cao và O’Henry là nhà văn. Họ không phải là các nhà lý thuyết hay phê
bình văn học. Cả hai nhà văn không đưa những vấn đề lý thuyết mà chỉ chuyên tâm
sáng tác. Tuy nhiên trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà văn này, đều thể hiện được
quan điểm viết văn của mình.
Nam Cao không chỉ được biết đến là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư
tưởng nhân đạo phong phú và sâu sắc, mà còn là nhà văn có quan điểm nghệ thuật
tiến bộ và nhất quán. Những quan niệm này ít khi được phát biểu trực tiếp dưới dạng
lí luận mà thường được bộc lộ trong những sáng tác và hình tượng nghệ thuật của
Nam Cao.
Ban đầu, chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li thi vị
hóa hiện thực, Nam Cao đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí dễ dãi. Nhưng
vốn là một nghệ sĩ chân chính, giàu tính thương yêu quần chúng lao khổ, Nam Cao
đã sớm nhận ra thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than của đông
đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con
đường nghệ thuật hiện thực chân chính. Trong Giăng sáng Nam Cao viết: “Chao
ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than” [12, tr.318].
Tác giả đã mượn lời của nhân vật Điền để bày tỏ thái độ phủ định của mình với
quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông cho rằng loại văn chương mơ mộng hão
huyện cũng giống như ánh trăng xanh huyền ảo chứa đầy dối lừa bởi ánh trăng làm
đẹp cả những cảnh thực ra chỉ tầm thường, xấu xa. Có biết đâu những căn lều nát,
nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp người. Theo Nam Cao “Người
cầm bút chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong lao khổ,
mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…” [12, tr.318]. Không
những vậy, Nam Cao còn quan niệm văn chương chân chính thì phải thấm đượm tư
tưởng nhân đạo (Nghệ thuật phải phụng sự con người, vì con người). Tác phẩm văn
học có giá trị không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn phải có giá trị nhân đạo
sâu sắc. Quan niệm này được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa: “Một tác phẩm thật
sự có giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho
cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì vừa lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại
vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người
gần người hơn” [13, tr.16].
Chủ trương văn học phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng
đau khổ của quần chúng, Nam Cao cũng không tán thành loại sáng tác “tả chân”,
hời hợt “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Ông chủ trương nghệ thuật là một lĩnh
vực hoạt động đòi hỏi khám phá, đào sâu, tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Qua
nhân vật Hộ trong Đời thừa, Nam Cao đã khẳng định; “Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung
nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi sáng tạo
những gì chưa có…”[13, tr.8]. Quan niệm này trở thành phương châm phấn đấu
trong quá trình sáng tác của Nam Cao.
Nam Cao coi lao động nghệ thuật là hoạt động nghiêm túc, công phu. Nhiệm
vụ của văn chương là bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho con người. Vì vậy đòi hỏi người
cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm trong nghề của mình. Ông lên án gay
gắt sự cẩu thả trong nghề văn: “Sự cẩu thả bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương
rồi nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” [13, tr.8]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao chiến đấu ở Việt Bắc. Từ khói lửa
chiến tranh, ông không nguôi nghĩ về tư cách “con dân nước Việt” về trách nhiệm
của nhà văn trước vận mệnh dân tộc trong kháng chiến, Trong nhật kí Ở rừng Nam
Cao tâm sự: “Nhiều khi phải quên mình đi, quên cái tuổi của mình để thành người
có ích. Có cần gì phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử ? Tạo ra lịch sử lại là sự
nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số đông nhiều hơn ta. Trước sự gian khổ
và hi sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi người cần: biết hi sinh, biết
chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không biết đến tên mình, không nghĩ đến cả
thân mình nữa” [13, tr.361]. Nam Cao say sưa trong mọi công tác, không nề hà lớn
nhỏ với ý nghĩ dứt khoát đặt lợi ích cách mạng, dân tộc lên trên hết. Kháng chiến
bùng nổ, nhà văn “muốn vứt tất cả đi để cầm lấy súng” như một người công dân
yêu nước thật sự. Nam Cao nhủ “sống đã rồi hãy viết” và hăng hái lao mình vào
phục vụ kháng chiến. Không phải ông không còn say mê với văn chương mà ông
hiểu rằng cuộc sống cách mạng còn thiêng liêng hơn gấp nhiều lần. Trước sau nhà
văn vẫn trung thành với một ý nghĩ “góp sức vào việc không nghệ thuật lúc này
chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Đó là một thái độ đúng đắn,
đẹp đẽ nhất của người nghệ sĩ chân chính lúc đó.
Những quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước và sau Cách mạng tháng
Tám cho thấy ông luôn sáng tác văn chương bằng một cái tâm trong sáng, đầy nhiệt
huyết. Chính điều đã nuôi dưỡng và phát lộ tài năng văn chương xuất chúng của ông,
đưa ông trở thành nhà nhân đạo lớn, môt nhà hiện thực bậc thầy.
Giữa những xu hướng văn chương thoát li thi vị hóa đời sống hiện thực và
chạy theo những thị hiếu tầm thường của một số ít độc giả trước đây, quan điểm
nghệ thuật của Nam Cao vừa đúng đắn, vừa tiến bộ, vừa có ý nghĩa chiến đấu rõ
rệt.
Cũng giống như Nam Cao, O’Henry trước hết là một nhà hiện thực. Tác phẩm
của ông lấy chất liệu từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống, thể hiện cảm thức trước
cuộc sống.
Khi trò chuyện với bạn bè trong một hiệu ăn, trả lời cho câu hỏi làm thế nào
để tìm được cốt truyện cho nhiều truyện ngắn, O’Henry có nói: “Từ mọi nơi, mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thứ đều có sẵn câu chuyện trong bản thực đơn này”. Sau đó là sự ra đời của truyện
ngắn Xuân về trên thực đơn
O’Henry quan niệm: “truyện ngắn hay giống như viên thuốc đắng bọc
đường”. Ông sáng tạo ra các tác phẩm một cách nghiêm túc, không hề xem văn
chương là trò đùa mặc dù ông luôn xây dựng nhiều nghịch cảnh khôi hài trong văn
chương. Nhân vật người kể chuyện trong Kí tự và cành ghép quan niệm: “Nghệ
thuật trần thuật tập trung thể hiện cho độc giả mọi thứ họ muốn biết nhưng chỉ sau
khi anh bộc lộ những quan niệm yêu thích của riêng mình vào những chủ đề xa lạ
với chủ đề chính. Một truyện ngắn hay thì giống như viên thuốc đắng bọc đường”
[3, tr.275]. Chính quan niệm này đã thể hiện trọn vẹn đặc trưng tự sự của ông. Hầu
hết truyện ngắn của O’Henry đều dễ đọc. Người đọc bị lôi cuốn vào những tình
huống gay cấn, vào những câu văn dung dị, đầy hình ảnh và lối chơi chữ dí dỏm
góp phần đắc lực trong việc tạo nên tiếng cười. Nhưng đằng sau nó lại là câu chuyện
khác.
Bông hồng Đixie là một trong số truyện ngắn thành công nhất của O’Henry
về phương diện này. Đây là truyện ngắn hài hước, châm biếm tiêu biểu bậc nhất của
O’Henry. Nó thể hiện cách giấu đi “chủ đề chính” trong kĩ thuật tự sự “bọc đường”.
Nhưng một khi lớp vỏ bọc hài hước ấy tan ra thì cả một hiện thực nghiệt ngã hiện
lên. O’Henry không chỉ châm biếm cách làm báo thiếu trách nhiệm mà còn phê
phán cái xã hội dung túng cho điều đó.
Ngoài ra O’Henry còn cho rằng: thiên chức của nghệ thuật là thanh lọc tâm
hồn hướng thiện cho con người.
Trong nhiều tác phẩm, thông qua người kể chuyện, O’Henry đưa ra quan
niệm về sáng tạo nghệ thuật của mình. Khác với nhà văn Nam Cao, O’Henry ít khi
phát biểu trực tiếp quan niệm về sáng tạo văn học nhưng qua truyện của ông, ta thấy
ông dụng công đan cài nhiều ý tưởng của riêng mình.Việc này đã góp phần tạo nên
sức hấp dẫn cho mạch trần thuật, khiến người đọc phải lần theo mối dây tư tưởng
trực tiếp ấy để tác giả thực sự muốn nói với họ.
Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng là quan niệm của O’Henry về thiên
chức và sức mạnh của nghệ thuật. Chiếc lá cụ Behrman vẽ lên tường giống y như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thật đã cứu sống Johnsy. Điều này đã khẳng định vai trò vinh quang của nghệ thuật:
Nghệ thuật phục vụ cho cuộc sống con người.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà O’Henry nhắc nhiều đến nghệ thuật, đặc biệt là
âm nhạc và hội họa. O’Henry yêu nghệ thuật nhưng không đến mức mù quáng cho
rằng nghệ thuật có thể làm nên tất cả. Nghệ thuật là vĩ đại nhưng vẫn có giới hạn
của nó. Quả thật, con người ta không thể sống chỉ bằng âm nhạc và hội họa. Nghệ
thuật chỉ có có thể giúp thanh lọc tâm hồn nhưng hoàn toàn không thể ‘thanh lọc dạ
dày’.
Nghệ thuật cảnh tỉnh con người bởi nghệ thuật am hiểu sâu sắc bản chất con
người. Với quan niệm này O’Henry đã dựng lên một họa sĩ tài năng độc đáo mà qua
nét vẽ của anh, bản chất con người từ cao thượng, thấp hèn, lọc lừa đến dối trá đều
lộ rõ. Con người sáng tạo nên nghệ thuật và đến lượt mình, nghệ thuật giúp con
người sống đẹp hơn. O’Henry thấu hiểu điều đó vì vậy ông rất chú trọng đến thế
giới của nghệ sĩ nghèo.
Sự nghiệp của O’Henry nổi danh từ khi lên New York. Nhờ chịu khó đi nhiều
viết nhiều và tiếp xúc với đủ hạng người nên theo nhà nghiên cứu Van Uych Brucx:
“New York dường như thuộc về O’Henry” bởi vì “Sự hiếu kì mới mẻ mà với nó,
ông đã mang lại tình cảm kì diệu của ông về mảnh đất ấy… khiến sự tinh khôi văn
học vượt qua cái giản dị mà đôi lúc có phần bình thường của ông, cả trò khôi hài
không thể nhịn được cười lẫn hành văn hơn điệu của ông” [1, tr.143]. Với nhận xét
này Van Uych Brucx đã thâu tóm hết những đặc điểm chính trong phong cách nghệ
thuật của O’Henry.
Mỗi nhà văn có cách bày tỏ quan niệm về nghệ thuật khác nhau. Nam Cao
thường bày tỏ về quan niệm nghệ thuật qua những lời phát biểu của nhân vật trong
các tác phẩm văn chương, còn O’Henry ít khi đưa ra quan niệm nghệ thuật qualời
phát biểu của nhân văn học mà ông dụng công đan cài ý tưởng qua sự kiện, ý nghĩa
câu chuyện. Việc làm này cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho các câu chuyện
của ông. Dù theo các cách nào ta đều thấy ở hai nhà văn điểm chung, họ là người
có trách nhiệm với việc viết văn, luôn tìm tòi sáng tạo, xem sự sáng tạo quyết định
sự sống còn của nghề viết. Đặc biệt họ đều xác định mục đích của nghệ thuật là vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
con người. Tác phẩm của họ được sáng tạo ra một cách nghiêm túc, và ta đều nhận
ra rằng: quan điểm nghệ thuật của Nam Cao và O’Henry vừa đúng đắn, vừa tiến bộ,
vừa có ý nghĩa chiến đấu rõ rệt. Sự nghiệp văn chương của họ thống nhất với quan
điểm sáng tạo văn chương của họ.
1.3. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry
Nhắc đến sự nghiệp văn chương của nhà văn Nam Cao, ta thấy trong suốt
cuộc đời cầm bút Nam Cao luôn xác định đúng đắn mối quan hệ giữa sống và viết.
Mấy năm đầu, nhà văn chịu ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn thoát ly hiện
thực, nhưng cũng nhanh chóng nhận ra đó là thứ văn chương xa lạ với đời sống
khốn cùng của nhân dân và đã quyết định từ bỏ để đến với con đường nghệ thuật
hiện thực chủ nghĩa.
Trước cách mạng, Nam Cao bắt đầu có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng tên
tuổi của ông chỉ thực sự được biết đến với sự xuất hiện của kiệt tác Chí Phèo (1941).
Sự nghiệp văn học của Nam Cao chia làm 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng
tháng Tám.
Trước cách mạng, Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Các sáng tác
của ông tập trung vào hai đề tài chính: người trí thức tiểu tư sản nghèo và người
nông dân nghèo. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn:
Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ,
Cười... và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã
miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những nhà văn
nghèo, những “giáo khổ trường tư”, học sinh thất nghiệp...
Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó đặt ra
những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi
kịch dai dẳng thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về sự sống
nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng áo
cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống một cuộc “đời
thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự
sống tàn phá tâm hồn con người, đồng thời đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong
của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự
có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở đề tài người nông dân, Nam Cao quan tâm đến những người hẩm hiu bị áp
bức bóc lột nhiều nhất. Ông đi sâu vào số phận của những con người bị chà đạp.
Tuy giọng văn có khi lạnh lùng nhưng Nam Cao đã bênh vực quyền sống, quyền
nhân phẩm của con người bất hạnh đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lão
Hạc, Một đám cưới). Viết về người nông dân bị tha hóa, nhà văn lên án chế độ
phong kiến tàn bạo, bên cạnh đó cũng ca ngợi bản chất của người nông dân ngay cả
khi họ bị vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi
cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý
trong tâm hồn họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo...). Từ đó, Nam Cao đã tố cáo
gay gắt xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống, hủy hoại tài năng, hủy diệt tâm
hồn, đồng thời nhà văn ca ngợi cuộc đấu tranh trung thực, dũng cảm của người trí
thức để vươn tới một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, xứng đáng với con người. Đây
chính là chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.
Dù ở đề tài nào, sáng tác của Nam Cao cũng chứa đựng nội dung triết lý sâu
sắc, khái quát được bản chất cuộc sống thông qua các mối quan hệ: vật chất - ý thức,
hoàn cảnh - tính cách, hiện tượng - bản chất. Đồng thời ta thấy ở đó niềm trăn trở,
sự day dứt, trước tình trạng nhân cách, nhân phẩm của con người bị biến đổi dưới
tác động của hoàn cảnh sống khắc nghiệt, nỗi đau đớn trước thực trạng con người
bị “chết mòn” về tinh thần, lẽ sống, bị hủy hoại cả nhân hình, nhân tính trong cái xã
hội ngột ngạt, vô nhân đạo đương thời.
Sau cách mạng, Nam Cao nhanh chóng hòa nhập vào cuộc kháng chiến của
dân tộc và trở thành một trong những cây bút tiên phong của văn học cách mạng.
Đề tài chủ yếu là viết về cuộc sống kháng chiến với các tác phẩm: Đôi Mắt, Nhật kí
Ở rừng, Chuyện biên giới…
Truyện Đôi mắt kể về một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng vẫn
giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và “đôi mắt” khinh bạc tệ hại đối với quần
chúng. Đó là hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc
bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ,
lối sống cũ và quyết tâm “Cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt” trở
thành những chiến sỹ trên mặt trận văn hoá. Đó là những thành tựu đầu tiên của nền
văn xuôi kháng chiến, trong đó “Đôi Mắt” là một tác phẩm xuất sắc, được coi như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao và lớp nhà văn cũ trong quá trình “tìm
đường” “nhận đường”.
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Với
những sáng tác văn chương xuất sắc và một hệ thống quan điểm nghệ thuật sâu sắc
tiến bộ, Nam Cao đã đóng góp quan trọng cho tiến trình hiện đại hóa văn học nước
nhà.
Về O’Henry, có thể nói đương thời, ít có nhà văn nào trong một thời gian
ngắn mà viết và in được nhiều truyện ngắn như O’Henry. Nhờ sáng tạo không ngừng
nghỉ và cố gắng nỗ lực mà số tác phẩm O’Henry có rất đồ sộ, có giá trị về nội dung
lẫn nghệ thuật. Một người bạn của ông sau này đã nhận xét: “Nếu O’Henry không
viết hai mươi bốn tiếng và bằng cả hai tay thì ông không thể nào đáp ứng được một
phần mười nhu cầu đang được các chủ báo cạnh tranh ráo riết” [6, tr.233]. Nhà nghiên
cứu Lê Đình Cúc trong cuốn Văn học Mỹ, mấy vấn đề và tác giả đã khẳng định:
“O’Henry có một vị trí đặc biệt trong văn học Mỹ bởi tính cổ điển nhưng lại rất Mỹ
trong truyện ngắn” [6, tr.299].
O’Henry chính thức viết văn vào những năm tháng ông sống trong tù. Ở đó,
ông đã cho ra đời 14 tác phẩm dưới cái tên giả “O’Henry” xuất hiện lần đầu tiên
trong truyện ngắn Chiếc tất đựng quà Giáng sinh của Whisling Dick (Whisling
Dick’s Chistmas Stocking, 1899). Ở sau song sắt, O’Henry lấy tờ giấy trắng, cây
bút và bắt đầu chép câu chuyện mà ông chưa kịp kể cho gia đình mình. Sau đó
O’Henry gửi truyện ngắn tới một tạp chí và được đăng ngay mà không bị sửa chữa
gì.
Các nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry là các bạn tù của ông, còn cốt
truyện đước rút ra từ cuộc đời của họ. Trước khi gửi tác phẩm của mình cho nhà
xuất bản, O’Henry thường đọc cho các bạn tù nghe. Hơn ba năm sau khi bị bắt,
O’Henry được trả tự do sớm nhờ tư cách tốt. Tòa soạn tuần báo New York World
Sunday Magazine đã mời ông ký một hợp đồng dài hạn. Hàng tuần ông phải gửi
cho họ một truyện ngắn, còn họ trả cho ông 100 USD - số tiền mơ ước của bất cứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhà văn Mỹ nào lúc bấy giờ. O’Henry ngay lập tức nhận lời. Cả tòa soạn háo hức
chờ đợi ông, ai cũng muốn được là người đầu tiên đọc tác phẩm mới của nhà văn.
O’Henry rất khó viết về những gì không được tận mắt chứng kiến. Một trong
số tập truyện hay nhất và được biết đến nhất của ông là Lũ cắp vặt và những ông
hoàng (Cabbages and Kings, 1904) - tập truyện đầu tiên của ông gồm những câu
chuyện đã được xuất bản trước đó. Tiếp theo có mười ba tập truyện ngắn ra đời và
một số tập được xuất bản sau khi ông mất. Trong đó có những tập truyện nổi tiếng
như: Bốn triệu (1906), Trái tim miền Tây (1907), Tiếng nói thị thành (1908), Đường
định mệnh (1909), Công việc nghiêm khắc (1910), Sáu và bảy (1911), Đá lăn
(1912), Trẻ bơ vơ (1917), Tổng tập O’Henry (1953).
Đỉnh cao sự nghiệp của O’Henry được thể hiện qua các tác phẩm: Món quà
của các thầy pháp, Căn phòng có sẵn đồ cho thuê, Tên cớm và bản thánh ca, Câu
chuyện chưa kết thúc… Mảng truyện này đề cập đến thân phận của người dưới đáy
xã hội. Qua những truyện này O’Henry đã gửi thông điệp nhân đạo về những người
thấp cổ bé họng, vô danh ở Mỹ.
Những năm cuối đời, O’Henry hầu như không viết gì. Ông uống rượu nhiều,
sức khỏe ngày càng sút kém. Tác phẩm cuối cùng của ông là Giấc mộng (The
Dream, 1910) một truyện ngắn dành cho Tạp Trí The Cosmopolitan (Quốc tế)
nhưng lại chưa hoàn thiện vào thời điểm ông qua đời. Tổng cộng, trong cả cuộc đời
mình O’Henry đã viết khoảng 381 truyện ngắn. Toàn tập tác phẩm của ông gồm 18
tập.
Đề tài trong truyện ngắn của ông chủ yếu của ông xoay quanh tình yêu đôi
lứa, tình vợ chồng, tiền bạc, những người nghệ sĩ, gia đình… Những câu chuyện
đời thường mà ông đem đến đầu ẩn chứa nhiều chủ đề tư tưởng sâu sắc và dạy cho
người đọc bao bài học ý nghĩa như: sự hi sinh, cái con người ta cho đi, cách ứng xử
khôn khéo; đồng thời cũng phản ánh cái xã hội quá đề cao đồng tiền, con người
chìm đắm trong công việc kiếm sống mà bỏ quên đi quá nhiều thứ, phê phán xã hội
khiến những người hiền lành, tài năng dù đã cho cố gắng đến đâu cũng không thể
thoát ra được vòng xoáy khốn khổ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
O’Henry có một óc sáng tạo kì diệu, ông biến những sự kiện thông thường
nhất (Một Thực Đơn; Một tờ báo; Một căn phòng…) thành những câu chuyện độc
đáo trong sáng tác của ông. Lối dựng chuyện của ông thể hiện qua những kinh
nghiệm sống. Những nhân vật của ông được đặt trên nền những con người có thật
mà ông quen biết.
Các sáng tác của ông viết về những vấn đề xã hội và kinh tế của những giai
cấp bị áp bức. Ông đưa những con người thấp cổ bé họng này vào tác phẩm của
mình với lòng trắc ẩn và cảm thông. Những cô gái bán hàng, những nghệ sĩ và
những diễn viên lo từng miếng ăn, những đôi tình nhân trẻ bất hạnh, những kẻ đầu
trộm đuôi cướp, và những viên cảnh sát... đều là những nhân vật xuất hiện trong
những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.
Không gian trong truyện O’Henry có ba điểm chính: Texas, Trung Mỹ và
New York. Texas và Trung Mỹ chỉ chiếm phần nhỏ trong sư nghiệp văn chương
của O’Henry, khoảng 80 truyện trong số gần 400 truyện mà ông đã viết. Phần lớn
ông viết về New York - thành phố lớn thứ năm ở bờ biển phía đông nước Mỹ. Ông
vô cùng yêu New York, ông đã bị mê hoặc bởi các cửa hàng và cuộc sống về đêm.
Ông cũng bị quyến rũ bởi những cám dỗ. Vào thời đỉnh cao của sự nổi tiếng,
O’Henry có thể ăn trong các nhà hàng đẹp nhất và mua vé của những chương trình
được yêu thích nhất. Song không bao giờ ông quên hàng ngàn tầng lớp lao động nơi
đây sống rất khác. Ngay cả khi cuộc sống của ông rất thành công, ông vẫn để tâm
đến “người dân bình thường” và viết về “bốn triệu người New York” mà đôi khi
các nhà văn khác có xu hướng bỏ qua.
Truyện ngắn O’Henry có đặc điểm chung là hướng về độc giả bình dân, ngắn
gọn, súc tích và dễ hiểu. Khi ở trong tù là khoảng thời gian ông chuyên tâm vào
sáng tác và sau đó đã dần định hình một phong cách riêng. Ông viết về những gì đã
chứng kiến, đã được nghe, được trải qua trong những ngày tháng lăn lộn, in dấu
chân mình trên khắp các vùng đất. Ông từng đi nhiều và lăn lộn đủ nghề để kiếm
sống. Đề tài trong truyện của ông lấy từ chính thế giới của những người dân và được
kể lại theo cách của ông, chính bởi vậy độc giả luôn tìm thấy một chút bản thân hay
cuộc sống của mình khi đọc truyện ngắn O’Henry.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
O’Henry là một nhà văn có học vấn không cao (ông chỉ học ở một trường tư
cho đến năm 15 tuổi) nhưng lại rất thành công với mảng truyện ngắn. Ông đã đưa
vào tác phẩm của mình một xã hội đa dạng và rộng lớn của nước Mỹ cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX. Trong văn chương O’Henry là thế giới của những người vô
gia cư, cuộc sống phiêu lưu của những kẻ cao bồi hay dòng người đi tìm vàng cho
đến cuộc sống giàu sang nơi thành phố New York. Người đọc bị cuốn vào những bi
kịch có vẻ rất ngẫu nhiên trong đời sống, đến những câu chuyện ngang trái hay
những tình huống đầy bất ngờ của nhà văn. Độc giả sẽ ngạc nhiên khi vừa đọc một
câu chuyện có vẻ như bông đùa về tình yêu, về lòng tốt từ sự ngẫu nhiên rất bi hài,
cảm động về lòng bao dung, hi sinh của con người… Tiêu biểu như Chiếc là cuối
cùng - tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng, có mặt trong nhiều cuốn sách giáo
khoa tại nhiều trường học trên thế giới. Điều này cho thấy tính mẫu mực từ tác phẩm
của ông. Giới nghiên cứu xếp truyện ngắn của O’Henry vào dạng “Cổ điển đương
đại” như những giá trị đã trở thành khuôn mẫu.
Các nhân vật trong các sáng tác của nhà văn này hầu hết là con người bé nhỏ,
bị đối xử bất công, cái nghèo đói đeo đuổi cuộc đời của họ. Nhưng ông luôn đặt
niềm tin vào con người và cuộc sống cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông trước những
thăng trầm của số phận con người, đặc biệt là những con người bất hạnh. Vì vậy,
thế giới của của O’Henry luôn hồn hậu, thủy chung và tràn đầy lạc quan. Truyện
của ông giàu chất trí tuệ nhưng không vì thế mà khô khan ngược lại rất giàu chất
thơ.
Như vậy, cả Nam Cao và O’Henry đều rất thành công ở thể loại truyện ngắn.
Tuy số lượng tác phẩm truyện ngắn của mỗi nhà văn là không giống nhau: Nam
Cao là gần 60 truyện, O’Henry là 381 truyện ngắn. Sự nghiệp sáng tác của Nam
Cao chia theo từng giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám với mỗi giai đoạn
tương ứng với thể loại và chủ đề và đề tài khác nhau điều này cũng chính là điểm
khác biệt giữa Nam Cao và O’Henry. Nhưng dù viết về đề tài gì, ta đều thấy nội
dung chủ yếu trong các tác phẩm của hai nhà chứa đựng nội dung triết học sâu sắc,
khái quát được bản chất cuộc sống thông qua các mối quan hệ: vật chất - ý thức,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hoàn cảnh - tính cách, hiện tượng - bản chất. Đồng thời ta thấy trong các tác phẩm
của họ còn chứa đựng ở đó niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận con người.
1.4. Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh
1.4.1. Khái niệm truyện ngắn
Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về thể loại truyện ngắn. Có
người cho rằng: Truyện ngắn là một tác phẩm có bề sâu nhưng lại không được dài,
người khác lại nhận định: Truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết. Qua những
ý kiến trên chúng tôi nhận thấy: Truyện ngắn là một thể loại văn học thường kể bằng
văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, nội dung thường xoay quanh một tình hướng
truyện chủ chốt nào đó. Như vậy đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là tính ngắn gọn,
cô đúc, kiệm lời, dung lượng nhỏ, nhưng sức chứa lớn.
1.4.2. Về văn học so sánh
Văn học so sánh là tên gọi một hệ phương pháp luận, một bộ môn trong
khoa nghiên cứu văn chương. Nó phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù của
bộ môn. Cụ thể, nó chỉ bao hàm những so sánh liên văn học: nó tiến hành đối
sánh các nền văn học dân tộc với nhau. Quá trình đối sánh này phải bảo đảm tính
khách quan, phi định kiến: nhà nghiên cứu, không vì lòng tự tôn, tự ti dân tộc,
mà nhân danh văn học so sánh để hạ thấp các nền văn học dân tộc khác, hoặc
mặc cảm về văn học dân tộc mình. Thao tác so sánh phải trên cơ sở cùng loại:
tác phẩm sánh cùng tác phẩm, tác giả đi bên tác giả… Sự so sánh phải đa diện,
với nhiều cấp độ, nhiều hệ thống. Tất cả hướng về lợi ích quốc tế, giải quyết mọi
cái riêng qua cái chung. Sự giàu có của văn học thế giới phải hội tụ từ vẻ đẹp
phong phú, đặc sắc của từng nền văn học dân tộc. Ngược lại, văn học từng dân
tộc, cũng nhờ đặt trong hệ thống, mà thấy mình độc đáo, đầy sức sống. Có 2 xu
hướng trong văn học so sánh: Xu hướng so sánh theo quan hệ giao lưu và so sánh
văn học theo quan hệ tương đồng. Luận văn của chúng tôi đi theo xu hướng so
sánh tương đồng.
Tiểu kết chương 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mặc dù hai nhà văn sinh ra và trưởng thành ở hai quốc gia với hai chế độ
chính trị khác biệt, mỗi người lại có một số phận riêng nhưng trong cuộc đời và
sự nghiệp văn học của họ ta vẫn thấy có điểm tương đồng thú vị. Với tâm hồn của
một người nghệ sĩ yêu văn chương cả Nam Cao và O’Henry đều rất quan tâm đến
cuộc sống số phận của con người trong xã hội mà họ sinh sống. Qua các tácphẩm
của mình hai nhà văn đã tái hiện một cách chân thực cuộc sống, số phận của con
người.
Nam Cao và O’Henry có nhiều điểm tương đồng về cuộc đời và đặc biệt là
quan niệm sáng tác. Qua quan niệm sáng tác ta thấy được lòng nhiệt huyết, tình yêu
văn chương, ý thức sáng tạo tác phẩm một cách chân chính của hai nhà văn. Chính
điều này đã ảnh hưởng sâu sắc nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của hai nhà
văn.
Sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry đều thành công ở thể loại truyện ngắn.
Những tác phẩm của hai nhà văn đều là sản phẩm của tài năng và sự trải nghiệm
cuộc sống của những người gần gũi cuộc sống bình dân. Ngoài những điểm chung,
chắc chắn sáng tác của hai nhà văn có rất nhiều điểm khác biệt. Chúng tôi sẽ tìm ra
một số điểm tương đồng, khác biệt đó để thêm một cách đọc tác phẩm của cả hai
nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH
2.1. Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry
2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry
Để xác định chính xác hệ thống đề tài trong truyện ngắn của hai nhà văn Nam
Cao và O’Henry, chúng tôi tiến hành khảo sát văn bản và lập bảng thể hiện kết quả
khảo sát. Như ở phạm vi nghiên cứu đề tài đã nêu, với nhà văn Nam Cao chúng tôi
sẽ tập trung khảo sát truyện ngắn của Nam Cao thời kì trước cách mạng tháng Tám
năm 1945. Còn với nhà văn O’Henry chúng tôi sẽ tiến hành khảo tập trung chủ yếu
vào tập truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.
Bảng 1.1: Khảo sát đề tài trong truyện ngắn Nam Cao
Đề tài
Stt Tên tác phẩm Người nông Người Ghi chú dân trí thức
1 Nghèo X
2 Đui mù X
3 Chí Phèo X
4 Dì Hảo X
5 Nửa đêm X
6 Đôi móng giò X
7 Lão Hạc X
8 Con mèo X
9 Một đám cưới X
10 Tre con không được ăn thịt chó X
11 Quái dị X
12 Một bữa no X
13 Từ ngày mẹ chết X
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đề tài
Stt Tên tác phẩm Người nông Người Ghi chú dân trí thức
14 Làm tổ X
15 Thôi đi về X
16 Tư cách mõ X
17 Mua danh X
18 ở hiền X
19 Rửa hờn X
20 Rình trộm X
21 Một truyện Xú-Vơ-Nia X
22 Nhìn người ta sung sướng X
23 Lang rận X
24 Điếu văn X
25 Cái chết của con mực X
26 Nhỏ nhen X
27 Cái mặt không chơi được X
28 Những chuyện không muốn viết X
29 Giăng sáng X
30 Mua nhà X
31 Truyện tình X
32 Đón khách X
33 Đời thừa X
34 Sau lại thế này X
35 Cười X
36 Nước mắt X
37 Bài học quét nhà X
38 Xem bói X
39 Quên điều độ X
Tổng số 24 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 2.2: Khảo sát đề tài trong truyện ngắn O’Henry
Đề tài
STT
Truyện ngắn
Người trí
Người du
Các đề tài
thức
thủ, du thực
khác
Trái tim và chữ thập
X
1
Tiền tài và thần ái tình
X
2
Món quà của các thầy Pháp
X
3
Căn buồng có sẵn đồ thuê
X
4
Hai mươi năm sau
X
5
Psyche và nhà chọc trời
X
6
Chiếc lá cuối cùng
X
7
Dấu vết của Bill Đen
X
8
Jeff Peters - nhà thôi miên
X
9
Mối tình của ngài khoán dịch viên
X
10
Một sự giúp đỡ của tình yêu
X
11
Ái tình theo khẩu phần
X
12
Bên bị
X
13
Chuyện một tờ báo
X
14
Bị bắt
X
15
Những mẩu bánh mỳ kiến hiệu
X
16
Buồng tầng thượng
X
17
Một sự cải tạo được cứu vãn
X
18
Bánh rán miền Pimienta
X
19
Tên cớm và bản thánh ca
X
20
Những con đường chúng ta chọn
X
21
Người đánh giá sự thành công
X
22
Đêm Ả Rập tại quảng trường Madison
X
23
Một câu chuyện dang dở
X
24
Một giả định phá sản
X
25
Quả lắc
X
26
Gương mặt trông nghiêng kì diệu
X
27
Một cơn gió dịu
X
28
Câu chuyện tỉnh lẻ
X
29
10
7
Tổng số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Qua so sánh kết quả khảo sát về hệ thống đề tài ở bảng 1 và 2, chúng tôi rút
ra ba nhận xét:
Thứ nhất: Hai nhà văn Nam Cao và O’Henry đều quan tâm đến đời sống của
người tài người trí thức, tiểu tư sản nghèo thành thị. Nhiều tác phẩm của họ đều viết
về đề tài người trí thức nghèo.
Thứ hai: Hai nhà văn này còn quan tâm đến các đề tài khác nhau. Nhà văn
Nam Cao tập trung viết về đời sống của người nông dân nghèo. Trong khi đó O’Henry
lại quan tâm đến thể hiện phản ánh đời sống của những người không nghề nghiệp, vô
gia cư nơi thị thành. O’Henry cũng đưa vào tác phẩm của mình những cảnh sống của
giới chính trị, tuy số lượng tác phẩm viết về đề tài này không nhiều.
Thứ ba: Dù đối tượng cụ thể khác nhau, song, hai nhà văn Nam Cao và
O’Henry lại có điểm chung lớn đó là họ đều quan tâm đến tầng lớp người lao động
nghèo trong xã hội.
Từ ba nhận xét trên đây, chúng tôi muốn làm rõ hơn các tầng bậc ý nghĩa, giá
trị thẩm mĩ truyện ngắn của hai nhà văn này trong sự đối sánh.
2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức
Về đề tài người trí thức trong tác phẩm của Nam Cao, giới nghiên cứu phê
bình Việt Nam đã bàn luận rất nhiều. Đó là các bài viết của Huệ Chi, Phong Lê,
Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Xuân Nguyên... Các công trình của các nhà nghiên cứu
đều khẳng định Nam Cao rất thành công trong việc phản ánh đời sống, con người
của giới trí thức Việt Nam trước và trong Cách mạng tháng Tám. Trong “Nam Cao
khát vọng về một cuộc sống lương thiện, xứng đáng”, Nguyễn Văn Hạnh đã cho
rằng, Nam Cao dồn nhiều suy nghĩ thiện cảm cho người trí thức nghèo “có nhiều
điều băn khoăn về ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị làm người”. Qua đó “Nam Cao
đã đề cập đến một tấn bi kịch của con người và xã hội mà càng từng trải, càng có ý
thức về nhân phẩm, về cống hiến, về ý nghĩa của cuộc sống, người ta càng thấy ghê
rợn, đó là bi kịch sống mòn” [14, tr.22-26]. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, Nam
Cao có các truyện ngắn tiêu biểu: Những chuyện không muốn viết, Giăng sáng, Mua
nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt; Đời thừa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong Giăng sáng, Điền là một nhân vật có quá trình tự ý thức nhiều đau
khổ. Nam Cao đã để cho nhân vật tự suy nghĩ, tự mổ xẻ bản thân để tìm cho mình
một lối đi trong lao động nghệ thuật cũng như trong hiện thực cuộc sống. Ban đầu
khi còn trẻ, Điền cũng như Nam Cao tìm đến thứ văn chương lãng mạn để làm thi
vị hoá hiện thực đói nghèo và lam lũ nơi làng quê. Điền “nguyện cam chịu tất cả
những thiếu thốn đọa đày” miễn là được thoả “cái mộng văn chương”. Với Điền,
“nghệ thuật chính là ánh trăng xanh huyền ảo”. Điền hướng lòng mình đến cái đẹp
đầy ảo tưởng. Nhưng khi đã trở thành một người có gia đình, có vợ và có con, Điền
hàng ngày phải lo kiếm miếng cơm, manh áo để vun đắp cho cái gia đình nhỏ bé và
nheo nhóc của mình thì Điền ý thức được rằng: ánh trăng kia có đẹp, có thi vị đến
đâu cũng không thể làm đẹp cuộc sống lam lũ của Điền, gia đình Điền và bao kiếp
người đau khổ khác. Trong tâm tưởng của Điền, mọi ước mơ, mộng tưởng cao xa,
đẹp đẽ đều tan biến hết. Điền nói cho mình mà như nói cho cả giai cấp mình: “Nghệ
thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ
là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Và nếu nghệ thuật chỉ là trò
giải trí của “những người đàn bà nhàn nhã ngả mình bên những cái ghế xích đu nhún
nhảy” thì nghệ thuật ấy sẽ chẳng có giá trị nào hết. Để rồi cuối cùng Điền hiểu ra
như hiểu một chân lý: nghệ thuật chỉ thực sự có giá trị khi nghệ thuật ấy là chính
cuộc đời đau khổ của Điền, của thế hệ Điền. “Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng
cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy tất cả những vang
động của đời”. Trong số những nhân vật trí thức của Nam Cao, có thể nói, Điền là
nhân vật tìm được hướng đi khả dĩ cho mình sau quá trình tự ý thức nhiều đau khổ.
Cũng như Điền, Hộ trong Đời thừa cũng là một văn sĩ nhưng quá trình tự ý
thức ở nhân vật này lại kết thúc bằng một bi kịch không lối thoát. Hộ luôn mong
muốn làm được một điều gì đó cao cả từ sự nghiệp văn chương. Hộ mơ ước có tác
phẩm đoạt giải Nobel và cố gắng làm việc không mệt mỏi để đạt điều đó. Với Hộ,
trong sáng tác văn chương cần phải có nguyên tắc: “Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay... Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào
sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hộ cho rằng tác phẩm văn chương do mình làm ra phải thực sự có giá trị. “Nó chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bằng... Nó làm cho người gần người hơn”. Với nguyên
tắc ấy, Hộ còn muốn trong cuộc sống, Hộ có thể “nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của
mình”. Hộ có thể hi sinh nghiệp văn để đổi lấy tình thương. Vậy mà cuối cùng mọi
ước mơ của Hộ tan biến hết chỉ vì Hộ cần tiền để nuôi vợ con nhưng tiền không
kiếm được thì Hộ lại dằn vặt, trách móc vợ con và vi phạm chính nguyên tắc sống
do mình đề ra. Hộ lâm vào bi kịch không lối thoát nhưng trong phút giây đau đớn
nhất, Hộ đã tự ý thức lại mình, tự trách và đay nghiến bản thân là “một thằng... khốn
nạn”. Sự tự ý thức đã đưa Hộ trở lại với bản chất con người vốn có của mình.
Ngoài nhân vật Điền (Giăng sáng), Hộ (Đời thừa), còn có Hài (Quên điều
độ), nhân vật “Tôi” trong Những chuyện không muốn viết... Hầu hết các nhân vật
này đều là những nhân vật cả nghĩ, có đời sống tư tưởng và tình cảm phong phú,
nhiều sắc thái. Họ luôn sống trong trạng thái suy tư, trăn trở, có khi nổi giận vô cớ
với vợ con nhưng rồi lại ân hận, xót xa. Họ xuất thân là những nhà văn, nhà giáo
luôn ấp ủ những giấc mơ, hoài bão chính đáng nhưng lại bị nỗi lo cơm áo “ghì sát
đất”. Bởi vậy, họ lâm vào bi kịch tinh thần và luôn tự ý thức để tìm cách thoát khỏi
thực tại nghiệt ngã, nhiều khi họ còn giằng xé nội tâm để vươn lên cuộc sống cơm
áo tầm thường.
Viết về đề tài này, Nam Cao đã miêu tả một cách chân thực tình cảnh nghèo
khổ, sống dở, chết dở của những nhà văn nghèo. Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những
bi kịch tâm hồn của họ, từ đó đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, vượt
khỏi phạm vi của đề tài. Đó là bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí
thức, có ý nghĩa sâu sắc về sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp
tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công, vô
lý làm cho bị chết mòn về tinh thần. Những tác phẩm đó đã phê phán xã hội phi
nhân đạo bóp nghẹt sự sống và tàn phá con nguời. Đồng thời, chúng thể hiện sự vật
lộn bên trong của người trí thức tiểu tư sản trong thực tế cố vươn tới một cuộc sống
có ý nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở đề tài người trí thức, O’Henry dành nhiều sự quan tâm những người nghệ
sĩ. Qua đó, ông muốn thể hiện những vấn đề xung quanh vấn đề nghệ thuật, cũng
như giới nghệ sĩ thời bấy giờ. Đề tài này không ít lần xuất hiện trong sáng tác của
O’Henry. Đa phần những người nghệ sĩ này đều có tài năng nhưng số phận không
mỉm cười với họ. Họ phải sống cuộc sống nghèo nàn, ở những nơi chật hẹp và phải
đánh đổi nhiều điều để theo đuổi đam mê.
Trong Một sự giúp đỡ của tình yêu, Joe mang dòng máu của thiên tài về nghệ
thuật hội họa và Delia có một giọng hát đầy hứa hẹn. Họ đi lên miền Bắc để tìm cơ
hội phát triển rồi gặp gỡ và yêu nhau. Cuộc sống quá khó khăn khiến họ phải bỏ
học và gác tình yêu nghệ thuật sang một bên bởi lẽ con người không thể chỉ sống
bằng hội họa và âm nhạc. Trong tác phẩm này, câu nói “khi người ta yêu nghệ thuật
thì có việc gì khó” được lặp lại trong tác phẩm như một lời khẳng định. Nhưng cuộc
sống nghèo khổ của đôi vợ chồng trẻ, tình yêu nghệ thuật của họ đã nhường chỗ cho
lòng yêu thương và sự hy sinh cho nhau: họa sĩ tương lai Joe đi làm thợ đốt lò, nhạc
sĩ tương lai Delia trở thành thợ là quần áo. Người kể chuyện thú nhận với độc giả:
“Khi người ta yêu nghệ thuật thì không có việc gì khó. Đấy là tiền đề của chúng
tôi”. Câu chuyện thật sự là một cảnh đời khái quát nhiều cảnh đời của trí thức nghèo
Mỹ đầu thế kỷ XX.
Gần giống truyện Một sự giúp đỡ của tình yêu, trong Đêm Ả Rập tại quảng
trường Madison là câu chuyện về một họa sĩ thiên tài. Ông từng có một bức tranh
giá hai nghìn đôla. Ông vẽ tranh chân dung chân thật, sống động đến không ngờ và
cũng chính bởi vậy mà dần dần không ai dám thuê ông vẽ. Từ tranh của ông, người
ta có thể nhìn thấy bản chất thật của họ, mà có ai muốn “lộ nguyên hình trên tranh”.
Vì lí do đó, từ một họa sĩ nổi tiếng, ông bỏ nghề và gia nhập hàng ngũ những người
xin ngủ nhờ ở quảng trường, kể truyện để xin ăn tại các nhà hàng. Tác phẩm còn là
nỗi chua xót, ngậm ngùi của tác giả trước số phận của nghệ thuật, số phận của những
nghệ sĩ tài hoa.
Có lẽ may mắn hơn họ, Sue và Johnsy trong Chiếc lá cuối cùng là những
người nghệ sĩ được thỏa mãn đam mê vẽ của mình. Nhưng họ nào có được vẽ đúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
theo tài năng và sở thích, họ phải vẽ minh họa cho tạp chí, truyện ngắn để trang trải
cuộc sống. Dẫu vậy, họ vẫn lạc quan và ước mơ một ngày sẽ được vẽ vịnh Naples.
Cũng giống như những cô họa sĩ trẻ, cụ Behrman lâu nay không vẽ được gì, chỉ
thỉnh thoảng nguệch ngoạc vài bức cho ngành quảng cáo hay buôn bán. Ngoài ra,
ông chỉ kiếm được chút ít nhờ làm mẫu cho những nghệ sĩ trẻ nghèo. Họ gọi ông là
“một người thất bại trong nghệ thuật”. Ông luôn mong ước sẽ để lại một bức kiệt
tác mà bốn mươi năm nay ông vẫn chưa làm được. Cho đến cuối đời, dấu ấn ông để
lại chính là chiếc lá thường xuân đã đem lại sự sống cho Johnsy, chắc hẳn đó là một
kiệt tác ông mơ ước. Bởi lẽ, ông đã dành cả tình cảm, đam mê và cả sinh mạng của
mình. Và nghệ thuật mà ông theo đuổi không ở đâu xa, không phải là vịnh Naples,
không phải là bức họa kiệt tác ngàn đời ca tụng. Đó là khi ta mở lòng, đem lại niềm
tin vào cuộc sống, ta hi sinh cho người khác. O’Henry coi đó là nghệ thuật chân
chính.
Những người nghệ sĩ trong các sáng tác của O’Henry đều có một điểm chung
là yêu nghệ thuật và khát khao được thành danh, có một dấu ấn để đời. Song, cuộc
sống của họ không mấy khi thuận lợi. Dù vậy, không một người nghệ sĩ nào trong
những câu truyện của O’Henry quay lưng lại với nghệ thuật hay bị số phận đánh
ngã, họ vẫn luôn giữ niềm tin và tình yêu với đam mê của mình.
Không đi sâu vào phản ánh những bi kịch tinh thần của người trí thức như
Nam Cao, O’Henry đem lại cái nhìn nhẹ nhàng về cuộc sống từ đó nói lên ước mơ,
hoài bão trong các nhân vật trí thức trong các sáng tác của nhà văn.
2.1.3. Những đề tài khác biệt
2.1.3.1. O’Henry và đề tài người du thủ, du thực
Khảo sát tác phẩm của O’Henry, chúng tôi nhận thấy, so với Nam Cao,
O’Henry có mối quan tâm đặc biệt đến một đề tài mà trong tác phẩm của Nam Cao
không có. Đó là ông quan tâm phản ánh đời sống của những người không nghề
nghiệp, sống lang thang ở thị thành, làm những việc không thể gọi là nghề như trộm
cắp, lừa đảo... Chúng tôi tạm gọi đó là những kẻ du thủ, du thực. Với 7/29 viết về
những người du thủ du thực, có thể nói O’Henry rất quan tâm chú ý đến cuộc sống
của những người này. Cuộc đời của O’Henry trừ một thời gian ngắn sống lưu vong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ở một quốc gia Trung Mỹ và hơn 3 năm ở Texas, phần lớn cuộc đời ông sống ở
thành phố, đặc biệt là ở New York, một thành phố lớn, hiện đại bậc nhất của Mỹ.
Tuy sống ở thành phố nhưng O’Henry không sống vương giả như giới nhà giàu mà
chủ yếu sống bằng nhiều nghề lao động, thậm chí từng ở tù. Cuộc sống ấy cho ông
điều kiện tiếp xúc với đủ hạng người, kể cả những người phạm tội. Ông không chỉ
quan sát mà thấu hiểu họ. Đối với họ, ông rất đồng cảm yêu thương. Bởi vì đã có
lúc ông đã từng rơi vào hoàn cảnh như họ, những con người dưới đáy xã hội.
Tên cớm và bản thánh ca kể về một anh chàng không nghề nghiệp anh ta tìm
mọi cách để được đi tù vì ở trong đó không phải lo lắng về chỗ ngủ và những cơn
đói. Tuy nhiên, trớ trêu thay Soapy làm mọi cách từ ăn quỵt, ném vỡ cửa sổ, trêu
ghẹo một cô gái, làm rối loạn trật tự… nhưng hắn vẫn không được viên cảnh sát chú
ý tới. Hắn bỏ cuộc định trở về công viên ngủ thì nghe thấy bản thánh ca vọng ra từ
một nhà thờ. Hắn bỗng nhớ lại ngày trước hắn cũng có ước mơ về một cuộc sống
bình thường như bao người khác. Hắn muốn chống lại số phận, hắn muốn tìm việc
và khát khao tự do hơn bao giờ hết. Ngay lúc đó một viên cảnh sát tới bắt và hắn bị
giam ba tháng. Soapy vốn là một kẻ vô gia cư nhưng anh ta luôn quan niệm “pháp
luật còn dễ chịu hơn lòng từ thiện”, “mọi thứ nhận được từ các bàn tay từ thiện, nếu
không phải trả bằng tiền thì lại phải trả bằng sự trói buộc về tinh thần”. Vì vậy, anh
ta không đến với những tổ chức từ thiện để được cho ăn, cho ngủ. Khi mùa đông
đến để tránh cái rét khắc nghiệt, Soapy phải lập kế hoạch để được đi tù, hắn thà vậy
còn hơn chịu sự trói buộc về tinh thần. Vào tù tránh giá rét, lại có cơm ăn, có chỗ
nằm với giường gối và an toàn. Trong khi lang thang tìm cách vào tù, hắn đi qua
nơi sang trọng, xa hoa không thuộc về thế giới của hắn, cách đối xử của họ cũng
thật khác. Soapy định bụng vào một khách sạn đắt tiền ăn quỵt một bữa nhưng vừa
nhìn thấy chiếc quần sờn gấu và đôi giầy tàng thì “sếp” tiệm ăn tống ra vỉa hè. Cho
đến khi hắn thức tỉnh nhờ bản thánh ca, hắn muốn làm lại từ đầu, sống một cuộc
sống như hắn từng mơ ước, khát vọng sống của hắn đã ngủ quên từ lâu trỗi dậy bản
chất tốt đẹp của một kẻ lang thang du đãng muốn vào tù. O’Henry đã thể hiện cho
độc giả thấy sức mạnh của nghệ thuật. Nghệ thuật có thể đánh thức những điều tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đẹp bên trong con người. Soapy là nhân vật tiêu biểu cho lớp người du thủ du thực
với cuộc sống khốn khổ, loay hoay của con người trong xã hội Mỹ khốc liệt, tàn ác
ấy. Qua đó O’Henry muốn giành sự ưu ái cho những tầng lớp thấp bé của xã hội
Một sự cải tạo được cứu vãn xoay quanh nhân vật Jimmy Valentine -một
người không nghề nghiệp sống nhờ vào việc đi phá két sắt được mệnh danh là: “anh
chàng chạy két sắt cừ khôi”. Từ một kẻ phạm tội anh ta trở thành người lương thiện
“do ngọn lửa tiến công đột ngột của tình yêu song phương để lại”. Đó là tình yêu
giữa con gái ông chủ ngân hàng Enmo. Từ đống tro tàn của Jimmy, Rap D.Spenso
phục sinh. Anh ta bỗng chốc trở thành chủ hiệu giày, làm ăn phát đạt và đính hôn
với Anaben. Anh viết một lá thư gửi bạn Bily - người anh muốn tặng bộ đồ nghề ăn
cắp, anh viết: “Tớ đang kiếm sống một cách lương thiện, và hai tuần nữa sẽ cưới
một cô gái đẹp nhất trên đời này. Chỉ có thể sống như thế được thôi, Bily ạ, sống
ngay thẳng”. Tuy nhiên lá thư bị thám tử Benpraixơ phát hiện và tìm đến thành phố
ấy bắt Jimmy. Mâu thuẫn của truyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa bé con chị gái
Annamen bị kẹt trong hầm két mới do ông ngoại mới thuê người làm với một bộ
khóa rất tinh vi. Lúc ấy, nếu Jimmy ra tay cứu đứa bé chẳng khác nào anh tự khai
sự thật về mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc hôn ước bị hủy bỏ. Nhưng sau
phút do dự đó, nghe theo lời đề nghị của Annamen, anh bắt tay vào việc phá bỏ
khóa. Mười phút sau, cánh cửa bật tung đứa bé được cứu thoát, Jimmy thanh thản
về phía cửa nơi thám tử đang đợi. Hành động của Jimmy chứng tỏ anh đã hoàn toàn
lương thiện. Và còn hơn cả lương thiện khi anh ta biết hi sinh hạnh phúc của mình,
cứu lấy đứa nhỏ. Chính tình yêu đã làm cho Jimmy thay đổi điều đó.
Dưới ngòi bút của O’Henry những con người du thủ, du thực hiện lên với
những vẻ đẹp về tâm hồn, họ cũng có những ước mơ những khát vọng. Qua đó còn
thể hiện sự trân trọng của O’Henry đối với những con người ấy.
2.1.3.2. Nam Cao và đề tài người nông dân
Khác với O’Henry, cuộc sống của Nam Cao gắn với cuộc sống ở nông thôn
Việt Nam trước Cách mạng Tháng tám. Dù ông là trí thức nhưng cuộc sống của ông
vẫn gắn liền với cuộc sống lạc hậu ở nông thôn lúc bấy giờ. Một trong những đề tài
tiêu biểu và khác biệt của nhà văn Nam Cao với O’Henry chính là đề tài về nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân. Trong số 39 tác phẩm chúng tôi tiến hành khảo sát có đến 15 tác phẩm ông viết
về người nông dân. Con số đó cho thấy rằng, ông đặc biệt quan tâm đến đối tượng
này trong xã hội. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài Viết về Nam Cao ở Báo
văn nghệ số 18-7-1987 có nhận xét: “Cả cuộc đời người cầm bút của Nam Cao cứ
đau đáu nhìn vào cái nhân cách. Cái sự săn đuổi chính mình và các nhân vật của
mình đầy róng riết cũng chính là sự săn đuổi cái nhân cách của con người ta nói
chung” [4]. Phần lớn nhân vật nông dân của ông là con người ở bậc thang xã hội
cuối cùng. Họ bị hoàn cảnh xã hội tàn phá, bị chà đạp cả về thể xác lẫn nhân phẩm.
Thật đúng như vậy, văn chương Việt Nam có nhiều tác giả viết về tình cảnh
thê thảm của người nông dân như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Mỗi tác phẩm
của họ ta đều thấy được nỗi khổ, sự quằn quại vật lộn trong cái đói, miếng ăn. Với
nhà văn Nam Cao ông không chỉ dừng lại ở đó mà ông còn phát hiện ra quy luật
tha hoá, sự xuống dốc tột cùng nhân phẩm con người. Việc phát hiện ra quy luật
tha hoá ông cũng chỉ ra được nguyên nhân đó là do xã hội thực dân phong kiến đã
đè nén, chèn ép đẩy con người xuống vực thẳm vạch cho họ con đường đi từ lương
thiện đến lưu manh mà không họ con đường trở về thành người lương thiện.
Trong đề tài này, đáng chú ý nhất là các truyện: Chí Phèo; Trẻ con không
được ăn thịt chó; Tư cách mõ; Điếu văn; Một bữa no; Lão Hạc; Một đám cưới; Dì
Hảo; Nửa đêm; Lang Rận…
Một đám cưới là câu chuyện viết về cuộc sống gia đình Dần. Sinh ra trong
cảnh gia đình nghèo khó, từ bé Dần đã phải làm thuê cho nhà địa chủ. Mẹ mất, mới
mười lăm tuổi Dần phải quán xuyến mọi việc trong nhà giúp bố. “Nhưng ông trời
hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống ngày một khó khăn
thêm thóc cao, gạo kém. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn” [12, tr.125]. Khiến
bố Dần phải nhận lời gả con gái cho một nhà cũng nghèo ở xóm bên, còn hai đứa con
nhỏ đem gửi để mình lên rừng để kiếm ăn.Từ đây đã diễn ra một đám cưới chạy đói…
Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cuộc đời cơ cực, nhiều cay
đắng của người nông dân thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Chỉ vì cái đói, vì
muốn giữ trọn số tiền và mảnh vườn cho đứa con trai mà lão chỉ dám ăn củ, ăn khoai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và rồi dần dần củ, khoai cũng hết lão phải tìm đến cái chết bằng cách ăn bả chó. Cái
chết của Lão Hạc để lại trong lòng người đọc đầy tính nhân văn, cũng như phán ánh
đúng thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang đè nặng lên đôi vai của những
người nông dân.
Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những thành công của Nam Cao viết về
đề tài nông dân. Chí Phèo ngật ngưỡng bước lên trang sách, ta ngỡ ngàng nhận ra
đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người. Chí
Phèo sinh ra trong đói nghèo, tủi nhục, cô độc. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là
“thằng cùn hơn cả dân cùng”: không cha không mẹ, không họ hàng thân thích,
không nhà, không cửa, không thước đất cắm dùi. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ
được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”. Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã bị vứt
khỏi lề cuộc sống. Vận mệnh của đứa con hoang này chỉ trông chờ vào sự may mắn
tình cờ, vào lòng chắc ẩn của những kẻ qua đường. Từ khi bị tha hóa Chí Phèo tồn
tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Rồi Chí Phèo chết đi cũng trong sự
tủi nhục cô độc. Có thể nói Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu đai diện cho số phận của
người nông dân Việt Nam bị đẩy vào con đường bần cùng hóa. Ở đó con người còn
bị trà đạp lên nhân phẩm.
Còn biết bao câu chuyện thương tâm về người nông dân bị đầy đọa, nhọc
nhằn xoay quanh cái đói: Trẻ con không được ăn thịt chó, Nghèo, Từ ngày mẹ chết,
Đòn chồng… Viết đề tài người nông dân một lần nữa Nam Cao muốn tố cáo xã hội
thực dân nửa phong kiến chà đạp người nông dân lương thiện gây bao cho người
nông dân.
Như vậy, dù truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry có sự khác nhau về đề
tài. Nhưng ở hai tác giả đều có điểm chung đó là cùng có mối quan tâm đến con
người và ý nghĩa của cuộc sống, họ đều mong muốn cuộc sống đẹp hơn. Vì thể sẽ
có những mối quan tâm đến các chủ đề tương đồng trong sự khác biệt nhất định.
2.2. Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao
2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng
2.2.1.1. Chủ đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Qua những tác phẩm của mình, cả Nam Cao và O’Henry đều thể hiện mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Đó là nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc sống
con người.
Với nhà văn Nam Cao “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát
ra từ những kiếp lầm than kia” (Giăng sáng). Rõ ràng ta thấy nghệ thuật ở đây bắt
nguồn từ chính cuộc sống con người.
Giăng sáng là câu chuyện về nhân vật Điền, một trí thức nghèo đang thất
nghiệp. Điền ôm ấp một giấc mộng văn chương rất lớn nhưng chưa có điều kiện
biến giấc mộng ấy thành hiện thực. Đã vậy, cuộc sống vật chất túng quẫn hằng
ngày ràng buộc, khiến con người anh trở nên tầm thường bởi những tính toán
vụn vặt, nhỏ nhoi. Tuy thế, ước mơ trở thành văn sĩ nổi tiếng trong anh chưa tắt.
Nhân một đêm trăng sáng, sau bữa cơm rau dưa đạm bạc, Điền mang ghế ra sân
ngồi ngắm trăng lên. Dưới ánh trăng xanh huyền ảo, mọi vật trở nên đẹp đẽ bội
phần, thôi thúc mộng văn chương trong lòng Điền. Anh tự nhủ sẽ viết ra những
tác phẩm lời phải đẹp, ý phải thanh cao, khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ
mộng… người sẽ đọc văn anh sẽ mê văn anh. Các quý bà, quý cô sẽ gửi cho anh
những bức thư tỏ tình sực nức mùi nước hoa đắt tiền và anh sẽ thành văn sĩ nổi
tiếng…
Đôi cánh kì diệu của trí tưởng tượng không biết sẽ đưa Điền bay bổng đến
đâu nếu không có tiếng càu nhàu gắt gỏng của vợ anh, tiếng khóc lóc rên rĩ của con
anh vì đau bụng mà không có thuốc uống. Những âm thanh trần tục ấy kéo anh trở
về với thực tế phũ phàng: vợ yếu, con đau, hết tiền, hết gạo. Vụt cái, trăng mất đẹp.
Điền cúi mặt bẽn lẽn như bị bắt quả tang làm việc xấu… Anh bừng tỉnh nhận ra
rằng tất cả những điều mình mới nghĩ đây thôi chỉ là phù phiếm, vô vị trước thực
tại này: Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối… Tác giả mượn
lời Điền để bày tỏ thái độ phủ định của mình đối với quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật, ông cho rằng loại văn chương mơ mộng hão huyền cũng giống như ánh trăng
xanh huyền ảo chứa đầy dối lừa bởi ánh trăng làm đẹp cả những cảnh thật ra chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tầm thường, xấu xa. Có biết đâu trong những căn lều nát… biết bao người quằn
quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp người.
Đời thừa cũng là một câu chuyện tương tự. Hộ một nhà văn luôn có suy nghĩ
đúng đắn, nghiêm túc trong nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng một tác phẩm thật
có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm ra cùng thời” thậm chí có thể trao giải Nobel.
Nhưng thực tế cuộc sống lại phũ phàng. Hộ làm quần quật nhưng vẫn không đủ tiền
nuôi sống gia đình. Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực
hiện điều mình ưa thích. Hộ phải viết văn cẩu thả để kiếm tiền, tạo ra những tác
phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn laị đỏ mặt lên, cau mày nghiến răng, vò nát sách mà
mắng mình như một thằng khốn nạn” ngay cả những người có hoài bão, ước mơ lao
động cần cù cuối cùng cũng bị cuộc sống chi phối.
Thể hiện chủ đề nghệ thuật với đời sống con người, O’Henry không để các
nhân vật của mình rơi vào những bi kịch bế tắc như nhân vật của Nam Cao mà ông
thường để nhân vật tiệm cận đến ước mơ, khát vọng đẹp.
Trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, hình tượng nghệ thuật được gắn liền
với chiếc là thường xuân cuối cùng. Những họa sĩ trong câu truyện đều mơ ước có
một tác phẩm kiệt xuất và đưa tất cả thoát khỏi cuộc sống nghèo túng. Họ muốn vẽ
vịnh Naples, muốn có tác phẩm để đời. Đó là khát vọng sáng tạo, khát vọng danh
tiếng.
Dù vậy, họ lại chưa từng bắt đầu tạo nên kiệt xuất mà họ mong muốn. Bởi
nghệ sĩ cũng phải lao vào cuộc sống mưu sinh như bao người khác. Họ phải làm
những điều mình không muốn để kiếm tiền như vẽ quảng cáo, vẽ minh họa tạp chí
hay làm người mẫu cho họa sĩ khác vẽ. Nhưng cho đến cuối đời, cụ Berhman cũng
tạo được một tác phẩm kiệt xuất để đời của mình. Từ sự cảm thông cho số phận
cô gái tài năng như Johnsy mà phải chịu đựng những nỗi đau từ bệnh tật, nghèo
túng cũng như chính bản thân ông. Người họa sĩ già Berhman quyết định chống
chọi lại với cơn bão đêm để vẽ lên tường chiếc lá thường xuân đã rụng với mong
muốn kéo dài sự sống, đem lại niềm tin cho cô họa sĩ trẻ Johnsy. Giữa cơn mưa
bão kèm theo gió rét lạnh lẽo, một ông lão đứng trên chiếc thang chỉ với một chiếc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đèn nhỏ và bảng màu, bằng cả tấm lòng của mình ông đã cố gắng vẽ chiếc lá
thường xuân giống thật nhất. Nếu Johnsy phát hiện chiếc lá đó là giả có lẽ cô đã
tuyệt vọng mà chết.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy, việc sáng tạo nghệ thuật vô cùng khó
khăn. Nhưng với nghị lực và tấm lòng yêu mến, cảm thông dành cho cô gái trẻ, ông
đã hoàn thiện tác phẩm của mình và nó đẹp đến mức trước khi biết về sự ra đi của
cụ Berhman thì không ai biết chiếc lá trên tường kia là giả. Quả thật, nhìn chiếc lá
sống động đó Johnsy được cứu sống và cũng vì nó đó mà cụ Berhman đã không
còn. Dù chỉ là một chiếc lá nhưng nó đã đích thực là một tác phẩm nghệ thuật để
đời của người họa sĩ già. Bằng sự quyết tâm và lòng nhân ái, ông đã tạo nên kiệt tác
này và biến cuộc sống tuyệt vọng của một người trở nên tươi sáng, đầy hi vọng.
Mở đầu truyện ngắn Một sự giúp đỡ của tình yêu là câu: “Khi người ta yêu
nghệ thuật thì không có việc gì khó”. Trong truyện này, O’Henry đã chứng minh
tiền đề này không đúng bằng câu chuyện tình yêu của Joe và Delia. Họ là những
đứa con của nghệ thuật, họ là những người có tài năng thiên bẩm và yêu nghệ thuật.
Nghệ thuật đã đưa họ đến với nhau. Nghệ thuật cho họ động lực để đồng cam cộng
khổ, hi sinh vì nhau. Những tưởng là tình yêu nghệ thuật có thể cho họ tất cả nhưng
cuộc sống không hề dễ dàng như vậy. Họ xuất thân từ gia đình nghèo và ôm theo
mơ ước thành danh mà đi tới New York. Tại đây, họ phải đối mặt với cuộc sống xô
bồ, vật giá đắt đỏ và họ phải chạy theo học phí cao ngất.
Delia nghỉ học để đi dạy kèm cho con gái một vị tướng để Joe tiếp tục được
học. Nhưng thực chất cô làm việc tại xưởng giặt là. Joe mang tiền về nhà nhờ và
nói anh bán được tranh. Sự thật anh làm thợ đốt lò ở cùng một xưởng giặt là với
Delia. Họ chỉ phát hiện ra người kia nói dối khi Delia bị thương ở tay. Đối với người
nghệ sĩ đánh đàn thì đôi tay là cả mạng sống. Cô không lo lắng về điều đó mà chỉ
suy nghĩ làm sao giải thích cho Joe tin rằng mình bị bỏng vì nấu ăn. Họ đều lừa dối
nhau, lừa dối chính bản thân mình bằng “tình yêu nghệ thuật”. Đến cuối cùng, họ
mới nhận ra rằng, chính tình yêu họ dành cho nhau mới khiến họ hi sinh đến vậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Câu chuyện tạo âm vang trong lòng người đọc với sự ấm áp của tình yêu giữa
Joe là Delia nhưng cũng rơi nước mắt xót xa cho bi kịch của họ. O’Henry yêu nghệ
thuật nhưng ông hiểu được giới hạn của nó. Tình yêu nào cũng phải đứng trước sự
thật nghiệt ngã là con người phải lấp đầy dạ dày, cuộc sống phải có tiền để nuôi bản
thân và mơ ước. Trong tác phẩm này, một lần nữa O’Henry khẳng định mối quan
hệ mật thiết giữa nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thuật không được xa rời cuộc
sống. Nghệ thuật có sức mạnh to lớn nhưng không được mù quáng và tuyệt đối hóa
nó.
2.2.1.2. Chủ đề tình yêu thương và sự cảm thông
Có lẽ mọi nhà văn lớn đề gặp nhau ở một điểm chung: đó là cái nhìn đầy
nhân văn đối với con người dù người đó là ai, họ làm gì. Đọc mỗi tác phẩm của
Nam Cao và O’Henry ta thấy cái nhìn đầy nhân đạo, đầy yêu thương mà mỗi nhà
văn dành cho các nhân vật trong tác phẩm của mình.
Mọi vấn đề của xã hội, mọi số phận con người đều được Nam Cao gắn với
câu chuyện nhân cách trong tình cảm xót thương, trân trọng và sự đòi hỏi của con
người. Tính nhất quán và tầm cao lớn cao của tư tưởng nghệ thuật Nam Cao ở chính
ở chỗ đó.
Nam Cao không phải là người khởi nguồn lấy văn chương để gửi gắm những
triết lí về cuộc đời, về con người, về cách ứng xử của mỗi người nhưng Nam Cao là
người đã kế tục được truyền thống đó của văn chương và nâng nó lên một tầm cao
mới, sâu sắc hơn và toàn diện hơn.
Đọc truyện ngắn Lão Hạc của ông, ta càng thêm khẳng định một cách chắc
chắn và thấm thía điều đó. Trong truyện ngắn Lão Hạc, tình yêu thương và sự cảm
thông của Nam Cao được biểu hiện ở hai phương diện: trực tiếp và gián tiếp qua
những ý nghĩ được phát ra thành lời của nhân vật ông giáo và qua suy nghĩ hành vi,
việc làm của nhân vật lão Hạc. Trước hết, ta tìm hiểu tình yêu thương và sự cảm
thông của Nam Cao qua nhân vật lão Hạc. Để biểu hiện được những triết lí của mình,
Nam Cao đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc biệt: nghèo khổ về vật chất, thiếu thốn
về tình cảm, vừa phải vật lộn để mưu sinh, vừa phải đối mặt với những thách thức,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giằng xé với bao trách nhiệm với bản thân, với con cái, với cuộc đời. Trong hoàn
cảnh như thế, lão Hạc đã xử trí thế nào?
Không phải chỉ đến Lão Hạc, Nam Cao mới tạo tình huống để thử thách nhân
vật của mình, ông đã thực hiện điều này trong một loạt các sáng tác văn chương
khác nhau. Hầu hết các nhân vật của ông đã phải đầu hàng hoàn cảnh, buông xuôi
theo dòng xoáy của cuộc đời, trở nên méo mó, dị dạng cả về thể chất lẫn tâm hồn.
Âu đó cũng là một ngụ ý của Nam Cao đề lên thành những triết lí khác nhau về con
người, về cuộc đời.
Trở lại với nhân vật lão Hạc, hoàn cảnh nghiệt ngã đã không khuất phục được
lão. Cuộc đời càng đầy lên những khó khăn và bất hạnh, thì tâm hồn lão càng được
mài dũa sáng trong thêm, nhân cách của lão càng tỏa rạng hơn. Đỉnh cao của lòng
nhân ái, đức hi sinh, lòng tự trọng, sự cao thượng và vị tha, ý thức trách nhiệm, là
hành động ứng xử đầy dũng cảm của nhân vật: chọn cái chết. Một cái chết bất thình
lình và đau đớn. Nhưng từ cuộc đời và cái chết của lão Hạc, ta cảm nhận được bao
ý nghĩa về cuộc đời.
Suy nghĩ và hành động của lão Hạc chính là những triết lí của Nam Cao về
cuộc đời: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn. Nam Cao đã tạo dựng niềm tin cho
mọi người về một cuộc đời sẽ có thể tốt đẹp lên nếu ai cũng biết sống đẹp như lão
Hạc.
Nam Cao không chỉ đã tạo niềm tin cho mọi người về cuộc đời, ông còn tạo
niềm tin cho mọi người về con người. Con người không thể buông xuôi đầu hàng
hoàn cảnh để đánh mất lương tri và nhân phẩm. Triết lí của lão Hạc là sống nghèo
còn hơn sống hèn, sống nhơ bẩn, thà chết trong còn hơn sống đục, thà chấp nhận
một cuộc đời ngắn ngủi còn hơn sống mà để phiền lụy đến mọi người, sống mà vô
trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời và cả với thế hệ sau. Đó là những triết lí sống
đẹp.
Bên cạnh cách thể hiện triết lí qua việc xây dựng tính cách nhân vật, Nam
Cao còn trực tiếp phát biểu ra những quan điểm, suy nghĩ của mình. Và nhà văn đã
mượn lời ông giáo để nói hộ quan điểm của mình: “Chao ôi! Đối với những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần
tiện, xấu xa, bỉ ổi,… toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương,… Cái
bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất” (Lão
Hạc). Đây là một triết lí khá sâu sắc về con người, về cách nhìn nhận đánh giá về
con người. Nam Cao đã có một phát hiện mới mẻ về con người. Theo Nam Cao
không có con người hoàn toàn thánh thiện, cũng như không có con người hoàn toàn
xấu. Con người là tổng hòa của nhiều mặt đối lập: vừa đẹp đẽ, vừa xấu xa; vừa cao
thượng, vừa tầm thường; vừa vị tha, vừa ích kỉ; vừa đáng thương, vừa đáng giận;
vừa đáng yêu, vừa đáng ghét. Cũng theo quan điểm của Nam Cao, trong những con
người tưởng chừng như chỉ là toàn những thói xấu như gàn dở, ngu ngốc, bần tiện,
xấu xa, bỉ ổi, nếu ta có sự cảm thông, chia sẻ ta vẫn tìm thấy ở họ ánh sáng của
lương tri, ý thức của nhân phẩm, một nét đẹp nào đấy của tâm hồn mà ta cần trân
trọng. Triết lí này đã được Nam Cao khẳng định qua rất nhiều sáng tác của ông.
Triết lí nhân sinh cao đẹp này của Nam Cao xuất phát từ lòng yêu thương và trân
trọng.
Gần giống như Nam Cao, chủ đề tình yêu thương và sự cảm thông được
O’Henry thể hiện rõ qua đề tài tình yêu và tình bạn. Những tấm lòng nhân ái, nhân
cách cao đẹp đôi khi được O’Henry làm nổi bật lên từ không gian sống của nhân
vật. Căn phòng của vợ chồng Joe và Delia chật hẹp và được ví von theo con mắt âm
nhạc của Delia: “Đó là một không gian riêng biệt, trông na ná như một nốt lá giáng
chúc cái đuôi xuống phím dương cầm” (Một sự giúp đỡ của tình yêu). Hay căn
phòng nghèo nàn, tù túng của Dulcie (Một câu chuyện dở dang), nơi mà được coi
là “có đói cũng không ai biết”. Hay như anh chàng Joe thầm yêu có Daisy (Psyche
và nhà chọc trời) anh có một cửa hàng “bằng cỡ lỗ mũi và tựa như cái tổ chim én”.
Song, những con người không gian bé nhỏ, ngột ngạt đó lại có tâm hồn đẹp đẽ,
cao thượng. Những căn buồng chặt hẹp, tù túng ngoài giá trị biểu thị cuộc sống
nghèo khổ của các nhân vật thì nó còn được dùng để khai thác những giá trị nhân
đạo trong tâm hồn con người. Môi trường sống tù hãm khổ cực là thế song không
hề làm biến dạng tâm hồn, biến đổi bản chất tốt đẹp của con người. Dù gần chết,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cận kề cái chết, hay uất ức mà tự vẫn chết họ vẫn luôn giữ vững giá trị, nhân cách,
giữ vững tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng và tình bằng hữu.
Trong truyện ngắn Bên bị, Lizzie khi còn nhỏ bị mẹ cấm ra đường vì sợ học
nhiều điều xấu, cô bé không biết làm gì nên rụt rè đề nghị bố chơi một ván cờ với
mình, nhận lại cái cau mày và yêu cầu hãy ra ngoài chơi, đừng làm phiền bố. Lizzie
trưởng thành, có một vị hôn phu là tay chơi muốn cho cô một bài học vì luôn coi
hắn ta thuộc quyền sở hữu và thói ghen tuông của cô nên đã mời một cô gái khác là
Annie nhảy. Lizzie lúc này với bộ dạng ăn mặc diêm dúa, với mỗi câu nói cô lại
nốc một ly rượu, khi chếnh choáng say cô đã giết Annie, sau đó cô bỏ đi hòa mình
vào dòng sông East. Câu chuyện kết thúc bằng một phiên tòa trên thiên đường,
người bị xét xử là Lizzie nhưng cô được tha bổng và người cần ra hầu tòa cho tội
trạng của cô chính là người cha đã bỏ mặc cô.
O’Henry luôn đề cao, ca ngợi những con người giàu đức hi sinh, chung thủy,
có tấm lòng cao thượng, khát vọng sống vươn lên và lạc quan, yêu đời đồng thời
lên án những cái xấu và cảnh báo để mọi người tránh vấp phải. Chính bởi vậy,
O’Henry cho rằng nghệ thuật truyện ngắn nói riêng và nghệ thuật nói chung cần
phải đem đến cho mọi người một bài học để họ suy ngẫm, đánh thức họ khỏi những
u mê, sai trái như khi Soapy trong Tên cớm và bản thánh ca thức tỉnh khi nghe thấy
tiếng nhạc vọng ra từ nhà thờ. Hầu hết những sáng tác của mình O’Henry đều đem
đến một kết thúc có hậu, bởi ông quan niệm nghệ thuật phải đem đến cho con người
niềm tin vào cuộc sống, thanh lọc tâm hồn.
2.2.1.3. Chủ đề tha hóa
Tha hóa vốn là vấn đề phổ biến trong xã hội có phân chia giai cấp. Chủ đề
tha hóa không phải là vấn đề mới mẻ trong văn học. Cả hai nhà văn Nam Cao và O’
Henry ít nhiều đều đề cập đến vấn đề này. Có lẽ, đọc văn Nam Cao, ta cảm thấy đau
đớn không nguôi trước những số phận người, những con người đang trượt dài trên
con đường của sự tha hóa nhân cách. Hướng ngòi bút vào khám phá chiều sâu cuộc
sống, len vào những ngõ hẻm đường quê để cảm thông với con người, Nam Cao đã
xót xa khi phát hiện ra sự tha hóa con người đang diễn ra khắp nơi. Kiểu con người
tha hóa đó ta gặp trong hình ảnh của Lang Rận, của người cha trong Trẻ con không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ăn thịt khó, của bà cái Đĩ trong Một bữa no…và với Chí Phèo, nó hiện thân trong
nhân vật Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức.
Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu khi hắn bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà tù trở
về làng Vũ Đại. Cái anh chàng Chí hiền lành, chân chất ở tuổi hai mươi thuở xưa
đã không còn nữa. Thay vào đó là một Chí Phèo biến dạng, tha hóa về cả nhân tính
lẫn nhân hình. Trước đây, hắn là một thằng “hiền lành như đất” và cũng ý thức rất
rõ về nhân cách, rất giàu lòng tự trọng. Khi bà Ba bắt hắn bóp đùi, hắn cảm thấy
“nhục hơn là thích” và hắn nghĩ “người ta không thích cái gì người ta khinh”. Hắn
cũng có ước mơ giản dị như bao người về một mái gia đình “Chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua
dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi, Bá Kiến cùng nhà tù thực dân đã nhào nặn lại
hình hài và nhân cách Chí Phèo trong một bộ dạng khác: dị dạng, méo mó, trở thành
“con quỹ dữ của làng Vũ Đại” - nỗi khiếp sợ của bao người. Dường như, sau bảy
tám năm ở tù về, Chí Phèo đã trượt dài trên đường ray của sự tha hóa: tha hóa nhân
hình, tha hóa nhân tính, tha hóa cả những suy nghĩ. Nhân hình của Chí không còn
là nhân hình của một người bình thường “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì
trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm
gườm trông gớm chết! (...). Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng
với một ông thầy tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!” (Chí
Phèo). Đó là nhân hình của một người dị dạng, không giống người. Xưa kia Chí
cũng là một anh canh điền trẻ, khỏe mạnh, bình thường. Thế nhưng, bây giờ nó là
sản phẩm của sự tha hóa triệt để “Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không
còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao
giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn
ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo” (Chí Phèo). Rõ ràng, Chí đã bị cướp
mất hình hài của một con người. Phải chăng, cái ngoại hình dữ tợn bị tha hóa kia
cũng là sự phản ánh cho đời sống nội tâm, cho phần nhân tính bên trong cũng đã bị
hủy hoại, tha hóa không kém gì cái hình hài bên ngoài? Nhân tính của hắn là nhân
tính của một “con quỹ dữ”. Hắn bây giờ không phải là anh canh điền “hiền lành
như đất” mà “Hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, tác quái cho bao nhiêu dân làng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(...) hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao
nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Cuộc đời của hắn bây giờ là triền miên trong những cơn say, triền miên trong những
cảnh ức hiếp, đâm chém, rạch mặt, ăn vạ... Những suy nghĩ, những ngộ nhận của
hắn cũng phản ánh nội tâm của một con người bị tha hóa hoàn toàn. Không phải Bá
Kiến xảo quyệt, không phải nhà tù thực dân hủy hoại hắn hoàn toàn mà chính hắn
cũng đang từng ngày hủy hoại mình mà không hề hay biết. Hắn vênh vang đắc chí
khi nghĩ rằng “Không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến
bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá
hộ tiên chỉ làng Vũ Ðại” và “hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng
làng này cóc có thằng nào bằng ta !”. Suy nghĩ đó của Chí phản ánh sự tha hóa đến
tận cùng về nhân cách. Bây giờ, hắn sống trong trạng thái mơ hồ, nhòe mờ về thời
gian và cuộc sống “Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao
nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu
hại người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời
mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi” [12, tr.37]. Đối với hắn không còn
khái niệm ngày tháng nữa mà đời là một cơn say dài kéo lê từ ngày này qua ngày
khác. Hắn không còn ý thức bình thường của một con người.
Có thể thấy, nhân vật Chí Phèo là nhân vật điển hình cho mẫu con người tha
hóa trong truyện Nam Cao. Chí tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa suy
nghĩ và mơ hồ về cuộc sống... Thực tế, Chí Phèo là con người nhưng đã tha hóa đến
bên bờ vực ranh giới của cuộc sống con vật. Sự tha hóa đó của nhân vật Nam Cao
phản ánh nỗi đau của cuộc đời, của số phận con người trong xã hội cũ. Dĩ nhiên
không thể đổ lỗi hết cho hoàn cảnh bởi con người có khả năng chống lại hoàn cảnh
nhưng xã hội cũ xấu xa, độc ác, nham hiểm với những con người như Bá Kiến đã
không cho người ta sống cuộc sống như một con người. Xã hội đó đã đẩy người ta
xuống bùn đen, tha hóa hình hài, nhân cách. Thể hiện sự tha hóa của Chí Phèo, trang
văn Nam Cao đã mở ra một bức tranh hiện thực đầy rẫy bất công, u tối. Nó phản
ánh cái nhìn đầy cảm thông và thăm thẳm chiều sâu nhân văn về người nông dân
trong xã hội cũ của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đó là hình ảnh người bà tội nghiệp, đáng thương trong Một bữa no, chỉ vì
quá đói mà phải lặn lội đến tận nhà bà phó Thụ - nhà mà đứa cháu bà đang đi ở. Đến
là để thăm cháu, nhưng mục đích chính của bà là đi tìm miếng ăn. Hay chỉ vì tính
tham ăn, thèm ăn, thiếu ăn mà người bố trong Trẻ con không biết ăn thịt chó nhẫn
tâm ăn hết phần của vợ con mình, đó là anh cu Lộ trong Tư cách mõ đem đức hi
sinh danh dự, lòng tự trọng của mình để đổi lấy việc được ăn ngon, ăn đủ, ăn không
bỏ sót khi có cơ hội…
Với O’Henry, chủ đề tha hóa được thể hiện qua đề tài đồng tiền, cái ác - cái
thiện. O’Henry đề cập hai mặt “thiên thần và ác quỷ” trong một con người. Điều
này ta thấy hiện lên rõ ràng nhất ở hình tượng “những kẻ lừa đảo cao thượng”. Jeff
Peters- nhà thôi miên, Một sự cải tạo được cứu vãn, Một cơn gió dịu… là những
câu chuyện xuất hiện kẻ lừa đảo. Họ lừa bịp hết người nọ đến người kia đề kiếm
sống. Tuy nhiên, khi đọc tới cuối truyện, độc giả luôn hả hê, thậm chí có đôi lời
khen ngợi những tay lừa đảo này. Bởi lẽ, họ là những “ác quỷ mang tâm hồn thiên
thần”. Jeff Peter đã cùng Andy Tucker cho ông thị trưởng ngu dốt, tham lam - đã
ban hành ra cái lệnh cấm bác sĩ được chữa bệnh để cho Hoskins, anh rể của ông ta
trở thành bác sĩ duy nhất - một vố đau đớn (Jeff Peter - nhà thôi miên).
Parleyvoo Pickens và Buckingham Skinner (Một cơn gió dịu) cùng đồng
bọn dựng nên một ngân hàng và lừa người dân đến mua cổ phiếu. Khi họ phát hiện
ra nạn nhân của mình là bà già ốm yếu, chú bé bán báo, những cô gái công nhân
nhà máy… đã dành số tiền tích góp cả năm trời để mua cổ phiếu, Pikens và Buck
đã lấy số tiền kiếm được và trả lại cho tất cả nạn nhân nghèo khổ. Họ giao số tiền
còn lại cho tay nhà báo và chạy trốn với đôi bàn tay trắng, cùng bắt đầu lại sự
nghiệp bán hàng rong. Hoặc như Jimmy Valentine (Một sự cải tạo được cứu vãn)
đã trút bỏ công sức rũ bỏ thân thế là một kẻ phá két nổi tiếng trở thành Ralph
D.Spencer ông chủ cửa hàng giày để xứng đôi với tình yêu của nàng Annabel.
Đúng lúc tưởng như hắn có thể xóa bỏ hoàn toàn quá khứ thì hắn phải phá két để
cứu một bé gái bị nhốt trong đó bằng ngón nghề quen thuộc. Cũng từ giây phút
đó, Spencer đã biến mất, Jimmy Valentine chuyên phá két hiện nguyên hình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Truyện của O’Henry là như thế. Những người vì hoàn cảnh phải hành động trái
với pháp lý nhưng trong sâu thẳm vẫn ẩn chứa bản chất lương thiện.
Trong Buồng tầng thượng, để có chỗ trú ngụ rẻ tiền, cô gái trẻ, nghèo và thất
nghiệp Leeson đã phải chọn căn buồng với giá 2 đôla: “Bốn bề tường trơ trụi như
ép lấy bạn chẳng khác gì những tấm ván quan tài, và khi ngước mắt nhìn lên, cảm
giác như mình ở đáy giếng”. Cầu thang thì “tối như địa ngục”, một căn hầm có chút
ánh sáng lờ mờ, “tối như ngục âm ti”. Nó chật chội, tối tăm, hôi hám và khi chui
vào phòng thì có cảm giác chui vào quan tài hay thùng phuy. Hằng đêm, sau những
ngày dài đi xin việc và bị từ chối, Lixơn hướng về ô cửa sổ nóc buồng để ngắm
những ngôi sao mà cô đã đặt tên cho chúng. Tuy nhiên, cô luôn lạc quan và yêu đời.
Những người hàng xóm của cô đều yên mến cô. Lixơn không hề bộc lộ sự khó khăn
mà cô gặp phải trước khi trở về căn phòng của mình. Mọi người chỉ biết cô không
xin được việc và không có gì để ăn khi cô ngất, được bác sĩ đưa đi.
Một câu chuyện dở dang cũng diễn ra trong không gian của phòng trọ rẻ tiền,
ở tầng bốn, nơi Dulcie phải trả hai đôla một tuần. Căn phòng ở phía sau trong một
tòa nhà mặt trước lát đá nâu ở khu West Side, khu phố nghèo của New York. Trong
căn phòng trọ ấy, để tồn tại, Dulcie nấu những bữa điểm tâm mười xu, bữa tối một
đôla năm xu trong tổng số sáu đôla kiếm được mỗi tuần bằng cái bếp hơi được đậy
kín bằng vữa lỏng mà để cậy miệng bếp ngón tay cô gái đã phải đỏ lên và bị toét
ra… Cô gần như đã buông xuôi bản thân mình khi được Piggy mời đi ăn. Dulice là
nhân vật O’Henry gửi gắm vào đó sự thức tỉnh, sự kiềm chế bản thân trước cám dỗ
của đồng tiền, của những bữa tiệc xa hoa.
O’Henry thường nhấn mạnh đến sự tự đấu tranh chống lại sự tha hóa của con
người. Ví dụ, nhân vật Della trong truyện Món quà của các thầy pháp. Dù chỉ có
“một đôla tám hào bảy xu”, Della bán mái tóc đáng tự hào của mình để có tiền mua
quà giáng sinh chứ không bán đi nhân phẩm. Nhân vật Dulcie suýt nữa thì mờ mắt
sa ngã bởi một bữa ăn thịnh soạn nhưng may thay kịp thời được cảnh tỉnh. Trong
truyện ngắn của O’Henry, những con người bị đồng tiền chi phối một cách mù
quáng cũng không có được một kết cục tốt. Ví dụ viên tổng thống Miraflores bỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trốn cùng tiền ngân khố nhà nước (Bị bắt) hay thiếu tá Wentworth Caswell cướp
tiền của vợ từng đồng và bỏ mặc bà thiếu ăn (Câu chuyện tỉnh lẻ) đều có kết cục
không mấy tốt đẹp, thậm chí phải trả giá bằng mạng sống. Phải chăng O’Henry
muốn dùng những cái kết có hậu như cổ tích để gieo mầm cho sự hướng thiện, khơi
gọi mầm hạnh phúc được trồng từ hạt giống lương thiện?
2.2.2. Những chủ đề khác biệt
2.2.2.1. Nam Cao và chủ đề đấu tranh giữ nhân phẩm
Chủ đề này được đề cập trong nhiều tác phẩm của Nam Cao: Đời thừa, Lão
Hạc, Một bữa no, Nghèo, Những truyện không muốn viết… Hầu hết các nhân vật trong
truyện luôn phải tự đối diện với chính mình và nhà văn miêu tả cuộc đấu tranh khó
khăn đó để đề cao nhân phẩm của mỗi con người.
Trong tác phẩm Đời thừa, Hộ là một nhân vật giàu lòng nhân ái, luôn coi trọng
tình yêu thương đồng loại. Theo anh, con người chân chính phải là con người có tình
yêu thương đồng loại; mà “đồng loại” gần gũi nhất chính là vợ và con. Đối với Hộ,
“không thể bỏ lòng thương”, bởi vì anh “là con người, chứ không phải là quái vật”.
Như vậy, trong quan niệm của Hộ, tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt con người và con
vật là tình thương. Chỉ khi nào có tình thương mới đủ tư cách được gọi là con người.
Anh quan niệm: “kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng
ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
Đấy không phải chỉ là một ý nghĩ suông, Hộ đã thực sự sống với triết lý ấy.
Trước cảnh ngộ đáng thương của Từ - một người phụ nữ bị người tình phụ bạc, bỏ
rơi cùng với một đứa con mới đẻ, và một bà mẹ già mù “quanh năm nay ốm mai
đau, mà Từ vẫn phải nuôi” , “Hộ đã cúi xuống nỗi đau của Từ, nhận nàng làm vợ,
"nuôi Từ, nuôi mẹ già con Đại cho Từ”… Lòng thương người tất nhiên đòi hỏi phải
nỗ lực. Hộ phải lo cái ăn cái mặc cho một gia đình đông con. Điều này buộc Hộ
phải đứng trước một sự lựa chọn thật khắc nghiệt: hoặc bỏ mặc vợ con để chuyên
chú vào nghiệp văn chương hoặc phải hi sinh sự nghiệp văn chương để nuôi sống
vợ con. Ở Hộ, con người chân chính cao thượng đã chiến thắng. Anh đã hi sinh nghệ
thuật, nói rộng ra là hi sinh cuộc đời mình vì tình thương, vì con người. Còn gì đau
đớn hơn đối với một người trí thức có hoài bão lớn, khao khát sống chói lọi, mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phải chấp nhận một cuộc đời vô ích, vô nghĩa. Nhưng đó lại chính là vẻ đẹp của
nhân vật Hộ với tư cách là một con người và qua nhân vật Hộ thấy được cội nguồn
của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.
Đọc truyện ngắn Lão Hạc ta lại cảm nhận được một tâm hồn và tình yêu tha
thiết, niềm tin và nhân cách cao thượng của người nông dân già nua, nghèo hèn phải
tìm đến cái chết. Cái chết của Lão Hạc không đơn giản là nghèo đói mà ở đây Nam
Cao đã khơi vào “luồng chưa ai khơi” trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách
nhiệm, lòng yêu thương nhân ái, sự hi sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh
vật lộn với cái chết. Lão chết là để bảo toàn cái danh dự và nhân cách, để giữ trọn
tình yêu cho con, để ra đi một cách thanh thản sau những gửi gắm về mảnh vườn,
số tiền cho con cưới vợ, xa hơn là tiền lo ma chay cho lão. Chính sự chất phác lương
thiện đã giúp lão có hành động đầy tự trọng ấy, lão không muốn liên lụy tới ai mà
chỉ chịu khổ một mình.
Khác với hai tác phẩm trên, Một bữa no là hình ảnh xót thương của bà cụ
co ro trước cổng của chủ nhà nơi đứa cháu gái bà làm. Càng xót thương hơn khi
cái giọng điệu lạnh người, những lời buộc tội với mục đích đuổi bà cụ đi. Nhưng
bà vẫn ở lại ăn một bữa cơm. Một bữa cơm dưới sư coi thường của cả chủ lẫn tớ.
Và bữa ăn đó cũng là bữa ăn cuối cùng của bà, có thể là do một bữa no, cũng có
thể là do đói khổ cả cuộc đời… Mặc dù bà lão trong câu truyện không thắng được
trong cuộc chiến với chính mình nhưng nhà văn vẫn muốn con người phải ý thức
về nhân phẩm.
Viết về chủ đề này nhà văn đang muốn ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp về
con người. Dù họ là ai, thuộc tầng lớp lứa tuối nào thì bên trong con người của họ
vẫn ẩn chứa những điều tối đẹp. Đó là điều mà nhà văn muốn hướng tới.
2.2.2.2. O’Henry và chủ đề ngợi ca thiên nhiên
O’Henry không đi vào những bi kịch tinh thần như Nam Cao. Ông hướng
ngòi bút vào những vấn đề nhẹ nhàng hơn. Ông chú tâm vào thể hiện cái đẹp của
cuộc sống xung quanh con người, đề cao thiên nhiên. Thái độ trân trọng, ca ngợi vẻ
đẹp thiên nhiên trong tác phẩm của ông rất rõ. O’Henry say mê những trang miêu
tả thiên nhiên nước Mĩ với tất cả sự vẫy chào, mời gọi, đong đưa của nó: “Những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tấm cọ đang phất phơ trong gió như chào mời chúng ta hãy vui chơi hoan hỉ” (Bị
bắt), hay đó là cảnh: “Cây xương rồng với những chiếc lá dài thõng liên tục đong
đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như đang ra dấu hiệu gì đó”
(Cây xương rồng).
Dưới cái nhìn tinh tế của O’Henry, cảnh vật đa phần hiện lên trong trạng thái
động nhưng không phải là cái động dữ dội, mãnh liệt mà ta thường thấy trong một số
trang miêu tả thiên nhiên của các nhà văn Mĩ ưa cảm giác mạnh, mà nó chỉ là những
chuyển động nhẹ nhàng, ở đó vạn vật có sự hài hòa với nhau: “những tấm cọ thì phất
phơ trong gió, những lá cây xương rồng thì liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất,
còn con người thì nhìn thấy ở trong thiên nhiên một sự giao cảm, dường như nó đang
mời chào đang ra dấu hiệu gì đó cho ta”(Cây xương rồng).
O’Henry cho rằng thờ ơ, dửng dưng trước vẻ đẹp là một thứ bệnh gặm nhấm
làm khô cứng hủy hoại tâm hồn con người.Vì vậy, ông đã không bỏ qua bất kì một
vẻ đẹp nào của thiên nhiên cho dù đó chỉ là “chiếc lá vàng rơi - tấm danh thiếp của
thần rét” hay “bầu trời ru ngủ của miền Nam nước Mĩ”, “những tia nắng đầu tiên
của mặt trời nhuốm vàng các tòa nhà cao ngất dẹt như một con dao rọc giấy ở phía
tây công viên” (Tên cớm và bản thánh ca), thậm chí là “con đường trắng xóa trong
ánh trăng” (Hoàng tử đồng xanh), “dòng nước trong vắt từ ngọn đồi chảy róc rách
xuống nền đá” (Ngôi giáo đường với cối xay nước). Những chi tiết rất nhỏ ấy của
thiên nhiên nhiều khi con người hay vô tình lãng quên đi trong cuộc sống mưu sinh
đầy vội vàng, lo toan nhưng với sự mẫn cảm của một nhà văn như O’Henry, tất cả
đều được ghi lại và trở thành khoảnh khắc đáng nhớ.
Thiên nhiên trong truyện ngắn của O’Henry không chỉ tràn ngập màu: màu
vàng của những chiếc lá rơi cuối thu, của những tia nắng mặt trời đầu tiên, màu
trắng xóa của con đường trong đêm trăng, màu trong veo của dòng nước từ ngọn
đồi chảy xuống mà còn trở nên hữu tình hơn khi nó chứa trong lòng mùi thơm của
hương cỏ đồng nội, âm thanh của các loài chim. Đó là tiếng líu ríu của bầy sẻ mơ
màng dưới các mái hiên, là tiếng hót của chim bách thanh lảnh lót cất lên một bản
tình ca. Những âm thanh ấy không làm cho không gian trở nên buồn thảm, u sầu mà
trái lại chúng làm cho cảnh vật trở nên quyến rũ, mơ màng hơn. “Cảnh đêm trước
giáng sinh có một chút gì giá lạnh trong không khí xa xôi lăn tăn như nước khoáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lại được ướp thoang thoảng của mùi hoa cỏ đồng nội” (Món quà giáng sinh đồng
nội). Sự miêu tả thật là tinh tế. Không khí là cái mà ta hít thở từng ngày. Nó vốn vô
hình, nhưng qua ngòi bút của nhà văn nó hiện lên thật hữu hình, trong trẻo đến lạ
thường.
Thiên nhiên trong truyện ngắn O.Henry còn gây ấn tượng với chúng ta bởi
đường nét tạo hình, đó là “vẻ đẹp nghiêng nghiêng của dãy rừng thông trong những
buổi chiều mơ màng vàng rực trong không khí u tịch huyền bí” (Ngôi giáo đường với
cối xay nước). Khi đứng trước một thiên nhiên nên thơ bình dị như vậy, bạn đọc luôn
có cảm giác bình yên, nhẹ nhàng, êm dịu. Đó phải chăng là những khoái cảm thẩm
mĩ mà nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã nhắc tới khi bàn về chất thơ trong văn xuôi,
hay là cảm xúc của một ai đó đã từng gọi tên: “khoái cảm khi đọc một truyện ngắn
đầy chất thơ thú vị, sẽ giống như những giây phút tuyệt diệu của một cặp tình nhân
sánh bước bên nhau” [www.qdnd.vn. Đời sống Văn hóa] [24].
Mặc dù xuất hiện không nhiều, và tồn tại trong tác phẩm chỉ bằng những đoạn
văn ngắn nhưng thiên nhiên đã góp phần làm nên trong truyện ngắn O’Henry một
sắc thái trong trẻo, thơ mộng. Điều này đã tô đậm thêm cái hay cho những sáng tác
của O’Henry và được cả thế giới mệnh danh là người viết truyện ngắn có “duyên”
nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 2
Nam Cao và O’Henry là những nhà văn có sự cảm nhận tinh tế, vốn sống
phong phú. Cả Nam Cao và O’Henry đã đưa vào tác phẩm của mình hệ thống đề
tài, chủ đề vô cùng đa dạng. Hệ thống đề tài ấy không chỉ là nội dung phản ánh thế
giới xung quanh mà còn bộc lộ quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Những đề tài mà Nam Cao và O’Henry đề cập tới đều là những đề tài tiêu
biểu, phổ biến trong văn học, song qua ngòi bút của hai nhà văn, chúng trở nên
phong phú, sâu sắc. Cùng có những mối quan tâm chung về đời sống của giới trí
thức, cả hai nhà văn đều nhìn thấy ở đề tài này những mối quan hệ đời sống đa dạng,
mối cảm thông sâu sắc. Những truyện của Nam Cao và O’Henry đề cao giá trị đạo
đức con người. Các nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao thường rơi vào những bi
kịch mà chủ yếu là bi kịch tinh thần. Còn các tác phẩm của O’Henry các nhân vật
luôn tìm được lối thoát khiến người đọc vui vẻ khi đọc kết truyện. Tuy nhiên dù
kiểu nhân vật nào thì người đọc phải xót xa, và làm cho độc giả phải suy nghĩ rút ra
bài học cho bản thân. Điều này giúp con người có ý chí, nghị lực vươn lên, nhìn
cuộc sống một cách lạc quan yêu đời.
Viết về chủ đề của truyện: cả Nam Cao và O’Henry đề có sự gặp gỡ trong
việc hướng đến những điều tốt đẹp của con người đó là tình yêu thương sự cảm
thông, bên cạnh đó Nam Cao còn đưa đến chủ đề đấu tranh để giữ gìn nhân phẩm
điều này đã phản ánh thực tại xã hội Việt nam lúc bấy giờ. O’Henry là dành sự quan
tâm cho thiên nhiên nhẹ nhàng mà tinh tế.
Trong mỗi câu chuyện cả Nam Cao và O’Henry cất giấu nhiều đề tài khác
nhau, đồng nghĩa với việc chủ đề tư tưởng mà hai nhà văn đem đến đem đến không
chỉ có một và độc giả có thể rút ra nhiều bài học từ đó trở thành người hoàn thiện
cả về chân, thiện, mĩ. Với mỗi nhà văn nghệ thuật không chỉ dừng lại ở yếu tố
thẩm mĩ, chỉ vì cái đẹp mà nghệ thuật chỉ đúng nghĩa khi nó phục vụ con người,
tác động đến xã hội chứ không phải con người phục vụ cho nghệ thuật, chức năng
của nghệ thuật là thức tỉnh con người và thanh lọc tâm hồn.
.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 3
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry
3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện biến cố, hành động trong tác
phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Thông
qua cốt truyện, nhà văn vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn
tình cảm và sự đánh giá chủ quan của họ đối với đời sống. Vì vậy, cùng xuất phát từ
một xung đột xã hội giống nhau. Mỗi nhà văn sẽ xây dựng một cốt truyện của riêng
mình nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng phong cách nghệ thuật cá tính
sáng tạo của nhà văn đối với mỗi cuộc sống.
Nhắc đến cốt truyện trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry, ta thấy ở
họ có sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện. Đó là những cốt truyện đơn giản
xoay quanh những vấn đề của cuộc sống thường ngày nhưng lại để lại những ý nghĩa
vô cùng to lớn rút ra từ câu chuyện.
Vũ Khắc Chương nhận định: Truyện ngắn Nam Cao sớm được đánh giá là
cốt truyện ít sự kiện, cốt truyện không gay cấn. Tác giả Vũ Thăng trong bài Một vài
đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao (2000) cho rằng: “Đa số truyện Nam Cao có kết
cấu mở, truyện không có cốt truyện, từng quãng đời nhân vật với bao thăng trầm được
chêm vào tác phẩm, đẩy tình huống truyện vận động theo một xu thế mà mỗi một lần
có thay đổi lại là một điểm nhấn, một bước ngoặt quyết định xu hướng tác phẩm và
tính cách nhân vật” [20, tr.123].
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam tập 2 (1983), Hà Minh Đức đã chỉ ra đặc điểm
cốt truyện truyện ngắn Nam Cao: “Ở loại truyện này Nam Cao không chú ý xây dựng
một cốt truyện hoàn chỉnh, có đầu có cuối, sự kiện và hành động phát triển theo một
mạch khép kín. Nam Cao chú ý đến những trạng thái tâm lý do mọi cảnh ngộ tạo nên,
trạng thái tâm lý mang ý nghĩa tiêu biểu điển hình cho một loại tính cách và hoàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cảnh xã hội từ trạng thái tâm lý ấy, một đường dây cốt truyện được hình thành phù
hợp. Cười; Nước mắt; Giăng sáng; Mua nhà; Quên điều độ; Cái mặt không chơi
được… được xây dựng theo hướng đó” [11, tr.158].
Quả thực, cốt truyện của Nam Cao có cách tổ chức đặc biệt. Ta có thể kể đến
một số tác phẩm như: Nghèo; Con mèo; Đòn chồng; Đôi móng giò; Đón khách; Quái
dị ; Làm tổ; Một bữa no; Rửa đòn; Rình trộm; Lang rận…Các tác phẩm này chủ yếu
viết về người nông dân xoay quanh cái nghèo đói của họ. Có truyện nói đến sự sa
sút mất dần nhân phẩm do cái nghèo, cái đói mang lại, có truyện lại nêu lên những
mâu thuẫn đời thường diễn ra hằng ngày của người nông dân… Tất cả vấn đề đó
đều được xây dựng bằng một cốt truyện sự kiện đơn giản nhưng không kém phần
hấp dẫn.
Một bữa no là cái chết đáng thương của bà lão chết vì bội thực. Vì đói quá
hơn nữa lại già yếu nên bà đã phải đi ăn xin, chịu sự khinh bỉ, dè bỉu của bà phó
Thụ. Bữa cơm no nhất mà bà được ăn cũng chính là bữa cơm cuối cùng trong cuộc
đời bà.
Đòn chồng kể về một câu chuyện chị vợ ăn lường bánh giày ngoài chợ, bị
người bán hàng bóp cổ vạch mặt ngay tại chợ. Đỉnh điểm của câu chuyện chính
là trận đòn nên thân của anh chồng muốn trị tội chị vợ. Và mặc dù bị đánh nhưng
chị ta vẫn cố ăn hết nồi cháo trai. Có lẽ cái đói ở đây đã khiến cho người ta mất
nhân cách.
Nghèo là tác phẩm thể hiện tình huống túng quẫn của con người khi anh đĩ
Chuột ăn cháo cám của mấy đứa con, là người cha phải thắt cổ tự tử thật đáng
thương. Trong khi đó tiếng đòi nợ của bà Huyên còn đang văng vẳng ngoài đầu ngõ
trong những trang cuối truyện. Như vậy, cái đói dường như đã khiến cho con người
mất dần đi nhân cách của mình và Nam Cao đã khéo léo đưa chúng vào trong tác
phẩm để nói lên thực trạng đau lòng của người nông dân.
Cốt truyện Đời thừa khá đơn giản. Truyện diễn ra trong một không gian chật
hẹp: không gian gia đình. Vì nghèo đói nên hai vợ chồng thường xuyên xảy ra những
va chạm, nhưng không có mâu thuẫn gay gắt, và gây ra biến cố gì lớn. Mâu thuẫn
là trong lòng nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngoài ra, trong truyện ngắn của Nam Cao cũng nói nhiều đến sự kiện đời
thường, những thói hư, tật xấu của người nông dân ở làng quê. Con mèo là cuộc
tranh cãi giữa đôi vợ chồng về một lý do hết sức đơn giản. Những mâu thuẫn khá
căng thẳng liên tục được tăng lên và đỉnh điểm là những trận đòn ầm ĩ. Nhưng kết
thúc truyện tất cả đều được hóa giải một cách tự nhiên. Rình trộm cũng là câu truyện
có cốt truyện đơn giản kể về việc rình trộm của anh chồng trẻ khi nhà bị mất chuối.
Nhưng trộm thì không bắt được, anh còn bị nghi ngờ là câu trộm cá,vì vậy nhà anh
bị khoét vách lần nữa.
Hầu hết truyện ngắn kể trên đều giống nhau ở chỗ cốt truyện đơn giản. Nam
Cao không chú tâm xây dựng những sự kiện ly kì mà ông thường viết về những vấn
đề của cuộc sống thường ngày. Song, từ những chuyện bình thường trong sinh hoạt
hàng ngày ấy nhà văn đã đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh to lớn, sâu
sắc. Qua những trang viết ấy ta thấy rằng ông vẫn luôn trăn trở về cuộc sống tối
tăm, cùng cực của người dân ở chốn nông thôn.
O’Henry cũng vậy, trong Giáo trình văn học phương Tây, Lê Huy Bắc nhận
xét truyện ngắn của O’Henry hầu hết dễ đọc và lôi cuốn độc giả. Cốt truyện O’Henry
là cốt truyện truyền thống, đơn giản và hoàn chỉnh. “Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu
trần thuật, đối thoại… đều có thể được xem như là một trong khuôn mẫu của thể loại
truyện ngắn thể kỉ XIX” [3, tr.171]. Nhận xét rất chính xác.
Với vốn sống, sự từng trải, khả năng quan sát tinh tế mà ít nhà văn nào có
được và sức tưởng tượng phong phú, hư cấu tuyệt vời đã giúp ông tái hiện lại hiện
thực cuộc sống một cách đa dạng, hấp dẫn. Cách lựa chọn ít sự kiện và làm nổi
bật lên mâu thuẫn, sự trùng hợp để dẫn tới kết thúc bất ngờ là điểm đặc sắc trong
truyện ngắn O’Henry. Cốt truyện trong các sáng tác của ông thường đơn giản tuy
nhiên lại biến hóa linh hoạt, hấp dẫn người đọc khiến phải đọc từ đầu đến cuối tác
phẩm...
Truyện ngắn Hai mươi năm sau chỉ có sự kiện về hai người bạn hẹn gặp nhau
sau hai mươi năm. Khi gặp lại, một người là cảnh sát còn người kia là tội phạm.
Tương tự, tác phẩm Những mẩu bánh mì kiến hiệu có cốt truyện đơn giản, kể về
một nữ chủ cửa hàng bánh đã tứ tuần thích một họa sĩ trung tuổi luôn chỉ mua hai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chiếc bánh mì đã khô. Vì tưởng người họa sĩ này nghèo chỉ đủ tiền ăn như vậy nên
bà đã lén cho vào hai chiếc bánh mì của ông lát bơ thật to bà đã làm hỏng bản vẽ
của ông họa sĩ.
Chúng ta có thể tóm tắt bất kỳ một tác phẩm nào đó của O’Henry bằng một
vài câu ngắn gọn bởi cốt truyện đơn giản, ý định của tác giả đã bộc lộ ngay từ đầu.
Tuy nhiên, các sáng tác của ông vô cùng hoàn chỉnh từ mở đầu cho tới kết thúc, các
chi tiết truyện liên kết với nhau rất chặt chẽ, cái trước làm nảy sinh cái sau.
Cốt truyện theo kiểu cổ điển và đầy đủ năm phần “mở nút - thắt nút - phát
triển - đỉnh điểm - kết thúc”. Với phương châm “giấu kĩ, bày nhanh”, O’Henry mở
ra cho người đọc một cái kết có hậu, khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn. Truyện
ngắn Căn buồng có sẵn đồ cho thuê của O’Henry sử dụng cốt truyện truyền thống.
Phẩn mở đầu trình bày các trạng thái, quan hệ của truyện. Tình huống truyện là đoàn
nghệ thuật nghèo không có một chỗ ở cố định và một thanh niên đi tìm người yêu
với cái túi xách lép kẹp đến thuê nhà ở khu West Side. Tiếp theo là việc anh thanh
niên cảm thấy hình bóng người yêu mình trong căn phòng anh đang ở. Phần phát
triển của truyện là anh thanh niên chạy đi hỏi bà chủ nhà về người yêu của mình
nhưng không được câu trả lời như ý. Phần đỉnh điểm của truyện là lúc anh thanh
niên quá tuyệt vọng nên đã quyết định tự tử. Phần kết của truyện chính là cảnh hai
bà chủ nhà trọ nói chuyện với nhau về cô gái đã từng thuê phòng anh thanh niên
đang ở, cô đã tự tử bằng khí ga vào tuần trước.
Trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng có thể tóm lược theo các bước sau: Trình
bày tình huống: tại một khu nhà trọ nghệ sĩ có một cô họa sĩ trẻ bị viêm phổi đang
nằm đợi chết. Phát triển: sức khỏe Johnsy càng yếu dần. Thắt nút: cô gái phó mặc
cuộc sống cho chiếc lá thường xuân đang rụng. Đỉnh điểm: chỉ còn một chiếc lá trên
tường, khi chiếc lá ấy rơi thì sự sống của Johnsy cũng chấm dứt. Kết thúc: chiếc lá
không rơi, Johnsy tìm lại được niềm tin. Kết thúc bất ngờ, có hậu thể hiện niềm tin
vào cuộc sống của Johnsy, cũng như ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
O’Henry đã đánh thức bản nguyên của con người. Niềm tin, hi vọng đều tiềm ẩn
trong chúng ta, điều quan trọng là chúng ta biết cách thức tỉnh nó để hướng đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những giá trị tốt đẹp. Johny nhờ ý chí, nhờ nghị lực vươn lên mà cô đã thoát khỏi
lưỡi hái của tử thần.
Truyện ngắn O’Henry có cốt truyện không quá rắc rối, yêu cầu người đọc
phải có vốn hiểu biết nhất định và suy ngẫm quá nhiều để hiểu được ý đồ ẩn chứa
trong tác phẩm như một số nhà văn khác. Ông luôn đem lại những câu chuyện dễ
đọc, dễ hiểu. Tuy cốt truyện của ông đơn giản nhưng lại được khai thác ở những
khía cạnh ít ai để ý tới và quan sát thấy. Cái độc đáo chính là ông luôn tạo tình
huống nằm ngoài dự định của người đọc ở cuối truyện. Độc giả bị dẫn dắt vào những
tình huống bất ngờ và vỡ òa, sung sướng với cái kết có hậu như cổ tích của ông.
Truyện ngắn O’Henry là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh về mặt cốt truyện.
Người đọc có thể hiểu hết mọi thứ, thấu được ý nghĩa và dụng ý của ông, đồng thời
cảm nhận được chiều sâu của cuộc sống.
Qua cách xây dựng cốt truyện đơn giản, O’Henry đã thể hiện quan niệm của
mình đối với nghệ thuật truyện ngắn. Nghệ thuật không cần phải là những tác phẩm
đồ sộ mà là những tác phẩm ngắn gọn. Yếu tố đơn giản làm nên sự thành công.
O’Henry không dụng tâm xây dựng những tác phẩm lớn. Ông cho rằng dù nhỏ
nhưng giống như viên thuốc đắng bọc đường. Quan trọng ý nghĩa mà tác phẩm nghệ
thuật đó đem lại là niềm tin, khơi dậy những điều tốt đẹp ở con người, đó chính là
nghệ thuật chân chính.
3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện
Cả Nam Cao và O’Henry đều rất thành công ở thể loại truyện ngắn. Trong
truyện ngắn cốt truyện là vô cùng quan trọng. Trong đó đặc biệt lưu ý đến việc lựa
chọn tình huống truyện và xây dựng cốt truyện. Nam Cao và O’Henry bên cạnh
những điểm tương đồng trong việc xây dựng cốt truyện thì mỗi nhà văn lại có cách
xây dựng cốt truyện riêng biệt tạo nên nét độc đáo trong tác phẩm cũng như phong
cách riêng của mỗi nhà văn.
Điểm khác biệt đầu tiên trong việc xây dựng cốt truyện đó chính là cách lựa
chọn và xây dựng tình huống truyện.
Trong bài viết Một vài đặc điểm của thi pháp truyện Nam Cao (1998), Phạm
Quang Long cho rằng: “Một trong những đặc điểm nổi bật của truyện Nam Cao là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ông đã sử dụng rất tài tình cả một hệ thống các tình huống truyện dưới dạng tình
huống nhận thức lựa chọn gắn chặt với tình huống tâm lý và trên cơ sở miêu tả, lý
giải mọi khía cạnh phong phú, phức tạp của quá trình này mà đi sâu vào thế giới
tâm lý con người, vào những đối thoại tư tưởng giữa nhà văn với người đọc không
phải dưới dạng triết lý trừu tượng mà những tư tưởng triết lý, những quan niệm đạo
đức, nhân sinh ấy được cảm nhận từ hệ thống hình tượng, từ những rung động thẩm
mĩ” [17, tr.216]. Ý kiến này khá xác đáng. Tác giả đã chỉ ra những loại tình huống
tiêu biểu trong truyện ngắn Nam Cao.
Nam Cao xây dựng nhiều kiểu tình huống khác nhau trong truyện ngắn của
mình. Hầu hết các tình huống của ông đưa ra trong truyện luôn hấp dẫn bạn đọc.
Các tình huống truyện ông đều để nhân vật bộc lộ được tính cách, tâm trạng của
mình một cách rõ ràng. Chính điều này đã tạo nên sự thành công trong truyện ngắn
của ông.
Trong truyện ngắn của Nam Cao chúng tối có thể điểm qua một vài dạng tình
huống tiêu biểu:
Tình huống kịch: đó là tình huống bao hàm các xung đột diễn ra trong đời
sống mang tính kịch cao. Ở đó, sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay gắt, bị
dồn nén trong một không gian thời gian và hành động theo quy tắc “tam duy nhất”
của kịch. Trong sự va chạm ấy nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét
nhất. Có thể kể đến những truyện thuộc kiểu tình huống này như: Con mèo; Đòn
chồng; Thôi đi về; Rình trộm… Ở những truyện này, tình huống đều xoay quanh
những câu truyện gia đình.
Trong truyện Con mèo, tình huống bắt đầu từ truyện con mèo có ý định ăn
vụng, nhưng đó chỉ là mở đầu cho mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Cu phát sinh. Kịch
tính bắt đầu khi xuất hiện mâu thuẫn vợ chồng họ chửi bới nhau. Nhưng chỉ đến
đêm mâu thuẫn lại tan biến. Họ lại làm hòa. Tình huống trong truyện đơn giản diễn
ra nhanh dữ dội nhưng rồi cũng tan biến rất nhanh.
Ở truyện Đòn chồng, tình huống truyện bắt nguồn từ việc chị vợ ăn lường
bánh dầy ngoài chợ. Chị ta bị những người bán bánh ngoài chợ đánh. Đỉnh điểm là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
việc anh chồng cột vợ vào cột nhà và đánh. Anh cảm thấy thật nhục nhã khi có một
người vợ ăn gian. Cô vợ đau đớn, thét gào, van lậy nhưng khi vừa được cởi trói thì
lại sà ngay xuống ăn sạch nồi cháo.
Kiểu tình huống thứ 2 là tình huống tâm trạng. Đó là kiểu tình huống với
mục đích làm nổi bật tâm trạng và suy nghĩ nhân vật. Nhà văn Nguyễn Minh Châu
cho rằng: Có những nhà văn lại cố tình đưa nhân vật của mình vào những va chạm
bình thường hằng ngày, những tình thế giao tiếp hằng ngày ai cũng đã trải qua và
các tình thế xảy ra lại nằm trong tâm trạng, tính cách nhân vật. Có thể kể tới một số
truyện xuất hiện tình huống tâm trạng như: Đời thừa; Giăng sáng; Nước mắt; Bài
học quét nhà…
Ở những truyện ngắn trên nhân vật trí thức thường được đặt trong mối quan
hệ gia đình và xã hội. Họ được đặt trong hoàn cảnh nghèo khó, tù túng vì cuộc sống
cơm áo gạo tiền.
Trong truyện Nước mắt, nhân vật Điền vốn là một người chồng người cha
thương vợ thương con nhưng vì cuộc sống quá khó khăn nên Điền thường xuyên
cáu gắt với vợ con. Anh còn tỏ ra chán nản và “chỉ thở dài ngao ngán cho kiếp
mình”. Nỗi bực dọc uất ức trong Điền dần tan đi khi anh nghe thấy tiếng con khóc
vì đau ốm. Lúc này anh mới nhận ra sự tàn nhẫn của mình đối xử với vợ con trong
thời gian qua. Trong tình huống ấy Điền đã bộc lộ tất cả những tính cách và suy
nghĩ trong nội tâm của mình.
Ngoài ra còn kiểu tình huống tự nhận thức, loại tình huống luôn gắn liền với khả
năng tự ý thức của nhân vật. Đó là kiểu tình huống được sử dụng khá nhiều trong
truyện ngắn của Nam Cao. Có thể kể đến các tác phẩm như: Chí Phèo; Cái mặt
không chơi được; Giăng sáng; Đời thừa; Nước mắt…
Chí Phèo được đặt trong hoàn cảnh với chính bản thân mình. Thức tỉnh trong
cuộc gặp gỡ vô tình với Thị Nở và trận ốm dữ dội, hắn ý thức về tuổi già của mình
và nhớ lại những mơ ước ở một thời xa xôi: “tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn
cô độc. Buồn thay cho đời”. Hắn bắt đầu khao khát trở thành người lương thiện:
“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng chính sự nhận thức này đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi, khi vung dao
giết Bá Kiến. Đây là kết cục của quá trình nhận thức của Chí Phèo.
Ở những truyện như Giăng sáng; Đời thừa; Nước mắt… Nam Cao đã đặt
nhân vật của mình vào những tình huống khác nhau để nhận thức về bản thân, về
cuộc sống, gia đình và xã hội, về những khát vọng trong nghề nghiệp và những thất
vọng, chán nản trước sự nghiệp tù túng, quẫn bách.
Trong các tác phẩm của O’Henry. Ông chủ yếu xây dựng truyện từ những
tình huống ngẫu nhiên. Trong số các tác phẩm của O’Henry, nhiều truyện đỉnh điểm
mang tính chất ngẫu nhiên.
Tác phẩm Hai mươi năm sau kể về cuộc gặp gỡ giữa Bob và Jimmy Well
trong một dịp “đặc biệt”. Ngày Bob đến gặp người bạn Jimmy Well sau hai mươi
năm xa cách là ngày người bạn của anh đưa anh vào tù. Cuộc hội ngộ đớn đau của
Bob với Jimmy là tình huống không thể tin được trong cuộc sống. Cả hai cùng đến
điểm hẹn đúng ngày giờ nhưng trớ trêu Bob đến tìm bạn, còn bạn đến tìm mình với
tư cách một nhà hành pháp đi bắt tội phạm. Việc nhà chức trách bắt tên tội phạm
miền Tây không phải vấn đề, vấn đề là cách nhà chức trách này hành động. Trong
trái tim Bob, Jimmy luôn là một người bạn tuyệt vời: “Thằng bạn thân nhất của tôi,
một tay tốt bụng nhất trên đời. Nó với tôi cùng lớn lên ở New York này như hai anh
em… Trung hậu và thành thật nhất đời, nhất định nó sẽ không quên”. Bob rất trân
trọng tình bạn giữa hai người: “Tôi đã đi một nghìn dặm đến đứng ở cái cửa này
đêm nay, nhưng nếu thằng bạn cũ của tôi mà đến đây thì cũng thật bõ công”. Sự
tin tưởng vào tình cảm ấy đã làm anh rơi vào bẫy. Trái lại, trong mắt Jimmy, Bob
chỉ còn là một tên tội phạm gã từng hẹn gặp cách đây hai mươi năm. Gã đã khai
thác sự chân thành của Bob để tóm cổ anh. Chính trong giây phút Bob hạnh phúc
nhất thì gã thẳng chân đạp bạn xuống vực. Tình huống dở khóc dở cười của Bob
gần giống với tình huống của Minh (vở Tướng cướp Bạch Hải Đường của Nguyễn
Huỳnh). Minh không khóc khi bị bạn thân của mình là ông cò Bằng đến bắt mà
anh khóc vì bị chính vợ mình đi tố cáo. Bob cũng cùng tâm trạng như Minh: Khi
đọc xong bức thư của Jimy, tay anh “run run”. Nếu Jimy đến điểm hẹn rồi trực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiếp bắt anh, anh sẽ không đau đớn bằng việc Jimy giẫm đạp lên tình cảm của anh.
Tình huống truyện làm bạn đọc không khỏi xót xa về sự phũ phàng với tình bạn
của những người máu lạnh. Không cần phải hư cấu nhiều, hiện thực cuộc sống
luôn tạo ra những tình huống kì thú để nhà văn ghi nhận.
Tình huống trong truyện Món quà của các đạo sĩ là tình huống không để lại
dấu vân tay hư cấu. Hoàn cảnh sống, tình yêu của các nhân vật dành cho nhau tự
tạo ra tính chất ngẫu nhiên cho tình huống truyện. Sự nghèo khó làm tiền đề để
Della và Jim kẻ bán tóc, người bán kỉ vật để mua quà giáng sinh tặng nhau. “Thời
kì sung túc trước đây, khi chủ nợ còn được trả ba mươi đô một tuần, tấm danh thiếp
“Đi-linh-gim” đã theo gió bay đi khắp nơi. Bây giờ thu nhập co lại chỉ còn hai mươi
đô thì những chữ “Đi-linh-gim” mờ đi như thể muốn thu mình lại chỉ còn một chữ
“Đ” khiêm tốn và nhũn nhặn”. Chắt mót, dành dụm từng xu bao nhiêu tháng trời
nhưng ngày Lễ Giáng sinh sắp đến mà Della vẫn chỉ có một đô tám hào bảy xu,
không thể mua một món quà xứng đáng tặng Jim. Nhưng hạt nhân làm động lực
đưa đến quyết định của cả hai vợ chồng là tình yêu họ dành cho nhau. Jim là tất cả
với Della: “Tóc trên đầu em hoạ chăng có thể đếm được, nhưng không ai có thể đếm
được tình yêu của em đối với anh”. Della đã quyết định bán tóc để mua quà tặng
chồng mình. Bán đi bộ tóc mình yêu quý với Della không phải việc dễ dàng. “Cô
ngập ngừng trong giây lát và đứng im, một hai giọt nước mắt nhỏ xuống tấm thảm
đỏ đã sờn”. Nhưng để Jim được hãnh diện, cô đã hi sinh bộ tóc “gợn sóng và óng ả
như một thác nước màu đen” của mình với giá hai mươi đô để mua “một chiếc dây
đồng hồ bằng bạch kim, kiểu giản dị và thanh nhã” xứng đáng với chiếc đồng hồ
vàng của Jim. Éo le thay, tình yêu của Gim dành cho Della cũng không hề kém:
“Anh không hề có ý nghĩ cho rằng một kiểu cắt tóc, một kiểu cạo hay một kiểu gội
có thể làm anh bớt yêu em của anh đi một chút nào”. Trong đêm Noel, Jim đã sững
sờ khi thấy bộ tóc của Della biến mất, vì anh đã mua một bộ lược cài đầu mà Della
từng mơ ước. Anh bán đồng hồ để mua lược cho Della thì Della không còn tóc,
Della bán tóc mua dây đeo đồng hồ cho Jim thì Jim không còn đồng hồ. O’Henry
đã cảm động viết những dòng tinh nghịch kết truyện Món quà của các đạo sĩ: “…Tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đã kể lại một cách vụng về cho các bạn nghe câu chuyện không lấy gì làm li kì về
hai đứa trẻ ngốc nghếch sống trong một căn buồng nhỏ, đã hi sinh cho nhau một
cách chẳng khôn ngoan tí nào những của cải quí giá nhất trong nhà”. Món quà Jim
và Della tặng cho nhau cuối cùng quí giá hơn tất cả chính là tình yêu họ đã dành
cho nhau.
Giô và Đêlya (Một sự giúp đỡ của tình yêu) cũng đã thầm lặng hi sinh cho
nhau như thế. Cuộc sống eo hẹp dần đưa cả hai đến gần nhau hơn bao giờ hết. Đêlya
thì dối rằng mình đi dạy nhạc ở nhà Đại tướng Pinkin, còn chàng Giô dối rằng
mình bán tranh cho người ở Pê-ô-ri-a nhưng thực sự họ đã nuôi nhau, nương tựa
nhau bằng những đồng tiền mặn đắng vị mồ hôi. Chỉ khi Đêlya bị bỏng bàn là, Giô
chuyển bông vụn và dầu sang giúp nàng, anh mới phát hiện ra người yêu mình
đang làm thợ là. Đến lúc đó, sự hi sinh “bị vạch mặt” họ mới thực sự hiểu hết tình
yêu mình dành cho nhau. Họ yêu nhau chứ không phải họ yêu nghệ thuật. Đêlya
nói đúng: “Chỉ cần người ta yêu thôi là đủ”. Đúng là những sự ngẫu nhiên đầy
ngọt ngào vị tình yêu. Bằng cách này hay cách khác thì những tình huống truyện
“ngẫu nhiên” trong truyện của O’Henry đều đem đến cho bạn đọc những suy nghĩ
thú vị về sức mạnh của tình yêu chân chính, của tình người, kể cả những dối trá,
phản bội, mưu tính hèn hạ.
Điểm khác biệt thứ 2 trong xây dựng cốt truyện đó chính là cách kết thúc
truyện của mỗi nhà văn:
Những kết thúc trong truyện ngắn của Nam Cao thường là kết thúc bỏ ngỏ.
Tác phẩm của Nam Cao thường mở đầu khi sự kiện đã xảy ra rồi và kết thúc ở điểm
khi sự việc chưa hoàn thành xong xuôi. Ví dụ như trong tác phẩm Chí phèo mở đầu
bằng việc “Hắn vừa đi vừa chửi” trải qua quá trình hắn muốn trở thành người lương
thiện nhưng kết thúc câu chuyện lại là cái chết bên xác kẻ thù. Rõ ràng Nam Cao
muốn tập trung biểu hiện một số vấn đề của xã hội, sự uất hận chưa được ý thức,
lòng khao khát muốn trở thành người lương thiện nhưng tất cả đều chưa được giải
quyết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Một cách kết thúc nữa cũng thường gặp trong truyện ngắn Nam Cao đó là
những kết thúc không có hậu cái kết luôn hiện hữu cái chết nhằm mục đích kích
thích trí tuệ đối với người đọc...: Trong truyện Nghèo là cái chết của anh đĩ Chuột
trong tiếng đòi nợ:
“- Bu mày đâu?
Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
- Bẩm bà, bu con đi vắng.
- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai trả tiền không
trả tiền thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.
Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng
xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị
bẫy. Sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợ thừng khủng lẳng. Ở ngoài ngõ
mẹ con chị chuột vừa kêu vừa khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo
mới đong để trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc”
[13, tr.15-16].
Đọc đến đấy ta cũng cảm nhận được phần nào sự túng quẫn của gia đình anh
đĩ Chuột và mối nợ sẽ đeo bám họ cho đến bao giờ?
Bên cạnh đó còn là những cái chết: chết vì no của bà cái Đĩ (Một bữa no),
có cái chết quằn quại vì ăn bả chó của lão Hạc (Lão Hạc), lại có cái chết của lang
Rận và mụ Lợi là cái chết vì xấu hổ. Nhưng tất cả mọi vấn đề dường như chưa được
giải quyết họ phải đối mặt với kế sinh nhai thế nào mà vẫn giữ được mình… Vấn
đề hiện thực được đặt ra nhưng vẫn còn “ngổn ngang’ trong các sáng tác của Nam
Cao.
Khác với cách kết thúc truyện của Nam Cao, O’Henry thường xây dựng cách
kết thúc bất ngờ, đảo ngược tình huống đây cũng chính là một thành công trong việc
sáng tác truyện ngắn của O’Henry. O’Henry coi kết thúc bất ngờ là cách kết truyện
hay nhất và chỉ sử dụng cách kết truyện này. Được coi là điểm đặc sắc, nổi bật nhất
của O’Henry và “nổi tiếng đến mức trở thành “thương hiệu”. Đó là cách kết thúc
truyện. Bởi ông không chỉ sử dụng nó trong tất cả các truyện của mình mà ông còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làm chủ và khéo léo, sử dụng nhuần nhuyễn kết thúc bất ngờ với nhiều cách biến
thể khác nhau.
Nhằm tạo nên kết thúc bất ngờ, O’Henry đã xây dựng nên những câu chuyện
bằng một loạt những tình huống “ngẫu nhiên”. Sự trùng hợp đóng vai trò như một
sự khởi đầu cho kết thúc bất ngờ của câu chuyện. Ông thích dùng tình huống ngẫu
nhiên và yếu tố bất ngờ bởi nó thu hút sự độc giả và giữ sự hồi hộp, gay cấn cho
toàn bộ tác phẩm. Trong Hai mươi năm sau, vào đúng thời điểm hẹn gặp của hai
người bạn thì lúc này trùng hợp một người là cảnh sát và một người là tội phạm truy
nã. Khi Della suy tính mãi về món quà Giáng sinh cho chồng thì ngẫu nhiên chồng
cô - Jim cũng nó nỗi băn khoăn như vậy. Càng ngẫu nhiên hơn nữa khi cùng bán đi
thứ có liên quan đến món quà của người kia đã hi sinh để tặng nhau (Món quà của
các đạo sĩ).
Một sự trùng hợp thật lớn kéo theo diễn biến của toàn bộ câu chuyện trong
Những giả định phá sản. Cả ba người trong tác phẩm đặt trong mối quan hệ tình tay
ba. Sau quãng đường rất xa rượt đuổi nhau họ lại cùng nhau đến văn phòng luật sư
Phineas C.Gooch để giải quyết vụ li hôn. Càng ngẫu nhiên hơn nữa khi hai người
đàn ông lại nói dối về thân phận thật của mình khiến luật sự tham lam lầm tưởng và
cuối cùng mất trắng “vụ béo bở” này. Ta có thể dễ dàng bắt gặp nhiều sự trùng hợp
khác nhau trong các tác phẩm của O’Henry. Ngoài nhiệm vụ tạo tiền đề cho yếu tố
bất ngờ ở kết truyện, O’Henry muốn gửi đến độc giả rằng cuộc sống rất khó lường,
không ai có thể biết trước điều gì sẽ xảy ra với mình.
Kết hợp với yếu tố ngẫu nhiên, O’Henry đã sử dụng thủ pháp “đảo ngược
tình huống” để đem tới sự ngạc nhiên cho độc giả ở cuối truyện. Hướng phát triển
của câu chuyện sẽ bị đảo ngược hoàn toàn ở kết thúc. Tính cách của nhân vật ở
đoạn cuối cũng trái ngược với những gì đã thể hiện trước đó. Thủ pháp này đã
được O’Henry vận dụng để đảo ngược câu chuyện, bộc lộ mặt trái tính cách hay
đảo ngược tình thế hai lần. Thủ pháp này đã biến hóa linh động và đa dạng trong
từng truyện ngắn cụ thể. Một số tác phẩm thể hiện rõ thủ pháp này gồm: Dấu vết
của Bill Đen, Tiền tài và thần ái tình, Quả lắc, Một cơn gió dịu…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xét về phương diện nội dung, ông có những cái kết triết lí. Còn ở phương
diện cấu trúc, O’Henry có kết đóng và kết mở. Dù kết thúc theo góc độ nào đi nữa
thì ngòi bút của ông luôn hướng về những cái kết tốt đẹp, đem đến giây phút hạnh
phúc và viên mãn. Món quà của các đạo sĩ là một câu chuyện kết thúc hoàn chỉnh
khi Della bán tóc để mua tặng Jim dây đeo đồng hồ nhưng bất ngờ Jim đã bán chiếc
đồng hồ để mua bộ lược cài tóc cho Della. Cuối cùng cả hai món quà đều không
dùng được nhưng họ đều hạnh phúc vô cùng và người đọc đều cảm nhận được sự
ấm áp từ sự hị sinh vì nhau của họ. Cũng có những truyện kết thúc bất ngờ khiến
độc giả phải băn khoăn suy nghĩ.
Truyện điển hình cho kiểu kết thúc mở mà tác phẩm tiêu biểu phải kể tới đó
là Buồng tầng thượng: Một cô gái nghèo thuê buồng tầng thượng, tầng cao nhất của
nhà trọ vì càng lên cao giá càng rẻ. Ở tầng trên cùng nên đêm cô ngước nhìn lên bầu
trời qua ô kính trổ trên mái, cô thấy một ngôi sao sáng to, cô gọi tên ngôi sao là
Billy Jackson. Thời gian sau cô tốt nghiệp, tuy làm rất nhiều việc nhưng không có
tiền ăn và kiệt sức nằm trên giường trong đêm sao Billy Jackson tỏa chiếu. Sáng
hôm sau người ta phát hiện ra cô đã lả đi. Một bác sĩ trẻ theo xe cấp cứu đến đưa cô
vào bệnh viện. Mẩu báo đăng tin: William Jackson- một bác sĩ sẽ cứu sống cô. Điểm
không rõ ở chuyện này là giữa bác sĩ trẻ ấy và cô gái có quan hệ gì. Chỉ biết cô gái
yêu quý Billy Jackson thì mới mang tên anh đặt cho ngôi sao cô coi như người bạn.
Còn William Jackson khi đưa cô ra xe thì không đặt cô xuống mà luôn bế trên tay
và bảo tài xế chạy nhanh về bệnh viện. Đọc truyện, ta thấy Lixơn - cô gái xinh xắn,
hồn nhiên và hòa đồng với mọi người chứ không hề biết cô từ đâu đến. Truyện kết
thúc nhưng bí mật của truyện chưa được giải đáp.
Ngoài gây cho người đọc một sự bất ngờ ở cuối truyện, đôi khi O’Henry còn
khiến người đọc ngạc nhiên nhiều lần. Trong truyện Chiếc lá cuối cùng, chiếc lá
thường xuân còn lại trên bức tường gạch cũ đã cứu được Johnsy khi cô đang ở giữa
ranh giới của cuộc sống và cái chết thực chất là một bức tranh của người họa sĩ già
Behrman. Đó là một bất ngờ lớn nhưng không phải là duy nhất kết ở kết thúc. Sự
hồi sinh của Johnsy đã phải đánh đổi bằng mạng sống của bác Behrman là một bất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngờ nữa xuất hiện tiếp sau trong mối quan hệ nhân quả, cùng tạo nên ấn tượng sâu
đậm về sự vĩ đại của tình thương, sự kỳ diệu của nghệ thuật. Tương tự, trong truyện
Tên cớm và bản thánh ca cũng có kết thúc bất ngờ như vậy. Truyện kể về Soapy,
kẻ lang thang muốn qua mùa đông trong tù vì cảm thấy “pháp luật còn dễ chịu hơn
là lòng từ thiện” đã cố gắng được vào tù mà không được. Khi không muốn vào tù
nữa thì lại bị túm cổ vào tù.
Đọc truyện ngắn của O’Henry ta khó lường trước kết cục. Mâu thuẫn lôi cuốn
người đọc đôi lúc chỉ là mâu thuẫn giả. Để thỏa mãn và tạo sức lôi cuốn cho tác
phẩm, O’Henry tỏ ra rất thiện nghệ trong nghệ thuật xây dựng và dẫn dắt tình huống
truyện phát triển. Bút pháp tự sự của ông là “giấu kỹ bày nhanh”. Rất nhiều chuyện
của ông đến đoạn cuối độc giả mới nhận được điều tác giả muốn nói. Và ở đôi
truyện, nếu tác giả không nói thì chưa chắc độc giả đã hiểu.
Mục đích O’Henry xây dựng kết thúc bất ngờ cho những câu chuyện của
mình ngoài tạo sự hấp dẫn cho các sáng tác của mình là ông muốn người đọc sau
sự bất ngờ đó sẽ cảm nhận được sự hạnh phúc, ấm áp. Tuy nhiên ngay sau đó cái
ám ảnh trong đầu người đọc là sự đen tối đằng sau đó. Lê Huy Bắc nhận định trong
Giáo trình văn học phương Tây rằng: “Đối với O’Henry, ông không hể xem văn
chương là trò đùa, mặc dù ông luôn xây dựng nhiều nghịch cảnh khôi hài trong văn
chương”. Nhân vật người kể chuyện trong Ký tự và cành ghép quan niệm: “nghệ
thuật trần thuật tập trung vào việc thể hiện cho độc giả mọi thứ họ muốn biết nhưng
chỉ sau khi anh bộc lộ những quan điểm riêng thích của riêng mình vào những chủ
đề xa lạ với chủ chính. “Một truyện ngắn hay giống như viên thuốc đắng bọc
đường”. Xem thế để thấy O’Henry rất ý thức xây dựng nhiều chủ đề trong tác phẩm
và chủ đề chính có khi không trực tiếp xuất hiện mà phải đợi khi tác giả đặt bút
chấm hết thì ta mới hiểu chủ đề chính của truyện. Đây là cơ sở để O’Henry tạ dựng
cái kết bất ngờ” [3, tr.275].
Từ nhận định của Lê Huy Bắc ta có thể nhận thấy O’Henry muốn đưa kết
thúc bất ngờ vào các câu chuyện nhằm mục đích chính là để người đọc cảm thấy
ngọt ngào khi đọc xong những vị đắng sẽ dần dần thấm vào lòng họ cũng như khiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đọc giả phải suy nghĩ về hiện thực khốc liệt ẩn chứa trong câu chuyện. Món quà của
các đạo sĩ khiến ta thấy ấm lòng vì tình yêu của Jim và Della thật đẹp nhưng ngay
sau đó lại thấy xót xa cho họ. Cuối cùng họ hi sinh thứ mình có đổi lại kết quả cả
hai đều không thật sự nhận được món quà Noel đó. Phải chăng họ có cố gắng thế
nào đi nữa, hi sinh nhiều đến đâu chăng nữa thì họ vẫn trắng tay. Xã hội ấy đã và
đang làm gì khiến những con người tốt đẹp, lương thiện, cao cả như vậy quay cuồng
trong nghèo đói? Dù Della đã chi tiêu cò kè, chi li, sống rất tiết kiệm, làm việc chăm
chỉ, vất cả quần quật nhưng vẫn luôn ở mức báo động không đủ và túng thiếu cho
nên cuộc sống của họ vẫn là một bi kịch. Đó là bi kịch của những thân phận con
người không có địa vị xã hội, không có việc làm.
Trong Một cơn gió dịu chắc hẳn người đọc đều thỏa mãn với cái kết những
tên lừa đảo trả lại hết số tiền cho những người nghèo và tiếp tục sống bằng nghề bán
hàng rong, song cũng khiến độc giả phải suy nghĩ về cuộc sống, về chính bản thân
mình: sống trong bối cảnh khó nghèo, cơm không đủ no, mặc không đủ ấm, cạm
bẫy xã hội rình rập khắp nơi, đời sống con người o ép bởi những công việc nặng
nhọc đưa lại những đồng lương ít ỏi. Tình người lại là một thứ xa xỉ, khan hiếm, họ
sống với nhau bằng lọc lừa, chà đạp lên người khác để mình sống. Khắp nơi tiếng
kêu khóc, gào thét bởi chiến tranh. Chuyện trộm cắp, lừa lọc lẫn nhau xẩy ra như
một điều tất yếu. Không khí ảm đạm ngột ngạt u tối. Sống trong hoàn cảnh này,
người ta khó bề mà giữ được thiện lương.
Trong truyện ngắn của O’Henry ông đã không ngần ngại tái diễn những hoàn
cảnh đó. Với tấm lòng bao dung, nhân hậu, ông xây dựng nên những kẻ lừa đảo
lương thiện. Vì rằng họ đói, họ cần được ăn và họ cần được sống như bao người
khác, nên buộc họ phải hành động. Trong xã hội như thế, các nhân vật được ông
xây dựng ngoài tâm hồn cao thượng còn sẵn sàng hi sinh cho nhau. Chúng ta thấy
rằng ở trong những môi trường hòa bình, ấm no hạnh phúc, người ta hi sinh vì nhau
đã là hiếm và cao quý, trong môi trường đầy rẫy tội lỗi, mưu mô các nhân vật có
tấm lòng hi sinh cho đồng loại càng cao quý hơn. Với đức tính đáng quý này họ cần
được tôn vinh, khen ngợi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
O’Henry cho rằng cuộc sống luôn tràn đầy sự bất ngờ, không ai biết tương
lai mình sẽ ra sao. Ông quan niệm nghệ thuật cũng phải đưa được những yếu tố bất
ngờ đó đến với độc giả. Sự bất ngờ ở kết thúc sẽ tạo cảm xúc ngạc nhiên, có thể sẽ
gây nên những trạng thái tâm lý khác nữa ở độc giả: vui sướng, đau khổ, căm giận,
ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ… Những cảm xúc này ở cường độ và trong sự
tương tác nhất định, có thể đưa đến hiệu quả thanh lọc tình cảm, tầm hồn người đọc,
gợi cho người đọc những chiêm nghiệm về cuộc đời. Tuy nhiên dù đắng nhưng đó
lại là một viên thuốc, thuốc chữa được bệnh thì nghệ thuật thanh lọc được tâm hồn,
chữa được bệnh trong tinh thần, suy nghĩ. Chính bởi vậy O’Henry muốn truyện
ngắn nói riêng và tác phẩm nghệ thuật nói chung không chỉ đẹp mà cần chứa đựng
mạch ngầm ở bên trong, chứa đựng những ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa nhân sinh, gợi
suy suy tư về bản chất của cuộc sống, về giá trị con người.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry
3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật
Khi viết ngoại hình nhân vật cả Nam Cao và O’Henry đều rất chú trọng miêu
tả ngoại hình của nhân vật một cách chân thực. Và thông qua việc miêu tả ngoài
hình hai nhà văn thường làm nổi bật lên nét tính cách của nhân vật.
Giáo sư Trần Đăng Suyền trong bài viết: Nam Cao- nhà văn hiện thực xuất
sắc nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn đã viết: “Nam Cao chỉ chú ý đến những chi tiết
ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật” [19, tr.156]. Nam Cao lấy nguyên
mẫu nhân vật phần lớn trong cuộc sống xung quanh ông nên đường nét miêu tả là
chất liệu từ hiện thực. Bút pháp này khắc hoạ những nét ngoại hình như: “Thân hình
mảnh dẻ như một tàu lá run trước gió”, “bộ da bọc xương”, “cái bụng gần dính
lưng” của anh đĩ Chuột, của những đứa trẻ con nhà nghèo đói ăn, bút pháp ấy được
nhà văn công khai trong “cái mặt không chơi được”: “Giá tôi yêu hơn chút nữa thì
tôi phải tả Bình với một cái dáng hình thơ mộng hơn, nhưng tôi yêu sự thật thà, mà
muốn thật thà thì phải nói là Bình không đẹp lắm,…”. Như vậy nhà văn chân thực
trong từng chi tiết, sự chân thực của chi tiết cũng là một đặc điểm thi pháp của chủ
nghĩa hiện thực khái quát trong lý luận văn học. Với người có thể tạm gọi là yêu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghĩ đến cách “chiếm lòng” Nam Cao vẫn ‘thật thà” miêu tả ngoại hình đến vậy, dù
cho “bảo cô xấu cũng được” có một điều gì tạo nên chất hài ở đây. Nó bắt nguồn từ
cách thể hiện của Nam Cao.
Trong những truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam
Cao, ta bắt gặp sự trở đi trở lại hình ảnh quần nái đen, cái áo tây vàng (phục trang
của Chí Phèo khi đi tù và biệt tích bảy tám năm trở về, anh chồng dì Hảo cũng sau
một thời gian biệt tăm quay lại. …). Nó là dấu ấn của một thời kỳ xã hội. Bên cạnh
nét chân thực ấy, những manh áo quần rách tả tơi, bẩn thỉu,… cũng là nét ngoại hình
mà Nam Cao nhấn mạnh. Tất cả những người Nam Cao miêu tả mang chất sống
ngồn ngộn, không thể trộn lẫn và có ý nghĩa biểu đạt sâu sắc. Nội dung đường nét,
Nam Cao đều dùng ngòi bút tả thực của mình mà khắc hoạ, từ khuôn mặt, đầu tóc,
làn da, thân hình trang phục....
Chính đặc điểm thi pháp này quy định giọng văn lạnh lùng chua chát, dửng
dưng và có phần tàn nhẫn khi miêu tả nhân vật nói chung, ngoại hình nhân vật nói
riêng, quy định điểm nhìn trần thuật của nhà văn. Bản lĩnh ngòi bút đã cho phép
Nam Cao khắc hoạ ngoại hình nhân vật một cách thản nhiên, tỉnh táo trước mỗi lần
cần xử lý, giải phẫu để đưa nhân vật ra trước mặt người đọc.
Nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry được khắc họa từ điểm nhìn bên
ngoài. Truyện của ông đầy ắp các sự kiện, những sự kiện hấp dẫn được chọn lọc
kỹ càng và được dày công sắp xếp, nhằm gây hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Ông rất
chú trọng miêu tả, ngoại hình, tên tuổi của nhân vật. Người kể chuỵên của O’Henry
thường đứng ở điểm nhìn bên ngoài để quan sát các nhân vật, vị trí này làm cho
giữa người kể chuyện và nhân vật có một khoảng cách ngăn cản sự “nhập thân”
của người kể chuyện vào thế giới bên trong của nhân vật, dẫn đến các nhân vật
của ông hiện lên rõ với những biểu hiện ở bề ngoài như: hình dáng, cử chỉ, thái
độ…
Trong câu chuyện “Người đánh giá sự thành công”, nhân vật Môli được nhà
văn miêu tả: “Môli ăn mặc chải chuốt và gọn gàng. Đó là kết quả của một bản năng
nhờ vào dòng dõi và giáo dục mà có. Chúng ta không có được khả năng nhìn sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong lòng một con người mà phải dừng lại ở lớp hồ cứng trên ngực áo sơ mi anh ta,
cho nên chúng ta chỉ còn cách kể lại những sự đi lại và những cuộc trò chuỵên của
anh ta mà thôi”. Ngoại hình của mỗi người bao giờ cũng bộc lộ phần nào bản chất
tính cách của con người đó. Khi miêu tả nhân vật, O’Henry đều cố gắng thể hiện
những nét tính cách đằng sau ngoại hình đó. Qua cách ăn mặc “chải chuốt” và “bản
năng nhờ vào dòng dõi và giáo dục” của Môli người đọc đã cảm nhận anh không thật
là con người đàng hoàng, có nhân cách, đạo đức. Điều đó càng lộ rõ khi anh ta lẩm
bẩm một mình: “Cứ trơ tráo là được! Đấy là chủ bài trong ván bạc. Sao mà chúng nó
dễ tin thế. Đàn ông, đàn bà, trẻ con - những chuyện giả mạo, những trò dối trá, muối
pha nước lã - sao mà chúng nó dễ tin thế…”.
Trong truyện Những ổ bánh mì phù thủy,O’Henry miêu tả một người đàn ông
trung niên thường đến hiệu bánh mua những chiếc bánh mì cũ rẻ tiền: “Quần áo của
ông mặc đã sờn, mạng vá vài chỗ này, nhăn nheo và lụng thụng vài chỗ khác”. Điều
này toát lên sự nghèo của ông họa sĩ. Nhưng trông ông có vẻ ngăn nắp, tư cách lại
rất tề chỉnh. Trước một đối tác đầy đủ các yếu tố “khớp” với nhu cầu và khả năng
của cô Martha, một người phụ nữ trung niên bốn mươi tuổi chưa có gia đình lại là
chủ tiệm bánh mì nên con tim khát khao và “giàu lòng cảm thông” của cô mở lòng
và thổn thức.
Cùng miêu tả ngoại hình nhưng mỗi nhà văn lại có cách thể hiện khác nhau.
Nam Cao khi miêu tả ngoại hình gắn với bộc lộ tâm trạng, cái được gọi là “ngoại
hình tâm lý” là một nét đặc sắc của chủ nghĩa hình thực mà Nam Cao kế thừa và
phát triển thành đặc trưng nghệ thuật của mình. Nam Cao thấy “mỗi lúc một khác,
một ngày có thể đến một trăm thứ mặt” của nhân vật mình khắc hoạ theo từng diễn
biến tâm lý nhất định. Ta có thể nhận ra từ ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật của ông
phần lớn lại nghiêng về sắc thái tâm lý, chứ không đơn thuần chỉ là nét ngoại hình.
Ông viết về Thị Nở “Cái mũi đỏ rị xuống rồi lại bạnh ra ” để bộc lộ tâm trạng tức
tối, điện lộn ruột với anh nhân tình Chí Phèo; khuôn mặt Lão Hạc “Co rúm lại,
những vết nhăn sô lại với nhau” biểu thị một tâm trạng đau đớn đến tột độ; cái
“miệng ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng” của Chí Phèo biểu lộ mong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
muốn, khát vọng hoàn lương - khát vọng cao quý, nhân bản của người nông dân bị
tha hoá....
Viết truyện ngắn, Nam Cao đã dùng “nét bút” tiểu thuyết. Đúc một dung
lượng lớn vấn đề chỉ qua vài trang giấy, nên chi tiết Nam Cao dùng rất hàm súc,
cô đọng, ý tại ngôn ngoại, chú ý đến cái thần chứ không miêu tả một cách tràn
lan, không có dùng ý. Chính vì thế, những nét ngoại hình biểu hiện tâm trạng sẽ
giúp ngòi bút nhà văn xử lý hài hoà, đồng thời nhiều vấn đề trong một phạm vi
câu chữ nhỏ.
Còn nhân vật của O’Henry ngoại hình thường dùng thủ pháp so sánh nhằm
mục đích là nổi bật hình tượng nhân vật. Johnsy trong truyện ngắn Chiếc lá cuối
cùng thì “yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá”. So sánh với chiếc lá cũng hết
sức gần gũi và thực tế bởi cô gái trẻ đang phải chống chọi với bệnh tật, phải đối mặt
với tử thần. Chiếc lá gắn với quan sát yếu ớt mỗi khi thức dậy hàng ngày, chiếc lá
gắn với nhịp đếm ngược chậm rãi, mệt mỏi. Hơn tất cả, chiếc lá ấy là niềm hi vọng
cuối cùng của Johnsy. So sánh cũng làm nổi bật nét ngoại hình của cô gái trẻ Đanxi
trong Một câu chuyện dở dang. Nhà văn miêu tả mắt sáng long lanh, má ửng hồng
phơn phớt của buổi bình minh đang tới của cuộc đời Đanxi - cuộc đời thật sự. So
sánh đó làm nổi bật hi vọng nhỏ nhoi về cuộc sống sẽ có những thay đổi của Đanxi.
Trong Buồng tầng thượng ông viết: “Leeson là một cô gái nhỏ nhắn nhưng
sau khi cô thôi không lớn nữa thì đôi mắt và bộ tóc của cô vẫn cứ to lên và dài mãi ra
trông lúc nào cũng có vẻ chúng nói lên rằng: “- Trời đất ơi! Sao cô chẳng chịu lớn
lên cùng với chúng tôi?”. Với vóc dáng nhỏ bé của Lixơn tương phản với các bộ phận
cơ thể của cô: đôi mắt “cứ to lên” và mái tóc cứ “dài ra”. Hình ảnh của cô gái gầy gò
thiếu ăn hiện lên vừa hài hước vừa đáng thương.
3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật
Hành động nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường gắn liền với tính
cách nhân vật. Trong truyện ngắn Chí Phèo hành động của nhân vật gắn liền với sự
tha hóa của nhân vật. Đó là những biểu hiện của Chí Phèo khi gặp thị Nở. Tuy đang
ở trạng thái say khướt nhưng toan tính: “Chí Phèo vẫn say sưa nhìn và run run. Bỗng
nhiên hắn rón rén lại gần Thị Nở; lần đầu tiên hắn rón rén từ khi về làng, thoạt tiên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị... và Thị Nở giật
mình. Thị mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị... thị vùng vẫy để ra,
thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn và
hổn hển: “ Ô hay... Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... buông ra. Tôi kêu làng lên
bây giờ. Thằng đàn ông cười phì. Sao lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn
mới kêu làng thôi; sao ngươi lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu làng.
Hắn kêu như một kẻ bị đâm. Vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố mắt
ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao mà hắn lại kêu làng nhỉ? mà hắn vẫn chưa chịu thôi
kêu làng” [12, tr.43-44]. Nam Cao miêu tả hành động nhân vật phát triển theo từng
giai đoạn, từ thấp đến cao, luôn luôn có sự đột biến trong miêu tả hành động. Hành
động của nhân vật có tính tha hóa rất đa dạng, phong phú phù hợp với hoàn cảnh và
tính cách nhân vật.
Nhân vật vợ Điền trong truyện ngắn Giăng sáng đã nhiều lần bức xúc mà
mắng chửi con “Kệ cha mày! Cho mày chết!” hay “Mày có câm ngay không tao tát
cho vỡ mặt”… Có thể thấy, hành động chửi của nhân vật phần nào thể hiện những
trăn trở, nghĩ suy, dằn vặt trước những thói hư tật xấu hay nhân cách không hoàn
thiện của người thân, của chính mình.
Hành động của các nhân vật trong truyện ngắn của O’Henry thường có những
hành động bất ngờ mà người đọc khó có thể dự đoán trước được. Sau khi Jimmy ra
tù, một loạt các vụ trộm két nhà băng lại gây xôn xao. Sự lộng hành của Jimmy gây
chấn động đến nỗi chánh thanh tra BenPrice phải vào cuộc, truy đuổi anh đến cùng.
Tuy nhiên số phận Jimmy rẽ ngoặt khi anh trúng phải tiếng sét ái tình từ cô con gái
cưng của chủ nhà băng Elmore. Từ một tên trộm nổi tiếng, anh xếp lại đồ nghề để
trở thành một chủ tiệm giày lương thiện, thành đạt. Không phải vì án tù, hay vì sự
truy đuổi của pháp luật, mà chỉ đơn giản là vì lòng tin của người con gái anh yêu,
Jimmy Valentine quyết tâm dứt bỏ quá khứ tội lỗi.
Thử thách cuối cùng được đặt ra khi cháu gái nhỏ của người anh yêu bị nhốt
trong chiếc két lớn. Mọi người cầu cứu sự giúp đỡ của anh. Trong khi đó, viên chánh
thanh tra đang dõi theo từng cử động của anh. Jimmy phải lựa chọn. Một là lặng im,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đóng tròn vai lương thiện mà anh đã tạo dựng lâu nay, hai là mở bộ đồ nghề bí mật
để cứu cô cháu gái, đồng nghĩa rằng chứng minh mình là tên tội phạm khét tiếng
lâu nay. Jimmy đã quyết định cứu cô cháu gái bằng những thủ thuật đạo chích của
mình. Khi anh sẵn sàng ra đi cùng viên cảnh sát, anh nhận được phán quyết cuối
cùng đầy bất ngờ…
Món quà của các đạo sĩ là một câu chuyện về Giáng sinh cảm động. Jim và
Della là đôi vợ chồng nghèo, sống yêu thương nhau. Sắp đến ngày Giáng sinh nên
cả hai đều muốn tặng nhau những món quà để thể hiện tình cảm với nhau. Vì muốn
mua tặng chồng chiếc dây đồng hồ nhưng số tiền dành dụm được quá ít, Della quyết
định bán đi mái tóc của mình. Cũng như để mua những chiếc lược cài đầu thật đẹp
tặng vợ, Jim đã bán chiếc đồng hồ quý giá. Jim và Della rơi vào tình huống dở khóc
dở cười. Chiếc dây đồng hồ của Della trở nên lạc lõng vì giờ đây Jim không còn sở
hữu chiếc đồng hồ nữa. Còn bộ lược cài đầu của Jim thì tạm thời trở nên vô ích
trước mái tóc cụt ngủn của vợ. Chỉ vì không có tiền mà lại hết mực thương yêu nhau
nên họ đã bán đi những vật quý giá nhất để mua những thứ vô duyên nhất. Tuy vậy
họ lại thể hiện được một thứ quý giá nhất mà không phải lúc nào cũng dễ dàng thể
hiện hay bán mua được, đó là tình cảm.
3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật
Khi miêu tả nội tâm nhân vật Nam Cao và O’Henry đều chú trọng vào việc
đi sâu vào miêu tả những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật.
Các truyện ngắn của Nam Cao là những mâu thuẫn nội tâm giằng xé. Đó là
mâu thuẫn giữa những ước mơ chính đáng, giàu lòng nhân ái với thực tại cuộc sống
nghèo đói, thấp hèn chính vì vậy họ đều bị rơi vào bi kịch tinh thần. Hộ trong Đời
thừa là một minh chứng như vậy. Hộ vốn là một văn nghệ sĩ. Trong sự nghiệp của
mình, anh luôn mong muốn làm được một điều gì đó cao cả là cầm giải Nobel nhưng
vì phải kiếm tiền, anh lại viết ra những tác phẩm nhạt nhẽo, vô ý nghĩa. Hộ đã tự
đấu tranh nội tâm với chính bản thân mình. Điền trong Nước mắt cũng là một trí
thức. Và Điền cũng vì vợ, vì con, vì nỗi lo cơm áo mà trở nên “độc ác”, “tàn nhẫn”.
Đã có lúc Điền tự nhủ với mình, hắn sẽ đi phắt một nơi nào, sống cho một mình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“đứa nào chết mặc thây”. Nhưng rồi sau cơn nóng giận, Điền lại trở về với chính
mình - một con người yêu vợ, thương con. Từ tận đáy lòng, Điền nói ra những lời
yêu thương trìu mến: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương
vợ, thương con, thương tất cả những người phải đau khổ” [12, tr.56].
O’Henry cũng chú trọng rất nhiều vào đời sống nội tâm nhân vật. Từng
chuyển biến của tâm lý nhân vật được thể hiện một cách khéo léo qua suy nghĩ,
hành động, qua cảnh vật, qua những mối quan hệ. O’Henry thường bắt lấy những
góc tâm hồn, những mảnh đời, những câu chuyện nhỏ mà có sức lay động. Con
người trong tác phẩm của ông có tình yêu, có lòng cao cả, có những đam mê, và có
cả những nhỏ nhen, vị kỷ, hám lợi, tha hóa. Và tất cả nằm trong một hiện thực rất
Mĩ, những tính cách rất Mĩ.
Trong truyện Tên cớm và bản thánh ca, bên cạnh việc am hiểu hành động, cử
chỉ, lời nói của nhân vật, O’Henry còn thông tỏ mọi suy nghĩ, niềm khát khao, sự
thức tỉnh của nhân vật. Nghĩa là thế giới nội tâm của nhân vật không có gì bí ẩn đối
với nhà văn: “Soapy trằn trọc trên chiếc ghế ở công viên...”. Chiều sâu thầm kín
trong tâm hồn Soapy được O’Henry khắc họa đậm nét, nhà văn thể hiện thế giới
tâm hồn ấy bằng những suy nghĩ như được chính nhân vật nói ra, nhân vật tự bộc
bạch, giãi bày.
Cùng miêu tả về nội tâm nhưng mỗi nhà văn lại có cách thể hiện khác nhau.
Nam Cao chú trong sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm khi miêu tả nội tâm nhân
vật. Nhà nghiên cứu Vũ Thăng, trong chuyên luận Một vài đặc điểm thi pháp truyện
Nam Cao, đã ra nhận xét: “Tính chất đa thanh, phức điệu của tác phẩm Nam Cao
có nguồn gốc sâu xa từ cái nhìn hiện thực mới mẻ rất đỗi đời thường của ông... Đặc
điểm của tính phức điệu trong tác phẩm Nam Cao là khả năng đối thoại, độc thoại
đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp...” [20, tr.60]. Nam Cao đã diễn tả độc thoại nội tâm
trong tâm trạng đơn độc của nhân vật. Độc thoại nội tâm của nhân vật có thể là ý
nghĩ bột phát, nảy sinh tức thời như Chí Phèo: “Và lắm lúc thì ngạc nhiên: sao người
ta ghê hắn thế” (Chí Phèo); “dù thấy bồn chồn mà vẩn vơ, thương, hối hận hay là
thẹn... Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm trò gì nữa nếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phải giết một con chó mà tim cũng đập? ” (Cái chết của con chó mực)... Cũng có
khi độc thoại nội tâm là day dứt, chiêm nghiệm: “Buồn thay cho đời! Có lý nào như
thế được? hắn già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu”... (Chí Phèo). Đó có lẽ là
những độc thoại nội tâm diễn tả tâm trạng sâu kín nhất trong truyện ngắn Nam Cao.
O’Henry lại khác, truyện ngắn của O’Henry không có độc thoại nội tâm, con
người của ông thiên về kiểu người hành động. Ông chú trọng miêu tả tên tuổi, ngoại
diện. Đây là nét không thể thiếu với bất kì nhà hiện thực cổ điển nào. “Chỉ vừa trông
thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng thống kê dân số đã phạm một sự nhầm
lẫn. Ở hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi
tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt đẹp, lại còn điệu
bộ nữa chứ” (Ái tình theo khẩu phần).
Hơn nữa khi miêu tả về thế giới nội tâm nhà văn chủ yếu bộc lộ những nhận
xét, đánh giá của nhà văn về những sự kiện, hoặc nhằm định hướng cho bạn đọc.
Trong truyện ngắn Căn phòngcó sẵn đồ cho thuê, người thanh niên trong hành trình
đi tìm người yêu đã quá mỏi mệt khi dấu hiệu về nàng cứ mờ dần. Anh biết chắc
người yêu mình ở thành phố này nhưng cũng nhận ra đó không phải là chốn dung
thân của những nghệ sĩ muốn khẳng định mình bằng lao động chân chính. Đặt niềm
hi vọng rồi lại mất hi vọng trong sự nhộn nhạo của thành phố này, cuộc sống của
con người thật hữu hạn, mong manh mà khát vọng thì to lớn.
Tiểu kết chương 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nói về tác phẩm có giá trị thì ngoài phương diện nội dung không thể bỏ qua
phương diện nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm của Nam Cao và O’Henry ta thấy giữa
nôi dung và nghệ thuật luôn luôn có sự thống nhất, gắn bó với nhau. Nội dung của
tác phẩm hay phần lớn là nhờ nghệ thuật. Nghệ thuật luôn được đưa ra phù hợp với
nội dung.
Về nghệ thuật xây dựng cốt truyện: Bên cạnh những điểm tương đồng trong
việc xây dựng những cốt truyện truyền thống, thì mỗi nhà văn lại có cách xây dựng
cốt truyện riêng, đặc biệt là cách lựa chọn và xây dựng tình huống truyện và cách
kết thúc truyện.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Với tâm hồn nhạy cảm, yêu văn chương
cả Nam Cao và O’Henry đều có những phát hiện tinh tế khi miêu tả ngoại hình,
hành động cũng như nội tâm nhân vật. Phải rất tinh tế thì Nam Cao và O’Henry mới
miêu tả chi tiết nhỏ về ngoại hình của nhân vật, những hành động mang tính tiêu
biểu là những lát cắt trong tâm hồn của nhân vật. Qua đó giúp ta hình dung ra thế
giới nội tâm phong phú của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
Khi so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry, điều đầu tiên ta phải
nhắc đến những nét nét tương đồng và khác biệt của hai nhà văn. Nét khác biệt cơ
bản giữa Việt Nam và Mỹ là về thể chế. Dù trong cùng một thời điểm lịch sử, hai
nước có hai con đường, hai chế độ chính trị hoàn tác khác nhau. Suốt những năm
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nếu như Việt Nam bị xâm lược và trở thành nước
thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của Thực dân Pháp, thì Mỹ lại vươn
lên đứng hàng đầu trên thế giới trở thành đế quốc tiến hành xâm lược các nước
thuộc địa.
Tuy nhiên dù khác biệt về thể chế chính trị cuộc sống của nhân dân hai nước
lại có nhiều nét tương đồng. Dù ở chế độ chính trị nào thì quyền lợi đều rơi vào tay
giai cấp thống trị, và nhân dân luôn là người chịu nhiều thiệt thòi.
Cả Nam Cao và O’Henry là hai nhà văn đều trưởng thành trong giai lịch sử
dân tộc có nhiều biến động. Đều chứng kiến những bất công trong xã hội. Hơn nữa,
họ đều xuất thân từ những người lao động khổ cực, phải sống bằng nhiều nghề khác
nhau vì vậy giữa họ có sự gặp gỡ về quan điểm thẩm mĩ. Điểm gặp gỡ của họ chính
là cách cảm nhận cuộc sống từ góc nhìn đầy nhân văn
Mỗi nhà văn đều bày tỏ quan niệm về nghệ thuật khác nhau nhưng ta đều
thấy ở họ là người có trách nhiệm trong việc viết văn, luôn tìm tòi sáng tạo, xem sự
sáng tạo quyết định sự sống còn của nghề viết. Đặc biệt họ đều xác định nghệ thuật
vì con người. Vì vậy ta nhận thấy sự tiến bộ, đúng đắn trong truyện ngắn của Nam
Cao và O’Henry.
Nam Cao và O’Henry đều là những nhà văn có những cảm nhận tinh tế, với
vốn sống phong phú hai nhà văn đã đưa vào trong tác phẩm của mình hệ thống chủ
đề, và những đề tài vô cùng phong phú và đa dạng. Qua hệ thống chủ đề, đề tài họ
đều hướng đến những điều tốt đẹp cho con người đó là tình yêu thương và sự cảm
thông.
Nam Cao và O’Henry cho rằng nghệ thuật không chỉ dùng lại ở yếu tố thẩm
mĩ, chỉ đơn giản là vì cái đẹp mà nghệ thuật phải phục vụ con người, phục vụ cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sống, khiến người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm về cái tốt con người và cái xấu
của những vấn đề xung quanh. Từ đó nghệ thuật phải góp phần thanh lọc tâm hồn,
thúc đẩy xã hội ngày một phát triển.
Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry không chỉ được đón nhận ở thời điểm
mà các nhà văn sinh sống mà giá trị của các tác phẩm mà hai nhà văn đem lại sẽ
mãi trường tồn..
Nam Cao là nhà văn Việt Nam. Đặt bên cạnh nhà văn O’Henry - một nhà văn
tầm cỡ thế giới - Nam Cao chưa hẳn ngang tầm, song nhìn từ mọi phương diện, ông
không thua kém bao nhiêu. Những tìm tòi, sáng tạo nhệ thuật của ông xứng đáng
được sánh với các nhà văn thế giới bởi những đóng góp của ông với văn học Vệt
nam và nhân loại./.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bắc (2002), Văn học Mỹ, NXB Đại học sưp hạm.
2. Lê Huy Bắc (2010), Văn học Mỹ, NXB Đại học sư phạm.
3. Lê Huy Bắc (2012), Giáo trình văn học phương Tây, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Minh Châu (1987), Viết về Nam Cao, Báo văn nghệ số 18-7-1987.
5. Mạnh Chương (Dịch) (2015), O’Henry truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học,
Hà Nội.
6. Lê Đình Cúc (2001), Văn học Mỹ mấy vấn đề về tác giả, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
7. Lê Đình Cúc (2004), Tác gia văn học Mỹ Thế kỉ XVIII-XX, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Đàn (1966), Hành trình văn học Mỹ, NXB Văn học, Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn hóa,
Hà Nội.
10. Hà Minh Đức (1982), “Nam Cao và đôi nét nghệ thuật sáng tạo tâm lý”,
Tạp chí văn học, số 6.
11. Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Hạnh (1992), Nam Cao khát vọng về cuộc sống lương thiện,
xứng đáng, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
15. Phong Lê (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
16. Phong Lê (2004), A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học, Tạp chí văn
học nước ngoài, số 4, NXB Hội nhà văn Việt Nam.
17. Phạm Quang Long (1988), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Việt Nam, NXB
Văn học, Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Nhớ Nam Cao và những bài học của ông, Con
đường đi và thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
19. Trần Văn Suyền (2003), Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc nhà nhân đạo
chủ nghĩa lớn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB Quân đội
nhân dân.
21. Ngô Vĩnh Viễn (Dịch) (2014), O’Henry, Chiếc lá cuối cùng, NXB Văn học,
Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng Anh
22. Mildred H. Larson (1962), Story by O’Henry, English Language Services,
United kingdom
III. Tài liệu trên Internet
23. Nguyễn Hồng Dũng (2009), “Truyện ngắn O’Henry”, Tạp chí Sông Hương
số 183, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c172/n3099/Truyen-ngan-O-
Henry.html
24. Đỗ Lai Thúy (2012), Chất thơ trong văn xuôi, Báo quân đội, https://realsv.
qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/chat-tho-trong-van-xuoi-410212