BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Kim Nhật Thanh VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Kim Nhật Thanh VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BẠCH VĂN HỢP

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Bạch Văn

Hợp - người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và

hoàn thiện luận văn.

Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình

học tập và thực hiện đề tài.

Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ,

tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận

văn.

Bình Dương, ngày 20 tháng 06 năm 2011

Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Nhật Thanh.

MỤC LỤC

0TLỜI CẢM ƠN0T ........................................................................................................... 3

0TMỤC LỤC0T ................................................................................................................ 4

0TMỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN VĂN0T .................................... 6

0TMỞ ĐẦU0T ................................................................................................................... 7

0T1. Lí do chọn đề tài0T.......................................................................................................... 7

0T2. Giới hạn vấn đề0T ........................................................................................................... 8

0T3. Lịch sử vấn đề0T ............................................................................................................. 8

0T4. Đóng góp của luận văn0T ............................................................................................. 12

0T5. Phương pháp nghiên cứu0T.......................................................................................... 13

0T6. Kết cấu luận văn0T ....................................................................................................... 13

0TCHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ0T ................................................ 15

0T1.1 Văn hóa Việt Nam0T ................................................................................................... 15

0T1.1.1. Về khái niệm văn hóa0T ........................................................................................ 15

0T1.1.2. Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam0T ............................................................ 16

0T1.2. Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ0T ............................................................. 18

0T1.2.1. Khái niệm vùng văn hóa0T .................................................................................... 18

0T1.2.2. Những nhân tố tác động tạo nên bản sắc văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. 0T .............................................................................................................................. 20

0T1.2.3. Những đặc trưng của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ0T.......................... 23

0TCHƯƠNG 2: VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG LÀNG XÃ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU0T ......................................................................................... 28

0T2.1. Thiết chế xã hội0T ...................................................................................................... 29

0T2.1.1. Sự phân chia ngôi thứ ở làng xã0T......................................................................... 29

0T2.1.2 Lối ứng xử theo tục lệ, một biểu hiện cho tính tự trị ở làng quê. 0T ......................... 32

0T2.2. Phong tục tập quán0T ................................................................................................ 33

0T2.2.1 Rước lão là sự thể hiện của truyền thống kính trọng người già trong xã hội nông nghiệp. 0T ........................................................................................................................ 34

0T2.2.2. Tục khao vọng, với những biểu hiện quá mức nơi làng xã Bắc Bộ. 0T.................... 37

0T2.3. Văn hóa sinh hoạt 0T .................................................................................................. 40

0T2.3.1. Sinh hoạt văn hóa tinh thần 0T ............................................................................... 41

0T2.3.2. Sinh hoạt văn hóa vật chất0T ................................................................................. 62

0TCHƯƠNG 3: VĂN HÓA LÀNG XÃ QUA TÍNH CÁCH NHÂN VẬT0T .............. 72

0T3.1. Lối sống đậm tình nặng nghĩa 0T ............................................................................... 72

0T3.2. Sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận trong giao tiếp0T ........................................... 75

0T3.3. Đề cao vai trò người phụ nữ trong gia đình0T .......................................................... 79

0TKẾT LUẬN0T ............................................................................................................. 87

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ..................................................................................... 90

MỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN VĂN

Tài liệu trích dẫn được trình bày theo một số quy ước như sau:

- Dấu ngoặc vuông ( [] ) và số ghi tên tài liệu và số trang được trích dẫn trong danh

mục tài liệu tham khảo. Trong dấu ngoặc vuông ([]) luôn có hai chữ số cách nhau bởi dấu

phẩy, số thứ nhất (từ trái sang) là chỉ tên tài liệu - theo thứ tự của nó trong danh mục tài liệu

tham khảo, số thứ hai dùng để ghi số trang của tài liệu được trích dẫn. Ví dụ: trong trang thứ

3 của luận văn, chúng tôi có ghi [26, 790], trong đó, 26 là thứ tự của tài liệu “Vũ Ngọc

Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB KHXH, 1989” trong danh mục các tài liệu tham khảo,

còn 790 là số trang của tài liệu đó.

Trường hợp, trích dẫn một lúc nhiều trang liên tiếp, chúng tôi dùng dấu (-) đặt giữa các

số trang. Ví dụ: trang thứ 31 của luận văn chúng tôi có ghi [31, 64 - 65]. Trong đó, 31 là thứ

tự của tài liệu “Trần Tiêu, Sau lũy tre, NXB Đời nay, 1942”trong danh mục các tài liệu

tham khảo; còn 64 – 65 là số trang của tài liệu đó.

Phần trích dẫn in nghiêng và bỏ trong dấu ngoặc kép. (“ ”)

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trần Tiêu là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Song khác với những thành viên

trong nhóm, Trần Tiêu đã chọn cho mình một hướng thể hiện riêng. Ông chuyên viết

về nông thôn, cụ thể là hướng ngòi bút của mình về đời sống nơi thôn ổ.

Trần Tiêu viết không nhiều, đề tài cũng không nóng bỏng như cách thể hiện của các

nhà văn hiện thực đương thời. Có lẽ vì thế nên rất ít có những công trình nghiên cứu sâu

sắc, cụ thể về văn nghiệp của Trần Tiêu. Người ta chỉ tìm thấy một vài dòng ngắn ngủi đề

cập đến ông trong các chuyên luận, các bài phê bình, nghiên cứu về Tự lực văn đoàn, hoặc

trong các giáo trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nói chung. Hầu hết các

ý kiến đều cho rằng “nội dung hiện thực, ý nghĩa xã hội” trong các tác phẩm của Trần Tiêu

“còn bị hạn chế về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề cập được mối mâu thuẫn đối

kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức bóc lột tàn tệ của người nông

dân.” [14, 437] Chúng tôi thiết nghĩ, để đánh giá một tài năng văn chương không phải chỉ

căn cứ vào đề tài. Cái cốt yếu để tạo nên một phong cách, một tài năng văn học thực sự

chính là ở tâm huyết của người cầm bút. Viết cái gì? Viết như thế nào? Viết để làm gì?

Luôn là những câu hỏi đặt ra đối với những người cầm bút. Thực tế có nhà văn sáng tác

không nhiều nhưng trên mỗi trang viết ấy đã để lại những dấu ấn trăn trở, những tâm huyết

mà tác giả muốn sẻ chia cùng bạn đọc. Trần Tiêu thuộc mẫu nhà văn như thế!

Mặc dù sáng tác không nhiều nhưng với một lối văn giản dị, hàm súc, cách xây dựng

cốt truyện đơn giản, chặt chẽ, với những tình tiết nhẹ nhàng và nghệ thuật miêu tả chân

thực, các tác phẩm của Trần Tiêu thực sự là những trang viết sâu sắc, gợi cảm về cuộc sống

của người nông dân sau lũy tre làng với những lề thói, phong tục, những sinh hoạt về cả vật

chất lẫn tinh thần của họ, mang đậm dấu ấn văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tất

nhiên ở đó có cả những điều hay lẫn điều dở. Nông thôn Việt Nam hiện lên trong sáng tác

của Trần Tiêu “tồn tại cụ thể với đơn vị làng” (chữ dùng của Hà Minh Đức). Cho đến nay,

tác phẩm của Trần Tiêu vẫn có một vị thế nhất định trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Thực hiện đề tài “Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của

Trần Tiêu”, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói nhằm khẳng định vị thế của nhà văn

trên văn đàn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

2. Giới hạn vấn đề

Trần Tiêu viết không nhiều nhưng lại đa dạng về thể loại. Bên cạnh những tiểu

thuyết, truyện vừa, truyện ngắn viết về nông thôn, ông còn biên soạn một số sách giáo khoa

như: Tập đọc quốc văn lớp 3 và lớp 4. Ông sáng tác cả trong hai giai đoạn trước và sau

Cách mạng tháng Tám.

Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu những sáng tác

trước Cách mạng tháng Tám của Trần Tiêu, cụ thể là những tác phẩm: Sau lũy tre, Con

Trâu, Chồng con, và Truyện quê... Qua đó để làm nổi bật những biểu hiện của văn hóa

làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của nhà văn này.

3. Lịch sử vấn đề

So với những nhà văn cùng thời, đặc biệt là các thành viên của nhóm Tự lực

văn đoàn, thì rõ ràng Trần Tiêu viết không nhiều, thậm chí có thể nói là không đáng kể và

ngay cả việc thẩm định, đánh giá về văn nghiệp của ông cũng ít được đề cập đến một cách

hệ thống. Mãi đến tháng 3 năm 2006, khi Vu Gia, nhà biên khảo văn học, người có nhiều

công trình khảo cứu về văn chương Tự lực văn đoàn, cho ra mắt công chúng cuốn “Trần

Tiêu nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn” thì lần đầu tiên văn nghiệp của Trần Tiêu mới

được tìm hiểu toàn diện bằng một công trình nghiên cứu khoa học dày dặn, công phu, hệ

thống.

Tuy nhiên, ngay khi những tác phẩm đầu tiên của Trần Tiêu ra đời, trong các công

trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, có thể chỉ qua một vài dòng

ngắn gọn, ít ỏi, các nhà nghiên cứu, phê bình đã ít nhiều đề cập đến sự đóng góp của tác giả

này.

Trước Cách mạng tháng Tám:

Vũ Ngọc Phan có thể xem là người sớm nhất có công trình nghiên cứu về sự nghiệp

sáng tác của Trần Tiêu. Trong cuốn “Nhà văn hiện đại” nhà nghiên cứu này nhận xét:

“Trần Tiêu là một nhà tiểu thuyết chuyên viết về dân quê. Người ta đã tưởng ông viết riêng

về cách sinh hoạt, về sự sống của con người Việt Nam ở nơi đồng ruộng, nhưng đọc kĩ

những tiểu thuyết của ông, người ta mới thấy ông chuyên chú vào phong tục người dân quê

nhiều hơn là cuộc sống nghèo nàn và không tổ chức của họ”. [26, 790] Và từ nhận định về

nội dung thể hiện trong sáng tác của Trần Tiêu, Vũ Ngọc Phan đã xếp tác giả này vào nhóm

nhà văn phong tục. Ông còn chỉ rõ: “Người dân quê dưới ngòi bút của Trần Tiêu bao giờ

cũng là người dân quê nghèo khổ và mê tín. [...] Trần Tiêu là nhà văn cho thấy mặt kém cỏi

của người dân quê Việt Nam”. [26, 790]

Sau Cách mạng tháng Tám:

Thời kì trước đổi mới (trước 1986): Các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, Trần Hữu

Tá, Nguyễn Đăng Mạnh, ở mức độ khác nhau, đã viết về Trần Tiêu trong các công trình

nghiên cứu của mình.

Trước hết là Phan Cự Đệ, một nhà nghiên cứu thâm niên, người có nhiều công trình

nghiên cứu về văn chương Tự lực văn đoàn, trong chuyên khảo “Tự lực văn đoàn, con

người và văn chương”(1978) đã viết: “...Trần Tiêu hướng hẳn về nông thôn. Ông nói lên

cái ước mơ suốt đời của người nông dân là có được một con trâu cày để làm ăn mát mặt

hơn (Con trâu, 1939). Ông đi sâu vào những phong tục lễ nghi phiền phức, tranh nhau ngôi

thứ ở nông thôn của bọn hào lí, kì mục sâu mọt, hiếu danh (Sau lũy tre, 1937). Ông thông

cảm với nỗi khổ của người đàn bà nông thôn “hết khổ về chồng lại khổ về con”, suốt đời

thầm lặng hy sinh (Chồng con, 1941)”. [11, 551] Nhận định trên của Phan Cự Đệ mới chỉ ra

phạm vi hiện thực được phản ánh trong sáng tác của Trần Tiêu mà chưa nghiên cứu sâu sắc

toàn diện văn nghiệp của Trần Tiêu.

Trên tinh thần so sánh các sáng tác của Trần Tiêu với những nhà văn hiện thực

đương thời, Trần Hữu Tá trong cuốn “Từ điển văn học” (1984), đã viết về Trần Tiêu với

nhận xét: “Nội dung hiện thực, ý nghĩa xã hội của tiểu thuyết Con trâu cũng như trong các

tác phẩm khác của Trần Tiêu còn bị hạn chế về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề

cập được mối mâu thuẫn đối kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức,

bóc lột tàn tệ của người nông dân [...]. Tuy vậy, trong chừng mực nhất định, tác phẩm của

ông vẫn nêu lên được hình ảnh của người nông dân hiền lương, chất phác và tình trạng vất

vả lam lũ của những người lao động chân lấm tay bùn”. [14, 437] Theo chúng tôi, có thể

nói, mặc dù không tập trung khai thác trực diện những áp bức, bóc lột của bọn cường hào,

địa chủ,... đẩy đưa người nông dân lương thiện đến những “bước đường cùng”, hay nguy cơ

“tha hóa” như trong sáng tác của các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, nhưng với

việc nghiêng về phản ánh nỗi khổ cực trong đời sống tinh thần, với những ước mơ dẫu đơn

giản nhưng không thể thực hiện được của những người dân cày do nếp sống cổ hủ và những

hủ tục lạc hậu ở chốn thôn quê gây nên, Trần Tiêu đã có tiếng nói riêng trên văn đàn rất

đáng trân trọng!

Cùng trong thời kì này, khi viết lời giới thiệu cho “Tổng tập văn học Việt Nam” (tập

30A), (1985), Nguyễn Đăng Mạnh có nhắc đến Trần Tiêu và nhóm Tự lực văn đoàn một

cách trân trọng như sau: “Thạch Lam... Trần Tiêu... với những trang tả cảnh, tả tình phát

triển tâm lí, cảm giác một cách tinh tế trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và tính nhân

dân, các nhà văn trẻ của chúng ta đã tận dụng kinh nghiệm nói trên của các cây bút lãng

mạn để bồi bổ cho mình khả năng tái hiện cuộc sống một cách phong phú và tinh vi hơn”

[23, 16]. Cùng với việc khẳng định tài năng và sự đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn,

Nguyễn Đăng Mạnh đồng thời đề cao cách miêu tả tâm lí, tả tình, tả cảnh và sự tái hiện cuộc

sống của Trần Tiêu.

Sau thời kì đổi mới (sau 1986): Giáo sư Hoàng Như Mai, khi viết lời tựa cho tập

Chồng con nhân dịp tái bản (1988), đã viết “Ngày nay, số phận của những anh Pha, chị

Dậu, Chí Phèo, Thị Nở căn bản đã được thay đổi. Nhưng những vấn đề đặt ra trong Chồng

con vẫn còn phải suy nghĩ, giải quyết”. [29, 1] Hà Minh Đức, trong “Khải luận về văn xuôi

lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 – 1945”, đã viết về Trần Tiêu như sau:“với lối miêu tả

chân thực về những cảnh sống và phong tục ở làng quê, và những trang viết sâu sắc, gợi

cảm về đời sống gia đình [...]Trần Tiêu là nhà văn miêu tả rất thành công về phong tục.

Nông thôn với ông tồn tại cụ thể với đơn vị làng và tác giả ít khai thác phía quan hệ giai

cấp song người đọc có thể nhận ra bóng dáng của nó.” Từ đó ông kết luận: “Tác phẩm của

Trần Tiêu còn là những tư liệu bổ ích về xã hội học một thời kì qua”. [12, 718]

Các ý kiến này thực sự là những nhận định có giá trị về văn nghiệp của Trần Tiêu, nó

gợi ra những vấn đề mới mẻ cho thế hệ sau mạnh dạn hơn trong việc tiếp tục nghiên cứu các

tác phẩm của nhà văn này.

Năm 1989, trong lời giới thiệu về tuyển tập “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 –

1945”, phần nhận xét về Trần Tiêu, tác giả Nguyễn Hoành Khung viết “Cảm hứng miêu tả

phong tục ở Trần Tiêu lắm khi lấn át việc đi sâu vào đời sống và tâm hồn con người nên cây

bút chuyên viết về nông thôn này chưa có được bức tranh xã hội có giá trị hiện thực cao

như ở văn học hiện thực phê phán”.[21, 43] Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh trong cuốn “Về

Tự lực văn đoàn”, cũng trên tinh thần so sánh Trần Tiêu với những nhà văn hiện thực

đương thời, cụ thể là so sánh với Ngô Tất Tố, đã nhận định: “Chủ đề không sâu sắc, sức tố

cáo không mãnh liệt, dữ dội bằng Tắt đèn (của Ngô Tất Tố). Nhưng ngòi bút tả thực chính

xác và tỉ mỉ của Trần Tiêu cũng giúp hiểu thêm về người nông dân và nông thôn”. [40, 77]

Năm 1999, Phạm Thế Ngũ, Thế Phong, Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Quang Thắng,...

trong các bài nghiên cứu về văn học giai đoạn 1930 – 1945, hoặc viết về Tự lực văn đoàn

đều có nhắc đến Trần Tiêu. Những giá trị về nội dung, nghệ thuật trong sáng tác của Trần

Tiêu đã được giới nghiên cứu, phê bình nhìn nhận, đánh giá toàn diện hơn.

Phạm Thế Ngũ, trong “Việt Nam văn học giản ước tân biên” (1999)(tập 3), đã nhận

xét “Trần Tiêu với một giọng bình dị và óc quan sát tỉ mỉ đi sâu vào những phong tục làng

xã, khao vọng, đình trung, mua nhiêu, bán xã, cưới xin, tống táng và nếp sinh hoạt cùng tâm

lí của người đàn ông (Con trâu, 1940) cũng như người đàn bà (Chồng con, 1942) ở nông

thôn”. [25, 691]

Trong cuốn “Từ điển tác gia Việt Nam” (1999), Nguyễn Quang Thắng cũng nhận

định Trần Tiêu là nhà văn chuyên viết về “đề tài đồng ruộng, mô tả chân thực về đời sống

của giới nông dân miền Bắc Việt Nam núp dưới bóng tre xanh, dầm mưa dãi nắng, chốn

bùn lầy nước đọng”. [36, 1466]

Ở bài “Trần Tiêu, nhà văn chân quê” trong “Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt

Nam”( 1999), nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh sau khi nhận xét về những đánh giá trước

đây về Trần Tiêu đã đi đến khẳng định: “…Trần Tiêu đã miêu tả được phong tục, tập quán,

sinh hoạt… của người dân quê, nhiều khi khá tường tận, tỉ mỉ, qua đó nổi lên những nhân

vật tiêu biểu cho các lớp người ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và phần nào cho

các làng quê Việt Nam nói chung”.[17, 233]

Nhìn chung, các ý kiến này đều xếp Trần Tiêu vào kiểu “nhà văn chân quê”, chuyên

viết về phong tục ở nông thôn.

Năm 2004, công trình khoa học, luận văn thạc sĩ đầu tiên về Trần Tiêu với tên

gọi “Văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu giai đoạn 1930 - 1945” của tác giả Nguyễn

Thanh Du (trường ĐHSP TP.HCM) như một bước mở đầu cho việc nghiên cứu sáng tác của

Trần Tiêu ở tầm của một công trình khoa học chuyên sâu thực sự.

Đến 2006, Vu Gia cho ra đời cuốn biên khảo “Trần Tiêu nhà văn độc đáo của Tự

lực văn đoàn” như một lời khẳng định thêm – Trần Tiêu xứng đáng được nghiên cứu, đánh

giá với tư cách của một tác giả văn học có vị trí và đóng góp cho văn học hiện đại Việt

Nam. Theo nhà biên khảo này, “Viết về nông thôn ngày ấy không thiếu người, nhưng nếu

nói nhà văn chuyên viết về nông thôn, hiểu đời sống người nông dân sau lũy tre xanh, theo

tôi, không ai bằng Trần Tiêu” [16, 323]. Vu Gia khẳng định thêm: “Qua trang viết của ông,

nhất là những trang viết về phong tục, chúng ta có thể thấy được cuộc sống lúc nào cũng

thân thiết, tốt đẹp và sáng sủa, nhưng cũng luôn có bóng tối và thương đau” [16, 324].

Mặc dù các ý kiến trên đều đánh giá không cao về nội dung hiện thực trong tác phẩm

của Trần Tiêu, thế nhưng dù ít nhiều, những ý kiến này đều nhận thấy, khi viết về nông

thôn, Trần Tiêu luôn miêu tả đời sống sinh hoạt của những người dân quê sau lũy tre làng,

nhất là những cảnh hội hè, đình đám, tế lễ, rước sách,... những mối tình giản dị, nên thơ của

trai làng gái làng gặp gỡ nhau trong một đám hội, đêm chèo... Tất cả đều in đậm dấu ấn văn

hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo chúng tôi, đây chính là những nét độc đáo riêng

làm nên phong cách của Trần Tiêu cũng như sức sống lâu bền cho các tác phẩm của ông.

Như vậy, bắt đầu từ ý kiến của Vũ Ngọc Phan (1942) đến công trình nghiên cứu của

nhà biên khảo Vu Gia (2006) đã có mười mấy nhận định, đánh giá khác nhau về văn nghiệp

của Trần Tiêu. Cùng nói về sự nghiệp sáng tác của một tác giả, có ý kiến cho là sâu sắc,

người thì cho là chưa đủ độ sâu của chủ nghĩa hiện thực, có ý kiến lại phân vân chưa biết

xếp Trần Tiêu vào xu hướng văn học hiện thực hay lãng mạn…Tuy nhiên chúng tôi nhận

thấy, điều mà các ý kiến trên đã làm được khi nghiên cứu về Trần Tiêu là: ở mức độ khác

nhau, họ đều chỉ ra được những khía cạnh chính trong tác phẩm của nhà văn này ở việc

miêu tả những lễ nghi phong tục, về sinh hoạt hội hè, đình đám,... ở nông thôn Việt Nam,

vùng đồng bằng Bắc Bộ trước cách mạng tháng Tám. Chỉ tiếc rằng, những nhận định đánh

giá ấy vẫn còn rời rạc, chưa được hệ thống thành các chuyên luận hoặc một công trình khoa

học chuyên sâu thực sự về văn nghiệp của Trần Tiêu.

Hệ thống lại các biểu hiện ấy, chúng tôi thấy trong sáng tác của Trần Tiêu có dấu ấn

của văn hóa làng xã, cụ thể là văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đó chính là hướng

mà chúng tôi muốn tiếp cận nhằm khẳng định giá trị các sáng tác và vị thế của Trần Tiêu

trên văn đàn Việt Nam.

4. Đóng góp của luận văn

Với mục tiêu trên, chúng tôi đi tìm hiểu về giá trị nội dung và những thành công về

nghệ thuật trong sáng tác của Trần Tiêu để thấy rõ những đặc sắc của ông khi viết về đề tài

nông thôn, cụ thể là vấn đề văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, đồng thời để

thấy rõ thêm về văn hóa làng xã Việt Nam nói chung qua một thời kì của lịch sử dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp lịch sử - cụ thể:

Nghiên cứu vấn đề văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần

Tiêu, chúng tôi đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đời và các thời kì phát triển của nó để có cái

nhìn, cách đánh giá đúng đắn, khoa học về giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả trong

nền văn học nước nhà.

5.2. Phương pháp so sánh văn học:

Chúng tôi sử dụng phương pháp này với mục đích muốn so sánh một số truyện ngắn,

tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời có gần phong cách và nội dung phản ánh với các tác

phẩm của Trần Tiêu để làm rõ những vấn đề cần giải quyết. Và đồng thời qua đó, để nhận

diện và khẳng định phong cách nghệ thuật của Trần Tiêu.

5.3. Phương pháp hệ thống:

Luận văn nghiên cứu về văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của

Trần Tiêu nên phải xuất phát từ từng tác phẩm, khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố trong

một chỉnh thể nghệ thuật. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp hệ thống sẽ giúp cho người

nghiên cứu tránh được nguy cơ nhận biết thiếu tính khái quát, chỉ thấy được cái bề ngoài

không thấy được bản chất vấn đề.

5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành:

Kết hợp các kiến thức từ các lĩnh vực, các bộ môn, chuyên ngành có liên quan sẽ

giúp cho vấn đề nghiên cứu được sâu rộng, toàn diện và sâu sắc hơn.

5.5. Phương pháp phân tích tác phẩm dưới góc độ thi pháp học.

Các phương pháp trên sẽ được kết hợp sử dụng linh hoạt trong quá trình nghiên cứu,

trình bày để làm sáng tỏ vấn đề.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ được tổ chức thành 3 chương như sau:

Chương 1: Giới thuyết chung về văn hóa Việt Nam và văn hóa làng xã vùng

đồng bằng Bắc Bộ

Nghiên cứu văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần Tiêu,

chúng tôi bắt đầu với việc xác định nội hàm của các khái niện: văn hóa Việt Nam và những

đặc trưng của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm cơ sở lí luận cho việc triển

khai đề tài.

Chương 2: Văn hóa tổ chức đời sống làng xã trong sáng tác của Trần Tiêu

Trong chương này, người viết đề cập đến các nội dung: thiết chế xã hội, phong tục

tập quán, văn hóa sinh hoạt trong sáng tác của Trần Tiêu, đây vốn là những vấn đề mang

tính đặc trưng riêng trong đời sống cộng đồng làng xã Bắc Bộ. Qua đó để chúng ta có thể

thấy được những nét đẹp của thuần phong mỹ tục, cũng như những hạn chế của các hủ tục

lạc hậu đang đè nặng lên cuộc sống của người dân quê. Đó là những biểu hiện cụ thể của

văn hóa làng xã trong phạm vi hiện thực được phản ánh trong sáng tác của Trần Tiêu.

Chương 3: Văn hóa làng xã qua tính cách nhân vật

Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Không chỉ dừng lại trên bình diện

phản ánh đời sống xã hội nói chung, Trần Tiêu còn đi sâu miêu tả tính cách, tâm lí của

người nông dân “chốn bùn lầy nước đọng”. Đó là những biểu hiện của văn hóa làng xã qua

tính cách nhân vật trong tác phẩm của ông.

CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

1.1 Văn hóa Việt Nam

1.1.1. Về khái niệm văn hóa

Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc

là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, là tiềm năng sáng tạo vô hạn của dân tộc

đó.

Từ thế kỉ XIX, văn hóa thực sự đã trở thành đối tượng của việc nghiên cứu khoa học

như dân tộc học, văn hóa học, xã hội học,… Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định

nghĩa nhất quán về văn hóa.

Văn hóa (Culture) là 0TUkhái niệmU0T mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu, cách lý

giải khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của 0TUcon ngườiU0T. Người

ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu

văn hóa như là lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như một trình độ học

vấn.

Khi nói về vấn đề văn hóa, mỗi người có mỗi quan điểm khác nhau. Trong cuộc sống

hàng ngày, văn hóa còn được hiểu là cách sống tức là phong cách ăn, ở, đi đứng, cách cư xử

(với đồng loại, môi trường, với bản thân) và cả tín ngưỡng, đức tin, phong tục,… của một

người hay cả tập thể người.

Theo quan niệm của 0TUUNESCOU0T: “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần

và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người

trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ

bản của con người, những hệ thống và giá trị, tập tục và tín ngưỡng.” (38, 10)

Theo Edouard Herriot, thì “văn hóa là cái còn lại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn

thiếu khi người ta đã học tất cả”.[38, 1]

Theo từ điển Tiếng Việt 1992, văn hóa được định nghĩa là “Tổng thể nói chung những

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. [17,1079]

Như vậy, với các định nghĩa này, nội hàm của khái niệm văn hóa được hiểu ở các cấp

độ khác nhau:

Thứ nhất, văn hóa được xem là văn học và nghệ thuật.

Thứ hai, văn hóa được xem là lối sống (ngôn ngữ giao tiếp, ẩm thực, trang phục, cách

cư xử…) là lòng tin, tín ngưỡng, phong tục… tức là hệ thống các giá trị tinh thần của một

người, một nhóm người hay một cộng đồng, xã hội.

Thứ ba, văn hóa được xem là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người và vì con người.

Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu văn hoá theo hai nghĩa rộng và hẹp. Nghĩa

rộng, văn hoá bao gồm các giá trị vật chất (văn hoá vật chất) và giá trị tinh thần (văn hoá

tinh thần) do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch

sử, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được hiểu cụ thể như

các ngành, lĩnh vực văn học, nghệ thuật, học vấn…

Trong tất cả các định nghĩa về văn hóa, chúng tôi nhận thấy cách trình bày của Trần

Ngọc Thêm là có ý bao quát nhất. Theo tác giả này, “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực

tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [37, 10]

1.1.2. Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam

Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Nét nổi bật khi nói đến văn hóa

Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định:

- Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

- Việt Nam là một nước nông nghiệp. Vì vậy, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa

nông nghiệp, cụ thể là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong đó, văn hóa làng xã là kết tinh

đậm đặc những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam.

Làng Việt Nam là một cộng đồng dân cư nông thôn của người Việt trên vùng đồng

bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam đã có lịch sử mấy thiên niên kỷ. Đó là một thiết chế

xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là

sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng trọt là

điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân, ở đó

họ sống, làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hóa với thiên nhiên, xã hội và

bản thân họ.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Làng, là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có

đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất trong xã hội phong kiến”.

[17, 539].

Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp. Cuộc

sống của người Việt Nam gắn bó với làng quán quê hương. Hình ảnh làng quê Việt Nam có

luỹ tre xanh, có mái nhà tranh, có người cày cấy đã trở nên rất thân thuộc trong tâm hồn

người Việt Nam. Lật lại những trang sử của ngành kiến trúc Việt Nam, người ta thấy rằng

kiến trúc Việt Nam ra đời rất sớm, có thể đã xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước, cách

nay khoảng 4000 năm. Làng xóm cũng xuất hiện vào thời kỳ này.

Làng Việt Nam là sự tích hợp của những gia đình với nhiều phương thức và quan hệ

khác nhau, ít thì dăm bảy chục, nhiều thì bốn năm trăm hộ, có quỹ đất, tín ngưỡng và phong

tục tập quán riêng. Làng là sự liên kết chặt chẽ dòng họ, giáp phe, phường hội… Các nhà

kiến trúc cho rằng làng xã Việt Nam có tính quần thể cao, có kiểu kiến trúc đơn giản nhẹ

nhàng phù hợp với khí hậu và tập quán của người Việt Nam. Làng luôn được bao quanh

bằng những luỹ tre xanh, sau luỹ tre xanh đó là những mái nhà tranh ấm cúng, nơi cưu mang

che chở cho con người. Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam,

nổi lên là gia đình (nhà) – làng – nước, với hai đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng và tính

tự trị.

Văn hóa làng Việt Nam là hiện tượng lịch sử cũng là hiện tượng dân tộc. Văn hóa làng

vốn có từ ngàn xưa nhưng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự ngưng kết đậm đặc biểu hiện

trong lối sống, phong tục tập quán, kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng – tôn giáo…Văn

hóa làng còn có cả một cơ sở vật chất là đình, chùa, miếu, lũy tre, bến nước, cây đa,… Tất

cả “những yếu tố vật thể và phi vật thể trên không đứng đơn lập, rời rạc mà hòa quyện vào

nhau, tích hợp lại thành bản sắc văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau như

một dòng chảy không bao giờ dứt”. [6, 10]

Khi nói về văn hóa làng, một số nhà nghiên cứu đã nêu bật được ba đặc trưng của làng

Việt Nam.

- Ý thức cộng đồng, thể hiện ở ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản xuất bảo

vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức...

- Ý thức tự quản, quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của làng.

- Tính đặc thù độc đáo riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn

giáo, thậm chí giọng nói và cả cách ứng xử.

Trong đó văn hóa vùng đồng bằng Bắc bộ với bề dày lịch sử hình thành là biểu hiện rõ

nét nhất cho văn hóa làng xã Việt Nam.

1.2. Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ

1.2.1. Khái niệm vùng văn hóa

Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ. Văn hóa vùng (hay văn hoá địa

phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất

định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về

ăn, mặc, ở, đi lại vận chuyển; về cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về

tín ngưỡng, phong tục và lễ hội; về các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về

các sắc thái tâm lí của cư dân..., từ đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng

khác. Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài,

do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương

đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt là giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hóa mật

thiết.

Theo tác giả Ngô Đức Thịnh, “Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương

đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ nguồn

gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã diễn

ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc

trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có

thể phân biệt với vùng văn hóa khác”. [38, 99]

Cũng theo tác giả này, cả nước ta có thể chia thành bảy vùng văn hóa. Đó là:

- Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ bao gồm lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và

sông Mã. Đây là đồng bằng châu thổ thuộc loại lớn nhất nước ta, nơi có nhiều điều kiện

thuận lợi về đất đai và khí hậu, canh tác nông nghiệp từ lâu có truyền thống thâm canh, đào

đê đắp điều làm thủy lợi để canh tác lúa và hoa màu, là cái nôi hình thành dân tộc và quốc

gia, là trung tâm của các nền văn minh lớn văn minh Đông Sơn, văn minh Đại Việt. Tuy

thống nhất về những đặc trưng chung nhưng văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ lại thể hiện

qua sắc thái địa phương của các tiểu vùng văn hóa như: tiểu vùng Đất Tổ - Vĩnh Phú (Xứ

Đoài), tiểu vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh (Xứ Bắc), tiểu vùng Thăng Long – Hà Nội, tiểu vùng

duyên hải Đông Bắc (Xứ Đông), tiểu vùng trũng Hà Nam Ninh, tiểu vùng Hưng Yên –

Hưng Nhân, tiểu vùng duyên hải Tiền Hải – Hải Hậu, tiểu vùng lưu vực sông Mã.

Đồng bằng Bắc Bộ vốn là cái nôi hình thành của người Việt. Xét về văn hóa, thì đây

chính là nơi đã sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển và nối tiếp nhau của lịch sử Việt Nam.

Có thể nói, trong sự phong phú đa dạng của văn hóa Việt Nam thì đồng bằng Bắc Bộ, với

lịch sử lâu đời của nó, có vị trí như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc.

- Vùng văn hóa Việt Bắc gồm địa phận sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên,

Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, nhưng xét về phương diện là vùng văn hóa thì Việt Bắc

bao gồm cả phần đồi núi Vĩnh Phú, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Đây là vùng cửa ngõ,

hành lang giao lưu văn hóa giữa nước ta với phía Bắc. Do vậy, bên cạnh những biểu hiện

của văn hóa người Việt thì ở đây cũng thấy rõ những ảnh hưởng của giao lưa văn hóa Hán.

- Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ là lãnh thổ rộng lớn thuộc địa phận

các tỉnh Lai Châu, Sơn La, một phần của Hoàng Liên Sơn, một phần của Hòa Bình và miền

núi Thanh Nghệ. Trong vùng hiện có hơn mười hai dân tộc cùng cư trú xen cài với nhau,

nhưng trong đó tộc Thái có dân số đông, trình độ phát triển mọi mặt cao hơn và đang có

những ảnh hưởng văn hóa đồng hóa với văn hóa các tộc khác, nhất là những tộc nói ngôn

ngữ Môn – Khơ me. Có thể nhận biết sắc thái văn hóa địa phương từ loại tiểu vùng văn hóa

và dạng văn hóa cảnh quan.

Ở đây gồm ba tiểu vùng văn hóa: tiểu vùng văn hóa Tây Bắc, tiểu vùng văn hóa miền

núi Bắc Trung Bộ (Thanh Nghệ) và tiểu vùng văn hóa hỗn hợp Thái – Mường, Mộc Châu –

Thường Xuân.

Về dạng văn hóa cảnh quan cũng gồm ba dạng: văn hóa cảnh quan thung lũng, văn hóa

cảnh quan rẻo cao và văn hóa cảnh quan rẻo giữa.

- Vùng văn hóa đồng bằng Duyên Hải Bắc Trung Bộ thuộc địa phận đồng bằng và

duyên hải các tỉnh Nghệ - Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Với đặc điểm

địa hình có sự xen kẽ, tiếp cận giữa núi, biển và đồng bằng đã ảnh hưởng nhiều đến đời

sống kinh tế, xã hội và văn hóa của cư dân. Người Việt ở đây vẫn làm nông nghiệp là chính

nhưng khác với đồng bằng Bắc Bộ, cư dân ở đây còn biết phát huy thế mạnh của rừng và

biển, tạo thành thế vững chắc đồng bằng – rừng – biển. Có thể phân vùng văn hóa này thành

hai tiểu vùng: tiểu vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh và tiểu vùng văn hóa Bình – Trị - Thiên, ranh

giới giữa chúng là Đèo Ngang.

- Vùng văn hóa Duyên Hải Trung và Nam Trung Bộ bao gồm phần đất từ đèo Hải Vân

ở phía Bắc đến Đông Nam Bộ ở phía Nam, nay thuộc địa phận các tỉnh Quảng Nam, Đà

Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đây là vùng đất đã

sáng tạo nên nền văn hóa đồng thau rực rỡ - văn hóa Sa Huỳnh. Từ thế kỉ XV, với quá trình

Nam tiến của người Việt, nơi đây đã diễn ra quá trình giao lưu giữa người Chăm và người

Việt. Sản phẩm của quá trình giao lưu, hòa hợp ấy đã hình thành ở hai tộc người này những

nền văn hóa chung, thể hiện qua các phương thức canh tác, giống cây trồng, hệ thống thủy

nông, nông cụ,… đến các hình thức thờ cúng, tín ngưỡng, âm nhạc, dân ca, truyện kể, lễ

hội…

Có thể phân chia vùng này thành hai tiểu vùng: tiểu vùng xứ Quảng và tiểu vùng

Khánh Hòa – Ninh – Bình – Thuận.

- Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên là địa bàn sinh sống của trên hai mươi tộc

người nói các ngôn ngữ Môn – Khơ me và Nam Đảo. Từ thế kỉ XX, người Việt lên sinh cơ

lập nghiệp trên Tây Nguyên ngày càng nhiều và đã hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc ở

đây. Đây là vùng văn hóa tuy thành phần tộc người rất phức tạp và đa dạng nhưng lại thống

nhất về các đặc trưng văn hóa. Có thể phân chia vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên

thành bốn tiểu vùng văn hóa, đó là: Trường Sơn, Bắc Tây Nguyên, Trung Tây Nguyên và

Nam Tây Nguyên.

- Vùng văn hóa Gia Định – Nam Bộ thuộc địa phận các tỉnh Nam Bộ, hình thành trên

vùng châu thổ của hai hệ thống sông chính là Cửu Long ở phía tây và sông Đồng Nai ở phía

đông. Đây là vùng đất với lịch sử khai thác còn rất trẻ, càng về phía tây, đất đai càng rộng,

nhiều rừng rậm và sình lầy, thủy triều ảnh hưởng sâu vào nội địa, đất đai còn bị nhiễm chua

mặn, khí hậu với hai mùa mưa, khô rõ rệt.

Nam Bộ là nơi sinh sống xen cài giữa các cộng đồng người Việt, Khơme, Chăm và

Hoa, nơi đây, từ xưa đến nay đã và đang diễn ra quá trình giao lưu, ảnh hưởng văn hóa khá

sống động giữa các tộc nói trên. Vùng văn hóa Nam Bộ cũng được chia thành tiểu vùng văn

hóa đồng bằng sông Cửu Long và tiểu vùng văn hóa sông Đồng Nai.

Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ

như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc. Cụ thể, văn hóa người Việt ở đồng bằng Bắc

Bộ là văn hóa lâu đời và tiêu biểu nhất cho văn hóa truyền thống dân tộc Việt, thể hiện qua

đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… .

1.2.2. Những nhân tố tác động tạo nên bản sắc văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc

Bộ.

1.2.2.1. Môi trường tự nhiên và các hoạt động sản xuất của cư dân.

Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Lấy vùng đồng bằng sông

Hồng làm cơ sở, tuy được bao bọc bởi rừng và biển vịnh Bắc Bộ nhưng nó vẫn là vùng “xa

rừng, nhạt biển” do quá trình khai thác theo phương thức “đao canh hỏa chủng” những rẻo

đất cao quanh đồng bằng của cư dân nơi đây từ xa xưa nên rừng chỉ còn phần nhiều ở miền

núi Việt Bắc và Tây Bắc. Yếu tố biển cũng nhạt nhoà vì biển ở đây nông, thấp, lầy lội và

nhiều bùn, không có dòng hải lưu lớn chảy qua nên người Việt từ đồng bằng đã lấn biển làm

nông nghiệp. Vì vậy, thói quen sinh hoạt của cư dân nơi đây là hướng vào làm nông nghiệp

một cách thuần tuý, trong đó chủ yếu là trồng lúa.

Hình thức nông nghiệp trồng lúa là tiền đề cho sự tập trung dân cư với lối sống định

cư. Bởi lẽ, đó là yếu tố quan trọng để hình thành nên tổ chức xã hội và tổ chức không gian

của đồng bằng Bắc Bộ mà trong đó làng xã là đơn vị cơ bản. Văn hoá làng xã mang tính

cộng đồng tự trị chặt chẽ được gắn với thiên nhiên thực vật qua hình ảnh rặng tre bao bọc

quanh làng, cây đa cổ kính đầu làng nơi tụ tập của người nông dân vào những trưa hè oi ả

trong giờ nghỉ trưa và qua tính cộng đồng về lãnh thổ với hình thức sở hữu ruộng đất... Từ

lâu đời, văn hóa người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.

1.2.2.2. Mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử của cư dân.

Đồng bằng Bắc Bộ vốn đã được các cư dân ở đây chinh phục từ lâu đời. Quá trình

chinh phục này cũng đồng thời “là qúa trình hòa hợp của các cư dân có nguồn gốc khác

nhau như Môn – Khơme, Mã Lai – Đa Đảo, Tày – Thái cổ và cả Tạng – Miến nữa”.[5.

tr.298] Tộc người Việt đầu tiên được hình thành từ quá trình hòa hợp ấy đã chiếm cứ vùng

đồng bằng châu thổ này và trở thành tộc người chủ thể ở đây. Mọi tín ngưỡng của cư dân

trồng lúa nước, các tục thờ cúng Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề,… có mặt hầu

hết trên khắp làng quê Bắc Bộ.

1.2.2.3. Trình độ phát triển kinh tế – xã hội của cư dân trong vùng.

Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ phì nhiêu với truyền thống trồng lúa nước

lâu đời, dân cư đông đúc. Và để giải quyết bài toán về vấn đề dân số, ngay từ lâu, đồng bằng

Bắc Bộ đã đi vào hướng thâm canh cây lúa và ngày càng đạt được năng suất cao. Cùng với

việc gia tăng mùa vụ, việc gieo trồng các giống lúa mới cho năng suất cao là việc thực hiện

các biện pháp thủy lợi hóa, cơ giới hóa, theo hướng kinh nghiệm cổ truyền quen thuộc “nhất

nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” đã tạo nên những biến đổi khá cơ bản nền nông nghiệp ở

đây. Tuy lúa là cây trồng chủ yếu nhưng cũng xuất phát từ nhu cầu giải quyết bài toán dân

số, người nông dân ở đây cũng đã có sự mở rộng đa dạng về việc trồng các loại cây hoa màu

khác nhau. Tất cả vẫn còn ghi đậm dấu ấn trong tâm lí con người vốn ở trình độ nông

nghiệp tiểu nông.

Bên cạnh đó, do có nhiều thời gian nông vụ rảnh rỗi kéo dài nên người nông dân ở đây

hầu như người nào cũng biết thêm một nghề thủ công từ đơn giản đến tinh xảo như đan lát,

làm gốm, dệt vải, … nhằm thỏa mãn nhu cầu tự cung tự cấp, làm tăng thêm nguồn thu nhập

gia đình, làng xóm… Xét ở phương diện này, đồng bằng Bắc Bộ từ khá sớm cũng đã trở

thành quê hương của nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, thêu thùa,… nó gắn chặt với nghề

nông tang của mỗi gia đình người nông dân. Từ đấy, làng quê Bắc Bộ lại hình thành nên

hoạt động thương nghiệp kiểu chợ quê, cái đã góp phần làm nên nét đặc trưng cho đời sống

văn hóa của cư dân nơi đây. Chợ quê ở làng Bắc Bộ đóng vai trò là trung tâm trao đổi kinh

tế, văn hóa của làng xã cổ truyền, là nơi khắc sâu những vẻ đẹp về sự đảm đang, tháo vát

của người phụ nữ Bắc Bộ xưa.

1.2.2.4. Những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa.

Với vị trí là cái nôi hình thành dân tộc, là quê hương của các nền văn hóa nổi tiếng trải

suốt tiến trình lịch sử văn minh Việt Nam như: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn

hóa Việt Nam,… đồng bằng Bắc Bộ lại có thêm Thăng Long là trung tâm văn hóa quan

trọng trong việc góp phần làm nên những thành tựu tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam. Chính

nơi đây, ngay từ buổi đầu khai hoang đã diễn ra quá trình đấu tranh và giao lưu sống động

giữa các nền văn minh, văn hóa Đông Sơn với văn minh văn hóa Trung Hoa cổ đại trên tinh

thần “vừa đồng hóa vừa chống đồng hóa giữa những kẻ đi đô hộ Hán tộc và những người

bản địa Việt tộc”. [39, 142]

Trong tiến trình lịch sử hình thành cùng việc giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa

khác, đồng bằng Bắc Bộ cũng đồng thời tiếp nhận những ảnh hưởng của các tôn giáo, tín

ngưỡng, nhưng tất cả đều được tiếp nhận trên tinh thần cởi mở và sáng tạo. Phật giáo, Đạo

giáo và cả Nho giáo khi du nhập vào đây đều được tiếp nhận và cải biến trên tinh thần dân

gian hóa, tất cả trở thành một thứ đạo lí ứng xử rất riêng của cư dân Bắc Bộ, làm nên sắc

thái văn hóa độc đáo cho đồng bằng Bắc Bộ.

“Nói tóm lại, đồng bằng Bắc Bộ mang những sắc thái văn hóa riêng trong vườn hoa

văn hóa nhiều hương sắc Việt Nam. Nó vừa mang trong mình truyền thống lâu đời bền

chắc, vừa thích ứng với những biến động lịch sử, đóng vai trò định hướng cho đường đi của

dân tộc và đất nước”. [39, 166]

1.2.3. Những đặc trưng của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ

Bắc Bộ là cội nguồn đồng thời là trung tâm của đời sống chính trị, xã hội và văn hóa

của cả nước. Ngay từ sớm, cư dân ở đây đã hình thành và định hình những truyền thống văn

hóa lâu đời, thể hiện cả trong đời sống sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần. Tổ chức xã hội của

cư dân đồng bằng Bắc Bộ là làng xã cổ truyền, tiêu biểu nhất cho thiết chế làng xã của nước

ta.

Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trên cơ sở nền nông nghiệp

lúa nước tiểu nông trong một vùng đồng bằng đóng khép. Cư dân ở đây làm nông nghiệp

một cách thuần túy, cư dân chủ yếu là nông dân.

Bên cạnh những đặc điểm chung, làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ còn mang một vài

nét riêng như sau:

1.2.3.1. Tính cộng đồng, hòa hợp và thích nghi tạo nên lối sống “vì nghĩa vì tình”.

Làng Việt Bắc Bộ hình thành từ lâu đời, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín,

bền vững trên cơ sở liên kết của nhiều hình thức tổ chức mà mỗi hình thức tổ chức đó có

ảnh hưởng gần như đến từng thành viên trong làng và dưới áp lực đó, có cái hiện hình, có

cái ẩn tàng, đặc biệt là của lệ tộc, lệ làng, mà họ tham gia tạo nên. Người dân sống gắn bó,

quanh quẩn với biểu tượng làng của mình, gắn bó chặt chẽ với xóm giềng, họ tộc, gia đình,

làng nước.

Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, là tế bào sống của xã hội Việt. Nó

là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy chuyển sang công xã nông thôn. Các vương

triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó

trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ trở thành một tiểu

xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS Nguyễn Từ Chi thì làng

Việt Bắc Bộ là một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến,

ruộng công, đất công vốn là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây

“nhạt nhòa” (chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi) chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một

lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự

“bằng vai”, “bằng vế” như câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Sự gắn

bó giữa con người với con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu

trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự

gắn bó bởi các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực đạo đức, xã hội. Đảm bảo cho những

quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Đó là những quy định khá chặt chẽ

về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất

và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở

thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận.

Mặt khác, cuộc sống nông nghiệp vốn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, mà thiên tai thì

không chừa ai, “lụt thì lút cả làng”, đồng thời, do tính chất thời vụ của nghề nông nên để

phòng chống thiên tai, cho kịp thời vụ, mọi người trong làng phải liên kết, dựa vào nhau và

hỗ trợ cho nhau. Điều này đã tạo nên tính cộng đồng, một nét đặc trưng chung cho tất cả

làng xã ở Việt Nam mà làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi biểu hiện rõ nét nhất.

Xét theo địa bàn cư trú của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, ta có được tổ chức làng

xóm. Còn quan hệ chi phối và ràng buộc các thành viên trong làng chủ yếu được xây dựng

theo quan hệ huyết thống. Hay nói đúng hơn, làng ở đây chính là sự mở rộng và phát triển

từ gia đình và lớn hơn là gia tộc. Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ rất coi trọng gia đình. Đây

không phải là kiểu gia đình hạt nhân mà là kiểu gia đình mở rộng (gia đình nhiều thế hệ, đại

gia đình, gia tộc). Ở Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Bộ, làng và gia tộc dường như không có sự

phân biệt rạch ròi.

1.2.3.2. Tín ngưỡng “tôn giáo thế tục” là một đặc thù riêng của cư dân nông

nghiệp Bắc Bộ.

“Ở Việt Nam, không có tôn giáo quốc gia, nhưng lại có sự tồn tại của dạng tôn giáo đa

thần của làng xã, dòng họ, xóm ngõ, phe giáp”. [3, 15] Khắp các làng quê Việt Nam, ở đâu

có thần, nơi nào cũng thờ thần. Tín ngưỡng phổ biến ở trong văn hóa làng là tục thờ đất và

nước, tiêu biểu cho tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp, sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.

“Đất có thổ công, sông có hà bá”. Đất, nước từ lâu đã trở thành những vị thần bảo hộ trong

đời sống tâm linh của họ và được thờ, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như thờ

Thổ thần, Thành hoàng, Thủy thần…

Tín ngưỡng của gia đình và dòng họ là tục thờ cúng tổ tiên. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu

như làng nào cũng có vài ba nhà thờ họ. Tục thờ cúng tổ tiên đã góp phần tích cực củng cố

mối quan hệ dòng họ, cộng đồng huyết tộc, củng cố quan niệm “uống nước nhớ nguồn” của

người Việt. Còn tín ngưỡng cao nhất trong một làng là tục thờ Thành hoàng. Đây là công

việc của cả làng, nhằm góp phần củng cố cộng đồng làng xã. Cùng với đình làng, tục thờ

Thành hoàng là hiện tượng đặc sắc trong văn hóa làng của người Việt ở Bắc Bộ.

Như trên đã nói, cuộc sống nông nghiệp vốn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên

nên người nông dân ở làng quê Bắc Bộ đã sớm ý thức về sự hòa hợp với thiên nhiên. “Nhờ

trời mưa thuận gió hòa”, nhu cầu hòa hợp với thiên nhiên một mặt tạo nên quan niệm phải

hòa hợp giữa quan hệ giữa người với người, mặt khác lại tạo nên tính cách bao dung, cởi

mở mà rất thực dụng trong việc tiếp nhận và dung hòa các tôn giáo từ Phật giáo, Đạo giáo,

Nho giáo… Ở đây là “tôn giáo thế tục” của những tiểu nông tự cung tự cấp, mang tính thực

dụng vì trần thế, mà “không vì tương lai được lên với chúa”. [6, 68] Sự thờ cúng thần linh là

vì hiện thế chứ không phải vì tương lai. Quan hệ giữa người và thần ở ngay trong trần thế,

chứ không ở thiên đường hay một cõi hư vô xa xôi nào.

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, loại tôn giáo thế tục ở làng xã Bắc Bộ cũng

có quan niệm về sinh tử nhưng sinh tử ở đây chỉ là sự chuyển hóa. “Thần linh không “chết”,

không sang bên kia “thế giới”, thần vẫn sống xung quanh ta. Chết và sống cũng như âm và

dương, hai mặt thống nhất trong một vòng tuần hoàn”.[6, 53] Với họ, thần linh tồn tại ngay

trong cuộc đời hiện tại. Cũng giống như tổ tiên, phần lớn các thần linh khác đều có lý lịch

cụ thể, thần phả rõ ràng, thần tích chi tiết như con người. Thần Thành hoàng là vị thần có

trách nhiệm bảo vệ cho cuộc sống, sinh mệnh của dân làng, cũng được ghi sắc, được phong

thần. Chính vì vậy, mỗi khi cuộc sống nông nghiệp gặp phải khó khăn, thiên tai mất mát,

người nông dân lại hướng đến các vị thần bảo hộ này để cầu xin sự giúp đỡ. Biểu hiện rõ nét

cho sự cầu mong này là sự tồn tại của những lễ hội ở làng quê, còn gọi là hội làng.

Hội làng là sinh hoạt tôn giáo, nghệ thuật thể thao truyền thống của cộng đồng làng,

là nét đặc sắc trong văn hóa làng Việt nói chung và của làng quê Bắc Bộ nói riêng. Xuất

phát từ nhu cầu mong ước về một cuộc sống bình yên, no đủ, sự bội thu cho mùa màng, sự

sinh sôi nảy nở của con người mà ở khắp các làng quê Bắc Bộ, đâu đâu cũng có hội làng.

Hội làng thường được tổ chức ở đình. Lễ hội thường gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ

thường gắn với các nghi thức uy nghiêm như tế thần, yết cáo ở đình, đền. Phần này thường

do các lão làng, những người có uy tín, được sự tín nhiệm của dân làng đảm nhiệm. Còn

phần hội là hệ thống hội vui chơi mang tính chất giải trí nhiều hơn, như hội rước kiệu, đấu

vật, chơi cờ người, thi thổi cơm,… Thực ra trong phần hội cũng có sự thực hiện của phần lễ.

Khi dân làng rước kiệu, chơi cờ người… cũng đều xuất phát từ mong muốn cầu xin Thành

hoàng phù hộ cho dân làng, cho bản thân.

Hội làng là thời khắc tụ tập của cả dân làng sau những ngày mùa vất vả. Mọi người

đến với lễ hội không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, gái trai. Họ đến dự lễ hội với

tất cả niềm cộng cảm, sự hồ hởi. “Lễ hội được tổ chức nghiêm trang, từ cụ già đến thanh

niên đều ăn mặc đẹp nhất. Cờ xí rợp trời. Chiêng trống vang lừng cuốn hút. Sự giao cảm

hòa hợp của người tham dự cũng là sự giao cảm giữa cái chung và cái riêng, cái cộng đồng

và cái cá thể. Tất cả như đều hướng về một niềm thiêng liêng nhưng lại rất gần gũi”. [6, 23-

24]

Bên cạnh đó, sự lạm dụng, lãng phí thời gian, sức người, sức của… cũng là phần hạn

chế lớn của các lễ hội ở làng quê Bắc Bộ. Nhưng nhìn chung, mục đích mà lễ hội nông

nghiệp muốn đem đến cho người nông dân và làng xã chính là việc khơi gợi, đánh thức và

nuôi dưỡng trong tâm hồn mọi người những nét đẹp truyền thống như đề cao gia đình, cộng

đồng làng xã, tạo tình đoàn kết, cởi mở, bình đẳng và thương yêu nhau. Cho nên, chúng ta

vẫn có thể khẳng định, lễ hội ở làng quê Bắc Bộ là “môi trường cộng cảm văn hóa, cộng

mệnh”, là sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là di sản văn hóa nghệ thuật quý giá và có vị trí

quan trọng trong việc tạo nên bản sắc cho văn hóa làng.

1.2.3.3 Sự phân chia ngôi thứ cụ thể và nghiêm khắc trong làng.

Vấn đề ngôi thứ là một vấn đề quan trọng đối với người dân ở khắp làng quê Bắc Bộ.

Trong gia đình có thân phận trên dưới, ra làng xã có sắp xếp thứ tự ngôi thứ. Đây là ngôi

thứ trong đình làng, mỗi ngôi bậc có một vị thế trên dưới, ở giữa và hai bên rõ ràng, thường

gọi là “chiếu trên”, “chiếu dưới”.

Ngôi đình là linh hồn của làng, là nơi bàn bạc, nơi quyết định việc công, nơi tế lễ, nơi

mở hội… “Đình làng trong tâm thức của người dân Bắc Bộ là biểu tượng cao cả mà uy lực

của đình ảnh hưởng đến cuộc sống toàn dân làng, vì vậy khi đi qua cửa đình mọi người phải

“hạ mã”, phải cúi đầu”.[6, 17] Ai đó vào đình làng mà ngồi sai chỗ là điều tối kỵ, bị kết tội

không nhẹ. Người có chân quan viên ra đến đình đám có danh có giá, có quyền ăn nói.

Suốt đời lam lũ với công việc đồng ruộng, quanh năm dầm mưa dãi nắng, “bán mặt

cho đất, bán lưng cho trời”, người nông dân vẫn mong ước theo lệ làng, một ngày nào đó sẽ

có được một chỗ ở đình làng, thoát khỏi cuộc đời bạch đinh nghèo hèn. Điều đó là vinh dự,

là lẽ sống của người dân. Còn đối với quan viên hàng xã, những người đã có ít hay nhiều

tiếng nói ở chốn sân đình thì họ vẫn muốn có ngôi thứ cao hơn, muốn được ngồi ở “chiếu

trên”,nơi dành cho những người có chức sắc cao hoặc những người cao tuổi nhất ở trong

làng. Những người này thường được trọng vọng và được phần bổng lộc mang về cho con

cháu. Câu tục ngữ “Một miếng việc làng hơn một sàng xó bếp” là để chứng tỏ cái giá trị của

người nắm một phần việc làng. Đây không phải là vấn đề tham ăn tham uống mà là sự thừa

hưởng lộc thánh, là miếng phần việc làng. Với dân làng, tôn trọng miếng phần việc làng

chính là tôn trọng vị Thành hoàng cai quản trong làng, vì đây là thừa hưởng một miếng

phần ngài đã hưởng.

Cùng với câu chuyện ngôi thứ, đình làng Bắc Bộ còn là nơi thể hiện rõ nhất cho lối

ứng xử theo tục lệ, phần lớn là ứng xử theo tâm, theo tình. Biểu hiện dễ nhận thấy của lối

ứng xử này là việc chuyển các quan hệ pháp luật sang quan hệ văn hóa, lấy quan hệ văn hóa

để giải quyết các quan hệ kinh tế và pháp luật. Đây là sản phẩm của cộng đồng gia đình,

dòng họ và làng xã, của huyết thống kết hợp với địa vực. “Đưa nhau đến trước cửa quan,

bên ngoài là lý, bên trong là tình”. Những cách ứng xử này chính là lệ làng, là cái tạo nên

tính tự trị – tự quản của làng quê Việt Nam, mà làng xã ở Bắc Bộ là nơi in dấu ấn rõ nét

nhất. Kết cấu quyền lực mang tính tự quản của làng xã Bắc Bộ được xây dựng trên cơ sở

quyền trưởng lão. “Triều đình trọng tước, làng nước trọng xỉ”, câu tục ngữ này cho thấy sự

khác nhau cơ bản giữa luật nước và lệ làng. Vốn dĩ, lệ làng do luật nước, phép vua đặt ra

nhưng phép vua thường được linh động thay đổi tùy theo lệ của từng làng. Và phần lớn ở

khắp các làng quê Việt Nam, lệ làng đôi lúc lại không theo luật nước, thế nên dân gian mới

có câu “Phép vua thua lệ làng”. Đây vừa là nét linh hoạt nhưng cũng là nơi thể hiện nhiều

mặt hạn chế của lệ làng và chính nó đã làm nên hiện tượng rất đặc biệt của văn hóa làng xã

Việt Nam nói chung và làng Bắc Bộ nói riêng.

Như trên đã nói, văn hóa làng là một hiện tượng độc đáo của lịch sử, của văn hóa Việt

Nam, tiêu biểu là văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nghiên cứu vấn đề này (thông

qua sáng tác của một nhà văn) để có thể khẳng định những mặt mạnh và đồng thời chỉ ra

những mặt còn hạn chế và bất cập nhằm khắc phục trong tình hình hiện nay là một việc làm

nhằm góp phần thể hiện thái độ trân trọng đối với giá trị sáng tác của một tác giả văn học

nói riêng và góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói chung.

CHƯƠNG 2: VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG LÀNG XÃ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU

Nói đến văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng làng xã, tức là chúng ta đang đề cập đến

văn hóa tổ chức những mối quan hệ giữa người và người trong chính cộng đồng đó. Biểu

hiện của mối quan hệ này chính là sự chung nhau về tâm linh, về sinh hoạt, những chuẩn

mực xã hội, đạo đức, những phong tục, tập quán,… và những di sản hữu thể chung như

đình, chùa, miếu… Những quan hệ này được đảm bảo bằng những quy định bất thành văn

như: lệ làng, các hương ước, khoán ước của làng.

Làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng là một cộng đồng về văn hóa, xã hội với các

thiết chế, các phong tục, tập quán riêng. Đời sống của cộng đồng dân cư được quy định bởi

các giá trị và chuẩn mực chung về sinh hoạt, tín ngưỡng, lối sống, tâm lý, tư tưởng, đạo đức,

những phương thức ứng xử của mỗi thành viên trong gia đình, trong cộng đồng, với tự

nhiên và với môi trường sống.

Trần Tiêu sinh ra và lớn lên tại làng Úm Mạt, tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải

Dương. Úm Mạt là một làng nhỏ như bao nhiêu làng xã khác ở vùng Bắc Bộ. Ông đã có

suốt một thời gian dài sống và gắn mình với làng quê, nhất là những năm cuối đời, ông đã

sống hết đời mình ở quê nhà, được gần gũi và sinh hoạt cùng với những người dân quê.

Điều này đã giúp ông hiểu thêm về họ, như hiểu chính mình. Vì thế, khi sáng tác, ông

chuyên viết về nông thôn. Nông thôn Việt Nam hiện lên trong sáng tác của Trần Tiêu “tồn

tại cụ thể với đơn vị làng”.

Thực ra, việc chọn nông thôn làm đề tài để sáng tác không chỉ riêng có Trần Tiêu.

Nông thôn vốn là không gian quen thuộc trong sáng tác của các nhà văn hiện thực phê phán.

Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… đều có tác phẩm viết về

nông thôn Việt Nam. Những nếp sinh hoạt, những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ giữa

nông dân với giai cấp thống trị, những khốn khó trong đời sống người nông dân nghèo do

nạn sưu thuế gây nên như ở làng Vũ Đại, làng Đông Xá… đã trở nên quen thuộc với bạn

đọc. Ngay cả một số cây bút lãng mạn như Nhất Linh, Khái Hưng Hoàng Đạo cũng đều có

tác phẩm viết về nông thôn. Trần Tiêu cũng viết về nông thôn, cụ thể là ông đã đi vào quan

sát và miêu tả bản sắc văn hóa của làng xã Bắc Bộ. Với cách thể hiện đề tài này, ông đã tạo

cho mình một phong cách riêng, chúng ta có thể gọi ông là nhà văn của phong tục làng quê

Bắc Bộ.

Cuộc đời của Trần Tiêu gắn liền với quê nhà. Những ngày sống ở làng quê, ở đồng

ruộng Bắc Bộ, nhà văn đã có dịp quan sát và thấu hiểu đầy đủ những nét sinh hoạt trong đời

sống của những người dân quê. Thế nên, trong sáng tác của mình, một cách ngẫu nhiên ông

đã miêu tả tỉ mỉ, chính xác những lề thói, phong tục, những sinh hoạt về cả vật chất lẫn tinh

thần của họ, trong đó có cả những điều hay lẫn điều dở. Cụ thể là các vấn đề về ngôi thứ, tín

ngưỡng, phong tục tập quán, các sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần, vốn là những yếu tố đặc

trưng làm nên chất văn hóa làng xã trong sáng tác của ông.

2.1. Thiết chế xã hội

Làng Việt ở Bắc Bộ là một cộng đồng được hình thành dựa trên sự tan rã dần của công

xã nông thôn. Người dân Việt Nam ở làng Bắc Bộ có những điểm chung nhau về cuộc sống

hệ lụy gia đình, làng, nước.Yếu tố văn hóa này in đậm trong ý thức của người dân. Và trong

tổ chức làng xã thì thường được liên kết theo kiểu các gia đình liền kề nhau, xung quanh

làng có lũy tre bao bọc, có cây đa cổng làng, có nơi thờ tự chung, có lễ hội dân gian và mùa

vụ… Ngoài ra, làng xã Bắc Bộ lại chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo như những lề thói,

khuôn phép, thứ bậc tôn ti trong gia tộc và ngoài làng xã, tất cả rất được xem trọng trong

đời sống hằng ngày. Sinh hoạt ở đình làng là biểu hiện rõ cho những mối quan hệ đó. Gắn

với đình làng là quan niệm về ngôi thứ, về sự phân chia địa vị, thân phận của người dân mỗi

khi ra chốn đình làng.

Và như trên đã nói, Trần Tiêu sống nhiều ở làng quê Bắc Bộ, ông chuyên viết về nông

thôn, về những sinh hoạt trong đời sống của người nông dân. Vì thế, hầu hết trong các tác

phẩm của mình, ở những mức độ khác nhau, Trần Tiêu đều đề cập đến vấn đề ngôi thứ.

2.1.1. Sự phân chia ngôi thứ ở làng xã

Đình làng là một hiện tượng rất Việt Nam. Với Bắc Bộ, đình làng có một vị trí rất quan

trọng. Đó là nơi để hội họp bàn việc làng, việc xã, là nét đặc trưng tạo nên tính tự trị và sự

tồn tại lâu đời của làng xã Bắc Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.

Gắn với sinh hoạt đình làng là sự phân chia ngôi thứ. Liên quan đến lợi ích, đến vật

chất, ngôi thứ ở Bắc Bộ đã thực sự trở thành một hủ tục với nhiều tệ đoan(1) đang đè nặng

lên cuộc sống của người dân nghèo. Với sự quan sát tỉ mỉ về đời sống ở nông thôn, Trần

Tiêu đã tái hiện lại một cách sinh động những câu chuyện oái ăm, xoay quanh vấn đề ngôi

1. Tệ đoan d. (id). Mối tệ, điều tệ hại xã hội (Từ điển Tiếng Việt 1992)

thứ ở chốn đình trung.

Trọng danh vị là tích cách tâm lí phổ biến của người dân Bắc Bộ. Điều này vốn có

thực. Đó là tâm lí gắn với ước muốn đổi đời của người nông dân nghèo suốt một đời lam lũ

nơi đồng ruộng. Đất lề quê thói, đã sống trong cùng một làng thì không có việc cá nhân tồn

tại độc lập một mình, tất cả phải duy trì theo cộng đồng, phải theo đúng lệ làng. Vì vậy, bên

cạnh hạn hán thiên tai mất mùa thì chính việc phải lo lắng về chức vị, về những đóng góp

theo đúng lệ làng là nguyên nhân khiến cho giấc mơ về cuộc sống no đủ của người nông dân

nghèo ít khi thành hiện thực. Và truyện “Con trâu” qua việc tái hiện lại hoàn cảnh cuộc sống

gia đình bác Chính, đã phần nào lột tả được đầy đủ những tâm trạng, nỗi niềm như thế của

người dân quê.

“Ruộng sâu trâu nái” là giấc mơ đeo đẳng suốt cuộc đời của người nông dân này. Có

những vụ mùa bội thu, cứ ngỡ bác sẽ dễ dàng thực hiện được giấc mơ của mình. Nhưng

chính vì việc gia đình bác phải chạy lo cho bác cái chức xã, để thoát khỏi thân phận bạch

đinh hèn mọn mặc dù bác không thiết gì đến “miếng thịt, nắm xôi trong làng”. Cũng bởi lệ

làng, cho nên với thân phận bạch đinh, bác có muốn yên ổn làm ăn cũng không xong. “Bác

năm nay hơn bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác đã phải ra cầm tán hay khiêng kiệu

với bọn mục đồng, động có quan về là bác phải thân ra dọn đường, rẫy cỏ dưới con mắt hỗn

xược của một anh quản xã chỉ lớn bằng trạc con trai bác. Động việc gì nặng nhọc là đến tay

bác […]” Lại còn một lẽ nữa: bác đi tới đâu cũng bị người ta chế giễu, khinh bỉ […] Bác

động mở mồm là họ đã chặn họng: “Còn danh giá gì cái thằng bạch đinh mà cũng ăn với

nói!”. [29, 51-52] Tiếp đến sau cái chức xã mà bác vừa có được là hàng trăm thứ đóng góp

cho làng, phải trang hoàng nhà cửa cho bằng làng, bằng xóm. Rồi từ cỗ mừng thôn, lễ tết,

hội quan lão, việc đình, việc đám… hàng trăm thứ đóng góp như là một gánh nặng trút

xuống đầu gia đình bác. Và cuộc sống khó khăn, nghèo túng vẫn cứ bám riết, đeo đẳng suốt

cuộc đời người nông dân nghèo này. Đây là lời tâm sự của bác xã Chính gái nói với chồng.

“Mình ạ, từ tết đến giờ nhà ta tiêu hết hơn chục bạc rồi đấy! […] Tiêu thế thì còn mong sao

không công nợ… Núi cũng hết nữa là nhà mình. Nói rồi vợ ngồi xuống phản, thừ mặt đăm

đăm nhìn ra cửa”. [29, 120] Nỗi lòng của vợ chồng bác Chính cũng là hoàn cảnh của bao

gia đình nông dân nghèo khác phải gánh chịu, tất cả cũng từ nỗi khổ về tục ngôi thứ mà ra.

Không địa vị như bác Chính đã là một nỗi khổ. Còn đã là hàng xã, quan viên, đã có

được chỗ ngồi ở chiếu ngoài đình thì lại có nỗi khổ riêng. Ở đình, mỗi vị trí có một tiếng nói

riêng. Chức càng to tiếng nói càng có giá trị. Không phải ai muốn nói gì cũng được, bởi nếu

nói năng không cẩn thận thì có thể bị “truất ngôi trừ ngoại”. Qua truyện “Sau lũy tre”, tác

giả nêu lên một hiện tượng tệ hại khác do tục ngôi thứ gây nên, đó là việc tranh giành, đánh

đổi tất cả vì ngôi thứ mà chẳng qua cũng vì “con gà ghét nhau tiếng gáy”.

Để được trở thành ông này ông nọ, để khỏi bị hạch sách do sự thua kém nhau về địa vị,

Diếc đã không đắn đo suy nghĩ, quyết bỏ tiền ra lo bằng được cho chồng cái chức lý thôn.

“- Được, mình cứ xin ra làm lý thôn”.

“Lúc bấy giờ giá chồng nói năm, sáu trăm, một nghìn, Diếc cũng ưng vì nỗi bực tức

cho chồng đã làm Diếc không nghĩ ngợi gì cả”. [31, 57]

Và cũng có thể vì chút danh hờ, người vợ lấy làm hạnh phúc khi lo cho chồng được

mở mày, mở mặt với làng với xóm. “Chị sung sướng lộ ra nét mặt. Phải, không sung sướng

thế nào được… Xong ba năm làm việc chồng chị đã thành ông Lý cựu, sẽ được ngồi bên

đông đình cùng với hàng lý dịch. Xong ba năm, chồng chị sẽ ăn nói, không còn ai hạch

sách, không còn ai bẻ hoạch.” Vì lẽ ấy, “chị sung sướng quá, quên hẳn số tiền chị sẽ phải bỏ

ra trong ba năm chồng làm việc”. [31, 70 - 71] Thế nhưng niềm vui chưa thấy đâu mà trái

lại chỉ có nỗi lo và nỗi buồn chồng chất. Bởi, sau ba năm ra làm ông Lý thôn, được ngồi bên

đông đình, được phục dịch các cụ, lý Chính đã thay đổi hoàn toàn. Ngày nay với thân phận

ông lý, lý Chính tỏ ra coi thường mấy anh bạch đinh, những hạng nông phu, “anh quên hẳn

trước kia anh cũng trong bọn họ mà ra”. Anh chỉ nghĩ đến anh, đến ngôi thứ của anh, khi

anh đứng trước bọn cán xã”. Trong khi đó, gia đình ông, cuộc sống của vợ con ông ngày

càng trở nên thê thảm. “vốn liếng, ruộng nương cũng hết theo, chỉ còn trơ mấy gian nhà tre

với lũ con nheo nhóc”. [31, 86]Tác giả kết luận: “Hoàn cảnh đã nung đúc anh theo khuôn

khổ khác”. [31, 86] Qua câu chuyện của gia đình Chính và Diếc, Trần Tiêu như muốn đưa

ra lời cảnh báo về câu chuyện ngôi thứ, cụ thể là, việc tranh giành ngôi thứ chốn đình trung

có khi dẫn người dân đến nguy cơ phá sản, nghiêm trọng hơn nó có thể làm cho con người

bị tha hóa, mà lý Chính là một điển hình.

Truyện “Chồng con”, xoay xung quanh cuộc đời, số phận của chị xã Bổng suốt đời gắn

mình với gánh nặng chồng con đã giúp cho người đọc thấm thía hơn về những mặt trái của

câu chuyện ngôi thứ ở đình làng Bắc Bộ xưa.

Đem hết tiền dành dụm thời con gái, cộng thêm vốn liếng chắt bóp được sau mấy năm

vất vả buôn bán từ khi về nhà chồng, chị xã Bổng quyết tâm lo cho chồng chức lý thôn “cốt

để chồng bận việc thôn mà thôi chơi bời lêu lổng”, gia đình được êm ấm. Thế nhưng, khi đã

có chức có vị, được ra ngoài đình hầu hạ, phục dịch các cụ, từ ngày ra làm ông lý, lý Bổng

đã “thay đổi cả tính tình lẫn hình thức”, ông trở nên đổ đốn hơn, chuyển sang học đòi rồi mê

cả cô đầu. Trước đây, khi còn là anh xã nhép, Chính lấy lí do vì không có con trai để phân

bua cho thói mê tổ tôm, sóc đĩa đến bán cả ruộng vườn. Nay, khi đã trở thành ông lý, Chính

đã viện cớ phải đi tuần hằng đêm, hoặc giả để lo việc thôn, ông dám vay tiền của kẻ giàu để

cung phụng cho cô đầu mặc cho ở nhà, mẹ già thì đau yếu, vợ thì “uất lên vì ghen, uất đến

ứa nước mắt.

Rồi những cảnh bầu non, ép mua chức vị, cách tính toán đắt rẻ của khóa trước khóa

sau như lời các cụ: “Các anh ra làm việc vào khóa này thì may lắm đấy. Mỗi anh chỉ phải bỏ

ra ba trăm trong ba năm, tức mỗi năm có một trăm để bù vào việc thuế má. Chứ từ xưa đến

nay làm được cái lý thôn phải hàng nghìn là ít có phải không các cụ, các thầy”. [31, 64 - 65]

hoặc như: “Tôi nói thật, anh nào có của mà không ra khóa này là dại”… Tất cả đã biến ngôi

thứ vốn là nét sinh hoạt văn hóa đặc thù của làng xã Bắc Bộ trở thành gánh nặng, thành hủ

tục đáng lên án.

2.1.2 Lối ứng xử theo tục lệ, một biểu hiện cho tính tự trị ở làng quê.

Gắn với đình làng, xuất phát từ sự phân chia ngôi thứ là lối ứng xử theo tục lệ. Đó

là lối ứng xử theo tình, là biểu hiện rõ nét cho cái được gọi là “lệ làng”. Đây là sản phẩm

của cộng đồng làng xã vốn được xây dựng trên nền tảng của gia đình, dòng tộc như ở làng

quê Bắc Bộ. Hạn chế lớn nhất của việc phân xử theo tục lệ là có lúc tình át lý, lệ thay luật

“Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”. Rõ ràng, hậu quả để lại sau lối phân xử ấy là

hàng loạt những bất công mà người dân lương thiện không chức vị phải gánh chịu.

Câu chuyện xích mích giữa hai gia đình xã Khoản và xã Cỏn trong truyện “Ai phải” đã

mở ra trước mắt người đọc bức tranh phân xử theo tục lệ oái oăm ở chốn đình trung. Đó là

câu chuyện đào ao, vớt bùn để tạo thêm nguồn sinh nhai mới của gia đình xã Khoản với

việc gia đình xã Cỏn bị đau mắt. Hai việc tưởng chừng như không hề liên quan gì đến nhau.

Thế nhưng, vì sự mê tín, họ - những người nông dân này - đã dựng lên màn kiện tụng cười

ra nước mắt ở chốn đình trung.

Dân gian có câu “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Câu nói ấy đặt chung với lối

phân xử ở đình làng thật đúng nghĩa. Bởi như trên đã phân tích, thứ bậc chốn đình trung có

ý nghĩa rất quan trọng. Người có chân quan viên ra chốn đình đám có danh có giá, có quyền

ăn nói. Thế nên, mặc dù đã có lý Hiểu, một đàn anh trong họ nhà lên tiếng giúp, nhưng vì“lý

sự của ông có phần chắc chắn, song lời ông vừa khẽ vừa dè dè, nghe mất cả hùng hồn” .Mà

ngược lại, “lý Tảo, bác ruột của xã Cỏn, một bực lão, đạo mạo có vai vế trong làng”, và chỉ

vì “tiếng ông nói oang oang. Chức vị cao quý của ông lại càng làm cho lý sự của ông thêm

vững như bàn thạch”. [32, 34 - 35]. Và ông cũng rất khôn khéo như nhắc đến “cái vườn

thuộc kiểu địa lý tối can hệ của làng” của ông [32, 35 - 36].

Liên quan đến đình, tức thì không cần phân xử “ai phải”, các cụ lập tức phán: “bắt tên

Khoản lập tức phải gánh bùn đổ xuống ao, đem cau trầu ra đình tạ tội và sửa lễ gà xôi tạ ông

thổ cai quản cánh đồng có ngôi mộ tam đại nhà xã Cỏn”. [32, 36]

Tác giả rất đúng đắn, đầy chua xót mỉa mai khi bình phẩm: “Phép vua còn thua lệ làng,

mà lệ làng ở như mồm các cụ đặt ra.” [32, 36] Và hậu quả, sự thiệt thòi chính những người

dân lương thiện, không chức vị phải gánh chịu. Phải là người thấu hiểu sâu sắc tâm lý, nỗi

lòng của người dân quê, tác giả truyện “Ai phải” mới nhận thấy “Cả ngày hôm ấy, Khoản hì

hục gánh bùn đổ xuống ao, mồ hôi, mồ kê tuôn ra đầm đìa. Trên gò má những giọt… không

biết mồ hôi hay nước mắt.” [32, 36]

Có thể nói, văn hóa chốn đình trung - cụ thể là xoay xung quanh vấn đề ngôi thứ - là

nét đặc trưng tạo nên tính tự trị và sự tồn tại lâu đời của làng xã Bắc Bộ nói riêng và Việt

Nam nói chung. Ngôi thứ ở làng xã Bắc Bộ xưa là dấu vết của nền văn minh dân tộc. Nhưng

theo thời gian, đặc biệt là khi xã hội Việt Nam đã bắt đầu có sự pha trộn, du nhập của văn

hóa phương Tây từ những năm 30 – 45 cùng với cái nhìn của một nhà văn được đào tạo

theo lối Tây học như Trần Tiêu, thì câu chuyện ngôi thứ thực chất đã trở thành gánh nặng,

nó như những hủ tục đang đè lên đôi vai của những người nông dân nghèo vốn không hám

danh. Họ chỉ muốn an phận làm ăn nhưng vì phong tục của làng xã ép buộc, họ đành phải

chấp nhận miễn cưỡng làm theo.

2.2. Phong tục tập quán

Phong tục là những thói quen sinh hoạt đã ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được

đa số mọi người chấp nhận và làm theo, trở thành thuần phong mĩ tục. Người Việt Nam có

câu “đất lề quê thói” để chỉ mỗi vùng quê có những phong tục tập quán riêng. Phong tục

làng quê cổ truyền Việt Nam chứa đựng, kết tinh thành những mỹ tục thể hiện sức sống và

bản sắc dân tộc.

Làng xã vùng Bắc Bộ có thể được coi là cội nguồn của văn hóa Việt. Đây là nơi hình

thành và cất giữ rất nhiều phong tục tập quán của văn hóa dân tộc. Nhiều nhất vẫn là những

phong tục liên quan đến đời sống cộng đồng của cư dân nông nghiệp như: tục yến lão, lễ

khao vọng… Viết về nông thôn, cụ thể là viết về phong tục tập quán ở làng quê Bắc Bộ,

Trần Tiêu đã cho thấy ông có một cái nhìn riêng về nông thôn so với các nhà văn đương

thời.

Những năm 30 – 45, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi phức tạp. Từ những biến động

của cục diện chính trị, quân sự đến những thay đổi lớn lao của xã hội đã tác động đến sự

phát triển của văn học nghệ thuật đương thời. Cùng với đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản

Đông Dương (3 – 2 – 1930), của Mặt trận Dân chủ (1936 – 1939) đã tạo đà thắng thế cho

mảng văn học hiện thực Việt Nam. Và nông thôn với vần đề cần lao, vấn đề đời sống người

dân cày, … đã trở thành đề tài nóng bỏng, có sức lôi cuốn đặc biệt đối với các nhà văn hiện

thực. Người ta khai thác nông thôn với rất nhiều khía cạnh. Nóng bỏng nhất là mâu thuẫn

đối kháng giữa tầng lớp nông dân nghèo với các thế lực thực dân phong kiến. Chúng ta có

thể kể đến rất nhiều nhà văn với các tác phẩm xuất sắc viết về đề tài này như: Nam Cao với

Chí Phèo, Lão Hạc, Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Việc làng, Nguyễn Công Hoan với Bước

đường cùng, Vũ Trọng Phụng với Vỡ đê… Các tác phẩm này đã tập trung lên án sự áp bức

bóc lột của thế lực thực dân phong kiến đã dẫn người nông dân nghèo đến nguy cơ bị tha

hóa. Có thể nói rằng, cùng với sự ra đời của các tác phẩm ấy, cách mạng Việt Nam như

được tiếp thêm một phần sức mạnh để tiến đến giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc. Khác với cách thể hiện và nhìn nhận về nông thôn như các tác giả trên, cùng

trong thời điểm đó, Trần Tiêu cho ra đời các tác phẩm “Con trâu”, “Truyện quê”, “Sau lũy

tre”, … tất cả đều viết về nông thôn. Như tên gọi của nhan đề các tác phẩm, viết về nông

thôn Trần Tiêu không đề cập đến vấn đề được xem là “nóng bỏng” như cách nhìn của các

nhà văn hiện thực đương thời mà ông đi vào tìm tòi miêu tả những lề thói, những lễ nghi

phong tục, những hội hè, đình đám, những sinh hoạt về cả vật chất lẫn tinh thần, có cả

những điều hay lẫn điều dở, vốn rất gần gũi và đang diễn ra hằng ngày trong đời sống của

người dân quê. Và chúng tôi cho rằng, qua những tìm tòi, phát hiện này, ông muốn thể hiện

thái độ trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa cổ truyền của dân tộc trước những biến

động của lịch sử nước nhà, đồng thời phê phán những hủ tục, những biểu hiện phản văn hóa

trong đời sống làng xã Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

2.2.1 Rước lão là sự thể hiện của truyền thống kính trọng người già trong xã hội nông nghiệp.

Yến lão là bữa tiệc dành thết các cụ tại đình làng. Sau cuộc rước lão, các cụ được dân

làng mời dự yến tại đình cứ bốn người một mâm.Trong bữa yến, thường các cụ được xơi

yến; cũng có nhiều làng, tuy gọi là yến lão nhưng đây chỉ là mâm cỗ sang trọng để mời các

cụ.

Rước lão là một nghi thức của tục yến lão, một mỹ tục do đạo hiếu tạo nên. Nhiều làng

ở Bắc Bộ vẫn còn duy trì mỹ tục này. Câu nói: “sống lâu lên lão làng” chính là đề cập đến

mỹ tục yến lão. Tuổi già là điều tự nhiên đến với đời người, không hề trang giành, chẳng

phải có tiền mà mua được, càng không phải do quyền thế mà tạo nên. Chính vì thế, đây là

một mỹ tục chứ không phải là một hủ tục. Hằng năm, cũng có khi là hai ba năm, vào mùa

xuân, làng thường mở tiệc mừng thọ các quan lão. Đó thực là ngày hội của các cụ già ở thôn

quê. Vào những ngày này, các cụ (gồm cả các cụ bà) được làng đem cờ quạt và phường bát

âm đến rước ra đình, tục gọi là rước lão. Những làng trù phú thường sắm đủ võng lọng rước

lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão

80 tuổi vọng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 võng xanh (đòn ống) một lọng. Trai tráng

cầm cờ khiêng võng đều nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể. Đám rước đi suốt làng để

các cụ được nhận sự chào mừng của mọi người. Yến lão thường được tổ chức ở chốn đình

trung. Tại đình trung, các cụ được sắp xếp ngồi ở những vị trí cao, thấp tùy theo tuổi tác.

“Trong những bữa yến có bát âm cử nhạc, lại có ca nhi ngâm lên nhiều bài thơ hoặc ca trù

chúc mừng các cụ, có đốt pháo, có cờ quạt, tàn tán trước cửa đình bay phấp phới. Yến dự

xong, các cụ có phần mang về.” [2, 52]

Vì ý nghĩa quan trọng của tục ấy đem lại, cho nên, ở làng quê, bất kì cụ già nào cũng

ao ước chờ ngày được lên lão để được rước lão và được vinh dự ngồi dự yến lão ở ngoài

đình; còn với con cháu, với dòng họ nào có người già được lên lão, được làng rước lão và

mời dự yến lão thì thật là hạnh phúc và họ rất lấy làm hãnh diện. Nguồn gốc của tục lệ là

trang trọng, thế nhưng có một điều chúng ta đều biết, khi đã đi vào đời sống của người dân

quê thì những cái quy ước, cái trang trọng ấy đều trở nên linh hoạt và cởi mở hơn, đôi khi

còn pha chút luộm thuộm nhưng chứa đựng nhiều thành ý của người dân quê. Vì có một

khoảng thời gian dài gắn bó mình với cuộc sống nơi thôn ổ nên hơn ai hết, Trần Tiêu hiểu

rất rõ và miêu tả rất hay, rất hài hước cảnh rước lão ở chốn thôn quê. “Một lát, năm lá cờ đi

vào. Một cái trống cái hai người khiêng, rồi đến phường bát âm, sau cùng, một cái võng tím

không đẹp được bằng cái võng điều đón ông thủ chỉ làng và một chiếc lọng xanh đã cũ.

Trước khi ngồi lên võng ông Hoạch đưa mắt nhìn lý Cúc để dò ý. Võng vừa ra khỏi ngõ đã

thấy bao nhiêu người đứng hai bên vệ đường để xem. Mọi ngày không ai để ý đến ông, coi

ông như một người rất tầm thường trong bọn khố rách. Hôm nay họ nhìn chòng chọc vào

ông như nhìn một người lạ ở đâu đến”. [29, 107]

Những lời trầm trồ, khen ngợi của những người xem, những cái nhìn ao ước thèm

thuồng của người già nhưng chưa đến tuổi được rước như ông Hoạch, đã giúp chúng ta cảm

nhận đầy đủ hơn niềm hạnh phúc của người được rước và thấy được ý nghĩa quan trọng của

việc cần duy trì và phát huy mỹ tục này.

“Người thì khen:

- Ông có cái tai to và dày như tai phật. Chả trách ông sống lâu được đến thế.

Người thì khen:

- Tướng ông là tướng ngũ đoản, chỉ phải cái trán hẹp và cặp môi mỏng quá.

Nhiều ông già thấy ông Hoạch sung sướng mà thèm và thầm ao ước có ngày được hiển

vinh như ông”. [29,108]

Cùng với sự phát triển của xã hội, chúng ta đã đánh mất ít nhiều những nét đẹp của

phong tục xưa. Thế nhưng có một điều chúng ta vẫn thấy vui, là bởi, trong nhịp sống hiện

đại ngày nay, truyền thống trọng người già của dân tộc vẫn được gìn giữ và phát huy. Vấn

đề quan tâm đến người già đã và đang được Nhà nước chú ý đến. Cụ thể, trên các game

show của truyền hình Việt Nam đã có nhiều chương trình dành cho những người cao tuổi

như: chương trình Cây cao bóng cả, Sống khỏe sống có ích, Sống vui Sống khỏe…; ngoài

xã hội, ở từng địa phương, mỗi khu phố đều thành lập hội người cao tuổi, để khuyến khích

sự tham gia của các cụ ông, cụ bà vào những hoạt động có ích cho xã hội và cho bản thân.

Đọc những đoạn văn miêu tả tâm trạng hồi hộp vui sướng, thái độ lo lắng, sự bắt bẻ, quát

tháo về sự thiếu thốn một vài thủ tục trong buổi rước lão của con cháu ông Hoạch, người

đọc càng trân trọng những nét đẹp của văn hóa Việt Nam.

“Một hồi tù và văng vẳng đằng xa. Bao nhiêu người yên lặng nghe. Xã Chính cảm

động sung sướng như thể làng sắp đến rước mình vậy.

Lý Cúc vội giục:

- Kìa, mũ ni với áo vóc đỏ của họ hàng mừng cụ đâu? Không mặc lúc này thì còn mặc

lúc nào. Ngồi xếp bằng lại chứ. Sao cụ cứ ngồi thu hình bó gối thế kia?” [29,106 - 107].

Sự ngây ngô, sợ sệt của nhân vật chính của buổi lễ – ông Hoạch – cũng được tác giả

mô tả thật sinh động và chúng ta như nhìn thấy được niềm hạnh phúc của người nông dân

cục mịch quê mùa này. “Ông Hoạch vừa cảm động vừa sợ hãi vẩn vơ. Tứ chi ông run lẩy

bẩy. Cặp mắt lơ láo nhìn hết người này đến người nọ như muốn cầu cứu.

Lý Cúc thấy thế bật cười, nói:

- Cụ cứ ngồi thản nhiên, chẳng việc gì mà sợ, đã có chúng tôi đi kèm.

Ông Hoạch hết sợ, cười một cách ngây ngô, đần độn.” [29,107]

Vào đến đình, ngồi vào chỗ dành riêng cho mình, “ông im lặng nín thin thít, không

động đậy như…một ông tiên sư trong làng”.

Dẫu tác giả có khôi hài, pha chút châm biếm khi mô tả cảnh rước lão, nhưng qua việc

tái hiện lại mỹ tục này ông đã làm sống lại một cách sinh động và chân thực một đạo lý tốt

đẹp của dân tộc.

2.2.2. Tục khao vọng, với những biểu hiện quá mức nơi làng xã Bắc Bộ.

Khác với mỹ tục yến lão, tục khao vọng gắn liền với ngôi thứ. Dân gian có câu: “Vô

vọng bất thành”, nghĩa là: bất kì ai khi đã có ngôi thứ, có chân khoa mục, có phẩm hàm đều

phải khao vọng thì mới chính thức được công nhận, mới được dự việc làng, có chỗ ngồi ở

chốn đình trung, có cỗ ăn, phần biếu. Tục này vốn xuất phát từ truyền thống trọng danh và

văn hóa ứng xử của dân tộc ta. Trọng danh là sự biểu hiện cụ thể về tinh thần hiếu học, về

ước mơ đổi đời của những người nông dân nghèo ở khắp làng quê Việt Nam. Từ xưa, hình

ảnh những người học trò nghèo quanh năm suốt tháng dùi mài kinh sử, đặc biệt ở Bắc Bộ,

hình ảnh những người vợ sớm hôm tảo tần nuôi chồng ăn học với mong muốn một ngày kia

chồng thi cử đỗ đạt, bái tổ vinh quy để được mở mày mở mặt với xóm làng đã quen thuộc

với chúng ta. Niềm vui thi đỗ ấy bao giờ cũng được thể hiện bằng việc mở tiệc mời làng,

mời xóm đến chung vui mà chúng ta quen gọi là ăn khao. Việc ăn khao mỗi khi đạt được

niềm vui, thành quả nào đó đã trở thành lối ứng xử đẹp trong văn hóa giao tiếp của người

Việt Nam ta từ xưa đến nay. Và không biết từ bao giờ, việc ăn khao ấy đã trở thành một tục

lệ ở làng quê Bắc Bộ. Mà đã là tục lệ thì sẽ có những quy định cụ thể. Và từ chỗ tự nguyện,

khao vọng đã trở thành một sự bắt buộc của làng đối với những người thi cử đỗ đạt, mỗi khi

được nhận chức, thăng chức. Chức nhỏ tiệc nhỏ, chức càng to tiệc khao vọng càng phải long

trọng, càng tốn kém. Và mỗi khi khao vọng, chủ nhà phải mời từ hàng xã đến hàng thôn, từ

chức nhỏ đến chức to. Cỗ bàn phải đầy đủ, phải có phần quà biếu cho những vị có chức sắc

trong làng. Đối với những người nghèo, khao vọng nhiều khi đã trở thành nỗi lo nhiều hơn

là niềm vui.Chính vì thế, từ chỗ là nét đẹp của văn hóa, tục khao vọng đã có những biểu

hiện phản văn hóa.

Lệ làng quy định thế, cho nên, những người nghèo thì lo nghĩ còn những người có

chức có quyền ở làng xã thường rất thiết tha, ham muốn có được cỗ ăn lớn, phần biếu nhiều.

Chính điều này đã gây nên nhiều tệ đoan cho tục ngôi thứ và bị người đời thường mỉa mai

gọi là “chủ nghĩa xôi thịt đình trung”. Thêm vào đó, thời kỳ này, thực dân Pháp đã nhúng

tay vào chi phối các thể chế xã hội ở nông thôn Bắc Bộ. Chúng lợi dụng lệ làng, phát huy

tính tự trị (nhưng không phải là chế độ tự trị cổ truyền), khuyến khích việc mua nhiêu, bán

xã, tranh quyền, tranh chức,… làm cho các tục lệ ở làng quê ít nhiều đã bị biến chất, trong

đó có tục khao vọng. Viết về nông thôn vào thời kì này, Trần Tiêu cũng đề cập đến tục khao

vọng, mặc dù ông không đi vào lý giải vì sao có những biến chất ấy nhưng người đọc dễ

dàng nhận thấy rằng: qua hình ảnh của những buổi lễ khao vọng, nhà văn đã chỉ rõ: mặt trái

của những đám khao vọng thực chất là sự phơi bày những thói ăn bẩn, ăn tham của các quan

viên, hàng xã, đem đến thêm những gánh nặng cho cuộc sống vốn đã có nhiều khó khăn của

người nông dân nghèo chốn thôn ổ. Đây cũng là một nội dung khá đặc sắc trong các sáng

tác của ông. “Sau lũy tre” là tác phẩm thể hiện thành công nội dung này.

Theo lệ làng, sau khi Chính đã mua được chức lý thôn thì cả hai vợ chồng phải lo “làm

rượu để mời” thôn. Tác giả nhấn mạnh: “Mời thôn thôi, vì từ lý trưởng trở lên mới được

phép mời làng. Thế cũng may. Với cái vốn cỏn con thì mời làm sao đủ”. [31, 70] Dù là chỉ

mời thôn thôi nhưng đã là miếng ăn, liên quan đến khao vọng, đến thôn, đến xóm, tất cả

phải được chuẩn bị một cách chu đáo. Thậm chí phải cần người có kinh nghiệm đi trước bày

đường từ khâu chuẩn bị cho đến khi cỗ bàn bày ra để đón tiếp quan vơn.

Cảnh ấy được Trần Tiêu mô tả một cách khá chi tiết và đầy giọng châm biếm, mỉa mai.

“Mặt trời lên khỏi ngọn tre thì cỗ bàn vừa sắp xong. Trên cái chạn dài suốt gian nọ gian kia,

mâm thau mâm gỗ bày la liệt. Ngoài những đĩa thịt lợn, đĩa lòng còn thấy con cua luộc đỏ

tươi và đĩa xôi vàng ửng. Ông cựu hai tay chống cạnh sườn, đi theo dọc chạn xem xét từng

mâm một. Ông vừa đi vừa tủm tỉm cười: “nói đùa chứ, cỗ mà có con cua với khúc cá rán

trông nổi hẳn lên”. […] Thỉnh thoảng ông ngừng bước thét to lên: “Này, bác xã Mùi! Mâm

này sao lại thiếu đĩa giò lụa... mà mâm này lại thừa đĩa “củng quẳng”. Tôi không soát lại mà

chẳng chết à!”. [31, 74 - 75]

Và đây là lời người đi trước, có kinh nghiệm trong việc khao vọng, chỉ cách cho người

đi sau về khâu đón tiếp. “Sáng mai, lúc quan vơn hàng thôn đến, chú phải ra đứng tận cổng,

vái từng ông một, chú nhớ, cả đến ông xã mình cũng phải vái tuy mình hơn người ta. Tuần

trầu nước chú phải đứng mời từng bàn. Cần nhất là lúc ăn uống chú phải mời mọc săn sóc

đến chỗ các cụ luôn. Bây giờ thì chú phải mua hay mượn lấy vài ba cỗ tổ tôm, để đêm nay

các quan vơn đánh chơi. Đừng mượn những cỗ tã quá. Dạo nọ anh quản Hội chỉ vì mấy cỗ

tổ tôm mà người ta nói cho đáo để... Trong túi chú lúc nào cũng phải có dăm sáu đồng đề

phòng ông nào hỏi đến thì bỏ ra. Chú đừng sợ mất đâu. Thế nào rồi họ cũng trả. Lệ ăn mừng

là phải thế. Chú phải “sắng” lấy hai bộ khay đèn. Được cái số ấy xóm ta cũng sẵn. Chú mua

lấy hai hộp chính cống. Hộp mười chứ đừng lấy hộp năm, kẻo người ta bảo mình sẻn”. [31,

71 - 72]

Nói như Vu Gia: “Đọc những dòng này, ngẫm kỹ các cụ ngày ấy khá cao tay. Biết

miếng ăn là miếng nhục, nên các cụ đặt ra nhiều cái lệ để cho mọi người thấy không phải hễ

có tiền là muốn mời ai đến ăn cũng được. Anh có giàu nứt tường đổ vách cũng mặc kệ, mời

riêng một vài người là quan hệ cá nhân với nhau, chứ còn mời thôn, mời làng là phải theo

thứ bậc; thậm chí có thứ bậc thật đấy song anh là người ăn ở không phải đạo thì mặc sức

bày mâm cỗ ra đó mà mời... ruồi, mời nhặng”. [16,194 - 195]

Bày biện thế, kiểu cách thế, nhưng một khi đã ngồi vào bàn cỗ với rượu thịt ê hề, các

cụ, các anh, từ hàng lý trưởng, hàng khán, hàng xã,... nói đủ thứ chuyện. Bàn tiệc bỗng chốc

trở thành một cuộc “đấu xảo lớn bằng miệng”. “Trước hết các ông nói về lợn. Ông thì khen

con lợn ở ngoài văn miếu béo, ông chê giò xấu. Rồi từ con lợn ấy, các ông nói đến con lợn

ngày “đại tuyết”, con lợn năm ngoái năm xưa, con lợn nhà ông lý này, con lợn nhà ông xã

nọ... Thật là cuộc đấu xảo lớn.” Và cứ thế, “cỗ bàn bưng lên, các ông nốc rượu vào, câu

chuyện lại càng thêm hăng hái. Tiếng ồn ào như chợ phiên không còn nghe ra câu gì nữa.

Thế cũng xong”. [31, 76 - 77]

Tàn buổi tiệc là những gánh nặng thiếu thốn tiền của mà người nông dân phải gánh

chịu. Vợ chồng Diếc cũng thế. Cảnh ấy – hậu trường của buổi lễ khao chức lý thôn cho

Chính được tác giả miêu tả thật chua xót và đầy sự cảm thông sâu sắc. “Khi khách khứa

cùng với những tiếng ồn ào ra khỏi nhà lý Chính, sự yên lặng trở lại, không phải sự yên lặng

của một ngày thường, mà sự yên lặng lạnh lẽo, buồn tẻ, ảm đạm như sau một cuộc tàn phá.

Vợ chồng ngồi trên ngưỡng cửa cùng lộ vẻ lo lắng. Vợ cười gượng và nói:

- Này, mình ạ, bữa rượu thế mà hết gần năm chục đấy.

Chồng ngạc nhiên:

- Có, làm gì đến chừng ấy!

- Này nhé, mình tính xem, mười sáu đồng con lợn này với chục bạc vừa trầu cau vừa

chè, thế là... hai mươi sáu đồng, với năm đồng bạc rượu là đi ba mươi... mốt đồng, tám đồng

ký đơn là đi... ba mươi chín đồng với hai đồng thuốc phiện, ba đồng tổ tôm bỏ ra cho họ

vay, mới tính thế đã tới hơn bốn chục rồi. Lại còn tôm, cá vặt vãnh này khác không tới năm

chục ư?”[31, 80 - 81]

Thế mà các cụ có hiểu cho đâu, vì thể thôn, vì lệ làng, mà các cụ, những người nắm

giữ chức quyền nơi thôn ổ phải bày vẽ cho đúng bài bản. Đó mới chỉ là khao, mà theo tục

lệ, khao bao giờ cũng đi đôi với vọng. “Vọng, nghĩa là được người ta trông lên (với ý nghĩa

cao đẹp, mong muốn). Lệ vọng phải nạp tiền cho làng, ngôi cao thì lệ nặng, bậc thấp thì lệ

nhẹ, tùy tục mỗi làng” [35, 481].

Lệ làng đã định, các cụ mặc sức đòi hỏi, chỉ có người dân nghèo mới thật đáng thương.

Đấy cũng là nỗi lòng của vợ chồng Diếc: không biết rồi đây, cái oai của ông lý thôn sẽ đem

đến những lợi lộc gì cho gia đình, mà ngay lúc này, trước mắt họ là cả một nỗi lo lớn về sự

thiếu thốn, nợ nần chồng chất. Vì ngày mai vợ chồng Diếc còn phải sắng đồ để đi trình các

cụ, số trăm bạc chồng cho làng khi làng hỏi đến... Tất cả đều từ phong tục, từ lệ làng, từ

những tệ đoan do tục khao vọng mà ra và những người nông dân lương thiện chỉ biết cúi

đầu, nín lặng làm theo.

Vẫn có ý kiến cho rằng, viết về nông thôn, Trần Tiêu không thực sự xuất sắc như các

nhà văn hiện thực đương thời, nhưng chúng tôi nhận thấy, qua những trang viết rất thực về

phong tục tập quán, về cả mỹ tục lẫn hủ tục đang diễn ra trong đời sống của người dân quê

vùng đồng bằng Bắc Bộ thì tác phẩm của ông vẫn đậm chất hiện thực. Đó là bức tranh hiện

thực về cuộc sống nơi thôn dã vừa có sự khôi hài, đầy châm biếm với những biểu hiện của

“chủ nghĩa xôi thịt đình trung”, vừa có cả sự thống khổ, thiếu hiểu biết của người nông dân

nghèo, lạc hậu. Và nói như Vu Gia: “Đọc những gì ông đã viết về phong tục, hầu như ai

cũng biết, nhưng ai cũng thấy rất “thật”, vì nó gắn liền với cuộc sống cụ thể, con người cụ

thể”[16, 324]. Vì vậy, có thể nói, những trang viết về phong tục tập quán là những trang văn

mang ý nghĩa xã hội nhân sinh sâu sắc của Trần Tiêu.

2.3. Văn hóa sinh hoạt

Văn hóa sinh hoạt bao gồm nếp sống, sinh hoạt vật chất (lao động, ăn ở, đi lại, …) và

tinh thần (lễ hội, tín ngưỡng), là những hoạt động thuộc về đời sống hằng ngày của một

người hay cộng đồng người. Viết về nếp sinh hoạt ở thôn quê, Trần Tiêu đã có những trang

viết sâu sắc và thể hiện sinh động về đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân quê đồng

bằng Bắc Bộ.

2.3.1. Sinh hoạt văn hóa tinh thần

Trước tiên, đó là những trang viết thành công của tác giả khi tái hiện đầy đủ không khí,

tâm trạng thành kính của người dân quê trong các ngày lễ hội, từ lễ hội cổ truyền đến các

nghi lễ liên quan đến đời sống nông nghiệp. Đây đồng thời cũng là yếu tố làm nên phong

cách rất riêng của Trần Tiêu so với các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn khi cùng thể

hiện đề tài về nông thôn.

2.3.1.1. Ngày Tết Nguyên Đán

Mùa xuân là của cả muôn người, Tết đến xuân về, và đâu đâu người ta cũng đón Tết

lúc xuân sang. Cũng là ngày Tết cổ truyền của dân tộc, nhưng phong vị Tết mỗi nơi mỗi

khác.

Viết về nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần nơi làng quê Bắc Bộ, đặc biệt là viết về ngày

Tết cổ truyền của dân tộc, các nhà văn Việt Nam đã có những tác phẩm rất hay để tái hiện

lại thời khắc quan trọng ấy, nhất là những ngày Tết cổ truyền trên đất Bắc.

Chỉ qua vài câu thơ, thi sĩ Bàng Bá Lân đã tái hiện đầy đủ dư vị ngày Tết ở làng quê

Bắc Việt.

“Tết về nhớ bánh chưng xanh,

Nhớ tràng pháo chuột nhớ tranh lợn gà.

Nhớ cành đào thắm đầy hoa

Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang.

Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam,

Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành.

Nhớ cam cúc tẹt, nhớ mình!

Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì”…[2, 315]

Vũ Bằng trong “Thương nhớ mười hai” cũng đã có những trang viết rất thành công về

hương vị ngày Tết cổ truyền. Đó là ngày Tết được tái hiện qua những món ăn ngon, trong

nỗi niềm mong nhớ của người con Hà thành trên đất miền Nam. Ở đó, chúng ta sẽ được

“thưởng thức” phong vị của những món ăn đặc trưng truyền thống như: bánh chưng, thịt

đông, giò chả, dưa món…

Khác với cách thể hiện nồng nàn, đằm thắm của Vũ Bằng hay trữ tình như Bàng Bá

Lân, bằng một giọng văn giản dị nhưng không kém phần sâu sắc, Trần Tiêu đưa người đọc

trở về với ngày Tết cổ truyền của dân tộc, một lễ hội có ý nghĩa nhất trong năm và cũng có

ý nghĩa nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người. Ở đó có đầy đủ các không khí vừa rộn

ràng, vừa thiêng liêng và cũng rất hân hoan, cùng các tục lệ của những người nông dân ở

miền quê nghèo Bắc Bộ xưa. Với tác phẩm “Con trâu”, Trần Tiêu đã có những chương viết

hay nhất về ngày Tết.

Những phong tục tập quán gắn liền với niềm tin, với tín ngưỡng, với những ước muốn

tốt đẹp của người dân trong ngày xuân, là những yếu tố tạo nên hương vị riêng cho ngày Tết

cổ truyền ở làng quê Bắc Bộ.

Ngày Tết bắt đầu từ những ngày cuối tháng Chạp, ở các làng quê, ngay từ những ngày

đầu tháng này người ta đã thấy không khí của Tết. Bắt đầu là tục cúng đưa ông Táo về trời

được tiến hành vào ngày hai mươi ba tháng Chạp. Theo truyền thuyết từ xưa thì trong gia

đình người Việt bao giờ cũng có bàn thờ ông Táo, vị thần cai quản bếp núc và cũng là người

trông nom, phù hộ cho cuộc sống gia đình luôn được no đủ, yên ấm. Cứ đến cuối năm, vào

ngày hai mươi ba tháng Chạp, nhà nào cũng phải làm lễ cúng đưa ông Táo về trời để ông

bẩm báo với Ngọc Hoàng – vị vua ở trên trời – về mọi việc trong gia đình, và cầu xin Ngọc

Hoàng sang năm mới phù hộ cho cuộc sống gia đình thêm khấm khá, tươi sáng hơn năm cũ.

Xưa bày nay làm, người dân làng Cầm trong tác phẩm “Con Trâu” của Trần Tiêu cũng nhao

lên về Tết ngay từ những ngày hai mươi, hăm mốt tháng Chạp. “Các bà đi chợ về, bà chánh,

bà lý, bà khán, bà xã, bà nào cũng đội cái thúng trong để một “ông mũ” lấp lánh những

gương và trang kim, vài trăm vàng, một bó hương đen và một nải chuối còn xanh ngắt”. [29,

51] Và bắt đầu từ ngày này, không khí chuẩn bị Tết diễn ra càng tấp nập, từng bừng hơn.

Công việc đầu tiên của mọi nhà khi đón năm mới là việc sửa soạn, bày biện trên bàn thờ tổ

tiên. Công việc này xuất phát từ tục thờ cúng tổ tiên của dân ta. Trong quan niệm của người

dân Việt Nam, tổ tiên luôn gần gũi con cháu, nhất là trong những thời khắc vui buồn của gia

đình. Tết cũng là một dịp để gia tiên về với con cháu.

Mỗi năm, dù nghèo hay giàu, đói hay no, ai ai cũng mong Tết. Với người nghèo, họ

mong Tết với hy vọng sang năm mới cuộc sống sẽ khá hơn, no đủ hơn. “Tết, đất trời chuyển

mùa thì đời người cũng có thay đổi. Hy vọng để sống nên ngày Tết luôn quan trọng với mọi

người”. [16, 255] Đó vừa là sự lạc quan trong tính cách, tâm hồn người dân quê Việt Nam

vừa là yếu tố tạo nên nét đẹp truyền thống trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt. Thế

nên, để có được một cái Tết vui vẻ, hoan hỉ và trọn vẹn, mấy ngày gần Tết, nhà nhà dù bận

rộn đến đâu cũng phải tranh thủ lau chùi, dọn dẹp trang trí lại bàn thờ tổ tiên, trang hoàng

nhà cửa cho sạch đẹp, tươm tất, để “rước các cụ” về cùng con cháu. Đặc biệt, đối với những

người, mà trong năm cũ gia đình có sự thay đổi quan trọng hay có được niềm vui nào đó thì

việc chuẩn bị lo sắm sửa, trang hoàng cho ngày Tết càng được chu toàn hơn. Tâm lí ấy thời

nào cũng có. Bác Chính là một ví dụ sinh động. Năm nay gia đình bác được vụ mùa bội thu

và một sự thay đổi lớn đã đến với bác: bác vừa được lên chức xã. Thế nên, với gia đình bác,

đây có thể coi là một ngày Tết no đủ. Ngay từ những ngày hai mươi, hăm mốt, cũng như

mọi người, bác Chính gái “cũng đi chợ mua vàng mũ về cúng thổ công”. Công việc sửa

soạn đón rước các cụ cũng được bác Chính trai lo chu đáo. “Đã lên chức xã thì ai chẳng

muốn trang hoàng cửa nhà cho ra vẻ nhà ông xã, trừ khi không tiền. Bởi thế phiên chợ Hạ

Am vừa rồi bác đã sắm được bốn bức tranh tố nữ và bốn bức tranh con gái Tàu về treo hai

bên bức vách. Phiên chợ giáp tết, bác lại mua được một quả phật thủ, hai quả bòng với một

chục cam sành về bày ngũ quả và đôi cành hoa giấy về cắm ống sơn. Bác phí phạm được thế

cũng là nhờ mùa mới rồi”. [29, 52]

Với người dân Việt Nam thì ở đâu cũng vẫn phong tục ấy, nhất là những phong tục

liên quan đến ngày Tết cổ truyền. Từ thành thị đến nông thôn, những ngày giáp Tết luôn

tưng bừng sửa soạn và hân hoan đón Tết. Nhân dân ta có câu: “làm cả năm ăn ba ngày Tết”.

Cuộc sống dù khó khăn, khổ cực đến mấy song cứ hễ năm hết Tết đến, dù giàu hay nghèo

người dân vẫn cố lo cho gia đình có một cái Tết chu toàn. Thế nên, nào là sắm Tết, đi chợ

Tết, lo quần áo Tết,… người ta bận rộn cho đến tận ba mươi Tết.

Mặc dù, khi viết về ngày Tết cổ truyền của dân tộc, Trần Tiêu không hề nhắc đến cảnh

chợ Tết, một hoạt động mang đậm nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhưng nhìn cách ông

miêu tả công việc mua sắm, bày biện, trang trí chuẩn bị đón Tết của người dân quê chúng ta

không khỏi không nao lên vì Tết. Đó là cảnh mua sắm lễ vật để đi tạ ở chùa chiền, cảnh

những người mẹ may quần áo đẹp cho các con… Tất cả đều có trong ngày Tết của gia đình

bác Chính ở làng Cầm trong sáng tác của Trần Tiêu. “Bác sắm nào hài, nào mũ, nào vàng

hàng muôn để đi lễ các đền, chùa. Bác mua hẳn một thúng hành về nén, mua cá về kho, mua

thịt, gạo nếp về gói bánh. Bác còn sắm cho Mít một cái váy lụa, cạp xanh, một chiếc dây

lưng thiên lý, một chiếc áo tứ thân vải màu nâu non và một chiếc yếm trúc bâu trắng nõn.

Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con, mỗi đứa một chiếc áo chùng nâu sẫm và một

chiếc quần vải thô. Còn về phần bác, bác chỉ may mỗi một cái váy bằng vải ruộng vỏ xó,

ngả bùn dầy cộm như mo nang. Người ta có kêu, bác trả lời gọn lỏn: “Ôi chao! Làm lụng

vất vả suốt năm, là lượt lắm cũng phí đi thôi!””[29, 52 - 53]

Ngày Tết phải có cây nêu. Cây nêu càng cao thể hiện gia đình đón Tết càng lớn. Đã có

rất nhiều cách lí giải khác nhau về sự tích cây nêu và tựu trung lại thì: cây nêu được trồng

trong ngày Tết một mặt nhằm xua đuổi ma quỷ, mặt khác cây nêu còn là nơi quy tụ cho các

vong hồn quá vãng của tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. Viết về ngày Tết ở làng Cầm, tác

giả truyện “Con trâu” cũng đề cập đến hình ảnh cây nêu ngày Tết. Mặc dù ông không đi vào

lí giải vì sao có sự tích cây nêu nhưng qua cách ông miêu tả tâm trạng phấn khởi của bác

Chính và lời trầm trồ khen ngợi của ông khán Bích khi bàn về cây nêu mà bác Chính, chúng

ta hiểu rằng, đó là một tục lệ đã ăn sâu trong nếp sống của người dân quê. “Khác với mọi

năm, chỉ một con sào, trên buộc cành xương rồng, dưới treo “ông mũ ngô”, năm nay bác trai

dựng ngay trước nhà một cây lồng đèn cao ngất, có những túm lông mã gà trên ngọn, có cờ

vải tây điều bay phấp phới, có bầu rượu bện bằng rơm, có con rồng uốn khúc làm bằng mấy

cành vạn tuế, có con cá nằm ngang để xỏ dây treo đèn”.[29, 53] Mặc dù theo lời bác “nhân

tiện mua cây bương về làm máng, cháu đem dựng trong mấy ngày tết. Thật không định mà

được một công đôi việc. Hì!” [29, 54]. Vừa tiết kiệm vừa làm đẹp nhà cửa trong ba ngày

Tết. Tiết kiệm là đức tính đáng quý của người nông dân Việt Nam bao đời nay. Điều này

cũng không có gì lạ! Bởi đâu phải năm nào cũng được mùa màng bội thu, có những cái Tết

no đủ như thế cũng là nhờ trời, thế nhưng, những năm đói kém, mất mùa, ngày Tết của

những người dân quê trở nên đáng thương biết bao!

Dân gian ta có câu:

Khôn ngoan đến trước cửa quan mới biết,

Giàu có ba mươi Tết mới hay!

Câu nói trên nhắc đến tục đòi nợ Tết. Theo tục lệ này thì năm hết Tết đến, ngoài việc

lo mua sắm trang hoàng nhà cửa, nhà nào có nợ nần trong năm cũ cũng phải lo trả cho kì

hết. Ai đã từng sống ở làng quê đều biết đến cảnh đêm ba mươi Tết các chủ nợ cầm đèn,

chống gậy đi vào tận các xóm để tìm các con nợ. “Người ta sở dĩ đòi nợ cho đến Tết là vì

ngày hôm sau là ngày đầu năm, người ta kiêng không dám hỏi nợ, người bị hỏi nợ như vậy

sẽ bị rông quanh năm, và có thể sẽ làm ăn không phát đạt được. Đòi nợ ngày mồng một Tết,

không những con nợ không trả, mà có khi con nợ còn mắng cả chủ nợ vì đã không biết

kiêng cho mình”. [2, 323]

Tục lệ này thật là tai hại đối với những người nghèo làm ăn kém may mắn, bị vụ mùa

thất thu. Với họ, không có nỗi khổ nào bằng nỗi khổ tối ba mươi mà chưa thanh toán được

hết nợ. Thời nào cũng vậy, không ít cảnh nhiều người vì không có tiền trả nợ nên đành tìm

cách lẩn tránh mặt chủ nợ, phải chờ đến gần tới mười hai giờ đêm, tức gần tới thời khắc

cúng giao thừa mới dám về nhà. Tâm trạng ấy, hoàn cảnh ấy chúng ta vẫn hay bắt gặp ở

những người nông dân nghèo trong các sáng tác của Trần Tiêu. Chỉ vài dòng miêu tả, nhà

văn đã tái hiện lại sinh động cái tục lệ ấy ở làng quê Bắc Việt. Đây là cảnh đi đòi nợ đêm ba

mươi Tết ở làng Cầm. “Trên các đường làng, trong các ngõ xóm, những ngọn đèn đỏ nhấp

nháy như ma trơi. Ấy là đèn chai của những chủ và khách nợ đi lại đòi khất.

Trong yên lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng nguyền rủa, những tiếng cãi cọ lẫn

tiếng chó sủa. Từng hồi tù và inh ỏi tiếp sau những tiếng trống cầm canh”. [29, 62] Và tội

hơn cả là cảnh nhà nghèo chạy trốn chủ nợ. Gia đình bác Chính cũng không tránh khỏi nạn

ấy. Có được cái Tết no đủ như năm nay vợ chồng bác không khỏi đôi chút ngậm ngùi nhớ

lại những năm đói kém. Mới năm ngoái đây thôi, trong khi người ta vui mừng về Tết bao

nhiêu thì bác lo lắng khổ sở bấy nhiêu. “Bác nhớ chiều ba mươi chợt nghe ngoài cổng có

tiếng the thé của bà khán, hai vợ chồng bác giật nẩy mình, cùng nhau chạy trốn sang nhà

hàng xóm, vì đã biết bà kia có tiếng nặc nô.

Bác còn như văng vẳng nghe thấy những lời nguyền rủa dữ dội của bà khán kéo dài

mãi đến tối. Đêm hôm ấy gần giao thừa, vợ chồng mới dám lóp ngóp về. Thấy mất cái bát

hương, mà bà khán đã bắt nợ bỏ vào thúng mang đi, bác trai ứa hai hàng nước mắt, sụt sùi

khấn trước bàn thờ, xin ông bà ông vải đại xá, chỉ vì nghèo túng mà đến nỗi phải phạm đến

danh dự gia tiên… Mấy hôm tết, hai vợ chồng không dám đi đâu, chỉ sợ gặp bà khán. Bà ấy

mà “chưởi” thì rông cả năm”[29, 38 - 39]. Phải là người gắn mình và thấu hiểu sâu sắc về

đời sống của người dân quê, Trần Tiêu mới có thể viết những dòng miêu tả chính xác và đầy

cảm động như vậy!

Ở làng quê, Tết không chỉ riêng của từng gia đình mà còn là của cả làng, cả làng cùng

ăn Tết. Thế nên, cứ mỗi năm Tết đến lại có cảnh nhiều nhà chung nhau mổ lợn, giết bò;

cảnh những người không biết gói bánh đi nhờ những người sành gói gói dùm đôi ba đòn

bánh tét, vài cặp bánh chưng; rồi cảnh nhiều nhà chung nhau nồi bánh,… tất cả đã làm nên

một cái Tết đầm ấm trong tình làng nghĩa xóm. Ngày Tết của người dân làng Cầm cũng có

đầy đủ những cảnh ấy. Chỉ qua một vài mẩu đối thoại nhỏ giữa các nhân vật, Trần Tiêu đã

giúp người đọc nhận biết được vẻ đẹp của phong tục ấy. Đây là đoạn đối thoại giữa bác

Chính gái với cụ cán Bích.

“Bác gái vào buồng, têm trầu bày lên đĩa bưng ra.

Rước cụ xơi trầu ạ.

Được, mặc tôi, bác cứ để đấy, đi làm nốt mớ hành rồi chốc nữa hai bác với cháu Mít

sang gói giúp chúng tôi ít bánh nhé?

Vâng, chúng cháu cũng định chốc nữa sang làm giúp cụ đấy. Nhà cháu có mươi mười

lăm chiếc định đem sang nhờ cụ, có được không?

Sao lại chẳng được! Ừ, mà Tết nhất cũng nên bày cho vui, có nêu cao, phải có pháo

nổ, bánh chưng xanh chứ lị.

Ông cán vừa nói vừa rung đùi ra vẻ đắc chí.

Dạ. – Bác gái cười tủm tỉm, trong lòng bác hoan hỉ lắm.” [29, 55]

Có lẽ, những cảnh ấy, ngày nay vẫn còn ở hầu hết khắp các vùng quê trên đất nước ta.

Chính những sự chung nhau nhỏ nhặt ấy càng thể hiện rõ, ngày Tết không chỉ của riêng ai,

đó là ngày lễ quan trọng đối với tất cả mọi người. Tết là của đất trời, của cộng đồng.

Giao thừa mới thực sự là thời điểm chính thức để cả làng ăn Tết. Đây là giờ phút giao

tiếp giữa hai năm cũ và mới. “Đêm hôm ba mươi Tết người ta không đi ngủ sớm. Người ta

thức để chờ đợi giây phút thiêng liêng của một năm: giây phút giao thừa.[…] Năm mới sắp

sang, mọi người hồi hộp chờ đợi với bao nhiêu niềm hi vọng. Người ta được thêm một tuổi,

và với giờ phút giao thừa, năm cũ sẽ ở lại cùng với tất cả mọi sự không hay, và năm mới

đến sẽ mang nhiều điều tốt lành lại”. [2, .324] Với miền Bắc, đêm ba mươi, giờ phút lặng lẽ

trôi với trời tối đen như mực, rồi cái rét lạnh điểm thêm những hạt mưa phùn cuối năm lớt

phớt. Cũng những giọt mưa này, sau giao thừa, sang năm mới, đó sẽ là những giọt mưa

xuân đem lại sinh khí mới cho cỏ cây, cho cuộc sống con người. Vì thế, hơn bất cứ thời

điểm nào, giờ phút giao thừa luôn được mọi người nghiêm trang chờ đợi.Viết về ngày Tết

cổ truyền của dân tộc, nhất là ngày Tết ở làng quê Bắc Bộ, các nhà văn, nhà thơ đều có nói

đến thời khắc quan trọng này.

Đó là đêm giao thừa ở làng quê Bắc Việt qua sự hồi tưởng của Vũ Bằng trong

“Thương nhớ mười hai”. Giao thừa là thời khắc mà trong từng tổ ấm gia đình, đâu cũng đèn

nến la liệt trên bàn thờ, nhìn vào chỗ nào cũng thấy khói hương nghi ngút. Cây đào và

những cành mẫu đơn in bóng lên tường làm cho anh ngỡ mình đang đứng trước một bức

tranh Tàu. Ở ngoài kia, có tiếng gì nhỏ bé như tiếng sóng xa xa mà lại như tiếng đàn hát của

thần tiên, tiếng chuyển mình của sông hồ, của lộc cây, của giàn hoa lý. Không gian lễ Tết

trong sáng tác của Vũ Bằng là không gian nhỏ nhưng đầm ấm và chứa chất nhiều kỷ niệm

khó quên.

Những câu thơ sau của nữ thi sĩ Anh Thơ cũng đã tả rất đúng cảnh của đêm ba mươi ở

làng quê Bắc Bộ với những tục lệ rất riêng.

“Trời tối quá! Bên ngoài trời tối quá!

Những cây nêu, tiếng khánh khẽ khua thầm,

Những cung vôi trong sân như mờ xóa,

Những giấy điều trước cửa dán đen thâm.

Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục,

Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn,

Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức,

Bà lão nằm tính tuổi sắp lên năm.

Bỗng tiếng pháo đẹt đùng xa nổ báo,

Ngoài đình trung làng đã tế giao thừa.

Cả nhà vội giật mình không ai bảo,

Cùng đứng lên thăm bánh chín hay chưa.”[2, 323]

Trần Tiêu không viết nhiều về đêm ba mươi, về các tục lệ diễn ra ở đình làng, không

gian lễ Tết của ông chủ yếu gắn với cộng đồng chứ không phải là không gian trong tổ ấm

gia đình như cách thể hiện của hai tác giả trên. Thế nhưng, chỉ qua vài câu văn ngắn gọn,

nhà văn đã miêu tả thành công không khí thiêng liêng rất đặc trưng của đêm ba mươi ở một

làng quê nghèo Bắc Bộ xưa. “Đêm ba mươi có khác. Trời đất một màu đen xẫm đến nỗi hai

người đi sát cạnh mà không nhìn thấy nhau.

Đêm khuya, các tiếng thưa dần rồi im bặt… Một hồi trống tế giao thừa vừa rung lên,

vang động cả khu xóm. Bác xã Chính vội vã ra đình lễ thánh rồi ăn cỗ. Bác không phải ra

đình từ trước, vì làm lễ chưa đến thứ bác. Đã có các cụ ở trên. Bác sung sướng, hớn hở như

mở cờ trong lòng. Không bạch đinh, không công nợ, không lo lắng sự gì khác, bác chỉ việc

để bụng vào bữa chén. Bác chén mãi đến tảng sáng mới về.”[29, 62 - 63]

Không khí chuẩn bị trước ngày Tết được nhà văn miêu tả sinh động bao nhiêu thì cách

ông dẫn dắt người đọc đến với thời khắc giao thừa, thời điểm đón chào năm mới ở làng

Cầm càng thú vị và có ý nghĩa bấy nhiêu. Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ

với năm mới. Giao thừa nghĩa là cũ giao đi, mới tiếp lấy. Nhà nhà đều làm mâm lễ để cúng

giao thừa với ý nghĩa tiễn năm cũ đi đón năm mới đến.

Ngày nay, cuộc sống của dân ta được cải thiện nhiều. Chỉ trừ một số vùng nông thôn

còn quá nghèo, còn thiếu điện đèn nên có lẽ, ở đó, họ có thể còn cảm nhận được như thế nào

là “tối như đêm ba mươi”. Bởi thực ra, không khí đêm ba mươi Tết ngày nay đã thay đổi rất

nhiều., nhất là ở thành thị, mọi người thường đổ xô ra ngoài đường, tập trung về những nơi

trung tâm để chờ và xem cảnh bắn pháo hoa, những bạn trẻ thường rủ nhau đi hàng quán,…

coi như đó là một cách đón chào năm mới. Nhiều người thì sau khi xem bắn pháo hoa

thường nhân tiện rủ nhau đi đến các chùa, đền để hái lộc đầu năm… Còn một số, phần lớn

là những người già, thì thường túc trực ở nhà để lo cúng giao thừa rồi nhân đó theo dõi Chủ

tịch nước đọc thư chúc Tết. Vì thế, khi đọc những dòng của Trần Tiêu miêu tả đêm ba mươi

Tết ở làng Cầm, chúng ta càng trân trọng thời khắc thiêng liêng ấy và càng thêm thấm thía ý

nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

Và như thường lệ, sau lễ giao thừa, nhân dân Việt Nam ta có tục chọn hướng xuất

hành và hái lộc đầu năm. “Phần lớn những người lớn tuổi, dặn dò hướng xuất hành, và di

xông nhà (đạp đất) nhà bà con, bạn bè khi ngày mới bắt đầu, rồi ai thức thì thức, ai ngủ thì

ngủ, chuẩn bị đón một năm mới vui vẻ, hạnh phúc.”[13, 261] Tục ấy ngày nay vẫn còn.

Theo quan niệm dân gian, hướng xuất hành đầu năm có ý nghĩa quan trọng. Đầu năm

nếu đi đúng hướng, đúng giờ thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn. Việc chọn hướng xuất hành,

chọn người xông đất đầu năm thường được bà con ta hỏi thăm những người lớn tuổi, người

biết chữ nghĩa, biết xem lịch âm dương, … Ai cũng muốn gia đình mình có một cái Tết

hoan hỉ trọn vẹn, một năm đầy sự may mắn. Vì vậy, cho đến hôm nay, câu chuyện đầu năm

với việc chọn hướng xuất hành, chọn người xông đất vẫn là yếu tố làm cho cho ngày Tết cổ

truyền của dân tộc thêm phần ý nghĩa. Cho nên, khi lắng nghe cuộc trò chuyện giữa bác xã

Chính với ông cán Bích chúng ta càng thêm yêu không khí ngày Tết.

“Bác Chính nghĩ một lát rồi bỗng hỏi:

- À này, thưa cụ, mồng một năm nay xuất hành vào giờ nào thì tốt ạ?

- Tôi cũng chưa xem lịch, nhưng thấy người ta bảo: Nên xuất hành vào giờ dần, đi về

chính nam thì gặp tài thần, về đông nam thì gặp hỉ thần, về đông bắc thì gặp quý thần.

- Chết chửa, cổng nhà cháu lại quay ra hướng tây bắc. Biết làm thế nào hở cụ.

Bác nói và trông bác có vẻ bối rối.

- Rầy thật đấy nhỉ?

- Vâng, rầy thật! Làm thế nào hở cụ?

Bác vừa nói vừa ngơ ngác nhìn ông Cán, mong ông nghĩ được ra kế gì hay hay.

Ông Cán với cái điếu hút. Ông há hốc mồm cho khói đặc cuồn cuộn tuôn ra. Nửa

chừng, ông ngậm mồm nuốt rồi thở mạnh ra đằng mũi…

- À, tôi nghĩ ra rồi.

- Ồ, thế thì hay quá! Quý hóa quá!

- Thế này, ngõ sau nhà bác chả là hướng nam à. Vậy thì sáng sớm ngày ra là giờ dần,

bác đi ngõ sau sang xông nhà cho tôi, rồi chúng ta cùng đi ra ngõ nhà tôi quay về đông nam.

Cứ thế, chúng ta tiến thẳng đến miếu Hai lễ thánh. Đấy có cả đa lẫn xương rồng. Tha hồ mà

nẩy lộc.

- Vâng, nhưng liệu cháu xông nhà liệu có được không?

- Sao lại chẳng được. Bác dễ dãi, con cái nhiều, làm ăn may mắn, còn đâu bằng!”[29,

57 - 58]

Sáng mồng một mới thực là ngày khởi điểm cho một năm mới. Nhà nhà đều vui vẻ,

người người đều tươi tỉnh, hoan hỉ. Vui nhất vẫn là đám trẻ con. Khác với mọi ngày thường,

sáng mồng một chúng thường thức dậy từ sớm, xúng xính trong những bộ đồ mới và chúng

được mặc sức nô đùa, không sợ bị rầy la.

“Cả nhà cũng đã dậy. Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con hí hửng trong bộ

quần áo mới, đi đứng nghiêm chỉnh như các cụ lý sắp ra đình họp việc làng.

Cái Mít trang điểm rõ ra phết một cô gái quê đỏm dáng: chiếc khăn sa tanh vấn ngay

ngắn trên mớ tóc bóng mượt và thơm hắc những mùi sáp “Cô Ba”. Hai vạt áo tứ thân buộc

lỏng ra ngoài chiếc dây lưng thiên lý, chiếc yếm trúc bâu trắng nõn căng trên bộ ngực nở

nang. Chiếc váy lụa đen mềm bay về phía sau, in hẳn cặp đùi mập mạp mỗi khi Mít chạy lên

chạy xuống dọn cỗ.” Lúc ấy, “Ngoài đường, kẻ đi người lại nhộn nhịp. Người nào cũng

quần chùng áo dài mới mẻ, sạch sẽ. Họ chào nhau, chúc nhau. Chốc chốc lại một tràng pháo

nổ mừng xuân.”[29, 63 - 66]

Tết cũng là dịp để mọi người thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm. Dẫu điều này, ngày

thường chúng ta vẫn gặp. Ở làng quê, ngày Tết, là láng giềng, người trong một xóm, một

làng mà không đến nhà nhau, không chúc nhau một lời chúc đầu năm thì cảm thấy áy náy

như là một thiếu sót. Thế nhưng, ngày Tết thì ít mà bà con, xóm giềng thì nhiều nên ai nấy

đều phải tranh thủ đi cho khắp, nếu không sẽ bị chê trách. “Bác xã Chính thất thểu trở về

quên cả xuất hành xuất hiếc. Bác làm một mạch cho đến xế chiều mới dậy. Bác gái tủm tỉm

cười nói mỉa:

- Thế nào, thầy nó xuất hành những đâu?

Bác trai hơi gượng nói chữa:

- Xuất hành thế cũng đủ rồi. Còn hơn cụ cán chẳng xuất hành được tí nào.

Bỗng bác hốt hoảng: “Chết chửa, mình chưa đi lễ đâu cả!”

- Thế còn ngồi đây làm gì? Người ta đến lễ nhà mình đông rồi đấy.

Bác xã ra bể múc nước rửa mặt quàng qué rồi vội vã ra cổng...

Bác xã cắm đầu đi. Gặp ai, bác cũng chỉ chúc qua loa mấy câu, rồi bác rảo bước tiếp

luôn: “Xin phép ông, tôi chưa đi lễ đâu cả.” May cho bác, đến nhà nào, họ cũng đi vắng, chỉ

có bà chủ ra tiếp. Bác vội vàng lễ bốn lễ, có khi ba cũng nên, đoạn, bác vừa cầm lấy miếng

trầu trong cái đĩa của bà chủ bưng ra mời, vừa nói:

“Xin lỗi bà, tôi còn phải lễ nhiều nơi lắm.”

Bác lại tất tả sang nhà khác. Mãi tối mịt bác mới về.”[29, 66 - 67]

“Lời chào cao hơn mâm cỗ” là thế! Dẫu nhanh chóng, vội vàng, nhưng những lúc ấy,

gia chủ sẽ ra tận cửa tiễn khách, kèm theo nụ cười và lời cám ơn, lời chúc mừng năm mới.

Qua đó, ta càng hiểu thêm về ý nghĩa của ba ngày Tết và thấm thía hơn cái tình cái nghĩa

của con người đối với nhau.

Đúng như câu nói của dân gian khi nói về cảnh hội hè đình đám: “Tháng giêng là

tháng ăn chơi”. Ở làng quê, lễ hội thường kéo dài. Quanh năm gắn mình với đồng ruộng,

người nông dân chỉ mong được mùa bội thu, đợi chờ thời gian nông nhàn để được gắn mình

với các lễ hội. Bởi với họ , cái ăn cái mặc vốn quan trọng, nhưng cái vui, cái đẹp cũng là

nhu cầu không thể thiếu. Do vậy, mỗi khi làng vào hội, tất cả đều náo nức. Họ coi đó như

ngày nghỉ, được thư giãn, tạm quên đi cái đói, cái nghèo. Người ta lo lắng, chuẩn bị cho Tết

bao nhiêu thì bù lại trong Tết, cụ thể với ba ngày xuân, người ta ăn Tết, chơi Tết rộn ràng

bấy nhiêu. Chính vì vậy, viết về ngày Tết ở làng Cầm, Trần Tiêu dành không ít trang để mô

tả thật đầy đủ không khí từng bừng vui vẻ của người dân ở đây. Ở đó có những ngày hội

liên quan đến cả đời sống cộng đồng như: cỗ mừng thôn, hội quan lão; những thú tiêu khiển

của người dân như: sóc đĩa, tổ tôm, cờ bạc,... Dẫu tốt, dẫu xấu, nhưng tất cả vẫn được mọi

người chấp nhận. Bởi đó là phong tục thôn quê. Trần Tiêu cũng có thể được coi là người

con của đồng ruộng, của làng quê, và khi ông đã sống và được đắm mình trong đời sống của

người dân quê, thì hơn ai khác, ông chính là người hiểu và cảm nhận sâu sắc nhất cái phong

vị ngày Tết và các lễ hội ở thôn quê. Thế nên, tác giả miêu tả rất ấn tượng, từ “cỗ mừng

thôn”, “hội quan lão”, “đình đám”,... tất cả đều là những “ngày vui vẻ, sầm uất và náo nhiệt

nhất làng Cầm”. Chẳng hạn như ngày “hội quan lão” – đây là ngày hội các quan viên trong

làng, được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng. “Ngày ấy, văn chỉ thờ đức Khổng bỗng

trở thành nơi tụ họp của bốn thôn: Thượng, Trung, Tiền, Hạ, chỗ hẹn hò của đủ hạng người:

Già, trẻ, trai, gái, trên từ hàng lí, phó, dưới tới hàng cán, xã cho chí bạch đinh. Trong các

ngõ xóm, trên các đường hẻm, đường cái, từng lũ nối đuôi nhau đi cả về một phía như các

dòng sông chảy ra biển. Trong văn chỉ, chung quanh văn chỉ, người đi lại đông như kiến ...

nhưng vẻ mặt người nào cũng lộ vẻ náo nức. Họ náo nức, vì quanh năm làm ăn vất vả, họ

chỉ chờ mong ngày hội, bất cứ hội gì để giải trí. Nếu chỉ xem có thế thôi rồi về, họ cũng

không oán thán”.[29, 80]

Cờ bạc là tệ nạn. Nhưng khắp các làng quê, đặc biệt là làng quê Bắc Bộ, cứ hễ có lễ

Tết, có hội là có rất nhiều người tham gia, từ già chí trẻ, từ đàn ông đến đàn bà, thậm chí

còn có sự tham gia của những thiếu nữ. Chủ yếu là chơi cho vui nhưng với nhiều người cờ

bạc đã trở thành “món giềng”. Dưới đây là một vài đoạn văn miêu tả khá hay của Trần Tiêu

khi viết về thú cờ bạc trong ngày Tết ở làng quê Bắc Bộ.

(1) “Chị em vơ vẩn, đến chợ lúc nào không biết. Một giọng hát quen làm cho lòng mê

cờ bạc của Khuy bỗng nỗi dậy. Khuy vội kéo chị em lại chỗ có tiếng hát.

Một thằng bài tây, quấn khăn đầu rìu, ngồi xổm, hai đầu gối nhô lên khỏi cằm. Bằng

ngón tay trỏ với ngón tay cái, nó cầm hai đầu ba cây bài tam cúc chập lại, một cây đỏ, hai

cây đen, ngửa ra cho mọi người xem, rồi vừa hát vừa vất sấp xuống chiếu. Song, nó lấy

ngón tay dí vào một quân, mồm liếng thoắng: “Nó đây! Nó đây!” Ngồi cạnh, một thằng cò

mồi, tay cầm một gang tiền chinh. Nó đánh đâu được đấy.

Khuy ngồi xuống với lũ trẻ xúm xít chung quanh.

Chị em giục Khuy đứng dậy. Nhưng thua mấy ván liền Khuy đã nóng mặt. Cài phát

cáu, nói gắt:

- Đã thế, mặc thây hắn, cánh mình chẳng hoài hơi.”

[...]

(2) “Bác xã Rậu say bí tỉ, ngồi xếp bằng xóc cái. Chiếc khăn lược quấn cổ, tóc bù lên

như người mới ngủ dậy. Mùi người lẫn mùi rượu xông lên nồng nặc. Những tiếng “bán

chắn, bán lẻ”, những tiếng hò reo mỗi khi bát mở, những tiếng cãi cọ om xòm”[...]

Chắt ngửng đầu lên, nói : “Các chị đấy à”. Rồi lại cúi xuống chăm chú vào bàn xóc

đĩa. Mùi đang cay gỡ chẳng nghe thấy gì cả. [...]

Nghe chừng thấy bác xã Rậu gần thua sạch, Chắt không cưỡng đứng dậy ngay. Tửu

ngồi xem, đứng lên theo. Tín ngồi bên kia cũng bỏ đi nốt. Rồi dần dần tản mát để trơ bác xã

Rậu ngồi với lũ trẻ ranh”[29, 92 - 94].

Mặt khác, viết về ngày lễ Tết ở làng quê, tác giả không quên lồng vào đó những cảnh

hẹn hò trai gái rất mực nên thơ. Đây vốn là một nét đặc trưng của truyền thống sinh hoạt lễ

hội từ xưa đến nay. Đúng như tinh thần vốn có của lễ hội. Phần lễ là việc của các cụ, của

các quan viên hàng xã,... Lễ gắn với những nghi thức cúng bái diễn ra ở đình, miếu. Còn

phần hội là vui chơi mang tính chất giải trí, là không gian riêng cho sự gặp gỡ, nơi thắt chặt

thêm tình bạn, tình yêu của nam nữ chốn thôn quê, như những mối tình thơ mộng của Mít

với Tửu, Cúc và Chắt,... (Con trâu). Đồng thời, đó còn là thời khắc để con người ta có thể

đắm mình trong không khí hội hè, để tạm quên đi cuộc sống thường nhật đầy khó khăn ràng

buộc.

Trai làng, gái làng là những thành phần tinh hoa của làng quê Việt Nam. Đây là những

chàng trai, cô gái đang ở tuổi dậy thì, mới lớn lên, lòng còn trinh trắng. Trai thì khỏe mạnh

căng đầy nhựa sống, luôn vất vả ngược xuôi lo việc làng việc nước. Gái thì duyên dáng xinh

tươi luôn tảo tần buôn bán, trồng dâu chăn tằm, quay tơ dệt lụa trước là để để giúp đỡ mẹ

cha sau là để gây chút vốn riêng nhằm sắm bộ quần áo đi hội đi hè. Họ là những người ở

tuổi bắt đầu tìm hiểu yêu đương, ở đâu có họ là ở đấy có tiếng cười. Vì ở cùng trong một

làng nên họ thường xuyên có điều kiện để gặp gỡ nhau trong những lúc làm việc ngoài

đồng, khi sang một chuyến đò, nhất là những ngày làng vào hội. Vào những thời khắc ấy,

họ, đặc biệt là những cô gái tha hồ sửa soạn, được sắm những bộ quần áo đẹp, được gặp gỡ

người mình yêu thương. Chính những tâm trạng hồ hởi, sự hồi hộp, niềm vui sướng của họ

trong những buổi hẹn hò ấy là những yếu tố tạo nên chất thơ cho cuộc sống của làng quê

nghèo Việt Nam. Những cảnh, những tình ấy, Trần Tiêu đã viết rất hay và miêu tả khá sinh

động.

“Trăng rằm đã lên khỏi ngọn tre. Ánh sáng vàng trong, mượt như nhung, bao phủ lấy

cảnh vật, làm mất các nét thô và tăng vẻ đẹp lên bội phần. Những dãy nhà tranh trông xa,

sạch sẽ, mịn màng như trong phim ảnh.

Ra đến đường cái, bốn chị em quàng tay nhau đi hàng chữ “nhất”.[...]

Bỗng Mít nghĩ đến Tửu, hỏi Cúc:

- Này chị Cúc, họ đợi cánh ta ở đâu nhỉ?

Cúc ghé tận vào mặt Mít, nói chọc:

- Đâu thì chị hỏi làm gì? Anh Tửu hôm nay kêu bận không đi, chị ạ.

- Anh ấy không đi thì việc gì đến tôi, rõ khéo cô này.

Tuy nói vậy mà trong lòng Mít phấp phỏng không yên. Vì Mít đi xem chèo, phần

chính là cốt gặp Tửu.[...]

Trăng càng lên cao càng sáng trong. Hai bên đường cánh đồng lúa xanh non bát ngát.

Ngọn lúa mềm nhấp nhô trong sóng bạc. Xa xa, phong cảnh huyền ảo như trong giấc

mộng.[...]Bên trai, bên gái vừa đi vừa trò chuyện, giễu cợt lẫn nhau thấm thoắt đã gần tới

làng Đoài.”[29, 134 - 138]

Tóm lại, viết về ngày Tết ở làng Cầm, Trần Tiêu đã dẫn dắt chúng ta đến với rất nhiều

tục lệ đang diễn ra hằng ngày trong nếp sinh hoạt tinh thần của người dân Bắc Bộ xưa.

Những tục lệ ấy,có cái hay, cái dở, ngày nay, có thể còn, có thể mất. Nhưng có một điều

chúng ta dường như cảm thấy rằng, với những con người ấy, trước và sau Tết đã có biết

bao tục lệ chi phối đời sống họ và tất cả họ đều muốn cố công gìn giữ, tuân theo những tục

lệ ấy dù trong bất kì hoàn cảnh nào.

2.3.1.2. Lễ hội nông nghiệp – một môi trường cộng mệnh, cộng cảm của cư dân làm

nông nghiệp.

Cuộc sống nông nghiệp vốn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Và đâu phải năm nào cũng

được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ông trời nhiều lúc cũng muốn trêu ngươi con

người. “Nhà nông dù ngày ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nhưng vẫn “trông trời,

trông đất, trông mây,...” Những lúc lúa đã trổ, hoặc đã tròn đòng mà lụt đến thì chỉ còn

cách... dọn cỏ; hoặc nắng hạn kéo dài không gieo cấy được thì cầm chắc cái đói.”[16, 272]

Và những lúc ấy, họ - những cư dân nông nghiệp – chỉ biết “nhờ trời”, bằng cách tổ chức

những lễ hội cầu mưa, cúng xin thần linh. Và như trong chương 1, chúng tôi có đề cập, văn

hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trên cơ cở nền nông nghiệp lúa nước

tiểu nông trong một vùng đồng bằng khép kín theo kiểu hướng nội. Cư dân chủ yếu sống

theo kiểu kinh tế tự cung tự cấp. Họ tiêu biểu cho phương thức tư duy nông nghiệp: trọng

thực tiễn, thực dụng, kinh nghiệm và bình quân. Cuộc sống của dân làng luôn gặp nhiều khó

khăn, họ chỉ nghĩ đến hiện tại. Mỗi năm chủ yếu có hai vụ trồng lúa và trồng màu. Thời gian

nông nhàn nghỉ ngơi họ thường gắn mình với lễ hội. Lễ hội cổ truyền, còn gọi là hội làng,

với mong ước cầu xin về một cuộc sống no đủ, yên ổn là biểu tượng sống động cho tín

ngưỡng ở làng quê.

Theo tác giả Chu Xuân Diên: “Nguồn gốc của tín ngưỡng và nghi lễ nông nghiệp là sự

bất lực của người làm ruộng nguyên thủy trước sự chi phối của các sức mạnh thiên nhiên.

Mùa màng phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên mà người làm ruộng không khắc phục

nổi, do đó phải viện đến sự phù hộ của các sức mạnh siêu nhiên mà con người tưởng tượng

ra”. [5, 166 - 167] Khi trời đất khô hạn kéo dài, người nông dân thường làm lễ cầu đảo, tức

là làm lễ cầu mưa bằng cách cúng bái.

Cùng với lễ Tết, lễ hội nông nghiệp cũng là những sinh hoạt văn hóa cộng đồng rất phổ

biến của vùng Bắc Bộ. Cũng là những trang viết về nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của

người dân ở làng xã Bắc Bộ xưa, thêm một lần nữa, Trần Tiêu đã giúp cho người đọc hôm

nay có được sự cảm nhận sâu sắc hơn tâm trạng của những con người sống và gắn mình với

nông nghiệp. Hay nói đúng hơn, liên quan đến lợi ích thiết thực của mình, mỗi người nông

dân, khi đến với lễ hội nông nghiệp, ai nấy đều thành tín, hồ hởi, vui mừng, xúc động.

Đây là công việc của cộng đồng, của làng, cá nhân muốn tự mình thực hiện cũng

không được mà phải có lệnh của quan trên. Vì vậy, nên khi vừa có lệnh của quan phụ mẫu

ban về làng thì tất cả mọi người đều “hớn hở sung sướng như người được bạc” và “thôn nào

cũng bận rộn, náo nhiệt như ngày vào đám”.[29, 165 -167] Bằng ngòi bút miêu tả tỉ mỉ,

chân thực của mình, qua tác phẩm “Con trâu”, Trần Tiêu đã tái hiện lại đầy đủ không khí,

tâm trạng của người dân làng Cầm trong ngày hội cầu mưa, mặc dù, ông chỉ dừng lại ở việc

miêu tả công tác chuẩn bị cho buổi lễ chứ chưa đi sâu vào miêu tả nghi lễ chính thức.

Đầu tiên là khâu chọn người. “Các cụ chọn lọc mãi mới tìm được ông lý Hiểu là người

vừa tuổi tác vừa sùng bái. Vâng, sùng bái lắm. Đã lâu, ông không hề đụng đến củ hành, củ

tỏi hay một thức gì mà đứng trước thánh có thể phạm tội được. Không kể bao giờ ông cũng

có vài củ gừng hay ít hạt tiêu trong túi áo. Sùng bái như thế mà ông còn ngần ngại, đợi các

cụ giục hai, ba phen mới dám nhận lời. Đủ biết đức ông ngài thiêng đến bực nào!

Thoạt ở nhà ra đi, ông đã tâm tâm niệm niệm. Vừa tới cổng chùa, ông đã kính cẩn, sợ

hãi như một anh dân ngu đến cửa quan. Trước khi xin âm dương, ông tế một tuần rượu.

Những người giúp việc ông hành lễ đều là những người thanh khiết cả, hai ba hôm chưa hề

đụng đến miếng thịt cầy”. [29, 169]

Xem cách tác giả miêu tả khâu chọn người chủ tế của dân làng, thêm vào đó là sự cẩn

thận, chu đáo, một thái độ rất thành kính của người được chọn, chúng ta càng nhận thấy sự

quan trọng của những buổi lễ cầu đảo.

“Cứ nhìn dáng điệu ông lom khom, đi đứng khép nép trong lúc tế, đức ông ngài cũng

rủ lòng thương rồi. Tế xong, ông cúi rạp, hai tay giơ ra cầm lấy cái đĩa đựng hai đồng trinh

Khải Định để trên nhang án. Ông quỳ và kính cẩn nâng cái đĩa lên ngang trán rồi ông lẩm

nhẩm khấn một thôi dài. Đoạn, ông hạ thấp đĩa xuống trước ngực, cầm hai đồng trinh,

gieo”. [29, 169]

Quả thực, khi viết về làng quê, đặc biệt là khi miêu tả về những buổi lễ cầu đảo, một

hình ảnh thu nhỏ của lễ hội nông nghiệp, chúng ta nhận thấy, Trần Tiêu đã quan sát rất tỉ mỉ

và có sự thấu hiểu rất sâu sắc về đời sống cũng như tâm lí của người dân quê. Mỗi cảnh,

mỗi chi tiết liên quan đến cuộc sống, tâm trạng của họ đều được ông lí giải rất cặn kẽ. Công

việc tế, rước đức ông sở dĩ được mọi người hồi hộp và kính cẩn trông chờ như thế là bởi lẽ:

“Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt từ tháng ba sang tháng tư, không một giọt

mưa.

[...]

Cây cối xác xơ như sau một trận giông tố. [...] Bao nhiêu ruộng đồng cao đều nẻ toác.

Những cây lúa cằn cỗi đâm tua tủa lên trời những lá cứng, vàng úa, ngọn cháy sém.

Không còn kiếm đâu ra nước mà tát

[...]

Chỉ mười hôm không mưa nữa là đi đời cả một cánh đồng hàng nghìn mẫu”. [29, 147]

Chờ đợi mãi mới có lệnh quan về cho phép làng tổ chức lễ cầu đảo. Không biết rằng

sau những buổi cầu đảo này “ông Trời” có nghe thấu và cho mưa xuống hay không. Nhưng

ông bà xưa vẫn nói: “có cúng có thiêng, có kiêng có lành”, và hơn ai hết, chính những con

người sống gắn mình vào nông nghiệp, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên như những người

nông dân nghèo ở làng Cầm ngày ấy, họ rất tin vào câu nói này. Trần Tiêu đã miêu tả rất

thành công tâm trạng đó qua các nhân vật trong tác phẩm của ông.

“- Sấp hai ngài bất ưng.

Không đầy năm phút, tin dữ đã lan khắp sân chùa.

Xã Chính tay cầm trống khẩu áp vào ngực thở dài (xã Chính được giữ chức đánh trống

khẩu đi lùi sát trước kiệu).

[...]

- Ngửa bạch, ngài cười.

Tin truyền đi. Ngoài sân nhao lên:

- Ngửa bạch, ngài cười.

[...]

“Sấp một, ngài ưng!” Tiếng hò reo khắp sân như tiếng ca khải hoàn của một đội quân

đi chinh phục về.

Xã Chính mừng, nhảy cẫng lên một cái như thằng rồ. Gặp ai, bác cũng nhắc lại: “Sấp

một! Ngài ưng!” Tuy họ biết chẳng kém gì bác”. [29, 169 - 170]

Nói như giáo sư Hoàng Như Mai, chính“sự hiểu biết thấu đáo và bút pháp tinh tế của

nhà văn đã cống hiến khá nhiều chương folklore đặc sắc, thú vị cho người đọc, nhất là

người đọc ngày nay không có dịp thấy những cảnh ấy”.[30, 3] Rước kiệu là một nghi lễ

quen thuộc của các lễ hội nông nghiệp. Đây là khâu chính của lễ hội vì nó làm cho buổi lễ

thêm phần ý nghĩa và long trọng hơn.

“Được lệnh các cụ, bác giơ trống ra trước mặt đánh ba hồi chín tiếng. Tức thì, cờ quạt,

tàn lọng giải ra đỏ rực cả lối đi từ cổng chùa đến tận đường cái.

Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba, tám anh ghé vai, nhấc bổng kiệu lên

rất đều đặn, ngay ngắn vì các anh khiêng kiệu nhiều lần nên thạo lắm. Trống cà rùng, trống

cái, trống con, bát âm nổi nhịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi.

Nhưng kiệu ngài đến cổng liền đứng lại không chịu nhúc nhích. Ông lý Hiểu tạm lĩnh

chức đại bái và các cụ xúm lại khấn khứa mãi, ngài nể lời mới chịu đi cho. Đi được mươi

bước, ngài bắt đầu bay, bay mãi. Các cụ xắn tay áo thụng lên tận khủy, chạy theo kiệu như

đàn vịt, hai dải mũ bay tỏa ra đằng sau như đôi cương ngựa. Xã Chính quên cả đi lùi, chạy

bán sống bán chết, đứt cả guốc mà không dám trở lại nhặt

Ngài bay thẳng vào đình thôn Hạ, đứng lại hồi lâu ở sân đình cho các kì hào “văn vũ”

đến lễ khấu đầu, rồi ngài lại bay vào đình thôn Thượng, thôn Tiền, khác các thánh, ngài bay

cả vào thôn Trung. Rồi ngài xoay, ngài lùi, ngài phi. Mỗi lần ngài làm dữ quá, các cụ lại

phải xúm lại cầu khẩn”. [29, 171]

Đề cập đến hoạt động tín ngưỡng ở làng quê Bắc Bộ, ở phần “Lễ nghi tế tự”, tác giả

Toan Ánh – một người có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Bắc Bộ – có nói đến lễ

rước, hay còn gọi là đám rước nghênh thần như sau:

“... Rước đi từ đền đến đình, qua đường làng. Dân làng hoặc đi theo đám rước, hoặc

đứng ở hai bên đường xem đám rước đi qua.

[...]

Đám rước đi chầm chậm trong trật tự.

Long đình long kiệu có khi bay. Đó là do các chân kiệu bị tự kỷ ám thị cùng nhau đi

mau, đi mau hơn mãi, hình như bị thúc giục, hoặc có khi vì người ngoài đi xem đông quá xô

đẩy, các chân kiệu không kìm giữ được nên bước mau. Tục tin là Thánh giáng cho nên kiệu

bay. Trong lúc này mọi người khấn vái, và những nhà ở hai bên đường vừa khấn vái vừa

thắp hương”. [2, 268 - 269]

Không biết rằng Trần Tiêu có rõ được bản chất của nghi lễ này không nhưng khi nhìn

cách ông miêu tả cảnh đám rước trong ngày lễ cầu đảo, chúng ta có cảm giác dường như tác

giả cũng đang mải mê và đắm mình trong giờ phút thiêng liêng và quan trọng ấy.

“Cả làng náo nức, bỏ cả tát nước để đi xem. Các bà lý, bà khán, các bà vãi, bà đồng

đứng hai bên vệ đường chắp tay xuýt xoa khấn vái hoặc theo sau kiệu đức bà tụng niệm nam

mô như các đồng trinh bên giao cầu kinh.

Đám rước đi dài hàng ngàn cây số. Đứng xa, trên một nơi cao nhìn xuống, trông như

thể một tràng xà thêu bằng các chỉ sặc sỡ trên nền nhung xanh. Những chiếc lọng nhô lên

như hàng nấm. Thỉnh thoảng một tràng pháo nổ ran, làm lấp cả tiếng trống rước. Khói pháo

bay tỏa ra như mây mờ. [...] Thương hại cho xã Chính, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà vẫn phải

vừa chạy vừa đánh ba tiếng trống một. Bác không hề nghĩ đến cái giá trị to tát nhất trong

bọn người đi rước. Bác không quản khó nhọc, tâm niệm, thành kính để ngài chứng quả mà

phù hộ cho cả làng”. [29,172 -173]

Lời văn trong sáng giản dị đã khắc họa được khung cảnh lễ hội đặc sắc dẫu cách xa

chúng ta mấy chục năm mà vẫn gần như trước mắt. Đúng với tinh thần của lễ hội, đó là môi

trường cộng cảm, cộng mệnh của toàn thể cộng đồng, là thời khắc làm cho mỗi người thêm

gắn bó chặt chẽ hơn với làng với xóm. Không chỉ có những lễ hội nông nghiệp, trong những

trang viết của mình, nhà văn chân quê - Trần Tiêu (lời của Lê Thị Đức Hạnh) còn tái hiện

thành công các lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng như: lễ hội cầu tự ở đền Kiếp, hội

chùa Hương, hội Phủ Giầy... Tất cả đều được thể hiện sinh động và chân thực.

2.3.1.3 Mê tín dị đoan là những mặt còn hạn chế trong tín ngưỡng của người dân

quê.

Sự khác biệt về trình độ, về sự hiểu biết, làm cho đời sống nông thôn bao giờ cũng

thấp kém hơn, và có một khoảng cách với đời sống ở thành thị.

Chính trình độ lạc hậu, thấp kém cùng với những khó khăn xảy ra liên tiếp trong cuộc

sống thường nhật đã dồn những con người nghèo khổ chốn thôn quê vào những con đường

bế tắc. Họ phải tìm đến các thế lực siêu nhiên để cầu mong sự trợ giúp, những điều tốt lành

và may mắn. Những khó khăn đầy rẫy trong cuộc sống như: việc hiếm muộn con cái, đói

nghèo, bệnh tật, tất cả đều được họ giải quyết theo tín ngưỡng và thần linh. Điều này đã

được Trần Quốc Vượng đề cập khi bàn về lễ hội nông nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. “...

cũng cần thấy trong lễ hội có cả yếu tố phi văn hóa, phản văn hóa được lưu giữ. Đó là

những yếu tố mê tín dị đoan cần loại bỏ khi kế thừa kho tàng lễ hội cổ truyền để xây dựng

một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.[42, 99] Trần Tiêu đã có một

quãng thời gian dài sống và sinh hoạt ở thôn quê nên hơn bất kì ai, ông chính là người nhận

thấy rõ trong nếp sinh hoạt văn hóa này, đâu là những mỹ tục cần gìn giữ, phát huy và đâu

là những hủ tục cần phê phán để loại bỏ. Vì vậy, viết về lễ hội làng quê, bên cạnh thể hiện

những mặt tích cực của nó, Trần Tiêu đồng thời cũng có những trang viết rất thực về mặt

tiêu cực, những tục lệ cổ hủ do chính lễ hội gây nên. Nói đúng hơn, ở một phương diện nào

đó, viết về nông thôn, đi vào quan sát và miêu tả đời sống tinh thần của người dân quê, ngòi

bút của Trần Tiêu không né tránh những biểu hiện mê tín, tin dị đoan của người nông dân.

Ông đã chỉ rõ: những người dân quê trong sáng tác của mình là những người mê tín vì cuộc

sống quá nhiều khó khăn, trình độ dân trí lại thấp kém nên họ rất tin vào những tập quán lạc

hậu.

Trong phần khái quát về những đặc điểm văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ ở

chương 1, chúng tôi đã trình bày: làng xã Bắc Bộ là sự mở rộng và phát triển từ gia đình và

lớn hơn chính là gia tộc. Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ rất coi trọng gia đình. Nhiệm vụ,

chức năng của gia đình ở đây, bên cạnh nuôi dưỡng, dạy bảo con cháu, thì việc sinh đẻ của

người phụ nữ để duy trì nòi giống và để tạo thêm nguồn nhân lực cho công việc lao động

nông nghiệp cũng rất quan trọng. Đông con là niềm hạnh phúc lớn của mọi gia đình nông

dân Bắc Bộ. Vì vậy, việc một người phụ nữ lấy chồng mà không có con đó là một nỗi đau

lớn.

Theo khoa học, việc người phụ nữ sớm hay muộn con, đó là do đặc điểm sinh lý mỗi

người, nhưng với họ - những người nông dân trong sáng tác của Trần Tiêu – thì cần phải đi

từ đền này đến chùa nọ, cầu khấn thần, Phật gây nhiều tốn kém, đau khổ cho người phụ nữ.

Đó là câu chuyện có thực, của chị xã Bổng – nhân vật chính trong truyện “Chồng con”.

Chị xã Bổng lấy chồng đã bảy, tám năm trời và từ khi về nhà chồng chị tỏ ra là một

người con dâu tháo vát, đảm đang, mọi việc trong nhà từ bé chí lớn đều do một tay chị quán

xuyến. “Thôi thì dệt vải, may vá, đi chợ, đi búa, làm cơm, làm nước, buôn ngược bán xuôi,

tần tảo,[...] mà không bao giờ phàn nàn về nỗi vất vả. Mười chín tuổi đầu mà biết đủ mọi

việc như thế thì thật là hiếm có, một nàng dâu hiếm có”. [30, 16] Thế nhưng, cuộc sống có

bao giờ trọn vẹn và thỏa mãn lòng người, chị lấy chồng đã bảy tám năm nay mà vẫn chưa

có được mụn con nào. Mẹ chồng chị mặc dù rất mực thương yêu và nể chị nhưng bà vẫn

buồn phiền, thậm chí đôi lúc bực bội vì “ngoài năm mươi tuổi đầu vẫn chưa có cháu nội...

Cháu ngoại tuy cũng là cháu, nhưng không thể so sánh với cháu nội được”[30, 16]. Không

chỉ riêng mẹ chồng chị lo nghĩ mà đối với chị đó cũng là nỗi buồn, nỗi tủi không thể thổ lộ

cùng ai. Những lời riễu cợt của ông chú bà bác, của hàng xóm láng giềng, dù chỉ một câu:

“người hơ hớ thế kia mà chẳng đẻ đái gì cả” , thế thôi cũng đủ khiến chị nghĩ ngợi, cho như

một câu nguyền rủa. Rồi những khi về thăm bố mẹ đẻ: “mẹ nàng lại xoa bụng nàng và nói:

“Cố bằng chị bằng em chứ. Sao mà con gái tôi lười biếng thế?” Nàng đỏ mặt, trả lời bằng

một giọng chua chát: “Lúc đẻ thì tự khắc đẻ chứ cố cũng chẳng được” [30, 17].

Nói thì nói thế chứ kì thực,chị cũng đã tìm hết cách. “Nàng đã sang tận bên Họ, tìm

đến ông lang chuyên chữa về đường tử tức. Nàng đã nhờ ông khóa Vịnh vừa là họ ngoại

vừa là thầy cúng, lần mò vào tận Hương Tích kêu cầu, xin dấu. Chẳng hội đền nào là nàng

không ngầm gởi tiền ông ta đi lễ hộ. Nàng mua cả thuốc mường, thuốc mán. Nàng đã xin sư

cụ chùa Tiên nổi tiếng về môn phù thủy một đạo bùa cầu tự buộc vào cổ yếm mà nàng cố ý

luồn trong áo để mọi người khỏi biết, sợ họ cười. Nàng đã xem bói và thầy bói đã bảo cho

nàng biết rằng số nàng muộn màng, đến năm hăm tám thì sẽ có con giai và sẽ con đàn cháu

đống. Nàng vẫn bán tín bán nghi. Nàng thầm nghĩ: Lắm người khô như hạc còn đẻ huống

chi nàng, thân hình tròn trĩnh. Nàng lại nghe thấy người ta nói: người đàn bà nào vú nở và

lưng hơi gù thì lắm con. Lời ấy đúng như tướng mạo nàng”. [30, 17] Rồi đến khi đã có con,

chị xã Bổng lại chịu thêm nỗi đau mới là không sinh được con trai sớm. Hàng trăm thứ khổ

mà chị phải chịu, tất cả đều do quan niệm cổ hủ, do sự mê tín mà ra. Trong khi đó, chồng

chị chỉ có một thú thích là thả diều, cờ bạc, tổ tôm, rồi mê cả cô đầu...

“Bói ra ma, quét nhà ra rác” – câu nói với hàm ý phê phán vốn rất quen thuộc từ miệng

của người dân bao đời nay. Nhưng đấy cũng chính là sự lựa chọn để hành xử và giải quyết

mọi khó khăn trong đời sống của những người dân quê nghèo nàn, cơ cực trong mỗi tác

phẩm của Trần Tiêu. Cuộc sống có lúc no đủ, có lúc cơ cực, đáng lo nhất là những năm đại

hạn, mất mùa. Dẫu biết đó là quy luật của cuộc sống nhưng khó khăn chồng chất đã làm cho

những người nông dân nghèo khổ luôn phải lo nghĩ, nghi ngờ. Và khi không thể lí giải được

những khó khăn thất bại ấy, họ tìm đến với bói toán, họ tin vào thần linh, làm theo những

lời chỉ dẫn ấy với một hy vọng: cuộc sống sẽ hết khó khăn, con người sẽ hết bệnh tật…

Câu chuyện “sang cát” cho ông cụ thân sinh ra bác Chính trai là một ví dụ sinh động.

Đức tính đáng quý nhất ở cặp vợ chồng nông dân này chính là sự cần cù và rất lạc quan. Họ

luôn tin tưởng vào sức lao động của chính mình. Để đeo đuổi giấc mơ tậu được con trâu cái,

bác Chính trai đã lao động hết mình. Mặc dù đã có tuổi song bác Chính, ngoài công việc

đồng áng của gia đình, bác còn “chịu đi gặt thuê, không sợ mất thể diện”. Bác Chính gái thì

sớm hôm tảo tần vừa lo phụ chồng công việc đồng áng, vừa lo hàng xáo, dệt vải, … Cả cái

Mít, dù chỉ mười mấy tuổi đầu, nhưng Mít cũng đã tỏ ra là một cô gái đảm đang với gánh

hàng cỏn con của mình. Cả gia đình cùng lao động để mong có được một cuộc sống no đủ.

Thế nhưng, cũng như bao gia đình nhà nông khác, gia đình bác Chính phải đối diện với

những năm đại hạn mất mùa, cuộc sống ngày càng lụn bại thêm. Rồi bác gái nhận thấy “một

điều lạ”: “không hiểu sao, trong năm nay, bác động mó vào việc gì là hỏng việc ấy. Dệt vải

thì vải rẻ, sợi cao. Nuôi gà thì gà toi. Nuôi lợn thì cám đắt. Mấy tháng nay, bác xoay ra làm

hàng sáo. Lúc đầu còn có lãi. Đến bây giờ, gạo tự nhiên cứ mỗi ngày một hơn mãi lên, mà

thóc đong trong các nhà giàu thì cứ phải chịu cái giá cũ”. [29, 209] Và bác quyết định đi

xem bói. “Sau mấy lời nói dựa vào một vài câu bác cho là đúng, ông thầy xoay sang hậu

vận, nịnh nọt, gãi vào chỗ ngứa cho bác sướng. Rồi kết cục ông ta bảo phải cất lại ngôi mộ

ông thân sinh ra chồng bác và động mộ ông tam đại, phải lễ ông thổ thần cai quản khu đất

ấy. Lễ vật phải một con ngựa hồng, một chiếc mũ hồng và một chân giò lợn”. [29, 209 -

210] Sự đời là thế, đã không biết thì thôi chứ đã nghe thầy phán mà không tin, không làm

thì không an tâm. “Sống cái nhà, già cái mồ. Bây giờ, mộ các cụ bị động thì con cháu ngóc

đầu không nổi là phải. Suy nghĩ nhiều đêm, bác quyết định cải táng mộ của bố chồng”. [16,

299] Mà việc sang cát đâu phải chỉ làm đơn giản là được. Nghèo thì nghèo, khổ thì mặc

khổ, đã quyết định làm thì “ít ra phải một con lợn mời hàng giáp. Năm, sáu đồng con lợn

với lặt vặt, trầu cau, gạo nước, rượu, thuốc phiện cũng phải bốn, năm đồng nữa. Ấy là còn

hà tiện đấy!” [29, 210] Chưa biết cái hậu vận của gia đình người nông dân nghèo khổ ấy có

thực sự sáng sủa hơn hay không nhưng nhìn cảnh vợ chồng bác “cảm động hồi hộp vì sung

sướng” khi tiếp tục được nghe lời phán từ miệng thầy địa lý “có ngôi mộ này rồi thế nào

cũng khá và sẽ có quý tử”, chúng ta càng thấy đáng thương hơn cho những kiếp nông dân

nghèo lạc hậu ấy hơn.

Cùng viết về sự mê tín, “Hữu sinh vô dưỡng” lại mở ra trước mắt người đọc một cảnh

tượng rùng rợn về lối sống không khoa học, thiếu vệ sinh của người dân quê. Đó là cách

dùng đạo bùa, tà phép để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống thường

nhật.

Đây là cảnh giải trừ tà ma của nhà chùa cho một phụ nữ có đẻ mà không được nuôi.

“Sư cụ cắt một ít tóc của bác bỏ vào nồi nước sôi, tiếng thanh la lại nổi lên inh ỏi. Sư

cụ vén tay áo cà sa lẫn tay áo trong để lộ cánh tay trần rắn rỏi. Tay phải cụ cầm cây chổi

mới tinh, nhúng vào nồi nước sôi sùng sục, quét lên cánh tay cụ rồi quét lên lưng bác khán.

Mọi người rùng mình. Hết lưng sang cánh tay, cụ quét đi quét lại năm bảy lần. Công việc

của cụ thế là xong và đàn giải kết hoàn thành một cách mĩ mãn. Rồi thế nào lần này bác

khán cũng đẻ con trai và cũng nuôi được ra đầu ra đũa”. [31, 70] Và sau đó, bác khán sinh

con trai thật. Nhưng lần này, mặc dù, tác giả giải thích rất rõ: “thằng bé may mắn được đỡ

trong bụng mẹ ra một cách cẩn thận và được trông nom săn sóc theo cách vệ sinh nên người

nó trông mũm mĩm, khỏe mạnh.

Nhưng theo sự mê tín của mọi người và cả sự mê tín của mẹ thằng bé thì “nó được như

thế là nhờ phép thần thông của sư cụ”.[31, 70]

Rồi những cách bàn luận về bệnh, những cách chữa bệnh kì lạ, cũng như cách kết luận

khi không thể chữa lành bệnh cho bệnh nhân thì được giải thích, do tại “nhà chủ hết

phúc”,... được tác giả miêu tả rất hay và khá hài hước qua truyện ngắn “Lang thang”.

Những khó khăn trong cuộc sống đều được những nông dân chân lấm tay bùn, trình

độ lạc hậu ở làng Cầm, xóm Lũy,... lý giải theo tín ngưỡng thần linh. Bệnh tật, nghèo khổ

,... đối với họ là phải tìm đến thầy bói, phải “sang cát” cho mồ mả tổ tiên, tốn kém đủ điều

để rồi nghèo vẫn hoàn nghèo.

Có một điều chúng tôi nhận thấy rằng, viết về những hủ tục, về sự mê tín dị đoan của

những người dân quê, Trần Tiêu không chỉ dừng lại ở việc kể lại hoặc nêu ra những câu

chuyện với những hậu quả của chúng để nhằm phê phán mà cái chính là ở thái độ cảnh báo

của nhà văn. Khi Trần Tiêu miêu tả những cảnh, những tình huống đó cũng chính là lúc ông

băn khoăn mong muốn có được một giải pháp, một lời tuyên truyền về nông thôn để giúp

người dân có được những ý thức đúng đắn về lối sống khoa học hơn, sáng sủa hơn. Điều

này rất đúng với chủ trương nâng cao trình độ dân trí cho người dân ở nông thôn mà Đảng

và Nhà nước ta đang thực hiện. Cụ thể là muốn thay đổi đời sống của người dân quê không

có giải pháp nào hợp lý hơn bằng cách mạnh dạn chỉ ra những điểm yếu của họ và hướng

dẫn cho họ cách khắc phục nó.

Đến đây chúng ta có thể nói rằng, viết về nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân

đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể là qua việc tái hiện sinh động nhiều mặt của lễ Tết, lễ hội, Trần

Tiêu đã giúp khơi lại trong lòng người đọc ý thức trân trọng những sinh hoạt văn hóa cộng

đồng – một biểu hiện độc đáo của văn hóa làng. Đồng thời bằng sự tỉnh táo và cái tâm chân

thành của một nhà văn chân quê, ông đã trực diện lên án những hạn chế, cụ thể là sự mê tín

và lòng tin mù quáng do trình độ lạc hậu của những người dân quê gây nên.

2.3.2. Sinh hoạt văn hóa vật chất

Sinh hoạt vật chất bao gồm những hoạt động đi lại, ăn ở, lao động,... đó là những hoạt

động phổ biến gắn liền với những nhu cầu cuộc sống thường nhật của người nông dân. Viết

về sinh hoạt vật chất trong đời sống ở thôn quê Bắc Bộ, Trần Tiêu đã có những trang viết rất

chân thực và đầy xúc động về mọi hoạt động của người dân quê từ ăn ở, đi lại, đến những

lối sinh hoạt, những nếp nghĩ giản dị của những cư dân vùng lúa nước miền Bắc nước ta vào

những năm 30 – 45.

2.3.2.1. Niềm vui của những ngày mùa bội thu và những buồn lo của những năm

đại hạn mất mùa.

Trước tiên là cảnh ngày gặt trong một mùa bội thu đã được nhà văn miêu tả thật sinh

động, cảnh và người, tất cả đều diễn ra một cách tấp nập

Cuộc sống nông nghiệp chủ yếu chỉ dựa vào đồng ruộng nên người làm ruộng không

trông chờ gì hơn là đến ngày gặt hái. Vụ mùa nào được thì niềm vui dâng trào, bởi, được

mùa họ sẽ được no đủ, sẽ giúp họ đẩy lùi cái đói, cái nghèo, trang trải bớt công nợ... Tâm

trạng của người dân quê trong sáng tác của Trần Tiêu cũng thế. Với họ, đó thực sự là một

ngày hội lớn.

“Khác hẳn mọi ngày, làng Cầm bỗng trở nên ồn ào, tấp nập như một ngày hội. Trên

các đường gạch, trong các ngõ hẻm, kẻ đi người lại, cười nói vui vẻ. Phần nhiều là những

đàn bà con gái đội thúng, cắp rổ sắm sửa thức ăn cho thợ gặt. [...] Khắp làng, từ giàu cho

chí nghèo, nhà nào cũng bận rộn dọn dẹp chỗ chứa thóc. Họ chăm chú vào công việc ấy

như thể mấy anh đương thứ chăm chú vào việc đón rước quan”. [29, 24 - 25]

Cùng với “Con trâu”, truyện “Chồng con” cũng có những trang viết về cảnh ngày

mùa rất hay. “Tờ mờ sáng, trên các đường làng, trong các ngõ xóm, những thợ làm lũ lượt,

bọn năm, bọn bảy, hái buộc bằng những sợi lạt vào đòn sóc vác trên vai, tay áo vén quá

khuỷu, quần sắn lên quá gối, để lộ những bắp thịt rắn chắc và đỏ sẫm, vừa đi vừa trò

chuyện. Những tiếng cười trẻ trung, những tiếng nói mạnh mẽ vang trong không khí mát.

Trên các nóc nhà bếp, những tia khói lam bay tỏa trong sương, quyện vào các khóm tre,

khóm lá.

Những cô gái quê sắp sửa quang gánh đem cơm cho thợ làm. Nhiều cô trẻ đẹp và hơi

có tính lẳng lơ cũng sắp đem những nụ cười tình tứ kèm với những câu vớ vẩn để quyến rũ

bọn trai tơ. Vì thế mà sau mỗi mùa gặt lại có những chuyện tình duyên trai gái trong làng”.

[30, 188]

Ngày nay, qua sách vở, qua tài liệu nghiên cứu, chúng ta đều biết rằng, chính những

sinh hoạt trên đồng ruộng vào những mùa gặt, những buổi cấy cày là cội nguồn góp phần

sản sinh ra nền văn hóa dân gian – một mạch sống ngầm, tạo nên dòng chảy không bao giờ

dứt cho nền văn hóa nước nhà. Đó là những làn điệu dân ca, những câu hò đối đáp, những

mối tình trong sáng, thơ ngây của các chàng trai cô gái thôn quê hầu hết đều được nảy nở

trên những cánh đồng quê.

Đời sống vật chất hòa quyện với đời sống tinh thần là thế. Mặc dù không trực tiếp

được sống và hòa mình trong không khí của những ngày gặt, nhưng qua những trang viết

của Trần Tiêu, với cách miêu tả tinh tế sinh động của ông, chúng ta hôm nay càng thấy yêu

hơn những con người lam lũ mà hiền hòa, những khía cạnh của cuộc sống hữu tình nơi chốn

thôn quê Việt Nam. “Chiều, phương tây đỏ ối như cháy. Một làn sương tỏa ra như bụi làm

cho các màu dịu đi, mờ tối dần. Trên đường thợ gặt lũ lượt gánh lúa rảo về làng. Tiếng lúa

đập vào nhau, rào rào như mưa.[...] Họ vừa làm vừa chuyện trò, đùa cười như nắc nẻ. Hĩm

cũng nhập bọn để cười góp và nhất là để trêu ghẹo, cợt riễu bọn trai.

- Các chị hát lên!

- Cô nghị hát trước để chúng em theo – Và họ sung sướng được cô nghị nhập bọn.

[...]

- Nào hát! – Hĩm đằng hắng mấy tiếng rồi cất cao giọng hát lanh lảnh. Hĩm hát lên

bổng xuống trầm, hay quá. Bọn thợ vừa đập vừa lắng tai nghe. [...] Xong câu hát, Hĩm hát

thêm: “Ba đồng ... một quả hồng dài ... Bên ấy có tài thì cất tiếng lên”. [...]

- Cất lên ... một tiếng mà chơi... Cất lên tiếng nữa ăn cơi ... giầu đầy. [...]

- Sao lại chả hát, nhưng để tớ lấy giọng đã nào. – Nghĩ một lát rồi anh trai trẻ cất tiếng:

Hôm qua... anh đến nhà chơi...

Thấy “cậu” nằm võng thấy “cô” nằm giường...

Thấy em ... nằm đất anh thương

Anh về ... xây gạch bát tràng anh xây...

[...]

Người trai trẻ hát xong, anh trẻ nhất cất giọng hát liền theo. [...]

Chị em trở nên bạo dạn. Một chị chừng có tình ý với anh trẻ nhất, cất giọng hòa lại.

Rồi tiếng hát từ chị nọ chuyền sang chị kia như một đàn chim ganh nhau hót.

Vót đi chợ Hộ về thấy tiếng hát bên hàng xóm, vội đi sang. Lũ cháu cũng theo sang với

bà. Bà lý chạy ra mời ngồi trên thềm uống nước, ăn giầu nghe hát. Lũ trẻ thích chí đuổi

nhau, lăn lộn trên đám rơm tươi”. [30, 195 - 199]

Vui vẻ, hạnh phúc nhất vẫn là người nông dân nghèo quanh năm sống phụ thuộc vào

nông vụ. Đây là đoạn văn miêu tả tâm trạng phấn khởi, đầy hạnh phúc với niềm vui được

mùa của gia đình bác Chính – một gia đình điển hình cho bao gia đình nông dân nghèo khác

ở làng quê Bắc Bộ xưa. “Bác Chính gái, u cái Mít, hôm ấy mua được lưng rổ cá mòi, vài bó

rau muống với một chai nước mắm. Trông bác hớn hở như ngày bác đi sắm tết. Vì năm nay,

ngoài bảy sào của bác và hai sào ruộng quan, chồng bác còn thuê thêm được của bà chánh

Bá hai mẫu nữa”. [29, 24]

Bác Chính trai “sung sướng quá thốt ra những tiếng hát nghêu ngao vang nhà”. Thỉnh

thoảng đắc chí, bác “cười ha hả”. Trong suốt cuộc đời bác, đây là thời khắc hạnh phúc nhất.

Bởi lẽ, xuyên suốt hơn ba trăm trang sách, duy chỉ lần này, người đọc mới thấy được nụ

cười mãn nguyện trên miệng người nông dân nghèo khổ này. Vì liên tiếp sau đó là những

việc làng, việc họ và khốn khổ hơn nữa là những năm hạn hán, mất mùa diễn ra liên miên.

Niềm vui được mùa được nhà văn miêu tả từng bừng, hối hả bao nhiêu thì đến những

năm đại hạn mất mùa được ông tái hiện càng ảm đạm bấy nhiêu. Đây là cảnh cánh đồng quê

của những năm đại hạn mất mùa. “Mùa gặt vụ chiêm năm nay có một vẻ đặc sắc hơn các vụ

khác, đặc sắc về nỗi buồn tẻ. Người ta không còn thấy đâu những bọn thợ gặt vác đòn càn,

vác hái,... Không còn thấy đâu những cô gái quê mùa tươi tắn, nhí nhánh đi mót lúa hay

quang gánh mang cơm nước cho thợ làm... Trên các đường làng, toàn những người cắp

thúng, cầm liềm uể oải ra đồng. Họ có vẻ lo âu, không trò chuyện, không cười đùa vui vẻ.

[...] Cánh đồng mới lại càng thê thảm. Những cây lúa gần chết khô giơ những bông khẳng

khiu. Hạt lúa thưa thắt không đủ sức nặng để rủ xuống mặt đất. Đứng trên cao nhìn như một

bức thảm vàng lâu ngày đã mất tuyết màu phai”.[29, 177]

Không còn đâu cảnh người tấp nập, hớn hở như những năm được mùa như trước, tất cả

đã trở nên nặng nề và nhuốm một màu buồn thảm. “Lác đác chỗ một vài người, chỗ dăm

bảy kẻ. Họ yên lặng cầm liềm cắt từng bông hay vài bông một bỏ vào trong thúng đội về.

Thỉnh thoảng một giọng hát cất bổng lên không trung rồi... im bặt, vì không một người

xướng họa”. [29, 178]

Khung cảnh đồng quê đã thê thảm, lòng người dân cày nghèo càng tan nát hơn. “Nhà

xã Chính cấy ngót ba mẫu mà góp lại không được tới ba mươi phương thóc.

Mọi năm được mùa, một sào xấu nhất còn được mười lăm, đôi mươi phương.

Hai vợ chồng lo lắng phờ cả người.

Vợ đứng nhìn đống thóc tí hon nhớ lại đống thóc tướng cữ tháng mười năm ngoái, thở

dài nói:

- Từng này thóc thì sao đủ nộp và trả cái nợ bà chánh Bá, lại còn những món nợ lặt vặt,

lại còn ăn, còn tiêu... Ôi! Chao ôi! Rõ cơ cực! Cái thân này còn vất vưởng cho đến bao giờ

mới thoát nợ.

Nói rồi, bác lại thở dài. Cặp mắt đẫm lệ, hai gò má sưng lên vì cố nhịn khóc.” [29, 178]

Gắn liền với công việc lao động đồng áng – hình ảnh “con trâu là đầu cơ nghiệp” –

người bạn cày gắn bó suốt đời với người nông dân, được tác giả miêu tả rất sinh động và

đầy ý nghĩa. Con trâu có một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân quê. “Ruộng

sâu, trâu nái” là giấc mơ đeo đẳng suốt đời họ. Người dân mình từ lâu đã quen với hình ảnh

“con trâu đi trước, cái cày theo sau”, hay: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày vợ

cấy, con trâu đi bừa”. Vì vậy, hạn hán, thiên tai, mất mùa đã là những khốn khổ, thì câu

chuyện “lợn toi, trâu chết” còn thê thảm hơn. Đó quả thực là những mất mát lớn lao, là nỗi

đau tột cùng trong đời sống của họ. Nói đúng hơn, với người nông dân, con trâu chính là

cuộc sống của họ. “Xoay quanh chuyện con trâu thực chất là chuyện con người” (Lời của

Kim Lân). Thế nên, ở trong một làng, việc một nhà nào đó không may gặp phải nạn “lợn

toi, trâu chết”, thì cả làng tự cảm thấy đó như là một mất mát chung. Nỗi lo của gia chủ có

nạn chính là nỗi lo chung của cả cộng đồng. Câu chuyện của gia đình bác xã Chừng, nỗi lo

lắng chia sẻ của cả xóm Lũy với gia đình bác, trong truyện “Năm hạn” là một ví dụ cảm

động cho cuộc sống cơ cực của những người dân quê. “Xóm Lũy vốn là một xóm vắng vẻ

tĩnh mịch hơn các xóm trong làng Cầm, chiều nay bỗng trở nên nhộn nhịp, kẻ đi người lại

chen chúc. Họ cùng đến nhà xã Chừng. Tất nhà ấy có sự khác thường. Và sự khác thường

ấy tất không phải sự may mắn. Vì nét mặt những người ở đấy ra đều lộ vẻ buồn rầu hoặc tẻ

lạnh.[...] Mỗi người phàn nàn một câu. Những tiếng xì xào trong ngõ xóm tối tăm. Cảnh

chiều tịch mịch. Sắc trời u ám lúc ấy như dành riêng cho nhà bác xã Chừng.[...]

Vợ vừa nín được một lát bỗng lại òa lên khóc và kể lể: “Ối trời cao đất dầy ôi! Nó mà

mệnh nào thì tôi cũng đến chết mất thôi. Sao mà cái số tôi nó khổ sở, điêu đứng thế này, hỡi

trời!”

Mọi người cảm động ngồi yên lặng. Trên trời tối đen, những ngôi sao nhấp nháy, cùng

nhìn cả xuống sân nhà xã Chừng như để chứng kiến nỗi thê thảm của nhà ấy.[...]

Cũng như lý Cúc quên cả mùi nước đái trâu xông lên sặc sụa khắp chuồng, mọi người

đứng thừ ra nhìn xác con vật khốn nạn. Họ thương hại nó thì ít mà thương hại vợ chồng bác

xã Chừng thì nhiều”. [32, 5 - 11]

Dẫu đó chỉ là những câu chuyện vốn thường bắt gặp trong đời sống thường nhật của

người dân quê, cốt truyện đơn giản, tuyến tính theo trình tự thời gian. “Truyện của ông

không có những mâu thuẫn, xung đột thật gay cấn, những tình huống thật li kì, giật gân,

nhưng vẫn tiềm ẩn một sức hút mạnh mẽ, làm xúc động sâu xa lòng người”. [17, 250]

“Năm hạn” là một thành công trong nghệ thuật viết truyện của ông. Chúng ta có thể khẳng

định như thế vì khi đọc truyện này người đọc dễ dàng nhận thấy được tài quan sát, cách suy

nghĩ và sự nhạy cảm của một tâm hồn luôn tìm đến để lắng nghe những thanh âm của cuộc

sống đời thường rất gần gũi và ấm áp tình người của những người dân quê. Theo tôi, đây

chính là hướng đi riêng, điều làm nên phong cách và chỗ đứng của Trần Tiêu trong lịch sử

văn học Việt Nam những năm 30 – 45, mặc dầu các sáng tác của ông không nhiều so với

các tác giả đương thời, nhất là so với các thành viên khác trong nhóm Tự lực văn đoàn. Và

đây cũng là một trong các phương diện làm cho tác phẩm của nhà văn này luôn mang “tính

thời sự”.

Bên cạnh đó, viết về những sinh hoạt vật chất của chốn thôn quê, Trần Tiêu cũng

không quên đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh của bức tranh thiên nhiên với đầy đủ

những âm thanh, màu sắc rất đỗi nên thơ. Bầu trời, lũy tre, tiếng sáo diều vi vút, hình ảnh lũ

trẻ, đám mục đồng,... những nét đẹp của làng quê như phần nào tô sáng lên để vơi đi ít

nhiều những gánh nặng của cuộc sống lầm than bởi cái nghèo đeo đuổi. Để từ đó, những thế

hệ bạn đọc hôm nay và cả ngày sau, có thể hiểu được vì sao trải qua bao nghìn năm vất vả

gian lao mà cuộc sống nơi ruộng đồng, thôn ổ vẫn diễn ra như một sức sống ngầm mãnh liệt

trong dòng chảy của lịch sử nước nhà.

Đây là bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tà rất đỗi nên thơ, yên ả ở làng Cầm.

“Nghé ơ ơ... ơ ơ nghé... nghé!

Thằng Tửu ngồi trên mình trâu gọi nghé. Con trâu mẹ kêu mấy tiếng “nghé ọ” và chân

vẫn thản nhiên, đều đều bước một trên con đường đất gồ ghề.

Xa xa, cánh đồng cỏ nhấp nhô những mả. Một con nghé đứng sững, cất đầu nhơ ngác

nhìn, đen xẫm in lên nền trời đỏ.

Bỗng nó nhảy cẫng mấy cái rồi vừa nhảy như một đứa trẻ nghịch ngợm, nó đến theo

sau mẹ nó, thỉnh thoảng lại kêu lên mấy tiếng “nghé ọ” còn non nớt.

Ánh đỏ dịu dần, đã đổi sang màu tím và tím nhạt... Một ngôi sao lấp lánh trên màn trời

lam tối. Vài con chim bay. Chuông chùa thong thả buông rơi từng giọt buồn vào trong

khoảng yên lặng, một thứ yên lặng thiêng liêng của cảnh hoàng hôn nơi thôn dã”. [29, 11 -

12]

Chất văn xuôi đời thường rõ nét. Câu văn ngắn gọn, hàm súc. “Văn viết của Trần Tiêu

không bay bướm, rất giản dị, chân thành, trong sáng, giàu cảm xúc”. (Lê Thị Đức Hạnh).

Lời văn nhẹ nhàng, giàu chất trữ tình, tất cả rất phù hợp với những chương, những đoạn viết

về phong cảnh làng quê, về những mối tình ngây thơ, mộc mạc của đôi lứa ở thôn quê.

Sinh hoạt ở thôn quê vốn trong bản thân nó cũng mang những tập quán, tập tục. Đó là

nề nếp lâu đời dần trở thành thói quen thể hiện trong cách sinh hoạt. Từ cách ăn, cách ở, đi

đứng, nói năng, ... tất cả đều được nhà văn phát hiện và ghi nhận lại bằng cả sự thấu hiểu

sâu sắc.

2.3.2.2. Hình ảnh bữa cơm quê đạm bạc nhưng đậm đà tình nghĩa.

Miêu tả phong tục tập quán, những sinh hoạt tinh thần ... ở thôn quê, Trần Tiêu đã có

những trang viết rất hay về đời sống cộng đồng của làng quê Bắc Bộ. Không dừng lại quan

sát trên bình diện rộng, ông còn đi sâu vào quan sát và miêu tả những thói quen, nếp sống

trong từng gia đình của người dân quê. Qua hình ảnh của những bữa cơm gia đình, những

thức ăn, thức uống, ... ông đã có những nét chấm phá độc đáo, sâu sắc và rất thực về đời

sống vật chất của những con người nơi thôn ổ.

Gia đình là nhân tố quan trọng trong kết cấu làng xã ở nông thôn. Vì vậy, khi viết về

nông thôn, hầu như tác giả nào cũng đề cập đến gia đình, đến những bữa cơm, nơi tụ họp

đầy đủ cả bố mẹ, con cháu, ông bà... “Băn khoăn” và “Thừa tự” là hai trong các tác phẩm

viết về nông thôn của Khái Hưng cũng có viết về gia đình, miêu tả hình ảnh những bữa cơm

trong các gia đình ấy. Nhưng theo như suy nghĩ của An – nhân vật trong tác phẩm “Băn

khoăn” – bữa cơm gia đình của bà Án Nguyễn, mẹ của Nga, vợ chàng, thực chất là nơi để

“cha mẹ, anh em, chị em họp mặt đông đủ giữa làn không khí hiềm khích, bất hòa”. Hay

như suy nghĩ của Bảo, con gái bà Án Nguyễn, những buổi họp mặt gia đình là dịp để chị em

“hiềm khích, châm chọc lẫn nhau”. Còn với vợ chồng Bỉnh, Khoa và Trình – các nhân vật

trong tác phẩm “Thừa tự” – bữa cơm là nơi người ta hoặc phô trương sự giàu có hoặc để

che giấu sự nghèo nàn.

Khác với cách thể hiện của Khái Hưng, hình ảnh các bữa cơm của gia đình những

người dân quê trong sáng tác của Trần Tiêu rất đơn sơ nhưng ấm áp tình cảm gia đình. Hay

nói chính xác hơn, hình ảnh bữa cơm của các gia đình thôn quê hiện lên trong tác phẩm của

Trần Tiêu bao giờ cũng đạm bạc, đơn sơ, mang dáng dấp cuộc sống nghèo khó của những

con người luôn núp mình sau lũy tre làng. Cơm – rau – cá là bữa cơm ngon của các gia đình

trong sáng tác của Trần Tiêu. Có thể gọi đó là “một bữa cơm đầy đủ”. Chính nơi đây, trong

những bữa cơm, các thành viên trong gia đình đều thể hiện và cảm nhận được tất cả sự

thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau. “Đã bao lâu chỉ toàn ăn cơm với muối, nay được bữa lạ

miệng, bữa cơm trông ngon lành lắm. Thằng cu Nhớn cắn dè dặt miếng cá. Nó nhai với cơm

kỹ lưỡng quá. Hình như cả tai, mắt, mũi nó cũng thấy ngon. Trước khi và, nó giấu miếng cá

xuống đáy bát để lấy chất nóng cho miếng cá ngon thêm. Nó làm như cả đời chưa được nếm

vị cá khô bao giờ.

Cái Mít từ nãy vẫn ăn nhạt. Sau thầy nó gắt lên nó mới chịu gỡ lấy một cái đầu.

Bác gái thương chồng ra mặt. Bác chọn khúc cá ngon, nhiều nạc, gắp bỏ vào bát

chồng như chủ tiếp khách. Đến lượt sau, chồng biết ý, gạt bát ra và nói:

Bu nó ăn đi chứ! Tôi chỉ thích ăn đầu cá!

Nói rồi bác gỡ lấy khúc đầu bỏ lên bát.

Ba người, vợ chồng, con gái vừa ăn vừa để ý đến nồi cơm. Mỗi người, trong thâm tâm,

cùng muốn nhịn để nhường cho người khác. Nhưng lần này không ai phải đói”. [29, 206 -

207]

Cuộc sống hiện đại ngày nay hầu như đã cuốn chúng ta vào mọi công việc, không còn

mấy khi các thành viên trong gia đình được cùng nhau sum vầy trong bữa cơm gia đình thực

sự. Tiệc tùng, hội hè, cơm tiệm, cơm hộp,... đã thay thế phần nhiều cho những bữa cơm gia

đình. Đó phải chăng là một phần mà chúng ta phải chấp nhận đánh đổi cho quá trình đô thị

hóa, công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì thế, hình ảnh bữa cơm của những gia

đình thôn quê ở làng Cầm ngày ấy như một nhịp cầu để đưa thế hệ chúng ta tìm về với nét

đẹp văn hóa xưa.

Theo nhận xét của P. Gourou, nhà khoa học về địa lí học nhân văn người Pháp, vào

những năm 30 của thế kỉ XX, “người nông dân đồng bằng sông Hồng đã sống giới hạn cuối

cùng của đói kém và cùng khổ”. [5, 121] Đó là bức tranh về thời kì đời sống của nông dân

sa sút nhiều do nguyên nhân kinh tế - xã hội đương thời mang lại nhưng trong đó phần nào

phản ánh được đặc điểm đời sống vật chất của người Việt ở nông thôn miền Bắc xưa. Vì

vậy, hình ảnh của những bữa cơm đầy đủ như thế rất hiếm tìm thấy trong các trang sách của

Trần Tiêu. Hầu hết, bữa cơm thường nhật của những nông dân nghèo khổ ở làng Cầm chỉ là

một nồi cơm với “trơ trọi một bát vừng rang. Có hôm lại chỉ trơ trọi một đĩa muối. Hôm

nào thêm được đĩa rau luộc, bát nước mắm là bữa cơm đã sang lắm rồi”. [29, 183] Và nói

như nhà biên khảo Vu Gia, “viết về nông thôn ngày ấy không thiếu người, nhưng nếu nói

nhà văn chuyên viết về nông thôn, hiểu đời sống người nông dân sau lũy tre xanh, theo tôi,

không ai bằng Trần Tiêu. Nội hàm của nó là sự nhận thức và thái độ của nhà văn đối với

cuộc sống”. [16, 323 - 324]

Rồi những thói quen khác như việc ăn xổi, vội vàng do đặc điểm nông vụ, một thói

quen của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, tất cả đều được thể hiện một cách chân

thực và sinh động dưới cái nhìn đầy nhân hậu của nhà văn. “Mọi người ngồi xếp hai hàng

bên mâm cơm, suốt dọc sân. Cơm đỏ xới ra bát, hơi thơm bốc lên nghi ngút. Họ nhai, trông

rất ngon lành. Mỗi bát chỉ độ ba, bốn miếng là hết. Trong khoảnh khắc, đĩa nào đĩa ấy sạch

sẽ như chùi. Ăn xong, họ dùng luôn bát ăn để uống nước, chẳng rửa ráy gì cả”. [29, 31]

Ngay cả thức uống (chủ yếu là nước vối, nước chè xanh nóng), tục ăn trầu,... những đặc

điểm quen thuộc trong đời sống vật chất thường ngày đều được đưa vào trang viết của Trần

Tiêu một cách tự nhiên, bình dị.

2.3.2.3. Sự nghèo khổ, tằn tiện đến luộm thuộm và cả sự cẩu thả cũng là một thói

quen trong đời sống vật chất của người dân quê.

Tiết kiệm là đức tính đáng quý của người dân ta bao đời nay. Nhất là ở nông thôn,

cuộc sống khó khăn khiến cho những người dân nghèo luôn phải dè sẻn, đắn đo trong mọi

chi tiêu và hễ cái gì còn có thể sử dụng đều được họ nâng niu cất giữ. Rồi đến những bày

biện trong nhà, ngoài cửa, rất ít được họ quan tâm, nếu không nói là quá luộm thuộm. Xét ở

một khía cạnh nào đó, chúng tôi vẫn thấy đây cũng là yếu tố làm nên nét văn hóa trong đời

sống vật chất của người dân quê.

Đây là cách bày biện của nhà xã Bổng, một gia đình thuộc vào bậc khá ở nông thôn

miền Bắc thời bấy giờ. “Hắn có một nhà “trên” hướng nam, một cái nhà “ngang” hướng

đông, sát đầu nhà ngang một chuồng lợn; bên kia, đối diện với nhà ngang, một cái bếp và

một cái chuồng trâu nối liền nhau. Tất cả những nhà ấy vây bọc lấy ba phía cái sân đất nện

vuông vắn, nhẵn nhụi như chiếc chiếu rộng. Còn một phía trước mặt là bức tường đất gồ

ghề, trên cắm xương rồng mặt nguyệt. Cổng ra vào mở ngay ở đầu chuồng lợn. ở khoảng

đầu nhà trên và nhà bếp là một mẩu đất vuông để đống rạ.

Vì hết chỗ, và vì tiện lợi nữa, bốn năm cái nồi “chân” và một cái vại mẻ đựng nước

tiểu lại đặt thành rẫy dài từ cổng đến tận cái tường hoa thấp xây chật hẹp đều thế cả, nên kể

ra, người vào đã quen với mùi nước tiểu và mùi phân lợn. Vả lại những thứ ấy rất cần cho

lúa má nên ai cũng quý và không ai kêu ca. Chả thế mà có người quá hà tiện, lúc đi đường

cố nhịn để về giải vào vại nhà”. [30, 1]

Không chỉ bừa bãi, cẩu thả về nhà ở, điều đáng lo ngại hơn chính là những nếp nghĩ

quá ư đơn giản, sự liều lĩnh trong lối sống không khoa học đã dẫn đến những hậu quả chết

người. Nhưng với những người dân quê đó là chuyện thường tình là thói quen vốn có trong

nếp sinh hoạt thường ngày của họ. Nhìn cảnh chị Tôm trong “Hữu sinh vô dưỡng” đỡ đẻ

cho chị khán Thỗn, và câu chuyện về các lần đỡ đẻ khác của chị dành cho mọi người chúng

ta không khỏi rùng mình khiếp sợ. “Thì cháu mất gì? Chỉ việc lôi thằng cu hay con đĩ ra

khỏi bụng mẹ nó, rồi lấy miếng mảnh sành hay thanh nứa cắt rốn đánh soẹt một cái là xong.

[...] Mọi người vừa về đến nhà thì chị khán Thỗn cũng vừa đẻ. Thằng bé khóc oe oe. Tôm

vội chạy ra sân, soi đèn nhặt một mảnh chai ở khe vại, nhúng qua loa rồi tất tả chạy vào”.

[32, 61- 62] Và hậu quả của những lần trước đó và cả lần này, những đứa trẻ đều chết vì

cùng một chứng sài “uốn ván”.

Từ những miêu tả về các nếp sinh hoạt vật chất của người dân quê, Trần Tiêu vừa thể

hiện một thái độ trân trọng với những nét đẹp mang tính truyền thống của họ, đồng thời ông

cũng không quên chỉ ra những hạn chế, cẩu thả vừa nhằm phê phán vừa để người dân có dịp

sửa đổi.

Tóm lại, qua những trang viết về đời sống cộng đồng làng xã Bắc Bộ, cụ thể là việc

miêu tả về ngôi thứ, về phong tục tập quán, văn hóa sinh hoạt, Trần Tiêu đã giúp người đọc

thấy và có được những cảm nhận sâu sắc về những nét đẹp của các mỹ tục, các góc cạnh

đẹp của đời sống gia đình ở làng quê. Đồng thời, ông đã mạnh dạn chỉ ra những hạn chế cả

trong tổ chức xã hội với những tệ đoan của nó, và cả những hạn chế lạc hậu do trình độ

nhận thức của người nông dân đối với cuộc sống xung quanh họ.

Xã hội Việt Nam những năm 30 – 45, từ thành thị đến nông thôn có nhiều biến động,

nhiều pha trộn phức tạp. Các sáng tác của những nhà văn hiện thực đương thời đều tái hiện

thành công hiện thực ấy. Vũ Trọng Phụng với hàng loạt phóng sự như “Kỹ nghệ lấy Tây”,

“Cơm thầy cơm cô”,... và đặc biệt là tiểu thuyết “Số đỏ” đã dựng lên bức tranh của một Hà

thành ngàn năm văn hiến đang bị lung lay trước các phong trào “Âu hóa”, thế lực đồng tiền

đang làm mai một đi những đạo lí truyền thống của dân tộc. Còn viết về nông thôn, các nhà

văn chủ yếu đề cập đến mối mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp thống trị với quần chúng

nhân dân. Thậm chí, ngay chốn thôn ổ này, thế lực đồng tiền và quyền lực cũng bành

trướng, chà đạp lên đạo đức luân thường như trong cách thể hiện của Vũ Trọng Phụng khi

viết “Giông tố”. Trong không khí ngột ngạt và đầy những biến động của thời đại ấy, Trần

Tiêu cũng cầm bút và thể hiện những suy tư trăn trở của mình bằng cách tìm về với làng quê

Việt Nam, với những biểu hiện của văn hóa làng xã để ghi nhận lại với tất cả tấm lòng của

một con người gắn bó với làng xóm quê hương. Bằng óc quan sát tỉ mỉ, chính xác, một lối

văn dung dị, nhẹ nhàng mang cốt cách của một nhà giáo, qua những trang viết về làng xã ở

Bắc Bộ, chúng ta thấy được ông đã có một sự gắn bó và thấu hiểu sâu sắc về nông thôn Việt

Nam. Để từ đó, người đọc nhận thấy rằng: cuộc sống của thôn quê bao giờ cũng có sự đan

xen giữa tốt và xấu, giữa tiến bộ và lạc hậu, cái tích cực và những mặt tiêu cực; những

người nông dân chân lấm tay bùn ở đó dù cuộc sống cơ cực, trình độ còn thấp kém nhưng

nét đáng quý ở họ chính là sự lạc quan và yêu đời.

CHƯƠNG 3: VĂN HÓA LÀNG XÃ QUA TÍNH CÁCH NHÂN VẬT

Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa mà

chính nó là đại biểu mang những giá trị văn hóa của thời đại. Viết về văn hóa làng xã ở

vùng quê Bắc Bộ, Trần Tiêu không dừng lại trên bình diện đời sống cộng đồng nói chung

mà ông còn thể hiện nó qua tính cách nhân vật.

Theo G.S Hà Văn Tấn, văn hóa như những chuẩn mực ứng xử của con người được

thể hiện ra trong mọi sinh hoạt, mọi hành vi, mọi nếp nghĩ, từ chốn ăn cách ở, lối sinh hoạt

đến cách đối nhân xử thế. Văn hóa làng xã chính là văn hóa nông thôn mà diện mạo là cây

đa, bến nước, đình làng, là tâm tính của người nông dân biểu hiện trong kho tàng văn hóa

dân gian, trong đất lề quê thói. Đây vốn là sản phẩm của kết cấu xóm làng với vô số những

quan hệ thân tình như lạt mềm buột chặt, tạo nên đường nét của mẫu người tiêu biểu của

con người nguyên Việt. Các nhân vật trong sáng tác của Trần Tiêu có đầy đủ những nét tính

cách ấy. Họ là những nông dân tiêu biểu cho nông dân Việt Nam.

3.1. Lối sống đậm tình nặng nghĩa

Có một điều người đọc nhận thấy đầu tiên khi tiếp xúc các sáng tác của Trần Tiêu là:

truyện của ông không có nhân vật chính, ông không tách một nhân vật nào riêng ra hẳn để

tập trung miêu tả sâu về cuộc đời và số phận riêng của họ. Nhân vật trong các tác phẩm của

Trần Tiêu là những con người mang dáng dấp chung của một cộng đồng, nơi mà hằng ngày

họ được giáp mặt để chào hỏi, để giúp đỡ nhau hoặc cậy nhờ nhau những lúc khó khăn.

Chính những sự gần gũi đó đã tạo nên một nét tích cách nổi bật của hầu hết những người

dân quê Bắc Bộ - họ là những người sống lệ thuộc nhiều vào làng xã. Từ lợi ích vật chất đến

lợi ích tinh thần của từng gia đình đều bị hòa vào cộng đồng. Biểu hiện cụ thể chính là ở lối

sống tình nghĩa. Ngay như truyện “Con trâu”, toàn bộ truyện xoay quanh việc miêu tả về

cuộc đời và số phận gia đình bác Chính với giấc mơ có được “ruộng sâu trâu nái” đeo đuổi

suốt một đời người nông dân nghèo khó này nhưng qua đó người đọc dễ dàng nhận thấy

được hàng loạt các tính cách và tâm trạng của hầu hết những người dân ở làng Cầm. Vợ

chồng, con cái bác Chính là những người nông dân nghèo, lương thiện và chăm chỉ lao

động, nhất là bác Chính trai, cả cuộc đời cứ cặm cụi, lặng lẽ với công việc đồng áng với hy

vọng sẽ sớm tậu được “con trâu cái” để thỏa mãn giấc mơ “ruộng sâu, trâu nái”. Bên cạnh

đó là những ông lý, bác khán, ông xã, ông tuần,... tất cả hiện lên một cách sinh động. Lý

Cúc nóng nảy, thẳng thắn, ham mê sóc đĩa, tổ tôm nhưng luôn biết quan tâm đến các vấn đề

lớn bé của thôn, của họ; ông Hoạch, một lão nông dân nghèo “ích kỉ một cách thật thà”; bác

xã Mục “một người đàn bà suốt đời bị chồng hành hạ và suốt đời làm lụng tần tảo để nuôi

chồng”;... bà Chánh Bá, bà khán Thỗn, bà hàn Năm,... đại diện cho tầng lớp địa chủ “vốn

làm giàu bằng nghề cho vay cầm cố, và phát canh thu tô”. Mít, Cúc, Mậm, Khuy, Tửu,

Chắt,... là hình ảnh của thanh niên làng quê, yêu đời, nhí nhảnh, hồn nhiên...

Mỗi người một tính cách nhưng ở họ có chung một điểm đáng trân trọng đó chính là

tinh thần tương thân tương ái, luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Bà khán

Bột, một người láng giềng tốt bụng, thường xuyên giúp đỡ mỗi khi gia đình bác Chính gặp

khó khăn. “Bà khán không giàu lắm, [...] Bà thương hại nhà bác Chính lắm. Tuy không

cùng họ mà cùng xóm, bác thường đi lại nhờ vả. Ngày rằm, mồng một, bà hay gọi lũ trẻ

sang ăn xôi chè. Lúc về, bà lại cho mỗi đứa một phẩm oản hay quả chuối. [...] Những món

lặt vặt như thỉnh thoảng một rá gạo hay vài hào thì không kể làm gì, bà sẵn lòng cho

không”.[29,40]

“Một diệu kế” có một cốt truyện đơn giản viết về cuộc đời nghèo túng đến nổi phải

“làm liều” một cách bi hài của vợ chồng ông đồ. Và khi gấp trang sách lại người đọc không

chỉ xót xa cho “diệu kế cùn” của vợ chồng ông đồ mà còn trân trọng những nghĩa cử cao

đẹp của bác Na, “một bác nhà quê cục mịch, quần nâu, áo cộc nâu”, với một gia cảnh cũng

chẳng mấy sáng sủa nhưng vẫn sẵn lòng san sẻ trước gia cảnh còn đáng thương hơn của

hàng xóm láng giềng. Đáng quý hơn chính là thái độ của người nông dân quê mùa mà tốt

bụng ấy khi giúp đỡ người khác. “Bác Na đứng khúm núm gãi tai nói một cách kính cẩn

như một dân đen đến vi thiềng quan phụ mẫu: “Bẩm cụ, chúng cháu gọi là có mớ gạo trắng

đem sang để cụ bà dùng trong khi nằm cữ, xin cụ nhận cho””. [32, 46] Rõ ràng, với họ, đó

không phải là một sự làm ơn để mong người trả ơn, mà đơn giản chỉ là sự thương yêu, đùm

bọc lấy nhau trong những lúc hoạn nạn. Đó là sản phẩm của lối sống và ý thức cộng đồng

trong làng xã xưa. Trong một làng, người ta sống co cụm lại và thường xuyên đối mặt với

nhau, họ quen thuộc nhau quá đến nổi biết rõ cả nguồn gốc tổ tiên, họ hàng của nhau. Chính

những yếu tố này đã tạo nên mối quan hệ mật thiết, tin tưởng lẫn nhau. Hệ quả tích cực của

nó là lối ứng xử theo tình, theo tâm. Hơn bao giờ hết, những người sống trong cùng một

cộng đồng ấy hiểu được đầy đủ ý nghĩa của những câu nói: “Bán anh em xa mua láng giềng

gần”, thế nào là “Tối lửa tắt đèn có nhau”... Ý thức cộng đồng, lối sống phụ thuộc, nương

tựa, thậm chí là dựa dẫm vào nhau từ lâu đã trở thành cách hành xử quen thuộc của những

người nông dân chân lấm tay bùn và cũng chính điều này đã tạo nên những phẩm chất đáng

quý trong họ.

Sự cần thiết của việc thăm hỏi nhau trong ba ngày Tết như chúng tôi đã đề cập ở trên

thực chất cũng là một biểu hiện đẹp cho lối sống đậm tình nặng nghĩa của những người

nông dân trong sáng tác của Trần Tiêu.

“Chồng con”, “Hữu sinh vô dưỡng”, “Một diệu kế”, “Con trâu”,... tất cả đều tập

trung thể hiện những biểu hiện của mối quan hệ “tình làng nghĩa xóm”, một lối cư xử rất

cao đẹp vốn quen thuộc trong cuộc sống của những con người nơi thôn ổ.

Bà lý Nhãn (Năm hạn)- một người “vốn khéo mồm miệng, khéo cả chân tay”. Mặc

dù không lấy gì may mắn về gia đình vì bà vớ phải “một anh chồng mất dạy”. Thế nhưng

hễ hàng xóm láng giềng, ai có chuyện gì, dù vui ,hay buồn thì bà luôn là người có mặt đầu

tiên. Và chiều nay, bà cũng là người đầu tiên đến nhà bác xã Chừng. “Bà không rời bác xã

lúc nào. Bà tìm hết lời khôn lẽ khéo, đem những sự thiệt thòi, đen đủi, khổ não của người để

làm khuây nỗi khổ của bác xã”. Và lý Cúc, một người “tính tình lỗ mãng, động thấy người

là thấy quát, thấy cười. [...] Nhưng ông thực là người tốt, hay cứu giúp người trong lúc

hoạn nạn, không thì cũng không hại ai” [32, 6 - 7]

Cũng như Vót, (Chồng con) một người đàn bà nổi tiếng đanh đá chua ngoa nhất

trong xóm, thế nhưng những lúc chị xã Bổng có tâm sự, gặp khó khăn thì luôn có Vót ở bên

cạnh để an ủi, sẻ chia.

Nhìn những con người ấy với những việc làm của họ đối với bà con chòm xóm,

không chỉ người trong cuộc, người được nhận như gia đình ông đồ (Một diệu kế), mà thế hệ

chúng ta hôm nay cũng thực sự xúc động và thêm yêu quý tấm lòng của những người dân

quê Việt Nam. Cuộc sống ngày một phát triển, con người càng hiện đại hơn, chính vì thế mà

họ trở nên dè chừng, thậm chí có thể nói là xa lạ nhau hơn. Điều này không khó bắt gặp

trong thời đại ngày nay. Việc hai nhà ở cạnh nhau mà không hề biết tên nhau, không rõ

nghề nghiệp của nhau, chúng ta bắt gặp rất nhiều. Người ta ra vào nhà việc đầu tiên là phải

cửa đóng then cài cẩn thận, nói gì đến việc chào hỏi nhau lấy một tiếng gọi là. Xã hội ngày

một văn minh, đời sống người dân ngày càng tiến bộ và no đủ hơn. Đó là điều rất đáng

mừng, là quy luật phát triển tất yếu của cuộc sống. Nhưng hiện đại không có nghĩa là được

quyền quên đi quá khứ, nhất là những truyền thống tốt đẹp vốn làm nên đạo lí ngàn đời của

dân tộc, trong đó có truyền thống tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách. Đã có rất nhiều

chương trình quyên góp từ thiện được diễn ra, nhiều tấm lòng vàng được tuyên dương, mỗi

khi đồng bào các tỉnh miền Trung, miền Tây gặp nạn, nhưng sao chúng ta vẫn thấy còn

thiếu. Bởi ngay sau đó, sau những nghĩa cử cao đẹp là việc báo chí phanh phui hết lãnh đạo

địa phương này, ông quản lý ở thôn nọ,... đã có hành vi ăn chặn tiền cứu trợ của những

người nghèo.

Và chúng tôi nghĩ, đọc tác phẩm của Trần Tiêu, cái đọng lại trong tâm trí của người

đọc chính là ở những chi tiết dẫu rất nhỏ như việc ông đồ ngỡ ngàng, xúc động khi nhận

được tấm lòng giúp đỡ của bác Na. “Ông cảm động đứng dậy nâng rá gạo ở người nông

phu: “Quý hóa quá... Quý hóa quá...” [...] Ông bối rối không biết nói thế nào để cảm tạ tấm

lòng của hai vợ chồng người nông phu. [...] Ông đồ đăm đăm nhìn rá gạo mà mỗi hạt lúc

ấy, đối với ông quý như hạt ngọc”. [32, 47]

Sự thành công của một tên tuổi văn học không phải chỉ được đánh giá qua việc nhà

văn, nhà thơ đó đã viết được bao nhiêu tác phẩm, đề tài có nóng bỏng không,... mà cái cốt

yếu để làm nên tên tuổi, tạo chỗ đứng của họ trong lòng bạn đọc chính là cái tâm của người

cầm bút. Anh viết cái gì? Viết như thế nào? Và qua mỗi trang viết ấy anh giúp người đọc

mọi thế hệ “hiểu thêm” được điều gì. Trần Tiêu đã làm được điều ấy. Hệ thống nhân vật

không nhiều, các câu chuyện diễn ra cũng không mấy phức tạp, không có những giằng xé

nội tâm dữ dội, không có những đối kháng gay gắt,... đó chỉ đơn thuần là những con người

chất phác với những hoạt động bình thường và những câu chuyện diễn ra trong đời thường

của bà con ở một xóm Lũy, làng Cầm nào đó ở vùng đồng bằng Bắc Bộ xưa nhưng chính họ

và những câu chuyện của chính mình đã và đang là “vấn đề thời sự”, là nơi để chúng ta nhìn

lại trong việc định hướng cho sự phát triển xã hội ngày nay bằng cách tìm và bảo tồn những

nét đẹp của văn hóa xưa.

3.2. Sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận trong giao tiếp

1TTrước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy được

đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. Vì coi trọng giao tiếp

cho nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai

điểm: thích thăm viếng và hiếu khách. Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam

lại có một đặc tính hầu như ngược lại là rất rụt rè - điều mà những người quan sát nước

ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách trái ngược này bắt nguồn từ hai

đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị.

1TXét về quan hệ giao tiếp, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã

dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm, lấy sự yêu, sự ghét làm nguyên tắc ứng xử, sống

có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Đặc biệt là với những cư dân lúa nước vùng đồng

bằng Bắc Bộ, biểu hiện của yếu tố trọng tình trong giao tiếp chính là sự tế nhị, ý tứ và trọng

1TNhững cách nói đưa đẩy, rào đón, thăm dò nhau trước khi đi vào nội dung chính câu

sự hòa thuận khi giao tiếp ngay cả trong gia đình và với hàng xóm láng giềng.

chuyện là một thói quen trong khi giao tiếp của các nhân vật. Có thể liệt kê một số mẩu đối

1T(1) Mẹ chồng chị xã Bổng muốn được vào hội Phật giáo nhưng không nói cụ thể

thoại sau:

1T“- Này lý ạ, hôm nay tao ra chùa An thấy các bà đến quy y đông lắm. Cả vợ chồng

trực tiếp với nàng dâu mà bà lại lựa cách nói vòng.

1TCụ bước lên thềm nói tiếp:

1T- Nhà lý ạ, cứ lời các bà ấy kể thì quy y cũng không tốn kém mấy. Mất có năm hào

cụ Hương, vợ chồng cụ Hội cũng quy y.

nộp sư cụ để sư cụ người viết cả tên tuổi lẫn tên hèm nhà phật người đặt cho và thư phù vào

đây. Người gọi nó là cái gì này... ừ ừ, hải hội, phải, hải hội để lúc chết đặt trong quan tài.

Với lại tiền bỏ ra lập đàn quy y hết độ ba bốn hào hay năm sáu hào tùy theo số người quy

1T[...]

1TBà cụ tủm tỉm cười, mặt tươi tỉnh:

1T- Có, tao cũng quy một tý kẻo rồi lúc chết lại hối hận sao không quy.”[30, 114 - 115]

1T(2) Ngay cả lúc tức giận, nhưng họ vẫn chọn lối nói vòng vò, có mào đầu từ tốn. Đọc

gom góp. Tất cả độ một đồng thôi, nhà lý ạ.

1T“- Sao thế mình?

1T- Cực lắm bu mày ạ.

1T- Làm sao mà cực?

1T- Trời ơi! Cực lắm, bu mày có biết thằng Khương không?

1T- Có, tôi có biết, thế làm sao?

1T- Nó đã làm cho tôi bị nhục nhã giữa đình. Mà nào có chuyện gì đâu. Thời còn mồ

cảnh đối đáp giữa vợ chồng Chính và Diếc chúng ta sẽ thấy.

ma ông chánh Yên, ông ta có bàn với thôn lấy những món tiền cheo cưới, đám xã, khao

1TVợ vân vê cái thoi, cười tủm tỉm, nói:

vọng ra đong thóc cho vay lấy lãi. [...]

1T- Từ nãy tôi chẳng nghe thấy mình nói đến sự nhục nhã.

1T- Ấy thế này: hôm qua họp việc giáp để lấy tiền sơn lại mấy chiếc hương án, [...]

1TVợ hỏi:

1T- Ý chừng mình nói rồi...

1T- Không, tôi có nói đâu.

1T- Thế nào mình lại bị nhục?

1T- Thì bu mày hãy nghe hết câu chuyện đã nào, thế rồi lúc ở đình ra, bọn xã xúm vào

1TVòng vo, dềnh dàng mãi, Chính mới đi đến được mục đích cuối cùng của mình là

thì thầm”. [31, 53 - 56]

1T“- Làm thế nào? Bây giờ chỉ có cách cũng ra làm lý thôn như nó thì mới có thể mở

muốn được ra làm lý thôn để khỏi bị bắt nạt, hạch sách ở đình.

1TChúng ta có thể tìm thấy rất nhiều cách nói “vòng vo tam quốc” như thế trong hầu

mày, mở mặt ra được”. [31, 56]

1TTruyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa

hết các mẩu đối thoại giữa các nhân vật của Trần Tiêu.

ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa đẩy, người Việt Nam trước đây có truyền thống

1TLối giao tiếp "vòng vo tam quốc" kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp

"miếng trầu là đầu câu chuyện".

tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi. Ban đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở

thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với

những câu "trả lời" không hề ăn nhập với câu hỏi, thậm chí là người hỏi còn được hỏi trở

lại. Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ đã tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói

năng: “Ăn có nhai, nói có nghĩ”; "Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói"; "Biết thì

thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe"; "Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì

sống"; "Người khôn ăn nói nửa chừng, Để cho kẻ dại nửa mừng, nửa lo”... Và lối đẩy đưa

này đôi khi rất có tác dụng khi người nói muốn nhờ vả điều gì đó đối với người nghe. Hành

1TLúc đầu ra đi, bác Chính gái vừa nghĩ ra: cậu Thanh con một bà chánh Bá thích đệ

trình để dẫn đến chuyện khất nợ giữa bác xã Chính với bà chánh Bá là một ví dụ.

nhất chim bồ câu tây. Tức là trong bác đã có sự trù tính sẳn, bác sẽ đi đường vòng, sẽ lấy

lòng cậu con trai một của bà chánh Bá rồi nhân đó sẽ cầu xin khất món nợ, khất nợ mới là

mục đích chính của chuyến đi này. Thế là thay vì đi luôn đến nhà bà chánh Bá, bác lại rẽ

sang tìm đến nhà ông quản Sâm người có thú nuôi chim và nuôi được nhiều loại chim quý

nhất trong làng với hy vọng sẽ xin được cặp chim câu tây đem biếu cho cậu Thanh. “Bác

Chính gái hớn hở xách lồng chim đến nhà bà chánh Bá. Tới cổng, bác ngó xem cậu Thanh

có nhà không thì vừa may gặp cậu đương cho chim ăn thóc ở sân. Bác cất tiếng gọi. Cậu

1T- Lạy cậu ạ, cháu có đôi chim tây đem đến tết cụ. – Bác vừa nói vừa giơ cái lồng ra

chạy ra.

1T- Ồ! Đôi chim tây trắng đẹp nhỉ. Chị mua ở đâu đấy? Tôi đi lùng mãi mà không

trước mặt Thanh.

1TCậu sung sướng cầm lấy lồng đi trước, mắt nhìn chòng chọc vào đôi chim.

1T[...]

1TBà Chánh đương ngồi têm trầu trên phản đứng dậy đi ra thềm.

1T- Cái gì thế, con? Kìa, con mẹ Chính! Lại đến khất bà phỏng? Không được đâu!

1TThanh sợ mẹ không nhận lễ, bèn khẩn khoản:

1T- Thôi mẹ ạ, mẹ cho chị ấy khất. Đôi chim tây của chị ấy đẹp quá. Con đi lùng khắp

được.

1TThanh đăm đăm nhìn đôi chim bằng con mắt đầy thèm muốn. Bà Chánh vốn chiều

nơi mà không mua được đấy, mẹ ạ

1T- Mụ định thế nào? Liệu mà trả lời tôi chứ.” [29, 46 - 47] Và kết quả, bác Chính gái

con thấy thế cũng dịu giọng:

1TLần thứ hai cũng thế, cũng nhờ con cá tươi, sự kính cẩn, mào đầu khéo léo, người

đã thành công với “cái chước khôn khéo của mình”.

nông dân nghèo này cũng khất được món nợ lần hai, mặc dù sau mỗi lần như thế, số nợ lãi

1TSự tôn trọng danh dự, địa vị xã hội khi giao tiếp cũng là nét làm nên chất văn hóa

lại tăng thêm.

1TKhi một người có được chức vị thì điều đầu tiên mà người ta hãnh diện là trong giao

trong tính cách của các nhân vật của Trần Tiêu.

tiếp họ sẽ không bị người ta gọi bằng tên tục, mà chủ yếu là gọi bằng anh xã, ông lý, anh

1THệ thống từ ngữ xưng hô, đưa đẩy, những từ ngữ thể hiện sự kính cẩn của kẻ dưới

khán,...

đối với người trên được sử dụng rất nhiều trong các câu nói của họ khi giao tiếp. Như: vợ

chồng thì gọi mình, xưng tôi; bu nó, thầy nó,... Kết thúc lời nói thường có sự xuất hiện của

những tình thái từ như: ạ, nhỉ, nhé,... Ngoài làng xã, thôn xóm, người dưới xưng hô với

người bề trên bao giờ cũng bắt đầu bằng: bẩm, dạ, quả con, hoặc dạ, được như thế thì quý

1TCó thể nói, cách thức giao tiếp, sự lựa chọn cẩn thận những lớp từ ngữ xưng hô khi

hóa quá, ...

nói là một phương diện khá hay trong việc khắc họa tính cách của những người dân quê

trong sáng tác của Trần Tiêu.

3.3. Đề cao vai trò người phụ nữ trong gia đình

Điều đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng, viết về người phụ nữ với sự đề cao vai trò của

các nhân vật này thì giữa Trần Tiêu và các thành viên khác của Tự lực văn đoàn đã có sự

gặp gỡ nhau về quan điểm sáng tác. Trong sáng tác của các nhà văn Tự lực văn đoàn, nhân

vật nữ luôn là những nhân vật chính, là trung tâm để xây dựng và phát triển cốt truyện. Đó

là Loan trong “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh, là Nga, Phụng, Bảo, bà Án Nguyễn trong “Gia

đình”, Hồng và người dì ghẻ trong “Thoát ly”, ... của Khái Hưng, và trong sáng tác của

Trần Tiêu chúng ta thấy có bác Chính gái trong “Con Trâu”, chị xã Bổng, Vót trong

“Chồng con”, Diếc trong “Sau lũy tre”, ...

Nếu như các nhân vật nữ trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, được xây dựng là

những con người với tính cách mạnh mẽ, luôn mang tư tưởng muốn phá rào, để hướng đến

cuộc sống tự do, cuộc đời mới (Loan – “Đoạn tuyệt”). Hoặc những con người đầy cơ mưu,

toan tính (Bà Án, Nga, Phụng – “Gia đình”; người dì ghẻ của Hồng – “Thoát ly”)... thì trái

lại người phụ nữ trong sáng tác của Trần Tiêu lại là những người phụ nữ Việt Nam truyền

thống với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, mang bản sắc văn hóa Việt Nam.

Chịu thương, chịu khó và giàu đức hy sinh là nét tính cách nổi bật của hầu hết các

nhân vật nữ trong tác phẩm của Trần Tiêu.

Gia đình ở làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, “tuy theo chế độ phụ hệ, nhưng ở đây

“là người lao động đồng áng, đàn bà không phải là kẻ phụ việc cho nam giới mà là người

bạn lao động của người đàn ông”. [...] Người vợ trong gia đình là người giữ “tay hòm chìa

khóa” nắm kinh tế chủ động lo toan tất cả việc nhà”. [6, 50] Đây đồng thời là những tính

cách nổi bật của người phụ nữ trong hầu hết tác phẩm của Trần Tiêu.

Trong gia đình, các nhân vật nữ của Trần Tiêu là những “tay hòm chìa khóa”, là

người luôn phải làm tròn trách nhiệm của một người vợ đảm đang, người mẹ hiền và một

nàng dâu thảo. Với họ, tảo tần lao động, vất vả sớm khuya để lo lắng cho chồng, cho con là

một niềm hạnh phúc. Chị xã Bổng là hình ảnh tiêu biểu. Mười chín tuổi đầu đã được gả về

nhà chồng, và từ khi về nhà chồng, chị tỏ ra là một người vợ hiền, một nàng dâu thảo. “Thôi

thì dệt vải, may vá, đi chợ đi búa, làm cơm, làm nước, buôn ngược bán xuôi, tần tảo, (...) mà

không bao giờ phàn nàn về nỗi vất vả”. [30, 16] Mọi việc trong nhà đều do một tay chị

quán xuyến, lo toan, quanh năm, suốt tháng, lúc nào chị cũng đầu tắt mặt tối. Nhất là những

khi mùa gặt đến. “Mùa thuốc chưa qua, mùa gặt đã đến. Mọi khi chỉ một vụ gặt cũng đã

không kịp thở, huống năm nay thóc lúa, thuốc men đổ dồn cả vào một tháng. Nàng bận tới

tấp, việc nọ chưa xong đã phải bắt tay vào việc kia, suốt ngày đi lại dưới ánh nắng chang

chang”. [30, 48] Thế nhưng, dân gian vẫn có câu: “Ở đời được vợ mất chồng”. Câu nói ấy

đúng cho kì hết các gia đình trong sáng tác của Trần Tiêu, chỉ duy ở gia đình bác Chính

(Con trâu) người đọc mới cảm nhận được thế nào là “thuận vợ thuận chồng”.

Trở lại với cuộc đời chị xã Bổng, chúng ta càng thấm thía hơn ý nghĩa của câu nói

này. Trong khi chị tảo tần hôm sớm là thế, lại phải chăm lo cho người mẹ chồng tuổi đã già

thì xã Bổng trai – chồng chị chỉ có một thú thích thả diều, thích cờ bạc, tổ tôm, rồi mê cả cô

đầu. Thậm chí, tệ hại hơn, vì để có tiền đánh bạc, ông đã cấu kết với người ngoài bán rẻ cái

Hĩm – đứa con gái đầu lòng – về làm lẽ cho một nhà giàu, bất chấp hạnh phúc, tương lai của

nó. Cảnh ngày cưới cái Hĩm diễn ra thật thê thảm. Nó trở thành nỗi đau, sự hối hận trong

suốt cuộc đời chị xã Bổng và chị đã tự trách mình vì quá nhu nhược không dám mạnh mẽ,

quyết liệt hơn với họ nhà chồng để bảo vệ con gái mình.

Đau đớn, vất vả, đôi khi còn là sự tủi nhục, uất tức vì sự tệ bạc của người chồng

nhưng chính sự bao dung, đức hy sinh của người vợ, người mẹ đã giúp chị bỏ qua tất cả.

Gần suốt hơn hai trăm trang sách, rất nhiều lần, người đọc bắt gặp cảnh chị tìm cách bào

chữa cho những việc làm tệ hại của chồng hoặc bênh vực chồng trước những lời trách móc

của mẹ chồng.

(1) Chồng ham mê chơi diều, bỏ mặc việc nhà cho chị, nhưng chị vẫn rất mực

chiều chồng. Vì lẽ: “Hắn lấy vợ đã bảy tám năm giời mà chưa có con. Vậy mà hắn không

rượu chè, không cờ bạc, không mượn cớ lấy vợ lẽ thì hắn ham mê chơi diều là phải lắm. Vợ

hắn cũng hiểu thế nên rất mực chiều chồng tuy không bao giờ để lộ ra nét mặt, sợ chồng

biết mà kiêu hãnh chăng”. [30, 15 - 16]

(2) Vì ham mê sóc đĩa, tổ tôm, xã Bổng trai đã nhiều lần lấy tiền vợ, tệ hại hơn,

hắn còn cầm cố ruộng vườn để thỏa mãn niềm đam mê cờ bạc của mình. Mẹ chồng chị biết,

bà đã không ngừng mắng nhiếc: “- Chết chửa! Nó... nó cầm hai sào vườn đi rồi à? Thằng

giời đánh thánh vật, chết băm, chết vằm thế thì thôi”. Nhưng chị lại có một thái độ khác,

bởi trong chị đã có nghĩ đến cách để hy vọng giúp chồng thoát khỏi nạn cờ bạc. Chị sẽ bán

ruộng vườn để lo cho chồng chức lý thôn với suy nghĩ chồng chị sẽ bớt chơi bời lêu lổng.

Vì vậy, khi mẹ chồng mắng chồng chị, chị đã vội bênh vực chồng. “Nàng cười: “ – sao bu

cứ rủa nhà con thế. Cầm rồi thì lại chuộc chứ sao””. [30, 87 - 88]

(3) Thậm chí, đau đớn hơn, khi có chức, được ra đình ngồi hầu các cụ, ông lý

chồng chị lại đổ ra học đòi rồi mê cả cô đầu. Uất ức, tủi nhục, người phụ nữ khốn khổ này

lại thêm một lần nữa nín nhịn, ngậm đắng nuốt cay, “ngầm đem chè lá đến van lạy cụ huyện

để “người” cứu vớt chồng bà ra khỏi lưới tình”, và quan trọng hơn là để giữ thể diện cho

chồng. Để rồi, khi mọi việc được tạm giải quyết, chị càng cảm thấy “thêm tủi nhục” với

“cái mưu kế khôn ngoan” của mình. Chị “muốn khóc mà không khóc lên được”, “muốn kêu

gào mà không kêu gào lên được”. [30, 112]

(4) Và biết bao lần, chị đã tự an ủi bản thân để thôi ghét và giận chồng.

- “UKhông bao giờ nàng dám oán trách chồngU. Nàng coi chồng như một đứa trẻ để

nâng niu, để săn sóc, để chiều chuộng. Vả lại, trong làng có mấy anh chồng là không rong

chơi thỏa thích trong mấy tháng xuân, có mấy anh chồng là đi bắt sâu, bẻ ngánh, trừ khi

những anh ấy thuộc vào hạng đụt, không biết quân bài lá bạc là gì, không biết đỏ mặt tía tai

vì chai rượu với chiếc đùi thịt chó”. [30, 46]

- “... nàng lẳng lặng đi lại ngồi vào khung cửi dệt mải miết để quên đi nỗi căm tức

chồng vì Uthực tâm nàng không bao giờ muốn thù ghét chồngU”. [30, 70]

- “Phải, ngoài tay nàng ra, chồng nàng chẳng làm nên trò trống gì. Nàng không

muốn nghĩ thêm vì càng nghĩ nàng càng thấy chồng nàng vô vị và Usợ lại đâm ra khinh bỉ

chồngU”. [30, 90]

Có thể nói, suốt cuộc đời, chị xã Bổng luôn đeo bên mình gánh nặng chồng con.

Hàng trăm thứ khổ mà chị phải gánh chịu. Thế nhưng, với sự tháo vát, đảm đang, sự khôn

khéo cùng với sự nhẫn nhục, mềm dẻo trong mọi ứng xử chị đã vượt qua tất cả. Đến cuối

truyện, mặc dù gần như ngã gục trước nỗi đau về cái chết của Sồi, đứa con gái thứ hai,

nhưng chị cũng phải gượng dậy để ráng lo cho xong cái việc lên lão cho chồng. “Chồng bà

dẫu chẳng ra gì cũng mang tiếng là chồng bà. [...] Cái lão sang năm này mà không thành,

chẳng nói gì không thành, chỉ luộm thuộm, khuyết điểm một chút là nhục nhã, khổ sở, điêu

đứng với người ta... [...] Nói dại, bây giờ mà bà ốm nặng... nhắm mắt đi, thì cả một đời

danh giá của chồng bà, cả một tương lai tốt đẹp của con bà sẽ đổ ụp. Không, bà không thể

chán nản được, bà chưa thể nhắm mắt được. Bà còn phải giả cho hết cái nợ chồng con”.

[30, 249]

Diếc, thời con gái vốn là một người “lúc nào cũng tươi cười nhí nhảnh như chim

vành khuyên”. Diếc được Chính yêu và cưới về làm vợ. Cuộc sống êm đềm hạnh phúc của

đôi bạn trẻ trôi qua không được bao ngày. Cũng như số phận của bao người phụ nữ ở thôn

quê khác, Diếc cũng mang trong mình nỗi buồn của gánh nặng chồng con.

Vì thương và uất ức thay cho chồng khi chồng bị xử ép ngoài đình do địa vị thấp,

tiếng nói nhỏ nên không đắn đo suy nghĩ, Diếc quyết tâm bỏ tiền ra để mua cho chồng được

chức lý thôn với hy vọng chồng chị sẽ được “ngồi bên đông đình cùng với hàng lý dịch. [...]

không còn ai hạch sách, không còn ai bẻ hoạnh”. [31, 71] Thế nhưng, niềm vui đâu chưa

thấy, sau ba năm được làm ông này ông nọ, Chính - chồng chị đã thay đổi hoàn toàn và cả

gia đình – cái tổ ấm được xây dựng trên tình yêu của chị và chồng, tất cả đã đổ vỡ. Chồng

chị “không còn là một anh chàng nông phu chất phác, suốt ngày cặm cụi với con trâu, dưới

ánh nắng chang chang. Chính đã thành một ông lý lang thang hết nhà này sang nhà nọ, với

chiếc khăn chụp mới, với chiếc áo the thâm, với chiếc quần cát bá, với đôi guốc sơn đỏ. [...]

Ông đứng khoanh tay hầu hạ thay cho anh lính lệ. Ông làm mọi việc như một anh đầy tớ

không công”. [31, 84] Trong khi đó, ở nhà vợ và con ông luôn phải “nhịn ăn, nhịn đói, làm

lụng đầu tắt mặt tối mà vẫn không đủ cung phụng ông”; còn gia sản của cả nhà từ “vài trăm

bạc vốn, hai mẫu ruộng, một sào vườn, một con trâu, và mỗi năm nuôi được một con lợn để

sắm tết”, nay “chỉ còn trơ mấy gian nhà tre với lũ con nheo nhóc”.

Bác Chính gái trong truyện “Con trâu”, như trên chúng tôi có đề cập, so với các gia

đình khác trong hầu hết các tác phẩm viết về người nông dân ở nông thôn của Trần Tiêu thì

bác có cuộc sống hạnh phúc hơn những người vợ, người mẹ khác. Bác Chính trai chồng bác

là một người chồng, người nông dân chất phác, thật thà, siêng năng và rất mực thương yêu

vợ con. Bác Chính gái cũng thế, trong mọi hoàn cảnh, bác luôn tỏ ra là người vợ, người mẹ

tảo tần. Những năm đại hạn mất mùa, gia đình bác rơi vào tình cảnh khó khăn, cuộc sống

ngày một sút kém, bác đã rất xông xáo làm đủ mọi việc với hy vọng sẽ đưa gia đình có thể

vượt qua cơn khốn khó. Từ hàng xáo đến dệt vải, nuôi lợn, nuôi gà,... tất cả những điều bác

làm cũng chỉ vì thấy đời bác Chính trai chồng bác “vất vả nặng nhọc quá”, để “gánh nhẹ

bớt đi” và để đời chồng bác “được sung sướng đôi chút”.

Vót được miêu tả là kiểu người phụ nữ đanh đá, nhanh tay mau miệng, chuyên lo

việc người, thế nhưng trong gia đình, từ buôn bán ngược xuôi, đến dạy con, nuôi chồng, đều

do một tay chị chu toàn. Chị là người mẹ, người vợ có uy trong gia đình và là người hàng

xóm tốt bụng, được mọi người kính nể. Khác với chồng chị xã Bổng, xã Khoan, chồng Vót

lại thuộc kiểu người quá ư nhu nhược đến vô tích sự theo kiểu không ăn chơi, không phá

phách nhưng cũng không thể làm nên được việc gì to tát ngoài việc ở nhà trông nom con

cái, và thậm chí không dám nửa lời cãi lại vợ.

Dưới đây là đoạn văn miêu tả rất sinh động và đầy sự hài hước về hình ảnh chồng

Vót. Khi chị xã Bổng trở dạ, được sự nhờ vả của mẹ chồng chị xã Bổng, Vót “mừng như

người vừa vớ được việc gì thú để làm, chạy vào bếp đưa con cho chồng: “Thầy nó bế hộ, tôi

đi đằng này có chút việc”. [...]

Chồng không dám hé răng, giơ hai tay đỡ lấy con. Thằng bé rời tay mẹ càng khóc to.

Chồng luống cuống, hát liều: “A, a... Mẹ nó chỉ săn sóc việc người thôi a... a...”

Vợ đã ra tới gần cổng còn quay lại, nói bướng:

- Thế thì đã làm sao?

Chồng sợ hãi hát tiếp luôn:

- A, a... Thế thì chả làm sao cả a, a...

Vợ tủm tỉm cười đi thẳng”. [30, 58 - 59]

Nhìn cách Trần Tiêu miêu tả hình ảnh xã Khoan, tôi liên tưởng đến hình ảnh người

chồng trong lời tâm sự của một người vợ trong câu ca dao:

“Chồng người bể Sở sông Ngô,

Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần ”.

Hay

“Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”.

Chẳng biết so với chồng chị xã Bổng, một người luôn tìm cách moi tiền của vợ,

không thiết tưởng đến con cái,... thì với người chồng quá ư nhu nhược như xã Khoan, Vót

có phải là người hạnh phúc hơn không. Nhưng dẫu thế nào, chúng ta vẫn phải khâm phục

trước sức chịu đựng cũng như những đức tính đáng quý ấy của những người phụ nữ Bắc Bộ

xưa qua những trang viết của Trần Tiêu.

Trong hầu hết các sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn, khi viết về người phụ nữ đều

có viết về mối quan hệ giữa các nhân vật nữ. Đó có thể là mối quan hệ giữa mẹ ghẻ - con

chồng, giữa mẹ với con gái, nàng dâu,... và mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu luôn được

những nhà văn này miêu tả như là sự đối lập đầy xung đột giữa hai thế hệ cũ – mới. Loan

trong “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh là một ví dụ tiêu biểu.

Nhưng trong tác phẩm của Trần Tiêu, người đọc không tìm thấy bất kì một sự xung

đột nào, dẫu rất nhỏ, giữa mẹ chồng, nàng dâu. Trái lại, với ông, mối quan hệ ấy luôn được

xây dựng trên một nền tảng đạo lí của gia đình rất chân thành và thực sự xúc động.

Đọc đoạn ông miêu tả cảnh chị xã Bổng ngồi bắt chấy cho mẹ chồng vào một buổi

trưa hè ở làng quê chúng ta càng thấm thía hơn những tình cảm tốt đẹp ấy. Một truyền thống

tốt đẹp của gia đình Việt Nam, một khía cạnh rất thực mà từ trước đến nay rất ít được các

nhà văn đề cập đến hoặc nếu có chăng thì nó lại được nhìn nhận và phản ánh ở một khía

cạnh khác.

“Một buổi trưa hè chói lọi và nóng nực.

Sáu ngọn cau với những tàu lá mềm rủ, lóng lánh như thép, in lên da trời xanh thẳm.

Không một vẩn mây. Những mái tranh khô đét, với những tia khói bốc ở dưới lên như sắp

bật lửa.

Mẹ, mình trần, mặc mỗi cái yếm nâu, đầu xõa tóc, ngồi phệt xuống thềm nhà trên,

tay cầm quạt mo phe phẩy từng hồi. Ánh sáng chói trên mặt sân phản chiếu làm cặp mắt bà

nhíu lại.

Nàng dâu ngồi trên ngưỡng cửa cúi xuống đầu mẹ rẽ tóc bắt chấy. Cả hai mẹ con,

không một lời nói. Hình như khí nóng của trưa hè đã ru ngủ tâm hồn họ và làm cho họ lười

nghĩ. Chốc một lại vẳng đưa những tiếng gà gáy xa xăm và luôn những tiếng ru trẻ à tiếng

võng đưa kẽo kẹt bên hàng xóm.

Đàn sẻ ríu rít dưới mái tranh. Một vài con bay xuống sân. Cả đàn ùa theo, tiếng

cánh vù vù, rồi nhảy nhót, mổ những hạt bụi. Con vện ở bếp thủng thỉnh đi lên. Đàn sẻ

hoảng hốt bay toán loạn...

Mẹ chồng ngồi, mắt lim dim ngủ gà ngủ gật. Nhưng mỗi bận nàng dâu tuốt sợi tóc,

bà biết hiệu, tỉnh dậy, ngửa bàn tay ra đợi...” [30, 19 - 20]

Nói như tác giả Vu Gia, đọc những trang viết này, người đọc như được một lần quay

lại với “thời tuổi dại”. Đúng vậy, chỉ ở những vùng quê nghèo như miền Trung, miền Bắc

xưa, nơi có những người dân quê hiền lương, chất phác chúng ta mới có thể tìm thấy những

phút giây ấm áp tình người như thế. Ở đó, người đọc không chỉ nhìn thấy những biểu hiện ý

nghĩa của mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu mà ở đó có cả sự gần gũi, sự thương yêu, một

yếu tố đậm chất nhân bản trong tâm hồn của những người dân quê trong sáng tác của Trần

Tiêu. Xuyên suốt gần ba trăm trang sách của truyện “Chồng con”, người đọc luôn tìm thấy

những phút giây chia sẻ, đồng cảm giữa mẹ chồng với chị xã Bổng, nhất là mỗi khi xã Bổng

trai có những đối xử tệ với vợ. Và đã bao lần, chúng ta nghe những câu mắng từ miệng của

người mẹ chồng nhân hậu ấy thốt ra. Như:

“- Thằng phải gió chết băm, chết vằm kia! Mày có giả ngay cho nó không?”

Hay:

“- Chết chửa! Nó.. nó cầm hai sào vườn đi rồi à? Thằng giời đánh thánh vật, chết

băm chết vằm thế thì thôi!”

Hoặc những câu nói mỉa như:

“- Ông đã vác mặt về đấy à? Úi chào! Trông rõ thiểu não chưa. Còn vài mẫu ruộng

nữa sao không bán nốt đi mà cúng ông thần đổ bác”.

Dẫu biết là không thể thay đổi được gì với xã Bổng trai nhưng qua mỗi lần như thế

chị xã Bổng cũng phần nào vơi đi được nỗi tủi khổ vì có người chồng tệ bạc.

Chính những lúc mẹ chồng chị ốm đau là những lúc chúng ta càng thấm thía hơn tấm

lòng của nàng dâu thảo. Những lúc ấy, càng giận chồng bao nhiêu thì chị lại càng thương

hại mẹ chồng bấy nhiêu. Bao giờ chị cũng tỏ ra là một nàng dâu đầy lòng hiếu thuận và chu

đáo với mẹ chồng. “Thấy mẹ chồng gần đến cõi, bà đi đặt cỗ hậu sự bằng vàng tâm dầy dặn

ván sơn son, hai đầu thiếp bạc, mất cả thẩy hơn ba chục, đem về kê ngay gầm bàn thờ. Bà

cụ mừng quá, đi đâu cũng khen nàng dâu hiếu thảo”. [30, 113]; rồi việc, chị không tiếc tiền

để cho bà cụ được quy y... Nhìn cách Trần Tiêu miêu tả niềm vui, sự sung sướng của bà cụ,

chúng ta càng trân trọng hơn tấm lòng của nàng dâu và càng thấu hiểu hơn niềm hạnh phúc

của người mẹ chồng. “Ồ! Thế thì còn gì bằng! Thật là nhất con. Chả bù cho thằng con nó

chẳng nhìn nhỏ gì đến mẹ cả.

Bà cụ sung sướng chảy cả nước mắt. Từ đấy cụ nóng lòng nóng ruột mong cho đến

ngày rằm để được cùng bọn các bà tân quy đến chùa học vỡ lòng”. [30, 115]

Đến đây chúng ta có thể nói rằng, viết về hình ảnh người phụ nữ Bắc Bộ xưa Trần

Tiêu đã thực sự có những trang viết giàu chất nhân văn sâu sắc.

Thế Phong trong “Các nhà văn Tự lực văn đoàn”, khi nhận xét về Trần Tiêu có

viết: “có thể nói rằng ông là người đầu tiên viết tiểu thuyết lấy đề tài cho sự nghiệp mình

nổi danh là nông dân, mà nông dân Việt Nam có đến 90%”. Ở đó có đầy đủ cả mọi nhân vật

từ “gàn dở, ngây ngô, thực thà, những ông lý, ông khán, ông xã, những nông phu nghèo khó

và chăm chỉ sống trên bùn lầy, trong gian nhà tối tăm”. [16, 116] Đúng vậy, qua việc xây

dựng tính cách của người dân quê trong sáng tác của mình, dù viết về người nông dân nói

chung hay viết riêng về hình ảnh người phụ nữ Bắc Bộ xưa, bằng sự quan sát, sự thấu hiểu

sâu sắc về tâm tính của những cư dân nông nghiệp, nhà văn Trần Tiêu đã xây dựng thành

công những kiểu mẫu nông dân Việt Nam với những nét tính cách nổi bật. Họ là những

người nông dân nghèo, hiền lương chất phác, sống đậm tình nặng nghĩa, rất cần cù trong lao

động, giản dị trong nếp sống nếp nghĩ nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong giao tiếp ứng

xử thường ngày. Họ là những mẫu người nguyên Việt và rất thuần nông. Hay nói đúng hơn,

trong mỗi tính cách của các nhân vật trong tác phẩm của Trần Tiêu đều mang bản sắc văn

hóa Việt Nam.

KẾT LUẬN

1. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước theo hướng CNH –

HĐH, Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta xác định, đi đôi với việc phát triển kinh tế - xã hội

là xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong khi đó, văn

hóa Việt Nam chủ yếu được hình thành và bảo tồn ở làng xã. Nói đúng hơn, cộng đồng làng

xã vừa là điểm phát sinh của loại hình văn hóa vừa là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa.

Trong sự phát triển của đời sống xã hội ngày nay có nhiều loại hình văn hóa cổ xưa đã bị

biến mất trong cuộc sống hiện đại thì chính làng xã là nơi mà chúng ta có thể tìm về và nhận

diện lại những nét văn hóa đã mất ấy. Thế nên, theo chúng tôi, việc tìm về với văn hóa làng

để củng cố, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp, đồng thời chỉ rõ và khắc phục

những tồn tại hạn chế của nó là một việc làm thiết thực đầy bổ ích, góp phần giữ gìn truyền

thống văn hóa dân tộc.

2. Văn học Việt Nam những năm 30 – 45 phát triển trong bối cảnh xã hội có nhiều

biến đổi phức tạp, sự du nhập của các yếu tố ngoại lai, Tây học đã chi phối rất nhiều đến

khuynh hướng sáng tác của các nhà văn đương thời, đặc biệt là các thành viên của nhóm Tự

lực văn đoàn. Hầu hết, khuynh hướng sáng tác của nhóm lúc này đều tập trung vào việc

phản ánh sự mâu thuẫn gay gắt giữa hai luồng tư tưởng cũ và mới, giữa bức tường phong

kiến già cỗi vững chắc với tư tưởng tư sản. Một số cây bút chủ chốt như Nhất Linh, Khái

Hưng, Hoàng Đạo cũng viết về nông thôn, về đời sống của người dân quê. Thế nhưng, khác

với kiểu nhìn và thể hiện về nông thôn của các nhà văn đó, Trần Tiêu đã chọn và có cái nhìn

rất đáng trân trọng về nông thôn và nông dân. Cụ thể, cùng viết về nông thôn Việt Nam

những năm 30 – 45 của thế kỉ XX, Trần Tiêu không đi sâu vào khai thác những đối kháng

giai cấp như các nhà văn hiện thực đương thời hay chủ trương cải cách nông thôn theo

khuynh hướng cải lương như cách thể hiện của một số nhà văn lãng mạn, mà ông đi vào

quan sát và miêu tả những biểu hiện của văn hóa làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ. Với óc quan

sát tỉ mỉ, chính xác, lối hành văn trong sáng, giản dị và nhẹ nhàng, Trần Tiêu đã tái hiện lại

khá đầy đủ những nét độc đáo của bản sắc văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ từ tổ chức đời

sống cộng đồng đến tính cách của mỗi người nông dân ở nơi đây.

Trước tiên, khi viết về văn hóa tổ chức đời sống làng xã Bắc Bộ, ông đã đề cập đến

các vấn đề từ thiết chế xã hội, phong tục tập quán đến văn hóa sinh hoạt (bao gồm sinh hoạt

vật chất và sinh hoạt tinh thần), với những mặt tích cực cần giữ gìn và phát huy như tục

rước lão là thể hiện của truyền thống kính trọng người già; những biểu hiện đẹp về tình làng

nghĩa xóm, thờ cúng tổ tiên trong ngày Tết cổ truyền (Tết Nguyên Đán), trong lễ hội nông

nghiệp; hình ảnh những bữa cơm đạm bạc, đơn sơ nhưng ấm áp tình cảm của các gia đình

nông dân nghèo. Bên cạnh đó, ông cũng mạnh dạn chỉ ra những mặt còn hạn chế cần khắc

phục trong đời sống văn hóa làng xã nơi đây. Đó là những tệ đoan của tục ngôi thứ, tục

khao vọng, những biểu hiện của mê tín dị đoan...

Không chỉ mô tả văn hóa trên diện rộng của đời sống cộng đồng nói chung, Trần

Tiêu còn đi vào miêu tả những biểu hiện của văn hóa làng xã qua tính cách của từng nhân

vật. Dấu ấn của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ được nhà văn thể hiện ngay qua

cách ông đặt và gọi tên các nhân vật. Cụ thể, tên gọi của mỗi người đồng thời nói lên địa vị

của họ trong làng., đó là cụ tuần, ông lý, bác khán, anh xã ... Nhân vật trong sáng tác của

Trần Tiêu là những con người mang dáng dấp chung của cộng đồng, những lối ứng xử, cách

giao tiếp của họ đều tiêu biểu cho tính cách của những người nông dân Việt Nam truyền

thống; những người phụ nữ luôn được đề cao trong gia đình là một biểu hiện sinh động cho

nền văn hóa nông nghiệp lúa nước vốn coi trọng âm tính. Chính những trang viết về văn hóa

tổ chức đời sống cộng đồng và văn hóa làng xã qua tính cách nhân vật này cho chúng ta

thấy được sự gắn bó, thấu hiểu sâu sắc và tình yêu tha thiết của nhà văn với con người và

nông thôn Việt Nam.

Nói tóm lại, nông thôn, cụ thể là nông thôn Bắc Bộ hiện lên trong các trang văn của

Trần Tiêu tồn tại cụ thể với đơn vị làng xã, với đầy đủ những thuần phong mỹ tục, những hủ

tục; người dân quê đi vào trong tác phẩm của ông với đầy đủ những nét tính cách hay có, dở

có, tiêu biểu cho những con người nguyên Việt và thuần nông. Đây chính là những yếu tố

góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Và chính những đóng góp này đã làm nên chỗ

đứng của ông trên văn đàn Việt Nam.

3. Cuộc sống của làng quê Việt Nam xưa cũng như nay luôn có sự đan xen giữa ánh

sáng và bóng tối. Xét về mặt đời sống cộng đồng, đời sống cá nhân, chính việc duy trì các

mỹ tục truyền thống trong các ngày lễ Tết, lễ hội nông nghiệp, những yếu tố thể hiện được

những đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần tương thân tương ái, sự quan

tâm, trân trọng vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội,...và mạnh dạn giúp

người nông dân bài trừ những hủ tục như mê tín dị đoan, những lối sống không khoa học,

mất vệ sinh,... là những việc làm thiết thực góp phần phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam

trên con đường hội nhập. Quan trọng hơn là việc đó chúng ta làm được thông qua việc tìm

hiểu văn hóa làng xã trong tác phẩm của một nhà văn, mặc dù chưa phải là tất cả, nhưng đó

cũng là cách mà chúng tôi muốn đi đến khẳng định sự đóng góp có giá trị của một tác giả

văn học đối với lịch sử văn học nước nhà – nhà văn Trần Tiêu.

4. Trong Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Hội nghị BCH

Trung ương Ðảng lần thứ 7, phần II.3 – phần nhiệm vụ và giải pháp có ghi: Ưu tiên đầu tư

phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Nâng cao chất

lượng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", xây dựng các hương

ước, phát huy truyền thống tốt đẹp, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, bài trừ các hủ

tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn. Như vậy, nghị quyết đã xác định rõ, phát triển xã

hội, hiện đại hóa đất nước phải đi kèm với việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, cụ thể là

văn hóa làng, là việc làm cần thiết mà ai cũng có thể làm được để ủng hộ sự nghiệp đổi mới

của đất nước. Và cũng chính từ điều này đã góp phần giúp chúng ta khẳng định thêm một

lần nữa tác phẩm của Trần Tiêu vẫn mang tính thời sự cho những ai muốn tìm hiểu sâu hơn

về văn hóa làng xã Bắc Bộ ở một thời kì qua.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Toan Ánh, Nếp cũ – Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, NXB Trẻ, 2005.

2. Toan Ánh, Nếp cũ - làng xóm Việt Nam, NXB Trẻ, 2005.

3. Toan Ánh, Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua lễ tết, hội hè, NXB Thanh Niên, 2000.

4. Phan Kế Bính, Phong tục Việt Nam, NXB Đồng Tháp, 1990.

5. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBTPHCM, 1999.

6. Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, NXBCTQG,

2004.

7. Nguyễn Thanh Du (luận văn thạc sĩ), Văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu giai đoạn

1930 – 1945, ĐHSP TPHCM, 2004.

8. Nguyễn Tiến Dũng (chủ biên), Văn hóa Việt Nam thường thức, NXB văn hóa dân

tộc, 2005.

9. Đặng Anh Đào, Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, Tạp chí văn học (số 2), 1994.

10. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2 tập), NXBKHXH, 1978.

11. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, NXBGD, 1997.

12. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXBGD, 2005.

13. Hà Minh Đức(tuyển tập, tập 2), Nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại (trào lưu –

tác giả - tác phẩm), NXBGD, 2004.

14. Nhiều tác giả, Từ điển văn học (tập 2), NXBXH, 1984.

15. Văn Giá, Quan niệm về tiểu thuyết trong khoa nghiên cứu văn học giai đoạn 1932 –

1945, Tạp chí văn học (số 8), 1994.

16. Vu Gia, Trần Tiêu nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn, NXBTN, 2006.

17. Lê Thị Đức Hạnh, Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, NXBKHXH, 1999.

18. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt (1992), TT Từ điển, Ngôn ngữ Hà Nội Việt

Nam.

19. Viện Văn Học, Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXBKHXH, 1977.

20. Chu Huy, Sổ tay kiến thức văn hóa dân gian Việt Nam, NXBGD, 2004.

21. Nguyễn Hoành Khung (chủ biên), Truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945, NXBGD,

2004.

22. Phong Lê, Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu), NXBĐHQGHN,

2001.

23. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 30A, 30B),

NXBKHXH và NXBVNTPHCM, 1984.

24. Nguyễn Đăng Mạnh, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945,

NXBĐHQGHN, 2000.

25. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3), NXBVH, H, 1999.

26. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2), NXBKHXH, 1989.

27. Mai Phương (tuyển chọn và biên soạn), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân

tộc, NXBVHTT, Hà Nội 2000.

28. Nguyễn San, Phan Đăng, Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD, 2007.

29. Trần Tiêu, Con Trâu, NXBVH, 2001.

30. Trần Tiêu, Chồng Con, NXBVNTPHCM, 1988

31. Trần Tiêu, Sau Lũy Tre, NXB Đời Nay, 1942.

32. Trần Tiêu, Truyện quê, NXB Đời Nay, 1942.

33. Lê Thị Dục Tú, Miêu tả nội tâm trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Tạp chí văn học

(số 8), 1994.

34. Đào Thản, Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi, tạp chí văn học (số

2), 1994.

35. Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu, Phong tục làng xóm Việt Nam, NXBPĐ, 2005.

36. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, NXBVH, Hà Nội 1999.

37. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD, 1999.

38. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXBTPHCM, 2001.

39. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXBKHXHHN,

1993.

40. Đinh Khắc Thuần, Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (tập 1), NXBGD, 2004.

41. Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh, Về Tự lực văn đoàn, NXBTPHCM, 1989.

42. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD, 2001.