VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VƯƠNG ĐÌNH TUÂN VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VƯƠNG ĐÌNH TUÂN VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐÌNH NHÃ
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình do cá nhân tôi nghiên cứu, không sao chép
bất kỳ công trình nào của người khác.
Nguồn tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực.
Tác giả
Vương Đình Tuân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ........................................................................................ 6
1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy ............................................... 6
1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về
ma túy ....................................................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY CỦA LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................... 24
2.1. Đặc điểm tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong
những năm qua ........................................................................................................................ 24
2.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ............................................................ 44
2.3. Nhận xét, đánh giá hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................. 53
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................... 61
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về
ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................ 61
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................. 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả
nước, có đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay quốc tế, tạo thành một trong
những cửa ngõ để thông thương, giao lưu với các nước trong khu vực và thế giới.
Trong những năm qua, thành phố đã có những bước phát triển vượt bậc về mọi
mặt, nhất là về cơ sở hạ tầng và dịch vụ, thu hút nhiều nhà đầu tư và lượng lớn
người từ các địa phương trong nước và người nước ngoài đến cư trú, làm ăn, sinh
sống, du lịch... Cùng với sự phát triển về cơ sở hạ tầng, thành phố đã đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, các thủ tục hải quan...tạo nhiều thuận lợi để phát triển
kinh tế và hợp tác quốc tế.Nhưng bên cạnh đó, sự phát triển trên diện rộng cũng là
điều kiện để các loại tội phạm lợi dụng hoạt động phạm tội, đặc biệt là tội phạm về
ma túy.
Trong những năm qua, tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố luôn
diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng; thủ đoạn hoạt động của tội phạm ngày
càng tinh vi, xảo quyệt, liều lĩnh; số người nghiện mới, tái nghiện, sử dụng trái phép
chất ma túy lần đầu được phát hiện tăng qua từng năm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây
mất an ninh trật tự (sau đây viết tắt là ANTT), ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế,
xã hội của thành phố. Đặc biệt, trong đó nổi lên một số các băng nhóm tội phạm ở
các tỉnh, thành phố khác đến TP Đà Nẵng hoạt động gây khó khăn cho việc quản lý,
theo dõi, đấu tranh, ngăn chặn...
Xuất phát từ thực tiễn tình hình tội phạm về ma túy, những năm qua, lực
lượng Công an Thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là lực lượng Cảnh sát nhân dân đã chủ
động tiến hành nhiều biện pháp, kế hoạch nhằm đấu tranh với băng nhóm tội phạm
ma túy. Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ thì công tác đấu tranh
với loại tội phạm này đang gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định như:
Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm về ma túy ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, manh động và thường xuyên thay đổi. Chúng sử dụng phương tiện giao
thông, liên lạc hiện đại, vũ khí quân dụng; sẵn sàng, thậm chí chủ động chống trả
1
quyết liệt khi bị phát hiện, truy đuổi, bắt giữ; triệt để lợi dụng những kẽ hở trong
quản lý an ninh, trật tự để phạm tội và che dấu tội phạm. Bên cạnh đó qua thực tiễn
tổ chức hoạt động phòng, chống tội pham về ma túy trên địa bàn thành phố, việc
đấu tranh với loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn, bất cập như: Lực lượng
chuyên trách phòng, chống ma túy nói chung, lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm
về ma túy nói riêng còn mỏng, nhất là ở các tuyến, địa bàn trọng điểm. Trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ cơ sở chưa đồng đều trong khi phương tiện,
trang thiết bị trong đấu tranh phòng chống tội phạm được trang bị còn hạn chế.
Nhằm đánh giá một cách khách quan về tình hình tội phạm về ma túy trên địa
bàn TP Đà Nẵng và vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong công tác phòng
ngừa tình hình loại tội phạm này, qua đó tìm thêm các giải pháp phòng ngừa, tôi chọn
nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa
tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc
sĩ Luật học, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, tình hình tội phạm về ma túy ở nước ta diễn biến rất
phức tạp, công tác đấu tranh phòng, chống là nhiệm vụ của tất cả các cấp các ngành
và của toàn xã hội, trong đó, lực lượng Cảnh sát nhân dân luôn giữ vai trò nòng cốt.
Do đó, công tác nghiên cứu về ma túy, tội phạm về ma túy và vai trò của lực lượng
CSND trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy được chú trọng và tiếp cận
dưới các góc độ khác nhau.Trong lĩnh vực phòng ngừa và vai trò của lực lượng
CSND trong phòng, chống tội phạm về ma túy đã có một số công trình nghiên cứu
được công bố, đó là các luận văn, luận án như:
- Luận văn thạc sỹ Luật học, tác giả Hà Phước Tuân: “Phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy trên địa bàn Quận Sơn Trà – Thành phố Đà Nẵng” (2019).[40]
- “Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng” (2019) Luận văn thạc sỹ Luật học, tác giả Đặng Hoàng Phi.[24]
- “Đấu tranh phòng, chống tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” (2013) Luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Nguyễn Tấn Anh; [1]
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “”Tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn
2
tỉnh Quảng Nam” (2019) tác giả Nguyễn Văn Ta. [35]
- “Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An: Tình hình, nguyên
nhân và giải pháp phòng ngừa” (Hà Nội 2021) Luận án Tiến sỹ luật học, tác giả
Bùi Thị Phương Quỳnh. [34]
Tuy nhiên, các công trình nói trên đã chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy nói
chung và giới hạn cụ thể trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trước yêu cầu
của thực tiễn, cần thiết phải có công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về
“Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài nêu trên là
thực sự cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động và “Vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng” từ năm 2016-2020, từ đó tác giả luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả phòng ngừa của lực lượng này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn cần đi sâu nghiên cứu, giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu lý luận về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
- Khảo sát tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn TPĐN từ năm 2016-2020;
khảo sát thực trạng về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016-2020, qua
đó làm rõ những ưu khuyết điểm, những tồn tại hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa
tình hình loại tội phạm này.
- Dự báo tình hình tội phạm về ma túy và đề xuất giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động phòng ngừa và vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu về vai trò của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2016-2020.
- Phạm vi về không gian: địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi về chủ thể: Lực lượng Cảnh sát nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng; pháp luật của
Nhà nước và các văn bản của Bộ công an về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để thu thập, xử lý và phân
tích số liệu (mặt lượng) về tội phạm về ma túy để tìm hiểu bản chất và quy luật vốn
có của chúng (mặt chất) ở phạm vi thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết thực tiễn hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân - Công an
Thành phố Đà Nẵng (Thông qua báo cáo tổng kết, các chuyên đề về phòng ngừa)
để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình loại tội phạm này.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các thông tin, tài liệu thu thập được,
tiến hành phân tích để làm rõ tình hình, đặc điểm, thực trạng của tộiphamj về ma
túy; đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế thiếu sót và nguyên nhân trong hoạt
động phòng ngừa.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có liên
4
quan đến đề tài nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ
thực tiễn của đề tài.
+ Phương pháp chuyên gia: Tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học có
chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu
của đề tài.
+ Phương pháp nghiên cứu điển hình: Đề tài tập trung nghiên cứu những vụ
án điển hình, nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma
túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân trên đại bàn thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở
đó, đánh giá vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy trên địa bàn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung vào nguồn tài liệu phục vụ
giảng dạy trong các trường CAND hoặc các công trình nghiên cứu khác hoặc công
tác nghiên cứu....
7. Kết cấu luận văn
Được trình bày với các phần như sau: phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh
mục tài liệu tham khảo. Luận văn được chia cấu trúc thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng CSND
trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
Chương 2: Tình hình, đặc điểm và thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy
1.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
Lý luận về phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng
là một trong những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận tội
phạm học. Nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm chính là nghiên cứu những cơ sở,
nền tảng, nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Do vậy, nghiên cứu về
phòng ngừa tội phạm về ma túy chính là nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh, hình thành tội phạm về ma túy để từ đó đề ra những giải pháp triệt
tiêu những nguyên nhân, điều kiện đó góp phần làm giảm tội phạm về ma túy, tiến
tới thủ tiêu chúng. Có thể hiểu khái quát nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm
về ma túy như sau: Nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về ma túy là sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các hiện tượng xã hội làm phát sinh các tội phạm về ma
túy và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội về
ma túy với môi trường sống dẫn đến sự phát sinh tội phạm cụ thể trong nhóm tội
phạm về ma túy.
Một khi đã nắm bắt được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về
ma túy thì bước tiếp theo là tìm cách hạn chế, triệt tiêu chúng. Và cả quá trình hạn
chế, triệt tiêu này còn được gọi là hoạt động phòng ngừa tội phạm. Và để hoạt động
phòng ngừa gội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng trở thành một loain
hoạt động xã hội có định hướng, có tổ chức, nhà làm luật đã sớm điều chỉnh hoạt
động này bằng các quh phạm pháp luật tương ứng. Ở Việt Nam từ trước cho đến
nay đã có nhiều văn bản pháp lý quy định viêc xử lý, ngăn chặn và phòng ngừa tội
6
phạm về ma túy, cụ thể:
Căn cứ pháp lý của việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy là những quy
phạm pháp luật hình sự được quy định trong BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý
cho toàn bộ quá trình xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm về ma túy. Các văn bản dưới luật chỉ là văn bản làm nhiệm vụ hướng dẫn,
giải thích BLHS để đảm bảo cho việc áp dụng quy định pháp luật được đúng đắn,
chính xác và hiệu quả trong thực tiễn.
Những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đấu tranh và phòng ngừa
tội phạm về ma túy, bên canh Bộ luật TTHS quy định trình tự, thủ tục điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm về ma túy, còn có thể kể đến Thông tư số 17/2007/TTLT-
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999
và Công văn số 234 ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao qui định việc giám
định hàm lượng ma túy.
Quy định tội phạm về ma túy : Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS,
trong đó chương XVIII quy định các tội phạm về ma túy gồm 10 điều luật. Đến ngày
19/6/2009 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một
số điều BLHS năm 1999 và trong lần sửa đổi này đã “phi hình sự hóa” đối với hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy và bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội như: Tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy. [32]
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XII đã thông qua BLHS
năm 2015 và đến ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số
điều BLHS năm 2015, đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
và tội chiếm đoạt chất ma túy; tách Điều 194 BLHS năm 1999 thành 4 tội danh độc lập
cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. [30]
Hiện nay theo quy định của pháp luật, nhất là BLTTHS thì công tác phòng ngừa
tình hình tội phạm về ma túy được giao cho các cơ quan tư pháp làm chủ công, trong
đó, lực lượng Công an đóng vai trò là nòng cốt; các ban, ngành, đoàn thể khác có trách
nhiệm cùng phối hợp, hỗ trợ lực lượng công an nhằm đảm bảo cho công tác phòng
7
ngừa đạt kết quả tốt nhất [31]. Như vậy, phòng ngừa tình hình các tội phạm nói chung,
tội phạm về ma túy nói riêng không chỉ là nhiệm vụ của một hay một nhóm cơ quan
nào mà phải có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội. Điều
này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Tình hình về tội phạm nói chung và tình hình các loại tội phạm về ma túy nói
riêng chính là phạm trù cơ bản của tội phạm học. Tình hình tội phạm về ma túy có tất
cả dấu hiệu của tình hình các tội phạm nó chung. Và với tính cách là một hiện tượng
xã hội, chúng có sự thống nhất biện chứng.
Nghiên cứu tình hình tội phạm về ma túy thể hiện qua các dấu hiệu về không
gian và thời gian của tình hình các tội phạm, xác định rõ quy mô của hiện tượng trên
địa bàn một đơn vị hành chính nhất định và giới hạn trong một thời gian nhất định.
Tình hình tội phạm về ma túy là một hình thức biểu hiện cụ thể, riêng, đặc trưng của
một nhóm tội phạm được quy định trong BLHS. Chỉ có thể đánh giá đúng tình hình tội
phạm về ma túy trên cơ sở nắm vững các thông số phản ánh về tình trạng, cơ cấu và
tính chất của tình hình các tội phạm về ma túy trong sự vận động theo thời gian ở một
địa bàn hành chính - lãnh thổ nhất định. Và như vậy, Tình hình tội phạm về ma túy là
một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự, bị tác động và thay đổi về mặt lịch sử, mang
tính giai cấp, bao gồm tổng thể các tội phạm về ma túy thực hiện trên một địa bàn nhất
định và được xác định trong khoảng thời gian nhất định [48]. Khái niệm này trước hết
phản ánh hiện thực của đời sống xã hội đặc thù của một khu vực, địa bàn, đồng thời chỉ
ra những mâu thuẫn tồn tại trong hiện thực của hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực,...
gắn kết thực trạng các tội phạm về ma túy. Để phòng ngừa hiện tượng xã hội tiêu cực
này, như đã nêu, dĩ nhiên là phải thấy được nguyên nhân gốc rễ của nó và tìm giải pháp
phòng ngừa tích cực.
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học, các văn bản pháp lý cũng như
những phân tích, đánh giá của nhiều tác giả về tình hình tội phạm về ma túy, đấu tranh,
phòng ngừa loại tội phạm này, tác giả rút ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
về ma túy như sau: Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy là hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân bằng việc sử dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm loại
8
bỏ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm về ma túy, đồng thời cải
tạo, giáo dục người phạm tội thành người có ích cho xã hội, góp phần giữ vững trật tự,
an toàn xã hội, xây dựng xã hội không còn tội phạm.
1.1.1.2. Đặc điểm phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
- Nghiên cứu đặc điểm phòng ngừa tội phạm về ma túy là quá trình chúng ta
đi nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm về ma túy và
biện pháp tác động vào nguyên nhân, điều kiện đó nhằm ngăn ngừa trước không
cho tội phạm xảy ra. Các biện pháp để phòng ngừa tội phạm về ma túy như đảm bảo
đời sống vật chất, tinh thần cho người dân để con người không thực hiện hành vi
phạm tội do thiếu thốn vật chất hay do hạn chế nhận thức, đó là các biện pháp về
kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý, giáo dục...thực hiện tốt công tác cai nghiện, xử lý
người nghiện và công tác sau sai nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ. Về bản chất
các biện pháp này không mang tính cưỡng chế bắt buộc nên có thể được xây dựng
và triển khai bởi nhiều chủ thể khác nhau, tuy nhiên phải tuân thủ theo các nguyên
tắc của phòng ngừa tội phạm.
- Phòng ngừa tội phạm mang tính cưỡng chế nhà nước nhằm kịp thời phát
hiện, xử lý tội phạm đã xảy ra, tiếp tục phòng ngừa tội phạm tiềm năng. Các biện
pháp này được thực hiện từ giai đoạn phát hiện, điều tra của cơ quan công an, đến
giai đoạn truy tố, xét xử của VKS và Tòa án và cả cơ quan thi hành án hình sự. Hoạt
động phòng ngừa này còn được gọi là phòng ngừa nghiệp vụ. [3]
1.1.1.3. Yêu cầu của phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
- Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và mọi công dân. Phải dựa vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, có sự tham gia của các cấp, các ngành, phát huy tinh chủ động của hệ thống
chính trị và trách nhiệm của toàn dân. Tinh thần chủ động trong phòng ngừa tội
phạm về ma túy đã được thể hiện tại các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của
Bộ Chính trị và đặc biệt tại Chi thị số 21 ngày 26 tháng 3 năm 2008 của Bộ Chính
trị : Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma
túy trong tinh hinh mới; Chiến lược quốc gia phòng chống và kiểm soát ma túy ở
Việt Nam đến năm 2020 và định hưởng đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ phê
9
duyệt ngày 27 tháng 6 năm 2011; các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể về
ma túy liên tục được xây dựng và triển khai thực hiện, các tổng kết trên phạm vi
toàn quốc. [9]
- Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy đòi hỏi phải nghiên cứu, xác định
rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm về ma túy. Để phòng ngừa
có hiệu quả các tội phạm về ma túy đỏi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định
chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ma túy xây dựng chiến lược
phòng ngừa phù hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về ma túy hiện
nay, cũng như các loại tội phạm khác, bao gồm: Sự tác động bởi mặt trái của nền
kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường,cho thấy, bên cạnh những mặt ưu điểm
cũng bộc lộ nhiều mặt trái như là những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nói
chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Đó là: lối sống lười lao động, chạy theo
đồng tiền bất chấp đạo lý, lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy lạc, ích kỷ của một bộ
phận người trong xã hội, tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động
tiêu cực, tàn dư của chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã
hội làm nãy sinh các hiện tượng tiêu cực trong đó có các tội phạm về ma túy; bên
cạnh đó còn là sự thâm nhập, ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc
gia khác.
- Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy đòi hỏi phải nghiên cứu, soạn
thảo các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp nhằm từng bước xoá bỏ nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm: Tuỳ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình
trạng phạm tội về ma túy mà đưa ra các biện pháp đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm: Các giải pháp phát triển kinh tế; Các
giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật: Phòng ngừa tội phạm kết hợp với thực
hiện các chính sách xã hội phù hợp với các địa phương cụ thể; Phòng ngừa tình
hình các tội phạm về ma túy đòi hỏi tiến hành các hoạt động nghiêm túc, liên tục
tạo thành phong trào trong cả nước. Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự
quản cần phối hợp với chính quyền trong tuyên truyền, giáo dục các đối tượng về
phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy.
- Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy đòi hỏi phải có sự đầu tư tích
10
cực, có hiệu quả: Các cấp ủy Đảng tiếp tục nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu
quả phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy theo đúng hướng, phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh của đất nước, của địa phương. Các cơ quan quản lý Nhà nước
tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, tiếp tục cải cách hành chính, cải cách tư
pháp... nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động phòng ngừa tình hình các tội
phạm về ma túy. Các lực lượng chức năng cần phải đầu tư nhân lực, nâng cao
nghiệp vụ, hiện đại hóa các công cụ, cơ sở vật chất qua đó tăng cường hiệu quả
phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy.
- Nâng cao hiệu quả bợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm về ma túy:
Việt Nam cần đẩy mạnh việc thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và
song phương trong lĩnh vực phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy.
1.1.1.4. Ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy là có ý nghĩa to lớn trong việc
hạn chế, loại trừ loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội. Qua nghiên cứu về tình
hình tội phạm về ma túy và hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy, có thể rút ra
một số ý nghĩa nổi bật sau:
Thứ nhất, phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và mang tính nhân đạo sâu sắc.
Thứ hai, phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy có ý nghĩa quan trọng
về mặt kinh tế. Phòng ngừa tội phạm không để tội phạm xảy ra sẽ hạn chế thấp nhất
những thiệt hại do tội phạm gây ra, nhất là những thiệt hại về kinh tế.
Thứ ba, trong việc đàm bảo trật tự, an toàn xã hội thì hoạt động phòng ngừa
tình hình các tội phạm về ma túy có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thứ tư, trong quan hệ đối nội, đối ngoại thì hoạt động phòng ngừa tình hình
các tội phạm có ý nghĩa trong việc bảo đảm, tăng cường uy tín của Đảng, Nhà nước
ta trước nhân dân và bạn bè quốc tế. Phòng ngừa tình hình các tội phạm là nghĩa vụ
của tất cả mọi người trong xã hội, trong đó cấp ủy, chính quyền các cấp là chủ thể
giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, nòng cốt là lực lượng chuyên trách nên hiệu quả của
phòng ngừa sẽ phản ánh hiệu lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, trực tiếp thể
hiện vai trò và uy tín của Đảng, Nhà nước trong việc lãnh đạo, quản lý đất nước.
11
Tóm lại, việc phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy luôn phải được
quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ nhằm từng bước loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện
tiến tới loại bỏ các tội phạm ma túy nói riêng và tội phạm nói chung ra khỏi đời
sống xã hội.
1.1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy
1.1.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội” trong đó tất nhiên bao gồm sự lãnh đạo hoạt động
phòng ngừa tội phạm nói vhung và tội phạm về ma túy nói riêng. Nội dung của
nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy cũng như hoạt động của các chủ thể tiến hành các hoạt động phòng
ngừa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam [21].
Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng ta đều kịp thời có các chỉ
thị, nghị quyết quan trọng để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy
nói riêng.
Việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự an toàn xã hội nói chung và phòng ngừa tội phạm về ma túy nói riêng đã tạo
được sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của các cấp, các ngành, các cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về vấn đề lớn quan hệ đến sự lãnh đạo của Đảng, về sự
nghiệp đổi mới, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa;
đồng thời cũng nhận thức rõ hơn về khó khăn và thách thức mà Đảng ta, nhân dân ta
phải khắc phục trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm nguy hiểm này.
1.1.2.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa tội phạm
về ma túy được hiểu là hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này phải tuân thủ các
quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật ở đây được hiểu là các quy định
của Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan đến hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy. Việc tuân thủ các quy định
12
của pháp luật trong phòng ngừa loại tội phạm này không chỉ thể hiện trong việc áp
dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm mà còn thể hiện ở các biện pháp chữa trị
cai nghiện cho người nghiện ma túy.
Để nguyên tắc pháp chế được tuân thủ trong hoạt động phòng ngừa tội phạm
về ma túy thì yêu cầu các quy định của pháp luật về phòng ngừa loai tội phạm này
phải luôn được qjan tâm hoàn thiện; bên cạnh đó, ý thức tuân thủ các quy định pháp
luật từ các chủ thể phòng ngừa tội phạm cũng được đề cao vì luôn giữ vai trò rất
quan trọng.
1.1.2.3. Nguyên tắc dân chủ
Tại Điều 8, Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Do vậy, nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy
được hiểu là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia của toàn thể các tầng lớp,
lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng ngừa tội phạm thực
chất là hoạt động quản lý xã hội, mà hoạt động này muốn đạt hiệu quả cần phải có
sự tham gia của toàn xã hội.
Để quần chúng thực hiện đúng đắn nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan bảo
vệ pháp luật phải hướng dẫn, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia hoạt
động phòng ngừa, thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau như xây dựng, triển khai
các chương trình phòng chống tội phạm với sự tham gia của quần chúng nhân dân,
tiếp nhận và xử lý có hiệu quả các tin báo,tố giác tội phạm từ quần chúng nhân dân,
hướng dẫn, huấn luyện cho các tổ chức tự quản các biện pháp cần thiết trong việc
phát hiện, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy
v.v…
1.1.2.4. Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma
túy được hiểu là các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này không nhằm làm tổn
thương con người mà phải hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Con người
được đề cập ở đây có thể là bị can, bị cáo, người phạm tội, người nghiện ma túy,
13
những người khác chịu sự tác động từ các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Khi triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm về ma túy, chủ thể
phòng ngừa tội phạm vì mục đích phòng ngừa tội phạm có thể sẽ áp dụng các biện
pháp vô tình gây tổn thương đến bị can, bị cáo, người phạm tội, người nghiện ma túy
và những người là nạn nhân gián tiếp của tội phạm. Chính vì vậy, ngoài việc tuân thủ
pháp luật, tiêu chí rất quan trọng để các chủ thể quyết định áp dụng một biện pháp
phòng ngừa tội phạm là cân nhắc xem biện pháp đó có nguy cơ gây tổn thương đến đối
tượng nào trong xã hội hay không.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa tội
phạm có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan,
bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong hoạt động phòng ngừa tội phạm và
nhằm hướng đến mục đích chung nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa
tội phạm, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
1.1.2.5. Nguyên tắc khoa học
Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vũ bão, thời đại công nghệ số 4.0 bùng nổ
nên kéo theo các loại tội phạm hoạt động với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt
và nhiều loại hình tội phạm dựa vào công nghệ để hoạt động. Vì vậy việc phòng ngừa
tình hình tội phạm về ma túy phải được xây dựng một cách đồng bộ các biện pháp
trong đó phải áp dụng các thành tựu các ứng dụng của khoa học kỹ thuật…
1.1.2.6. Nguyên tắc phối hợp của các chủ thể phòng ngừa
Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi các chủ thể phải
phối hợp với nhau để phát huy hiệu quả cao nhất. Việc phối hợp phải đặt trong một
cơ chế chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều hành thống nhất giữa các cơ quan chuyên
trách và không chuyên trách, giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ
chức kinh tế và mọi công dân, giữa trung ương với địa phương.
Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất
của Đảng. Các chương trình, kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm phải được
xây dựng một cách khoa học, quá trình áp dụng phải đồng bộ, có sự chỉ đạo thống
nhất, tập trung.
14
1.1.3. Chủ thể tiến hành phòng ngừa tội phạm về ma túy
- Đối với đảng bộ các cấp: Đây là chủ thể quan trọng trong phòng ngừa tội
phạm ma túy. Vai trò của Đảng bộ địa phương, chi bộ các cấp đưa ra những chủ
trương, đường lối để hoạt động phòng ngừa đạt hiệu quả cao hay không, đảng lãnh
đạo toàn diện về mọi mặt đối với các cơ quan,, ban ngành trực tiếp đấu tranh với
tội phạm về ma túy, giám sát các cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát... cùng
cấp, kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác phòng ngừa tình hình
các tội phạm về ma túy theo chức năng của từng cơ quan, từ đó có những biện pháp
uốn nắn, khắc phục những sai sót, khuyết điểm.
- Hội đồng nhân dân các cấp là chủ thể quan trong trong phòng ngừa tội
phạm về ma túy. Trong phạm vi thẩm quyền của minh, Hội đồng nhân dân các cấp
sẽ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về những vấn đề phòng ngừa tội phạm
nói chung và tình hình tội phạm về ma túy nói riêng, kiểm tra việc thực hiện
chúng, đánh giá tình hình phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói
riêng có đạt hiệu quả hay không [25].
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật địa phương là chủ thể nòng cốt trong việc
phòng ngừa tội phạm về ma túy
+ Cơ quan công an: Công an các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của
mình, trong quá trình đấu tranh với tội phạm ma túy sẽ nghiên cứu các khuynh
hướng của tình hình các tội phạm về ma túy và tham mưu cho chính quyền các cấp
giải quyết những vấn đề không thuộc phạm vi xử lý của mình. Cơ quan công an là
một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối hợp và xây dựng kế hoạch
tổng thể trong phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy mà cụ thể ở đây là lực
lượng CSĐTTP về ma túy ở các cấp.
Lực lượng CAND các cấp cần nghiên cứu tình trạng tội phạm về ma túy xảy ra
trên địa phương mình quản lý để xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng để có biện pháp
phòng ngừa thích hợp theo đúng chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó.
Lực lượng Công an tiến hành phòng ngừa theo hai hướng, đó là phòng ngừa
xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ.
15
+ Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện chức năng công tố, kiểm sát việc
thực hiện pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án...Khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
được Nhà nước giao để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành
vi vi phạm pháp luật về ma túy sao cho đúng người, đúng tội, không bỏ sót tội
phạm, không làm oan người vô tội. Bên cạnh đó, VKS còn giám sát việc tuân thủ
pháp luật của các chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, bảo đảm bất
cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm điều có chế tài xử lý tương xứng với hành vi đã gây
ra, phòng ngừa việc lạm quyền để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, công
bằng của pháp luật đối với mọi người trong xã hội.
VKS còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong việc
làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm về ma túy, phát hiện
nhanh chóng, chính xác tội phạm; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thống kê, nghiên cứu
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác để đề ra các giải pháp phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy đạt hiệu quả cao [28].
+ Tòa án nhân dân các cấp có vai trò chủ yếu là xét xử, do đó để thực hiện tốt
công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy là phải xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Qua xét xử sẽ làm rõ được bản chất của vụ án, động cơ, nguyên
nhân, điều kiện của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra hình phạt tương
xứng với hành vi mà người đó đã thực hiện. Cũng qua xét xử, tòa án các cấp sẽ
tham mưu, kiến nghị các ngành, các cấp có liên quan trong việc loại bỏ những
nguyên nhân, điều làm nảy sinh hành vi phạm tội của đối tượng [9].
- Ủy ban MTTQVN, các ban, ngành, các hội, đoàn, tổ chức xã hội, tập thể
quần chúng lao động và cá nhân là những chủ thể của phòng ngừa tình hình các tội
phạm về ma túy.
Vai trò của UBMTTQVN là tuyên truyền, vận động nhân dân, thành viên của
tổ chức mình tham gia phòng ngừa, phát hiện tội phạm nói chung, tội phạm về ma
túy nói riêng; Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xử lý
tội phạm ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy. Thực hiện quyền giám
sát và phản biện xã hội đối với những hành vi phạm tội về ma túy cũng như những
16
cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về ma túy.
Các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội tùy theo chức năng, nhiệm vụ của
mình mà mỗi cơ quan, đơn vị có những hình thức, nội dung, biện pháp tham gia vào
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy một cách phù hợp nhất
Các cá nhân cần phải thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân theo
đúng Hiến pháp và pháp luật quy định, thực hiện tốt các quy định của địa phương, nội
quy, quy định của đơn vị, cơ quan nơi công tác. Mỗi cá nhân cần hưởng ứng và tham
gia nhiệt tình các phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy do chính
quyền địa phương, cơ quan, đơn vị mình tổ chức.
1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội phạm về ma túy
1.2.1. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy
1.2.1.1. Khái quát quá trình hình thành của lực lượng Công an nhân dân
Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , làm nòng
cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội. Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lí về bảo
vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật
về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Công an nhân dân Việt Nam đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh
của Chủ tịch Nước, sự thống nhất quản lí của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lí trực
tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an [33].
Nguồn gốc của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam được xem là bắt đầu
từ các đội Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các Đội
Danh dự trừ gian, Hộ lương diệt ác... do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với
mục đích bảo vệ tổ chức Đảng. Những năm 1930 - 45, để chống các hoạt động phá
hoại và do thám của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng
17
Cộng sản Đông Dương đã thành lập các đội Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự
trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là những tổ chức tiền thân của Công an nhân dân
và quân đội nhân dân sau này.
Sau cuộc Cách mạng tháng Tám (nổ ra ngày 19 tháng 8 năm 1945), chính
quyền lâm thời của Việt Minh đã có chỉ thị thành lập một lực lượng vũ trang có
nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, lực lượng này chưa có tên gọi chung mà
mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh
sát (ở Trung Bộ), Quốc gia Tự vệ Cuộc (ở Nam Bộ). Đến ngày 21 tháng
2 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các lực lượng này thành một lực lượng Công an nhân
dân ở cả ba miền được thống nhất một tên gọi thống nhất là Công an, có nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; và thành lập Việt Nam
Công an vụ để quản lý lực lượng Công an nhân dân do một Giám đốc đứng đầu.
Trong thời kỳ đầu, cơ quan quản lý ngành Công an là Nha Công an vụ, trực
thuộc Bộ Nội vụ. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1953, thành lập thành Thứ bộ Công an,
trực thuộc Bộ Nội vụ, đứng đầu là một Thứ trưởng. Đến năm 1955, thì tách hẳn
thành Bộ Công an. Năm 1959, sáp nhập các lực lượng biên phòng thành lực lượng
Công an vũ trang (nay là lực lượng Biên phòng) trực thuộc quyền quản lý của Bộ
Công an (về sau lại chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng). Cũng từ năm này, lực
lượng Công an được tổ chức vũ trang và bán vũ trang theo biên chế, có phù hiệu và
cấp hàm tương tự như quân đội.
Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân gồm có:
1. Bộ Công an;
2. Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
3. Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Công an xã, phường, thị trấn.
Công an nhân dân được chia thành hai lực lượng riêng biệt là lực lượng Cảnh
Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân ( lực lượng chủ công trong
sát nhân dân và lực lượng An ninh nhân dân.
phòng, chống tội phạm về ma túy):
18
- Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về
trật tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát
sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia
giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
- Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý
về an ninh, trật tự các nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ;
quản lý, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo
quy định của pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy
Qua một số nội dung đã phân tích ở phần trên thì phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy là hoạt động của cả hệ thống chính trị, của các cơ quan Nhà nước,
các ngành đoàn thể tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều kế hoạch, chương
trình và biện pháp để hướng đến mục đích loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và
điều kiện của tình hình phạm về ma túy nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm và từng
bước loại trừ tội này ra khỏi đời sống xã hội.
Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy là hoạt động rất khó khăn, phức
tạp, đa dạng cần phải thực hiện có chiều sâu với sự tham gia đông đảo của nhiều lực
lượng, nhiều tổ chức xã hội. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
cần phải giải quyết tốt các nhiệm vụ như nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều
kiện của tình hình tội phạm về ma túy; soạn thảo các chương trình, giải pháp, biện
pháp và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng, chống tội phạm về ma túy. Bên
cạnh đó, phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy là việc tiến hành đồng bộ các
biện pháp, sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng, phương tiện nhằm khắc phục những sơ
hở, thiếu sót trong các mặt công tác không để đối tượng phạm tội phạm về ma túy
có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Phải nghiên cứu những đặc điểm, đặc trưng của
tội phạm về ma túy để thấy được những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh, phát
triển loại tội phạm này, từ đó ngăn chặn không để cho chúng không thể xảy ra.
19
Trong phòng ngừa tình hình tội tội phạm về ma túy thì vai trò nòng cốt, xung kích
thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong sự
nghiệp bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Trong phạm vi chức năng của mình, lực lượng
Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi
phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội nhằm bảo vệ cuộc sống tự do, hạnh phúc,
lao động hoà bình của Nhân dân, tính mạng, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội; góp phần xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc xử sự
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, nếp sống văn minh, lành mạnh trong Nhân dân.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng vũ trang
khác và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và dựa vào sức mạnh của toàn
dân để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các lực lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội và mỗi công dân có trách nhiệm cộng tác, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát
nhân dân làm tròn nhiệm vụ được giao.
Như vậy, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa
tình hình tội phạm về ma túy là bao gồm các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
được pháp luật (luật CAND) quy định cho lực lượng Cảnh sát nhân dân và được
triển khai tổ chức thực hiện trên thực tế với một hệ thống tổ chức, bộ máy, trang bị
phương tiện, kỹ thuật về chuyên môn - nghiệp vụ và các phương tiện hoạt động khác
nhằm loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về
ma túy từ đó ngăn chặn, hạn chế làm giảm và từng bước loại trừ tội phạm về ma túy
ra khỏi đời sống xã hội.
- Vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy được thể hiện ở một số hoạt động cụ thể dưới đây:
+ Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc xây dựng
các chủ trương, kế hoạch, biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình hình tội phạm về ma
túy.
+ Thực hiện công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội, tổ
chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và phối hợp các ngành, các cấp, các cơ
20
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chương trình kế hoạch phòng ngừa
tình hình tội phạm về ma túy.
+ Trực tiếp tổ chức tiến hành các biện pháp cụ thể để phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy.
+ Trực tiếp phát động phong trào TDBVANTQ và phát động phong trào toàn
dân tham gia phòng chống các loại tội phạm về ma túy.
+ Thực hiện các công tác về quản lý giáo dục, cải tạo những người phạm tội
hoặc vi phạm pháp luật khác, tạo điều kiện giúp đỡ họ từ bỏ con đường sai trái.
+ Phối hợp với các cơ quan tổ chức có liên quan trong phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân đủ
mạnh về các mặt chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, đủ điều kiện thực
hiện công tác phòng chống tội phạm về ma túy do Nhà nước giao phó.
1.2.2. Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân về phòng ngừa tình
hình tội phạm về ma túy
Xuất phát từ yêu cầu của phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy, trên cơ
sở quy định của pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát nhân
dân, khi thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy, lực lượng
Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Các nhiệm vụ chủ yếu:
Lực lượng Cảnh sát nhân dân chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm về ma túy và các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ trật tự
công cộng; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm về ma túy và kiến
nghị các biện pháp loại trừ những nguyên nhân, điều kiện đó.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện việc xử phạt hành chính đối với các
vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan
điều tra của Lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành theo các hoạt động điều tra và
đề nghị truy tố người phạm tội về ma túy theo quy định của pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân bảo đảm thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam
21
đối với những người đã có quyết định tạm giữ, tạm giam; thi hành các bản án phạt
tù, trừ các bản án do các tổ chức trong Quân đội nhân dân đảm nhiệm; giáo dục, cải
tạo phạm nhân phạm tội về ma túy thành những công dân có ích cho xã hội; quản
lý, giáo dục những người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ các
phiên toà hình sự.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện các quy định của Nhà nước về quản
lý hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân; giúp Nhân dân tìm địa chỉ người thân, tìm
người bị lạc, người mất tích; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về
cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy;
đăng ký, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, trừ vũ khí, khí tài do Quân đội nhân dân quản
lý; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo quản, vận
chuyển, sử dụng chất nổ, chất dễ cháy, chất độc, chất phóng xạ; quản lý các nghề
kinh doanh đặc biệt do Chính phủ quy định.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội và dựa vào sự giúp đỡ của mọi công dân để đấu tranh chống tội phạm về ma
túy, các tệ nạn xã hội, phòng ngừa tai nạn, thiên tai, địch, họa; cứu giúp người bị
nạn; kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về giữ gìn vệ sinh công cộng, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, môi trường sống.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân tổ chức hướng dẫn các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội trong công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội; chỉ đạo công tác và huấn
luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho các lực lượng bán chuyên trách,
các tổ chức bảo vệ, góp phần xây dựng phong trào bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
thành viên của Mặt trận tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân ý thức tôn trọng pháp
luật, động viên và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.
22
Kết luận Chương 1
Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu hệ thống hóa, phân tích và đưa ra khái
niệm phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy, đề cập và phân tích về đặc điểm, yêu
cầu, ý nghĩa, chủ thể và các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
- Tác giả cũng nêu lên được những nguyên tắc cơ bản trong phòng ngừa tình hình
các tội phạm về ma túy đó là: nguyên tắc đảng lãnh đạo, nguyên tắc pháp chế XHCN,
nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc phối hợp
trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
- Tác giả cũng đã nêu và phân tích cụ thể của các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm về ma túy, nêu rõ chủ thể phòng ngừa tình hình tôij phạm về ma túy
gồm: Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân); chủ thể có chức
năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm (Cơ
quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án); chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội
phạm (mặt trận, các ban ngành, đoàn thể, gia đình, nhà trường).
- Tác giả cũng nêu được khái niệm, nội dung vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy, quyền và nghĩa vụ của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy.
23
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY CỦA LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Đặc điểm tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong những năm qua
2.1.1. Tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội và tội phạm về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020
Theo số liệu thống kê của Công an thành phố Đà Nẵng, từ năm 2016 đến
năm 2020, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng xảy ra 2447 vụ phạm pháp hình sự (Giết
người: 107 vụ; Cố ý gây thương tích tích: 325 vụ; Hiếp dâm trẻ em: 09 vụ; Cướp tài
sản: 46 vụ; Cướp giật tài sản: 155 vụ; Trộm cắp tài sản: 1327 vụ; Án khác: 483 vụ),
đã điều tra, khám phá 2054 vụ (chiếm tỷ lệ 83,93%), bắt giữ 3253 đối tượng [Xem
bảng 2.1 – Phụ lục]. Cụ thể: Năm 2016 xảy ra 558 vụ phạm pháp hình sự, đã điều
tra, khám phá 445 vụ (chiếm tỷ lệ 81,5%), bắt giữ 702 đối tượng; Năm 2017 xảy ra
532 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 442 vụ (chiếm tỷ lệ 83,1%), bắt
giữ 677 đối tượng; Năm 2018 xảy ra 517 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám
phá 436 vụ (chiếm tỷ lệ 84,3%), bắt giữ 695 đối tượng; Năm 2019 xảy ra 467 vụ
phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 400 vụ (chiếm tỷ lệ 85,7%), bắt giữ 622
đối tượng; Năm 2020 xảy ra 375 vụ phạm pháp hình sự, đã điều tra, khám phá 321
vụ (chiếm tỷ lệ 85,6%), bắt giữ 557 đối tượng; Như vậy, tình hình phạm pháp hình
sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có xu hướng giảm dần trong các năm về sau, nếu
lấy số vụ phạm pháp hình sự năm 2016 để làm mốc so sánh thì năm 2017 số vụ
phạm pháp hình sự giảm 26 vụ, năm 2018 số vụ phạm pháp hình sự giảm 41 vụ,
năm 2019 số vụ phạm pháp hình sự giảm 91 vụ, năm 2020 số vụ phạm pháp hình sự
giảm 183 vụ.
Đối với tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có nhiều diễn
biến phức tạp, khó lường, tập trung ở các vũ trường, bar, bug, karaoke, nhà
24
hàng…Ngoài ra, thời gian qua xuất hiện hình thức hoạt động mại dâm qua mạng
Internet, các đối tượng môi giới và gái mại dâm sử dụng mạng xã hội như zalo,
facebook… để giới thiệu và tổ chức mua bán dâm; từ năm 2016-2010 đã bắt 58 vụ
164 đối tượng trong đó khởi tố 7 vụ 20 đối tượng. [Xem bảng 2.2 – Phụ lục]. Tình
hình tệ nạn cờ bạc vẫn còn diễn ra nhiều, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ANTT.
Hoạt động tệ nạn cờ bạc dưới hình thức ô số lô đề diễn ra phức tạp, có chiều hướng
gia tăng về tính chất, mức độ, quy mô đã làm ảnh hưởng đến tình hình ANTT và
gây dư luận xấu trong đời sống nhân dân. Tình trạng đánh bạc trong các khu dân cư
còn phổ biến thành phần tham gia chủ yếu là thanh niên, phụ nữ không có việc làm;
từ năm 2016-2010 đã bắt 2146 vụ 17.538 đối tượng trong đó khởi tố 137 vụ 621 đối
tượng. [Xem bảng 2.3 – Phụ lục].
Như vậy, tình hình về phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng ngày càng diễn biến phức tạp, biến tướng dưới nhiều loại hình dịch vụ
khác nhau, thành phần độ tuổi của đối tượng ngày càng trẻ hóa, các đối tượng có
nhiều kinh nghiệm, thủ đoạn đối phó với các cơ quan chức năng. Từ tệ nạn xã hội dễ
dàng phát sinh, chuyển hóa sang hoạt động phạm pháp hình sự và ngược lại, ảnh
hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội.
2.1.2. Đặc điểm tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng
2.1.2.1. Đặc điểm tình hình về địa lý, dân cư, kinh tế-xã hội
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm trong
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, là thành phố trung tâm và lớn nhất khu
vực miền Trung - Tây Nguyên; là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực; trung
tâm chính trị - kinh tế - xã hội với vai trò là trung tâm công nghiệp, tài chính, du
lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ,
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước;
trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Thành phố Đà Nẵng đóng vai
trò hạt nhân, quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng
là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam, đô thị loại I, trung tâm
cấp quốc gia, cùng với Hải Phòng và Cần Thơ.
25
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt
1.134.310 người, xếp thứ 39 cả nước, chiếm 1,18% dân số cả nước. Thành phố Đà
Nẵng hiện có 15 trường Đại học, 11 trường Cao đẳng, 12 trường Trung cấp chuyên
nghiệp với trên 220.000 học sinh, sinh viên từ các tỉnh, thành trên cả nước về học
tập, nghiên cứu, trong đó khoảng 70% HSSV ở ngoại trú khắp các địa bàn thành
phố [17].
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung -
Tây nguyên với nhiều khu công nghiệp, địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút được các
nhà đầu tư, khách du lịch trong và ngoài nước, có hàng nghìn cơ sở sản xuất, kinh
doanh, cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí và các điểm giao dịch lớn. Chính từ sự phát
triển năng động của thành phố làm cho công tác quản lý về nhiều mặt chưa theo kịp,
trong đó có vấn đề quản lý nhà nước về ANTT còn nhiều sơ hở. Thời gian qua, bọn
tội phạm nói chung, tội phạm về ma tuý nói riêng lợi dụng sơ hở này để hoạt động
làm cho tình hình tội phạm về ma túy gia tăng, tình hình người nghiện cũng khó
kiểm soát. Mặc dù lực lượng Cảnh sát nhân dân – Công an thành phố mở nhiều đợt
cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, nhưng tình hình tội phạm về ma túy vẫn tiềm
ẩn nhiều yếu tố phức tạp.
2.1.2.2. Đặc điểm về tình hình tệ nạn xã hội; người nghiện và sử dụng ma túy
Với vị trí địa lý thuận lợi và không ngừng được đầu tư phát triển, ngày nay
thành phố Đà Nẵng đã trở thành trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch nổi tiếng của
khu vực Miền trung. Hàng năm, có hàng triệu lượt khách du lịch trong và ngoài
nước đến tham quan, nghỉ mát, học tập, lao động...Để tạo ra môi trường an ninh an
toàn, lành mạnh, Đảng bộ và Chính quyền thành phố đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị, đề án xây dựng nếp sống văn minh đô thị, bảo vệ môi trường, phòng chống
tội phạm và tệ nạn xã hội như “”Chương trình 05 không, 03 có”” trong đó có các Đề
án “ Không có người lang thang xin ăn; Không có người nghiện ma tuý trong cộng
đồng: Không có giết người để cướp tài sản...":Quyết định nghiêm cấm người buôn
bán hàng rong, bán báo dạo ở các địa điểm du lịch và một số tuyến đường chính; Kế
hoạch số 8394- KH/UBND về phối hợp các lực lượng tuần tra do lực lượng Công
an chủ trì, được nhân dân đồng tình ủng hộ … Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình
26
hình về tệ nạn xã hội, tình hình người nghiện ma túy trên địa bàn thành phố còn
diễn biến phức tạp, dẫn đến sự gia tăng của tội phạm nói chung và tội phạm về ma
tuý nói riêng.
- Tình hình về người nghiện và sử dụng ma tuý
Hệ luy của sự gia tăng tội phạm về ma tuý trong cả nước thời gian qua làm
bùng nổ tình trạng người nghiện ma tuý, sự gia tăng số người nghiện ma tuý tạo
nên nguồn cầu về ma tuý rất lớn kích thích người phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy, rôts cuộc làm cho tội phạm này ngày càng tăng. Đà Nẵng là thành phố đông
dân cư ở khu vực miền Trung, đang trên đà phát triển nên cũng không thể tránh
khỏi ảnh hưởng tiêu cực đó. Năm 2016 lực lượng CATP phát hiện xử lý 2.429
trường hợp. Năm 2017 số người nghiện bị phát hiện xử lý tăng 168 trường hợp so
với năm 2016, chiếm tỷ lệ 6,91%. Năm 2018 số người nghiện bị phát hiện xử lý
tăng 409 trường hợp so với năm 2017, chiếm tỷ lệ 15,7 %. Năm 2019 số người
nghiện bị phát hiện xử lý tăng 471 trường hợp so với năm 2018, chiếm tỷ lệ 15,6
%. Năm 2020 số người nghiện bị phát hiện xử lý giảm 592 trường hợp so với năm
2019, chiếm tỷ lệ 17,02 %. [Xem bảng 2.4 – Phụ lục]
Người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy tuy được kiểm soát
nhưng vẫn diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng. Tình trạng phát sinh người
nghiện mới, tái nghiện vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Tình hình người sử dụng trái phép
chất ma túy liên tục phát sinh và gia tăng qua các năm. Số đối tượng sử dụng loại
ma túy dạng thảo mộc như "cỏ Mỹ" trong cộng đồng còn nhiều; số đối tượng
nghiện từ các địa phương khác đến cư trú, hoạt động trên địa bàn gây phức tạp an
ninh trật tự (chiếm tỷ lệ 13,7%). Tình trạng lợi dụng vũ trường, quán bar, karaoke
và dịch vụ lưu trú để sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra phổ biến; tình hình người
nước ngoài, khách du lịch sử dụng trái phép chất ma túy tại các quán Bar, Pub,
khách sạn, khu nghỉ dưỡng...gia tăng, khó kiểm soát. Đặc biệt, số đối tượng có biểu
hiện loạn thần do sử dụng ma túy ở cộng đồng còn nhiều, tiềm ẩn nguy cơ ảnh
hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Thành phố.
Để hoạt động phòng, chống tội phạm về ma tuý tại thành phố Đà Nẵng đạt
hiệu quả cao và mang tính bền vững hơn nữa, đòi hỏi lực lượng Cảnh sát nhân dân
27
cũng như các cấp, các ngành cần nổ lực nghiên cứu để tìm ra giải pháp phù hợp
nhằm ngăn chặn và tiến tới loại bỏ tệ nạn xã hội này ra khỏi đời sống của cộng
đồng: giải quyết tốt công tác cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai giúp người
nghiện ma tuý hoả nhập cộng đồng một cách hiệu quả như có nghề nghiệp, có việc
làm tạo thu nhập ổn định, có như vậy mới góp phần ngăn chặn được sự phát sinh
của tội phạm về ma tuý tại địa phương.
2.1.2.3. Diễn biến của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy
Từ năm 2016 đến năm 2020, dưới sự chỉ đạo của BCA, sự lãnh đạo của
Thành uỷ, UBND thành phố và của Giám đốc CATP Đà Nẵng, lực lượng Cảnh sát
nhân dân đã tiến hành nhiều biện pháp pháp nghiệp vụ để nắm tình hình, mở nhiều
đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, khám phá nhiều chuyên án lớn, triệt phá
nhiều dường dây, tổ chức tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý, bắt nhiều đối
tượng phạm tội, thu giữ tang vật và tài sản có giá trị. Tuy nhiên, tình hình tội phạm
về ma túy nói chung, tội mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng vẫn diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng cả về số vụ, quy mô và tính
chất nhưng không theo quy luật nhất định, trong đó chủ yếu vẫn là tội mua bán trải
phép chất ma tuý, số lượng chất ma tuý thu được ngày càng tăng. Đặc biệt nguy
hiểm là ngày càng xuất hiện nhiều chất ma tuý rất độc hại trên địa bàn như
Ketamine và loại ma tuý mới mà chưa quy định trong các danh mục.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà
Năng lực lượng Công an đã phát hiện bắt giữ 1.119 vụ án ma tuý với 1.586 đối
tượng [Xem bảng 2.5 – Phụ lục]; thu giữ 12.310,85 gam cần sa, 1.717,07 gam
heroin, 35.033,17 gam ma tuý tổng hợp [Xem bảng 2.5 – Phụ lục]. Về cơ cầu thì tội
mua bán trái phép chất ma tuý là tội phạm bị phát hiện nhiều nhất trong các loại tội
phạm về ma tuý tại thành phố Đà Nẵng, số vụ mua bán trái phép chất ma tuý bị phát
hiện trong năm năm qua là 571/1.119 vụ án về ma tuý, chiếm tỷ lệ 51,03% số vụ án
về ma tuý [Xem bảng 2.6 – Phụ lục]. Kết quả điều tra khám phá án về ma tuý trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng theo từng năm, cụ thể như sau:
Năm 2016 phát hiện điều tra 145 vụ với 196 đối tượng;
Năm 2017 phát hiện điều tra 165 vụ với 231 đối tượng;
28
Năm 2018 phát hiện điều tra 218 vụ với 307 đối tượng;
Năm 2019 phát hiện điều tra 300 vụ với 425 đối tượng;
Năm 2020 phát hiện điều tra 291 vụ với 427 đối tượng;
So sánh số liệu thống kê cho thấy, bình quân hàng năm lực lượng cảnh sát
CATP phát hiện điều tra 223,8 vụ (1.119 vu/5năm) và 317,2 đối tượng (1.586 đối
tượng/5năm), tình hình tội phạm về ma tuý ở Đà Nẵng tăng, giảm không theo quy
luật. Qua phân tích số liệu cho chúng ta thấy rằng, tình hình tội phạm về ma tuý ở
thành phố Đà Nẵng diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ngờ rất khó
kiểm soát, nhiều đổi tượng mua bán trái phép chất ma tuý trong thời gian dài mới bị
phát hiện, xử lý, do đó bọn tội phạm thường có đủ thời gian lôi kéo, móc nối với các
đổi tượng khác tham gia, tạo nhiều “chân rết", tạo địa bàn ổn định cho hoạt động
phạm tội và che giấu tội phạm. Điều này cũng cho chúng ta thấy, lực lượng Công an
chưa hoàn toàn làm chủ được tình hình, công tác quản lý địa bàn, đối tượng hiệu
quả chưa cao, công tác tấn công tội phạm chưa thường xuyên liên tục. Thời điểm
nào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm được đầy mạnh thì bọn tội phạm về
ma tuý cảnh giác đề phòng, giảm tần suất hoạt động hoặc chuyển sang phương thức
"năm im nghe ngóng", khi chúng ta chủ quan hoặc không đủ "lực" để duy trì công
tác ở cưởng độ cao thì bon tội phạm về ma tuý tăng cường hoạt động . Mặt khác, số
đối tượng bị bắt luôn nhiều hơn số vụ phạm tội bị phát hiện, điều này cho ta thấy
trong một vụ phạm tội về ma tuý luôn có nhiều đổi tượng tham gia từ khâu vận
chuyển, tàng trữ, mua bán, che giấu tội phạm; Sổ vụ phạm tội chủ yếu xảy ra ở các
quận Hải Châu, Thanh Khê, Ngũ Hành Sơn.. phần nào cũng cho chúng ta thấy tội
phạm thường lợi dụng hoạt động ở các địa bàn đông dân cư, tập trung các trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các khu công nghiệp, nơi có HSSV,
công nhân về lao động, học tập, nghiên cứu.
2.1.2.4. Đặc điểm về nhân thân đối tượng phạm tội về ma túy
Nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người phạm tội không chỉ giúp lực
lượng Cảnh sát CATP xây dựng các giả thuyết điều tra và áp dụng các thủ thuật,
chiến thuật điều tra nhằm nhanh chóng làm rõ tội phạm và do đặc điểm nhân thân
của người phạm tội cũng là nội dung của những vấn đề phải chứng minh trong vụ
29
án hình sự theo Điều 63 Bộ luật TTHS năm 2003 mà quan trọng hơn là còn đề xuất
biện pháp phòng ngừa, nhất là phòng ngừa cá biệt.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng lực lượng CATP đã phát hiện, bắt giữ 1.119 vụ gồm 1.586 đối tượng. Qua
phân tích số đối tượng phạm tội về ma tuý đã bị bắt giữ cho chúng ta thấy thành
phần đối tượng phạm tội về ma tuý trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những
năm qua là khá đa dạng về nghề nghiệp. giới tính, độ tuổi, tiền án tiền sự, cụ thể
như sau: [15]
- Thành phần phạm tội: [Xem bảng 2.7 – Phụ lục]
+ Lao động phố thông
Năm 2016: 0 đối tượng.
Năm 2017: 3 đối tượng.
Năm 2018: 3 đối tượng.
Năm 2019: 1 đối tượng.
Năm 2020: 7 đối tượng.
Số đối tượng phạm tội làm công việc lao động phổ thông bị bắt tăng dần theo
từng năm. Trong 5 năm qua, số đổi tượng thuộc thành phần này là 14 đối tượng,
chiếm tỷ lệ khoảng 0,88% trong tổng số các đối tượng phạm tội về ma tuý. Trong
công tác phòng ngừa và điều tra cần chủ ý nhóm đối tượng này để có biện pháp tác
động phù hợp. Vì nhóm đối tượng này nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp,
trình độ học vấn không cao dễ bị tội phạm lợi dụng lôi kéo.
+ Nghề buôn bán
Năm 2016: 0 đối tượng.
Năm 2017: 0 đối tượng.
Năm 2018: 1 đối tượng.
Năm 2019: 0 đối tượng.
Năm 2020: 1 đối tượng.
Phân tích số liệu ta thấy, nghề buôn bán tham gia hoạt động phạm tội mua
bán trái phép chất ma túy, tuy số lượng không nhiều, chỉ chiếm tỷ lệ 0,13% tổng số
đối tượng bị bắt trong 5 năm qua, nhưng có dấu hiệu tăng dần theo từng năm. Trong
30
công tác phòng ngừa và đấu tranh, lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý cần tập
trung chú ý vì nhóm đối tượng này nắm được quy luật cung - cầu và diễn biến của
thị trường, dễ bị lợi nhuận cám dỗ nhất là lợi nhuận cực kỳ lớn của hoạt động buôn
bán trái phép chất ma túy.
+ Thành phần không nghề nghiệp
Năm 2016: 196 đối tượng.
Năm 2017: 228 đối tượng.
Năm 2018: 303 đối tượng.
Năm 2019: 424 đối tượng.
Năm 2020: 419 đối tượng.
Đây là thành phần tham gia phạm tội chiếm tỷ lệ cao nhất (98,99%) so với
các thành phần khác. Điều này cho thấy, nhóm người này nếu không có những biện
pháp tác động tích cực của toàn xã hội, cũng như những biện pháp mang tính
nghiệp vụ chuyên biệt của lực lượng cảnh sát để phòng ngừa thì họ rất dễ trở thành
nguồn bổ sung cho tội pham, nhất là tội mua bán trái phép chất ma tuý.
+ Nhóm có tiền án
Năm 2016: 117 đối tượng.
Năm 2017: 140 đối tượng.
Năm 2018: 125 đối tượng.
Năm 2019: 194 đối tượng.
Năm 2020: 149 đối tượng.
Trong 5 năm qua, số đối tượng có tiền án tham gia phạm tội về ma tuý là 725
đối tượng chiếm tỷ lệ 45,7% trong tổng số đối tượng bị bắt giữ (Xem bảng 2.8 –
Phụ lục). Điều này nói lên tính phức tạp trong công tác phòng ngừa và đấu tranh vì
loại đối tượng này luôn thể hiện bản chất ngoan cố, khó cải tạo, khi đã thực hiện tội
phạm thì chúng sẽ thực hiện đến cùng với thủ đoạn tinh vi rất khó phát hiện, qua đó
cũng cho thấy tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý ở Đà Nẵng còn
tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Do vậy, lực lượng CATP mà chủ công là lực lượng
CSND cần tập trung chú ý thường xuyên nắm chắc tình hình về địa bàn, về đối
tượng để chủ động có đối sách phù hợp với từng loại đối tượng.
31
Số đối tượng là HSSV phạm tội là 114 đối tượng chiếm 7,1% trong tổng số
đối tượng phạm tội về ma túy, đây là con đáng báo động. Qua đó cảnh báo cho
chúng ta thấy rằng tội phạm ma tuý đã xâm nhập vào các trường học, giảng đường,
tại thành phố Đà Nẵng. Điều này đòi hỏi công tác phòng, chống ma tuý cần chú
trọng cả trong môi trường giáo dục thông qua các biện pháp phòng ngừa chung, kịp
thời ngăn chặn không để tội phạm lây lan.
- Về độ tuổi
Đối tượng phạm tội về ma tuý tại Đà Nẵng ở nhiều độ tuổi khác nhau, trong
đó dưới 16 tuổi là 2 đối tượng chiếm 0,13%; dưới 18 tuổi là 31 đối tượng chiếm
1,95%, từ 18-30 tuổi là 1.204 đối tượng chiếm 75,91%, trên 30 là 324 đối tượng
chiếm 22,01%, tập trung nhiều nhất là độ tuổi từ 18 đến 30, chiếm 75,91% trong
tổng số đổi tượng bị bắt giữ qua các năm. [Xem bảng 2.9 – Phụ lục]. Điều này cho
thấy, các đối tượng chủ yếu tập trung vào tầng lớp thanh niên, lực lượng luôn
chiếm số đông trong xã hội. Thực trạng này đòi hỏi lực lượng CATP Đã Nẵng cần
có giải pháp tích cực và phối hợp với các ngành, các cấp trong công tác phòng
ngừa, ngăn chặn không để tội phạm ma tuý tiếp tục lôi kéo lực lượng thanh niên
này. Bên cạnh đó phải có kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 24-
CT/TU ngày 10/8/2008 của Thành uỷ Đà Nẵng về tiếp tục đẩy mạnh công tác phối
hợp giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên
hư, vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Về quốc tịch
Thời gian qua, tình hình hoạt động phạm tội ma tuý liên quan đến người
nước ngoài tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là có sự câu kết với các đối tượng
trong nước. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý, Công an thành hố Đà
Nẵng đánh giá, nguồn ma túy thẩm lậu vào Đà Nẵng chủ yếu là từ TP Hồ Chí Minh
và các tỉnh, TP phía Bắc, như: Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh…
qua sự câu kết, móc nối của các đối tượng trong ổ nhóm, đường dây. Bên cạnh, lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy còn phát hiện, bắt giữ nhiều trường hợp
trực tiếp đưa ma túy từ nước ngoài về Đà Nẵng tiêu thụ.. Qua điều tra, các đối
tượng người nước ngoài chủ yếu là người Campuchia, Trung Quốc, Nigeria,
32
Philippines...Phương thức, thủ đoạn của tội phạm này không ngừng thay đổi, ngày
càng tinh vi, xảo quyệt, thậm chí sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng tấn công lực lượng
chức năng khi bị phát hiện, bắt giữ.
Vụ việc điển hình: Ngày 11/4/2018, Công an thành phố đã kiểm tra, phát
hiện, xử phạt vi phạm hành chính đối tượng Shin - Incheol (Sinh năm 1971, quốc
tịch Hàn Quốc) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 27/9/2018, CAQ.
Ngũ Hành Sơn phát hiện, xử lý 18 đối tượng nước ngoài sử dụng trái phép chất ma
túy (Cần sa). Ngày 27/05/2019, CAQ. Ngũ Hành Sơn bắt quả tang đối tượng tàng
trữ trái phép chất ma tuý là Shi JingHai (Sinh năm 1988, Quốc tịch: Trung Quốc);
thu giữ 20,613 gam Ketamine.
- Cơ cấu tình hình tội phạm về ma túy theo đơn vị hành chính cấp quận,
huyện của thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020 cho thấy, số vụ án về ma
túy xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chủ yếu tập trung vào một số quận,
huyện như: Hải Châu 214 vụ (chiếm 19,3%), Thanh Khê 262 vụ (chiếm 23,41%),
Sơn Trà 161 vụ (chiếm 14,38%), Liên Chiểu 142 vụ (chiếm 12,7%), Cẩm Lệ 150 vụ
(chiếm 13,4%) (Xem bảng 2.10– Phụ lục). Sở dĩ có tình trạng này là do đây đều là
những địa bàn trung tâm, tập trung đông dân cư, hoạt động buôn bán sầm uất, tập
trung nhiều khách du lịch, có nhiều tụ điểm về tệ nạn xã hội, tiềm ẩn nhiều nhân tố
và nguy cơ làm phát sinh tội phạm và tệ nạn ma túy.
2.1.2.5. Đặc điểm hình sự của tội phạm về ma túy
Tội phạm ma túy mang những đặc tính hình sự của tội phạm nói chung, tuy
nhiên do đối tượng của tội phạm là những chất ma túy và việc phạm tội đã dem lại
những lợi nhuận cao cho các đối tượng nên loại tội phạm này có những đặc tính
riêng biệt. Các tội phạm khác như tội trộm cắp, tội cướp, tội giết người, tội lừa đảo,
tội cố ý gây thương tích ...thường có người bị hại rõ ràng, có nhân chứng, có hiện
trường, để lại nhiều dấu vết thông tin về tội phạm . Những yếu tố đó được phát hiện
và trình báo làm cơ sở ban đầu cho việc điều tra các loại tội phạm này. Còn các tội
phạm về ma túy thì thường không có người bị hại, dấu vết và nhân chứng hầu như
không có, tin báo, tố giác rất ít, thậm chí nếu có cũng chỉ là những cảm quan bên
ngoài ... Vì vậy, rất ít cơ sở ban đầu cho hoạt động điều tra. Điều này cũng nói lên
33
tại sao tội phạm về ma túy phát hiện được ít, tội phạm ẩn chiếm tỷ lệ cao [4].
- Đặc điểm về thủ đoạn hoạt động:
Tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (Điều 194
BLHS) là một trong những tội phạm nghiêm trọng nhất về ma tuý, có mức hình
phạt tối đa là tử hình. Do đó, hầu hết các đối tượng trước khi phạm tội, đều biết rõ
nếu bị bắt phải chấp nhận hình phạt nghiêm khắc, nhưng do buôn bán ma túy mang
lại lợi nhuận siêu ngạch cho nên người phạm tội bất chấp pháp luật. Đó là động lực
thúc đẩy con người lao vào con đường phạm tội. Đồng tiền đã làm cho chúng mờ
mắt, không cần biết hậu quả, tác hại ghê gớm của ma túy gây ra cho cộng đồng,
trong đó có cả người thân, thậm chí cả gia đình người phạm tội. Lợi nhuận cao và
hình phạt nghiêm khắc là những nguyên nhân tạo nên sự đấu tranh tâm lý của tội
phạm trước khi hành động và thường thì áp lực về lợi nhuận sẽ dẫn đường cho
người có lòng tham dẫn họ đến con đường phạm tội, thúc đẩy họ tìm ra phương
thức nào để vừa đạt được mục đích mong muốn mà không sa lưới pháp luật. Điều
này nói lên sự khó khăn, phức tạp trong điều tra tội phạm về ma túy. Đối với tội
phạm có tổ chức, phương thức hoạt động chủ yếu là bí mật và đơn tuyến, đồng thời
chúng luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn hoạt động nhằm không để lại quy luật,
dấu vết. Phương thức thủ đoạn tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
thể hiện các nội dụng sau:
+ Một là, tạo nguồn hàng: Ma túy có nhiều loại khác nhau; ở nước ta, bọn tội
phạm thường tạo các nguồn ma túy như thu mua từ các cơ sở trồng cây thuốc phiện,
cây cần sa; móc nối đưa ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam, chủ yếu là Hêrôin,
Côcain, Ma tuý tổng hợp... móc nối với nhân viên thoái hoá, biến chất từ các cơ sở
dược phẩm, các bệnh viện các trung tâm thí nghiệm liên quan đến ma túy để đưa ma
túy ra thị trường tự do buôn bản trái phép.
Hiện nay ở nước ta cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca bị cấm trồng. Trong
các chương trình quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý của Chính phủ có
những Đề án xoá bỏ việc trồng cây có chứa chất ma tuý, bằng việc Nhà nước ta đã
có chính sách hỗ trợ đồng bào thay các loại cây này bằng các loại cây khác, ổn định
đời sống nhân dân nhưng do kinh phí còn có hạn, một số địa phương chỉ đạo thiếu
34
kiên quyết nên kết quả còn hạn chế. Trong khi đó đời sống đồng bảo vùng cao còn
nhiều khó khăn, việc trồng các loại cây có chất ma túy cũng như sử dụng nó đã trở
thành tập quán lâu dời. Một nguyên nhân khác là do bọn tội phạm hình thành các cơ
sở thu mua sản phẩm với giá cao hoặc đổi các hàng hóa mà đồng bào miền núi ưa
thích, vì vậy đã xuất hiện việc tái trồng cây thuốc phiện, trồng mới cây cần sa ở một
số địa phương.
Thành phố Đà Nẵng mang nét đặc thủ riêng là nằm ở vùng Duyên hải, bọn
tội phạm mua bán trải phép chất ma tuý không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với
các vùng trống cây có chứa chất ma tuý. Tuy nhiên, Đà Nẵng lại nằm ở vị trí trung
điểm của các tuyển giao thông Bắc Nam, vì vậy bọn tội phạm mua bán trải phép
chất ma tuý có thể dễ dàng tiếp cận những những vùng có ma tuý để khai thác như
biên giới tỉnh Quảng Trị - Lào, Nghệ An, Hải Phòng...bằng nhiều thủ đoạn khác
nhau. Hiện nay, các đối tượng cung cấp ma túy ở các tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Hải
Phòng đã tìm cách đưa ma tuý trực tiếp đến các đầu mối tại Đà Nẵng tiêu thụ, nhằm
mục đích giảm bớt các khâu trung gian, tăng thêm lợi nhuận, đảm bảo chất lượng và
nâng cao độ an toàn.
+ Thủ đoạn vận chuyển:
Sau khi mua chất ma túy, bọn tội phạm tìm mọi cách vận chuyển đến nơi có
giá cao hơn bán để kiểm lời, Theo đánh giá tình hình tại báo cáo tống kết công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý của Cục CSĐT tội phạm về ma tuý
BCA năm 2020 thì: Phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm về ma túy
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, quyết liệt và manh động hơn, phương tiện vận chuyển
ma túy phổ thông vẫn là xe máy, ô tô...việc cất giấu phổ biến vẫn là để lẫn trong
hàng hoá khó kiểm soát, lợi dụng các khoảng trống tự nhiên hoặc tự tạo, cho vào
bên trong các túi nước giải khát đóng hộp, dùng giấy tờ tuỳ thân giả để qua mắt cơ
quan chức năng, thuê phụ nữ có thai, trẻ em vận chuyển ma tuý. Trong quá trình
vận chuyển này, đối tượng cầm đầu thường ít xuất đầu lộ diện, các đối tượng liên
lạc với nhau bằng những phương tiện thông tin, liên lạc hiện đại, kỹ thuật cao khiến
lực lượng kỹ thuật nghiệp vụ khó giám sát.
Tại Đà Nẵng, bọn tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý thường trực tiếp
35
đến các tỉnh có nguồn ma tuý nhiều như Nghệ An, Thái Nguyên, Hải Phòng...để
mua về bán lại kiếm lời, lúc vận chuyển chúng để ma tuý lẫn trong hàng hoá của
khách đi xe, nhiều trường hợp các đối tượng là “Nhà phân phối" ở các địa phương
trên cho người chuyển ma tuý trực tiếp vào cho các “Đại lý" tại Đà Nẵng tiêu thụ.
Trong những năm qua, nguồn ma túy thẩm lậu vào thành phố chủ yếu là từ
thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Hà Nội... có sự
câu kết, móc nối giữa các đối tượng trong và ngoài thành phố; đáng chú ý, đã phát
hiện, bắt giữ nhiều đối tượng đưa ma túy từ nước ngoài về thành phố tiêu thụ thông
qua dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không. Các đối tượng câu kết,
hình thành đường dây ma túy liên tỉnh vận chuyển ma túy vào thành phố tiêu thụ
hoặc trung chuyển ma túy qua địa bàn thành phố để đi các địa phương khác
Một số vụ điển hình:
Ngày 16/10/2018, Công an thành phố đã phối hợp Cục Hải quan thành phố
bắt quả tang Vũ Bảo (Sinh năm1982, HKTT: Hòa Tiến, Hòa Vang, quốc tịch Việt
Nam và Canada) về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ 230 viên thuốc
lắc dưới dạng thuốc con nhộng và gần 01 kg cần sa của đối tượng nhận bằng dịch
vụ vận chuyển bưu phẩm từ Canada về Đà Nẵng.
Ngày 01/02/2019, CATP phá Chuyên án 789N: Triệt phá đường dây vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy từ Hà Tĩnh về Đà Nẵng, bắt quả tang
Trương Văn Hậu (1991, trú tổ 184 p.An Khê, Thanh Khê); thu giữ 2,5 kg ma túy
các loại.
+ Thủ đoạn trong khâu giao hàng nhận tiền:
Việc giao hàng và nhận tiền cũng được thực hiện rất đa dạng, tinh vi. Ngoài
cách tiền hàng trao tay, phần lớn các vụ án, đổi tượng phạm tội có sự thỏa thuận
trước với nhau. Có thể là giao tiền trước rồi sẽ nhận hàng ở một địa điểm theo thỏa
thuận hoặc ngược lại.
Hiện nay, các đối tượng buôn bán ma tuý tại Đà Nẵng dùng phương thức
chuyển tiền, hàng bằng cách lợi dụng các dịch vụ chuyển hàng trên các tuyến xe
chất lượng cao Bắc – Nam, các đối tượng buôn bán ma tuý ở thành phố Đà Nẵng
nhờ “nhà xe" chuyển tiền cho các đối tượng ở các tỉnh phía Bắc và ngụy trang với
36
lý do trả tiền nợ, tiền mua hàng...sau khi nhận tiền hoặc thậm chí qua liên lạc biết
rằng tiền đã được chuyển, các nhà phân phối" sẽ chuyển ma tuý cho các xe khác vào
Đà Nẵng, do đó rút ngắn được thời gian, nguồn ma tuý luôn đáp ứng được yêu cầu.
Khi xe vào đến địa điểm thuận lợi bọn tội phạm “nhận hàng", làm như vậy chúng
cho rằng sẽ không để lại dấu vết gì, chúng qua mặt được cả người vận chuyển (nhà
xe) với chi phí thấp. Sở dĩ đối tượng áp dụng phương thức này bởi chúng cũng phát
hiện vận chuyển ma tuý là khâu yếu nhất, dễ bị phát hiện bắt giữ nhất.
Sau khi có ma tuý, nếu là đối tượng buôn bán Hêrôin chúng sẽ dùng lưỡi dao
lam phân chia hảng thành từng tép nhỏ vừa với liều dùng, gói trong giấy bạc để dễ
bán cho người nghiện.
Với thủ đoạn đó của tội phạm, Cơ quan điều tra gặp rất nhiều khó khăn trong
khâu điều tra xác minh, tổ chức giảm sát hoặc bắt đối tượng, thu giữ vật chứng cũng
như cùng cổ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của chúng
+ Đặc điểm về thời gian diễn ra hành vi phạm tội
Hành vi phạm tội đều diễn ra trong một không gian, địa điểm nhất định và
kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó. Do vậy, nghiên cứu thời gian diễn ra
hành vi phạm tội về ma túy có ý nghĩa quan trọng trong công tác hoạt động phát
hiện điều tra phạm tội này.
Tội phạm được xác định từ khi có những hành vi chuẩn bị phạm tội đến quá
trinh tiến hành phạm tội, kết thúc hành động phạm tội và che giấu tội phạm. Đối với
tội phạm về ma túy do tính đặc thù là một chuỗi hành vi phạm tội nối tiếp nhau
mang tính “cắt đoạn” và "trường diễn" nên thời gian thực hiện tội phạm không theo
quy luật nhất định. Tuy nhiên qua tổng kết thời gian thực hiện hành vi phạm tội về
ma tủy rút ra một số nét đãc thủ như sau:
Thời gian thực hiện hành vị pham tội mua bán trái phép chất ma túy thưởng
là sau khi kết thúc một hoạt động phạm tội khác như sản xuất, tàng trữ, vận chuyển
chất ma túy. Thời gian diễn ra hành vi mua bản trái phép chất ma tuỷ cũng không
theo quy luật riêng. Tuy nhiên mua bán trái phép chất ma tuý buộc thủ phạm phải
tim người để bán, mang theo ma tuỷ nên là khẩu yếu nhất dễ bị phát hiện. Do đó
bọn tội phạm thường có nhiều thú doạn để đối phó. Quá trình mua bán có thể kéo
37
dài một vài giờ, vài ngày, vài tháng từ khâu chào hàng, thoả thuận giá cả, kiểm tra
người mua hàng, lựa chọn thời gian và địa điểm giao hàng.
Qua thực tiễn công tác đấu tranh với tội phạm mua bản trải phép chất ma tuý
tại thành phố Đà Nẵng cho thấy, thủ đoạn về thời gian hoạt động phạm tội của các
đối tượng cũng mang những đặc điểm chung nếu so với các địa phương khác trong
cả nước. Tuy nhiên, tại thành phố Đà Nẵng thủ đoạn thể hiện mang tính phổ biến
như sau: với những loại ma túy có tính chất truyền thống như thuốc phiện, cần sa,
heroin, bọn tội phạm buôn bán bất kể thời gian nào trong ngày nếu có nhu cầu tiêu
thụ. Nhưng nhìn chung, hoạt động buôn bán diễn ra vào ban ngày nhiều hơn. Loại
ma tuý tổng hợp bọn tội phạm thường buôn bán về đêm để phục vụ cho dân chơi ở
các vũ trường, quán bar. Thủ đoạn về thời gian này gây rất nhiều khó khăn cho công
tác điều tra, vì ban đêm bọn chúng dễ dàng lẫn trốn, vứt ma tuý phi tang khi bị bắt.
Mặt khác, ban đêm tại địa bàn thành phổ Đà Nẵng lượng người tham gia giao thông
trên đường ít, bọn tội phạm dễ dàng phát hiện trinh sát của ta. Điều này xuất phát từ
đặc điểm đổi tượng mua bán ma tuý tại thành phố Đà Nẵng chủ yếu là buôn bản
nhỏ, lẻ, hoạt động buôn bán đó chủ yếu cung cấp cho người nghiện tại chỗ. Trong
đó nhóm thời gian tội phạm về ma túy thường hoạt động (2016-2020) từ 00h-6h là
420 vụ chiếm 38,03%, thời gian từ 6h-18h là 105 vụ chiếm 8,45% và thời gian từ
18h-24h là 593 vụ chiếm 53,52%. (Xem bảng 2.11– Phụ lục)
Tuyển và địa bàn trọng điểm
Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa hợp tác rộng rãi với các
nước, đã tạo động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mặt
tráicủa quá trình hội nhập đó cũng đã tác động tiêu cực đến một số mặt của đời sống
xã hội, đó là làm cho tình hình tội phạm ở trong nước ngày càng diễn biển phức tạp,
nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, trong đó có tội buôn bán trái phép chất ma tuý.
Nước ta lại nằm ở gần khu vực Tam giác vàng nơi sản xuất, cung cấp lượng thuốc
phiện và hêrôin chính cho “thị trường đen" thế giới nên ảnh hưởng trực tiếp đến tinh
hình gia tăng tội phạm về ma tuý. Thành phố Đà Nẵng là cửa ngõ ra biển Đông của
tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây nên cũng chịu tác động, ảnh hưởng của những
tiêu cực đó.
38
Tội phạm về ma tuý thường hoạt động theo các tuyến và địa bản nhất định.
Tuyến là hướng vận động chính của tội phạm là đường giao dịch chuyên chở ma
tuý, diễn ra các hoạt động liên lạc, thanh toán, cất giấu ma tuý. Địa bản trọng điểm
là nơi tập trung nhiều đổi tượng và diễn ra nhiều hoạt động phạm tội về ma tuý
trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hình thành các tuyến và điạ bàn trọng
điểm chinh là quá trình hình thành thị trường ma túy. Nó phụ thuộc vào các nguồn
cung cấp ma túy, khu vực tiêu thụ cũng như đặc điểm về giao thông, địa bàn dân cư
và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý của các cơ quan bảo vệ pháp
luật. Vì vậy, tuyến và địa bàn trọng điểm về tội phạm ma tuý cũng sẽ thay đổi theo
từng thời gian nhất định.
Qua tổng kết công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý trong giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý tại thành
phố Đà Nẵng chủ yếu diễn ra trên các tuyến trọng điểm sau đây:
+ Tuyến đường bộ: Như đã đề cập phần trên, tội phạm về ma tuý tại thành
phố Đà Nẵng chủ yếu là những đối tượng bán lẽ, tự gom tiền trực tiếp đón xe khách
ra các tỉnh phía Bắc như: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Nghệ An, Quảng Bình,
Quảng Trị... mua herôin, ma tuý tổng hợp về bán thu lời bất chính. Sau khi đã tạo
được mối quan hệ, nhiều trường hợp các đại lý phía Bắc cho người trực tiếp mang "
hàng" vào thành phố Đà Nẵng giao cho đầu mối bán lẽ tại chỗ. Trong thời gian gần
đây bọn tội phạm giảm hẳn phương thức trực tiếp đi lấy hoặc đi giao "hàng" để
tránh bị phát hiện, bắt giữ và giảm chi phí mà chuyển sang phương thức gởi “hàng",
tiền theo các chuyển xe khách chất lượng cao chạy tuyến Bắc Nam. Các vụ điểm
hình trên tuyến đường bộ:
• Vụ: Ngày 01/02/2019, CATP phá Chuyên án 789N: Triệt phá đường dây
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy từ Hà Tĩnh về Đà Nẵng, bắt quả tang
Trương Văn Hậu (1991, trú tổ 184 p.An Khê, Thanh Khê); thu giữ 2,5 kg ma túy
các loại.
* Vụ: Khám phá thành công Chuyên án 457H: Lúc 10h00 ngày 07/4/2016,
tại Trạm Cảnh sát Nam hầm đèo Hải Vân thuộc P. Hòa Hiệp Bắc, Q. Liên Chiểu,
TP. Đà Nẵng, Công an thành phố bắt quả tang 02 đối tượng về hành vi mua bán
39
trái phép chất ma túy bao gồm: Ngô Việt Huy (Sinh năm: 1975, HKTT: Tổ 23,
P.Hải Châu 2, Trú tại: K45/H39/01 Lê Độ, Q. Thanh Khê), Phạm Văn Ba (Sinh
năm: 1986, HKTT: Tổ 21, P. Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn). Tang vật thu giữ: 681,59
gam ma túy đá, 100,006 gam ketamine, 1.000 viên thuốc lắc (257,348 gam), 3,802
gam heroin, 02 ô tô, 04 ĐTDĐ, 01 khẩu súng ngắn và đạn, 80.000000đ. Mở rộng
điều tra, ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Minh Lợi (1979, trú tại: Tổ
38, P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu về hành vi mua bán tàng trữ trái phép chất ma túy).
+ Tuyến đường sắt: Do nhà ga đường sắt Đà Nẵng nằm ở trong nội thành,
thuận lợi cho hoạt động đi lại của người dân, bọn tội phạm về ma tuý cũng thường
xuyên lợi dụng tuyển vận chuyển này để hoạt động đưa ma tý vào Đà Nẵng tiêu thụ.
Lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng đã phát hiện bắt giữ nhiều đối
tượng.
Các vụ điển hình:
Điển hình ngày 5-1, bắt giữ Trần Thị Hồng (39 tuổi, trú TP Hồ Chí Minh) và
Bùi Đức Khánh (35 tuổi, trú Hải Phòng) trên tàu SE2 khi tàu vừa vào ga Đà Nẵng;
thu giữ trong túi xách của 2 đối tượng này 300 viên ma túy tổng hợp, 2 hộp ma túy
tổng hợp dạng bột cùng dụng cụ để dập tạo hình các viên nén ma túy.
Ngoài ra, thành phố Đà Nẵng có tuyển Hàng không, tuyển Đường thuỷ nội
địa và quốc tế, nhưng trong các năm qua lực lượng chức năng chưa phát hiện vụ.
đổi tượng nào hoạt động trên tuyển này.
Đặc điểm về thông tin dấu vết tội phạm
Khi có hành vị phạm tội xảy ra, dấu vết của tội phạm thường để lại ở hiện
trường vụ án. Những dấu vết này có thể có ở môi trường xung quanh, ở người bị
hại, ở đối tượng bị xâm hại và ở chính đối tượng phạm tội. Đặc điểm của tội phạm
mua bán trái phép chất ma tuý là hiện trường thường không rõ ràng, khó phát hiện,
luôn thay đổi trong quá trình hoạt động phạm tội gắn liền với đặc tính “cắt đoạn" và
"trường điễn" của tội phạm này. Các dấu vết vật chứng phát hiện trong quá trình
mua bán trái phép chất ma tuý bao gồm các loại sau:
Một điều đáng lưu ý là số vụ mua bán trái phép hêrôin chiếm tỉ lệ cao nhất,
nhưng buôn bán ma tuý tổng hợp cũng ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, thời gian qua
40
không có vụ mua bán thuốc phiện nào, điều này cũng nói lên tính hiệu quả của việc
thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý của Chính phủ,
trong đó có Đề án thay thế và xoá bỏ việc trồng cây thuốc phiện và các cây khác có
chứa chất ma túy.
2.1.2.6. Nguyên nhân và điều kiện tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng
Trong những năm qua, với sự quyết tâm và nổ lực Đảng bộ, Chính quyền và
nhân thành phố Đà Nẵng tập trung xây dựng, phát triển thành phố ngày một vững
mạnh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm kinh tế của miền Trung. Trong quá trình
phát triển đó, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma
tuý nói riêng được quan tâm đặc biệt. Hầu hết, trong tất cả các định hướng về phát
triển kinh tế - xã hội thì nội dung phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn tội phạm luôn
được quan tâm hàng đầu; nhiều chương trình, kế hoạch phòng chống tội phạm
chuyên biệt được triển khai sâu rộng tạo được phong trào toàn dân tham gia bảo vệ
an ninh tổ quốc mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình hình tội phạm hình sự nói chung, tội
phạm về ma tuý nói riêng không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng, điều này
xuất phát từ một số nguyên nhân và điều kiện cơ bản của nó:
Nguyên nhân và điểu kiện khách quan
Nguyên nhân và điều kiện khách quan của tình hình tội phạm về ma tuý trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng có thể kể đến:
- Những biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ như quá trình đô thị hóa nhanh,
phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, sự gia tăng dân số, diện tích
đất canh tác bị thu hẹp, người dân bị thất nghiệp hoặc có việc làm không ổn định,
thu nhập thấp... làm cho tình hình về ANTT càng thêm phức tạp.
- Cơ chế thị trường đã làm thay đổi giá trị và một số chuẩn mực đạo đức, văn
hoá truyền thống. Những quan điểm sống thực dụng, hưởng thụ đang trỗi dậy, quan
điểm làm giàu bằng mọi giá, bất chấp đạo lý đang len lỏi vào nhiều gia đình; cha
mẹ buông lỏng trách nhiệm giáo dục con cái để họ lao vào con đường làm giàu, con
cái hư hỏng, tham gia vào các tệ nạn. Hiện tượng lừa đảo, làm ăn phi pháp ngày một
gia tăng, chưa có chế tài đủ mạnh để trừng trị làm thúc đầy những hoạt động kinh
41
doanh bất hợp pháp.
- Lợi nhuận do hoạt động buôn bán ma tuý đem lại ngày càng cao làm động
lực thúc đẩy tội phạm ma tuý gia tăng. Trong cơ chế thị trường đồng tiền có sức
mạnh khủng khiếp, hoạt động buôn bán ma tuý đem lại lợi nhuận siêu ngạch nên đã
kích thích nhiều người tham gia. Qua lời khai nhận tội của hầu hết các đối tượng bị
bắt trong thời gian qua cho thấy, hiện nay giá 01 chỉ hêrôin tại các tỉnh phía Bắc
như Hà Nội, Thái Nguyên là 5 triệu đồng, nhưng mang vào đến Đà Nẵng phân nhỏ
thành 80 tép, bán được 25 triệu đồng; giá bán sĩ ma tuý tổng hợp ở Hải phòng là
110.000 một viên, tại Đà Nẵng giá từ 250.000 đến 300.000 một viên, chênh lệch
khoảng 2,7 lần. Điều này nói lên chính lợi nhuận siêu ngạch do buôn bán ma tuý
đem lại mà tội phạm về ma tuý trong cả nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói
riêng ngày càng tăng. Số người nghiện ma túy tăng cao làm gia tăng tội phạm về ma
tuý. Một nguyên nhân khác là do xã hội chưa chuẩn bị tốt cho những người sau cai
nghiện tái hoà nhập cộng đồng như: thiếu việc làm, sự kỳ thị, xa lánh của xã hội,
mặc cảm, nên họ buồn chán, tiêu cực tiếp tục tìm đến với ma tuý. Phần lớn số người
nghiện là thanh thiếu niên có lối sống thực dụng, bể tắc trong tình yêu, trốn tránh
thực tại tạo ra nguồn cầu lớn về tiêu thụ ma tuý, góp phần kích thích tội phạm về ma
tuý tại Đà Nẵng không ngừng gia tăng.
- Mặc dù có sự quan tâm của ngành giáo dục, gia đình, nhà trường, nhưng
vẫn tồn tại tình trạng học sinh bỏ học ngày một tăng. Nhóm đối tượng này thường
bị phần tử xấu và bọn tội phạm lôi kéo vào con đường phạm tội, từ đó làm gia tăng
tình trạng phạm tội về ma túy.
Nguyên nhân và điều kiện chủ quan
- Những thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước và quản lý xã hội, nhất là
quản lý về ANTT còn chưa được quan tâm đúng mức, có lúc có nơi còn xem nhẹ,
hiệu lực quản lý thấp. Trong đó công tác quản lý người nghiện ma tuý còn lỏng lẻo,
đặc biệt là người cai nghiện ma tuý tại gia đình và cộng đồng, các ban ngành, đoàn
thể né tránh trách nhiệm, hầu như chỉ giao phó cho lực lượng Công an; Việc điều
trị, chữa bệnh cho người nghiện tại trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 của thành
phố Đà Nẵng hiệu quả không đạt như mong muốn: Việc giáo dục, dạy nghề, giới
42
thiệu việc làm cho người nghiện không hiệu quả. Như đánh giá tại Báo cáo kết quả
thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý năm 2020 của Cơ quan thường
trực phòng, chống ma tuý thành phố Đà Nẵng cho rằng Công tác quản lý sau cai
chưa chặt chẽ, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phòng, chống AIDS, tệ nan ma
tuý, mại dâm năm 2020 nhận xét: Công tác quản lý, giáo dục sau cai còn nhiều tổn
tại, thiếu sót như đối tượng sau cai nghiện được quản lý đạt tỷ lệ thấp, chủ yếu theo
dõi đối với người có hộ khẩu, chưa quan tâm dùng mức đối tượng tạm trú, không
nắm được tỉnh hình di biến động của đối tượng, một số phường không công nhận
tiến bộ hoặc hết thời hạn quản lý sau cai cho đối tượng…..Có thể coi đây là một
trong những điều kiện làm phát sinh tội phạm về ma tuý trên địa bàn [15].
- Pháp luật về phòng, chống ma tuý còn nhiều bất cập, chế định về cộng tác
viên chưa rõ ràng, chưa được luật hóa dẫn đến hiệu quả biện pháp công tác này còn
thấp; chế tài hành chính đổi với các hành vi trái phép liên quan đến ma tuý còn quá
nhẹ không đủ sức răn đe, giáo dục chung trong xã hội; việc quy định tỷ lệ về hàm
lượng chất ma tuý trong giám định khoa học hình sự là không thật cần thiết nhưng
lại gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra; chậm ban hành pháp luật làm cơ sở
pháp lý cho hoạt động thực tiễn như nhiều chất ma tuý mới đã xuất hiện tại Việt
Nam chưa có trong danh mục của Chinh phủ, dẫn đến không có căn cứ để kết luận
giám định…..
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục phòng,
chống ma tuý và tác hại của ma túy còn hạn chế. Đối với các trường Đại học, Cao
Đắng. Trung học chuyên nghiệp cũng như các trường phổ thông tại thành phố Đà
Nẵng chỉ được tổ chức truyền truyền thời gian vào đầu khoá học; nội dung tuyên
truyền chưa chú trọng, chưa nêu lên được thủ đoạn hoạt động của tội phạm, thủ
đoạn lôi kéo học sinh để cho các em nâng cao ý thức cânh giác phòng, tránh. Chính
vì vậy tình trạng học sinh, sinh viên tham gia sử dụng ma tuý khó kiểm soát. Công
tác tuyên truyền đại chúng chỉ tập trung nâng cao nhận thức chứ chưa chú trọng nội
dung tuyên truyền nhằm làm thay đổi hành vi nên ý thức phòng tránh lây nhiễm
HIV/AIDS từ người nghiện sang cộng đồng còn thấp.
- Sự phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý thiếu chặt
43
chẽ. Nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống ma túy được Nhà nước giao cho lực lượng
Công an, Bộ đội Biên Phòng, Hài Quan, Cảnh sát Biển, nhưng sự phối hợp chủ yếu
nằm trong việc xây dựng quy chế, chưa đáp ứng như mong đợi: Công tác phối hợp
trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma tuý giữa các cơ quan tư pháp còn
nhiều bất cập, việc đánh giá chứng cứ không thống nhất, dẫn đến tình trạng bỏ lọt
tội phạm, hạn chế công tác mở rộng điều tra.
Công tác quản lý địa bàn và đối tượng buôn bán, tổ chức sử dụng trái phép
chất ma tuỷ còn thiếu sót, không chủ động kịp thời thu thập được thông tin về tình
hình tội phạm để tổ chức triệt xoá. Do đó, nhiều vụ đối tượng hoạt động thời gian
dài, lôi kéo nhiều đối tượng tham gia làm cho tình hình thêm phức tạp và công tác
đấu tranh gặp không ít khó khăn.
2.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Tổ chức lực lượng
Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức ĐTHS năm 2004 quy định nhiệm vụ của Cơ quan
diều tra như sau: " Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng
mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người
đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tổ: tìm ra các nguyên nhân,
điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
khắc phục, ngăn ngừa"
Theo tinh thần Quyết định số 191/2005/QĐ-BCA(X13) ngày 02/03/2005 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục CSĐT tội
phạm về ma tuý; Quyết định số 1165/2005/QD-X11(X13) ngày 01/04/2005 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an cấp tỉnh; Quyết định
số 1173/2005/QD-X11(X13) ngày 01/04/2005 của Tổng cục trưởng Tổng cục Xây
dựng lực lượng CAND quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đội CSĐT tội
phạm về ma tuý Công an cấp huyện. Quyết định số 3714/2008/QĐ-X11 ngày
03/09/2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng CSĐT tội phạm về
44
ma tuý thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì thẩm quyền điều
tra các tội phạm về ma tuý thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng CSĐT tội
phạm về ma tuý.
Thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự năm 2015; Luật Công an nhân dân năm 2018; Nghị định số 01/2018/NĐ-CP
ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an [31], [33].
Căn cứ Thông tư số 55/2015/TT-BCA, ngày 22/10/2015 của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định phân công trách nhiệm giữa Công an các cấp vè một số vấn đề
trong công tác tổ chức, cán bộ của lực lượng CAND;
Căn cứ quyết định số 2410/QĐ-BCA, ngày 09/4/2019 của Bộ trưởng Bộ
công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng
Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. cho thấy: Lực lượng CSND nói chung mà nòng cốt là lực lượng CSĐT tội
phạm về ma tuý là lực lượng có đủ thẩm quyền và nhiệm vụ tiến hành mọi biện
pháp điểu tra theo quy định của pháp luật để điều tra làm rõ mọi vụ án phạm tội về
ma túy. Theo đó, lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng có nhiệm vụ
tổ chức phòng ngừa, điều tra, xử lý tất cả các tội phạm về ma túy xảy ra trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp thành phố,
Đội CSĐT tội phạm về ma tuý Công an cấp quận, huyện có nhiệm vụ tổ chức
phòng ngừa, điều tra xử lý tất cả các tội phạm về ma túy xảy ra trên địa bàn quận,
huyện mình phụ trách; tổ chức xây dựng kế hoạch triển khai và kiểm tra việc thực
hiện các biện pháp nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND trong phòng ngừa, đầu
tranh với tội phạm về ma tuý trên toàn địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Tính đến ngày 01/12/2020, tổng quân số của lực lượng CSĐT tội phạm về
ma túy CATP Đà Nẵng có 144 CBCS, trong đó:
- Chức vụ lãnh đạo
+ Ở cấp phòng
* Lãnh đạo Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng có 04 người,
chiếm tỷ lệ 15,38% quân số toàn phòng, trong đó Trưởng phòng và Phó trưởng
45
phòng phụ trách công tác điều tra theo tố tụng là Phó thủ trưởng Cơ quan CSĐT.
* Lãnh đạo Đội có 08 người, gồm 04 Đội trưởng, 04 Đội phó, chiếm tỷ lệ
5,5% quân số của đơn vị
Cán bộ, chiến sỹ ở cấp phòng không giữ chức vụ lãnh đạo gồm Điều tra viên,
trinh sát, cán bộ làm công tác tham mưu có 39 người, chiếm tỷ lệ 27,08%.
+ Ở cấp quận, huyện:
* Lãnh đạo Công an 07 quận, huyện là 14 người, gồm có 07 Trưởng Công an
quận (huyện) là Thủ trưởng Cơ quan CSĐT và 07 Phó trưởng Công an quận
(huyện) phụ trách công tác điều tra là Phó thủ trưởng Cơ quan CSĐT, chiếm tỷ lệ
14,5 % quân số cấp quận, huyện.
* Đội trưởng, Đội phó ở cấp quận, huyện có 20 người, gồm 7 Đội trưởng và
13 Đội phó, chiếm tỷ lệ 20,8% quân số cấp quận, huyện.
Cán bộ, chiến sỹ ở cấp đội không giữ chức vụ lãnh đạo gồm Điều tra viên,
trinh sát, cán bộ làm công tác tham mưu có 62 người, chiếm tỷ lệ 64,5%.
- Về trình độ nghiệp vụ của toàn lực lượng có:
+ Thạc sĩ có 11 người, chiếm tỷ lệ 7,6%
+ Đại học có 110 người, chiếm tỷ lệ 76,3%;
+ Cao đẳng có 4 người, chiếm tỷ lệ 2,7%
+ Trung học có 19 người, chiếm tỷ lệ 13,1%
- Về chức danh Điều tra viên
+ Điều tra viên toàn lực lượng có 29 người, chiếm tỷ lệ 20,1%. Trong đó
không có ĐTV Cao cấp, 20 ĐTV Trung cấp chiếm tỷ lệ 13,8%, 09 ĐTV Sơ cấp
chiếm tỷ lệ 6,25%;
+ Trinh sát, cán bộ làm công tác tham mưu 115 người, chiếm tỷ lệ 79,8%.
[Xem bảng 2.12-Phụ lục]
Nhận xét:
Qua phân tích số liệu thống kê cho thấy, nhìn chung đội ngũ cán bộ là tương
- đối đồng đều, được đào tạo cơ bản, đa số có trình độ nghiệp vụ từ trung cấp trở
lên, 100% Điều tra viên có trình độ Đại học. Hiện nay vì nhiều lý do nên tỷ lệ Điều
tra viên Cao cấp trong lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành phố Đà
46
Nẵng chưa có.
2.2.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.2.1. Thực trạng công tác phòng ngừa
Trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát nhân dân nói chung, lực lượng
CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng nói riêng đã tổ chức quán triệt và triển
khai thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của BCA, những nghị quyết, thông tư, quy chế,
kế hoạch mà Ngành Công an đã ký kết trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Lãnh đạo CATP Đà Nẵng đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng
CSĐT tội phạm về ma tuý trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong phối kết
hợp với các cấp, các ngành thực hiện các chỉ thị của Bộ Chính trị, các nội dung
chương trình quốc gia phòng chống và kiểm soát ma túy của Chính phủ, Chương
trình không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng của UBND thành phố; thường
xuyên tham mưu cho các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp xây dựng các kế
hoạch, chương trình hành động phòng, chống ma tuý, đặc biệt là "Chương trình
không có người nghiên ma tuý trong cộng đồng” đã được toàn thể nhân dân ủng hộ,
tham gia. Nhờ có "Chương trình 5 không" mà công tác quản lý người nghiện, công
tác cai nghiện, dạy nghề và giới thiệu việc làm, quản lý sau cai nghiện không chỉ
diễn ra ở diện rộng mà đã đi vào chiều sâu. Công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật về phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma tuý nói riêng được lực
lượng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng triển khai đến từng tổ dân phố, tộc
họ, trường học và mọi người dân bằng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú,
giúp cho đại bộ phận nhân dân nhận thức đầy đủ về ma tuý, tác hại do ma túy và tội
phạm ma tuý gây ra, cũng như thủ đoạn của tội phạm về ma túy, từ đó nhân dân có
ý thức phòng tránh và tham gia đấu tranh tố giác tội phạm. Qua đó chúng ta càng
nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng ngừa xã hội.
- Trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, lực lượng CSND Công an các cấp
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã mở hàng trăm lớp tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật cho khoáng 259.330 người thuộc nhiều đối tượng khác nhau, phối
hợp Đài tiếng nói Việt Nam tại Đà Nẵng lên sóng phát thanh tuyên truyền nhiều đợt
47
trong từng năm: phối hop chương trình Vì an ninh Tổ quốc Đài truyền hình Việt
Nam tại Đà Nẵng xây dựng nhiều phóng sự tuyên truyền về phòng, chống ma tuý và
chiến công của lực lượng [2].
- Tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm trong trường học như: phối hợp
chặt chẽ với Đại học Đà Nẵng, Sở giáo dục và đào tạo Đà Nẵng thực hiện nghiêm
túc quy chế đảm bảo an ninh trật tự trong trường học và cơ sở giáo dục theo tinh
thần Thông tư số 10/2002/TTLT ngày 22/3/2002 giữa Bộ GD & ĐT và Bộ Công an
cũng như các kế hoạch liên tịch giữa Công an thành phố Đà Nẵng với Sở GD & ĐT
thành phố Đà Nẵng, xây dựng những phong trào : “ vì mái trường không có ma
túy", vòng tay nhân ái...nhằm tuyên truyền phổ biển giáo dục pháp luật cho HSSV;
thường xuyên kết hợp với lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính và Ban quản lý
HSSV các trường tăng cường công tác quản lý HSSV ngoại trú không để các em bị
tội phạm lôi kéo.
Có chương trình, kế hoạch hành động cụ thể cùng Hội liên hiệp thanh niên,
Thành Đoàn Đà Nẵng tiến hành các đợt vận động, tuyên truyền giáo dục các sinh
viên, thanh thiếu niên có biểu hiện vi phạm pháp luật, thanh niên có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn đang được Hội liên hiệp thanh niên thành phố Đà Nẵng bảo trợ học
nghề và giới thiệu việc làm nhằm phòng ngừa từ xa. Phổi hợp với Hội Liên hiệp
phụ nữ triển khai thực hiện Kế hoạch liên tịch số 01 giữa BCA và Trung ương Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam về quản lý giáo dục con em trong gia dinh không phạm
tội và tệ nạn xã hội, đưa việc thực hiện chương trinh đến tứng tổ dân phố, khu dân
cư và mọi gia đình. Thực hiện nghiêm túc Chương trình 5 không của thành phố,
trong đó đặc biệt chú trọng Chương trình "không có người nghịên ma tuý trong
cộng đồng". Lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý các cấp thường xuyên khảo sát
đánh giá đùng về tinh hình người nghiện, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền các
cấp có chương trình, kế hoạch quản lý, giáo dục người nghiện theo nhiều hình thức
như tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, vận động các doanh nghiệp giải
quyết việc làm cho đối tượng sau cai. Bên cạnh đó bắt tập trung cai nghiện bắt buộc
đối với những người thường xuyên sử dụng ma tuý, người cố tình tái nghiện được
đẩy mạnh và duy trì thường xuyên góp phần kiểm soát tốt tình hình người nghiện
48
ma tuý trên địa bản thành phố Đà Nẵng, hạn chế nhu cầu về ma tuý để tiến đến
giảm nguồn cung.
Có thể nói trong thời gian qua, vai trò của lực lượng CSND trong phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy đã có sự tập trung quyết liệt, lực lượng CSĐT tội
phạm về ma túy CATP đà Nẵng đã có sự phối hợp với các lực lượng liên quan như
Cảnh sát khu vực, Công an phụ trách xã, nghiên cứu nắm vững đặc điểm tình hình
về dân cư, kinh tế, văn hoá xã hội cũng như nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình
trạng phạm tội về ma tuý, tình hình về người nghiện ma tuý ở địa phương qua từng
thời gian. Đồng thời nghiên cứu những tài liệu trong hồ sơ điều tra cơ bản trên từng
Tuyến, Địa bàn, Lĩnh vực trọng điểm đã được xác lập nhằm chủ động nắm tình hình
về hoạt động của tội phạm về ma tuý, về người nghiện ma tuý, làm cơ sở phát hiện
đối tượng sưu tra, hiềm nghi trên địa bàn, tuyển trọng điểm, phức tạp về ma tuý,
cũng như những sơ hở, thiếu sót của ta trong công tác quản lý Nhà nước về ANTT ở
các địa bàn, tuyến, lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, đề ra biện pháp nghiệp vụ để chủ
động phòng, chống tội phạm về ma tuý nói chung, tội mua bán trái phép chất ma tuý
nói riêng, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác
quản lý của ta, góp phần giữ vững sự ổn định tình hình về ANTT tại địa phương.
2.2.2.2. Thực trạng hoạt động điều tra tội phạm về ma túy của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố Đà Nẵng
Trong thời gian qua, lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành phố
Đà Nẵng đã có nhiều nổ lực trong hoạt động điều tra tội phạm về ma túy và đã đạt
được những kết quả quan trọng. góp phần đáng kể làm cho tình hình tội phạm về
ma tuý ở Đà Nẵng được kìm chế, không để tình hình vượt quá sự kiểm soát. Tình
hình này nằm trong xu thế tăng chung của tội phạm về ma tuý cả nước, bởi chịu sự
tác động quá lớn của tình hình tội phạm về ma túy khu vực và trên thế giới. Đồng
thời, qua đó cũng cho thấy khả năng điều tra khám phá tội phạm của lực lượng
CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành phố Đà Nẵng đã từng bước được nâng lên
và đạt được những kết quả quan trọng.
Để thấy rõ thực trạng hoạt động điều tra tội phạm mua bán trái phép chất ma
tuỷ của lực lượng Cảnh sát diều tra tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng trong thời
49
gian qua, cần tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau:
Tiếp nhận, kiểm tra, xử lý tin báo, tố giác tội phạm về ma tuý
- Tiếp nhận, tin báo, tố giác về tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý Tiếp
nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là bước đầu tiên có ảnh hưởng rất lớn đến
quá trinh điều tra vụ án về sau. Kết quả tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm
mua bán trái phép chất ma tuý giúp Cơ quan điều tra xác định căn cứ ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tổ vụ án hình sự. Việc tiếp nhận, xử lý tin
bảo, tố giác tội phạm về ma tuý phải đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 101, 103
của BLTTHS và Điều 7 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự.
- Kiểm tra xác minh tin báo, tố giác tội phạm về ma túy
Thực tiễn đấu tranh với tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý thời gian qua
cho thấy, tin báo tố giác tội phạm thường có nhiều nguồn, độ tin cậy của từng
nguồn tin có khác nhau do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động. Vi vậy,
việc kiểm tra xác minh tin báo, tố giác là việc làm mang tính nguyên tắc, có kiểm
tra xác định mức độ khách quan của từng nguồn tin đến đầu ta mới có cơ sở xử lý
chính xác.
- Xử lý tin báo, tố giác tội phạm mua bản trái phép chất ma túy
Trên thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý, sau khi tiếp nhận,
xác minh tin báo, tố giác tội phạm lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý các cấp ở
Đà Nẵng thường đưa ra các quyết định như sau: Trường hợp có vụ phạm tội xảy ra,
đối tượng đã rõ thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can để tiến hành
điều tra theo TTHS; Trường hợp vụ án xảy ra, đối tượng phạm tội đã rõ, nhưng căn
cứ các quy định của pháp luật chưa đến mức phải truy cứu trách nhiện hình sự thi
lập hồ sơ đề nghị xử lý hành chính; Trường hợp có vụ án xảy ra, chưa rõ hoặc chưa
bắt được đối tượng phạm tội thì ra quyết định khởi tố vụ án để áp dụng các biện
pháp điều tra phối hợp các lực lượng khác để làm rõ hoặc bố trí lực lượng bắt quả
tang, thu giữ chất ma tuý. Tóm lại, công tác kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội
phạm mua bán trái phép chất ma tuý thời gian qua được lực lượng Cảnh sát điều tra
các cấp tại Đà Nẵng thực hiện tương đối tốt, đảm bảo công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm về ma túy kịp thời, hạn chế những sai sót chủ quan trong công tác
50
lãnh đạo, chỉ đạo cũng như công tác điều tra. Tuy nhiên, do đặc thù của tội phạm về
ma tuý nên tin báo, tố giác thường không đầy đủ, phần nhiều là những thông tin
mang tính cảm quan, thường phản ánh sự việc đã rồi. Chính vì vậy, cán bộ có thái
độ chủ quan, kéo dài, không đặt nặng yếu tổ thời gian tính cho công tác kiểm tra,
ảnh hưởng đến việc đưa ra các kết luận cũng như biện pháp giải quyết tin ở giai
đoạn tiếp theo.
Khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, ngoài những đường dây, tổ chức tội
phạm về ma tuý lớn, phức tạp cần lập chuyên án để phối hợp lực lượng đấu tranh,
triệt phá, thì lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành phố Đà Nẵng
thường áp dụng biện pháp bắt quả tang đối tượng (đánh nóng) bán nhỏ lẽ, sau đó
mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra, với cách đánh nóng này đã hạn chế
đáng kể việc lây lan tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý và người nghiện ma
túy. Nhìn chung, thời gian qua lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành
phố Đà Nẵng thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS trong khởi tố vụ ản,
khởi tố bị can đảm bảo tính pháp lý và phục vụ kịp thời cho công tác đầu tranh
phòng, chống tội phạm về ma tuý không xảy ra sai sót [15]
2.2.3. Thực trạng công tác tham mưu, phối hợp thực hiện giữa các cơ
quan, ban, ngành trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Công tác phối hợp giữa Công an, Bộ đội Biên phòng, Hải quan thành phố
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy
Công an TP Đà Nẵng, Bộ đội Biên phòng TP, Cục Hải quan TP đã phối hợp
chặt chẽ trong tổ chức thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động
xuất nhập khẩu các loại tiền chất, phối hợp chặt chẽ trong việc theo dõi, quản lý, xử
lý các đối tượng tội phạm, đối tượng có biểu hiện lợi dụng hoạt động xuất, nhập
cảnh để thực hiện các hoạt động phạm pháp liên quan đến tệ nạn ma túy trên các
tuyến, địa bàn trọng điểm. Bên cạnh đó, các ngành đã chủ động phối hợp, trao đổi
thông tin các phương thức, thủ đoạn sản xuất, mua bán, tàng trữ, cất giấu, vận
chuyển trái phép chất ma túy, các loại ma túy mới xuất hiện để phục vụ yêu cầu
51
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy.
Các yêu cầu phối hợp được các bên đáp ứng một cách kịp thời, phục vụ tốt
công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống ma túy trên địa bàn thành phố. Qua 05
năm, Công an thành phố, Bộ đội Biên phòng TP, Cục Hải quan TP đã phối hợp bắt
giữ, xử lý 17 vụ, 39 đối tượng phạm tội về ma túy; ngoài ra, Bộ đội biên phòng
thành phố đã khởi tố, chuyển giao CATP xử lý theo thẩm quyền 90 vụ/128 đối
tượng mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ 2.104,77 gam
ma túy các loại
- Công tác phối hợp giữa Công an, Tòa án, Sở Lao động, Thương binh và xã
hội, Sở Y tế trong quản lý, xử lý người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy
Để kịp thời ngăn chặn tình trạng người nghiện gia tăng, Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội phối hợp với Công an thành phố, Sở Y tế, Sở Tư pháp, Tòa
án nhân dân thành phố tham mưu UBND thành phố ban hành Quyết định số
28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 kèm theo Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ
chức cai nghiện trên địa bàn thành phố được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số
26/2017/QĐ-UBND ngày 14/8/2017 làm cơ sở cho lực lượng chức năng tăng cường
công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý người nghiện, qua đó, đã lập hồ sơ đưa nhiều đối
tượng nghiện vào trung tâm cai nghiện bắt buộc, góp phần kiềm chế sự gia tăng
người nghiện và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thành phố.
Công an thành phố chủ động tổ chức tập huấn công tác xử lý hành chính
trong lĩnh vực phòng, chống ma túy cho hơn 400 lượt lãnh đạo, cán bộ, chiến sỹ từ
cấp thành phố đến cấp phường; ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác
phát hiện, xử lý người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy theo đúng quy
định của pháp luật. Thường xuyên phối hợp nắm tình hình, đảm bảo an ninh, trật tự
tại các cơ sở điều trị Methadone, Trung tâm y tế, Cơ sở Xã hội Bầu Bàng không để
tội phạm và người nghiện hoạt động phức tạp, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
Tòa án nhân dân hai cấp thành phố đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công
an, Tư pháp, Lao động, Thương binh, xã hội, Y tế giải quyết các hồ sơ đề nghị xử lý
hành chính áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở cai nghiện bắt
buộc. 05 năm qua, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố đã thụ lý 2.871 trường hợp đề
52
nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính các loại.
2.3. Nhận xét, đánh giá hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm về ma
túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Kết quả đạt được
- Công tác tham mưu:
Công an thành phố đã tham mưu ban hành Quyết định số 28/2014/QĐ-
UBND ngày 06-9-2014 về Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý
trên địa bàn thành phố (Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND); Quyết định số
38/2014/QĐ-UBND ngày 23-10-2014 về việc Quy định mức chi hỗ trợ công tác cai
nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện trên địa bàn thành phố; Quyết định số
7557/QĐ-UBND ngày 23-10-2014 về việc thành lập Cơ sở quản lý người nghiện
không có nơi cư trú ổn định trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian lập hồ
sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Quyết định số 9097/QĐ-
UBND ngày 17-12-2014 về việc thành lập Tổ Công tác thống kê người nghiện ma
tuý trên địa bàn thành phố; Công văn số 11192/UBND-VX ngày 06-12-2014 về chỉ
đạo thực hiện một số nội dung về lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy; Quyết
định số 4967/QĐ-UBND ngày 09-9-2017 của Ủy ban nhân dân thành phố về phê
duyệt Đề án chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn
thành phố đến năm 2020; Kế hoạch số 6381/KH-UBND ngày 16-8-2017 triển khai
thực hiện Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07-4-2017 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020; Kế hoạch số
1823/KH-UBND ngày 17/3/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố về thực hiện Đề
án “Truyền thông về phòng, chống ma túy trên các phương tiện thông tin đại
chúng” thuộc Chương trình phòng chống ma túy của Chính phủ đến năm 2020 trên
địa bàn thành phố; Kế hoạch số 1722/KH-UBND ngày 14/3/2018 của Ủy ban nhân
dân thành phố về phòng chống mại dâm, cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện,
xây dựng xã phường lành mạnh, tiếp nhận, xác minh và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán.
Kế hoạch số 319/KH-CATP-PV11 ngày 10/9/2014 của Giám đốc CATP chỉ
đạo thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương tổ chức phổ biến, quán triệt Chỉ thị
37-CT/TU đến toàn thể cán bộ, đảng viên; Quy chế số 17-QC/ĐUBP của Đảng ủy
53
Biên phòng thành phố về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy
và tội phạm khác; Hướng dẫn số 03/HD-BTV ngày 16/3/2015 về “Triển khai thực
hiện Chỉ thị số 37-CT/TU ngày 20/8/2014 của Thành ủy Đà Nẵng về tiếp tục tăng
cường, chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa
bàn thành phố”; Kế hoạch số 22-KH/ĐU ngày 11/9/2014 của Đảng ủy quân sự
thành phố về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống tội phạm và ma
túy; Kế hoạch số 84/KH-UBND ngày 30/9/2014 của Ban chỉ đạo quận Ngũ Hành
Sơn về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trong phòng chống kiểm soát tội phạm và tệ
nạn ma túy trên địa bàn; Kế hoạch số 121/KH-UBND của Ban chỉ đạo quận Hải
Châu về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trong phòng chống kiểm soát tội phạm và tệ
nạn ma túy; Kế hoạch số 72/KH-UBND ngày 22/9/2014 của Ban chỉ đạo quận Sơn
Trà về triển khai thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành ủy; Kế hoạch số 08/KH-
STC ngày 20/02/2015 của Sở Tài Chính về thực hiện phong trào Toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc; Công văn 898-CV/QU ngày 25/9/2014 của Ban Thường vụ Quận
ủy chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quận xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 37 tại cơ quan, đơn vị, địa
phương; …
- Công tác phòng ngừa: Phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi của cuộc đấu tranh chống tội phạm và đây là trách nhiệm của các cấp, các
ngành và của toàn xã hội. Thời gian qua, vai trò của lực lượng CSND nói chung, lực
lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng nói riêng đã phát huy vai trò nòng
cốt, tham mru kịp thời cho cấp uỷ, chính quyền các cấp xây dựng được thế trận
phòng, chống tội phạm rộng khắp, với từng biện pháp cụ thể, bước đầu đã đem lại
hiệu quả rõ nét. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
sở, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể triển khai nhiều kế hoạch, biện pháp công tác với
tinh thần quyết liệt, nghiêm túc, huy động được sức mạnh của cán bộ, đảng viên,
nhân dân và cả hệ thống chính trị tham gia nên công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm và tệ nạn ma túy đạt được nhiều kết quả quan trọng, tình hình tội phạm và tệ
nạn ma túy được kiềm chế, không để xảy ra “điểm nóng”, phức tạp về an ninh trật
tự liên quan đến ma túy.
54
+ Công tác tuyên truyền phòng chống ma túy được thực hiện thường xuyên
với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng địa bàn, đối tượng;
nhiều mô hình phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy hiệu quả đã được nhân rộng,
phát huy. Từ đó khơi dậy tinh thần trách nhiệm của người dân trong việc tham gia
tích cực phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn thành phố.
+ Trách nhiệm của các cấp, các ngành được nâng cao, thể hiện qua việc tham
gia ký kết các quy chế, xây dựng các phong trào phòng, chống ma tuý ở địa phương,
cơ quan, tổ chức, tình trạng thờ ơ vô trách nhiệm hoặc đùn đẩy công việc đã được
chẩn chỉnh, khắc phục.
+ Công tác cai nghiện được tổ chức tốt, phù hợp với từng loại đối tượng.
Người mới nghiện được tư vấn, người sau cai được giới thiệu việc làm, được cho
vay vốn kinh doanh, người tái nghiện có hình thức xử lý nghiêm khắc bằng việc thu
gom triệt để, nhờ đó địa bàn được trong sạch, không hình thành các tụ điểm tổ chức
sử dụng chất ma tuý, nguồn cầu về ma tuý được hạn chế.
Nhận thức về công tác NVCB trong lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy
được nâng cao. Việc tổ chức triển khai vận dụng có chiều sâu, luôn chủ động năm
chắc được tinh hình địa bàn, đối tượng, tuyến, lĩnh vực, hệ loại, không để bị động.
bắt ngờ.
+ Biện pháp tuần tra kiếm soát thường xuyên được duy trì, phát huy được
sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng trong ngành Công an như: Cảnh sát bảo vệ
và hỗ trợ tư pháp, Cảnh sát QLHC về TTXH, Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH,
lực lượng ngoài ngành như: Bộ đội Biên phòng, Dân phòng, Dân quân tự vệ, Ban
Bảo vệ dân phổ...qua đó đã kịp thời phát hiện, xoá nhiều điểm phức tạp về tệ nạn
ma tuỷ, bắt nhiều đối tượng mua bán lẻ, đối tượng sử dụng trải phép chất ma tuỷ,
góp phần làm trong sạch địa bàn.
Công tác điều tra tội phạm về ma túy:
Công tác điều tra, khám phá các vụ án phạm tội về ma túy đạt tỷ lệ cao,
nhiều vụ án phức tạp được đấu tranh, làm rõ. Công tác truy tố, xét xử luôn đảm bảo
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và kịp thời, không để xảy ra
oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Thủ tục áp dụng các biện pháp hành chính liên quan
55
đến ma túy được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
+ Tất cả các thông tin về tội mua bán trái phép chất ma tuý đều được tiếp
nhận, kiểm tra, xử lý đúng quy trình, do vậy, việc khởi tố đảm bảo về thời gian,
trình tự, có sự phê chuẩn của VKSND cùng cấp, khởi tố đúng người, đúng tội danh,
thuận lợi cho hoạt động điều tra tiếp theo.
+ Việc bắt người, khám xét người, chỗ ở, đồ vật... được thực hiện theo đúng
quy định của Bộ luật TTHS, khi có đủ căn cứ thì tiến hành ngay, không để người
phạm tội có thời gian bỏ trốn, tiêu huỷ chứng cứ. Việc bắt, khám xét có sự phối hợp
của chính quyền địa phương, có người chứng kiến, tài sản, vật chứng tạm giữ thể
hiện rõ ràng trong biên bản về đặc điểm, số lượng, đối với vật chứng là chất ma tuý
deu dược niêm phong có các thành phần liên quan ký xác nhận, không để mất mát
hoặc hư hỏng làm giảm giá trị chứng minh.
+ Các vụ án có thu giữ chất nghi là ma tuý đều được trưng cầu giám định kịp
thời để xác định tính chất, trọng lượng, hàm lượng, đồng thời truy nguyên nguồn
gốc chất ma tuý. Lãnh đạo cấp phòng và quận thường trực tiếp chỉ đạo tại hiện
trường, do đó việc thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng không có trường hợp
sai sót;
+ Lấy lời khai người làm chứng đàm bảo khai thác đầy đủ nội dung thông tin
đúng trình tự, thủ tục. Hầu hết việc lấy lời khai được kết hợp giữa việc ghi lời khai
và yêu cầu viết tường thuật, đảm bảo tính khách quan. Cán bộ điều tra luôn đề nghị
người làm chứng trình bày cơ sở mà họ biết về việc, người đó theo đúng quy định
của Bộ luật TTHS. Hoạt động này trong thời gian qua được lực lượng CSĐT tội
phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng tiến hành có hiệu quả nhờ có sự chỉ đạo, lãnh đạo
sâu sát và sự tận tuy, tinh thần trách nhiệm cao của Điều tra viên thụ lý án. Bên
canh đó, người làm chứng trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại Đà
Nẵng có nét đặc thù riêng vì hầu hết họ là người nghiện ma tuý, sau khi sa ngã,
nghiện ngập luôn được điều tra viên phân tích rõ nguyên nhân đưa đẩy họ đến lầm
lỗi nầy, cũng như chính sách của chính quyền thành phố đối với người có đóng góp
cho công tác giữ gìn ANTT thì họ ý thức và sẵn sàng hợp tác, khai báo đầy đủ
những hiểu biết của họ về đối tượng cung cấp ma tuý, đồng thời đối tượng mua bán
56
ma tuý bị bắt phần lớn là người địa phương, người đã từng nghiện ma tuý, do vậy
thường là người làm chứng biết nhiều thông tin về các đối tượng này, có khi quen
biết, vì vậy khi được vận động, giải thích người làm chứng khai báo thông tin có độ
chính xác cao.
- Nguyên nhân của kết quả đạt được:
+ Nhờ có sự quan tâm lãnh đạo của các câps ủy, chính quyền, đặc biệt là sự
chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Đảng uỷ, Giám đốc Công an thành phố Đà Nẵng đã
giúp cho lực lượng CSND nói chung lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy nói riêng
có định hướng rõ ràng trong việc xây dựng và triển khai thực hiện thắng lợi các kế
hoạch, chương trình công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý theo chức
năng nhiệm vụ được giao.
+ Với vai trò và trách nhiệm của lực lượng CSND - Công an thành phố Đà
Nẵng thời gian qua đã thể hiện lòng quyết tâm, tinh thần trách nhiệm cao trước công
việc. Hầu hết CBCS không quản ngại khó khăn gian khổ, hiểm nguy, phát huy
những kiến thức nghiệp vụ, pháp luật đã được trang bị, những kỷ năng, kinh nghiệm
vào trong công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý tội phạm về ma túy.
+ Một nguyên nhân quan trọng góp phần đem lại kết quả to lớn trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý của lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý
CATP Đà Nẵng là sự phối hợp đầy tinh thần trách nhiệm của các lực lượng nghiệp vụ
liên quan trong Công an thành phố Đà Nẵng, Công an các xã, phường, các ban ngành
đoàn thể trên địa bàn thành phố, đặc biệt là lòng tin yêu, giúp đỡ của nhân dân.
2.3.2. Về các hạn chế, thiếu sót
- Mặc dù đã được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
nhưng một số đơn vị, địa phương chưa nêu cao quyết tâm, tinh thần trách nhiệm
trong công tác phòng, chống ma túy nên tình trạng người nghiện, người sử dụng trái
phép chất ma túy vẫn còn ở mức cao, trẻ hóa và gia tăng qua các năm. Nhiều địa
phương chưa quan tâm đúng mức đến công tác phòng ngừa, chỉ tập trung phát hiện
điều tra xử lý. Hạn chế đó được thể hiện:
+ Hoạt động phòng ngừa xã hội có triển khai nhưng mang tính dàn trải, thiếu
giải pháp hữu hiệu, thiếu kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm. Điều đó thể hiện qua
57
hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật với nội dung còn khô khan, chỉ chú trọng
nâng cao nhận thức chứ không đi sâu tuyên truyền nhằm thay đổi hành vi;
+ Công tác đấu tranh với tội phạm ma túy tuy có nhiều cố gắng nhưng các
lực lượng chức năng chưa phát hiện được các đường dây, đầu nậu ma túy lớn mà
chủ yếu là các vụ nhỏ, lẻ trong khi tình hình ma túy diễn biến ngày càng phức tạp.
+ Các quy chế phối hợp, các kế hoạch liên tịch về phòng, chống tội phạm
giữa lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng với các Sở, Ban, Ngành chưa được
triển khai thực hiện đồng bộ, nhiều lĩnh vực ở cấp quận, huyện chưa có quy chế
phối hợp hoặc có nhưng mang tính hình thức, không có sự chỉ dạo, hướng dẫn của
cấp trên nên công tác phối hợp còn lúng túng, thời vụ;
+ Mặc dù có sự đầu tư mạnh mẽ, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, nhưng
công tác quản lý người nghiện, dạy nghề, tạo việc làm chưa thực sự hiệu quả, hiện
tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm còn xảy ra; Chưa kịp thời phát hiện số người
nghiện mới phát sinh, tình trạng tái nghiện còn nhiều, đây là nguồn bổ sung đáng kể
cho tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý.
+ Công tác phòng ngừa nghiệp vụ chưa phát huy hết được hiệu quả, nếu có
thực hiện, cũng chỉ chạy theo chỉ tiêu, thành tích, chưa thực sự đi vào chiều sâu,
thậm chí hiện nay vẫn còn nhiều địa bàn, tuyến, lĩnh vực, hệ loại đối tượng phức tạp
về ma tuý chưa được mở hồ sơ điều tra cơ bản; Việc trao đổi thông tin giữa trinh sát
với CSKV về đối tượng sưu tra chưa thường xuyên, nên nhiều trường hợp không
quản lý được đối tượng: Chưa tập trung tiến hành sưu tra đối với số đối tượng các
tỉnh khác vào thành phố Đà Nẵng mua bán ma tuý.
+ Việc khởi tố vụ án, bị can còn xảy ra sai sót về xác định tội danh, nhiều
trường hợp không phân biệt được hành vi nên bị can chỉ phạm tội mua bán trái phép
chất ma tuý nhưng khởi tố gộp nguyên ba tội trong Điều 194 BLHS là: " Tàng trữ,
vận chuyển, mua bản trái phép chất ma tuý”, dẫn đến nhiều trường hợp phải thay
đổi quyết định khởi tố; Nhiều trường hợp đối tượng bị bắt quả tang, có đầy đủ vật
chứng, lời thú nhận của người bị bắt, lời khai người làm chứng nhưng ĐTV vẫn chờ
kết luận giám định chất ma tuý mới khởi tố.
+ Công tác trưng cầu giám định chưa thực sự kịp thời
58
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót
+ Một số cấp ủy, chính quyền các cấp, các đơn vị, địa phương chưa quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo, chưa có kế hoạch, biện pháp thực hiện cụ thể nên quá trình thực
hiện chưa đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.
+ Công tác tiếp nhận, kiểm tra, xử lý tin báo tội phạm về ma tuý ở một số địa
phương chưa đảm bảo đúng quy trình, chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người
dân cung cấp tin, một số trường hợp gây phiền hà hoặc xác minh giải quyết kéo dài
không tạo được sự đồng tình trong nhân dân.
+ Sự phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an thành phố
Đà Nẵng với các lực lượng khác trong Công an thành phố, cũng như với các ngành,
các cấp trong công tác phòng ngừa, điều tra xử lý tội phạm về ma túy, có lúc, có nơi
chưa thật sự hiệu quả, hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm phòng, chống ma tuý, quản
lý người nghiện cho lực lượng Công an chuyên trách còn xảy ra.
+ Lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý cấp quận, huyện chưa có nhiều cán
bộ có kinh nghiệm trong việc nghiên cứu triển khai các biện pháp công tác nghiệp
vụ chuyên sâu trong phòng ngừa, điều tra xử lý tội phạm về ma tuý.
+ Hoạt động của tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, nguy hiểm,
luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn và địa bàn hoạt động; thậm chí họat động liên
tỉnh, xuyên quốc gia, có sự liên kết chặt chẽ giữa trong và ngoài địa bàn hoạt động
phạm tội với cách thức cực kỳ tinh vi, khó phát hiện; công cụ, phương tiện phạm tội
ngày càng hiện đại, gây khó khăn cho công tác phát hiện, đấu tranh, xử lý.
+ Nguồn cung ma túy ngày càng gia tăng cả về số lượng, chủng loại; nhiều loại
ma túy mới xuất hiện nhưng chưa có chế tài xử lý, chưa có phác đồ điều trị ma túy tổng
hợp. Đối tượng loạn thần do lạm dụng chất ma tuý có hành vi rất manh động, dễ có
hành vi gây hấn, đập phá, đánh người, phá hỏng tài sản công.
+ Công tác cai nghiện chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ tái nghiện cao là nguồn bổ
sung tội phạm đáng kể cho tội phạm về ma tuý. Việc giải quyết sau cai nghiện, giúp
người nghiện tái hòa nhập cộng đồng, có việc làm, cuộc sống ổn định đang là vấn
đề cần đánh giá lại chất lượng và hiệu quả. Với "Chương trinh 5 không", Thành phố
Đà Nẵng tập trung giải quyết tốt vấn đề người nghiện, giảm đáng kể nguồn cầu về
59
ma tuý bằng việc làm cụ thể là khuyến khích cá nhân, cơ quan, tổ chức tố giác với
chính quyền về người nghiện sẽ được thưởng về vật chất, công tác cai nghiện tập
trung được thực hiện quyết liệt nên số đối tượng nghiện ngoài cộng đồng không
nhiều. Tuy nhiên, do việc Nhà nước bao cấp toàn bộ cho công tác chăm sóc, chữa
bệnh cho người cai nghiện tập trung nên người nghiện ở các địa phương khác đến
thành phố Đà Nẵng sử dụng ma tuý để tìm cơ hội được bắt tập trung cai nghiện, từ
đó tinh hình người nghiện nấy sinh những vấn đề phức tạp.
+ Hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn chưa hoàn thiện, nhiều trường
hợp gây khó khăn cho công tác phòng ngừa, điều tra xử lý tội phạm về ma tuý.
Kết luận Chương 2
Ở chương 2 của luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: tổng hợp, phân tích, nghiên cứu, so sánh, báo cáo chuyên đề, tập trung phân
tích, làm sáng tỏ đặc điểm tình hình phạm pháp hình sự, thực trạng của tình hình tội
phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020.
Tác giả cũng đã nêu được thực trạng tổ chức lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy. Đồng thời, tác giả đã nghiên cứu,
phân tích, đánh giá một cách cụ thể về sự thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng thông qua công tác tham mưu, hướng dẫn; tuyên truyền, phát động toàn dân
tham gia phòng chống ma túy; công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm về ma
túy; công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát nhân dân với các lực lượng khác
trong hoạt động phòng ngừa.
Đồng thời tác giả cũng đã nêu bật được các kết quả đã đạt được trong công
tác phòng ngừa tình hình tội phamn về ma túy; bên cạnh đó cũng đã đánh giá được
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Qua đó có thể
khẳng định, những kết quả đạt được tại chương 2 sẽ là tiền đề để tác giả đưa ra
những dự báo và đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới tại chương 3 của luận văn.
60
CHƯƠNG 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.1.1. Cơ sở dự báo
Trong thời gian tới, do tình hình tệ nạn ma túy tại khu vực và thế giới tiếp tục
diễn biến phức tạp, các đối tượng vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma
túy lợi dụng Việt Nam để làm địa bàn tiêu thụ, trung chuyển ma túy đi các nước
khác qua các cửa khẩu, trong đó có thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, dự báo trong thời
gian tới, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố vẫn còn diễn
biến phức tạp, có xu hướng gia tăng với phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn
tội phạm ngày càng tinh vi, liều lĩnh, manh động hơn. Không loại trừ việc các đối
tượng phạm tội lợi dụng hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu hợp pháp để tổ chức
sản xuất và vận chuyển ma túy xuyên quốc gia qua Đà Nẵng. Tình trạng người
nghiện, người sử dụng ma túy gia tăng sẽ kéo theo các loại tội phạm về ma túy và
các loại tội phạm khác gia tăng là nguy cơ gây mất an ninh trật tự. Trong đó, số
người sử dụng ma túy tổng hợp bị loạn thần cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây nguy
hại cho gia đình và xã hội.
- Trong xu thế mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập và phát triển, Việt Nam là
một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, điều kiện về kinh tế và
xã hội không ngừng được cải thiện, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam thu
hút sự quan tâm ngày cảng nhiều của bạn bè quốc tế. Chính vì vậy, nguồn khách du
lịch từ các nước vào nước ta sẽ không ngừng tăng cao. Trong khi đó, Đà Nẵng giữ
vị trí trọng tâm của tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, với trục giao thông đường
bộ nối liền Việt Nam – Lào – Thái Lan - Myanma mà điểm xuất phát có Cảng Tiên
sa, sân bay quốc tế Đà Nẵng, đồng thời Đà Nẵng nằm trong con đường miền Trung
61
hành trình di sản, nối liền ba tỉnh Thừa Thiên Huế - thành phố Đà Nẵng – tỉnh
Quảng Nam, nới có ba di sản văn hoá thế giới. Nên thành phố Đà Nẵng trở thành
trung tâm giao lưu buôn bán, hợp tác làm ăn, tham quan du lịch của du khách các
nước Asean, Châu Á và trên thế giới cũng như du khách nội địa. Và đây cũng là
điều kiện, là cơ hội mà bọn tội phạm về ma tuý trong nước và quốc tế có thể lợi
dụng để hoạt động.
- Cùng với sự phát triển của cả nước, trong những năm qua thành phố Đà
Nẵng không ngừng được đầu tư và phát triển, xứng đáng là trung tâm về kinh tế,
văn hoá – xã hội của miền Trung. Từ đó thu hút sự di cư của tầng lớp thanh niên
trong khu vực do nhu cầu tìm việc làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
dự án, các công trinh cũng như nhu cầu về đây học tập, nghiên cứu khoa học. Sự
biến động đó tạo cho mật độ dân cư của thành phố ngày càng đông, điều này sẽ gây
khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đó là công tác quản lý hộ
khẩu, nhân khẩu, quản lý tạm trú, quản lý đối tượng phạm tội hoạt động lưu động,
đối tượng trong các đường dây, tổ chức tội phạm hoạt động liên tinh, đối tượng có
quyết định truy nã...
- Cũng như cả nước, thành phố Đà Nẵng đã và đang chịu ảnh hưởng bởi tình
hình tội phạm về ma tuý trên thế giới và trong khu vực ngày càng tăng. Tầng lớp
thanh niên tìm đến các loại ma tuý mới ngày một nhiều, làm cho số người nghiện
ma tuý không những không giảm mà càng có xu hướng gia tăng khó kiểm soát. Từ
đó tạo ra nguồn cầu rất lớn về ma túy, kích thích tội phạm mua bán trái phép chất
ma tuý phát triển, gây khó khăn cho công tác đấu tranh, phòng ngừa.
Từ đó cho thấy, trong thời gian tới công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
về ma tuý tại địa bàn thành phố Đà Nẵng sẽ là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức
tạp và lâu dài.
3.1.2. Nội dung dự báo
Từ những cơ sở dự báo nói trên, có thể dự báo tình hình tội phạm vể ma tuý
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm tới như sau:
Trong thời gian tới, người phạm tội về ma tuý trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng sẽ có sự thay đổi về thủ đoạn hoạt động phạm tội. Những nhười này sẽ khai
62
thác triệt để các thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào quá trình phạm tội,
đối phó mạnh mẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật; có sự câu kết các đối tượng
trong nước với các đối tượng nước ngoài, móc nối với các cán bộ trong cơ quan bảo
vệ pháp luật và không loại trừ các quan chức cao cấp trong các cơ quan bảo vệ pháp
luật và cơ quan phòng, chống ma tuý. Xuất hiện các vụ nhập lậu tiền chất và các
hoá chất cùng với việc lợi dụng sơ hở trong quản lý tiền chất để sản xuất trái phép
chất ma tuý.
Trong những năm tới, tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý vẫn chiếm tỷ
lệ cao nhất trong nhóm các tội phạm về ma tuý bị phát hiện. Về quốc tịch hầu hết
vẫn là người mang quốc tịch Việt Nam, nhưng trong những năm tới sẽ gia tăng các
đối tượng trong đường dây là người gốc Phi, gốc Á, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài về nước thăm thân, du lịch…hoạt động phạm tội. Tỷ lệ nam giới vẫn ở
mức cao hơn so với nữ phạm tội này, điều này xuất phát từ tính chất của tội phạm
mua bản ma tuý luôn manh động, liều lĩnh, cần thể chất cho hoạt động di chuyển
liên tục. Thành phần không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, số có tiên
án, tiền sự phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý vẫn ở mức cao hơn các thành
phần khác.
Vẫn có sự móc nối giữa bọn tội phạm ở ngoài xã hội với đối tượng tiêu cực
trong các cơ sở quản lý, sản xuất, chế biến thuốc tân dược gây nghiện cũng như các
hoá chất trong các cơ sở y dược, phòng thí nghiệm và các cơ sở công nghiệp hoá
chất. Nhiều loại ma túy, tiền chất sẽ được móc nối đưa ra thị trường tự do từ các cơ
sở dược phẩm, các cơ sở chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và các cơ sở công nghiệp
hoá chất. Ngoài ra, nhiều chủng loại ma tuý, đặc biệt là ma tuý tổng hợp phổ biến ở
các nước châu Âu và châu Mỹ sẽ lan truyền nhanh chóng vào Việt Nam. Vì vậy,
cuộc chiến chống ma tuý ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng nói riêng ngày càng
quyết liệt và phức tạp hơn.
Với cơ chế sử dụng tiền mặt như hiện nay, mặc dù có sự quản lý chặt chẽ,
nhưng Việt Nam vẫn là nơi thuận lợi để tội phạm về ma tuý thông qua các hoạt
động ngân hàng và đầu tư kinh tế để rửa tiền thu được từ phạm tội về ma tuý.
Ở thành phố Đà Nẵng, địa bàn trọng điểm nhất vẫn là các quận Hải Châu,
63
Thanh Khê, Sơn Trà, Liên Chiểu, nơi tập trung các vũ trường, quán bar, các trung
tâm thương mại, các trường Đại học, các khu công nghiệp và các khu chế xuất.
Tuyến mua bán, vận chuyển trái phép ma tuý cũng tập trung tuyến đường bộ, tuyến
đường sắt Bắc - Nam và các tuyến trong nội thành. Trong năm 2020 Công an thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội tập trung đánh mạnh các đường dây vận chuyển ma tuý
qua sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Nội Bài, thời gian tới không loại trừ khả năng
bọn tội phạm sẽ lợi dụng sân bay quốc tế Đà Nẵng để vận chuyển ma tuý qua Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Úc..
Người nghiện ma tuý có chiều hướng “trẻ hoá” đặc biệt là thanh thiếu niên.
học sinh, sinh viên. Số người sử dụng trái phép chất ma tuý tổng hợp xu hướng tăng
nhanh trong thời gian tới do tác động của việc sản xuất trái phép chất ma tuý tổng
hợp từ các nước trong khu vực ảnh hưởng đến nước ta, trong đó có thành phố Đà
Nẵng.
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân
trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền trong chỉ
đạo công tác phòng, chống ma tuý
Công tác phòng, chống ma tuý trong tình hình hiện nay, đòi hỏi phải có sự
tham gia của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Muốn huy động được sức mạnh
tổng hợp ấy đòi hỏi công tác phòng, chống ma tuý phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, ở địa phương nào thì cấp uỷ và chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo sâu
sát thì phong trào ở đó đạt hiệu quả cao.
Trong những năm qua, công tác phòng, chống ma tuý tại thành phố Đà Nẵng
được đánh giá là có hiệu quả. Với sự tham mưu của lực lượng Công an mà nòng cốt
là sự tham mưu của lực lượng CSND cho Đảng Bộ và Chính quyền các cấp của
thành phố ban hành nhiều chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện Chương trình
quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma tuý của Chính phủ được nhân
dân đồng tình ủng hộ. Để phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị trong công tác phòng, chống ma tuý, vai trò của lực lượng CSND phải
64
được thể hiện rõ nét, trong đó phải chủ động nắm tình hình về mọi mặt, tăng cường
công tác tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền đề ra nghị quyết, chỉ thị, kế
hoạch, chương trình hành động cụ thể phù hợp trong từng giai đoạn, từng địa bàn,
phân công trách nhiệm cho từng cấp, từng ngành trong công tác phòng, chống ma
tuý, có như vậy công tác phòng, chống ma tuý mới đem lại hiệu quả. Giải pháp này
đòi hỏi lực lượng CSND Công an thành phố Đà Nẵng tham mưu cho Thành uỷ,
UBND, Giám đốc CATP thực hiện các nội dung sau:
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW và Kết luận số 95-
KL/TW của Ban Bí thư (khoá XI) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW của
Bộ Chính trị (khoá X) “Về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng,
chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính
trị vừa mới ban hành (khoá XIII) “Về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống và kiểm soát ma túy”; Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở
Việt Nam đến năm 2020 theo Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của
Thủ tướng Chính phủ, đồng thời thực hiện chủ trương đa dạng hóa, xã hội hóa công
tác cai nghiện ma túy của Chính phủ; Chỉ thị 37-CT/TU ngày 20-8-2014 của Ban
Thường vụ Thành ủy về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng,
chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Quyết
định số 28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 của UBND thành phố và Quyết định
số 26/2017/QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung Quyết định 28/2014/QĐ-UBND về Quy
chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố và các
Kế hoạch chuyên đề về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa
bàn thành phố. Kế hoạch số 333/KH-CATP-PTM-PCSMT ngày 25/02/2019 của
Giám đốc CATP về rà soát, thống kê, lập hồ sơ, nhập số liệu, thông tin vào phần
mềm quản lý người nghiện, người sử dụng ma túy trên địa bàn thành phố; Kế hoạch
số 109/KH-CATP-PTM ngày 26/02/2019 của Giám đốc CATP về phòng ngừa, đấu
tranh, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh
doanh trò chơi điện tử có thưởng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Kế hoạch số
222/KH-CATP-PTM ngày 29/3/2019 của Giám đốc CATP về phòng chống tội
65
phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến các vũ trường, quán bar, quán karaoke,
pub... trên địa bàn thành phố; Kế hoạch số 2197/KH-CATP-PV11-PC47 ngày
23/11/2016 của Giám đốc Công an thành phố Đà Nẵng về phòng chống đối tượng
có biểu hiện loạn thần trên địa bàn thành phố; Kế hoạch số 911/KH-CATP-PTM
ngày 24/12/2018 về tổ chức lực lượng tuần tra, chốt chặn kiểm soát an ninh trật tự
trên địa bàn thành phố…
- Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống ma túy. Nghiên cứu
xây dựng phong trào với nhiều hình thức phong phú để vận động quần chúng tham
gia phòng chống ma tuý ở địa bàn cơ sở, nhằm giáo dục nhân dân ý thức phát hiện,
tố giác tội phạm, tham gia quản lý giáo dục người nghiện, người trong diện quản lý
sau cai, góp phần thực hiện thắng lợi các Đề án trong Chương trình mục tiêu quốc
gia phòng, chống ma tuý đến năm 2030 của Chính phủ: Xây dựng xã, phường, thị
trấn, khu dân cư không có tệ nạn ma tuý, xoá bỏ việc trồng và tải trồng cây có chứa
chất ma tuý, đối với các vùng nông thôn, miền núi thuộc huyện Hoà Vang; nâng cao
hiệu quả công tác cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai...theo Chương trình mục tiêu
của Chính phủ;
- Thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm
vụ, giải pháp được đề ra trong Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma
tuý đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 và Đề án thực hiện mục tiêu
“Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”; tăng cường thực hiện chức năng giám sát
công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý, qua đó kiểm điểm, xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu cấp uỷ, lãnh đạo các đơn vị, địa phương thiếu trách nhiệm để
xảy ra tình trạng phức tạp về ma tuý.
- Kiện toàn các ban chỉ đạo phòng, chống ma tuý từ cấp thành phố đến cấp
cơ sở để nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan thường trực này. Trước mắt
cần khảo sát đánh giá năng lực của đội ngũ cán bộ hiện tại, tăng cường cán bộ có
trình độ, có năng lực tham mưu theo hướng ưu tiên cho cơ sở, đánh giá hiệu quả sử
dụng các nguồn kinh phí của Nhà nước cấp cho hoạt động phòng, chống ma tuý,
chống thất thoát, lãng phí;
66
- Định kỳ tổ chức sơ, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế
hoạch phòng, chống và kiểm soát ma tuý, qua đó phát hiện khen thưởng những cá
nhân, tập thể có thành tích để kịp thời động viên phong trào, đồng thời phát hiện
khắc phục những tồn tại, sơ hở trong công tác quản lý điều hành và tổ chức thực để
khắc phục nhằm duy trì hiệu quả của phong trào.
3.2.2. Đổi mới hình thức và biện pháp công tác tuyên truyền giáo dục về
phòng chống ma tuý
Công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý cũng là sự nghiệp của toàn dân,
muốn biến sức mạnh của nhân dân thành vũ khi để đẩy lùi tệ nạn ma tuý ra khỏi đời
sống xã hội thì một tất yếu khách quan là chúng ta phải tuyên truyền, vận động.
Công tác tuyên truyền là một khâu vô cùng quan trọng, vì qua đó đưa đường lối,
quan điểm, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng,
chống ma tuý đến tận người dân, làm cho mỗi người dân ý thức được trách nhiệm
của mình, thấy được tác hại của ma tuý đối với cá nhân và cộng đồng, từ đó nâng
cao ý thức của toàn dân trong công tác phòng, chống ma tuý. Để thực hiện giải pháp
đó, lực lượng CSND Công an thành phố Đà Nẵng phải tiến hành:
- Tiếp tục đổi mới và tăng cường hoạt động tuyên truyền phòng, chống ma
tuý có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng loại đối tượng, địa bàn, chú trọng các
đối tượng có nguy cơ cao và địa bàn phức tạp về ma tuý. Kịp thời phát hiện, nhân rộng
các mô hình hiệu quả, điển hình tiên tiến trong công tác đấu tranh phòng, chống ma
túy. Đầu tư nguồn lực, thực hiện truyền thông bằng hình ảnh, phim phóng sự, tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, không gian mạng… Đồng thời, đẩy
mạnh công tác tư vấn cho bản thân và gia đình người có liên quan đến tệ nạn ma túy tự
nguyện đăng ký hình thức cai nghiện phù hợp.
- Xây dựng đề cương tuyên truyền phòng, chống ma tuý có nội dung thống
nhất, cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, tránh trừu tượng, chung chung. Nội dung tuyên truyền
phải làm cho mọi người dân hiểu được thế nào là ma tuý, tác hại nhiều mặt của ma
tuý, cách nhận biết ma tuý, biết phương thức, thủ đoạn dụ dỗ, lôi kéo con người tới
nghiện ma tuý, biết những biểu hiện sớm nhất của người nghiện, qua đó giúp mọi
người dân trong xã hội nhất là các bậc phụ huynh, các thầy giáo, cô giáo, thủ trưởng
67
các cơ quan xí nghiệp... cảnh giác phòng ngừa phát hiện sớm người nghiện ma tuý
và tội phạm ma tuý; phải truyền tải được quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước trong phòng, chống và kiểm soát ma tuý, trách nhiệm của cá nhân,
cộng đồng, cơ quan, tổ chức;
- Đa dạng hoá hình thức tuyên truyền để thu hút sự chú ý của nhân dân, như
tuyên truyền trực tiếp thông qua tập huấn, hội họp, nói chuyện chuyên đề, mít tinh,
hội thảo và tuyên truyền miệng thông qua hệ thống cộng tác viên, tuyên truyền viên
cũng cần được chú trọng, nhằm phát huy vai trò của các cơ quan đoàn thể xã hội
trong việc tuyên truyền vận động nhân dân. Ngoài việc tuyên truyền theo chiều rộng
cần tuyên truyền theo chiều sâu sát hợp với từng loại đối tượng như: Cán bộ quản
lý, lãnh đạo, đối tượng nghiện ma tuý, đổi tượng tham gia hoạt động buôn bán, vận
chuyển, tàng trữ ma tuỷ, bởi vì mỗi nhóm đối tượng có cách thức tiếp cận và trình
độ nhận thức khác nhau.
- Lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý cấp quận, huyện phải phân công cán
bộ theo dõi từng xã, phường, phối hợp với CSKV, Công an phụ trách xã đẩy mạnh
việc xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ ANTQ, xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư, xây dựng xã, phường, khu dân cư không có tệ nạn ma tuý, địa
bàn nào để tình hình phức tạp thì cán bộ phụ trách phải chịu trách nhiệm; duy trì
việc thực hiện Quy chế phối hợp về bảo vệ ANTT trong các trường học và cơ sở
giáo dục của CATP và Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng, đưa chương trình phòng,
chống ma tuý vào trường học và cơ sở giáo dục để phòng ngừa HSSV tham gia tệ
nạn ma tuý. Đặc biệt chú ý vận động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đoàn thể ở
cơ sở trong công tác cảm hoá, giáo dục người lầm lỗi, người trong diện quản lý sau
cai, người có tiền án, tiền sự tại địa phương. Rà soát, bổ sung hoặc xây dựng mới
các quy chế phối hợp, các kế hoạch liên tịch giữa Công an với các ban, ngành đoàn
thể, cơ quan, tổ chức trong công tác phòng, chống tệ nạn ma tuý. Thường xuyên
duy trì việc sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền
vận động nhân dân, phát hiện khen thưởng, nhân điển hình tiên tiến những tập thể,
cá nhân có thành tích trong phong trào bảo vệ ANTQ để động viên, khích lệ nhân
dân tham gia.
68
3.2.3. Tăng cường quản lý người nghiện và đảm bảo công tác cai nghiện
đạt hiệu quả phòng ngừa cao
Thường xuyên rà soát, kiểm danh, kiểm diện các đối tượng có biểu hiện hoạt
động phạm tội về ma túy, người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, đối
tượng cai nghiện từ Cơ sở xã hội Bầu Bàng trở về, nhất là số đối tượng nghiện, sử
dụng trái phép chất ma túy có tiền án, tiền sự, có biểu hiện hoạt động phạm tội hình
sự. Tuyệt đối không để số đối tượng này có điều kiện tiếp tục gây án. Tăng cường
quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, quản lý cư trú để chủ động nắm tình hình, kịp
thời phát hiện, xử lý các đối tượng mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép ma
túy. Ngăn chặn tình trạng lợi dụng vũ trường, quán bar, quán pub, quán karaoke,
khách sạn, nhà hàng, nhà trọ… để mua bán, táng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.
Tiếp tục cập nhật, nâng cấp phần mềm quản lý người nghiện, người sử dụng trái
phép chất ma túy để phục vụ công tác quản lý, đấu tranh và phòng ngừa.
- Đa dạng hóa các hình thức, biện pháp cai nghiện, đẩy mạnh công tác cai
nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng. Duy trì hỗ trợ cho người cai nghiện thành
công sau 5 năm không tái nghiện. Thực hiện tốt các chính sách tái hòa nhập cộng
đồng đối với người sau cai; vận động các ngành, đoàn thể chính trị xã hội, các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ tham gia các hoạt động tạo
việc làm; cho vay vốn giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện. Đẩy mạnh, duy
trì các hoạt động về thông tin, giáo dục truyền thông và vận động bệnh nhân tham
gia điều trị Methadone. Duy trì hoạt động 02 cơ sở điều trị Methadone và nâng cao
năng lực, chất lượng điều trị Methadone.
3.2.4. Phát huy vai trò lực lượng chủ công trong phòng, chống tội phạm về
ma tuý, lực lượng CSND chủ động xây dựng kế hoạch, biện pháp và phối hợp với
các ban ngành đoàn thể để ngăn chặn tình trạng nghiện ma tuý
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý cho thấy, tình hình
người nghiện gắn bó chặt chẽ với diễn biến của tình hình tội phạm về ma tuý, người
nghiện tăng tạo ra nhu cầu tiêu thụ ma tuý lớn sẽ kích thích tội phạm mua bán hoạt
động. Tại thành phố Đà Nẵng tình hình người nghiện ma tuý tuy được kiềm chế, số
người phát hiện mới giảm 8,85% so với năm 2019, chiều hướng giảm này chưa thực
69
sự cơ bản, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, hiện tượng thanh thiếu niên sử dụng
ma tuý tổng hợp có chiều hướng lây lan khó kiểm soát. Để làm trong sạch địa bàn,
cắt nguồn cầu để giảm cung, lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý giữ vai trò tham
mưu đắc lực cho các cấp uỷ đảng, chính quyền huy động sức mạnh tổng hợp của
các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia ngăn chặn tỉnh trạng nghiện
ma tuý. Mặt khác, công tác giải quyết người nghiện là việc làm khó khăn, phức tạp
và lâu dài, chỉ riêng lực lượng Công an thì không thể giải quyết được, vì vậy muốn
thành công phải có sức mạnh của toàn xã hội. Để thực hiện giải pháp này lực lượng
CSND cần phải:
- Trước hết, lực lượng CSND thành phố cần tăng cường các mặt công tác
nghiệp vụ, nắm chắc diễn biến tình hình trên địa bàn; mở các đợt cao điểm ra quân
tấn công tội phạm và tệ nạn ma túy; tập trung lực lượng, biện pháp đấu tranh trên
các tuyến, địa bàn trọng điểm, triệt xóa đường dây tội phạm ma túy lớn thẩm lậu
vào thành phố và các đầu mối mua bán nhỏ lẻ trên địa bàn thành phố, không để hình
thành các địa bàn, tụ điểm ma túy phức tạp; tăng cường công tác phối hợp trong
điều tra, truy tố, xét xử các đối tượng phạm tội về ma túy theo đúng pháp luật.
- Nghiên cứu, áp dụng các bài thuốc cai nghiện ma tuý từ dân gian cũng như
y học hiện đại; đầu tư kinh phí, áp dụng biện pháp dùng Methadol chữa trị cho
người nghiện ma tuý dạng thuốc phiện. Đây là hình thức nhiều nước đã áp dụng,
Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai, ban đầu cho kết quả rất tốt.
Quản lý chặt chẽ người nghiện đã nhiễm HIV/AIDS bằng hình thức chữa bệnh bắt
buộc tại trung tâm.
- Kết hợp chặt chẽ với lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính về TTXH,
Công an phụ trách xã, lực lượng dân phòng, ban bảo vệ dân phố rà soát nắm chắc
tình hình người nghiện ma tuý tại cộng đồng, người có nguy cơ tái nghiện, thành
phần thanh thiếu niên bỏ học, chậm tiến, những đổi tượng có tiền sự về tệ nạn xã
hội để chủ động có kế hoạch răn đe, cảm hoá giáo dục thông qua công tác kiểm
danh, kiểm diện. Đối với những đối tượng cố tình tái nghiện thì kiên quyết lập hồ
sơ, phối hợp Sở Lao động - Thương binh và xã hội đưa vào trung tâm cai nghiện bắt
buộc.
70
Đấy mạnh công tác phối hợp với Bộ đội Biên phòng, Hải quan, an ninh hàng
không sân bay quốc tế Đà Nẵng, kịp thời phát hiện chặt đứt các đường dây, tổ chức
từ ngoài thành phố đưa ma tuý vào địa bàn Đà Nẵng tiêu thụ nhằm cắt nguồn
“cung” để tiến tới giảm “cầu" góp phần làm giảm người nghiện; nắm chắc tình hình
địa bàn, kịp thời phát hiện bắt xử lý hình sự các đổi tượng bán lẻ, không để hình
thành các điểm, tu điểm phức tạp về ma tuý, kiểm chế không để gia tăng người
nghiện mới.
- Lực lượng CSND thành phố cần phát huy vai trò thường trực phòng, chống
ma tuý; tham mưu, hướng dẫn các ban, ngành, đoàn thể tiếp tục thực hiện có hiệu
quả giai đoạn cuối các đề án trong chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma
tuý đến năm 2030 của Chính phủ, duy trì việc thực hiện Chương trình 5 không của
thành phố, trong đó chú trọng nội dung “không có người nghiện ma tuý trong cộng
đồng". Tăng cường phát động các đoàn thể ở cơ sở, đặc biệt là Mặt trận tổ quốc, các
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội: xây dựng các mô hình, các câu lạc bộ
tự quản tại địa bàn dân cư nhằm huy động sức mạnh xã hội trong tổ chức quản lý,
giáo dục, cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng, xây dựng kế hoạch thực hiện
Đề án không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng.
- Lực lượng Cảnh sát nhân dân phải thực sự là lực lượng nòng cốt, làm tốt
chức năng tham mưu, thường trực, hướng dẫn, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng
chức năng liên quan trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma tuý;
phải làm tốt công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực về ANTT, phải kết hợp
chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ đi đôi với việc tập trung
trấn áp mạnh tội phạm và tệ nạn ma tuý.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ cơ bản của lực lượng
CSND trong phòng ngừa tội phạm về ma túy
Tội phạm về ma tuý hoạt động với phương thức, thủ đoạn rất tinh vi, bí mật.
Vì vậy, ngoài tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong việc huy động sức
mạnh của toàn xã hội, tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng, chống tội
phạm về ma tuý, lực lượng CATP Đà Nẵng phải tập trung đây mạnh các biện pháp
nghiệp vụ cơ bản mang tính chuyên sâu của lực lượng CSND để chủ động nắm chắc
71
tình hình hoạt động của các loại đổi tượng, tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, phức
tạp về ma tuý từ đó có kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả. Trước mắt:
- Lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng từ cấp phòng đến
cấp quận, huyện cần tiến hành khảo sát tổng thể theo một kế hoạch thống nhất để
phát hiện những tuyến, địa bản, lĩnh vực, hệ, loại đối tượng phức tạp về ma tuý hoặc
có điều kiện để tội phạm về ma tuý lợi dụng hoạt động; phân cấp, xác định trách
nhiệm rõ ràng việc mở hồ sơ Điều tra cơ bản; thu thập bổ sung tài liệu vào hồ sơ đã
đăng ký, tiến hành phân tích, đánh giá phát hiện đối tượng đấu tranh để phục vụ cho
các biện pháp nghiệp vụ cơ bản khác. Định kỳ tổ chức sơ kết, đánh giá từng hồ sơ
Điều tra cơ bản, rút ra những ưu điểm, phương pháp mang lại hiệu quả để nhân
rộng, phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý để đề xuất biện pháp
khắc phục, phòng ngừa.
- Tập trung nắm tình hình thông tin về hoạt động của đối tượng tượng, thu
thập tài liệu, để xuất đưa vào diện sưu tra các đối tượng có khả năng, điều kiện hoặc
có dấu hiệu nghi vấn hoạt động phạm tội về ma tuý theo đúng danh mục, hệ, loại;
tăng cường nắm thông tin về đối tượng ở các địa phương khác đến thành phố Đà
Nẵng hoạt động mua bán chất ma tuý, đưa vào sưu tra để quản lý và xác minh làm
rõ, không để sót lọt đối tượng. Xây dựng kế hoạch đề xuất những biện pháp cụ thể,
chú trọng xây dựng MLBM để điều tra xác minh, quản lý đối tượng sưu tra một
cách chặt chẽ, những đối tượng nổi phải tiến hành xác minh hiềm nghi, xác lập
chuyên án để áp dụng tổng hợp các biện pháp, phát huy sức mạnh của các lực lượng
nghiệp vụ đấu tranh triệt phá, không để hình thành các đường dây, tổ chức lớn. Duy
trì việc trao đổi thông tin về đối tượng thông suốt giữa cấp Phòng và quận huyện
với Cảnh sát khu vực.
3.2.6. Tăng cường quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội
phạm về ma túy
Tình hình tội phạm về ma tuý hoạt động theo đường dây, tổ chức khép kín.
Nhiều dường dây với quy mô lớn, hoạt động liên tỉnh, thậm chí xuyên quốc gia, nên
việc phối hợp giữa lực lượng là rất quan trọng, có phối hợp mới tập trung được sự
lãnh đạo, chỉ huy, trao đổi được thông tin, phát huy được sức mạnh và đem lại thành
72
công. Nguyên tắc của sự phối hợp là dựa trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của từng
cấp, cấp dưới phục tùng cấp trên; nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp
luật và của ngành Công an, với tinh thần hiệp đồng chiến đấu vì mục đích chung là
nhanh chóng thu thập đầy dủ tài liệu chứng cứ làm rõ tổ chức tội phạm, những
người thực hiện hành vi phạm tội; Hình thức phối hợp phổ biến trong thực tiễn đem
lại hiệu quả cao là thành lập các chuyên án hoặc tách nhánh các vụ án phân công
cho các đơn vị độc lập điều tra. Bên cạnh việc phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới,
lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng cần phải xây dựng quy chế
phối hợp lực lượng giữa các quận, huyện nội thành, các địa phương giáp ranh như
Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế, các địa phương trọng điểm, phức tạp về ma tuý để
huy động sức mạnh trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vì đối tượng ở địa bàn
này nhưng hoạt động địa bàn khác hoặc hoạt động địa bàn này sang địa bàn khác
lẫn trốn...Ngoài ra, để công tác phối hợp đạt hiệu quả cao lực lượng CSĐT tội phạm
về ma tuý cấp tỉnh phải tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong các mặt công tác của lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý
cấp huyện, chú trọng các mặt công tác NVCB, chân chỉnh tình trạng khoáng trắng
cho cấp dưới; Công an cấp dưới phải nghiêm túc thực hiện chế độ thông tin báo cáo
mọi diễn biến tình hình để có sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong ngăn ngừa, đấu tranh
phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố, nhất là sự phối hợp
giữa các lực lượng Công an, Sở Lao động, Thương binh và xã hội, Sở Y tế, Tòa án,
Viện kiểm sát, Bộ đội Biên phòng, Hải quan thành phố trong công tác nắm tình hình,
xử lý người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, công tác đấu tranh với tội
phạm ma túy trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, cảng biển, cảng hàng không…
- Trong phạm vi nội bộ, cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa lực
lượng CSĐT tội phạm về ma túy với các lực lượng nghiệp vụ khác của ngành Công
an. Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma tuý không thể tiến hành độc lập,
thoát ly với các mặt công tác nghiệp vụ khác của ngành như công tác quản lý hành
chính về TTXH, công tác giám định Khoa học - Kỹ thuật hình sự, Cảnh sát giao
thông, An ninh kinh tế,... Tuy nhiên, thời gian qua sự phối hợp giữa lực lượng
73
CSĐT tội phạm về ma tuý với các lực lượng khác trong CATP Đà Nẵng còn mang
tính hình thức, mỗi lực lượng thường quan trọng hoá nhiệm vụ của mình hoặc nặng
tính hành chính, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp. Để nâng cao hiệu quả
công tác điều tra, xử lý tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý, trước mắt cần tăng
cường mối quan hệ trao đổi thông tin về đối tượng, thông tin về tình hình địa bàn
giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý với lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH, đặc biệt là Cảnh sát khu vực trong quản lý đối tượng sưu tra, với bộ phận
quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện về ANTT ( đặc doanh) trong công tác
điều tra cơ bản, sưu tra chuyên đề tuyến, địa bàn, lĩnh vực, hệ loại đối tượng. Mối
quan hệ phải được thực hiện một cách linh hoạt, như thông qua giao ban, mở những
kênh trao đổi thông tin giữa các cấp lãnh đạo; xây dựng kế hoạch phối hợp kiểm tra
các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, phối hợp trong thực hiện các biện pháp trinh sát
liên hoàn trong phá án. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý kịp thời
thông báo những phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm về ma tuý, những
địa bàn, lĩnh vực đối tượng thường ẩn nấp, lợi dụng hoạt động để lực lượng QLHC
có kế hoạch phòng ngừa. Qua công tác quản lý hành chính nếu phát hiện thông tin,
dấu vết của tội phạm mua bán trái phép chất ma tuý lực lượng QLHC kịp thời thông
báo để lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý có đối sách đấu tranh. Ngoài ra, lực
lượng CSĐT tội phạm về ma tuý thường xuyên duy trì mối quan hệ với lực lượng
Khoa học - Kỹ thuật hình sự trong giám định chất ma tuý, trong khám nghiệm hiện
trường, thu lượm dấu vết, vật chứng của vụ án một cách nhanh chóng, triệt để phục
vụ cho việc xử lý đúng đắn vụ án đều thuận lợi.
- Tăng cường mối quan hệ với Viện kiểm sát nhân dân, với Toà án nhân dân,
Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển.
+ Hoạt động điều tra tội phạm nói chung, tội mua bán trái phép chất ma tuý
nói riêng chỉ là giai đoạn đầu của quá trình tiến hành tố tụng một vụ án, mặc dù vậy,
kết quả của hoạt động điều tra mang tính quyết định các giai đoạn truy tố, xét xử
tiếp theo vì vậy, việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là vấn đề tất yêu.
Sự phối hợp này phải theo phương châm: chất lượng điều tra tốt, giúp việc truy tố
xét xử nghiêm, việc xử lý nghiêm sẽ phục vụ tốt công tác phòng ngừa, ngăn chặn
74
tội phạm. Giữa CQĐT, Viện kiểm sát, Toà án cần duy trì tổ chức các cuộc họp liên
tịch theo định kỳ để đánh giá tình hình và chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm về ma tuý: phân tích những ưu điểm, những tồn tại của từng giai đoạn
và nguyên nhân của những tồn tại đó để có giải pháp khắc phục; tăng cường phối
hợp trong điều tra, truy tố, xét xử những vụ án trọng điểm, phức tạp để phục vụ cho
yêu cầu chính trị của địa phương. Chấn chỉnh thái độ làm việc qua loa đại khái, máy
móc, cứng nhắc trong cán bộ tiến hành tổ tụng nhằm giải quyết vụ án về ma tuý một
cách thông suốt, nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật;
+ Trong điều kiện hội nhập rộng rãi như hiện nay, nguy cơ tội phạm lợi dụng
tuyến biên giới biển, sân bay quốc tế Đà Nẵng, cảng Tiên sa để đưa ma tuý vào
thành phố hoặc chuyển ra nước ngoài là rất lớn. Tuyến biên giới biển, sân bay Đà
Nẵng và cảng Tiên sa do lực lượng Bộ đội Biên phòng, Hải quan kiểm soát. Để tạo
ra thế trận phòng, chống tội phạm ma tuý mang tính tổng hợp, lực lượng CSĐT tội
phạm về ma tuý CATP Đà Nẵng phải giữ vai trò nòng cốt, chủ công trong phối hợp
với, Bộ đội Biên phòng, Cục Hải quan thành phố, Cảnh sát biển theo Quyết định số
133/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chú trọng chế độ giao ban giữa 3 lực
lượng để đánh giá tinh hình, cải tiến cơ chế trao đổi thông tin đảm bảo tính bí mật,
kịp thời. Đối với những chuyên án do Bộ đội Biên phòng. Hải quan đấu tranh, lực
lượng CSĐT tội phạm về ma tuý cử lực lượng tham gia, nghiên cứu đánh giá tài
liệu, chứng cứ, sẵn sàng tiếp nhận thụ lý khi phá án, những thông tin về tôi phạm
ma tuý liên quan nhiều địa phương, lực lượng CSĐT tội phạm về ma tuý CATP tiếp
nhận xác minh, nếu liên quan những đường dây, tổ chức ma tuý lớn hoặc có yếu tố
nước ngoài phải kịp thời phối hợp báo cáo Cục CSĐT tội phạm về ma tuý Tổng
Cục CSĐT tội phạm BCA, Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Hải quan để có sự chỉ đạo
thống nhất.
3.2.7. Tổ chức kiểm soát chặt chẽ các hoạt động mua bán, xuất, nhập
khẩu, sử dụng các loại tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, phòng
ngừa việc điều chế và sản xuất ma túy tổng hợp.
Lực lượng CSND phải tập trung xây dựng, tổ chức thực hiện những kế hoạch
phối hợp trong quản lý, kiểm tra, giám sát để ngăn chặn hiệu quả việc thất thoát,
75
thẩm lậu các tiền chất, hóa chất, dược liệu vào việc sản xuất ma túy tổng hợp trong
nước; chủ động tổ chức các biện pháp ngăn chặn việc trồng trái phép cây có chứa
chất ma túy. Trong đó cần phải:
- Duy trì và tăng cường công tác kiểm soát chế độ phân phối, mua bán, sử
dụng, trao đổi chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, tiền chất phục vụ
nghiên cứu, giám định, huấn luyện nghiệp vụ, điều tra tội phạm về ma túy;
- Phối hợp chặt chẽ Sở Công Thương, Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Cục Hải quan thực hiện công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc xuất,
nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, sản xuất, kinh doanh, sử dụng và lưu giữ các loại tiền
chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; quản lý chặt chẽ các loại tiền chất, thuốc
gây nghiện, thuốc hướng thần, tránh thất thoát để tội phạm về ma túy lợi dụng hoạt
động gây án;
- Tổ chức điều tra, xác minh để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn xử lý
hành vi vi phạm khi nhận được nguồn tin, tài liệu hoặc phát hiện những sai phạm
của các tổ chức, doanh nghiệp trong công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên
quan đến ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Đây là công tác phức tạp nhưng rất cần thiết cho hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố. Vì vậy, lực lượng CSND cần chủ
động phối hợp với các ngành Y tế, Hải quan tiến hành các giải pháp và biện pháp
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động này và định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm để nâng cao hiệu quả công tác.
76
KẾT LUẬN
Trong những năm qua tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng diễn biến hết sức phức tạp, khó lường với thủ đoạn, tính chất mức độ ngày
càng tinh vi, thành phần đối tượng tham gia ngày càng đông đảo…Các hoạt động
phạm tội về ma túy ngày càng có tổ chức, liều lĩnh manh động, gây mất ổn định về
an ninh trật tự, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Chính vì vậy, việc phát huy vai
trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
là một yêu cầu cấp bách trong điều kiện hiện tại và những năm sắp tới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về vai trò của lực lượng
CSND trong phòng ngừa tình hình các tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong những năm qua, tác giả đã nêu và khái quát được những vấn đề lý luận
chung, thực trạng vai trò lực lượng CSND phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy
và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy của lực lượng
CSND trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới, cụ thể:
Luận văn đã khảo sát, đánh giá khái quát thực trạng phòng ngừa tình hình các
tội phạm và tệ nạn xã hội nói chung, tội phạm ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng, nêu những ưu điểm, tồn tại trong quá trình thực hiện và làm sáng tỏ những
nguyên nhân khách quan và chủ quan của những ưu điểm và tồn tại nói trên.
Luận văn đã đi sâu việc nghiên cứu, khảo sát, phân tích các số liệu để đánh
giá và dự báo tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời
gian tới. Đặc biệt tác giả đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận giải về vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy từ đó
đưa ra được các giải pháp để nâng cao hiệu quả trong các hoạt động đấu tranh,
phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của lực
lượng CSND.
Trên đây là kết quả chủ yếu đạt được của đề tài nghiên cứu về vai trò của lực
lượng CSND trong phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Do điều kiện khách quan và chủ quan, luận văn khó tránh khỏi những tồn tại,
thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được những đóng góp, hướng dẫn của quý
thầy cô, ý kiến góp ý của các nhà khoa học và các đồng nghiệp.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tấn Anh (2013), Đấu tranh phòng, chống tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Báo cáo tình hình và kết quả công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc các năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020 của Công an thành
phố Đà Nẵng.
3. Báo cáo tình hình, kết quả công tác đảm bảo an ninh trật tự các năm 2016,
2017, 2018, 2019, 2020 của Công an thành phố Đà Nẵng.
4. Bộ Công an (2013), Chỉ thị 02/TT-BCA, ngày 01/4/2013 của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định: Về việc tập trung chấn chỉnh, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND.
5. Bộ Công an (2016), Báo cáo số 44/BC-BCA-C41 ngày 23/2/2016 về tổng
kết chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy báo cáo kết quả
thực hiện Chương trình năm 2011, giai đoạn 2012 - 2015 và đề xuất
chương trình phòng, chống ma túy giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2010) Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình
hình mới;
7. Bộ Chính trị (2011) Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 01/12/2011 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc trong tình hình mới.
8. Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”.
9. Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tiếp tục tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới”.
10. Chính phủ (2016), Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia phòng
chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định hướng đến năm 2030.
11. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 98/NQ-CP, về tăng cường chỉ đạo công
tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới.
12. Chính phủ (/2013), Nghị định số 221/2013/NĐCP, quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
13. Chính phủ (2009), Nghị định 94/2009/NĐ-CP, thực hiện công tác quản lý
sau cai nghiện.
14. Chính phủ (2001), Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 ban
hành vào danh mục các chất ma túy và tiền chất": Nghị định số
133/2003/NĐ-CP ngày 06/1 1/2003 "bổ sung một số chất vào danh mục
các chất ma túy và tiền chất" ban hành kèm theo Nghị định số
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ.
15. Công an thành phố Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết công tác đầu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy từ năm 2016 đến năm 2020.
16. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của
Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 221/2013/NĐ-
CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Hà Nội
17. Cục Thống kê Thành phố Đà Nẵng Số liệu thống kê dân số 7 quận huyện
và diện tích của Thành phố qua các năm.
18. Phan Thị Mỹ Hạnh (2016), Quản lý nhà nước về công tác phòng, chống
ma túy ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Hà
Nội.
19. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề tội phạm học Việt
Nam, Tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau Đại học, Hà Nội.
20. Học viện CSND (1997), Giáo trình công tác phòng, chống và kiểm soát
ma túy của lực lượng CSND, NXB CAND.
21. Học viện CSND (2002), Giáo trình hoạt động phòng ngừa và điều tra các
tội phạm về ma túy của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về ma
tủy, NXB CAND.
22. Học viện CSND (2007), Giáo trình Quản lý Nhà nước về an ninh trật tự.
23. Liên hợp quốc (1988), Công ước về chống buôn bán bát hợp pháp các hất
ma túy và chất hưởng thần năm 1988.
24. Đặng Hoàng Phi (2019), Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học.
25. Quốc hội (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (2008), Luật phòng chống ma túy, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội;
31. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
34. Bùi Thị Phương Quỳnh (2021), Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Nghệ An: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án Tiến
sỹ luật học, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Ta (2019), Tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Nan, Luận văn thạc sỹ Luật học.
36. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27 tháng
6 năm 2011 của Thủ tưởng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia
phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đển năm 2020 và định
hưởng đến năm 2030, Hà Nội.
37. Thành ủy thành phố Đà Nẵng (2014), Chỉ thị số 37-CT/TUngày 20/8/2014
của Thành ủy Đà Nẵng về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chi đạo công tác
phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành
phố, Đà Nẵng.
38. Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện Khoa học Xã
hội - Viện Hàn lâm khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
40. Hà Phước Tuân (2019), Phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa
bàn Quận Sơn Trà – Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học.
41. UBND thành phố Đà Nẵng (2009). Quyết định số 9263/QĐ-UBND ngày
11/12/2009 của UBND thành phổ về phê duyệt Để án thực hiện mục tiêu
"Không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng đến năm 2015", Đà Nẵng.
42. UBND thành phố Đà Nẵng (2010), Kế hoạch số 114/KH-UBND ngày
07/6/2010 của ủy ban nhân dân thành phố về thực hiện Đề án "Xây dựng
xã, phường, thị trấn không tệ nạn ma túy, Đà Nẵng.
43. UBND thành phố Đà Nẵng (2014), Quyết định số 8048/QĐ-UBND ngày
08 tháng 11 năm 2014 về việc thành lập Ban Chi đạo Phòng, chống tội
phạm, HIV/AIDS, tệ nạn xã hội và Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
44. UBND thành phố Đà Nẵng (2014), Quyết định số 26/2017/QĐ-UBND của
UBND Thành phố Đà Nẵng về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế phối hợp
Lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tủy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
ban hành kèm theo Quyết định 28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 của
UBND thành phổ Đà Nẵng, Đà Nẵng.
45. UBND thành phố Đà Nẵng (2015), Quyết định số 8394/QĐ-UBND ngày
9/11/2015 ban hành Kế hoạch phối hợp lực lượng tuần tra phòng, chống
tội phạm, đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
46. UBND thành phố Đà Nẵng (2016), Quyết định số 6111/QĐ-UBND ngày
07/9/2016 phê duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện
ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020", Đà Nẵng.
47. UBND thành phố Đà Nẵng (2016), Chiến lược phòng, chống tội phạm
giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành
phổ Đà Nẵng, Đà Nẵng.
48. UNODC (Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc)
(2015), Báo cáo về công tác phòng, chống ma túy.
49. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Viện Chiến lược và khoa học Công an-Bộ Công an (2005), Từ điển bách
khoa Công an nhân dân, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm tội phạm dưới góc độ tội phạm học,
Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 24, Tr.8-12.
52. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam: Phần các tội
phạm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân.
54. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
55. Võ Khánh Vinh, Phạm Hồng Hải, Đào Trí Úc, Nguyễn Mạnh Kháng,
Phạm Văn Tỉnh (2000), Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
Các trang web tham khảo:
58. http://www.cand.com.vn/
59. http://danang.gov.vn/
60. http://www.tapchicongsan.org.vn/
PHỤ LỤC
BẢNG 2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020 VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHÁM PHÁ
KHÁM PHÁ
TỔNG SỐ
TT
TỘI DANH
VỤ
Số vụ
Tỉ lệ
Số đối tượng
01
Giết người
106
99,1%
175
107
02
Cố ý gây thương tích
310
95,38%
604
325
03
Hiếp dâm trẻ em
09
100%
09
09
04
Cướp tài sản
41
89,13%
72
46
05
Trộm cắp tài sản
1327
1062
80,03%
1389
06
Cướp giật tài sản
92
59,35%
120
155
07
Án khác
434
89,85%
874
483
3243
TỔNG CỘNG
2447
2054
83,93%
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.2: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Khởi tố
Đối tượng
Năm
Vụ
Vụ
Đối tượng
2016
13
0
0
35
2017
6
2
6
26
2018
7
2
4
54
2019
9
1
1
25
2020
3
2
9
24
Tổng cộng
58
7
20
164
Nguồn : Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.3: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ CỜ BẠC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Khởi tố
Năm
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Vụ
2016
433
1895
84
17
2017
573
2374
84
18
2018
389
1761
80
21
2019
428
1999
193
44
2020
323
1480
180
37
Tổng cộng
2146
17.538
621
137
Nguồn: Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.4: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH NGƯỜI NGHIỆN, SỬ DỤNG MA TÚY PHÁT HIỆN TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
CÁC TRƯỜNG HỢP PHÁT HIỆN
Năm Tổng số
Phát hiện mới
Mới nghiện
Tái nghiện
Ngoài địa phương
Tổng số
Tỷ lệ
Tổng số
Tỷ lệ
Tổng số
Tỷ lệ
Tổng số
Tỷ lệ
2429
1544
63,56%
4,52%
110
574
23,63
201
8,37
2016
2597
1548
59,60%
6,12%
189
468
18,02
392
15,09
2017
3006
1804
60,01%
8,21%
247
421
14,01
534
17,76
2018
3477
2184
62,81%
8,31%
289
407
11,70
597
17,16
2019
403
512
17,74
413
14,31
2885
1557
53,96%
13,96%
2020
Cộng
14.394
8.637
60,01%
1.238
8,60%
2.382
16,54%
2.137
14,84%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Phòng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.5: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VÀ TỶ LỆ TỘI PHẠM MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
TỔNG SỐ VỤ
KHÁM PHÁ
TT
NĂM
TỘI PHẠM
Tỉ lệ
Số vụ
Tỉ lệ
Số đối tượng Tỉ lệ
MA TÚY
1
2016
145
100%
142
97,93%
187
95,40%
2
2017
165
100%
150
90,90%
193
83,54%
3
2018
218
100%
161
73,85%
213
69,38%
4
2019
300
100%
233
77,66%
325
76,47%
5
2020
291
100%
281
96,56%
402
94,14%
100%
967
TỔNG CỘNG
1.119
87,34%
1.586
83,74%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Phòng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.6: THỐNG KÊ SỐ LIỆU CÁC LOẠI MA TÚY THU GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
SỐ LƯỢNG MA TÚY THU GIỮ
NĂM
Cần sa/gam
Heroine/gam
MTTH/gam
87,73
572,64
4.370,02
2016
143,0
388,64
3.547,70
2017
1.646,72
290,61
3.500,82
2018
2.065,9
333,58
14.146,50
2019
8.367,5
131,6
9.468,13
2020
12.310,85
1.717,07
35.033,17
Cộng
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Phòng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.7: THỐNG KÊ SỐ LIỆU THÀNH PHẦN TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
THÀNH PHẦN PHẠM TỘI
Tổng số
Lao động phổ
Buôn bán
Không nghề nghiệp
Nghề khác
NĂM
đối
thông
tượng
Đối
Đối
Đối
Tỷ lệ
Đối
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
tượng
tượng
tượng
tượng
%
196
0
0%
196
100%
0%
0%
0
0
2016
231
3
1,29%
228
98,71%
0%
0%
0
0
2017
307
3
0,98%
303
98,69%
0,33%
0%
0
1
2018
425
1
0,23%
424
99,77
0%
0%
0
0
2019
427
7
1,64%
419
98,12%
0,24%
0%
0
1
2020
0%
0,88%
0,13%
98,99%
0
Tổng
1.586
14
1.570
2
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Phòng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.8: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VÀ TỶ LỆ TỘI PHẠM MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Tỷ lệ tội phạm mua bán trái phép chất ma túy
Năm
Tổng số vụ án
Số vụ
TA-TS (Đối tượng)
145
117
99
2016
165
140
100
2017
218
125
99
2018
300
194
122
2019
291
149
151
2020
Tổng
1.119
725
571
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Phòng CSĐT tội phạm về ma túy CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.9: THỐNG KÊ ĐỘ TUỔI CỦA TỘI PHẠM VỀ MA TÚY BỊ BẮT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Tổng số
ĐỘ TUỔI VÀ TỶ LỆ
Dưới 16
Dưới 18
Từ 18 - 30
Trên 30
NĂM
Đối
Vụ
Tổng
Tổng
Tổng
Tổng
tượng
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
số
số
số
số
145
196
0
0%
167
85,20%
27
13,78%
1,02%
2
2016
165
231
0
0%
182
78,78%
47
20,36%
0,86%
2
2017
218
307
0
0%
226
73,61%
70
22,81%
3,58%
11
2018
300
425
2
0,47%
291
68,47%
92
28,71%
2,82%
12
2019
291
427
0
0%
338
79,15%
88
20,39%
0,46%
2
2020
2
0,13%
Tổng
1.119
1.586
1,95%
1204
75,91%
324
22,01%
31
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Văn phòng CQCSĐT CATP Đà Nẵng
BẢNG 2.10: THỐNG KÊ ĐỊA BÀN XẢY RA TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2020
Tổng số
Quận
Quận
Quận
Quận
Quận Ngũ
Quận
Huyện
vụ tội
Hải Châu
Thanh Khê
Sơn Trà
Liên Chiểu
Hành Sơn
Cẩm Lệ
Hòa Vang
Năm
phạm về
Số vụ
Tỷ lệ
Số vụ Tỷ lệ
Số vụ
Tỷ lệ
Số vụ
Tỷ lệ
Số vụ
Tỷ lệ
Số vụ
Tỷ lệ
Số vụ Tỷ lệ
ma túy
145
27
18,63%
40
27,58%
16
11,04%
15
10,34%
14
9,65%
22
15,17%
11
7,59%
2016
165
30
18,18%
38
23,04%
23
13,93%
25
15,15%
16
9,70%
21
12,72%
12
7,28%
2017
218
49
22,48%
51
23,39%
28
12,85%
22
10,09%
22
10,09%
31
14,22%
15
6,88%
2018
300
61
20,33%
74
24,67%
43
14,33%
38
12,67%
26
8,67%
36
12%
22
7,33%
2019
291
47
16,16%
59
20,28%
51
17,52%
42
14,43%
29
9,97%
40
13,74%
23
7,90%
2020
Tổng
14,38%
12,70%
9,56%
13,41%
7,41%