ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------

LÊ THỊ NHƢ TRANG

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC

CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI DI CƢ QUA

NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP PHƢỜNG VĨNH TUY,

QUẬN HAI BÀ TRƢNG, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 60.31.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH VĂN TÙNG

Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS.TS. Trịnh Văn Tùng. Tôi xin chịu trách nhiệm trước những

kết quả đã điều tra được trong luận văn này.

Hà Nội, tháng 04 năm 2015

Tác giả luận văn

Lê Thị Nhƣ Trang

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này để tôi có thể đạt được các mục

tiêu và kết quả nhất định trong đề tài nghiên cứu của mình, tôi đã nhận được sự chia

sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của giảng viên hướng dẫn PGS.TS. Trịnh

Văn Tùng, phòng sau đại học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội ,

các thầy cô trong khoa Xã hội học cùng sự hợp tác giúp đỡ của tập thể cán bộ, nhân

dân, người lao động hiện đang sinh sống và làm việc tại phường Vĩnh Tuy, quận

Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội. Vì vậy, nhân dịp này tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn

tới giảng viên hướng dẫn PGS.TS. Trịnh Văn Tùng, các thầy cô trong khoa xã hội

học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội cùng tập thể cán bộ, nhân

dân, người lao động tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội đã tạo

điều kiện hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ tận tình cho tôi hoàn thành công trình nghiên

cứu này một cách thuận lợi nhất.

Trong phạm vi của công trình nghiên cứu này, cũng như bản thân tôi còn hạn

hẹp về kinh nghiệm, vì vậy trong nghiên cứu này không tránh khỏi những thiếu sót,

tôi mong nhận được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo và toàn thể

bạn đọc.

Chân thành cảm ơn !

Hà Nội, tháng 04 năm 2015

Học viên

Lê Thị Nhƣ Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................................... 3

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ............................................................................. 9

4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 10

5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 11

6. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................................... 11

7. Giả thuyết nghiên cứu ...................................................................................................... 12

8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 12

NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................................ 17

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .......................... 17

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ....................................................................................................... 17

1.1.1. Khái niệm công cụ .................................................................................... 17

1.1.1.1. Khái niệm người di cư ....................................................................... 17

1.1.1.2. Khái niệm sức khỏe ............................................................................ 17

1.1.1.3. Khái niệm chăm sóc sức khỏe ............................................................ 19

1.1.1.5. Khái niệm tác động ............................................................................ 20

1.1.2. Lý thuyết ứng dụng ................................................................................... 20

1.1.2.1. Lý thuyết nhu cầu ............................................................................... 20

1.1.2.2. Lý thuyết lựa chọn hợp lý ................................................................... 22

1.1.3. Quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước về chăm sóc sức khỏe

cho người dân...........................................................................................................23

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN.................................................................................................. 25

1.2.1. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ............................................................ 25

1.2.2. Đặc trưng về hành vi chăm sóc sức khỏe ở nhóm người dân di cư tại địa

bàn nghiên cứu ................................................................................................... 27

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI DÂN DI

CƢ ĐẾN PHƢỜNG VĨNH TUY ........................................................................... 30

2.1. Thực trạng cảm nhận về sức khỏe của ngƣời dân di cƣ tại địa bàn nghiên cứu .. 30

2.1.1. Đặc điểm của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy ............................... 30

2.1.1.1. Về nhóm tuổi ...................................................................................... 30

2.1.1.2. Về giới tính ......................................................................................... 30

2.1.1.3. Về tình trạng hôn nhân ........................................................................ 31

2.1.1.4. Về trình độ học vấn ............................................................................ 32

2.1.1.5. Về nghề nghiệp ................................................................................... 32

2.1.1.6. Về hiện trạng nhập cư ........................................................................ 34

2.1.2. Cảm nhận về sức khỏe của người dân di cư tại địa bàn .......................... 38

2.2. Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và thẻ BHYT của ngƣời dân di cƣ tại địa bàn

nghiên cứu ........................................................................................................................... 42

2.2.1. Hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy ............ 42

2.2.2. Hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy

có sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi ốm đau ........................................................... 48

* Tiểu kết...............................................................................................................58

Chƣơng 3. XU HƢỚNG VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC CHĂM SÓC

SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI DI CƢ TẠI PHƢỜNG VĨNH TUY ........................ 59

3.1. Đánh giá về xu hƣớng hoạt động khám chữa bệnh thông qua dịch vụ bảo hiểm

y tế...........................................................................................................................................59

3.1.1. Nhu cầu sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi ốm đau của người dân di cư tại

địa bàn nghiên cứu ............................................................................................. 59

3.1.2. Đánh giá về lợi ích của thẻ bảo hiểm y tế khi ốm đau ............................. 66

3.1.3. Đánh giá về những rào cản trong sử dụng bảo hiểm y tế khi tham gia

khám chữa bệnh..................................................................................................74

3.2. Xu hƣớng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của ngƣời dân di cƣ tại phƣờng Vĩnh Tuy

3.1.1. Xu hướng mua thẻ bảo hiểm y tế của những người di cư không tham gia bảo hiểm

y tế ...................................................................................................................... 77

3.1.2. Xu hướng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của những người di cư khi tham gia bảo hiểm

y tế khi khám chữa bệnh ..................................................................................... 74

3.3. Một số yếu tố tác động tới việc chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân di cƣ tại

phƣờng Vĩnh Tuy.................................................................................................................82

3.3.1. Yếu tố về kinh tế của cá nhân và hộ gia đình di cư tại phường Vĩnh Tuy ............. 82

3.3.2 Yếu tố về nhân khẩu xã hội ........................................................................................ 84

3.3.3 Yếu tố về chính sách xã hội........................................................................................ 94

* Tiểu kết.............................................................................................................103

KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ ............................................................................. 104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 108

PHỤ LỤC ............................................................................................................... 111

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Nhóm tuổi của đối tượng điều tra ............................................................. 30

Bảng 2.2. Giới tính của đối tượng điều tra ................................................................ 31

Bảng 2.3.Tình trạng hôn nhân của đối tượng điều tra .............................................. 31

Bảng 2.4.Trình độ học vấn của đối tượng điều tra .................................................... 32

Bảng 2.5. Nghề nghiệp của đối tượng điều tra.......................................................... 33

Bảng 2.6.Thời gian nhập cư của đối tượng điều tra .................................................. 34

Bảng 2.7. Lý do di cư đến nơi ở hiện tại ................................................................... 35

Bảng 2.8. Đối tượng cùng di cư đến ......................................................................... 36

Bảng 2.9. Khó khăn khi di cư đến nơi ở mới ............................................................ 37

Bảng 2.10. Tự đánh giá về tình trạng sức khỏe hiện tại............................................ 38

Bảng 2.11. Cảm nhận về tình trạng sức khỏe theo nhóm tuổi .................................. 39

Bảng 2.12.Cảm nhận về tình trạng sức khỏe theo giới tính ...................................... 41

Bảng 2.13. Lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh theo thu nhập ..................................... 43

Bảng 2.14. Nhóm đóng bảo hiểm y tế của đối tượng điều tra .................................. 48

Bảng 2.15. Tình trạng sử dụng bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh ...................... 52

Bảng 2.16. Đánh giá về mức độ cần thiết của bảo hiểm y tế theo nhóm tuổi ........... 61

Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ cần thiết của bảo hiểm y tế theo nghề nghiệp ....... 63

Bảng 2.18. Giải pháp tăng cường sự tham gia bảo hiểm y tế của người dân ........... 81

Bảng 3.1. Thu nhập trung bình trong tháng của hộ gia đình .................................... 82

Bảng 3.2.Đánh giá về mức sống của hộ gia đình ...................................................... 86

Bảng 3.3. Đánh giá về mức phí mua bảo hiểm y tế .................................................. 94

Bảng 3.4. Hiểu biết về lợi ích của dịch vụ bảo hiểm y tế ......................................... 98

Bảng 3.5. Hiểu biết về lợi ích của dịch vụ bảo hiểm y tế theo trình độ học vấn ...... 99

DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu 2.1.Cơ sở khám chữa bệnh ............................................................................... 42

Biểu 2.2.Việc lựa chọn các cơ sở y tế dựa vào yếu tố .............................................. 46

Biểu 2.3. Nguồn gốc bảo hiểm y tế của đối tượng điều tra ....................................... 49

Biểu 2.4. Tình trạng sử dụng bảo hiểm y tế theo giới tính ....................................... 54

Biểu 2.5. Đánh giá mức độ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tại địa bàn ........................... 55

Biểu 2.6. Đánh giá về mức độ cần thiết của bảo hiểm y tế ....................................... 59

Biểu 2.7. Đánh giá về chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế ............. 66

Biểu 2.8. Đánh giá về thủ tục khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế .................. 68

Biểu 2.9. Đánh giá về chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của các cở y tế tại địa bàn ............. 70

Biểu 2.10. Đánh giá về khả năng tiếp cận của người dân ......................................... 71

với các cơ sở y tế tại địa bàn ..................................................................................... 72

Biểu 3.1. Nghề nghiệp của đối tượng điều tra .......................................................... 91

Biểu 3.2. Đánh giá về mức phí mua bảo hiểm y tế theo nhóm tuổi .......................... 96

Biểu 3.3. Đánh giá về chi phí hỗ trợ của bảo hiểm y tế khi tham gia khám, chữa bệnh .......... 101

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHYT : Bảo hiểm y tế

CSSK : Chăm sóc sức khỏe

THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông

DS-KHHGĐ : Dân số Kế hoạch hóa Gia đình

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Những năm gần đây ở nước ta dòng người di cư từ nông thôn ra các thành phố

lớn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với tốc độ tăng nhanh, quy mô ngày một lớn. [9].

Đây là một vấn đề mang tính xã hội, bởi nó có tác động không nhỏ đến mỗi gia đình

và cộng đồng, nhất là sự biến đổi cấu trúc gia đình do sự di cư của thế hệ giữa ra

các thành phố lớn sinh sống và làm việc, các gia đình ở nông thôn trong tình trạng

khuyết thế hệ, chức năng và vai trò của gia đình không được đảm bảo do có những

biến đổi lớn. Đối với các thành phố lớn nơi tiếp nhận dòng người nhập cư vào, hiện

nay đang phải đối mặt với các vấn đề khó khăn lớn như: những xáo trộn về đời sống

xã hội, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, cơ sở hạ tầng không đáp

ứng được do mật độ dân cư đông... Trong số các vấn đề đó thì một vấn đề đang

được quan tâm hiện nay đó là việc chăm sóc sức khỏe cho đối tượng là những người

dân di cư ở khu vực thành thị, bởi nhiều trẻ em, người già, thậm chí người trong độ

tuổi lao động trong các gia đình nhập cư vào thành thị chưa được tiếp cận với các

dịch vụ xã hội, dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Chính vì vậy, sức khỏe của nhóm dân

cư này có sự khác biệt nhất định so với các nhóm dân cư khác. Làn sóng di cư diễn

ra mạnh ở các tỉnh thành trên cả nước tới các thành phố lớn như: Hà Nội, Tp. Hồ

Chí Minh, Đà Nẵng...

Hà Nội là thành phố lớn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đây

là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước,do vậy hàng năm lực

lượng dân số ở các tỉnh khác di cư về chiếm tỷ lệ khá cao. Theo số liệu Tổng điều

tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 của Tổng cục Thống kê cho thấy, dân số

Hà Nội là 6.448.837 người (chiếm khoảng 7,5% dân số cả nước); trong khi đó tỷ lệ

nhập cư về Hà Nội trung bình khoảng 100.000 người/năm. [9]. Như vậy, mỗi năm

qui mô dân số Hà Nội dự kiến tăng thêm tương đương với dân số của một huyện lớn. Năm 2009, mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.926 người/km2, cao gấp

7,4 lần so với cả nước và mật độ này có chiều hướng tăng cao do dòng người nhập

cư hàng năm đang tăng lên; qui mô và tốc độ của lượng người di dân vào Hà Nội

qua các năm ngày càng tăng, cụ thể năm 2001 số người di cư vào Hà Nội là 16.985

1

người thì đến năm 2007 là 46.240 người và con số đó đã là 52.588 người vào năm

2011.

Như vậy, xu thế chung trong những năm tới là số lượng người lao động ngoại

tỉnh di cư vào Hà Nội vẫn tăng lên một cách nhanh chóng. Hiện tượng này, nếu

không có sự quản lý, điều tiết sẽ gây ra những vấn đề phức tạp trong đời sống kinh

tế - xã hội cho Hà Nội trong những năm tới. Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề nảy sinh

từ nhóm dân di cư này, số lượng người di cư chưa được tiếp cận với các dịch vụ

chăm sóc sức khỏe chiếm tỷ lệ khá cao. Nguyên nhân chủ yếu là do họ chịu nhiều

ảnh hưởng của tình trạng thiếu việc làm, thu nhập bấp bênh, trong khi giá cả lương

thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác vẫn ở mức cao. Từ những khó khăn

về điều kiện sống và môi trường ô nhiễm kéo theo những vấn đề về sức khỏe của

những người di cư tới các đô thị lớn. Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế lan

rộng, thì khó khăn của nhóm dân số di cư càng thêm chồng chất, từ đó làm nảy sinh

nhiều vấn đề xã hội từ nhóm dân cư này. Trong những nghiên cứu, điều tra gần đây

cho thấy vấn đề nổi trội ở nhóm dân di cư khu vực nông thôn đến các khu vực thành

thị đó là vấn đề chăm sóc sức khỏe của người dân di cư còn chưa được đảm bảo do

chất lượng cuộc sống, tình trạng thu nhập, mức sống còn thấp; đây cũng là nguyên

nhân khiến cho tình trạng sức khỏe, bệnh tật, tuổi thọ của nhóm dân cư này suy

giảm so với các nhóm dân cư khác.

Do vậy, việc nghiên về vấn đề chăm sóc sức khỏe ở nhóm những người dân di

cư là một đòi hỏi vừa mang tính cấp thiết, về cơ bản vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có

ý nghĩa thực tiễn. Do đó tôi chọn đề tài: “Các yếu tố tác động đến việc chăm sóc

sức khỏe của người di cư qua nghiên cứu trường hợp phường Vĩnh Tuy, quận Hai

Bà Trưng, Hà Nội” để nghiên cứu. Từ việc nghiên cứu, đề tài này sẽ cung cấp

những cơ sở, những luận cứ khoa học quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, mang

đến cái nhìn cụ thể, sâu sắc về thực trạng sức khỏe và hoạt động chăm sóc sức khỏe

của nhóm dân số di cư; nghiên cứu cũng chỉ ra những ảnh hưởng và các yếu tố tác

động tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của nhóm dân số di cư tại địa bàn nghiên

cứu. Từ đó, đưa ra các kết luận, đề xuất các kiến nghị - giải pháp, góp phần phát

huy tốt hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cho nhóm dân cư này, nhằm nâng

2

cao sức khỏe, chất lượng sống, điều kiện sống cho nhóm dân số di cư, giúp họ có

điều kiện tiếp cận với các quyền và lợi ích hợp pháp trong chăm sóc sức khỏe, khám

chữa bệnh trong đời sống hằng ngày.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2.1. Tổng quan nghiên cứu về vấn đề chăm sóc sức khỏe người dân di cư

trên thế giới

Hiện nay, nhiều nghiên cứu được công bố đã phân tích mối quan hệ giữa di cư

với tình trạng sức khoẻ, tỷ lệ tử vong, khả năng nhiễm bệnh, nguy cơ nhiễm HIV và

các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Kết quả chỉ ra rằng, một mặt, sức khoẻ có

thể là động lực hoặc có thể là trở ngại đối với di cư thông qua các tác động trực tiếp

và gián tiếp đến quyết định di cư. Mặt khác, quá trình di cư cũng ảnh hưởng đến sức

khoẻ của cá nhân và cộng đồng, ở nhiều mức độ (Soskolne and Shtarkshall, 2002).

Do tác động của sức khoẻ đến di cư mang ý nghĩa kinh tế - xã hội ít và ảnh hưởng

này chỉ có thể nhận thấy thông qua các lý do di chuyển hay tính chọn lọc của di cư

nên hầu hết các nghiên cứu kể trên đều tập trung vào tác động của di cư tới sức

khoẻ [36].

Mặc dù hầu hết các công trình nghiên cứu tác động của di cư đến sức khoẻ chủ

yếu nhằm vào mức sinh nhưng kết luận về quan hệ giữa di dân và mức sinh không

thống nhất. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, mức sinh của những người di cư thấp

hơn những người không di cư ở nơi đi và cao hơn những người sinh sống lâu dài ở

nơi đến, tuy vậy, những nghiên cứu khác gần đây lại cho thấy những người di cư có

mức sinh tương tự những người không di cư [34].

Trong nghiên cứu về một số vấn đề về di dân của Stephen Castles, nhà nghiên

cứu Xã hội học làm việc tại Đại học Sydneynăm 2011, nghiên cứu đã chỉ rõ xu

hướng di cư ngày càng đa dạng hóa, nghiên cứu đã chỉ rõ trong giai đoạn từ giữa

thập kỷ những năm 90, tình trạng di cư quốc tế đang bùng nổ trên phạm vi toàn cầu

và có nhiều sự thay đổi, mở rộng, đa dạng hóa các hình thức di cư, vấn đề di cư và

sự đa dạng hóa của nó trong bối cảnh di cư xuyên quốc gia. Trong nghiên cứu này

Stephen Castles cũng chỉ rõ được thực trạng chăm sóc sức khỏe ở nhóm người di cư

chưa được đảm bảo, họ chưa được tiếp cận với các chính sách về y tế và việc làm,

3

chính vì vậy chất lượng sống và điều kiện sống của họ còn rất thấp, việc đáp ứng

nhu cầu cho họ cần được quan tâm, cần đề ra các biện pháp nhằm giảm thiểu việc di

cư tự do, hướng tới việc ổn định dân cư ở các khu vực [37].

Tại các nước đang phát triển, trẻ sơ sinh của những phụ nữ di cư từ nông thôn

có ít cơ hội sống sót hơn so với trẻ sinh ở thành thị. Nghiên cứu về tỷ lệ tử vong của

trẻ em di cư của tác giả Mazharul 2005, ở Bangladesh cho thấy mức chết của trẻ em

dưới 5 tuổi di cư từ nông thôn cao gấp 1,6 lần so với trẻ sinh ra và lớn lên ở thành

thị. Trong những tranh luận gần đây về di cư và HIV/AIDS, người ta quan tâm đặc

biệt đến những quá trình đưa đẩy người di cư vào các điều kiện có thể dẫn đến các

hànhvi nguy cơ cao và lây nhiễm HIV (Xiushi Yang et al, Archana K. Roy, 2005)

[40].

2.2. Tổng quan nghiên cứu về vấn đề chăm sóc sức khỏe người dân di cư tại

Việt Nam

Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về di cư đã được tiến hành, tuy nhiên các

nghiên cứu này chủ yếu nhằm xác định nguyên nhân di cư, đặc trưng cơ bản của

người di cư, việc làm và thu nhập của họ. Chỉ có rất ít một số nghiên cứu về quan

hệ giữa sức khoẻ và di cư được tiến hành ở Việt Nam nhưng hầu hết được nghiên

cứu trên mẫu nhỏ và điều này gây khó khăn cho việc phân tích toàn diện mối quan

hệ này.

Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về di cư đã được tiến hành (Tống Văn

Đường,1995; Doãn Mậu Diệp và các tác giả, 1996; Đỗ Văn Hoà, 1998; Vũ Thị

Hồng và các tác giả, 2003; Nguyễn Thị Thiềng, Patrick Gubryetal, 2004; Đặng

Nguyên Anh, 2005). Tuy vậy, các nghiên cứu này chủ yếu nhằm xác định nguyên

nhân di cư, đặc trưng cơ bản của người di cư, việc làm và thu nhập của họ.

Một số nghiên cứu đã bắt đầu đề cập đến mối quan hệ giữa di cư với mức sinh

và KHHGĐ (Viện Kinh tế Tp. HCM, 1992; Trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn

lao động, 1993). Nói chung, các nghiên cứu trên đã đưa ra kết luận sơ bộ là những

người di cư bất lợi hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ (P.

Gubry, Nguyễn Thị Thiềng và các tác giả, 2004). Trên thực tế, việc nhiều người di

4

cư không được đăng ký hộ khẩu thường trú tại nơi ở mới là một trong những lý do

dẫn đến khó khăn kể trên (Vũ Tuyết Loan, 2003).

Nhìn chung, mức sống của Việt Nam còn thấp. Người dân còn phải vật lộn với

công việc kiếm sống hàng ngày, nên họ không có nhiều thời gian để chăm sóc sức

khỏe cho bản thân và những người trong gia đình. Hơn nữa, hệ thống y tế của Việt

Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị

trường, hạch toán kinh tế và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trong quá trình

chuyển đổi đó, điều kiện chăm sóc sức khỏe của người dân, nhất là của những

người di cư, đã có những thay đổi đáng kể. Các thay đổi có xu hướng tích cực

nhưng cũng nảy sinh không ít vấn đề cần giải quyết. Ví dụ, người dân có thể trả cho

y tế nhiều hơn, nhưng cũng phải có nhiều dịch vụ chữa bệnh và cung cấp thuốc men

với chất lượng và giá cả khác nhau để người dân tự lựa chọn [15].

Cuộc khảo sát "Di cư và Sức khỏe" do Viện Xã hội học tiến hành năm 1997,

trên địa bàn 6 tỉnh, thành phố, cho biết gần 2/3 người di cư trả lời sức khỏe của họ

không kém hơn so với trước khi di cư. Trong khu vực thành thị được điều tra, con

số này là 58%. Mặc dù không có sự khác biệt theo giới nhưng tình trạng sức khỏe

của người di cư lại khác nhau theo nơi đến và độ dài thời gian di chuyển. Người di

chuyển tạm thời được cải thiện nhiều nhất về sức khỏe. Tỷ lệ mắc bệnh không có sự

khác biệt giữa các nhóm di cư và nhóm không di cư. Tuy nhiên, khi đau ốm, đại đa

số người di cư tìm cách tự chữa trị hoặc thậm chí không làm gì, tỉ lệ đi khám bệnh

chiếm gần 50% số người trả lời. Trong những người di cư, người di cư tạm thời tự

thuốc thang là chính và tỉ trọng đến bác sĩ hoặc cơ sở y tế là thấp nhất. Lý do họ

không có khả năng trả các chi phí. Đây chính là trở ngại của việc tiếp cận các dịch

vụ chăm sóc sức khỏe đối với người dân nhập cư. Việc mua thuốc tự điều trị là rất

dễ. Chính vì vậy, rất khó có thể kết luận là lao động đến từ ngoại tỉnh là gánh nặng

cho dịch vụ y tế ở thành thị [31].

Nghiên cứu di cư nông thôn - đô thị ở Tp. Hồ Chí Minh của VanLandingham

năm 2004 cho biết, di cư đã có ảnh hưởng đáng kể đến phúc lợi của người di cư trên

nhiều lĩnh vực. Người mới nhập cư đều gặp bất lợi hơn so với người bản địa trên

sáu lĩnh vực sức khỏe, bao gồm: sinh lý, tâm lý, tình cảm, chức năng vận động, kiến

5

thức và quan niệm về sức khỏe nói chung. Có thể nói rằng di cư nông thôn – đô thị

thường mang lại những lợi ích đáng kể về kinh tế cho gia đình ở nhà trong khi

những bất lợi về sức khỏe lại do chính người di cư gánh chịu [39]

Cuộc khảo sát "Di cư và sức khỏe" năm 1997 cũng cho một vài phát hiện lý

thú về sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ): Tưởng chừng người

di cư khó tiếp cận các dịch vụ KHHGĐ hơn thì tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh

thai (BPTT) sẽ thấp. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng các BPTT của người di cư và người

không di cư lại giống nhau. Nhận thức của người di cư về KHHGĐ cũng giống

người không di cư và mức độ chấp nhận sử dụng BPTT tăng lên đáng kể sau khi

chuyển đến nơi ở mới. Thực tế này chứng tỏ ít có khả năng người di cư làm tăng

mức sinh ở những nơi họ chuyển đến. Tuy nhiên, các kết quả cũng cho thấy, mặc dù

tỷ lệ sử dụng BPTT đã tương đối cao, vẫn có 15% số phụ nữ di cư đã từng nạo hút

thai, trong đó, số chưa có gia đình chiếm 1/3 [31].

Nếu dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK) ban đầu chất

lượng thấp thì trẻ em là nhóm bị ảnh hưởng đầu tiên. Hiện nay, các chương trình

tiêm chủng cho trẻ em đã được triển khai hiệu quả nên mọi trẻ em có thể được tiêm

chủng với chi phí rất thấp hoặc miễn phí mà không cần có đăng ký hộ khẩu hay các

thủ tục phức tạp. Nhờ vậy, hầu hết trẻ em di cư dưới 5 tuổi đều được tiêm chủng

(94,6% người di cư tạm thời, 96,7% người di cư lâu dài). Đa số trường hợp trẻ em

chưa được tiêm chủng là do còn quá nhỏ [15].

Nghiên cứu "Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những

khác biệt" do Tổng Cục Thống kê và Quỹ dân số Liên hợp quốc thực hiện năm

2011, nghiên cứu đã mô tả và phân tích khá rõ về thực trạng di cư tại Việt Nam;

những yếu tố tác động tới tình hình di cư trong nước trong đó mô tả cụ thể về khu

vực di cư, dòng di cư; những yếu tố tác động tới dòng di cư từ quá trình đô thị hóa;

đưa ra các gợi ý chính sách về vấn đề di cư ở Việt Nam trong bối cảnh đô thị hóa và

hội nhập. Nghiên cứu đã đưa ra các dự báo về tình trạng di cư từ khu vực nông thôn

ra thành thị, những tác động tích cực và tiêu cực từ vấn đề di cư. Và những hệ lụy

những khu vực thành thị đang phải đối mặt khi tiếp nhận dòng người nhập cư, có xu

hướng tăng mạnh mỗi năm, việc chăm sóc y tế, sức khỏe ở nhóm người di cư vào

6

khu vực thành thị còn chưa được đảm bảo, chính vì vậy việc hoạch định và triển

khai các chính sách trong hiện tại và tương lai cần có sự cân nhắc và sửa đổi bổ

sung để phù hợp với tình hình người dân di cư vào thành thị như hiện nay [27].

Trong nghiên cứu "Từ nông thôn ra thành phố, tác động kinh tế - xã hội của di

cư Việt Nam" được Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội thực hiện năm 2012, nghiên

cứu này đã chỉ rõ được nguồn gốc của vấn đề người dân di cư tại Việt Nam các giai

đoạn lịch sử. Đồng thời, phân tích rõ những tác động về kinh tế - xã hội đối với nơi

di cư và nơi nhập cư, trong đó nghiên cứu đưa ra những phân tích khá sâu sắc về

những tác động về cộng đồng nơi người dân di cư đi, chỉ ra những lợi ích và những

hệ lụy đối với những gia đình có người di cư ra thành thị. Bên cạnh đó, tình trạng

cuộc sống ở các khu vực nhập cư có những biến đổi khá lớn khi tiếp nhận dòng

người nhập cư vào, các thành phố lớn như: Hà Nội, TP.HCM đang phải đối mặt với

nhiều vấn đề xã hội... Đặc biệt, là việc quá tải hệ thống cơ sở hạ tầng, đời sống xã

hội có nhiều biến đổi kéo theo nhiều hệ lụy khác nhau như: Bệnh tật, chăm sóc y tế

không được đảm bảo ở nhóm lao động di cư đến, thiếu việc làm, thất nghiệp, tệ nạn

xã hội... và rất nhiều hệ quả khác. Nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp, điịnh

hướng chính sách trong việc nâng cao chất lượng sống cho nhóm dân di cư ở khu

vực thành thị, phối hợp liên ngành trong việc giải quyết vấn đề ở nhóm dân số di cư

từ nông thôn ra thành thị [32].

Nghiên cứu của tổ chức ActionAid (tổ chức quốc tế chống đói nghèo) trụ sở

tại Việt Nam, về vấn đề "Tiếp cận an sinh xã hội của người lao động nhập cư" năm

2012, nghiên cứu được tiến hành tại một số khu đô thị của Việt Nam như: TP.HCM,

Hải Phòng... Nghiên cứu đã chỉ ra nhu cầu cần thiết phải đổi mới các chính sách

hiện nay về an sinh xã hội nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của người dân di cư vào

các khu đô thị. Nghiên cứu đã đi sâu phân tích và chỉ ra được những yêu cầu về

chính sách cần hướng tới người dân di cư nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, bao

gồm: Sự chuyển dịch an sinh xã hội từ nông thôn ra thành thị; diện bao phủ bảo

hiểm y tế cho lao động di cư; những thách thức bảo đảm giáo dục cho con em người

lao động di cư; các khuynh hướng nhập cư; trình độ, năng lực của người dân di cư.

Đặc biệt, nghiên cứu đã phản ánh tình trạng lao động di cư ở khu vực các thành phố

7

lớn và gia đình của họ vẫn chưa được tiếp cận với các dịch vụ bảo hiểm y tế, dịch

vụ chăm sóc sức khỏe một cách toàn diện. Song nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng lao

động di cư cũng có những thuận lợi nhất định khi làm việc tại các cơ quan, doanh

nghiệp hiện nay họ đã đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội liên kết với một số cơ sở

y tế để khám, điều trị và chăm sóc sức khỏe định kỳ cho lao động tại các cơ quan,

song bên cạnh đó nhóm lao động di cư không chính thức việc tiếp cận với dịch vụ y

tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe có hạn chế hơn so với nhóm lao động di cư

chính thức. Nghiên cứu còn chỉ ra những định hướng chính sách quan trọng trong

việc nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân di cư nói chung

và lao dộng di cư nói riêng tại khu vực thành thị ở Việt Nam [33].

Trong luận án tiến sĩ nghiên cứu về "Di dân tự do nông thôn – đô thị với trật

tự xã hội ở Hà Nội" thực hiện năm 2014, tác giả Đinh Quang Hà đã đề cập tới vấn

đề di cư tại Việt Nam và trên thế giới, di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị, tác

giả đã nhấn mạnh và phân tích khá rõ thực trạng của vấn đề di cư tự do từ nông thôn

ra thành thị và những yếu tố tác động tới việc di cư này, đồng thời chỉ ra những hậu

quả mà việc di cư tự do đang phải đối mặt ở khu vực thành thị việc quá tải của hệ

thống cơ sở hạ tầng, ăn, ở, sinh hoạt, làm việc và các dịch vụ xã hội, chăm sóc y tế,

sức khỏe không được đảm bảo. Chính từ thực trạng di cư và những hệ lụy trên tác

giả đã đưa ra các đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề tiêu cực do tình

trạng di dân tự do đưa đến, tuy nhiên trong đề tài của mình tác giả còn chưa nhấn

mạnh được những yếu tố sâu xa liên quan đến vấn đề di dân, việc đề xuất các giải

pháp chưa mang tính cụ thể [13].

Trong "Nghiên cứu về di cư và di dân nhìn từ góc độ xã hội học" do Trung

tâm Nghiên cứu Phát triển và Khoa Xã hội học - Công tác Xã hội - Đông Nam Á

học thuộc trường Đại học Mở - TP.HCM thực hiện năm 2014; nghiên cứu đã phân

tích, chỉ rõ “Hiện tượng di cư và vấn đề di dân dưới góc nhìn xã hội học”, đưa ra

các luận điểm để chứng minh về nguồn gốc của vấn đề di cư do các yếu tố xã hội

tác động, nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng di dân ở Việt Nam qua một số thời

kì, được chứng minh qua các cuộc Tổng điều tra Dân số 1989, 1999, 2009, nghiên

cứu đã cho thấy có nhiều vùng có hiện tượng di cư. Tuy nhiên, điều này nhắc ta nhớ

8

lại lịch sử Việt Nam từ một ngàn năm nay đã có nhiều cuộc Nam tiến, những luồng

di cư đã định hình nước Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu về di cư đòi hỏi loại

hình nghiên cứu liên ngành, với các ngành như: tâm lý học, địa lý nhân văn, xã hội

học, dân số học, dân tộc học… Nghiên cứu đã chỉ ra được nguồn gốc và các yếu tố

xã hội tác động đến hoạt động di dân nhìn từ góc độ xã hội học [28].

Mặc dù đã có một số nghiên cứu về quan hệ giữa sức khoẻ và di cư được tiến

hành ở Việt Nam, nhưng hầu hết được nghiên cứu trên mẫu nhỏ và điều này gây

khó khăn cho việc phân tích toàn diện mối quan hệ này. Hiểu biết về hướng và

cường độ của mối quan hệ giữa di cư và sức khoẻ ở Việt Nam còn hạn chế. Do đó,

chúng ta biết rất ít về sự khác biệt về sức khoẻ, bao gồm cả tình trạng sức khoẻ và

hành vi chăm sóc y tế giữa những người không di cư và những người di cư ở Việt

Nam. Do đó việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của

những người di cư đến quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nhằm góp phần khắc

phục tình trạng nói trên.Như vậy, có thể thấy các tài liệu, nghiên cứu đã đề cập khá

cụ thể tới vấn đề di cư và chăm sóc sức khỏe người dân di cư, các công trình nghiên

cứu và những tài liệu đề cập tới các hình thức di dân và thực trạng hoạt động chăm

sóc sức khỏe ở nhóm dân cư này, việc nghiên cứu về vấn đề chăm sóc sức khỏe ở

nhóm dân di cư đóng vai trò khá quan trọng, những phân tích luận giải về các tài

liệu trên sẽ gióp phần cung cấp những cơ sở, những luận cứ khoa học quan trọng

cho đề tài "Các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của người di cư qua

nghiên cứu trường hợp phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, .Hà Nội” mà tác giả

đang thực hiện.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

3.1. Ý nghĩa khoa học

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các lý thuyết, các khái niệm xã hội học

vào việc mô tả thực trạng cũng như tìm hiểu các yếu tố tác động đến việc chăm sóc

sức khỏe của người di cư đến phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà

Nội. Thông qua nghiên cứu, các khái niệm về vấn đề di cư sẽ được làm sáng tỏ hơn.

Đồng thời, phát hiện ra được một số quy luật nhằm đóng góp thêm cho các nghiên

cứu xã hội học.

9

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu nhằm đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy cho sự nhìn nhận lại

các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của người di cư đến phường Vĩnh

Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội dưới góc độ xã hội học. Từ đó, nghiên

cứu đưa ra những khuyến nghị và giải pháp thiết thực nhằm tác động tích cực đến

nhận thức của người di cư trong việc chăm sóc sức khỏe.

Thông qua nghiên cứu nắm bắt được thực trạng hoạt động chăm sóc sức khỏe

của người dân di cư, các yếu tố tác động tới việc chăm sóc sức khỏe ở nhóm dân cư

này. Từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm can thiệp, trợ giúp nhóm dân cư này,

nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe phục vụ nhóm những người dân di

cư.

4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ thực trạng hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại

phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Xác định các yếu tố tác động đến vấn đề chăm sóc sức khỏe và khả năng tiếp

cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai

Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm kiểm soát vấn đề di cư, giúp

người dân di cư tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Đồng thời, nâng cao

chất lượng dịch vụ y tế trong chăm sóc sức khỏe cho người dân di cư

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

* Xây dựng cơ sở lí luận để thu thập thông tin nhằm xác định rõ thực trạng sức

khỏe và chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà

Trưng, Tp. Hà Nôi.

Tìm hiểu nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của người dân di cư để đưa ra các

biện pháp can thiệp, trợ giúp hiệu quả.

*Phân tích thực trạng chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh

Tuy

10

*Đánh giá một số yếu tố thuận lợi, khó khăn cũng như mong muốn của người

dân di cư trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe.

Tìm hiểu hoạt động trợ giúp của chính quyền địa phương đối với người dân di

cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy.

5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

Một số yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của người dân di cư đến

phường Vĩnh Tuy.

5.2. Khách thể nghiên cứu

Những người dân di cư trong độ tuổi lao động từ 16 đến 60 tuổi tại phường

Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. (Trong phạm vi giới hạn và thời

gian cho phép tôi chỉ tập trung nghiên cứu nhóm đối tượng di cư trong độ tuổi lao

động, có thời gian nhập cư liên tục tại phường Vĩnh Tuy ít nhất 5 năm gần đây có

tham gia BHYT khi tham gia khám chữa bệnh ).

Cán bộ chính quyền phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà

Nội.

5.3. Phạm vi nghiên cứu

Không gian nghiên cứu: Phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố

Hà Nội.

Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8/2014 đến tháng

03/2015.

6. Câu hỏi nghiên cứu

Thực trạng chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại địa bàn phườngVĩnh

Tuy, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội như thế nào?

Những yếu tố nào tác động mạnh nhất tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của

người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội?

Làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động chăm sóc sức khỏe, khắc phục những

khó khăn khi người di cư tiếp cận các dịch vụ y tế, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức

khỏe?

11

7. Giả thuyết nghiên cứu

Hiện tại hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh

Tuy còn gặp rất nhiều khó khăn do mức thu nhập và điều kiện kinh tế của các hộ gia

đình nhập cư tại địa bàn còn thấp.

Hoạt động chăm sóc sức khỏe của nhóm dân di cư, phụ thuộc vào nhiều yếu tố

tác động như: Vấn đề việc làm, thu nhập, mức sống, điều kiện sống, trình độ học

vấn, sự tham gia bảo hiểm y tế...

Để nâng cao hiệu quả hoạt động chăm sóc sức khỏe, khắc phục những khó

khăn khi người di cư tiếp cận các dịch vụ y tế, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe,

cần thực hiện một số giải pháp đồng bộ như: Trang bị các kiến thức về chăm sóc

sức khỏe cho nhóm dân di cư; tạo điều kiện thuận lợi để người di cư có thể tiếp cận

các dịch vụ y tế một cách thuận lợi; nâng cao thu nhập, mức sống cho bộ phận dân

di cư có đời sống khó khăn...

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

8.1. Luận về phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp định tính và định lượng

để đánh giá mức độ tham gia BHYT của nhóm đối tượng nghiên cứu và từ đó đưa

ra yếu tố nào quan trọng nhất tác động tới việc chăm sóc sức khỏe của họ.

Chúng tôi sử dụng phương pháp định tính trong nghiên cứu này để tìm hiểu tính

chất liên quan đến những cảm nhận về sức khỏe của bản thân đối tượng được

nghiên cứu. Trong số 300 đối tượng được khảo sát thì có tới 202 người tự cảm nhận

về sức khỏe của mình ở mức “trung bình”, chiếm tỷ lệ 67,3%, chiếm tỷ lệ 32,7% số

người tự đánh giá sức khỏe của bản thân “tốt”, không có đối tượng tự đánh giá sức

khỏe bản thân “yếu” và “rất yếu” (bảng 2.10. Đánh giá cảm nhận về sức khỏe hiện

tại của người di cư). Phương pháp định tính cũng chỉ ra được tính chất việc chọn lựa

hành vi của đối tượng điều tra khi họ lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh, lựa chọn

phương pháp khám chữa bệnh. Phương pháp định tính còn chỉ ra cho chúng ta biết

cụ thể nhóm đối tượng nghiên cứu sử dụng những mạng lưới xã hội nào để tiếp cận

với dịch vụ y tế và cơ sở y tế để khám chữa bệnh.

12

Phương pháp định lượng nghiên cứu trên một phạm vi rộng để đánh giá tỉ lệ tham

gia bảo hiểm y tế và tiếp cận với dịch vụ y tế của nhóm đối tượng được khảo sát.

8.2. Phương pháp phân tích tài liệu

Phân tích báo cáo đặc trưng về nhân khẩu của người nhập cư, báo cáo các

nghiên cứu về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, các tài liệu, các nghiên cứu về hoạt động

chăm sóc sức khỏe của người di cư. Cụ thể là các tài liệu như: Sách, báo cáo khoa

học, các bài viết trên tạp chí khoa học xã hội, các khóa luận tốt nghiệp, luận văn

thạc sỹ, tiến sỹ; tài liệu hội thảo... có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Nguồn tư liệu

phục vụ đề tài bao gồm các tư liệu, tài liệu của Tổng cục Thống kê, Tổng cục DS-

KHHGĐ; của Sở Lao động -Thương binh và Xã hội, Sở Nội vụ tỉnh Tp. Hà Nội và

của các cơ quan, tổ chức hành chính Nhà nước khác.

8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

Để thu thập thông tin định tính, trong nghiên cứu này tác giả tiến hành 20

phỏng vấn sâu, đối tượng là những người di cư đang trong độ tuổi lao động và cán

bộ chính quyền địa phương tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội.

Cơ cấu đối tượng phỏng vấn như sau:

Đối tượng phỏng vấn Số lượng

Người lao động 10 người

- Nam 5 người

- Nữ 5 người

Cán bộ chính quyền 10 người

8.4. Phương pháp phỏng vấn trường hợp

Trong nghiên cứu này tác giả lựa chọn phương pháp phỏng vấn trường hợp,

nhằm thu thập những thông tin cụ thể hơn về tình trạng chăm sóc sức khỏe ở từng

nhóm dân di cư đặc thù. Cơ cấu chọn như sau:

13

Chọn 3 hộ gia đình thuộc nhóm đối tượng là dân di cư đến phường Vĩnh Tuy,

quận Hai Bà Trưng, trong đó có: Một gia đình có sử dụng thẻ BHYT; một gia đình

không sử dụng thẻ BHYT; một gia đình có thẻ BHYT nhưng không sử dụng.

Với đặc điểm của các nhóm hộ gia đình di cư này là: Độ tuổi, thế hệ, số năm

di cư, mức thu nhập và nguồn thu nhập chính... Đây chính là những yếu tố tác động

tới hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở nhóm đối tượng này.

8.5. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Cũng tuân theo những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng bảng hỏi, tuy

phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi có những yêu cầu tỉ mỉ và chi tiết hơn

nhưng tất cả các câu hỏi cần phải được diễn đạt sao cho khi đưa ra ai cũng hiểu

được ý nghĩ của nó và sẵn sàng cung cấp thông tin, việc trình bày cũng phải rõ ràng,

sạch đẹp, thể hiện sự tôn trọng đối với người được nghiên cứu.

Đề tài xây dựng bộ công cụ bảng hỏi dành cho khách thể nghiên cứu là những

người dân di cư đang trong độ tuổi lao động tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà

Trưng, Tp. Hà Nội, với các câu hỏi nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc tổng

hợp số liệu nghiên cứu.

Công cụ xử lý số liệu: Phần mềm xử lý số liệu SPSS 16.0

* Bảng hỏi được xây dựng sau khi đi phỏng vấn sâu, những nội dung chính đó

là: Thông tin chung của người được điều tra bao gồm những đặc điểm nhân khẩu;

Những thông tin về điều kiện sống của hộ gia đình di cư như; Tình trạng sức khỏe

và hoạt động chăm sóc sức khỏe. Tôi sử dụng phương pháp bảng hỏi cầm tay do

vậy kết quả thu được đảm bảo 100% là chính xác.

* Cỡ mẫu: Đề tài chọn 300 mẫu, là người dân di cư đang trong độ tuổi lao

động từ 16 - 60 tuổi, có thời gian nhập cư tại phường ít nhất tại phường 5 năm và có

tham gia BHYT khi khám chữa bệnh để thu thập thông tin nghiên cứu.

* Cơ cấu mẫu định lượng: 300 người; Nguyên tắc chọn mẫu: mẫu nghiên cứu

được xác định trên cơ sở phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên, được phân theo giới

tính và nhóm tuổi, cơ cấu mẫu như sau:

14

Cơ cấu mẫu theo giới tính:

Số lượng Tỷ lệ (%) Giới tính

142 47,3 Nam

158 52,7 Nữ

300 100,0 Tổng

Cơ cấu mẫu theo nhóm tuổi:

Số lượng Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi

77 25,7 16 - 29 tuổi

95 31,6 30 - 44 tuổi

128 42,7 45 - 60 tuổi

300 100,0 Tổng

15

Điều kiện kinh tế xã hội của phườngVĩnh Tuy

Các yếu tố về chính sách

Các yếu tố nhân khẩu xã hội của người nhập cư

Hoạt động chăm sóc sức khỏe của người nhập cư khi đau ốm

Khám bệnh

Thuốc thang

Chữa bệnh

9. Khung lý thuyết

16

NỘI DUNG CHÍNH

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1. Khái niệm công cụ

1.1.1.1. Khái niệm người di cư

"Di cư theo nghĩa rộng là sự chuyển dịch bất kì của con người, trong không

gian và thời gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn; di

cư theo nghĩa hẹp là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một lãnh

thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong khoảng thời gian nhất định" [11].

Có rất nhiều khái niệm về người di cư, nhưng trong nghiên cứu này người di

cư được nói đến là những người di cư từ nơi khác đến Hà Nội để sinh sống, cụ thể

là những người nhập cư vào phường Vĩnh Tuy. (Trong giới hạn của nghiên cứu này

chúng tôi chỉ tập trung vào nhóm di cư đến phường Vĩnh Tuy trong độ tuổi lao

động từ 16 đến 60 tuổi có thời gian nhập cư liên tục ít nhất 5 năm tại phường Vĩnh

Tuy có tham gia BHYT khi khám chữa bệnh)

1.1.1.2. Khái niệm sức khỏe

“Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và

không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật” (Tổ chức Y tế

thế giới - WHO) [21].

Khái niệm này nhấn mạnh mối liên quan mật thiết giữa 3 mặt: thể chất, tâm

thần và xã hội của một cá nhân, một yếu tố bị ảnh hưởng sẽ tác động đến những mặt

khác và ảnh hưởng đến sức khỏe. Từ đó ta thấy sức khỏe không phải là một tình

trạng cố định mà thay đổi liên tục, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Theo tổ chức WHO

sức khỏe không chỉ là về thể chất bên ngoài, mà chủ yếu là do bản thân cá nhân tự

cảm nhận, tự đánh giá về tình trạng sức khỏe của họ; trong phần phỏng vấn bảng

hỏi tác giả cũng đã đặt ra câu hỏi với việc cá nhân tự cảm nhận, đánh giá về sức

khỏe của bản thân, từ đó góp phần đánh giá toàn diện về sức khỏe chung và nhu cầu

chăm sóc sức khỏe của người di cư ở khu vực phường Vĩnh Tuy.

17

Sức khỏe thể chất:

Sức khỏe thể chất được thể hiện một cách tổng quát sự sảng khoái và thoải

mái về thể chất. Càng sảng khoái, thoải mái, càng chứng tỏ bạn là người khỏe

mạnh. Cơ sở của sự sảng khoái, thoải mái thể chất là:

Sức lực: Khả năng hoạt động của cơ bắp mạnh, có sức đẩy, sức kéo, sức nâng

cao…do đó làm công việc chân tay một cách thoải mái như mang vác, điều khiển

máy móc, sử dụng công cụ…

Sự nhanh nhẹn: Khả năng phản ứng của chân tay nhanh nhạy, đi lại, chạy nhảy

làm các thao tác kỹ thuật một cách nhẹ nhàng, thoải mái.

Sự dẻo dai: Làm việc hoặc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục mà

không cảm thấy mệt mỏi.

Khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh: ít ốm đau hoặc nếu có bệnh

cũng nhanh khỏi và chóng hồi phục.

Khả năng chịu đựng được những điều kiện khắc nghiệt của môi trường: Chịu

nóng, lạnh, hay sự thay đổi đột ngột của thời tiết. Cơ sở của các điểm vừa nêu chính

là trạng thái thăng bằng của mỗi hệ thống và sự thăng bằng của 4 hệ thống: Tiếp

xúc, vận động, nội tạng và điều khiển của cơ thể.

Sức khỏe tinh thần:

Sức khỏe tinh thần là hiện thân của sự thỏa mãn về mặt giao tiếp xã hội, tình

cảm và tinh thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm giác dễ chịu, cảm xúc

vui tươi, thanh thản, ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời, ở những quanniệm sống tích

cực, dũng cảm, chủ động, ở khả năng chống lại những quan niệm bi quan và lối

sống không lành mạnh.

Có thể nói, sức khỏe tinh thần là nguồn lực để sống khỏe mạnh, là nền tảng

cho chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu quả

với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khỏe tinh thần cho ta khí thế để

sống năng động, để đạt được các mục tiêu đặt ra trong cuộc sống và tương tác với

người khác với sự tôn trọng và công bằng. Sức khỏe tinh thần cho ta khí thế để sống

năng động, để đạt được các mục tiêu đặt ra trong cuộc sống và tương tác với người

khác với sự tôn trọng và công bằng. Sức khỏe tinh thần chính là sự biểu hiện nếp

18

sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức. Cơ sở của sức khỏe tinh thần là sự thăng

bằng và hài hòa trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm.

Sức khỏe xã hội:

Sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng được gọi là sức khỏe xã hội như câu

nói của Mác: “Con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Sức khỏe xã hội

thể hiện ở sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa các thành

viên: gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công cộng cơ quan. Nó thể hiện ở

sự được chấp nhận và tán thành của xã hội. Càng hòa nhập với mọi người, được

mọi người đồng cảm, yêu mến càng có sức khỏe xã hội tốt và ngược lại. Cơ sở của

sức khỏe xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá nhân với hoạt động

và quyền lợi của xã hội, của những người khác, là sự hòa nhập giữa cá nhân, gia

đình và xã hội.

Ba yếu tố sức khoẻ liên quan chặt chẽ với nhau. Nó là sự thăng bằng, hài hoà

của tất cả những khả năng sinh học, tâm lý và xã hội của con người. Nó là cơ sở

quan trọng tạo nền tảng cho hạnh phúc con người [21].

1.1.1.3. Khái niệm chăm sóc sức khỏe

"Chăm sóc sức khỏe là những chăm sóc sức khoẻ thiết yếu, bằng các phương

pháp và kỹ thuật thực hành có cơ sở khoa học, có thể tới được mọi người, mọi gia

đình trong cộng đồng, được họ chấp nhận và tích cực tham gia, với mức chi phí mà

người dân và Nhà nước có thể cung ứng được" [7].

"Chăm sóc sức khỏe là việc làm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt (nhu

cầu đầy đủ, được vui chơi giải trí…), để đảm bảo trạng thái thỏa mãn về thể chất,

tinh thần, xã hội của mỗi thành viên trong xã hội" [14].

Từ khái niệm chăm sóc sức khỏe, trong nghiên cứu này tác giả đưa ra khái

niệm về chăm sóc sức khỏe người di cư như sau: “Chăm sóc sức khỏe người di cư

là giúp người dân di cư có thể tiếp cận các dịch vụ y tế, nhằm thỏa mãn các nhu

cầu về chăm sóc sức khỏe tâm sinh lý, giúp duy trì thể chất và tinh thần ở trạng thái

bình thường”.

Trong khái niệm chăm sóc sức khỏe của Bộ Y tế, vấn đề chăm sóc sức khỏe

cho người dân được thực hiện bằng nhiều biện pháp tổng hợp, nhằm huy động sự

19

tham gia tích cực và tự nguyện, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của họ. Trong

phạm trù chăm sóc sức khỏe, có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau; nhưng

trong giới hạn này, đề nghiên cứu chỉ đề cập đến chăm sóc sức khỏe cho người di

cư ít nhất 5 năm liên tục tại phường Vĩnh Tuy khi sử dụng BHYT để tham gia chăm

sóc sức khỏe, khám chữa bệnh.

1.1.1.4. Khái niệm tác động

“Tác động dùng để chỉ những hệ quả và những ảnh hưởng của một hành

động, một quyết định, một thông điệp hoặc một cải cách thể chế đối với các cá nhân

và môi trường xã hội. Trong lĩnh vực xã hội học kinh tế hoặc xã hội học về chính

sách công, khái niệm này được sử dụng để chỉ những hệ quả trực tiếp hay gián tiếp,

hệ quả ngay tức thì hoặc hệ quả xa của một hành động” [23].

Trong nghiên cứu này việc người di cư lựa chọn tham gia BHYT, lựa chọn

tuyến khám chữa bệnh, cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe đều có tác động

trực tiếp hoặc gián tiếp đối với bản thân hoặc gia đình họ, tình trạng sức khỏe hiện

tại của họ chính là hệ quả tác động của việc đưa ra quyết định lựa chọn hình thức,

cách thức chăm sóc sức khỏe, cơ sở chăm sóc sức khỏe; trong nghiên cứu này tác

giả sẽ vận dụng khái niệm này để lý giải về các yếu tốc tác động tới chăm sóc sức

khỏe ở người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy.

1.1.2. Lý thuyết ứng dụng

1.1.2.1. Lý thuyết nhu cầu

Nhu cầu là đòi hỏi tự nhiên hoặc xã hội của cá nhân của con người có đặc

trưng trong một môi trường văn hóa. Ngoài tâm lý học, xã hội học cũng rất quan

tâm nghiên cứu nhu cầu bởi vì mọi cấu trúc xã hội tồn tại được là nhờ sự thỏa mãn

nhu cầu. Khái niệm này được nghiên cứu để nhấn mạnh rằng mỗi môi trường văn

hóa đặc trưng sẽ tạo nên khuôn mẫu về nhu cầu của con người sống trong đó và cái

cách thức người ta sống cũng đặc trưng theo môi trường văn hóa đó. Khác với tâm

lý học, xã hội học nghiên cứu quá trình xã hội hóa các nhu cầu của những con người

có đặc trưng lối sống giống nhau.

20

Theo Maslow thì nhu cầu của con người có thể được xếp thành thứ bậc từ thấp

đến cao, từ sơ cấp đến cao cấp

* Bậc sơ cấp nhu cầu về sinh lý và an toàn

Nhu cầu về sinh lý: là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như

nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.Là nhu cầu cơ bản

nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những

nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là đối với những

nhóm người dễ bị tổn thương, yếu thế trong xã hội vì họ bị hạn chế nhiều hoạt động

và các chức năng xã hội bị thiếu hụt. Maslow quan niệm rằng, khi những nhu cầu

này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu

khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.

Nhu cầu về an toàn: An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường không

nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người.Nội dung

của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các

nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn

kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự… Đây là những nhu cầu

khá cơ bản và phổ biến của con người.

Nhu cầu bậc cao cấp xảy ra là khi nhu cầu bậc thấp hơn đã được đáp ứng thì

nhu cầu bậc cao hơn trở thành nguồn động lực mới thúc đẩy hành động của con

người. Không loại trừ khả năng có sự tương tác giữa các nhu cầu với nhau hay nói

cách khác là cùng lúc 1 cá nhân có nhiều nhu cầu dẫn đến mẫu thuẫn giữa các nhu

cầu. Khi các nhu cầu tối thiểu về thu nhập, mức sống, điều kiện sống của người dân

di cư được cải thiện, nâng cao, các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày được đáp ứng tốt,

thì họ sẽ có điều kiện để chăm sóc sức khỏe một cách tốt hơn, họ có thể dành ra

những khoản chi phí về tài chính phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa

bệnh.

Lý thuyết này sẽ góp phần lý giải, phân tích nhưng nhu cầu cơ bản của nhóm

đối tượng là người dân di cư, đánh giá những nhu cầu từ thấp đến cao của người

dân di cư, từ nhu cầu về vật chất: ăn, mặc, ở đi, lại, giao tiếp... đến những nhu cầu

cơ bản ở bậc cao hơn như: nhu cầu được khám chữa bệnh, được hưởng các chính

21

sách, dịch vụ khám chữa bệnh bẳng BHYT, khi họ tìm cách thảo mãn những nhu

cầu này cũng là khi họ gặp phải những thuận lợi, khó khăn có tác động trực tiếp tới

họ, lý thuyết góp phần chỉ ra nhu cầu chung và những nhu cầu cốt lõi về hoạt động

chăm sóc sức khỏe ở nhóm người dân di cư.

1.1.2.2. Lý thuyết lựa chọn hợp lý

Friedman và Hechter đã đưa ra lý thuyết lựa chọn hợp lí với mục đích là các

chủ thể (actor). Cả hai tác giả không quan tâm đến tính chất sở thích hay là cơ sở

tạo ra sự mong muốn (nhu cầu) của chủ thể mà chủ yếu quan tâm đến sự lựa chọn

của chủ thể phù hợp với hệ thống sở thích của họ. Nghĩa là không quan tâm đến cái

mà chủ thể mong muốn mà chỉ quan tâm đến cách mà chủ thể sử dụng để đạt đến

mục đích cuối cùng và kết quả đạt được có phù hợp với mong muốn của chủ thể hay

không.

Friedman và Hechter cho rằng đối với chủ thể thì không có nhiều sự lựa chọn

hay cơ may có sẵn bởi trên thực tế không có nhiều cơ may cho các trường hợp. Như

vậy, bắt buộc họ phải có sự lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu hay những sở

thích cơ bản, cần thiết nhất và đạt đến mục đích cuối cùng. Nhưng trong khi đó chủ

thể cũng luôn có xu hướng tính đến lợi ích kế tiếp của họ nên hai ông đã đặt vấn đề

trong sựu lựa chọn của chủ thể có xét đến chi phí (cost) với cái mà anh ta đạt được,

có tính đến khả năng thực hiện của bản thân. Nếu chủ thể nhận thức mục đích với

giá trị cao nhất không phù hợp với khả năng hiện tại của bản thân thì anh ta dễ dàng

lựa chọn một phương án khác phù hợp với khả năng của anh ta hơn.

Tuy nhiên, ông phát hiện ra chủ thể trong quá trình hành động chịu tác động

của hai nhóm yếu tố:

Thứ nhất, sự hiếm hoi của các tiềm năng. Mỗi chủ thể hành động có các tiềm

năng khác nhau cũng như cách thâm nhập khác nhau vào các tiềm năng khác nhau.

Trong đề tài này, có thể hiểu tiềm năng là mức sống, thông tin về siêu thị, về hàng

hoá, dịch vụ… của người tiêu dùng. Đối với những người có nhiều tiềm năng, mục

đích có thể đạt được dễ dàng hơn so với những người có ít tiềm năng. Liên quan

đến vấn đề tiềm năng là vấn đề chi phí, giá phải trả. Trong việc theo đuổi mục đích,

các chủ thể phải quan tâm đến giá của hành động lôi cuốn nhất kế tiếp của họ. Các

22

chủ thể có thể chọn cách không theo đuổi mục đích có giá trị cao nhất nếu cơ may

quá ít và tiềm năng của bản thân là không đáng kể. Tóm lại, các chủ thể hành động

luôn tối đa hoá điều lợi cho mình.

Thứ hai, các thể chế xã hội. Các thể chế xã hội đã áp đặt các khuôn mẫu hành

động cho các cá nhân thông qua các tiêu chí, các qui luật, các nguyên tắc tạo ra sự

ảnh hưởng có hệ thống tới các kết quả xã hội.

Vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu này, có thể thấy khi ốm đau đa phần người

dân di cư do điều kiện sống, thu nhập và mức sống còn thấp nên khi ốm đau, hoặc

có nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh họ đều lựa chọn những hình thức

hợp lý, thuận tiện và phù hợp nhất với điều kiện và khả năng họ có thể chi trả, có

người lựa chọn hình thức tự mua thuốc khám tại nhà, có người lại khám chữa bệnh

tại các cơ sở y tế gần nhà, y tế tuyến cơ sở để ít tốn kém về chi phí; còn những

người có điều kiện hơn về kinh tế thì họ lại lựa chọn các cơ sở y tế tuyến trên. Tuy

nhiên, phần lớn người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy khi ốm đau và có nhu cầu

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, phần lớn họ vẫn lựa chọn các cơ sở y tế tuyên

dưới, gần nhà, nếu bệnh tật ít nghiêm trọng họ tự mua thuốc và điều trị tại nhà cho bớt

tốn kém về chi phí.

1.1.3. Quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước về chăm sóc sức

khỏe cho người dân

Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 1989. Luật

gồm 11 Chương và 55 Điều, quy định về: Quyền và trách nhiệm của cá nhân, các cơ

quan tổ chức trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Chương 4 nhấn mạnh

đến hoạt động chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, Chương 6 về

phòng và chữa bệnh cho nhân dân. Luật đã cụ thể hóa các đường lối, chủ trương

chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân

dân, nhất là những nhóm đối tượng đặc thù trong xã hội

Luật Bảo hiểm y tế, ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2008, bao gồm 10

Chương và 52 Điều, quy định: Quyền, lợi ích, trách nhiệm của các cá nhân, cơ

quan, tổ chức trong việc thực hiện Luật Bảo hiểm y tế; quy định đối tượng, mức

đóng, trách nhiệm và phương hướng đóng Bảo hiểm y tế; thẻ bảo hiểm y tế và

23

những đối tượng được ưu đãi về sử dụng thẻ BHYT; phạm vi được hưởng lợi ích

của thẻ BHYT đối với các nhóm đối tượng khác nhau; tổ chức khám và chữa bệnh

cho người tham gia BHYT; thanh toán chi phí khám chữa bệnh bằng dịch vụ BHYT

ở các nhóm đối tượng; quỹ BHYT; quyền và trách nhiệm của các bên liên quan đến

dịch vụ BHYT.

Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai

đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ ban hành

ngày 10 tháng 1 năm 2013. Chiến lược đã đặt ra mục tiêu "Bảo đảm mọi người dân

được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng

các dịch vụ y tế có chất lượng. Người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát

triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật, nâng cao thể lực, tăng

tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số". Đặc biệt, đề ra các giải pháp trọng tâm nhằm

bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn

đến năm 2030 được tốt nhất và hiệu quả nhất và công tác phối hợp tổ chức thực

hiện chiến lược của các bên liên quan.

Nghị định số 117/2014/NĐ-CP, ban hành ngày 08 tháng 12 năm 2014, Quy

định về Y tế xã, phường, thị trấn của Thủ tướng Chính Phủ; quy định cụ thể về chức

năng, nhiệm vụ cơ chế hoạt động của y tế xã/phường trong việc khám chữa bệnh

cho nhân dân địa phương.

Thông tư Liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn và thực hiện

chính sách BHYT của Bộ Y tế và Bộ Tài Chính, quy định: Đối tượng tham gia,

phương thức đóng và trách nhiệm đóng BHYT; đối tượng được cấp thẻ BHYT; tổ

chức khám chữa bệnh bằng BHYT; thanh toán phí khám chữa bệnh giữa các bên

liên quan đến BHYT; quản lý và sử dụng quỹ BHYT.

Thông tư số 37/2014/TT/BYT, do Bộ Y tế ban hành ngày 17 tháng 11 năm

2014, quy định: Hướng dẫn khám chữa bệnh, chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh

bằng dịch vụ BHYT, các cơ sở khám chữa bệnh bằng BHYT, đăng ký khám chữa

bệnh bằng BHYT, chuyển tuyến khám chữa bệnh bằng BHYT.

24

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.2.1. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu

Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, là địa bàn có

vinh dự được mang tên hai vị Nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm

của dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Vị trí địa lý: Quận Hai Bà Trưng phía Đông giáp sông Hồng, qua bờ sông là

quận Long Biên; phía Tây giáp quận Đống Đa và một phần nhỏ giáp quận Thanh

Xuân; phía Nam giáp quận Hoàng Mai; phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm.

Diện tích tự nhiên: 9,62 Km2. Dân số: 378.000 người (năm 2009)

Lịch sử hình thành:

Trước đây, vùng đất Hai Bà Trưng thuộc các tổng Hậu Nghiêm (sau đổi là

Thanh Nhàn), Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên), Tiền Nghiêm (sau đổi là Vĩnh

Xương) thuộc huyện Thọ Xương cũ; một số xã của huyện Thanh Trì, thuộc trấn Sơn

Nam Thượng.

Từ năm 1954-1961, vùng đất Hai Bà Trưng gồm các khu phố mang tên Bạch

Mai, Hai Bà, Hàng Cỏ và một phần đất thuộc quận VI ngoại thành Hà Nội.

Từ năm 1961-1981, gọi là khu Hai Bà (sau gọi là khu Hai Bà Trưng).

Tháng 6/1981, khu Hai Bà Trưng chính thức gọi là quận Hai Bà Trưng gồm 22

phường: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi Thị Xuân, Phố Huế, Ngô Thì Nhậm, Phạm

Đình Hổ, Đồng Nhân, Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh Lương, Thanh Nhàn, Cầu

Dền, Bách Khoa, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương

Định, Đồng Tâm, Giáp Bát, Tương Mai.

Ngày 2/6/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 173-HĐBT,

thành lập phường Mai Động thuộc quận Hai Bà Trưng trên cơ sở điều chỉnh diện

tích và nhân khẩu của thôn Mai Động và xóm Mơ Táo của xã Hoàng Văn Thụ thuộc

huyện Thanh Trì. Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 23 phường.

Ngày 14/3/1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 42-HĐBT,

thành lập thêm phường Tân Mai trên cơ sở tách từ phường Giáp Bát. Sau khi điều

chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 2 phường.

25

Tháng 10/1990, xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì được sáp nhập vào

quận Hai Bà Trưng và đổi thành phường Hoàng Văn Thụ. Sau khi điều chỉnh, quận

Hai Bà Trưng có 25 phường.

Ngày 6/11/2003, Chính phủ ra Nghị định số 132/2003/NĐ-CP, điều chỉnh toàn

bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường Mai Động, Tương Mai, Tân Mai,

Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ (quận Hai Bà Trưng) về thuộc Quận Hoàng Mai quản lý.

Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng còn 20 phường. Các đơn vị hành chính:

Quận Hai Bà Trưng hiện có 20 phường: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi Thị Xuân,

Phố Huế, Ngô Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân, Đống Mác, Bạch Đằng,

Thanh Lương, Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh

Mai,Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đồng Tâm. Trụ sở UBND quận: Số 32

phố Lê Đại Hành.

Tình hình kinh tế xã hội

Về kinh tế: Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có nhiều nhà máy, xí nghiệp của

Trung ương và Hà Nội như: Dệt Kim Đồng Xuân; cảng Hà Nội; cụm công nghiệp

Minh Khai-Vĩnh Tuy với hàng chục xí nghiệp nhà máy, chủ yếu thuộc các ngành

dệt, cơ khí, chế biến thực phẩm.Kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn quận phát

triển nhanh. Hiện trên địa bàn quận có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70% là

thương mại, dịch vụ, còn lại là hoạt động công nghiệp. Năm 2008, giá trị sản xuất

công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du lịch, dịch vụ

tăng hơn15%; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận đạt 933,844 tỷ đồng.

Về công tác xã hội: Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây dựng 167

nhà đại đoàn kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thoát nghèo, trên 33.000 lao động

được giới thiệu việc làm. Đến nay, số hộ nghèo trong toàn quận còn 1.022 hộ

(chiếm 1,35%).

Công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; công tác giáo dục đào tạo; công

tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể

thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua. Các danh lam thắng

cảnh và di tích nổi tiếng: Quận Hai Bà Trưng có 91 di tích lịch sử, văn hóa và cách

mạng (đã có 33 di tích đã được xếp hạng). Trong đó có những di tích nổi tiếng như:

26

Chùa Hương Tuyết, Chùa Liên Phái, Chùa Thiền Quang-Quang Hoa-Pháp Hoa,

Đền Hai Bà Trưng, Đình Tương Mai, Di tích cách mạng 152 Bạch Mai, Khu tưởng

niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ, Khu tưởng niệm nạn đói năm 1945, Di tích lịch sử

cách mạng kháng chiến 18 Nguyễn Du…

Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có hai công viên lớn là Công viên Thống

Nhất và Công viên Tuổi trẻ. Trong những năm tới các công viên này sẽ được cải tạo

theo hướng hiện đại và đa dạng các hoạt động, góp phần nâng cao đời sống văn hóa,

tinh thần cho dân cư trên địa bàn quận và thu hút khách du lịch ở các nơi khác. Là

cửa ngõ phía Nam của kinh thành Thăng Long xưa, nên quận Hai Bà Trưng vẫn còn

dấu tích của ba cửa ô là ô Đồng Lầm, còn gọi là ô Kim Liên ở chỗ ngã tư đường

Kim Liên-Đại Cồ Việt; ô Cầu Dền, còn gọi là ô Thịnh Yên ở cuối phố Huế giáp phố

Bạch Mai; ô Đống Mác tức là ô Lương Yên, ở ngã ba Lò Đúc-Trần Khát Chân [29].

1.2.2. Đặc trưng về hành vi chăm sóc sức khỏe ở nhóm người dân di cư tại

địa bàn nghiên cứu

Trong những năm gần đây, tỷ lệ người dân di cư ở các địa phương khác đến

phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng ngày càng nhiều do nhu cầu việc làm. Bên

cạnh đó, chính sự phát triển của nền kinh tế - xã hội tại phường Vĩnh Tuy với nhiều

cơ quan, doanh nghiệp mới được hình thành, đây chính là điều kiện thu hút người

dân nhập cư nói chung và lao động nhập cư nói riêng. Nắm bắt được tình hình dân

di cư ở các địa phương khác đến, chính quyền địa phương đã phối hợp với các cơ

quan doanh nghiệp, các tổ chức tại địa phương ổn định đời sống cho người dân di

cư đến địa phương.

Địa phương thường xuyên tổ chức các đợt khám và phát hiện bệnh sớm cho

trẻ em ở những gia đình nhập cư. Đối với người trong độ tuổi lao động, địa phương

quán triệt các doanh nghiệp, cơ quan thực hiện trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế cho

người lao động nhập cư để việc tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở

nhóm dân di cư được thuận lợi và thường xuyên hơn. Địa phương còn tiến hành

tuyên truyền thường xuyên những kiến thức về giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh

trong gia đình và ngoài cộng đồng nhằm phòng tránh các vấn đề bệnh tật phát sinh

27

và các bệnh lây nhiễm qua môi trường, thường xuyên kêu gọi các gia đình di cư đến

địa phương tổ chức các đợt vệ sinh môi trường chung với nhân dân địa phương,

nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh chung nhằm nâng cao khả năng phòng chống bệnh

tật.

Người dân di cư ở các địa phương khác đến đa phần trong độ tuổi lao động,

nhiều người họ đã dịnh cư ở đây lâu và mang gia đình ra ngoài này luôn. Tuy nhiên,

có một đặc điểm là điều kiện sống của họ còn chưa đảm bảo, mang tính tạm bợ do

điều kiện việc làm, thu nhập và mức sống thấp. Chính vì vậy việc chăm sóc sức

khỏe, khám chữa bệnh ở nhóm người dân di cư còn chưa được thường xuyên. hàng

năm thống kê của địa phương thì tình trạng bệnh tật, sức khỏe yếu phát sinh ở

nhóm, người dân di cư đến chiếm tỷ lệ cao, đáng chú ý là nhiều trường hợp cả gia

đình vợ chồng trẻ tuổi di cư ra ngoài này, khi sinh con nhỏ điều kiện kinh tế, nơi

sinh hoạt còn nhiều khó khăn vì vậy trẻ em trong các gia đình di cư cũng rất hay bị

ốm đau, bệnh tật.

Hàng năm phường Vĩnh Tuy kết hợp với trạm y tế và trung tâm y tế quận Hai

Bà Trưng tổ chức các chương trình khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân địa

phương, tiêm phòng cho trẻ nhỏ và một số hoạt động tuyên truyền về chăm sóc sức

khỏe, cách phòng tránh bệnh tật. Chính quyền địa phương luôn kêu gọi người dân di

cư hiện đang sinh sống và làm việc tại phường Vĩnh Tuy tham gia các hoạt động

chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh mà địa phương tổ chức. Tuy nhiên theo thống

kê của địa phương thì có 2 hình thức di cư ở người di cư tại phường Vĩnh Tuy, đó

là:

Di cư vì mục đích thay đổi môi trường sống:Hầu như hình thức di cư này rất

ít, chỉ tập trung ở nhóm người di cư do ở địa phương họ việc ăn ở, sinh hoạt không

phù hợp thì họ có ý định di cư đi nơi khác, hoặc họ muốn di cư đến khu vực để có

môi trường sống tốt hơn, để con cái họ thậm chí chính gia đình họ có cơ hội được

thay đổi môi trường sống và tiếp cận với những điều kiện sống khá hơn. Tuy nhiên,

trong thành phần này cũng có người khi điều kiện kinh tế khá hơn họ muốn chuyển

đến địa phương để sinh sống, làm việc phù hợp với điều kiện việc làm, thu nhập của

họ.

28

Di cư vì mục đích tìm kiếm việc làm, cải thiện thu nhập: Hình thức di cư này

chiếm tỷ lệ cao, thường tập trung ở những người trong độ tuổi lao động. Hiện nay,

do được đầu tư phát triển vì vậy phường Vĩnh Tuy là nơi tập trung của hàng trăm

đơn vị doanh nghiệp, các công ty, đây chính là yếu tố thu hút lao động nhập cư tại

địa bàn. Họ từ các địa phương khác đến để làm việc và cải thiện thu nhập, có những

người lại ở các địa phương khác trong Tp. Hà Nội họ thấy môi trường làm việc và

thu nhập ở các doanh nghiệp tại đây có nhiều thuận lợi hơn thì họ di cư đến. Nhìn

chung, dòng di cư của nhóm người lao động rất đa dạng, đặc điểm và nguyên nhân

di cư ở họ cũng có sự khác nhau, song điểm chung của họ là nhằm mục đích tìm

việc làm và ổn định thu nhập. Đây là lý do di cư phổ biến ở người dân nông thôn

hiện nay, đời sống kinh tế-xã hội có những biến đổi, tác động của nền kinh tế thị

trường khiến cho một lực lượng lớn lao động từ nông thôn di cư ra khu vực thành

thị, dân số phường Vĩnh Tuy nhiều năm trở lại đây cũng có những thay đổi lớn do

tác động của dòng người nhập cư hiện nay. Bên cạnh đó, giai đoạn gần đây, với

chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội được triển khai rộng rãi, đạt được

những thành tựu lớn về mọi mặt, vì vậy phường Vĩnh Tuy cũng chính là địa bàn thu

hút một lực lượng lao động thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, phục vụ hoạt động

sản xuất [30].

Nhìn chung Vĩnh Tuy là một phường có địa bàn tương đối rộng, hàng năm có số

dân nhập cư tương đối lớn. Cụ thể điều tra trên địa bàn năm 2014, phường Vĩnh

Tuy có gần 40.000 người thì có trên 4 nghìn người là dân nhập cư, trong đó số dân

trong độ tuổi lao động chiếm 70-80%. Nhà máy, xí nghiệp tại phường cũng tương

đối lớn, thu hút hàng trăm công nhân mỗi năm. Do đó vấn đề quản lý nhân khẩu

cũng như vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhóm nhập cư là yếu tố quan tâm hàng đầu

của chính quyền địa phương.

29

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI DÂN DI CƢ

TẠI PHƢỜNG VĨNH TUY

2.1. Thực trạng cảm nhận về sức khỏe của ngƣời dân di cƣ tại địa bàn

nghiên cứu

2.1.1. Đặc điểm của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy

2.1.1.1. Về nhóm tuổi

Bảng 2.1 Thể hiện nhóm tuổi của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh

Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.1. Nhóm tuổi của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Nhóm tuổi

16-29 30-44 45-60 Tổng 77 95 128 300

25,7 31,7 42,7 100,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong số 300 người được khảo sát có độ tuổi từ 16 đến 60 tuổi, nhóm tuổi từ

45-60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,7%, nhóm tuổi này đa phần đã có thời gian di

cư đến địa bàn phường Vĩnh Tuy lâu hơn so với 2 nhóm tuổi còn lại, việc làm và

thu nhập cũng có sự ổn định hơn so với 2 nhóm tuổi 16-29 và 30-44; Tỷ lệ này có

chiều hướng giảm ở nhóm tuổi thấp hơn với 31,7% (nhóm tuổi 30-44) và 25,7%

(nhóm tuổi 16-29). Có nhiều yếu tố và nguyên nhân tác động khiến cho có sự chênh

lệch về độ tuổi ở nhóm dân di cư như: Điều kiện sống, điều kiện thu nhập, mức

sống, việc làm... Những người trong độ tuổi và nhóm tuổi khác nhau thì tình trạng

sức khỏe cũng có sự khác nhau, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe, về dịch vụ y tế

khám chữa bệnh cũng có sự khác nhau rõ rệt. Đây là đặc điểm quan trọng có mối

liên hệ với các hoạt động sinh hoạt, làm việc và chăm sóc sức khỏe ở nhóm người

dân di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy.

30

2.1.1.2. Về giới tính

Bảng 2.2 Thể hiện giới tính của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh

Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.2. Giới tính của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Giới tính

Nam 142 47,3

Nữ 158 52,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được phỏng vấn, số lượng nữ giới chiếm tỷ lệ cao

hơn so với nam giới. Cụ thể nữ giới chiếm 52,7% (tương đương với 158 người) và

nam giới chiếm thấp hơn là 47,3% (tương đương với 142 người). Như vậy, trong

nhóm người dân di cư được chọn, theo tỷ lệ mẫu ngẫu nhiên thì tỷ lệ nữ giới nhiều

hơn nam giới. Điều kiện sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

cũng có sự khác biệt rõ rệt ở nam giới và nữ giới.

2.1.1.3. Về tình trạng hôn nhân

Bảng 2.3 Thể hiện tình trạng hôn nhân của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.3.Tình trạng hôn nhân của đối tượng điều tra (Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ

Độc thân Đang có vợ/chồng Tổng

26,3 79 73,7 221 100,0 300 (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người tham gia điều tra, đa phần đều trong tình trạng hôn

nhân là đang có vợ/chồng, chiếm hơn 70% số người tham gia điều tra với 73,7%; tỷ

lệ còn lại là những người sống độc thân chiếm 26,3%. Không có người tham gia

điều tra ở tình trạng hôn nhân khác như: Ly hôn, ly thân, góa...Tình trạng hôn nhân

cũng là một trong những yếu tố phản ánh hiện trạng đời sống của của nhóm dân di

31

cư, cũng như vai trò của họ trong các mối quan hệ gia đình. Tình trạng hôn nhân

phản ánh tình trạng mối quan hệ trong gia đình khi ở nơi ở mới, đây cũng là một

đặc điểm tác động tới điều kiện sống, sinh hoạt và các hoạt động chăm sóc sức khỏe

của nhóm đối tượng khảo sát tại địa bàn.

2.1.1.4. Về trình độ học vấn

Bảng 2.4 thể hiện trình độ học vấn của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.4.Trình độ học vấn của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Trình độ học vấn

THCS 50 16,7

THPT 105 35,0

Trung cấp 72 24,0

Cao đẳng, Đại học 68 22,7

Trên Đại học 5 1,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Tại thời điểm nghiên cứu nhóm những người dân di cư tham gia khảo sát,

chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm những người có trình độ tốt nghiệp THPT với 35,0% ;

chiếm tỷ lệ cao thứ hai là nhóm những người có trình độ Trung cấp chiếm 24,0% ;

nhóm những người có trình độ Cao đẳng – Đại học chiếm tỷ lệ trung bình với

22,7%; nhóm người tốt nghiệp THCS chiếm tỷ lệ cũng rất thấp là 16,7% . Chiếm tỷ

lệ thấp nhất ở trình độ trên Đại học với 1,7% .. Như vậy, có thể thấy khá rõ trình độ

học vấn của nhóm lao động di cư ở mức trung bình, họ thường lao động, sản xuất

trong các nhà máy, xí nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn phường Vĩnh Tuy.

Trình độ học vấn của nhóm dân số di cư là một trong những yếu tố tác động

tới việc làm, lĩnh vực nghề nghiệp mà họ đang tham gia, chi phối đời sống kinh tế,

thu nhập, mức sống của họ; từ đó có thể thấy những người di cư có trình độ học vấn

cao họ thường có cuộc sống và việc làm ổn định hơn so với các nhóm có trình độ

học vấn thấp; những người có trình độ học vấn thấp công việc và thu nhập chưa ổn

32

định, có tác động khá lớn tới đời sống và các hoạt động hằng ngày của họ. Đặc điểm

về trình độ học vấn phản ánh khả năng hiểu biết của nhóm đối tượng điều tra, nó tác

động tới sự hiểu biết về tình trạng sức khỏe, việc tham gia các hoạt động chăm sóc sức

khỏe của đối tượng.

2.1.1.5. Về nghề nghiệp

Bảng 2.5 thể hiện tình trạng nghề nghiệp của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.5. Nghề nghiệp của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Nghề nghiệp

Công nhân 216 72,0

Giáo viên 13 4,3

Kinh doanh, buôn bán 65 21,7

Kỹ sư, bác sĩ 6 2,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ kết quả điều tra 300 người cho thấy, số người dân di cư hiện đang có

nghề nghiệp là công nhân chiếm hơn 70% tổng số người tham gia điều tra với

72,0%; Nghề kỹ sư, bác sĩ chiếm tỷ lệ thấp nhất với 2,0% do đây là những nghề đòi

hỏi trình độ học vấn cao nên tỷ lệ lao động di cư ở nhóm nghề này thấp; Nghề giáo

viên chiếm tỷ lệ cũng rất thấp với 4,3% và chiếm tỷ lệ trung bình với 21,7% ở nhóm

nghề kinh doanh – buôn bán. Như vậy, có thể thấy rằng do yếu tố về tay nghề,

chuyên môn, trình độ học vấn và nhiều yếu tố khác tác động; vì vậy, đa phần người

lao động di cư tại phường Vĩnh Tuy chủ yếu làm công nhân tại các nhà máy, xí

nghiệp, các xưởng sản xuất và các công ty doanh nghiệp đây là thực trạng phổ biến

ở nhiều địa bàn có dân di cư đến; rất ít người lao động di cư làm ở các ngành nghề

khác.

Nghề nghiệp của nhóm người dân di cư rất đa dạng, họ tham gia nhiều vào

tất cả các hoạt động lao động sản xuất thuộc các lĩnh vực. Tuy nhiên, nghề nghiệp

33

chính của họ là công nhân tại các nhà máy, công ty, xí nghiệp: Nam giới thường

làm công nhân kỹ thuật tại các nhà máy, xưởng sản xuất, các công ty cư khí, kỹ

thuật; trong khi nữ giới thường làm công nhân tại các: nhà máy may, dịch vụ ăn

uống, bán hàng... Và một bộ phận có trình độ chuyên môn cao thì hoạt động trong

các lĩnh vực khác như: Kỹ sư, bác sĩ, giáo viên... họ có đời sống ổn định và thu

nhập khá hơn so với nhóm lao động di cư có nghề nghiệp là công nhân. Nghề

nghiệp là một trong những yếu tố tác động trực tiếp tới tình trạng sức khỏe và hoạt

động sử dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở nhó đối tượng điều

tra, do những người làm ở môi trường làm việc khó khăn, độc hại thì nhu cầu về

chăm sóc sức khỏe ở họ càng cao.

2.1.1.6. Về hiện trạng nhập cư

Bảng 2.6 thể hiện thời gian nhập cư của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

* Thời gian nhập cư

Bảng 2.6 thể hiện thời gian nhập cư của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.6.Thời gian nhập cư của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Thời gian nhập cƣ

Từ 1997-1999 7 23

Từ 2000-2004 50 16,7

Từ 2005-2009 162 54,0

Từ năm 2010 đến nay 81 27,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được điều tra, thì người nhập sớm nhất là từ năm

1997 và người nhập cư mới đây là năm 2010. Căn cứ vào số liệu tần suất thống kê

được, nghiên cứu chia ra 4 giai đoạn nhập cư tại địa bàn nghiên cứu ở nhóm dân di

cư. Từ số liệu điều tra có thể thấy số người nhập cư vào phường Vĩnh Tuy trong

34

khoảng 10 năm trở lại đây, tức ở giai đoạn 2005-2009 chiếm tỷ lệ cao nhất với

54,0%; ở các giai đoạn khác tỷ lệ nhập cư vào phường Vĩnh Tuy chiếm tỷ lệ trung

bình như: giai đoạn từ năm 2010 đến nay chiếm 27,0% và giai đoạn từ năm 2000-

2004 chiếm 16,7%; chiếm tỷ lệ thấp nhất ở giai đoạn 1997-1999 chỉ với 2,3%. Như

vậy, có thể khẳng định rằng dòng nhập cư vào địa bàn phường Vĩnh Tuy hiện nay

có sự biến đổi khá rõ nét và có xu hướng ổn định hơn các giai đoạn trước, chuyển từ

giai đoạn di cư tự do sang giai đoạn di cư chủ động có mục đích. Song về định

hướng lâu dài, cần có sự quy hoạch đồng bộ nhằm điều tiết tình trạng di cư từ các

địa phương khác tới phường Vĩnh Tuy một cách hợp lý, tạo điều kiện nâng cao đời

sống, cải thiện mức sống cho nhóm dân cư này.

* Lý do di cư đến nơi ở hiện tại

Bảng 2.7 thể hiện lý do di cư của đối tượng tham gia điều tra tại phường

Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.7. Lý do di cư đến nơi ở hiện tại

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Lý do di cƣ

Tìm được việc làm ở nơi ở mới 157 52,3

Để cải thiện đời sống kinh tế 72 24,0

Muốn thay đổi môi trường sống 48 16,0

Vì tương lai của gia đình và con cái 23 7,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ kết quả khảo sát cho thấy lý do người dân di cư đến phường Vĩnh Tuy có

nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau. Trong đó, lý do "Tìm được việc làm ở nơi ở

mới" chiếm tỷ lệ cao nhất với 52,3% đây cũng là là lý do cơ bản ở lao động nhập cư

hiện nay ở nhiều địa bàn trên Tp.Hà Nội. Ở các lý do di cư khác chiếm tỷ lệ trung

bình như: "Để cải thiện đời sống kinh tế" chiếm 24,0%; "Muốn thay đổi môi trường

sống" chiếm 16,0% và chiếm tỷ lệ thấp nhất là số người có lý do "Vì tương lại của

gia đình và con cái" với 7,7%. Như vậy, có thể thấy lý do di cư vì việc làm chiếm tỷ

35

lệ cao ở người dân di cư hiện nay, vì nhu cầu việc làm họ di cư từ khu vực nông

thôn ra thành thị, từ các tỉnh lẻ lên các thành phố lớn. Những khu vực có kinh tế

phát triển, nhiều cơ sở sản xuất, cung ứng được nhu cầu việc làm cho họ, thì đó

chính là điều kiện và yếu tố tác động tới dòng nhập cư của người dân di cư.

Việc di cư hiện nay không phải di cư tự do, mà là di cư có mục đích và có sự

điều hòa, song ở phường Vĩnh Tuy có nhiều địa điểm lượng người di cư đến khá

đông, việc di cư đến vừa có tác động tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là cung

ứng cho các loại hình sản xuất nguồn lao động đồi dào; song tác động tiêu cực lại

khá lớn, đó là sự xáo trộn về đời sống xã hội, đời sống của người dân di cư không

được đảm bảo, hệ thống cơ sở hạ tầng, chăm sóc sức khỏe không được đáp ứng

tốt...

* Đối tượng cùng di cư đến

Bảng 2.8 cho thấy đối tượng kết hợp cùng di cư đến tại phường Vĩnh Tuy

thường là những người có quan hệ gần gũi, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.8. Đối tượng cùng di cư đến

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Đối tượng cùng di cư đến

Vợ/chồng 157 52,3

Bố/mẹ 23 7,7

Họ hàng 48 16,0

Đồng hương 41 13,7

Bạn bè 31 10,3

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Qua khảo sát cho thấy, đối tượng cùng di cư đến thường là vợ hoặc chồng

của họ chiếm tỷ lệ cao nhất với 52,3%, thường tập trung ở nhóm những gia đình trẻ

tuổi; đối tượng cùng di cư đến là bố/mẹ chiếm tỷ lệ thấp nhất với 7,7%; ở các đối

tượng khác chiếm tỷ lệ trung bình, không có sự chênh lệch lớn như, số người di cư

36

đến cùng họ hàng chiếm 16,0%; đồng hương 13,7% và với bạn bè là 10,3%. Từ kết

quả trên có thể thấy rằng khi chuyển đến nơi ở mới họ thường mang theo vợ hoặc

chồng để thuận tiện cho việc sinh hoạt, làm việc, chia sẻ vai trò kinh tế và giúp đỡ

nhiều việc trong gia đình, khi ở nơi ở mới; còn việc chuyển đến nơi ở mới với các

đối tượng khác hầu như không phổ biến.

Về định hướng lâu dài, những địa phương như phường Vĩnh Tuy, cần có

chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ những gia đình di cư đến, nhất là những gia đình

có trẻ em nhỏ, có người già, bởi điều kiện kinh tế, điều kiện sống không đảm bảo, ở

những gia đình này nhu cầu về chăm sóc vật chất, chăm sóc sức khỏe của họ rất

cao, do thiếu thốn nhiều thứ.

* Khó khăn khi di cư đến nơi ở mới

Bảng 2.9 cho thấy những khó khăn của bản thân và gia đình chủ hộ khi di cư

tới chỗ ở mới. Kết quả cho thấy hầu hết họ đều gặp phải một trong những khó khăn

nhất định khi tiếp cận với môi trường mới.

Bảng 2.9. Khó khăn khi di cư đến nơi ở mới

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Những khó khăn

Khó khăn về chỗ ở 229 76,3

Khó khăn về chính quyền 23 7,7

Khó khăn tìm việc làm 48 16,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Khi được hỏi về khó khăn của bản thân và gia đình khi di cư đến nơi ở mới,

thì cả 300 người được hỏi họ đều cho biết ít nhất là họ gặp phải 1 khó khăn nhất

định khi đến nơi ở mới. Số người có "khó khăn về chỗ ở" chiếm cao nhất với 76,3%

(tương đương với 229 người trả lời); các khó khăn khác chiếm tỷ lệ không cao như:

Khó khăn tìm việc làm chiếm 16,0%; khó khăn về chính quyền 7,7%. Như vậy, từ

kết quả khảo sát cho thấy, khó khăn phổ biến nhất ở người di cư nói chung và lao

động di cư nói riêng là "khó khăn về chỗ ở", việc chưa sắp xếp được chỗ ở hợp lý

37

thì việc lao động, sản xuất tại nơi việc làm của họ vẫn chưa thể đạt hiệu quả, tại

nhiều địa bàn trên Tp.Hà Nội nói chung và tại phường Vĩnh Tuy nói riêng tình trạng

thiếu chỗ ở dành cho người nhập cư rất cao, do mật độ dân di cư ở nhiều khu vực

rất đông. Đáng chú ý, ngoài việc khó khăn về chỗ ở thì vẫn có một tỷ lệ nhất định

người dân di cư gặp khó khăn về việc làm, họ khó tiếp cận với hệ thống việc làm tại

nơi ở mới do một nguyên nhân nào đó, hoặc có thể do một nguyên nhân nào đó họ

mới xin việc ở nơi ở mới và lại bỏ việc ngay sau đó; bên cạnh đó khó khăn từ phía

chính quyền trong việc xử lý giấy tờ, những vấn đề liên quan đến hộ khẩu, tạm trú

và những giao dịch hành chính khác gây khó khăn cho người dân di cư. Chính vì

vậy, về lâu dài chính quyền địa phương cần có biện pháp hỗ trợ nhóm người dân di

cư một cách hiệu quả nhất về nhiều vấn đề trong đời sống. Ngoài ra, giúp họ tiếp

cận với những quyền và lợi ích hợp pháp tại nơi ở mới

2.1.2. Cảm nhận về sức khỏe của người dân di cư tại địa bàn

Bảng 2.10 cho thấy trong số 300 người được điều tra hầu hết họ tự cảm nhận

về sức khỏe của mình ở trạng thái bình thường.

Bảng 2.10. Tự đánh giá về tình trạng sức khỏe hiện tại

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Đánh giá về tình trạng sức khỏe

Tốt 98 32,7

Trung bình 202 67,3

Yếu 0 0

Rất yếu 0 0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được điều tra, số người cho rằng tình trạng sức khỏe

hiện tại của bản thân ở mức "Trung bình" chiếm tỷ lệ cao nhất với 67,3%; số người

còn lại cho biết tình trạng sức khỏe của bản thân đang ở tình trạng "Tốt" chiếm

32,7% , ở tình trạng sức khỏe "yếu" và "rất yếu" không có người trả lời. Đối tượng

điều tra là người dân di cư đang trong độ tuổi lao động, chính vì vậy tình trạng sức

khỏe của họ phổ biến ở tình trạng trung bình và tốt. Tuy nhiên, ý kiến trả lời chỉ

38

mang tính tương đối, dựa vào những cảm nhận của bản thân họ để đưa ra đánh giá

về sức khỏe hiện tại, chứ không căn cứ vào việc đo lường hay khám trực tiếp của

bác sĩ để khẳng định được tình trạng sức khỏe thực tế của họ. Tuy nhiên, những

người cho rằng tình trạng sức khỏe hiện tại của bản thân ở mức "tốt" tức là trạng

thái sức khỏe của họ đang được duy trì ở mức bình thường, họ được tiếp cận với các

hoạt động chăm sóc sức khỏe tốt, vì vậy họ có được tình trạng sức khỏe tốt; còn

những người có tình trạng sức khỏe ở mức "trung bình" tức là trạng thái sức khỏe

của họ chưa được duy trì bình thường, họ có thể gặp phải những vấn đề về sức khỏe

nhưng không thường xuyên, việc chăm sóc sức khỏe của họ chưa được đảm bảo.

Bảng 2.11 tương quan giữa tình trạng sức khỏe và nhóm tuổi của đối tượng

tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.11. Cảm nhận về tình trạng sức khỏe theo nhóm tuổi

(Đơn vị: %; N=300)

Tình trạng sức khỏe Nhóm tuổi

16-29 30-44 45-60 Tổng

N 61 13 24 98 Tốt

% N 20,3 16 4,3 82 8,0 104 32,7 202 Trung bình

Yếu

Rất yếu

Tổng

% N % N % N % 5,3 0 0 0 0 77 25,7 34,7 0 0 0 0 128 42,7 27,3 0 0 0 0 95 31,7

67,3 0 0 0 0 300 100,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Tình trạng sức khỏe của nhóm đối tượng tham gia điều tra có sự khác biệt giữa

các nhóm tuổi tham gia điều tra. Cụ thể, ở tình trạng sức khỏe "tốt" nhóm tuổi từ

16-29 chiếm tỷ lệ cao nhất với 20,3% số người trả lời, cao gấp 4 lần nhóm tuổi 30-

44 với 4,3% và gấp hơn 2,5 lần so với nhóm tuổi 45-60 là 8,0%. Như vậy, ở tình

trạng sức khỏe "tốt" có sự chênh lệch khá lớn giữa các nhóm tuổi, điều này cho thấy

39

ở nhóm tuổi trẻ từ 16-29 trong độ tuổi thanh niên, lao động nhập cư thường có sức

khỏe tốt hơn so với 2 nhóm tuổi còn lại.

Ở tình trạng sức khỏe "trung bình" tỷ lệ người tham gia trả lời có sự khác biệt

khá rõ nét, ở tình trạng sức khỏe này nhóm tuổi 45-60 chiếm tỷ lệ cao nhất với

34,7% cao gấp hơn 6,5 lần so với nhóm tuổi 16-29 với 5,3%; nhóm tuổi 30-44

chiếm tỷ lệ trung bình với 27,3%. Có thể thấy, theo tương quan nhóm tuổi thì tình

trạng sức khỏe nhóm đối tượng di cư được điều tra có sự thay đổi theo chiều hướng,

độ tuổi càng cao thì tình trạng sức khỏe có phần kém hơn so với các nhóm tuổi còn

trẻ, bên cạnh đó những người ở nhóm tuổi 45-60 thâm niên làm việc của họ cao hơn

hai nhóm tuổi còn lại, việc họ tiếp xúc với các môi trường làm việc khó khăn, độc

hại theo thời gian công tác thì đó cũng là yếu tố và nguyên nhân khiến sức khỏe của

họ suy giảm so với nhóm tuổi trẻ hơn. Ở tình trạng sức khỏe "yếu" và "rất yếu"

không có người trả lời, điều này khá dễ lý giải do ở 3 nhóm tuổi kể trên đều trong

độ tuổi lao động vì vậy sức khỏe của người lao động được duy trì từ trung bình đến

tốt.

Như vậy, từ kết quả khảo sát có thể thấy, phần lớn nhóm đối tượng di cư tham

gia khảo sát đều có sức khỏe thể chất ở mức bình thường, việc duy trì sức khỏe ở

trạng thái bình thường có tác động quan trọng tới hiệu quả lao động, sản xuất mà họ

đang tham gia. Kết quả khả sát cũng cho biết, ở nhóm tuổi càng trẻ tình trạng sức

khỏe càng tốt và ở nhóm tuổi cao hơn thì điều kiện sức khỏe của họ cũng có sự

giảm sút, do tác động của tuổi tác, của những yếu tố như môi trường làm việc...

Chính vì vậy, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ở mỗi nhóm tuổi cũng có sự khác nhau

rõ rệt.

Bảng 2.12 tương quan giữa tình trạng sức khỏe và giới tính của đối tượng

tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

40

Bảng 2.12.Cảm nhận về tình trạng sức khỏe theo giới tính

(Đơn vị: %; N=300)

Giới tính

Tình trạng sức khỏe Nam Nữ Tổng

Tốt N 39 59 98

Trung bình % N 13,0 103 19,7 99 32,7 202

Yếu

Rất yếu

Tổng

67,3 0 0 0 0 300 100,0 33,0 0 0 0 0 158 52,7 34,3 0 0 0 0 142 47,3

% N % N % N % (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong số 300 người được khảo sát, thì nữ giới có sức khỏe tốt hơn nam giới.

Cụ thể, ở tình trạng sức khỏe "tốt" nữ giới chiếm tỷ lệ là 19,7% số người tham gia

trả lời, trong khi nam giới chiếm tỷ lệ thấp hơn với 13,0%, điều này có thể lý giải do

nữ giới làm việc trong môi trường ít khó khăn và độc hại hơn so với nam giới, vì

vậy nữ giới thường có sức khỏe tốt hơn nam giới, theo thống kê của Tổng cục Dân

số KHHGĐ ở nước ta hiện tại tuổi thọ trung bình là 74,2 tuổi, trong đó tuổi thọ của

nữ giới cao hơn nam giới, điều này cũng góp phần phản ánh lên thực trạng chung về

tuổi thọ giữa nam và nữ giới ở nước ta.

Ở tình trạng sức khỏe "trung bình" trong số 300 người được khảo sát cho thấy,

tỷ lệ nam giới chiếm cao hơn với 34,3%, trong khi ở tình trạng sức khỏe này nữ giới

chiếm tỷ lệ thấp hơn với 33,0% số người tham gia trả lời. Vì vậy, có thể khẳng định

rằng yếu tố môi trường làm việc và lĩnh vực nghề nghiệp làm việc có tác động

không nhỏ tới điều kiện sức khỏe và tuổi thọ của người lao động nói chung, với

người lao động di cư nói riêng. Bên cạnh đó, do điều kiện sống, thu nhập, việc làm,

hiểu biết và cơ chế chính sách... làm hạn chế sự tiếp cận của người lao động di cư

với các dịch vụ, hoạt động chăm sóc sức khỏe cũng là một yếu tố làm hạn chế sức

41

khỏe của họ. Bởi vậy, rất cần tạo cơ chế chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện

thuận lợi nhất để người dân di cư nói chung và người lao động di cư nói riêng được

tiếp cận với các dịch vụ, các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại địa bàn sinh sống và

tại nơi làm việc, góp phần giải quyết các vấn đề sức khỏe phát sinh ở nhóm dân cư

này.

2.2. Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và thẻ BHYT của ngƣời dân di cƣ

tại địa bàn nghiên cứu

2.2.1. Hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh Tuy Biểu đồ 2.1 thể hiện cơ sở khám chữa bệnh mà đối tượng di cư tại phường

Vĩnh Tuy thường xuyên sử dụng, kết quả điều tra cho thấy:

Biểu 2.1.Cơ sở khám chữa bệnh (Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ số liệu khảo sát cho thấy, trạm y tế là cơ sở được người tham gia điều tra lựa

chọn nhiều nhất khi tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, chiếm hơn 50%

số người tham gia điều tra với 52,3% do đặc thù gần nhà, thuận tiện cho việc đi lại,

thủ tục đơn giản, chi phí khám chữa bệnh thấp, chính vì vậy trạm y tế thường được

người dân di cư lựa chọn là loại hình khám chữa bệnh phổ biến. Chiếm tỷ lệ thấp

nhất là số người khám chữa bệnh tại bệnh viện tuyến tỉnh/thành phố chiếm 6,3% và

bệnh viện tuyến TW chiếm 7,7%, sở dĩ 2 cơ sở này ít được người dân di cư lựa

42

chọn là do các nguyên nhân như: Chi phí khám chữa bệnh cao; thủ tục phức tạp;

thời gian chờ đợi lâu; xa nơi ở của họ, không thuận tiện cho họ vừa làm việc tại cơ

quan lại vừa phải vào các cơ sở xa như vậy để khám chữa bệnh. Điều đáng chú ý là

vẫn có một bộ phận nhất định người dân di cư do những nguyên nhân như: Thu

nhập thấp, gặp khó khăn về kinh tế, thiếu việc làm, mức sống thấp, hoặc do chủ

quan thiếu hiểu biết, xem thường bệnh tật... vì vậy, họ lựa chọn hình thức tự mua

thuốc điều trị tại nhà, chiếm 17,7% số người tham gia trả lời.

Có thể thấy rằng, các yếu tố như: Thu nhập, mức sống, điều kiện sống, cơ chế

chính sách tại nơi khám chữa bệnh... chính là các yếu tố và là nguyên nhân căn bản

tác động tới việc lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở người dân di

cư. Đây chính là những khó khăn, rào cản khiến cho một bộ phận không nhỏ người

dân di cư hiện nay vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về chăm sóc sức

khỏe, chưa tiếp cận được với các dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội nhằm mục đích chăm

sóc sức khỏe, phòng tránh bệnh tật. Hiện nay, không chỉ tại phường Vĩnh Tuy mà ở

rất nhiều địa phương khác, do các yếu tố như tài chính, việc đi lại thuận tiện, không

mất thời gian chờ đợi lâu, nên nhiều người dân đã lựa chọn những hình thức khám

chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe một cách thuận tiện nhất như: trạm y tế, các hiệu

thuốc gần nhà, các phòng khám tư... Chính vì vậy, chính quyền địa phương cùng

với các cơ quan, ban ngành các cấp cần có biện pháp hỗ trợ, giảm thiểu những khó

khăn, bất cập giúp người dân có thể tiếp cận với tất cả các cơ sở y tế một cách dễ

dàng, thuận tiện nhất.

Bảng 2.13 tương quan cơ sở khám chữa bệnh với thu nhập trung bình tháng hộ

gia đình của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho

thấy:

43

Bảng 2.13. Lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh theo thu nhập

(Đơn vị: %; N=300)

Thu nhập trung bình 1 tháng hộ gia đình

Từ 1 đến Từ 3 đến Từ 5 đến Từ 7 đến Từ 10 Cơ sở khám

dưới 3 dưới 5 dưới 7 dưới 10 triệu trở chữa bệnh

triệu triệu triệu triệu lên Tổng

N Bệnh viện 6 0 14 0 3 23

tuyến TW % 2,0 0 4,7 0 1,0 7,7

N Bệnh viện 1 0 16 0 2 19

tuyến tỉnh/tp % 0,3 0 5,3 0 0,7 6,3

N Trạm y tế 30 6 157 2 84 35

% 28,0 11,7 10,0 2,0 52,3 0,7

Phòng khám N 3 17 3 23 2 48

tư nhân % 1,0 5,7 1,0 7,7 0,7 16,0

Tự mua thuốc N 8 0 42 0 3 53

% 2,7 0 14,0 0 1,0 17,7

N Tổng 20 101 110 53 16 300

% 6,7 33,7 36,7 17,7 5,3 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Việc chọn cơ sở khám chữa bệnh của người dân di cư có sự tác động của yếu

tố thu nhập nói chung. Xu hướng những hộ gia đình có thu nhập khá thường lựa

chọn các cơ sở khám chữa bệnh tốt hơn để họ yên tâm về chất lượng dịch vụ. Tuy

nhiên, cũng có một tỷ lệ nhất định hộ gia đình có thu nhập thấp song vẫn lựa chọn

cơ sở khám chữa bệnh tuyến trên là do tình trạng bệnh tật và sức khỏe của họ không

đảm bảo, họ phải thường xuyên tới các cơ sở khám chữa bệnh. Trong 300 người

dân di cư được khảo sát cho thấy khám bệnh ở cơ sở là trạm y tế vẫn chiếm tỷ lệ

phổ biến ở tất cả các nhóm thu nhập do thuận tiện và phù hợp về việc đi lại, thời

44

gian, không phát sinh các thủ tục rườm rà. Khám tại trạm y tế chiếm tỷ lệ cao nhất,

trong đó, những hộ gia đình có thu nhập từ 3 triệu đến dưới 5 triệu chiếm tỷ lệ cao

nhất với 28,0%; chiếm tỷ lệ trung bình là nhóm hộ gia đình có thu nhập từ 5 triệu

đến dưới 7 triệu chiếm 11,7% và nhóm hộ gia đình có thu nhập từ 7 triệu đến dưới

10 triệu với 10,0%; nhóm thu nhập cao nhất trên 10 triệu chiếm 2,0% và nhóm hộ

gia đình có thu nhập thấp nhất chiếm tỷ lệ không đáng kể do số hộ gia đình có mức

thu nhập này tham gia trả lời thấp với 0,7%.

Các cơ sở như phòng khám tư nhân cũng được một tỷ lệ nhất định những

người dân di cư lựa chọn do tính thuận tiện của dịch vụ này như ít thủ tục, không

mất thời gian chờ đợi... Tỷ lệ lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh này chiếm cao nhất ở

nhóm hộ gia đình có thu nhập khá từ 7 triệu đến dưới 10 triệu với 7,7%; thu nhập từ

3 triệu đến dưới 5 triệu chiếm 5,7%; ở các hộ gia đình có mức thu nhập khác chiếm

tỷ lệ không đáng kể. Khám chữa bệnh tại bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến trung ương

ít được người dân di cư lựa chọn bởi dịch vụ ở đây có chi phí cao, khoảng cách đi

lại xa, thủ tục nhập viện phức tạp, thời gian chờ đợi lâu... chính vì vậy ít người lựa

chọn các cơ sở này, chỉ tập trung ở nhóm hộ gia đình có thu nhập cao, và một bộ

phận các gia đình có thu nhập thấp nhưng lại có tình trạng sức khỏe kém thường

xuyên phải sử dụng dịch vụ của tế tuyến trên.

Điều đáng nói là vẫn còn một bộ phận các hộ gia đình do nhiều nguyên nhân

khác nhau họ vẫn tự mua thuốc về điều trị tại nhà, tỷ lệ này chiếm cao nhất ở nhóm

hộ gia đình có thu nhập từ 5 triệu đến dưới 7 triệu chiếm 14,0%, do đây là mức thu

nhập phổ biến ở các hộ gia đình hiện nay nên khá nhiều hộ gia đình ở mức thu nhập

này tham gia trả lời; ở mức thu nhập từ 1 triệu đến dưới 3 triệu chiếm 2,7% và thu

nhập trên 10 triệu chiếm 1,0%; ở các mức thu nhập khá không có người trả lời. Như

vậy, có thể khẳng định rằng, thu nhập cũng chính là một trong những yếu tố tác

động tới tình trạng sử dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám

chữa bệnh của người dân di cư. Như vậy, có thể thấy rằng, thu nhập của đối tượng

được khảo sát có tác động khác lớn tới hoạt động chi tiêu cho vấn đề khám chữa

bệnh, chăm sóc sức khỏe và lựa chọn các cơ sở y tế.

45

Biểu đồ 2.2 thể hiện việc lựa chọn các cơ sở y tế của đối tượng tham gia điều

tra tại phường Vĩnh Tuy thường chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, kết quả

điều tra cho thấy:

Biểu 2.2.Việc lựa chọn các cơ sở y tế dựa vào yếu tố

(Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Đối tượng người dân di cư tham gia khảo sát được chọn là những người đang

tham gia BHYT, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động, vì vậy việc lựa

chọn các cơ sở y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám và điều trị bệnh dựa

trên các yếu tố khác nhau. Có tới hơn 70% người tham gia trả lời cho biết họ

thường lựa chọn các cơ sở y tế dựa vào việc họ đã có BHYT chiếm 74,7% số người

tham gia trả lời, điều này rất dễ lý giải do việc sử dụng BHYT trong khám chữa

bệnh thì người tham gia BHYT họ sẽ được hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh, được

hưởng các quyền lợi trong quá trình khá và điều trị, giảm gánh nặng tài chính cho

bản thân và gia đình.

Bên cạnh đó, cũng có một tỷ lệ nhất định người dân di cư tham gia khả sát cho

biết họ lựa chọn các cơ sở y tế dựa vào yếu tố khác như: Thuận tiện đi lại chiếm

9,3%; chi phí hơp lý chiếm 5,7%; gần nhà chiếm tỷ lệ thấp nhất là 2,7% thường tập

trung ở nhóm người có thu nhập và mức sống thấp. Ngoài ra, có 7,7% số người

tham gia khảo sát cho biết họ lựa chọn các cơ sở y tế còn do họ quan tâm tới yếu tố

46

"chất lượng khám, điều trị tốt", thường tập trung ở nhóm đối tượng có thu nhập và

mức sống khá, dư giả về kinh tế vì vậy họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe, điều

quan tâm lớn nhất của họ là chất lượng dịch vụ cơ sở y tế mà họ đang tham gia.

Như vậy, việc lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh, hình thức khám chữa bệnh

phuc vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của đối tượng là người dân di cư có sự khác

biệt, do nhiều yếu tố khác nhau tác động như: Có sử dụng BHYT, chất lượng khám

chữa bệnh tốt, thái độ phục vụ tốt, thủ tục đơn giản, chi phí hợp lý, tiết kiệm thời

gian, thuận tiện cho việc đi lại, gần nhà... Chính là những yếu tố cơ bản tác động tới

việc sử dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở nhóm dân di cư

hiện nay. Đây cũng chính là tâm lý chung ở đại đa số người dân ở nước ta. Ngoài ra

các yếu tố về thu nhập, mức sống, điều kiện sống, khả năng hiểu biết, phong tục tập

quán, văn hóa vùng miền trong việc chữa trị bệnh khi ốm đau cũng là một trong

những yếu tố tác động lên người dân. Chính vì vậy, định hướng lâu dài rất cần có sự

cải cách hệ thống hành chính trong các Bộ, ban, ngành như y tế, chính quyền...

nhằm giảm thiểu những thủ tục phức tạp trong sử dụng BHYT, nâng cao chất lượng

dịch vụ y tế, giúp người dân nói chung và người di cư nói riêng có điều kiện thuận

lợi trong sử dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

khi ốm đau, sức khỏe yếu. Sau đây là ý kiến chia sẻ của đối tượng được khảo sát tại

địa bàn.

"Vì điều kiện tài chính không cho phép, chính vì vậy tôi thường lựa chọn

những cơ sở y tế có hỗ trợ vấn đề BHYT, để được giảm chi phí khi tham gia khám

chữa bệnh, ngoài ra tôi còn thấy một số người còn lựa chọn các cơ sở y tế do yếu tố

gần nhà để thuận tiện cho việc đi lại, khỏi mất thời gian đi lại lâu. Bản thân tôi thấy

BHYT có những lợi ích khá lớn, nên tôi luôn duy trì việc khám chữa bệnh và chăm

sóc sức khỏe bằng BHYT" (PVS anh Lê Văn Năm, 29 tuổi, quê Hà Nam, nghề

nghiệp: công nhân).

47

2.2.2. Hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư tại phường Vĩnh

Tuy có sử dụng thẻ BHYT khi ốm đau

Trong nhóm đối tượng được chọn (300 người) hiện tại họ đều đang sử dụng

dịch vụ BHYT. Tuy nhiên, nhóm tuổi đóng bảo hiểm, nguồn gốc bảo hiểm, tình

trạng sử dụng... của họ có sự khác nhau.

Bảng 2.14 thể hiện loại hình tham gia đóng BHYT của đối tượng tham gia

điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 2.14. Nhóm đóng BHYT của đối tượng điều tra

(Đơn vị:%; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Nhóm đóng BHYT

Nhóm hưu trí 0 0

Nhóm được Nhà nước hỗ trợ một phần 48 16,0

Cán bộ/viên chức 23 7,7

Tự nguyện đóng 229 76,3

Khác 0 0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Hiện tại, nhóm đối tượng tham gia khảo sát đang trong độ tuổi lao động, chính

vì vậy không có đối tượng nào thuộc nhóm đối tượng đóng BHYT thuộc "nhóm hưu

trí". Qua số liệu khảo sát có thể thấy rằng đa số người lao động di cư tham gia

BHYT đều thuộc nhóm "tự nguyện đóng BHYT” chiếm tỷ lệ cao nhất với 76,3% ;

số cán bộ/viên chức thuộc nhóm điều tra chiếm tỷ lệ nhỏ vì vậy ở nhóm đóng

BHYT này chiếm tỷ lệ thấp nhất với 7,7%; nhóm được Nhà nước hỗ trợ một phần

chiếm 16,0% (tương đương với 48 người tham gia trả lời. Như vậy, từ kết quả khảo

sát có thể thấy rõ rằng, nhóm đóng BHYT phổ biến ở nhóm lao động di cư hiện nay

thuộc nhóm "tự nguyện đóng" BHYT, hầu như hàng tháng người lao động làm việc

tại cơ quan vẫn có một khoản được khấu trừ vào lương để chi trả bảo hiểm.

48

"Tôi và nhiều người ở đây thuộc những người tự nguyện tham gia đóng BHYT

thôi, chúng tôi hoàn toàn phải chịu mức phí đóng BHYT mà không được hỗ trợ,

trong khi đời sống của người công nhân như chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, tôi

rất mong chính sách BHYT có sự điều chỉnh để người lao động di cư xa nhà, lại có

hoàn cảnh khó khăn như chúng tôi được giảm bớt mức đóng khi tham gia đóng

BHYT (PVS chị Vũ Thị Hiền; 27 tuổi; quê Hà Nam; nghề nghiệp: công nhân).

Hiện nay, người lao động hầu như cũng đã ý thức được việc tham gia đóng

bảo hiểm tại nơi làm việc, họ không thuộc diện được Nhà nước hỗ trợ, song việc

nhìn nhận về vai trò và trách nhiệm tham gia BHYT được người lao động nhận thức

cao hơn ở các giai đoạn trước, chính vì thế càng ngày tỷ lệ tự nguyện tham gia đóng

BHYT chiếm tỷ lệ càng cao, đây là tín hiệu tốt, góp phần duy trì ổn định hoạt động

an sinh xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, về định hướng lâu dài để thu hút đối tượng

tham gia BHYT tự nguyện thì cần có chính sách thích hợp như: cải cách hệ thống

bảo hiểm hiện hành, khắc phục những thủ tục khó khăn, hạn chế vướng mắc của

người sử dụng BHYT; tăng cường chất lượng khám chữa bệnh bằng dịch vụ này,

các cơ quan ban ngành có liên quan cần tích cực tổ chức thanh tra, kiểm tra xóa bỏ

những tiêu cực, sai phạm ở lĩnh vực BHYT, tạo sự tin tưởng cho người sử dụng

dịch vụ.

Biểu 2.3. Nguồn gốc BHYT của đối tượng điều tra

Kết quả khảo sát 300 đối tượng là lao động di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy cho

thấy, nguồn gốc BHYT mà họ đang sở hữu từ nhiều nguồn khác nhau như: Từ cơ

quan, đơn vị lao động cấp; từ chính quyền địa phương; từ đại lý bán thẻ BHYT ở

phường; từ người thân mua hộ; tại cơ quan BHXH quận, huyện và từ những nguồn

khác... Tuy nhiên, do đặc thù nhóm đối tượng điều tra thuộc nhóm người dân di cư

đang trong độ tuổi lao động, chính vì vậy nguồn gốc BHYT mà họ đang sở hữu có

sự khác biệt khá rõ nét.

49

Biểu đồ 2.3 thể hiện nguồn gốc BHYT của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

(Đơn vị:%; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Khảo sát cho thấy, phần lớn nhóm đối tượng điều tra có BHYT từ nguồn "tại

cơ quan, đơn vị lao động" cung cấp chiếm 75,1% số người tham gia trả lời, đây là

một điều dễ lý giải bởi người lao động được cơ quan, đơn vị lao động đóng bảo

hiểm (BHXH; BHYT; BHTN) khi bắt đầu làm việc tại cơ quan, đây là hoạt động

gắn liền với vai trò và trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, chỉ có những trường

hợp cá biệt cụ thể thì người lao động mới không đóng bảo hiểm tại nơi làm việc.

Số người có nguồn gốc BHYT từ các nguồn còn lại chiếm tỷ lệ không đáng

kể, cụ thể: Nhờ người thân mua hộ chiếm 10,6%; tại cơ quan BHXH quận, huyện

chiếm 8,3%; tại đại lý bán thẻ BHYT ở phường chiếm 2,9%; tại chính quyền địa

phương 1,6% và các nguồn khác chiếm 1,3%. Đa phần những người có nguồn gốc

BHYT từ các nguồn này đều chiếm tỷ lệ thấp, do những nguyên nhân nhất định nên

họ không tham gia BHYT tại nơi làm việc do các lý do như: làm nghề tự do kinh

doanh, buôn bán); không muốn đóng bảo hiểm tại làm việc; có những vi phạm hợp

đồng lao động nên không được đóng bảo hiểm, thậm chí có những trường hợp do

chủ sử dụng lao động trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm cho người lao động...

50

Do một nguyên nhân nào đó, mà không được tham gia BHYT tại nơi làm việc cũng

là một thiệt thòi lớn cho người lao động di cư, bởi đó là quyền và lợi ích của họ cần

được hưởng. Sau đây là những chia sẻ của người lao động về việc tham gia BHYT từ các

nguồn.

"Tôi làm tại công ty may năm nay đã được 5 năm rồi, tôi được chủ doanh

nghiệp đóng BHYT từ khi bắt đầu chính thức ký hợp đồng lao động. Tôi thấy đó là

quyền và lợi ích mà người lao động cần được hưởng, đối với lao động từ nơi khác

đến làm việc tại đây như bản thân tôi, nếu không có bảo hiểm chi trả cho mỗi lần

khám chữa bệnh, thăm khám sức khỏe thì chắc chúng tôi không đủ khả năng để chi

trả" (PVS chị Đặng Thị Khánh, 26 tuổi; quê Nam Định; nghề nghiệp: công nhân).

Khi ốm đau phải chi trả một số tiền lớn cho việc khám và điều trị bệnh thì hầu

như họ đều cảm nhận được lợi ích từ việc tham gia BHYT. Họ nhận thấy tầm quan

trọng của BHYT và từ đó tạo được sự yên tâm khi tham gia khám chữa bệnh.

"Do hay phải đến bệnh viện khám bệnh, lại làm nghề kinh doanh tự do nên tôi

phải tự mua BHYT, sau những lần chi trả viện phí tôi mới thấy được cái lợi của việc

sử dụng BHYT, có giai đoạn tôi không tham gia BHYT khi đến viện nằm dài ngày

khi thanh toán tôi phải chạy vạy, vay mượn đủ đường mới đủ tiền chi trả, cũng từ

đó tôi luôn tham gia BHYT để giảm bớt gánh nặng về tài chính, ngoài ra còn tạo sự

yên tâm khi tham gia khám chữa bệnh. (PVS anh Trần Văn Danh, 30 tuổi, quê Hà

Tĩnh, nghề nghiệp: kinh doanh tự do).

Trong số 300 đối tượng tham gia trong nghiên cứu này thì tỉ lệ sử dụng dịch

vụ BHYT trong khám, chữa bệnh là rất chênh lệch. Phần lớn họ không sử dụng thẻ

BHYT thường xuyên chỉ khi ốm đau phải chi phí tốn kém họ mới dùng tới. Điều

này là do nhiều yếu tố và nguyên nhân khác nhau.

Bảng 2.15 thể hiện tình trạng sử dụng BHYT trong hoạt động khám chữa bệnh

của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

51

Bảng 2.15. Tình trạng sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh

(Đơn vị:%; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Tình trạng sử dụng

Rất thường xuyên 15 5,1

Thường xuyên 49 16,3

Không thường xuyên 233 77,6

Chưa bao giờ 3 1,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ kết quả khảo sát, về tổng thể có thể thấy việc sử dụng BHYT phục vụ nhu

cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở nhóm đối tượng là người dân di cư khá

thấp; việc có thẻ BHYT nhưng người dân di cư lại "không thường xuyên" sử dụng

dịch vụ này, do ngại một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình sử dụng dịch vụ

BHYT, chính vì vậy tình trạng phổ biến hiện nay là người dân vẫn chưa thật mặn

mà với dịch vụ này, nhiều người còn đánh giá khám chữa bệnh bằng dịch vụ BHYT

chất lượng thấp hơn nhiều so với việc tự bỏ tiền ra khám. Đây chính là thực trạng

cần có sự chấn chỉnh từ nhiều cơ quan liên quan, nhằm nâng cáo chất lượng dịch vụ

BHYT và tạo niềm tin cho người tham gia khám chữa bệnh nói chung. Khảo sát cho

thấy, mặc dù có BHYT nhưng tỷ lệ người dân di cư sử dụng BHYT tham gia khám

chữa bệnh "không thường xuyên" ở mức khá cao, chiếm tới 77,6% (tương đương

với 133 người tham gia trả lời), do những khó khăn vướng mắc, những yếu tố khách

quan và chủ quan tác động, dẫn tới tình trạng người dân không mặn mà với việc

khám chữa bệnh bằng BHYT, chỉ khi bênh nặng hoặc nằm viện lâu dài họ mới cần

tới dịch vụ BHYT, các nguyên nhân và yếu tố tác động như: thời gian chờ đợi lâu,

thủ tục phức tạp, chất lượng khám điều trị thấp, thái độ phục vụ không tốt, nhiều bât

tiện khác...

Bên cạnh đó, có một tỷ lệ nhất định người tham gia khảo sát cho biết, việc sử

dụng BHYT tham gia khám, chữa bệnh ở họ ở mức "thường xuyên" (16,3%) và "rất

thường xuyên" (5,1%), đây là những người họ thường xuyên cần tới việc sử dụng

52

dịch vụ y tế cho nhu cầu khám và điều trị bệnh của mình, vì vậy họ thường xuyên

sử dụng BHYT, thường tập trung ở nhóm đối tượng có sức khỏe yếu hoặc họ có

điều kiện quan tâm tới vấn đề sức khỏe thường xuyên. Tuy nhiên, có 1,0% tỷ lệ rất

nhỏ, trong nhóm đối tượng khảo sát cho biết mặc dù có BHYT nhưng họ chưa bao

giờ sử dụng BHYT để khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.

Như vậy, từ kết quả khảo sát có thể thấy tình trạng sử dụng BHYT tham gia

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở đối tượng người dân di cư ở phường Vĩnh

Tuy rất thấp, tình trạng sử dụng "không thường xuyên" chiếm tỷ lệ cao, do nhiều

yếu tố và nguyên nhân tác động, việc người dân di cư chưa sử dụng dịch vụ này một

cách thường xuyên cho nhu cầu khám chữa bệnh của bản thân và gia đình là do

nhiều khó khăn, vướng mắc, những hạn chế nhất định từ dịch vụ này đưa đến như:

Thủ tục phức tạp, thời gian chờ đợi lâu, khoảng cách đi lại xa, chất lượng phục vụ

thấp... Ngoài ra còn do các yếu tố về: công việc, hiểu biết của bản thân... tác động,

khiến cho họ người dân di cư còn chưa sử dụng dịch vụ này một cách hợp lý, nhằm

phục vụ mục đích chăm sóc sức khỏe của bản thân. Sau đây là chia sẻ của đối tượng

khảo sát về việc sử dụng BHYT.

"Tôi thỉnh thoảng cũng có đến bệnh viện để khám bệnh, kiểm tra sức khỏe, tuy

nhiên nhiều thứ mà tôi không hài lòng, đó là thủ tục hành chính giấy tờ quá phiền

phức, đợi mỏi cả chân, sốt cả ruột mà chưa tới lượt, bức xúc hơn là khi được vào

khám thì mấy nhân viên y tế khám bệnh tỏ vẻ khó chịu, không được nhiệt tình cho

lắm, khám thì qua quýt rồi phán bệnh và cho ra ngoài, cấp cho 1 cái đơn ra ngoài

lấy thuốc, cứ mỗi lần đi khám bệnh tại bệnh viện về là tôi thấy bức xúc với dịch vụ

này và cái cung cách phục vụ" (PVS anh Đinh Văn Quảng, 34 tuổi, quê Nghệ An,

nghề nghiệp: công nhân)

Nguyên nhân khiến họ không hài lòng về dịch vụ BHYT là do phần lớn họ

đánh giá việc khám, chữa bệnh sử dụng BHYT không mang lại lợi ích mà thậm chí

họ còn thấy phiền phức vì phải chờ đợi lâu, thủ tục rườm rà mà kết quả lại không

như mong đợi.

Tình trạng sử dụng BHYT phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức

khỏe có sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới. Tỉ lệ sử dụng BHYT ở nữ giới cao

hơn ở nam giới nhưng không chênh lệch nhiều.

53

Biểu đồ 2.4 tương quan giữa tình trạng sử dụng BHYT theo giới tính của đối

tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Biểu 2.4. Tình trạng sử dụng BHYT theo giới tính (Đơn vị:%; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Qua kết quả khảo sát cho thấy, tình trạng sử dụng BHYT tham gia khám chữa

bệnh ở nam giới và nữ giới đều không cao, cả nam giới và nữ giới đều "không

thường xuyên" sử dụng dịch vụ BHYT tham gia khám chữa bệnh ở mức cao, nam

chiếm tỷ lệ cao hơn nữ (nam giới 40,4%; nữ gới 37,2%), đây là tình trạng rất phổ

biến do những cơ chế trong khám chữa bệnh bất hợp lý, nhiều vấn đề khó khăn

khiến cho cả nam giới và nữ giới ở đều không mặn mà với dịch vụ này. Ở mức sử

dụng BHYT "thường xuyên" tỷ lệ nữ giới chiếm cao hơn nam giới (nữ 9,8%; nam

6,5%) là do nữ giới thường quan tâm tới vấn đè sức khỏe hơn nam giới, nữ giới

cũng dành thời gian tới việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh hơn nam giới. Ở

mức sử dụng "rất thường xuyên" chiếm tỷ lệ không cao, song tỷ lệ này ở nữ giới

cũng cao hơn nam giới (nữ giới 3,1%; nam giới 2,0%). Đáng chú ý là vẫn còn tồn

tại 1 tỷ lệ nhỏ cả nam giới và nữ giới mặc dù có thẻ BHYT những vẫn "chưa bao

giờ" sử dụng dịch vụ này, chiếm 0,7% đối với nam và 0,3% đối với nữ.

Như vậy, mặc dù đã có BHYT tuy nhiên có một tình trạng phổ biến đó là cả

nam giới và nữ giới sử dụng dịch vụ này phục vụ nhu cầu chăm sóc của bản thân

đều rất hạn chế, điều này do nhiều yếu tố tác động, đáng chú ý tỷ lệ "không thường

54

xuyên" sử dụng BHYT của nam giới cao hơn nữ giới. Đây chính là tình trạng khiến

cho tình hình sức khỏe, bệnh tật ở nhóm dân số di cư có nhiều diễn biến phức tạp.

Trong thời gian hiện tại và trước mắt, các bộ ngành liên quan cần có biện pháp khắc

phục các khó khăn, hạn chế trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ BHYT, nhằm thu hút

đối tượng có thẻ BHYT tham gia khám chữa bệnh một cách thường xuyên hơn,

nhằm nâng cao sức khỏe toàn dân và duy trì ổn định hệ thống an sinh.

"Tôi làm cán bộ y tế tại trạm y tế phường đã được hơn 15 năm nay, tôi thấy ở

nhóm người dân di cư ở nơi khác đến việc chăm sóc sức khỏe của họ còn nhiều hạn

chế, chỉ khi nào có bệnh họ mới đến điều trị, còn họ không có thói quen tham gia

khám bệnh định kỳ. Bên cạnh đó, tôi cũng thấy nam giới thuộc thành phần người ở

nơi khác di cư đến đây họ ít tham gia các hoạt động tại địa bàn hơn so với nữ giới,

những lần có các đợt tư vấn và khám chữa bệnh miễn phí tổ chức tại phường thì

chủ yếu là chị em phụ nữ họ tham gia, chứ phía nam giới rất ít tham gia" (PVS ông

Trần Ngọc Long, 41 tuổi, cán bộ trạm y tế phường Vĩnh Tuy).

Theo cán bộ y tế phường thì nữ giới quan tâm chăm sóc tới sức khỏe nhiều

hơn là nam giới. Một điều nữa mà các cán bộ y tế phường đánh giá là những người

di cư đến khi ốm đau thì tự điều trị tại nhà là phương pháp họ chọn đầu tiên, sau đó

mới tới trạm y tế phường để khám hoặc theo dõi nếu uống thuốc không khỏi.

Biểu đồ 2.5 thể hiện mức độ sử dụng thẻ BHYT của đối tượng tham gia điều

tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

55

Biểu 2.5. Đánh giá mức độ sử dụng thẻ BHYT tại địa bàn

(Đơn vị: %; N=300) (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong số 300 người được hỏi, về đánh giá mức độ sử dụng thẻ BHYT tại

phường Vĩnh Tuy, dựa trên những thông tin và hiểu biết của bản thân, thì có 66,7%

số người tham gia trả lời cho biết hiện tại tình trạng sử dụng thẻ BHYT tại phường

Vĩnh Tuy ở tình trạng "không phổ biến", để xác minh thông tin này,nghiên cứu đã

đối chiếu với những số liệu thống kê của ủy bản nhân dân phường Vĩnh Tuy thì kết

quả cho thấy, việc đánh giá về mức độ sử dụng thẻ BHYT tại địa bàn ở mức "không

phổ biến" là khá tương đồng, hầu như ở đây ngoài người đóng BHYT tại nơi làm

việc, thì chỉ có trẻ em và người người cao tuổi là có thẻ BHYT, đại đa số người dân

tại địa bàn vẫn chưa mặn mà với dịch vụ này, khi có bệnh thì họ tự mua thuốc về

điều trị hoặc khám tại trạm y tế gần nhà. Số người tham gia trả lời cho rằng mức độ

sử dụng BHYT tại phường Vĩnh Tuy ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ 17,4% và

mức phổ biến là 8,3%; có một tỷ lệ nhất định người tham gia trả lời không đánh giá

được (không biết) mức độ sử dụng thẻ BHYT tại phường chiếm 7,6% số người

tham gia trả lời.

Như vậy, từ kết quả điều tra cho thấy, mức độ bao phủ của mạng lưới dịch vụ

BHYT tại địa bàn phường Vĩnh Tuy còn ở mức thấp, phần lớn người dân vẫn chưa

tiếp cận được với dịch vụ này, do những yếu tố và nguyên nhân tác động như: Chi

phí mua BHYT; mức hỗ trợ chưa hợp lý; các thủ tục khám chữa bệnh bằng dịch vụ

BHYT còn nhiều hạn chế, bất cập như: Thủ tục hành chính rườm rà, thời gian chờ

56

đợi lâu, thái độ phục vụ không tốt, chất lượng khám thấp... Chính là những nguyên

nhân cơ bản khiến cho tình trạng người dân quay lưng với dịch vụ BHYT, trong khi

nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh ngày càng tăng cao do yếu tố môi

trường, thời tiết, ăn uống, sinh hoạt... tác động. Sau đây là ý kiến chia sẻ của người

dân về tình trạng sử dụng thẻ BHYT ở phường Vĩnh Tuy.

"Tôi thấy đối tượng có BHYT ở phường Vĩnh Tuy tập trung chủ yếu ở một số

nhóm đối tượng đặc thù như: người lao động tại các cơ quan doanh nghiệp; trẻ em;

người cao tuổi; cán bộ hưu trí; người có công... Còn lại những người bình thường

họ vẫn chưa mặn mà với dịch vụ này, vì nhiều người có tâm lý khi có bệnh mới đi

điều trị, bỏ ra số tiền mua BHYT về nhà bỏ đấy, còn chưa nói khi sử dụng nó còn

vướng mắc nhiều thứ phiền toái lắm" (PVS chị Lê Lan Anh, 28 tuổi, quê Ninh Bình,

nghề nghiệp: buôn bán tự do).

Tâm lý chung của những người chưa tham gia BHYT đó là họ thấy mức phí

đóng BHYT vẫn còn cao, khi tham gia khám chữa bệnh thì thủ tục lằng nhằng, phức

tạp, không thuận tiện...do đó mà tâm lý kể cả những người tham gia BHYT một vài

lần nếu họ không sử dụng đến khi khám chữa bệnh họ sẽ có tâm lý bắt đầu thấy

không có hiệu quả. Điều này cần phải có những chính sách hợp lý để người dân

tham gia cảm thấy BHYT là cần thiết và hữu ích. Cũng có ý kiến cụ thể về vấn đề

tham gia BHYT gặp phải những trở ngại khi tham gia khám bệnh như chị Đào Thị

Cúc, 32 tuổi, là công nhân 8 năm ở nhà máy bánh kẹo Hải Châu, quê Sơn La cho

biết:

"Sở dĩ mức độ bao phủ của BHYT còn ở mức thấp, theo tôi nghĩ là nguyên

nhân nằm ở dịch vụ này thôi, nhiều người có thẻ BHYT họ còn nghi ngại, thấy chán

khi sử dụng dịch vụ, tâm lý chung ở người dân đó là họ hướng tới những dịch vụ

thuận tiện, vừa túi tiền, lại không gặp phiền phức khi tham gia chăm sóc sức khỏe,

khám chữa bệnh. Ngoài ra, theo tôi để tăng số lượng người tham gia BHYT thì điều

tất yếu phải chấn chỉnh chất lượng dịch vụ và cung cách phục vụ các đối tượng có

thẻ BHYT, tránh việc họ quay lưng lại với dịch vụ bằng những câu phàn nàn như

hiện nay" (PVS chị Đào Thị Cúc, 32 tuổi, quê Sơn La, nghề nghiệp: công nhân).

57

Như vậy ta có thể thấy vấn đề tuyên truyền và nâng cao chất lượng khám chữa

bệnh là yếu tố cần quan tâm hàng đầu để tạo sự tin tưởng cho người dân tham gia

BHYT và những vấn đề về thủ tục hành chính cũng cần phải được giảm thiểu một

cách tối đa để không mất nhiều thời gian. Cần nâng cao chất lượng dịch vụ BHYT

để người bệnh, đặc biệt đối với những người thường xuyên phải điều trị dài ngày

hoặc những bệnh tốn kém tiền bạc thấy có ích và tham gia thường xuyên.

Tiểu kết:

Như vậy, từ kết quả khảo sát và thu thập thông tin, nghiên cứu đã làm rõ thực

trạng vấn đề sử dụng BHYT phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

ở đối tượng là người dân di cư chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, mặc dù có

thẻ BHYT tuy nhiên việc sử dụng thẻ BHYT phục vụ mục đích khám bệnh, chăm

sóc sức khỏe của người dân di cư còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc từ phía dịch

vụ BHYT và cả từ phía người sử dụng. Phần lớn người dân di cư khi sử dụng

BHYT tham gia khám chữa bệnh họ đều gặp những khó khăn như: Thủ tục hành

chính, thời gian chờ đợi lâu, hiểu biết của họ về dịch vụ BHYT còn nhiều hạn chế,

chất lượng khám chữa bệnh bằng dịch vụ còn nhiều bất cập, thái độ phục vụ của

một bộ phận cán bộ nhân viên y tế chưa tốt, việc đi lại di chuyển đến các cơ sở y tế

còn hiều khó khăn... Đây chính là những hạn chế, tồn tại trong việc sử dụng dịch vụ

BHYT đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của nhân dân nói

chung và ở nhóm người dân di cư phường Vĩnh Tuy nói riêng

Qua nghiên cứu cho thấy, hầu như người di cư tại phường Vĩnh Tuy đều gặp

phải ít nhất một khó khăn khi sử dụng dịch vụ BHYT và đánh giá của họ về dịch vụ

y tế hiện tại, đề ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cáo chất lượng dịch vụ. Xu

hướng chung về sử dụng dịch vụ BHYT của những người di cư không sử dụng

BHYT và những người dân di cư hiện đang sử dụng thẻ BHYT. Từ việc nghiên cứu

thực trạng sử dụng BHYT trong chăm sóc sức khỏe ở người dân di cư, sẽ góp phần

cung cấp những cơ sở khoa học quan trọng cho việc đánh các yếu tố tác động đến

việc chăm sóc sức khỏe của người di cư qua nghiên cứu trường hợp phường Vĩnh

Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

58

Chƣơng 3

XU HƢỚNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC CHĂM

SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI DI CƢ ĐẾN PHƢỜNG VĨNH TUY

3.1. Đánh giá về xu hƣớng hoạt động khám chữa bệnh thông qua dịch vụ

BHYT

3.1.1.Nhu cầu sử dụng thẻ BHYT khi ốm đau của người dân di cư tại địa

bàn nghiên cứu

Biểu đồ 2.6 thể hiện kết quả đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT, của đối

tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Biểu 2.6. Đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT (Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Kết quả khảo sát 300 đối tượng về mức độ cần thiết của BHYT đối với bản

thân cho thấy, số người đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT ở mức "rất cần

thiết" chiếm tỷ lệ cao nhất với 58,2% số người tham gia trả lời và 22,5% số người

đưa ra đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT ở mức "cần thiết". Như vậy, gộp cả

hai mức đánh giá "rất cần thiết" và "cần thiết" thì có trên 70% số người tham gia trả

lời đánh giá cao sự cần thiết, tầm quan trọng và vai trò của BHYT, nhóm đối tượng

tham gia trả lời đã nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng BHYT phục vụ nhu

cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, họ biết được những quyền và lợi ích mà

59

họ được thị hưởng từ dịch vụ này. Số người đưa ra đánh giá về mức độ cần thiết của

BHYT ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ 14,4%; tuy nhiên, có 3,3% người tham gia

trả lời có đánh giá về sự cần thiết của BHYT ở mức "không cần thiết", thường tập

trung ở nhóm người có thẻ BHYT nhưng họ chưa sử dụng hoặc khi sử dụng họ chỉ

nhìn thấy những khó khăn, hạn chế của dịch vụ này; có 1,6% số người không có

đánh giá (không biết) về sự cần thiết của dịch vụ này.

Như vậy, phần lớn nhóm đối tượng khảo sát thuộc người dân di cư đã ý thức

được tầm quan trọng, sự cần thiết của việc sử dụng BHYT đối với bản thân và gia

đình. Họ hiểu rõ về quyền và lợi ích của họ khi sử dụng BHYT tham gia khám chữa

bệnh như: Được giảm chi phí khám chữa bệnh, được cấp phát thuốc miễn phí theo

quy định, được hướng dẫn hỗ trợ khi tham gia khám chữa bệnh bằng BHYT, được

hỗ trợ các dịch vụ liên quan khác tới BHYT... Tuy nhiên, nhiều người cho rằng mặc

dù nhiều lợi ích từ việc sử dụng BHYT, song những khó khăn mà dịch vụ này mang

tới cũng rất nhiều. Chính vì vậy, chính quyền địa phương cùng với các ngành liên quan

cần có biện pháp hỗ trợ người dân di cư khi tham gia khám chữa bệnh bằng BHYT một cách

hiệu quả hơn.

"Vì trong gia đình thỉnh thoảng có vợ tôi thường phải đi bệnh viện kiểm tra

sức khỏe do sức khỏe yếu, sử dụng BHYT lại được miễn giảm một khoản viện phí

lớn, nên tôi luôn đánh giá cao lợi ích mà BHYT mang lại. Tuy nhiên, khi đi khám tại

bệnh viện tôi thấy có những thủ tục rất phức tạp, đây là khó khăn lớn nhất mà tôi và

nhiều người khác gặp phải, những thủ tục này thường rất phiền hà và mất thời gian,

nhiều khi phải lo việc cơ quan nhưng tôi lại phải chờ hàng mấy giờ đồng hồ chỉ để

làm thủ tục hành chính. Vì thế, trong thời gian tới, tôi rất mong các bệnh viện có

những cơ chế, chính sách phù hợp nhằm giảm bớt những thủ tục giấy tờ để người

dân như chúng tôi tiếp cận dịch vụ một cách hiệu quả hơn, ngoài ra cử những cán

bộ y tế có chuyên môn làm công tác tư vấn để chúng tôi năm vững quy trình khám

tốt hơn" (PVS anh Đoàn Văn Thành, 28 tuổi, quê Yên Bái, nghề nghiệp: công

nhân).

60

Bảng 2.16 thể hiện kết quả đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT theo

nhóm tuổi, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra

cho thấy:

Bảng 2.16. Đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT theo nhóm tuổi

(Đơn vị: %; N=300)

Nhóm tuổi

16-29 30-44 45-60 Mức độ đánh giá

Rất cần thiết N 50 56 68

% 16,7 18,7 22,7

Cần thiết N 13 21 34

% 4,3 7,0 11,3

Bình thường N 12 12 18

% 4,0 4,0 6,0

Không cần thiết N 0 5 5

% 0 1,7 1,7

Không biết N 2 1 3

% 0,7 0,3 1,0

Tổng N 77 95 128

% 25,7 31,7 42,7

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi

của đối tượng tham gia điều tra, ở mức độ "Rất cần thiết" chiếm tỷ lệ người tham

gia trả lời cao nhất , trong đó số người thuộc nhóm tuổi 45-60 chiếm tỷ lệ cao nhất

với 22,7%; hai nhóm tuổi còn lại chiếm tỷ lệ người tham gia trả lời tương đối (30-

44 là 18,7%; 16-29 là 16,7%); như vậy, không có sự chênh lệch lớn ở cả 3 nhóm

tuổi được điều tra ở mức độ đánh giá này. Số người có đánh giá ở mức "cần thiết"

cũng chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 44-60 với 11,3% và có chiều hướng giảm

61

dần đối với các nhóm tuổi thấp hơn nhóm tuổi 30-44 (7,0%); nhóm tuổi 16-29

(4,3%). Số người có đánh giá ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ trung bình, không có

sự khác biệt lớn ở 3 nhóm tuổi, trong đó nhóm tuổi cao nhất là 45-60 vẫn chiếm tỷ

lệ cao nhất là 6,0% và 2 nhóm tuổi còn lại cùng chiếm tỷ lệ là 4,0%. Đáng chú ý là

vẫn còn một tỷ lệ nhất định người tham gia trả lời thuộc 2 nhóm tuổi 30-44 và 45-

60 đưa ra đánh giá về sự cần thiết của BHYT ở mức "không cần thiết", ở nhóm tuổi

16-29 không có người trả lời. Và còn một tỷ lệ nhỏ người tham gia điều tra thuộc cả

3 nhóm tuổi không có đánh giá (không biết) về sự cần thiết của BHYT.

Có thể thấy rằng, không có sự khác biệt lớn giữa những người có nhóm tuổi

khác nhau tham gia đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT, nhóm tuổi 45-60 luôn

chiếm tỷ lệ cao hơn so với 2 nhóm tuổi còn lại, điều này có thể lý giải là do nhu cầu

sử dụng BHYT ở nhóm tuổi này cao hơn 2 nhóm tuổi còn lại, việc sử dụng BHYT ở

nhóm tuổi 45-60 cũng thường xuyên hơn, bởi ở nhóm tuổi này phần lớn họ đều đã

có gia đình, họ đã ý thức được tầm quan trọng cũng như vai trò không thể thiếu của

việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe một cách thường xuyên; chính vì vậy, đối

với họ BHYT có tầm quan trọng rất lớn, đấy là sự khác biệt chủ yếu trong sử dụng

BHYT ở các nhóm tuổi khác nhau. Sau đây là ý kiến phỏng vấn sâu của đối tượng

khảo sát về việc sử dụng BHYT.

"Tôi thấy phần lớn nhưng người lao động lớn tuổi, có thâm niên công tác lâu

năm thường có nhu cầu về chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cao hơn so với

những lao động trẻ, bản thân tôi cũng thấy điều đó khi chưa lập gia đình tôi cảm

thấy việc kiểm tra sức khỏe, khám chữa bệnh là chuyện không cần thiết. Tuy nhiên,

khi đã làm việc lâu năm ở cái nghề hàn xì này, lại cũng đã lập gia đình và có con

cái tôi thấy việc sử dụng BHYT để bản thân có điều kiện được kiểm tra sức khỏe,

khám chữa bệnh thường xuyên hơn là điều rất cần thiết, giúp mình biết được tình

trạng sức khỏe hiện tại để có những điều chỉnh hợp lý về ăn uống, sinh hoạt và làm

việc một cách phù hợp hơn" (PVS anh Lê Huy Nam, 29 tuổi, quê Quảng Ninh, nghề

nghiệp: công nhân).

62

Bảng 2.17 thể hiện kết quả đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT theo nghề

nghiệp, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho

thấy:

Bảng 2.17. Đánh giá về mức độ cần thiết của BHYT theo nghề nghiệp

(Đơn vị: %; N=300)

Nghề nghiệp

Kinh Mức độ đánh giá

doanh, Kỹ sư,

Công nhân Giáo viên buôn bán bác sĩ Tổng

Rất cần thiết N 123 7 40 4 174

% 41,0 2,3 13,3 1,3 58,0

Cần thiết N 52 4 11 1 68

% 17,3 1,3 3,7 0,3 22,7

Bình thường N 29 2 11 0 42

% 9,7 0,7 3,7 0 14,0

Không cần thiết N 8 0 2 0 10

% 2,7 0 0,6 0 3,3

Không biết N 4 0 2 0 6

% 1,3 0 0,7 0 2,0

Tổng N 216 13 65 5 300

% 72,0 4,3 22,0 1,6 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người thuộc 4 nhóm ngành nghề khác nhau, tham gia đánh

giá về mức độ cần thiết của BHYT kết quả cho thấy. Những người đánh giá về sự

cần thiết của BHYT ở mức "rất cần thiết" chiếm tỷ lệ cao nhất ở những người đang

làm công nhân với 41,0% (tương đương với 123 người tham gia trả lời); ở các

63

ngành nghề khác chiếm tỷ lệ không đáng kể như: Kinh doanh, buôn bán chiếm

13,3%; giáo viên chiếm 2,3% và những người làm nghề kỹ sư, bác sĩ chiếm 1,3%;

như vậy, phần lớn người tham gia trả lời hiện đang có nghề nghiệp là công nhân,

việc làm công nhân có những khó khăn, độc hại đến sức khỏe, thường phát sinh

những bệnh tật vì vậy họ ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng BHYT là rất

cần thiết. Ở mức đánh giá "cần thiết" những người hiện đang có nghề nghiệp là

công nhân cũng chiếm tỷ lệ cao nhất với 17,3% số người trả lời, ở các nghề nghiệp

còn lại chiếm tỷ lệ thấp không đáng kể như: Kinh doanh, buôn bán chiếm 3,7%;

giáo viên 1,3% và kỹ sư, bác sĩ chiếm 0,3%. Như vậy, những người hiện đang có

nghề nghiệp là công nhân chiếm tỷ lệ cao trong nhóm điều tra, song việc ý thức về

việc sử dụng BHYT tham gia khám chữa bệnh của họ rất cao.

Số người đánh giá về sự cần thiết của BHYT ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ

thấp không đáng kể ở cả 4 nhóm nghề nghiệp chính, trong đó những người có nghề

nghiệp là công nhân chiếm tỷ lệ cao nhất với 9,7%; kinh doanh, buôn bán chiếm

3,7%; giáo viên chiếm 0,7%; kỹ sư, bác sĩ không cố người trả lời. Điều đáng quan

tâm là có một tỷ lệ nhỏ người tham gia trả lời thuộc nhóm người đang làm công

nhân vè kĩnh doanh, buôn bán đưa ra đánh giá về sự cần thiết của BHYT ở mức

"không cần thiết", chiếm 2,7% ở những người làm nghề công nhân và 0,6% ở

những người đang làm nghề kinh doanh, buôn bán; đa phần những người đưa ra

đánh giá này đều có những khó khăn vướng mắc trong sử dụng BHYT, thậm chí họ

có BHYT nhưng chưa bao giờ sử dụng; bên cạnh đó còn một tỷ lệ nhỏ người tham

gia trả lời không đưa ra đánh giá nào khi được hỏi.

Như vậy, có thể thấy khá rõ rằng, yếu tố nghề nghiệp cũng là một trong những

yếu tố quan trọng trong việc sử dụng BHYT, chính vì vậy phần lớn người tham gia

điều tra có nghề nghiệp là công nhân họ đã ý thức được vai trò, trách nhiệm, tầm

quan trọng và sự cần thiết nên tham gia dịch vụ BHYT để phục vụ nhu cầu khám

chữa bệnh, nghề công nhân công việc của họ rất đa dạng phải tiếp xúc với các môi

trường khó khăn, độc hại... cũng chính là điều kiện phát sinh bệnh tật cũng như tác

động lớn tới sức khỏe của họ, chính vì vậy nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa

64

bệnh ở nhóm người đang làm nghề công nhân cũng ca hơn so với các nhóm khác và

do đặc thù những người lao động nhập cư phần lớn đều đang làm nghề công nhân

trong các công ty, nhà máy, xưởng sản xuất trên địa bàn phường Vĩnh Tuy. Sau đây

là ý kiến chia sẻ của đối tượng khảo sát.

"Tôi làm công nhân ở nhà máy sản xuất giày da, do phải tiếp xúc với những

chất độc hại từ công đoạn sản xuất giầy, nên tôi bị mắc chứng bệnh về hô hấp,

thỉnh thoảng tôi vẫn phải đi khám bệnh tại bệnh viện để biết được tình trạng sức

khỏe và diễn tiến bệnh tật ra sao, nghề công nhân như vậy đấy chị không bị bệnh nọ

cũng tật kia, may mà tôi có sử dụng BHYT chính vì vậy bản thân cũng có điều kiện

đi khám thường xuyên hơn. Tôi thấy được việc sử dụng BHYT ở người lao động như

chúng tôi là rất quan trọng và cần thiết" (PVS chị Đặng Thị Hoan, 30 tuổi, quê

Thanh Hóa, nghề nghiệp: công nhân).

Đối với những người công nhân được khảo sát thì phần lớn họ đều tham gia

BHYT và sử dụng dịch vụ này trên 1 lần. Theo họ thì sử dụng dịch vụ BHYT có

nhiều thuận lợi bởi cơ sở y tế phường gần nơi họ ở, tiết kiệm chi phí đi lại, lại

không quá đông, hơn nữa với những bệnh đơn giản thì lại được hưởng lợi nhiều từ

việc mua thuốc men.

65

3.1.2.Đánh giá về lợi ích của thẻ BHYT khi ốm đau

Biểu đồ 2.7 thể hiện kết quả đánh giá về chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ

BHYT, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho

thấy:

Biểu 2.7. Đánh giá về chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT (Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Khi được được đưa ra đánh giá về chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ

BHYT thì số người tham gia trả lời cho ý kiến đánh giá cụ thể như sau. Đánh giá về

"chuyên môn và thái độ phục vụ của cán bộ y tế" thì có gần 50% số người đưa ra

đánh giá ở mức "không hài lòng" chiếm tỷ lệ cao nhất với 48,1%, điều này cho thấy

chuyên môn và thái độ phục vụ của cán bộ y tế khi khám chưa bệnh cho đối tượng

có BHYT còn chưa được đảm bảo, đại bộ phận người tham gia khám chữa bệnh

hiện nay họ rất than phiền về thái độ phục vụ của nhân viên y tế không tốt, khi vào

khám thì họ được khám rât sơ sài, qua loa, vì vậy người bệnh họ không có sự tin

tưởng nhiều vào chuyên môn của y bác sĩ khám cho họ. Chiếm tỷ lệ cao thứ hai là

số người có đánh giá ở mức "hài lòng" về chuyên môn và thái độ phục vụ của cán

bộ y tế chiếm 40,4% số người tham gia trả lời; số người đưa ra đánh giá ở mức "rất

hài lòng" chiếm tỷ lệ thấp nhất với 11,5%, có thể thấy số người đánh giá ở mức "hài

lòng" và "rất hài lòng" chủ yếu tập trung ở nhóm người họ gặp thuận lợi trong khám

66

chữa bệnh, khám chữa bệnh tại các cơ ở uy tín vì vậy việc họ được phục vụ tốt hơn

những nhóm đối tượng khác khám ở các cơ sở y tế không có uy tín. Như vậy, gộp

cả 2 mức đánh giá "hài lòng" và "rất hài lòng" thì có hơn 50% số người có đánh giá

tốt về việc khám chữa bệnh bằng dịch vụ BHYT, trong thời gian tới các cơ sở y tế

cần co sự chấn chỉnh về chất lượng đội ngũ cán bộ và thái độ phục vụ, nhằm tạo sự

tin tưởng cho đại đa số người dân tham gia khám chữa bệnh bằng BHYT.

Đánh giá về "số lượng và chất lượng thuốc được cấp theo thẻ BHYT" thì có

hơn 50% số người cho biết họ "hài lòng" về vấn đề này, chiếm tỷ lệ 52,5% số người

tham gia trả lời và 12,1% số người "rất hài lòng" về vấn đề này. Như vậy, có thể

thấy ở vấn đề cấp phát thuốc theo thẻ BHYT người tham gia khảo sát có đánh giá

tốt hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tới 34,5% số người tham gia trả lời cho biết họ "không

hài lòng" về "số lượng và chất lượng thuốc được caapps theo thẻ BHYT", rõ ràng ở

vấn đề này đang có những phát sinh tiêu cực, gây phiền hà cho người tham gia

khám chữa bệnh, chính vì vậy họ vẫn phàn nàn về dịch vụ này, chiếm một tỷ lệ

tương đối người tham gia trả lời. Như vậy, có thể thấy về vấn đề cấp phát thuốc

theo thẻ BHYT tuy có những vấn đề phát sinh do chất lượng và số lượng thuốc mà

người dân được nhận còn chưa đảm, song phần lớn người dân đánh giá về dịch vụ

này ở mức tốt, đây chính là cơ sở quan trong để tiếp tục phát huy và chấn chỉnh

những vấn đề tiêu cực còn tồn tại xung quanh hoạt động khám chữa bệnh bằng

BHYT.

Số người tham gia trả lời đánh giá về "chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám chữa

bệnh theo thẻ BHYT" ở mức "hài lòng" chiếm hơn 70% số người tham gia trả lời,

với 72,9%, rõ ràng hiện nay các cơ sở y tế ngày càng được nâng cấp, các rang thiết

bị kỹ thuật phục vụ khám chữa bệnh ngày càng được trang bị mới. Vì vậy, chất

lượng dịch vụ này cũng dần được nâng cao và được người dân tin tưởng đánh giá

cao; bên cạnh đó có 9,8% số người cho biết họ "rất hài lòng" về chất lượng dịch vụ

kỹ thuật khám chữa bệnh theo thẻ BHYT. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ nhất định

người tham gia trả lời cho biết họ "không hài lòng" với chất lượng dịch vụ kỹ thuật

khám chữa bệnh theo thẻ BHYT, chiếm 17,3%. Có thể thấy, đa phần người tham

gia trả lời đều đánh giá cao "chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám chữa bệnh theo thẻ

67

BHYT", điều này phản ánh về thực trạng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị ngành y tế

thời gian gần đây đang được quan tâm, đổi mới và có những bước tiến phù hợp gắn

với thực tiễn nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Sau đây là ý kiến chia sẻ của

đối tượng khảo sát về chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT.

"Nếu đánh giá cho đúng tình hình thực tế về chất lượng dịch vụ khám chữa

bệnh bằng BHYT thì tôi thấy có những lĩnh vực dịch vụ này thực hiện rất tốt, nhưng

cũng có những lĩnh vực dịch vụ này còn có nhiều tiêu cực. Điểm tích cực là hiện

nay về cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh ngày càng được cải thiện, điểm tiêu

cục thì rất nhiều như: thái độ phục vụ chưa tốt, thuốc men còn chưa đảm bảo về chất

lượng và số lượng khi cấp, chuyên môn của một bộ phận nhỏ y bác sĩ chưa cao... ảnh

hưởng nhiều tới chất lượng khám" (PVS chị Trần Thị Chiên, 27 tuổi, quê Thanh Hóa,

nghề nghiệp: giáo viên).

Đa số những người tham gia BHYT khi khám chữa bệnh đánh giá về chất lượng

thuốc men được cấp theo bảo hiểm là chưa tốt. Những thuốc đặc trị bệnh thì chỉ được

hưởng bảo hiểm rất ít hoặc không có trong danh mục thuộc BHYT. Bên cạnh đó thì

thái độ phục vụ của một số y bác sĩ khi bệnh nhân tham gia BHYT chưa làm hài lòng

người bệnh.

Biểu đồ 2.8 thể hiện kết quả đánh giá về thủ tục khám chữa bệnh bằng thẻ

BHYT, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho

thấy:

Biểu 2.8. Đánh giá về thủ tục khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT (Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

68

Trong số 300 người tham gia khảo sát, số người đánh giá về thủ tục khám

chữa bệnh bằng thẻ BHYT ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ cao nhất với 57,8% số

người gia trả lời; và có một tỷ lệ nhất định người tham gia trả lời đánh giá về thủ tục

khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT ở mức "rất thuận tiện" là 2,4%; "thuận tiện" là

7,6%, những người đứa ra đánh giá này phần lớn họ tham gia sử dụng dịch vụ này

rất thuận lợi, họ ít khi găp những vướng mắc và khó khăn về thủ tục khám chữa

bệnh bằng thẻ BHYT. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một tỷ lệ nhất định người

tham gia trả lời đánh giá về thủ tục khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT ở mức "không

thuận tiện" chiếm 32,2% số người tham gia trả lời, phần lớn tập trung ở những

người có gặp phải những khó khăn, vướng mắc trong quá trình khám chữa bệnh

băng thẻ BHYT.

Như vậy, qua khảo sát thì có thể thấy phần lớn người tham gia trả lời họ đều

có những thuận lợi nhất định trong quá trình khám chữa bệnh bằng BHYT, song

vẫn còn tồn tại những khó khăn ở một bộ phận người sử dụng thẻ BHYT, chủ yếu

từ thủ tục hành chính phát sinh. Vì vậy, trong định hướng hiện tại và tương lai

ngành y tế cần có những chấn chỉnh về mặt thủ tục hành chính để giảm thiểu những

khó khăn vướng mắc, nâng cao chất lượng phục vụ người dân. Sau đây là chia sẻ

của đối tượng tham gia khảo sát về thủ tục khám chữa bệnh bằng BHYT.

"Tôi thấy hiện nay nhiều bệnh viện và cơ sở y tế các cấp cũng đã có nhiều

biện pháp giải quyết các khó khăn về thủ tục hành chính khi người dân tham gia

khám chữa bệnh. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều cơ sở y tế hiện nay thủ tục khám chữa

bệnh khá rườm rà, phức tạp gây khó khăn và mất thời gian cho người dân. Chính vì

thế mà nhiều người tuy có thẻ BHYT nhưng họ vẫn ngại sử dụng vì sợ nhiều thủ tục

hành chính" (PVS chị Nguyễn Thị Ngân, 24 tuổi, quê Hòa Bình, nghề nghiệp: công

nhân).

Khi được đánh giá về những thủ tục hành chính khi tham gia khám chữa bệnh

thông qua BHYT thì những người tham gia vẫn gặp phải ít nhất một khó khăn khi

làm thủ tục hành chính. Những thủ tục này chính là những rào cản khiến người

tham gia BHYT cảm thấy phức tạp và phiền hà. Đơn giản hóa những thủ tục hành

69

chính và nâng cao chất lượng phục vụ chính là điều cần thiết và quan trọng hàng

đầu để thu hút người dân tham gia BHYT đều đặn.

Biểu 2.9 thể hiện kết quả đánh giá về chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh

cửa các cơ sở y tế tại địa bàn, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy,

kết quả điều tra cho thấy:

Biểu 2.9. Đánh giá về chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của các cở y tế tại địa bàn (Đơn vị:%; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Kết quả khảo sát tại địa bàn phường Vĩnh Tuy, về đánh giá chất lượng dịch vụ

khám chữa bệnh của các cơ sở y tế tại địa bàn cho thấy, số người tham gia điều tra

có đánh giá về chất lượng dịch vụ này ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ cao nhất

với 49,2% số người trả lời và có 20,6% số người đưa ra đánh giá về chất lượng dịch

vụ khá chữa bệnh của các cơ sở y tế trên địa bàn ở mức "tốt", tập trung ở những

người thường xuyên sử dụng dịch vụ y tế vì vậy họ biết được hiện trạng hoạt động

và chất lượng hoạt động của các cơ sở này. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn 28,5%

số người tham gia trả lời cho đánh giá chất lượng khám chữa bệnh của các cơ sở y

tế trên địa bàn phường Vĩnh Tuy ở mức "không tốt", thường tập trung ở nhóm đối

tượng tham gia khám chữa bệnh, sử dụng dịch vụ song họ gặp phải một số phiền hà,

vướng mắc, bất cập trong quá trình sử dụng dịch vụ; có 1,7% số người tham gia

điều tra họ không đánh giá (không biết) được hiện trạng hoạt động của các cơ sở

70

này tại địa phương như thế nào, tập trung ở những người ít hoặc chưa sử dụng dịch

vụ y tế tại địa bàn.

Như vậy, có thể thấy rằng chính những đánh giá của người dân về cơ sở khám

chữa bệnh, về các dịch vụ họ đang tiếp cận, đó chính là những thông tin khách quan

nhất từ người sử dụng dịch vụ, bên cạnh những mặt tích cực, các cơ sở y tế tại

phường Vĩnh Tuy vẫn cò nhiều mặt tiêu cực hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu

của số đông người tham gia khám chữa bệnh, nhất là những đối tượng người dân di

cư. Vì vậy chính quyền địa phương cần kết hợp với các cơ quan ban ngành trong

việc đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng cơ sở vật chất ngành y tế tại địa

phương, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, thu hút lượng người tham gia

khám chữa bệnh thường xuyên hơn. Sau đây là chia sẻ của đối tượng tham gia khám

chữa bệnh tại địa phương.

"Nhiều lúc đến trạm y tế phường để khám tôi thấy một thực trạng đó là cơ sở

vật chất ở đây quá nghèo nàn, ngoài một vài phòng bệnh ở hạng kha khá có các

thiết bị cần thiết ra thì còn lại đều đã cũ kỹ, xuống cấp, nhất là thiếu giường bệnh

cho người điều trị, tôi rất mong trong thời gian tới chính quyền địa phương và

ngành y tế tiến hành đầu tư, nâng cấp cơ sở trạm y tế của phường để thuận tiện cho

người dân khi tham gia khám chữa bệnh" (PVS anh Lê Huy Khánh, 31 tuổi, quê hải

Dương, nghề nghiệp: kinh doanh tự do).

Đây cũng là ý kiến của nhiều người tham gia khảo sát khi được hỏi về chất

lượng cơ sở vật chất khi tham gia khám chữa bệnh tại trạm ý tế của phường Vĩnh

Tuy. Các thiết bị khám chữa bệnh chưa được đầu tư, vẫn còn sơ sài, đa phần chỉ

khám và cấp phát thuốc theo những biểu hiện lâm sàng bên ngoài bệnh nhân miêu

tả. Nếu phải chụp chiếu thì chưa có máy móc, thiết bị hiện đại. Bệnh nhân nếu phải

nằm lại để theo dõi thì cũng chỉ có 2 giường bệnh. Trong thời gian tới rất cần tới sự

đầu tư của các ban ngành y tế để trang bị thêm các thiết bị phục vụ cho việc khám

và chữa bệnh.

Bảng 2.10 thể hiện kết quả đánh giá về khả năng tiếp cận của người dân với

các cơ sở y tế tại địa bàn, của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết

quả điều tra cho thấy:

71

Biểu 2.10. Đánh giá về khả năng tiếp cận của người dân với các cơ sở y tế tại địa bàn (Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Qua kết quả khảo sát về khả năng tiếp cận của người dân với các cơ sở y tế tại

phường Vĩnh Tuy cho thấy, trạm y tế phường là cơ sở thuận tiện nhất đối với nhóm

đối tượng điều tra, có 44,7% số người trả lời cho biết trạm y tế phường là cơ sở

"thuận tiện" nhất do yếu tố gần nhà, đi lại thuận tiện; có 50,1% số người cho biết

khả năng tiếp cận của họ với trạm y tế phường ở mức "bình thường". Tuy nhiên,

vẫn còn một tỷ lệ nhỏ người tham gia trả lời cho biết họ "không thuận tiện" trong

việc tiếp cận với cơ sở trạm y tế phường, chiếm 3,7% số người trả lời và 1,5% số

người không đưa ra đánh giá về vấn đề này. Như vậy, có thể thấy rằng với yếu tố

đặc thù là thuận tiện đi lại, gần nơi ở, vì vậy người dân đánh giá về khả năng tiếp

cận của họ với cơ sở này ở mức cao.

Đối với loại hình trung tâm y tế quận thì có 57,2% số người đánh giá khả năng

tiếp cận cơ sở này ở mức "bình thường"; 16,3% ở mức "thuận tiện" tập trung ở số

người thường xuyên sử dụng cơ sở này trong quá trình khám chữa bệnh. Tuy nhiên,

có tới 25,4% số người cho biết họ "không thuận tiện" khi tiếp cận với cơ sở y tế là

trung tâm y tế quận, thường tập trung ở nhóm đối tượng gặp những khó khăn nhất

định trong tiếp cận cơ sở này như: khoảng cách đi lại, thủ tục, thời gian... là những

72

yếu tố gây khó khăn cho người dân khi tiếp cận với dịch vụ này; ngoài ra, có 1,1%

số người không đưa ra đánh giá (không biết) về vấn đề này.

Ở loại hình là bệnh viện y tế quận có 52,5% số người đưa ra đánh giá về khả

năng tiếp cận của họ với cơ sở này ở mức "bình thường" và 15,7% số người ở mức

"thuận tiện". Điều đáng chú ý là có tới 30,1% số người cho biết họ "không thuận

tiện" trông tiếp cận với dịch vụ của cơ sở y tế này, chủ yếu tập trung ở những người

có những khó khăn như: Khoảng cách đi lại xa, khó khăn về các thủ tục hành chính

và những khó khăn khác liên quan tới vấn đề BHYT... và cso 1,7% số người không

đưa ra đánh giá (không biết) về vấn đề này.

Ở loại hình bệnh viện trung ương số người đưa ra đánh giá về khả năng tiếp

cận với cơ sở y tế này "không thuận tiện" chiếm tỷ lệ khá cao với 63,1% số người

trả lời, điều này có thể lý giải do các yếu tố như: khoảng cách đi lại xa, thời gian

chờ đợi lâu, thủ tục phức tạp... Đây là loại hình y tế cao nhất ở nước ta, hiện nay

nhiều cơ sở đang quá tải bệnh nhân, không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh

của người dân, đa phần người dân đều có ít nhất một vài khó khăn nhất định khi tiếp

cận với loại hình dịch vụ y tế này. Tỷ lệ người tham gia trả lời đánh giá về khả năng

tiếp cận với cơ sở y tế này ở mức bình thường và thuận tiện khá thấp (bình thường

là 24,4%; thuận tiện là 10,7%) và có 2,2% số người không đưa ra đánh giá (không

biết) về vấn đề này.

Như vậy, có thể thấy rằng xu hướng chung của người dân nói chung và người

dân di cư tại địa bàn nói riêng là thường tiếp cận thường xuyên với các cơ sở y tế

thuận tiện nhất là trạm y tế phường. Càng lên các cơ sở y tế cao hơn, khả năng tiếp

cận của người dân với các dịch vụ này càng hạn chế, do tác động của những khó

khăn, hạn chế như: Khoảng cách đi lại, thủ tục hành chính, thời gian chờ đợi, chi

phí... là những yếu tố cơ bản tác động tới khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế của

người dân. Về định hướng lâu dài cần có sự điều chỉnh phù hợp để người dân có thể

tiếp cận với dịch vụ y tế của tất cả các cơ sở một cách thuận lợi nhất. Sau đây là ý

kiến chia sẻ của người dân về vấn đề này.

"Tôi đã có điều kiện tham gia khám chữa bệnh ở tất cả các cơ sở y tế thuộc

các tuyến, thì tôi thấy một điều rằng, phần lớn là các cơ sở y tế như bệnh viện trung

73

ương cho đến các bệnh viện quận đều có những thủ tục khá rắc rối khi người bệnh

đến đây khám và điều trị, nên chỉ khi nào có bệnh tật nặng thì người dân mới đến

các cơ sở y tế tuyến trên để khám và điều trị, còn lại thì phần lớn họ vẫn chọn cư sở

y tế gần nhất như trạm y tế, vừa thuận tiện về đi lại, thủ tục lại nhanh gọn, chi phí

lại hợp lý" (PVS chị Trần Thị Chăm, 28 tuổi, quê Bắc Ninh, nghề nghiệp: công

nhân).

Phần lớn nhóm công nhân được khảo sát họ đánh giá cao về việc chọn cơ sở y

tế phường là nơi đầu tiên để khám chữa bệnh khi tham gia BHYT đối với những

bệnh không quá nguy hiểm và phải điều trị phức tạp. Họ cho rằng cơ sở y tế phường

gần nhà, thuận tiện đi lại, không quá đông nên không mất thời gian chờ đợi lâu, y

bác sĩ cũng nhẹ nhàng. Nếu phải nằm lại theo dõi cũng tiện cho người nhà chăm

sóc, chi phí khám bệnh lại không quá lớn.

3.1.3. Đánh giá về những rào cản trong sử dụng BHYT tham gia khám

chữa bệnh

Qua thực tế khảo sát tại địa bàn về vấn đề chăm sóc sức khỏe, các yếu tố tác

động đến việc chăm sóc sức khỏe, việc sử dụng BHYT trong việc chăm sóc sức

khỏe, khám chữa bệnh của người dân di cư, tại địa bàn phường Vĩnh Tuy cho thấy,

phần lớn người dân di cư gặp khó khăn trong sử dụng BHYT tham gia khám chữa

bệnh ở các vấn đề như: Thiếu hiểu biết về quyền và lợi ích khi sử dụng BHYT, hiểu

sai lệch về dịch vụ BHYT; hay những khó khăn trong sử dụng dịch vụ khám chữa

bệnh bằng BHYT như: Bất tiện trong di chuyển đi lại, thời gian chờ đợi làm thủ tục

lâu, thủ tục hành chính phức tạp, chất lượng dịch vụ khám và điều trị bằng BHYT

nhiều cơ sở còn chưa đảm bảo, thái độ phục vụ của nhân viên y tế chưa tốt, chuyên

môn nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ y bác sĩ chưa tốt; cơ sở vật chất kỹ thuật

phục vụ khám chữa bệnh qua dịch vụ BHYT chưa đảm bảo chất lượng. Sau đây, là

những chai sẻ của nhóm đối tượng người dân di cư được khảo sát, về những khó

khăn họ gặp phải trong quá trình khám chữa bệnh bằng BHYT.

* Những khó khăn về thiếu hiểu biết, hiểu sai lệch về quyền và lợi ích khi

khám chữa bệnh bằng BHYT:

74

"Tôi tuy được cơ quan làm việc cấp thẻ BHYT để phục vụ nhu cầu khám chữa

bệnh. Tuy chưa đi khám bao giờ, nhưng nghe mấy người ở cạnh nhà nói là dịch vụ

này phức tạp lắm, khi đi khám mà sử dụng dịch vụ BHYT chỉ tổ mất thời gian, thôi

thì cứ ra ngoài bỏ tiền khám cho nhanh. Nhiều khi tôi muốn biết quyền lợi mình

được hưởng trong cái dịch vụ BHYT này là gì, thì không biết hỏi ai chỉ nghe loáng

thoáng mọi người nói là khi sử dụng thì được giảm chi phí khám chữa bệnh thế

thôi, còn những quyền lợi khác thì tôi không biết" (PVS chị Lê Thị Hoạt, 31 tuổi,

quê Lào Cai, nghề nghiệp: công nhân).

Những người có tham gia BHYT nhưng chưa bao giờ sử dụng dịch vụ này lại

có chung một tâm lý đó là khi nghe người ngoài kể về những thủ tục hành chính khi

đăng khám, chờ đợi kết quả và thanh toán phí thuốc men thì thấy phức tạp, mất thời

gian. Nhóm đối tượng này phần lớn là nhân viên công ty, các ngành nghề kinh

doanh hoặc dịch vụ, kinh tế của họ ổn định hơn, họ lại ít có thời gian để chờ đợi...do

đó nếu có mắc bệnh phải đi khám họ cũng chọn dịch vụ khám cho nhanh, tiện lợi

không phải xếp hàng. Đó là một trong những nhận thức sai lầm và lãng phí tiền bạc

khi họ chưa thử một lần khám thông qua BHYT mà hàng tháng họ đều phải đóng

tiền mà không sử dụng đến.

"Thẻ BHYT tôi được cấp nhưng có sử dụng làm gì đâu, sử dụng vào chỉ thêm

phức tạp mất thời gian chờ đợi thôi, chẳng được cái lợi lộc gì, có cũng như không,

vì đi khám bệnh có bao giờ tôi chìa BHYT ra đâu, thấy lợi ích của nó cũng chẳng

được là mấy, phiền phức mang lại thì nhiều nên tuy có thẻ nhưng tôi không dùng

mà cất đi, những lần đi khám tôi thường ra phòng khám tư nhân bên ngoài để khám

cho nhanh, khỏi mất thời gian" (PVS anh Nguyễn Văn Huy, 34 tuổi, quê Hà Tĩnh,

nghề nghiệp: công nhân).

* Những khó khăn trong quá trình sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh bằng

BHYT như:

Khó khăn về di chuyển đi lại: "Tôi thấy việc bất tiện nhất là việc phải di

chuyển xa để đến được một cơ sở khám chữa bệnh theo yêu cầu, lại phải là cơ sở họ

có thanh toán phí khám chữa bệnh bằng BHYT thì mới được hỗ trợ, đấy là khó khăn

không chỉ của riêng tôi mà của rất nhiều người dân sống tại đây. Nhiều lần đêm

75

hôm bị ốm tôi thấy nhiều người trong khu trọ tuy có thẻ BHYT nhưng đường xá bất

tiện không thể đi lên bệnh viện tuyến trên được, nhiều trường hợp khẩn cấp thì

chúng tôi thấy rất bất tiện" (PVS chị Nguyễn Thị Tâm, 26 tuổi, quê Thái Bình, nghề

nghiệp: công nhân).

Khó khăn về thủ tục hành chính: "Tôi thấy bất tiện lớn nhất là làm thủ tục

giấy tờ liên quan tới khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT, thủ tục đôi khi mình lại

không hiểu, cũng vì vậy mà hay bị mấy cô y bác sĩ cáu gắt, lúc đây cần vào lắm rồi

nên mình cũng đành im lặng cho qua chuyện, nhiều vấn đề mình chưa hiểu về thủ

tục BHYT khi hỏi còn bị nhiều cô y tá mắng, tôi thấy ngoài thủ tục phức tạp làm đa

phần người bệnh đều không mặn mà với dịch vụ này, thì khó khăn lớn nhất là chẳng

ai giúp mình giải thích, khi hỏi y bác sĩ thì phàn lớn đều bị ăn mắng với chửi" (PVS

anh Đinh Tuấn Hoàng, 25 tuổi, quê Bắc Ninh, nghề nghiệp: công nhân).

Khó khăn về thái độ phục vụ của nhân viên y tế chưa tốt: "Tôi xin được thay

mặt nhiều người sử dụng BHYT để nói về vấn đề thái độ phục vụ không tốt của một

bộ phận không nhỏ nhân viên y tế, khi chúng tôi sử dụng BHYT tham gia khám

chữa bệnh, họ chắc chưa hiểu được tâm lý người bệnh nên đôi khi chúng tôi đã chờ

đợi lâu vào trong còn bị họ mắng nhiếc những câu không được dễ chịu về sự chậm

chạp, không hiểu biết, vào khám thì khám quoa loa cho xong và bảo ra ngoài luôn;

tôi mong ngành y tế cần có biện pháp để chấn chỉnh lại thái độ phục vụ của một bộ

phận cán bộ y tế này" (PVS chị Tại Thiều Chi, 29 tuổi, quê Yên Bái, nghề nghiệp:

công nhân).

Như vậy, từ kết quả khảo sát từ hoạt động phỏng vấn sâu thu thập ý kiến cho

thấy, bên cạnh những kết quả và chất lượng đạt được về hoạt động chăm sóc sức

khỏe, khám chữa bệnh qua dịch vụ BHYT, thì vấn đề khám chữa bệnh bằng BHYT

hiện nay còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế bất cập gây phiền hà, ảnh hưởng

nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh, được quy định trong

các văn bản pháp luật. Chính vì vậy, để đảm bảo người dân nói chung và người dân

di cư nói riêng, được tiếp cận một dịch vụ y tế chuyên nghiệp, thì chính quyền các

cấp cần phối hợp với các cơ sở y tế, bộ ngành có liên quan đẻ nâng cao và chấn

chỉnh hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe qua dịch vụ BHYT

76

3.2. Xu hƣớng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của ngƣời dân di cƣ tại phƣờng

Vĩnh Tuy

3.2.1. Xu hướng mua thẻ BHYT của những người di cư không tham gia

BHYT

Tại phường Vĩnh Tuy sau khi tiến hành khảo sát bảng hỏi, phỏng vấn sâu,

đặc biệt sử dụng phương pháp phỏng vấn trường hợp, trong đó có việc lựa chọn

phỏng vấn một hộ gia đình hiện không tham gia BHYT. Phần lớn do các nguyên

nhân như: Khó khăn về kinh tế - tài chính, việc làm không ổn định, thu nhập thấp,

mức sống còn khá eo hẹp... Chính vì vậy, nhóm những hộ gia đình hiện tại chưa có

thẻ BHYT họ không có điều kiện nhiều để quan tâm tới các vấn đề về chăm sóc sức

khỏe, khám chữa bệnh thường xuyên như các nhóm di cư khác.

Về độ tuổi: phần lớn những người di cư không tham gia BHYT có cả ở 3

nhóm tuổi 16-29, 30-44 và 45-60. Tuy nhiên, đa phần nằm ở độ tuổi trẻ nhất từ 16-

29 vì ở độ tuổi này phần lớn công việc còn chưa ổn định, thu nhập và mức sống còn

thấp, nhiều người sau khi di cư đến phường Vĩnh Tuy họ gặp phải nhiều khó khăn,

các khó khăn này còn chưa được khắc phục, họ còn phải lo cho cuộc sống sinh hoạt

hằng ngày nên vẫn chưa có điều kiện chăm lo cho vấn đề sức khỏe. Nhiều người

trong độ tuổi 16-29 chia sẻ về khó khăn của họ khi di cư đến phường Vĩnh Tuy

phần lớn là các khó khăn về vật chất, ngoài ra việc định cư tại cơ sở mới còn chưa

chắc chắn, mang tính lâu dài vì vậy việc di cư ở nhóm tuổi này cũng không mang

tính ổn định cao, thậm chí có nhiều trường hợp sau khi di cư đến đước một thời gian

ngắn do gặp khó khăn tại nơi di cư đến, công việc không phù hợp... Khiến cho họ

phải tiếp tụ di cư đến địa bàn khác, chủ yếu rơi vào nhóm tuổi 16-29; ở lại nhóm

tuổi còn lại từ 30-44 và từ 45-60 tỷ lệ này có xu hướng ổn định hơn, nhu cầu và tình

trạng chăm sóc sức khỏe ở hai nhóm đối tượng này cũng cao hơn hẳn, so với nhóm

tuổi 16-29. Sau đây là những chia sẻ của những người dân di cư không có điều kiện

tham gia BHYT.

"Đến phường Vĩnh Tuy để làm việc và cư trú tôi và nhiều người khác gặp rất

nhiều khó khăn, công việc thu nhập thì thấp, mỗi tháng làm công nhân cơ khí được

3,5 triệu, đóng tiền phòng trọ, trừ các khoản ăn uống hằng ngày, các khoản chi tiêu

77

khác thì còn thiếu ấy chứ, lấy đâu ra nữa để có tiền mà mua BHYT, nhiều lúc tôi

thấy cũng muốn chuyển đi nơi khác nhưng cố làm kiếm ít vốn để đến nơi khác kiếm

việc khỏi chật vật, chứ đồng lương ít ỏi như này thời buổi kinh tế lại khó khăn. Hiện

tại tôi không có điều kiện để tham gia BHYT, chắc khi nào công việc và thu nhập ổn

định tôi sẽ tham gia đóng cả BHYT, BHXH để yên tâm hơn khi lao động. Nhưng nói

thế thôi chứ biết khi nào mà ổn định được, làm được đồng nào xào đồng ấy thì lấy

đâu ra mà lo cho tương lai, khi nào ốm đau, thấy mệt trong người thì tự ra hiệu

thuốc mua thuốc về uống là khỏi ngay ấy mà, cứ cầu kì hơi một chút là đi bệnh viện

khám BHYT thì không có, tiền thì không nhiều, đến đấy thi cả tháng nhịn ăn luôn,

nói chung là những người di cư như chúng tôi gặp khá nhiều khó khăn" (PVS chị

Hoàng Thị Liễu, 22 tuổi, quê Lạng Sơn, nghề nghiệp: công nhân).

3.2.2. Xu hướng sử dụng thẻ BHYT của những người di cư khi tham gia

BHYT

Phần lớn những người di cư hiện đang tham gia BHYT, họ đều có những

nguyện vọng tiếp tục được tham gia. Song họ rất mong muốn cơ quan BHYT, và

những phòng ban có liên quan cần có chính sách hỗ trợ họ hơn nữa về mức phí mua

BHYT, về những quyền lợi khác để họ có điều kiện tham gia BHYT thường xuyên

hơn. Vì có những người mặc dù có thẻ BHYT song họ vẫn không có điều kiện để

sử dụng, bởi có quá nhiều vấn đề phát sinh như: Thủ tục tham gia khám chữa bệnh

bằng thẻ BHYT khá phức tạp, các cơ sở y tế khám bằng thẻ BHYT thì có nhiều khó

khăn bất tiện, thái độ phục vụ của nhân viên y tế không tốt... Chính là những vấn đề

khiến cho những người di cư hiện đang sử dụng BHYT còn ngần ngại và chưa mặn

mà với việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bằng BHYT.

Nhiều người chia sẻ họ sẽ tiếp tục tham gia dịch vụ BHYT trong thừi gian

hiện tại và trước mắt, tuy nhiên cần có chính sách trợ giúp họ. Bên cạnh đó, cần có

chính sách trợ giúp họ hơn nữa nhằm tăng cường sự tham gia, giảm bớt các khó

khăn. Đồng thời để tất cả những người di cư thuộc các nhóm tuổi, thu nhập và điều

kiện mức sống khác nhau đều có khả năng tham gia dịch vụ BHYT nhằm đáp ứng

nhu cầu về khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe khi ốm đau. Sau đây là chia sẻ của

78

những người được phỏng vấn về mong muốn, nguyện vọng của họ khi tham gia

BHYT.

"Muốn tăng cường sự tham gia của người dân đối với dịch vụ BHYT thì trước

hết phải làm cho người dân tin đã, làm cho người dân thấy an tâm mỗi khi đi khám

chữa bệnh. Chứ tôi thấy một tình trạng rất đáng lo là ai khi cầm thẻ BHYT trên tay

khi đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế đều nơm nớp lo về thủ tục hành chinh và

lại còn kêu ca về chất lượng khám chữa bệnh bằng BHYT, chính vì thế mà nhiều

người không còn mặn mà với dịch vụ khám bệnh này. Tôi nghĩ cần có biện pháp

chấn chỉnh nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, giúp người dân dễ dàng tiếp cận

dịch vụ và ó những thuận tiện nhất định đã, nên giảm nhẹ các thủ tục hành chính

gây phền hà là điều nên thực hiện ngay" (PVS anh Nguyễn Hoàng Giang, 31 tuổi,

quê Thanh Hóa, nghề nghiệp: kỹ sư điện).

"Tôi thấy xu hướng chung mọi người đều muốn tham gia BHYT một cách đầy

đủ, bởi nó gắn với nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của họ, mặc dù

bản thân tôi và những người hiện tại đang sử dụng thẻ BHYT gặp không ít khó khăn

khi sử dụng dịch vụ này. Tuy nhiên, tôi rất tin tưởng trong tương lai nước ta sẽ có

một hệ thống an sinh chuyên nghiệp và bền vững hơn, dịch vụ tiện ích hơn khi sử

dụng, tôi mong rằng các ban ngành bên trên cần hỗ trợ người di cư tham gia BHYT

hơn nữa, nhằm giúp họ có điều kiện khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe một

cách thường xuyên hơn. Ngoài ra, khắc phục những khó khăn như: giảm bớt thủ tục

hành chính, chấn chỉnh đội ngũ cán bộ nhân viên y tế làm công tác khám chữa bệnh

cho bệnh nhân đến khám bằng BHYT... nâng cao chất lượng khám từ đó" (PVS chị

Đặng Thúy Nga, 31 tuổi, quê Nghệ An, nghề nghiệp: công nhân).

Trong định hướng nhằm tăng cường sự tham gia BHYT của người dân di cư,

cần hướng vào các giải pháp trọng tâm như:

Tăng cường truyền thông, tuyên truyền về vấn đề BHYT và khám chữa bệnh

thông qua dịch vụ BHYT: Chính quyền địa phường, cùng với ngành y tế và các

ngành có liên quan cần tập trung tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về BHYT và

khám chữa bệnh bằng dịch vụ BHYT để người dân có thể nắm được các thủ tục, các

quy trình khi khám và điều trị bệnh tại các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, trang bị cho cán

79

bộ làm công tác y tế những kiến thức về công tác xã hội trông bệnh viện nhằm trợ

giúp bệnh nhân một cách tốt hơn.

Giảm bớt thủ tục hành chính không cần thiết: Những thủ tục hành chính cần

thiết thì nên hướng dẫn hỗ trợ cụ thể, chi tiết cho người dân. Song cần giảm bớt các

thủ tục hành chính rườm rà không cần thiết, nhằm giảm bớt thủ tục cho cán bộ y tế

và thời gian chờ đợi cho người bệnh, cập nhật các loại hình quản lý hành chính mới,

tiên tiến, hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý bệnh nhân khám chữa

bệnh bằng dịch vụ BHYT.

Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh bằng BHYT: Cần chấn chỉnh các hoạt

động khám chữa bệnh bằng BHYT để từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp.

Chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ y tế làm công tác khám chữa bệnh; cở sở vật

chất và trang thiệt bị hỗ trợ khám chữa bệnh, đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng,

trang thiết bị phục vụ hoạt động khám chữa bệnh, nhất là những cơ sở còn yếu kém

về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật... Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng khám,

chữa bệnh bằng BHYT nói chung.

Hỗ trợ, tăng mức đóng, cấp thẻ BHYT cho những đối tượng đặc thù: Những

đối tượng đặc thù như: người dân di cư có hoàn cảnh khó khăn, có bệnh hiểm

nghèo, trẻ em nhỏ, người cao tuổi trong các gia đình di cư, giúp họ có điều kiện

tham gia BHYT và sử dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, chăm

sóc sức khỏe một cách thường xuyên hơn.

80

* Định hướng tham gia BHYT của người dân phường Vĩnh Tuy thời

gian tới

Bảng 3.1. Giải pháp nhằm tăng cường xự tham gia BHYT của đối tượng tham

gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 3.1. Giải pháp tăng cường sự tham gia BHYT của người dân

(Đơn vị: %; N=300)

Nhóm giải pháp Số lượng Tỷ lệ

16 144 78 5,3 48,0 26,0

17 5,7

45 15,0

Tăng cường tuyên truyền về BHYT Giảm bớt thủ tục hành chính Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng BHYT Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, ở các cơ sở khám chữa bệnh Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ BHYT cho một số đối tượng Tổng 300

100,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được hỏi về giải pháp giúp tăng cường sự tham gia

BHYT của người dân, thì phần lớn người tham gia trả lời đều cho biết nên chọn giải

pháp "giảm bớt thủ tục hành chính" chiếm 48,0% (tương đương với 144 người tham

gia trả lời), đây là giải pháp nhằm hướng tới giảm thiểu những khó khăn, bất cập

giúp người dân tham gia BHYT một cách thuận lợi và thường xuyên hơn. Giải pháp

hiệu quả thứ 2 được người dân đánh giá cao là "nâng cao chất lượng khám chữa

bệnh bằng BHYT" chiếm 26,0% (tương đương với 78 người tham gia trả lời). Có

thể thấy, hơn 60% người tham gia trả lời chọn 2 giải pháp "giảm bớt thủ tục hành

chính" và "nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng BHYT", đây là 2 giải pháp

ưu tiên cần thực hiện, nếu thực hiện được những giải pháp này sẽ đáp ứng nhu cầu

và nguyện vọng của số đông người dân tham gia khám chữa bệnh bằng BHYT.

Ở các giải pháp khác tỷ lệ người tham gia trả lời ở mức trung bình: Tăng mức

hỗ trợ đóng, cấp thẻ BHYT cho một số đối tượng chiếm 15,0%; Nâng cao chất

lượng cơ sở vật chất, ở các cơ sở khám chữa bệnh chiếm 5,7%; Tăng cường tuyên

truyền về BHYT chiếm 5,3%. Như vậy, nhóm đối tượng tham gia trả lời đã lựa

81

chọn nhóm giải pháp ưu tiên hàng đầu, có tác động trực tiếp tới bản thân họ; còn

các giải pháp mang tính lâu dài hỗ trợ, ít được người tham gia khảo sát lựa chọn,

người dân đã ý thức được những quyền và lợi ích cần được đáp ứng về trươc mắt và

lâu dài. Vì vậy, trong định hướng phát triển dịch vụ BHYT, chính quyền, các cơ sở

y tế cần kết hợp với các ban ngành đoàn thể thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm

khắc phục bớt các khó khăn, hạn chế, những rào cản khiến cho người dân gặp trở

ngại trong tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh bằng BHYT, ưu tiên thực hiện các giải

pháp mang tính cấp bách gắn với nhu cầu khám chữa bệnh bằng BHYT của người

dân, chấn chỉnh và nâng cao chất lượng dịch vụ BHYT, đội ngũ cán bộ y bác sĩ

phục vụ người dân khi tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.

3.3. Một số yếu tố tác động tới việc chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân di cƣ tại

phƣờng Vĩnh Tuy

3.3.1. Yếu tố về kinh tế của cá nhân và hộ gia đình di cư tại phường Vĩnh

Tuy

Bảng 3.2. cho thấy yếu tố thu nhập có tác động khá lớn tới việc sử dụng dịch

vụ y tế của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho

thấy:

Bảng 3.2. Thu nhập trung bình trong tháng của hộ gia đình

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Mức thu nhập trung bình trong 1 tháng

Từ 1 đến <3 triệu 19 6,3

Từ 3 đến < 5 triệu 101 33,7

Từ 5 đến < 7 triệu 111 37,0

Từ 7 đến <10 triệu 53 17,7

Từ trên 10 triệu 16 5,3

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

82

Các yếu tố về kinh tế và điều kiện sống, có tác động tới hoạt động chăm sóc

sức khỏe của người dân di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy bao gồm các yếu tố như:

Thu nhập, mức sống, nghề nghiệp của họ, việc phân tích các yếu tố này sẽ góp phần

phản ánh rõ các nguyên nhân về kinh tế tác động khiến cho người dân di cư gặp khó

khăn, hạn chế khi tiếp cận với dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe,

khám chữa bệnh.

Từ số liệu khảo sát cho thấy, thu nhập phổ biến ở nhóm hộ gia đình người dân

di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy phổ biến ở mức từ 3 triệu đến 10 triệu, đây là thu

nhập cả gia đình cùng lao động và tích lũy trung bình trong tháng. Cụ thể chiếm tỷ

lệ cao nhất ở nhóm hộ gia đình có mức thu nhập từ 5 triệu đến dưới 7 triệu chiếm

37,0% (tương đương với 111 người tham gia trả lời); chiếm tỷ lệ cao thứ 2 ở nhóm

hộ gia đình có mức thu nhập từ 3 triệu đến dưới 5 triệu đồng chiếm 33,7% (tương

đương với 101 người tham gia trả lời), hai mức thu nhập này thường tập trung ở

những gia đình có mức sống từ trung bình trở lên. Mức thu nhập từ 7 triệu đến dưới

10 triệu chiếm tỷ lệ 17,7% thường tập trung ở những hộ gia đình cố mức sống từ

trung bình đến khá; Số hộ gia đình có thu nhập hàng tháng trên 10 triệu đồng chiếm

tỷ lệ khá thấp với 5,3% thường tập trung ở những hộ gia đình có mức sống khá trở

lên. Điều đáng nói là vẫn còn tồn tại một tỷ lệ nhất định số hộ gia đình có thu nhập

thấp ở mức từ 1 triệu đến dưới 3 triệu đồng chiếm 6,3% số người trả lời, thường tập

trung ở nhóm hộ gia đình di cư có mức sống thấp, thu nhập và mức sống thất

thường không ổn định, gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt và đời sống hằng ngày.

Thông qua kết quả khảo sát về mức thu nhập hộ gia đình của người dân nhập

cư tham gia khảo sát cho thấy, chính thu nhập hàng tháng cũng là một trng những

yếu tố và nguyên nhân cốt lõi tác động tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của người

dân di cư, bởi khi thu nhập chưa đảm bảo để chi tiêu cho các hoạt động sinh hoạt

hằng ngày thì việc chăm sóc sức khỏe của họ sẽ không được đảm bảo; ngược lại ở

những nhóm hộ gia đình có thu nhập khá trở lên họ sẽ có điều kiện để chăm sóc sức

khỏe của bản thân hơn, việc tiếp cận với các dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội của họ

cũng thuận lợi và thường xuyên hơn. Sau đây là trích một số ý kiến phỏng vấn sâu,

chia sẻ của nhóm đối tượng người dân di cư tham gia điều tra:

83

"Chị đến phường Vĩnh Tuy được 4 năm rồi em ạ, do cả 2 vợ chồng cùng làm

công nhân cho một nhà máy nên thu nhập trong tháng không được là bao, lại phải

chi tiêu cho nhiều vấn đề khác như: Con cái học hành, chi phí điện nước ngày càng

đắt đỏ, đi lại, sinh hoạt ăn uống hàng ngày... nên thu nhập của cả 2 vợ chồng hàng

tháng không dư giả được là bao khi bao nhiêu khoản chi như vậy, việc chi tiêu còn

khá eo hẹp vì vậy vợ/chồng chị cũng không chú ý lắm tới vấn đề đi khám sức khỏe

định kỳ, chỉ khi nào có vấn đề khó chịu trông người thì ra ngoài hiệu thuốc hỏi y

bác sĩ và mua thuốc về nhà tự điều trị cho khỏi tốn kém và mất thời gian thôi"(PVS

chị Hà Thị Mai, 28 tuổi, quê Nghệ An, nghề nghiệp: công nhân).

"Chị làm giáo viên trường tiểu học ngoài này, học xong chị ra trường xin việc

mãi mới được, mà nghề của chị lại hưởng lương Nhà nước thì chẳng đáng là bao

em cũng biết rồi đấy, chồng chị thì làm công nhân cơ khí lương cũng chỉ được 4

triệu một tháng, hai vợ chồng ăn tiêu hàng tháng còn dư được 3 triệu gửi về quê

cho ông bà nội lo cho cháu đi học. Tuy chuyển sảng bên này được 5 năm rồi nhưng

do điều kiện kinh tế ngày càng khó khăn nên đời sống của gia đình cũng không

được khá giả gì, bao nhiêu khoản chi tiêu phải lo trong khi thu nhập thì thấp như

vậy; nhiều lúc đúng là ốm đau nhưng không dám đi bệnh viện, mà ra các hiệu thuốc

mua thuốc về tự điều trị, có chăng thì hôm nào cuối tuần được nghỉ thì lê n trạm xá

của phường để khám cho nhanh, khỏi phải chờ đợi lâu" (PVS chị Trần Thị Lý, 30

tuổi. quê quán Hải Dương, nghề nghiệp: giáo viên)

Bảng 3.3. cho thấy yếu tố thu có quan hệ mật thiết tới tình trạng sử dụng dịch

vụ y tế chăm sóc sức khỏe của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết

quả điều tra cho thấy:

84

Bảng 3.3. Tương quan thu nhập theo tình trạng sử dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe

Tình trạng sử dụng

Thu nhập Thường xuyên Không thương xuyên Chưa bao giờ Tổng

Từ 1 đến <3 triệu N 5 14 0 19

% 1,7 4,7 0 6,3

Từ 3 đến < 5 triệu N 7 93 1 101

% 2,3 31,0 0,3 33,7

Từ 5 đến < 7 triệu N 15 94 2 111

% 5,0 31,3 0,7 37,0

Từ 7đến <10 triệu N 5 48 0 53

% 1,7 16,0 0 17,7

Từ trên 10 + N 5 11 0 16

Tổng

% N % 5,3 300 100,0 3,7 260 86,7 0 3 1,0

1,7 37 12,3 (Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ kết quả khảo sát cho thấy, thu nhập và tình trạng sử dụng dịch vụ y tế có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ số P=<00.5 cho có ý nghĩa thống kê, số người

có thu nhập mức từ 3-5 triệu/tháng; mức 5-7 triệu/tháng và mức 7-10 triệu/tháng có

điều kiện sử dụng dịch vụ y tế cao hơn, thường xuyên hơn so với các nhóm di cư có

mức thu nhập khác. Song bên cạnh đó, vẫn còn một tỷ lệ nhất định người di cư chưa

bao giờ sử dụng dịch vụ y tế, chứng tỏ khi thu nhập và đời sống còn chưa ổn định

thì người di cư vẫn chưa có điều kiện chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh một cách

thường xuyên.

Như vây, từ số liệu khảo sát có thể thấy khá rõ ràng, thu nhập là một trong

những yếu tố cơ bản tác động lên điều kiện chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

của người dân di cư. Chính vì vậy, để thu hút sự tham gia thường xuyên hơn nữa,

tạo điều kiện để người dân di cư có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế... thì cần

có chính sách hỗ trợ thích hợp, đi kèm công tác truyền thông, vận động để người

85

dân di cư thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc chăm sóc và bảo vệ sức

khỏe.

Bảng 3.4. cho thấy mức sống là một trong những yếu tố tác động tới tình hình

sử dụng dịch vụ y tế của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả

điều tra cho thấy:

Bảng 3.4. Đánh giá về mức sống của hộ gia đình

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Đánh giá về mức sống gia đình

Giàu 0 0

Khá 52 17,3

Trung bình 248 82,7

Cận nghèo 0 0

Nghèo 0 0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được khảo sát là các đối tượng trong gia đình di cư

đến phường Vĩnh Tuy, đa phần họ làm các nghề nghiệp là công nhân và kinh doanh

– dịch vụ nhỏ lẻ vì vậy mức sống của hộ gia đình di cư phổ biến từ trun bình đến

khá, không có người tham gia trả lời cho biết mức sống gia đình mình ở mức nghèo,

cận nghèo và giàu. Việc đánh giá nhằm lượng hóa qua thang đánh giá mức sống từ

thấp đến cao như thế này chỉ mang tính tương đối, do ý kiến người trả lời tự đánh

giá. Số người cho rằng mức sống của gia đình mình khi di cư đến phường Vĩnh Tuy

ở mức "trung bình" chiếm hơn 80% số người tham gia trả lời với 82,7% (tương

đương với 248 người); số người còn lại cho biết mức sống gia đình mình ở mức

sống "khá" chiếm 17,3% (tương đương với 52 người tham gia trả lời).

Mức sống của hộ gia đình được đánh giá qua thu nhập, nguồn thu nhập, các

khoẻn chi tiêu, tích lũy hàng tháng, điều kiện sinh hoạt... Nhóm người dân di cư

tham gia khảo sát có mức sống phổ biến ở mức trung bình, thường tập trung ở

86

những hộ gia đình có thu nhập thấp, trung bình, nghề nghiệp và việc làm còn chưa

ổn định. Mức sống chính là yếu tố tác động trực tiếp tới hoạt động chăm sóc sức

khỏe ở nhóm đối tượng dân di cư, khi mức sống và điều kiện sống của họ và gia

đình còn chưa được đảm bảo, thì việc chăm sóc sức khỏe của họ vẫn chưa mang

tính chủ động, thường xuyên; ngược lại, khi điều kiện kinh tế khá giả, mức sống và

điều kiện sống khá thì họ sẽ có điều kiện hơn để chăm sóc sức khỏe của bản thân và

gia đình, có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội. Chính vì vậy, ở

những gia đình có mức sống khá đến giàu thường có điều kiện chăm sóc sức khỏe

thường xuyên hơn những hộ gia đình có mức sống trung bình; qua số liệu khảo sát

cho thấy mức sống "trung bình" chiếm phổ biến ở nhóm dân di cư tại phường Vĩnh

Tuy, bởi vậy định hướng phát triển trong tương lai, chính quyền và các cơ quan ban

ngành tại đây cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nhóm dân di cư

hiện đang sinh sống và àm việc tại địa phương được tiếp cận với các hoạt động

chăm sóc sức khỏe tại phường một cách tốt hơn. Điều này có thể được chứng minh

thêm qua một số ý kiến phỏng vấn sâu người dân di cư và cán bộ chính quyền địa

phương như sau:

"Tôi và vợ tôi sau khi cưới nhau thì cả 2 vợ chồng lên phường Vĩnh Tuy làm

công nhân ở đây, tôi thì làm nghề thợ điện, vợ tôi làm bán hàng nhỏ lẻ ngoài chợ,

thu nhập hàng tháng của cả hai vợ chồng còn thất thường, nên đời sống gia đình

nói là nghèo cũng không phải, những khá giả thì cũng chưa, ở mức đủ ăn, đủ tiêu

thôi, lại lo cho 2 cháu học hành nữa; những gia đình có vợ chồng trẻ như gia đình

tôi thì nhà còn phải đi thuê, chi tiêu hàng tháng thì nhiều, chỉ khi nào ốm đau thì

mới có điều kiện đến bệnh viện, trạm xá, còn lại thì có triệu chứng gì chúng tôi đều

ra quầy thuốc trình bày lý do để mua thuốc cho khỏi tốn kém; chỉ vất vả cho các

cháu nhỏ trong gia đình là đôi khi điều kiện ở chật chội, vệ sinh chưa đảm bảo nên

thương hay đau ốm nên chúng tôi phải bỏ cả việc ở cơ quan để lo cho các cháu,

việc khám chữa bệnh thường xuyên thì không có điều kiện rồi" (PVS anh Nguyễn

Văn Giảng; 31 tuổi; quê Ninh Bình; nghề nghiệp: công nhân).

"Tôi làm cán bộ phòng chính sách xã hội ở phường Vĩnh Tuy này đã được 15

năm rồi, tôi thấy người dân di cư ở các địa phương khác đến phường Vĩnh Tuy khá

87

nhiều, các dòng di cư cứ đến rồi lại đi. Mức sống của họ về mặt bằng chung thì còn

chưa được đảm bảo, vì trong nhiều lần cán bộ phường và công an quản lý hộ khẩu

đi kiểm tra thì thấy tình trạng đời sống của người dân di cư còn khá eo hẹp. Về vấn

đề chăm sóc sức khỏe cũng chưa được đảm bảo, những trẻ em trong các gia đình di

cư đến đây thường hay bị ốm đau, bệnh tật, nhất là trong những giai đoạn chuyển

mùa... Chính vì vậy, địa phương cũng đang kết hợp với các cơ sở y tế các tuyến tiến

hành tổ chức đến các cụm dân cư khám bệnh miễn phí cho các hộ gia đình có cháu

nhỏ, không có điều kiện đi đến các cơ sở y tế" (PVS ông Hoàng Văn T, 45 tuổi, cán

bộ chính sách xã hội phường Vĩnh Tuy)

Bảng 3.5. cho thấy yếu tố mức sống có mối tương quan mật thiết tới tình trạng

sử dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe của đối tượng tham gia điều tra tại phường

Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 3.5. Tương quan mức sống theo tình trạng sử dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe

Tình trạng sử dụng

Mức sống Thường xuyên Không thường xuyên Chưa bao giờ Tổng

Khá N 0 52 0 52

% 0 17,3 0 17,3

Trung bình N 37 208 3 248

Tổng

% N % 12.3 37 12,3 69,3 260 86,7 1,0 3 1,0 82,7 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người tham gia phỏng vấn, thì tỷ lệ người di cư có mức

sống trung bình cao hơn gần gấp 5 lần so với những người có mức sống khá. Điều

này cho thấy đâị bộ phận người dân di cư hiện nay có cuộc sống còn chưa đảm bảo,

phần lớn họ mới đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất trong cuộc sống. Tỷ lệ

người có mức sống trung bình sử dụng dịch vụ y tế thường xuyên chiếm 12,3%;

không thường xuyên là 69,3%. Trong khi đó ở mức sống khá tỷ lệ người sử dụng

dịch vụ y tế không thường xuyên chiếm 17,3%. Điều đáng nói là vẫn có một tỷ lệ

nhỏ (1,0%) lao động di cư có mức sống trung bình họ cho biết vẫn chưa bao giờ sử

88

dụng dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh. Chính vì

vậy, khi ban hành các chính sách về BHYT cần chú ý tới những nhóm dân di cư có

mức sống thấp, tạo cơ hội để họ tiếp cận và tham gia BHYT một cách bình đẳng

như các nhóm đối tượng khác.

3.3.2. Yếu tố về nhân khẩu xã hội

Những yếu tố về nhân khẩu xã hội có tác động tới hoạt động chăm sóc sức

khỏe ở nhóm dân số di cư đó là: Nhóm tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ

học vấn, nghề nghiệp... Những yếu tố này có tác động khá lớn tới hoạt động khám

chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở người dân di cư.

Nhóm tuổi: Trong số 300 người được khảo sát có độ tuổi từ 16 đến 60 tuổi,

nhóm tuổi từ 45-60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,7%, nhóm tuổi này đa phần đã

có thời gian di cư đến địa bàn phường Vĩnh Tuy lâu hơn so với 2 nhóm tuổi còn lại,

việc làm và thu nhập cũng có sự ổn định hơn so với 2 nhóm tuổi 16-29 và 30-44; Tỷ

lệ này có chiều hướng giảm ở nhóm tuổi thấp hơn với 31,7% (nhóm tuổi 30-44) và

25,7% (nhóm tuổi 16-29). Đặc điểm chung là những người ở nhóm tuổi từ 45-60

chiếm tỷ lệ cao nhất và ở nhóm tuổi này nhu cầu khám chưa bệnh, chăm sóc sức

khỏe cũng rất cao, họ đang ở giai đoạn gần nghỉ hưu, ở nhóm tuổi này những bệnh

nghề nghiệp, bệnh do tuổi tác có ảnh hưởng khá lớn. Tuy nhiên, nhìn chung thì điều

kiện chăm sóc sức khỏe của người di cư ở cả 3 nhóm tuổi đều rất thấp, họ chưa có

điều kiện được tiếp cận với hoạt động chăm sóc sức khỏe một cách thường xuyên.

Giới tính: Trong tổng số 300 người được phỏng vấn, số lượng nữ giới chiếm

tỷ lệ cao hơn so với nam giới. Cụ thể nữ giới chiếm 52,7% và nam giới chiếm thấp

hơn là 47,3%. Như vậy, trong trong nhóm người dân di cư tham gia khảo sát, tỷ lệ

nữ giới cao hơn nam giới. Điều đáng nói là, điều kiện sức khỏe và nhu cầu chăm

sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cũng có sự khác biệt rõ rệt ở nam giới và nữ giới.

Nam giới làm việc trong các môi trường làm việc độc hại, khó khăn hơn so với nữ

giới; bởi vậy, tuổi thọ kém hơn so với nữ giới, việc phát sinh nhiều bệnh tật liên

quan đến bệnh nghề nghiệp, tuổi tác cao hơn so với nữ giới, cũng vì vậy mà nhu cầu

chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh ở nhóm dân di cư nam giới cao hơn so với nữ

giới. Tuy nhiên, về điều kiện kinh tế và tài chính thì cả nam giới và nữ giới thuộc

89

nhóm dân di cư phần lớn đều gặp khó khăn, vì vậy họ vẫn chưa tiếp cận được với

hoạt động chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh một cách thường xuyên.

Trình độ học vấn: Trong nhóm đối tượng người di cư tham gia khảo sát tại

phường Vĩnh Tuy, những người có trình độ tốt nghiệp THPT với 35,0%; chiếm tỷ lệ

cao thứ hai là nhóm những người có trình độ Trung cấp chiếm 24,0%; nhóm những

người có trình độ Cao đẳng - Đại học chiếm tỷ lệ trung bình với 22,7%; nhóm

người tốt nghiệp THCS chiếm tỷ lệ cũng rất thấp là 16,7%. Chiếm tỷ lệ thấp nhất ở

trình độ trên Đại học với 1,7%. Như vậy, có thể thấy khá rõ trình độ học vấn của

nhóm lao động di cư ở mức trung bình, họ thường lao động, sản xuất trong các nhà

máy, xí nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn phường Vĩnh Tuy. Trình độ học vấn

của nhóm dân số di cư phản ánh khả năng hiểu biết của nhóm đối tượng điều tra, nó

chính là yếu tố tác động tới sự hiểu biết về tình trạng sức khỏe, việc tham gia các

hoạt động chăm sóc sức khỏe của đối tượng. Những người di cư có trình độ học vấn

cao, họ có công việc ổn định, thu nhập và mức sống cao, khi các nhu cầu về vật

chất, sinh hoạt hằng ngày được đáp ứng thì họ có điều kiện hơn để quan tâm tới

việc chăm sóc sức khỏe, chính vì thế họ thường có điều kiện tham gia khám chữa

bệnh, chăm sóc sức khỏe thường xuyên hơn so với những người có trình độ học vấn

khác. Ngược lại, những người có trình độ học vấn thấp, dẫn tới việc làm không ổn

định, thu nhập và mức sống thấp, những điều kiện sinh hoạt hằng ngày còn chưa

được đảm bảo; chính vì vậy, họ không có điều kiện thường xuyên để tiếp cận với

hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, chỉ khi nào có bệnh nặng, ốm đau

thì họ mới đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh, do hiểu hiểu biết về tầm quan

trọng của việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở họ cũng có phần hạn chế so

với nhóm dân di cư có trình độ học vấn cao hơn.

Biểu 3.1. cho thấy yếu tố nghề nghiệp có quan hệ mật thiết tới tình trạng sử

dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe của đối tượng tham gia điều tra tại phường

Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

90

Biểu 3.1. Nghề nghiệp của đối tượng điều tra

(Đơn vị: %; N=300)

(

Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Kết quả điều tra cho thấy, phần lớn người tham gia điều tra hiện đang có

nghề nghiệp là công nhân chiếm 72,0% số người tham gia trả lời; chiếm tỷ lệ cao

thứ 2 là tỷ lệ những người làm nghề kinh doanh-buôn bán với 21,7% số người trả

lời; ở nghề nghiệp còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể: Giáo viên chiếm 4,3% và kỹ

sư, bác sĩ chiếm 2,0%. Từ số liệu này có thể thấy đa phần người dân di cư nói

chung và lao động di cư nói riêng có nghề nghiệp chính là công nhân làm việc tại

các nhà máy, cơ sở sản xuất, các công ty, doanh nghiệp... Chính vì vậy, nên thu

nhập của họ còn chưa cao, mức sống thấp, những hoạt động về chăm sóc sức khỏe,

chăm sóc y tế, khám chữa bệnh ở nhóm lao động di cư có nghề nghiệp là công nhân

còn rất thấp, theo chia sẻ của người dân địa phương và cán bộ chính quyền địa

phương thì nhiều người dân di cư có thu nhập và mức sống thấp đa phần họ làm

nghề công nhân, gia đình còn gặp nhiều khó khăn, do điều kiện vật chất không đmả

bảo nên con cái và các thành viên trong gia đình hay ốm đau. Bỏi vậy, có thể khẳng

định rằng, nghề nghiệp chính tạo ra nguồn thu nhập, cùng các khoẻn chi tiêu tích

lũy của họ trong tháng phản ánh mức sống và thu nhập của họ; đây chính là yếu tố

tác động khá lớn tới người dân di cư; khi mà các điều kiện về vật chất, đời sống của

họ chưa được đảm bảo thì họ vẫn chưa cố điều kiện chăm sóc sức khỏe như những

nhóm dân cư có đời sống kinh tế khá. Sau đây là chia sẻ của những lao động di cư

91

đang làm công nhân tại các nhà máy, xưởng sản xuất về điều kiện sống và chăm sóc

sức khỏe của bản thân, cũng như gia đình.

"Chị hiện đang làm công nhân may tại đây, nghề may thì lương cũng không

cao, khoản lương hàng tháng lại phải chi tiêu cho nhiều khoản, nên đời sống làm

nghề công nhân là vậy đấy, cuộc sống eo hẹp, chồng chị lại không ó nghề nghiệp ổn

định nên vai trò kinh tế đổ lên vai chị hết; nhiều khi con cái ốm đau, thậm chí chị bị

ốm nhưng vẫn cố đi làm, không có điều kiện đi bệnh viện, vì cứ nghĩ tới bệnh viện

chỉ khám thôi, chưa nằm điều trị thì cũng mất một khoản tiền kha khá rồi, nên chị

luôn tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân thật tốt, nếu có ốm đau nhẹ thì ra hiệu thuố

mua thuốc về tự chữa trị, còn việc chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế thì không

được thường xuyên rồi, vì lấy tiền đâu ra mà chi cho khoản đấy, trong khi đời sống

còn eo hẹp" (PVS chị Lê Thị Cúc; 26 tuổi; quê Thái Bình; nghề nghiệp: Công nhân

may).

"Hiện tại anh đang làm công nhân cơ khí tại xưởng sản xuất của một công ty

nhỏ thôi em, lúc trước cũng vì không học hành tử tế nên giờ đi làm công nhân thôi,

kiếp sống làm công nhân trong thời buổi khó khăn như này lấy lương chưa tiêu

được một tuần đã hết thì còn đâu tiền mà chi cho các khoản khác hả em; ở công ty

anh cũng khuyến khích mọi người nên chăm lo sức khỏe để lao động, sản xuất cho

tốt, nhưng khẩu hiệu của họ là vậy chứ lấy ai có điều kiện mà cứ chăm sóc hoài như

vậy; còn khi nào ốm thì qua hiệu thuốc và trạm y tế gần nhà cho nhanh, không tốn

kém, thủ tục lại khôn rườm rà, đa số anh chị em công nhân chỗ anh đều chia sẻ như

vậy đấy em" (PVS anh Ngô Mạnh Hoàng, 33 tuổi, quê Thái Nguyên; nghề nghiệp:

công nhân cơ khí).

Bảng 3.6. cho thấy yếu tố nghề nghiệp có mối tương quan mật thiết tới tình

trạng sử dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

92

Bảng 3.6. Tương quan nghề nghiệp theo tình trạng sử dụng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe

Tình trạng sử dụng

Nghề nghiệp Thường xuyên Không thường xuyên Chưa bao giờ Tổng

Công nhân N 36 177 3 216

% 12,0 59,0 1,0 72,0

Giáo viên N 0 13 0 13

% 0 4,3 0 4,3

Kinh doanh, buôn bán N 1 64 0 65

% 0,3 21,3 0 21,7

Kỹ sư, bác sĩ N 0 6 0 6

Tổng

% N % 0 37 12,3 2,0 260 86,7 0 3 1,0 2,0 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Kết quả khả sát cho thấy phần lớn lao động di cư nghề nghiệp hiện nay của họ

là công nhân (chiếm 72,0%). Tỷ lệ người di cư nghề nghiệp là công nhân tham gia

sử dụng dịch vụ y tế chiếm cao nhất với 59,0% ở mức không thường xuyên và

12,0% ở mức thường xuyên; chiếm tỷ lệ cao thứ 2 là những người thuộc nghề

nghiệp Kinh doanh – buôn bán chiếm 21,3%; ở các nhóm nghề khác chiếm tỷ lệ

không đáng kể. Như vậy, có sự chênh lệch khá lớn về việc sử dụng dịch vụ y tế ở

các nhóm nghề nghiệp khác nhau ở người dân di cư; điều này cho thấy cần có chính

sách huy động sự tham gia của đối tượng người dân di cư thuộc các nhóm nghề

nghiệp khác một cách thường xuyên hơn.

"Người đi làm công nhân như chúng tôi nếu không có sự hỗ trợ thì khó có

chuyện sử dụng dịch vụ y tế một cách thường xuyên được, bình thường còn phải lo

cuộc sống hằng ngày, lo ăn từng bữa và những chi tiêu trong tháng, thu nhập từ

nghề công nhân thì thấp... lấy đâu ra tiền mà lo các khoản bên ngoài, nói đến sử

dụng dịch vụ y tế thường xuyên thì đó là điều xa xỉ với chúng tôi, nhiều khi biết có

bệnh nhưng phải tự ra hiệu thuốc mua thuốc về uống, tự điều trị là phương pháp

93

hữu hiệu nhất..." ((PVS chị Nguyễn Thị Mai; 34 tuổi; quê Nam Định; nghề nghiệp:

Công nhân bao bì).

3.3.3. Yếu tố về chính sách xã hội

Yếu tố về chính sách khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bao gồm những cơ chế

chính sách có thể là những thuận lợi, hoặc những khó khăn rào cản trong chính sách

trong tiếp cận dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

của người dân.

Bảng 3.7. Đánh giá về mức phí mua BHYT của đối tượng tham gia điều tra tại

phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 3.7. Đánh giá về mức phí mua BHYT

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Đánh giá

Rất cao 16 5.3

Cao 205 68.3

Bình thường 79 26.3

Không cao 0 0

Total 300 100.0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong tổng số 300 người được hỏi thì có gần 70% số người được hỏi cho biết

mức phí mua BHYT phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở mức

"cao" chiếm 68,3% (tương đương với 205 người tham gia trả lời), điều này phản

ánh tình trạng chung trng thực trạng sử dụng BHYT ở người dân di cư, lý giải

nguyên nhân tại sao người dân di cư và các nhóm dân cư khác hiện tại vẫn chưa

mặn mà với việc khám chữa bệnh bằng BHYT; đánh giá về mức phí mua BHYT ở

mức "bình thường" chiếm tỷ lệ cao thứ hai với 26,3% (tương đương với 79 người

tham gia trả lời) thường tập trung ở nhóm người thường xuyên sử dụng BHYT tham

gia khám chữa bệnh và có điều kiện kinh tế khá giả hơn nhóm khác. Bên cạnh đó,

có một tỷ lệ nhất định người trả lời cho biết mức phí mua BHYT hiện ở mức "rất

cao" chiếm 5,3% số người trả lời, điều này chứng tỏ cơ chế chính sách ở việc mua

94

BHYT vẫn chưa phù hợp với các nhóm dân cư có điều kiện kinh tế thấp, những

người cho rằng mức phí mua BHYT còn ở mức "rất cao" đa phần tập trung ở những

nhóm có thu nhập và mức sống thấp, chưa có điều kiện sử dụng BHYT tham gia

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe một cách thường xuyên; không có người đưa

ra câu trả lời mức pí mua BHYT ở mức "không cao".

Như vậy, có thể khẳng định nếu còn duy trì mức phí mua BHYT cùng với việc

sử dụng dịch vụ y tế còn nhiều vướng mắc, khó khăn... Với cơ chế chính sách như

vậy thì sẽ không phù hợp với nhiều nhóm dân cư yếu thế, nhất là nhóm người dân

di cư, nhu cầu khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe cao song họ chưa mặn mà với

dịch vụ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bằng BHYT là do nhiều chính sách

trong khám chữa bệnh bằng BHYT còn chưa phù hợp với điều kiện thu nhập, mức

sống, hoàn cảnh sức khỏe, bệnh tật của họ. Chính vì thế, định hướng trong thời gian

tới các cơ sở y tế và các cơ quan ban ngành cần có biện pháp tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc này, để người dân nói chung và người dân di cư nói riêng không

còn quay lưng lại với dịch vụ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe này.

"Hầu như nếu không phải đối tượng chính sách thì chúng tôi phải mua BHYT

ở một mức phí cao, là một công nhân làm nghề tay chân như chúng tôi thì việc bỏ

ra số tiền như vậy hàng năm để sử dụng BHYT thì không hợp lý, còn chưa kể khi có

BHYT rồi chúng tôi còn gặp rất nhiều khó khăn khi đến các cơ sở y tế để khám

chữa bệnh bằng BHYT, nào là thủ tục rườm rà, chờ đợi lâu, chất lượng khám chữa

bệnh bằng thẻ BHYT thì quá kém luôn" (PVS chị Đào Thị Sen, 24 tuổi, quê Sơn La,

nghề nghiệp: công nhân bao bì).

"Tôi thấy nhiều lúc có BHYT cũng như không, vì bỏ ra số tiền không phải là ít

để mua BHYT rồi, đến cơ sở y tế khám bệnh thì thủ tục thật là phức tạp, nhiều khi

thấy nhiều người đợi quá sốt ruột nên đành bỏ về; có lúc chờ được đến khi vào

khám rồi thì nhân viên y tế khám qua quýt cho xong và nhắc nhở về uống thuốc theo

đơn, nói chung tôi cũng không thấy thoải mái về thái độ phục vụ của nhân viên y tế"

(PVS chị Mai Thị Khuyên, 27 tuổi, quê Phú Thọ, nghề nghiệp: công nhân giầy da).

95

Biểu 3.2. Đánh giá về mức phí mua BHYT theo nhóm tuổi của đối tượng tham

gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy có sự khác biệt khá rõ rệt, kết quả điều tra cho

thấy:

Biểu 3.2. Đánh giá về mức phí mua BHYT theo nhóm tuổi

(Đơn vị: %; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Từ kết quả khảo sát cho thấy, số người cho rằng mức phí mua BHYT ở mức

"cao" chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 45-60 với 28,3% số người trả lời, trong khi

nhóm tuổi 16-29 và 30-44 chỉ chiếm tỷ lệ tương đối (19,05 và 16,7%). Rõ ràng nhu

cầu và mức độ sử dụng BHYT ở nhóm tuổi 45-60 cao hơn so với nhóm tuổi khác,

khi sử dụng dịch vụ BHYT thường xuyên thì họ nhận thấy những bất cập của dịch

vụ này, trong đó có vấn đề về phí mua bảo hiểm còn cao. Số người cho rằng mức

phí mua BHYT ở mức "bình thường" chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 30-44 chiếm

14,0%; nhóm tuổi 45-60 chiếm 10,0% và nhóm tuổi 16-29 chiếm 2,3% do số lượng

và tỷ lệ người tham gia khảo sát ở 3 nhóm tuổi có sự khác nhau. Số người cho rằng

mức phí mua BHYT ở mức "rất cao" chiếm tỷ lệ người tham gia trả lời không

nhiều, có 4,3% số người ở nhóm tuổi 16-29; có 5,0% số người ở nhóm tuổi 30-44

và có 0,6% số người ở nhóm tuổi 45-60.

96

Như vậy, do có sự khác nhau về độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập, mức sống và

các yếu tố khác, chính vì vậy việc đánh giá về yếu tố chính sách sử dụng BHYT khi

tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe có sự khác nhau rõ rệt ở nhóm đối

tượng tham gia khảo sát. Tuy nhiên, về cơ bản cơ chế chính sách, cụ thể là chính

sách tiếp cận dịch vụ BHYT ở người di cư còn bất hợp lý, đâ phần họ vẫn phản ánh

về khó khăn, hạn chế khi sử dụng dịch vụ BHYT chính vì vậy họ không sử dụng

thường xuyên dịch vụ này vào hoạt động chăm sóc sức khỏe, trừ khi có bệnh tật

nặng, sức khỏe yếu, đau ốm nhiều. Vì vậy, về lâu dài các cơ sở y tế và các ngành

liên quan cần có sự điều chỉnh hợp lý nhằm giải quyết tình trạng người dân quay

lưng lại với dịch vụ y tế của Nhà nước.

Người dân khi tham gia BHYT họ rất quan tâm tới quyền lợi mà họ được thụ

hưởng trong dịch vụ này, nếu không đáp ứng được quyền lợi này thì họ sẽ quay

lưng lại với dịch vụ BHYT, bởi qua thống kê của nhiểu cơ quan, ban ngành và địaa

phương cho thấy người dân khi sử dụng BHYT tham gia khám chữa bệnh, chăm sóc

sức khỏe tại các cơ sở y tế họ gặp phải rất nhiều khó khăn như: Thủ tục phức tạp,

thời gian chờ đợi lâu, chất lượng dịch vụ... Chính vì vậy, để người dân tin tưởng vào

dịch vụ này cần có những chính sách, cơ chế và quyền lợi phù hợp nhằm tạo sự tin

tưởng, an tâm ở họ. Khi tham gia BHYT họ phải thõa mãn được nhu cầu chăm sóc

sức khỏe, khám chữa bệnh, phải để cho họ thấy được cái quyền và lợi ích chính

đấng mà họ sẽ được thụ hưởng khi tham gia dịch vụ này.

Hiện nay, có sự can thiệp của ngành y tế và nhiều cơ quan tổ chức khác vấn đề

khắc phục các hạn chế khó khăn khi sử dụng dịch vụ BHYT tại các bệnh viện các

tuyến, đang được khắc phục, nhằm giảm bớt khó khăn, phiền hà và tạo sự yên tâm

cho người bệnh khi đến các cơ sở y tế; các cơ sở y tế còn cso các phòng công tác xã

hội, tại đây nhân viên công tác xã hội sẽ làm công tác hỗ trợ cần thiết cho bệnh

nhân, trong đó có việc giải thích hỗ trợ các thông tin về sử dụng BHYT tham gia

khám chữa bệnh, nhằm giảm bớt những thủ tục hành chính không cần thiết.

Bảng 3.7. cho thấy hiểu biết về lợi ích của dịch vụ BHYT của đối tượng tham

gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

97

Bảng 3.7. Hiểu biết về lợi ích của dịch vụ BHYT

(Đơn vị: %; N=300)

Số lượng Tỷ lệ Hiểu biết về lợi ích của dịch vụ BHYT

Tiết kiệm chi phí khi tham gia khám, chữa bệnh 205 68,3

Sự an tâm cho chính bản thân 63 21,0

Chia sẻ rủi ro với cộng đồng xã hội 32 10,7

Khác 0 0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong số 300 người tham gia khảo sát, thì có gần 70% số người tham gia khảo

sát cho biết họ biết tới lợi ích của BHYT, đó là "Tiết kiệm chi phí khi tham gia

khám, chữa bệnh" chiếm tỷ lệ 68,3% (tương đương với 205 người tham gia trả lời),

đây chính là lợi ích cơ bản gắn với điều kiện về tài chính, thu nhập, mức sống của

bản thân họ. Số người cho biết lợi ích của dịch vụ BHYT đó là "Sự an tâm cho

chính bản thân" chiếm 21,0% số người tham gia trả lời, trong những trường hợp

nhất định cũng có thể xem dịch vụ BHYT là chỗ dựa về tinh thần và vật chất đối

với đối tượng tham gia, tạo sự an tâm, an ủi, động viên trong những rủi ro của bệnh

tật. Số người cho biết lợi ích của dịch vụ BHYT là sự "chia sẻ rủi ro với cộng đồng"

chiếm 10,7% số người tham gia trả lời, đây chính là lợi ích cơ bản phổ biến nhất

mục tiêu hướng tới của dịch vụ BHYT hiện nay, nhất là đối với những cá nhân,

nhóm và cộng đồng nghèo, cộng đồng yếu thế; không có người tham gia trả lời đưa

ra những lợi ích khác của BHYT. Sau đây là chia sẻ của lao động di cư về lợi ích

của việc sử dụng BHYT.

"Bản thân tôi cũng thỉnh thoảng sử sụng BHYT khi tham gia khám chữa bệnh

tại bệnh viện, thì tôi thấy lợi ích mà bản thân và đại đa số người sử dụng BHYT đều

quan tâm đó là lợi ích về mặt tài chính, tiết kiệm được chi phí khi tham gia khám

chữa bệnh, nhất là trong trường hợp ốm nặng, cấp cứu, hay phải nằm viện lâu dài...

nếu không sử dụng BHYT để gánh bớt khoản tài chính, tôi e nhiều người không đủ

98

tiền để chi trả, đó là lợi ích cơ bản của BHYT mà tôi được biết" (PVS anh Hoàng

Văn Mạnh, 27 tuổi; quê Bắc Ninh, nghề nghiệp: công nhân điện).

Bảng 3.9. cho thấy yếu tố hiểu biết về lợi ích của dịch vụ BHYT theo trình độ

học vấn của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy có mối tương quan

mật thiết với nhau, kết quả điều tra cho thấy:

Bảng 3.9. Hiểu biết về lợi ích của dịch vụ BHYT theo trình độ học vấn

(Đơn vị: %; N=300)

Trình độ học vấn

Trung Cao đẳng, Trên Đại Hiểu biết về lợi ích của

THCS THPT cấp Đại học học Tổng dịch vụ BHYT

Tiết kiệm chi phí khi 46 91 11 55 2 205 N

tham gia khám, chữa % 15,3 30,3 3,7 18,3 0,7 68,3 bệnh

Sự an tâm cho chính bản N 1 3 58 1 0 63

thân % 0,3 1,0 19,3 0,3 0 21,0

Chia sẻ rủi ro với cộng N 3 11 3 12 3 32

đồng xã hội % 1,0 3,7 1,0 4,0 1,0 10,7

N Tổng 50 105 72 68 5 300

% 16,7 35,0 24,0 22,7 1,7 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Qua kết quả khảo sát cho thấy, hầu như việc hiểu được lợi ích của dịch vụ

BHYT ở tất cả các nhóm đối tượng thuộc trình độ học vấn khác nhau đều khá tốt.

Số người cho rằng việc sử dụng dịch vụ BHYT sẽ có lợi ích về mặt "Tiết kiệm chi

phí khám khi tham gia khám, chữa bệnh" chiếm tỷ lệ người tham gia trả lời cao

nhất, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm đối tượng có trình độ học vấn THPT

chiếm 30,3% (do nhóm đối tượng tham gia điều tra ở trình độ học vấn này chiếm tỷ

lệ cao nhất); chiếm tỷ lệ trung bình là nhóm có trình độ cao đẳng, đại học với 18,3

và THCS là 15,3%; chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm có trình độ học vấn trung cấp với

99

3,7% và trên đại học là 0,7%. Đây chính là lợi ích mà bất cứ ai sử dụng BHYT đều

biết được và nó thường được họ quan tâm hàng đầu, nhất là những nhóm đối tượng

có thu nhập và mức sống thấp.

Ở các lợi ích khác như "Sự an tâm cho chính bản thân" chiếm tỷ lệ cao nhất ở

nhóm có trình độ học vấn là trung cấp với 19,3%, ở những đối tượng có trình độ

học vấn khác chiếm tỷ lệ không đáng kể; tương tự như vậy với câu trả lời cho rằng,

lợi ích của sử dụng dịch vụ BHYT là "chia sẻ rủi ro với cộng đồng xã hội" chiếm tỷ

lệ nhỏ ở tất cả các nhóm đối tượng thuộc trình độ học vấn khác nhau, cụ thể: Cao

đẳng, đại học (4,0%); THPT (3,7%); THCS, trung cấp và trên đại học cùng chiếm

chung tỷ lệ 1,0%; không có người đưa ra ý kiến khác.

Như vậy, từ kết quả khảo sát có thể khẳn định rằng, phần lớn người dân di cư

nói chung và người lao động di cư tại phường Vĩnh Tuy đã có những hiểu biết cơ

bản về quyền và lợi ích của bản thân khi sử dụng dịch vụ BHYT phục vụ nhu cầu

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe; điều này có sự khác biệt không nhiều ở các

nhóm đối tượng dân di cư có trình độ học vấn khác nhau; thông thường những

người quan tâm tới chi phí khám chữa bệnh được dịch vụ BHYT gánh bớt, thường

tập trung ở nhóm có thu nhập và mức sống từ thấp đến trung bình; những người có

thu nhập và mức sống khá giả, trình độ học vấn cao họ thường chú ý tới lợi ích lâu

dài của dịch vụ BHYT mang lại hơn.

"Nói chung so với gia đình tôi thì nhiều gia đình khác khi tới đây định cư còn

gặp khá nhiều khó khăn, khi tham gia khám chữa bệnh thì điều tôi quan tâm nhất đó

là chất lượng dịch vụ, dịch vụ họ sẽ mang đến cho mình cái gì, mình được hưởng

lợi ra sao từ dịch vụ đó, vấn đề giảm bớt chi phí tôi cũng rất quan tâm. Tuy nhiên,

có BHYT nó khiến tôi và gia đình cảm thấy được yên tâm hơn, nhất là trong những

trường hợp phải nằm viện lâu ngày, vì vậy tôi và gia đình luôn sử dụng BHYT

thường xuyên để khám sức khỏe định kỳ để yên tâm hơn về sức khỏe của bản thân"

(PVS anh Cù Văn Trung, 33 tuổi, quê Hải Phòng, nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí).

Biểu 3.3. Đánh giá về chi phí hỗ trợ của BHYT khi tham gia khám, chữa bệnh

của đối tượng tham gia điều tra tại phường Vĩnh Tuy, kết quả điều tra cho thấy:

100

Biểu 3.3. Đánh giá về chi phí hỗ trợ của BHYT khi tham gia khám, chữa bệnh

(Đơn vị:%; N=300)

(Nguồn: Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu)

Trong số 300 người tham gia khảo sát cho biết, chi phí hỗ trợ của BHYT khi

tham gia khám, chữa bệnh ở mức "nhiều" chiếm tỷ lệ cao nhất với 58,3% số người

tham gia trả lời; và 26,7% số người tham gia trả lời cho biết chi phí hỗ trợ của

BHYT khi tham gia khám, chữa bệnh ở mức "rất nhiều", đây là đặc điểm cho thấy

người dân di cư khi sử dụng BHYT họ đã nhìn thấy lợi ích mà họ được hưởng, họ

nhìn thấy họ được hưởng lợi nhiều và rất nhiều từ dịch vụ này khi tham gia khám

chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế, đây cũng là tín hiệu cho thấy họ tin

tưởng vào dịch vụ của BHYT mang lại, những khó khăn phát sinh cũng sẽ dần được

khắc phục do nhiều cơ sở y tế hiện nay đang được chấn chỉnh về hình thức và chất

lượng cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một tỷ lệ nhất định đối

tượng tham gia khảo sát cho biết, việc họ được hưởng lợi từ chi phí hỗ trự do

BHYT mang lại là "không nhiều" chiếm 13,8% và 1,2% người tham gia trả lời

"không biết" tới mức hỗ trợ về BHYT như thế nào khi họ tham gia khám chữa bệnh.

101

Qua đây có thể khẳng định rằng, vai trò của BHYT đối với hoạt động chăm

sóc sức khỏe, khám chữa bệnh của người dân nói chung và người dân di cư nói

riêng là rất lớn, dịch vụ BHYT đã đáp ứng được nguyện vọng và quyền lợi của số

đông, họ đã thấy được lợi ích mà họ được hưởng lợi từ dịch vụ này. Tuy nhiên,

trong định hướng thời gian hiện tại và trước mắt, các cơ quan y tế, ban ngành các

cấp có liên quan cần phối hợp trong công tác trợ giúp người dân khi tiếp cận dịch vụ

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe bằng dịch vụ BHYT, giảm thiểu rủi ro, khó

khăn và các thủ tục gây phiền hà cho người dân, nhằm tăng cường uy tín cho dịch

vụ và tạo hiệu ứng tốt để toàn dân ai cũng có điều kiện được tham gia khám chữa

bệnh, chăm sóc sức khỏe, giúp các đối tượng yếu thế, đối tượng khó khăn trong xã

hội có cơ hội được tiếp cận dịch vụ này.

"Tôi thấy BHYT là một gói trợ giúp trong quá trình khám chữa bệnh tại các cơ

sở y tế khá hay và tiện lợi, giải quyết được nhu cầu, đáp ứng được nguyện vọng của

số đông người dân, bản thân tôi có tiền sử bệnh thận hay phải tới bệnh viện kiểm

tra, nếu không có BHYT chắc tôi không có điều kiện để chi trả; vì vậy, tôi thấy

BHYT giúp ích được cho người dân rất nhiều, mặc dù quá trình tham gia BHYT có

những khó khăn nhất định, song tôi luôn tin tưởng vào dịch vụ này" (PVS anh Lê

Hoàng Anh, 29 tuổi, quê Hưng Yên, nghề nghiệp: công nhân).

"BHYT là một dịch vụ tiện lợi, song cũng có nhiều thủ tục khá phiền hà, lúc

mới sử dụng BHYT toi gặp rất nhiều khó khăn, song khi được hướng dẫn chu đáo

tận tình của một số y bác sĩ về quyền và lợi ích thực tế của dịch vụ này tôi rất yên

tâm. Song tôi thấy việc ưu tiên trong sử dụng dịch vụ BHYT chưa được thực

hiện,cần có chính sách và cơ chế hỗ trợ những người dân di cư có hoàn cảnh khó

khăn như chúng tôi ở mức chi trả hợp lý, chứ nhiều người ở khu toi ở trọ còn chưa

mua nổi được BHYT, chưa biết tới khám chữa bệnh thường xuyên là gì" (PVS chị

Phạm Thị Oanh, 25 tuổi, quê Bắc Giang, nghề nghiêp: công nhân).

102

Tiểu kết:

Từ kết quả khảo sát, thu thập thông tin và phân tích về thực trạng sức khỏe và

các yếu tố tác động tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư, nghiên

cứu đã đi sâu phân tích và chỉ ra được các đặc điểm cơ bản ở đối tượng nghiên cứu

nó có tác động như thế nào tới tình trạng sức khỏe của họ như: Đặc điểm nhóm tuổi,

giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, mức sống...

là những điều kiện tác động tới việc chăm sóc ức khỏe ở nhóm đối tượng di cư. Thu

thập những kết quả về: Đánh giá về sức khỏe hiện tại của họ, thực trạng sử dụng

dịch vụ y tế của họ tại địa bàn, các yếu tố cơ bản tác động đến hoạt động chăm sóc

sức khỏe của nhóm đối tượng dân di cư như: yếu tố kinh tế và điều kiện sống, yếu

tố về chính sách khám chữa bệnh, yếu tố quyền lợi khi tham gia khám chữa bệnh

thông qua dịch vụ BHYT... Từ việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trên, nghiên

cứu đưa ra những phân tích, luận giải nhằm cung cấp những cơ sở khoa học quan

trọng, nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của người

dân di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Tp.Hà Nội. Từ đó, giúp

đề ra những giải pháp, đề xuất những kiến nghĩ phù hợp nhằm tăng cường khả năng tiếp

cận dịch vụ y tế của người dân di cư tại địa bàn.

103

KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ

KẾT LUẬN

Hiện nay, ở nước ta dòng người di cư từ nông thôn ra các thành phố lớn diễn

ra ngày càng mạnh mẽ, với tốc độ tăng nhanh, quy mô ngày một lớn; đây là một vấn

đề mang tính xã hội, bởi nó có tác động không nhỏ đến mỗi gia đình và cộng đồng.

Tuy nhiên, một vấn đề lớn đang được quan tâm hiện nay đó là việc chăm sóc sức

khỏe cho đối tượng là những người dân di cư ở khu vực thành thị đang gặp phải

những khó khăn, trở ngại do sự tác động của nhiều yếu tố; nhiều trẻ em, người già,

người trong độ tuổi lao động trong các gia đình nhập cư vào thành thị chưa được

tiếp cận với các dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh tại nơi

định cư mới. Vì vậy, nghiên cứu này đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những yếu tố

tác động tới hoạt động chăm sóc sức khỏe ở người dân di cư tại địa bàn; từ đó đề

xuất những kiến nghị nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế của người

dân di cư.

Từ việc nghiên cứu "Các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của

người di cư qua nghiên cứu trường hợp phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng,

thành phố Hà Nội" nghiên cứu đã cung cấp những luận cứ và cơ sở quan trọng về lý

luận và thực tiễn, mang đến cái nhìn cụ thể, sâu sắc về hoạt động chăm sóc sức khỏe

và các yếu tố tác động tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân di cư; nghiên

cứu đã đã chỉ ra được thực trạng sức khỏe và các yếu tố tác động tới việc chăm sóc

sức khỏe từ dịch vụ BHYT của người dân di cư thông qua việc đưa ra các cơ sở

thông tin, dữ liệu phân tích, đánh giá về khả năng tiếp cận của người dân di cư với

dịch vụ chăm soc sức khỏe từ dịch vụ BHYT. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã đưa ra

những phân tích khá sắc về ảnh hưởng của các yếu tố như: Điều kiện thu nhập, mức

sống, những yếu tố về chính sách, quền lợi trong sử dụng BHYT trong chăm sóc

sức khỏe... đến hoạt động chăm sóc sức khỏe, tham gia khám chữa bệnh tại các cơ

sở y tế của người dân di cư tại địa bàn; từ đó, đưa ra các đề xuất các kiến nghị nhằm

tăng cường sự tham gia và khả năng tiếp cận của người dân di cư đối với dịch vụ y

tế tại địa bàn, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.

104

Nghiên cứu đã làm rõ được tính cấp thiết của đề tài này, đưa ra được tổng

quan chung về tình hình nghiên cứu vấn đề chăm sóc súc khỏe người dân di cư trên

thế giới và tại Việt Nam, đưa ra phân tích bình luận những nghiên cứu tiêu biểu,

cung cấp những luận cứ khoa học, nhằm luận giải, phân tích phục vụ trực tiếp cho

đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt, nghiên cứu còn đưa ra được những ý nghĩa lý luận,

ý nghĩa thực tiễn; những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu về

chăm sóc sức khỏe người dân di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà

Trưng, Tp. Hà Nội.

Thông qua những phương pháp nghiên cứu như: Phân tích tài liệu; Phương

pháp quan sát; Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi; nghiên cứu đã nêu và phân

tích được thực trạng sức khỏe và các yếu tố tác động tới việc chăm sóc sức khỏe của

người dân di cư tại địa bàn. Đặc biệt, nghiên cứu đã nêu và phân tích khá rõ về các

thông tin liên quan đến đối tượng nghiên cứu qua các thông tin về nhân khẩu học; đi

sâu phân tích nhữngyếu tố ảnh hưởng tới hoạt động chăm sóc sức khỏe của người

dân di cư như: Thu nhập, mức sống, nghề nghiệp, các yếu tố chính sách, quyền lợi

trong sử dụng dịch vụ BHYT. Từ các kết quả khảo sát và phân tích, nghiên cứu đã

đánh giá được các yếu tố tác động tới việc chăm sóc sức khỏe của người dân di cư.

Đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức

khỏe cho nhóm đối tượng là người dân di cư, tăng tường khả năng tiế cận của họ

với dịch vụ này.

KHUYẾN NGHỊ

1. Đối với Nhà nước

Xây dựng, ban hành và sửa đổi bổ sung các Luật, chính sách phù hợp với tình

hình sức khỏe, tình hình hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của người

dân di cư nói riêng và người dân trên cả nước nói chung.

Đẩy mạnh việc thực hiện các Luật, chính sách liên quan đến việc chăm sóc

sức khỏe, khám chữa bệnh cho người dân, nhất là đối tượng người dân di cư. Đặc

biệt, có chính sách hỗ trợ về BHYT đối với nhóm người dân di cư có hoàn cảnh

nghèo, gặp nhiều khó khăn trong đời sống...

105

Phối hợp liên ngành giữa các cơ quan như: Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương

binh và Xã hội, Bộ Tài chính... và các bộ ngành liên quan trong việc định hướng

hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhóm đối tượng là người dân di

cư tại các địa bàn, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng tiếp cận của

người dân di cư với dịch vụ y tế.

2. Đối với chính quyền địa phương

Chính quyền và các cơ quan ban ngành tại địa bàn, cần thực hiện tốt các chính

sách, chủ trương của Nhà nước trong việc trợ giúp người dân di cư tiếp cận với dịch vụ

khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe thông qua dịch vụ BHYT.

Định hướng phát triển cơ sở hạ tầng y tế, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe

người dân, cần phải phù hợp với tình hình dân di cư tại địa bàn để có những chính

sách và trợ giúp hiệu quả nhất cho nhóm đối tượng này. Cần có chính sách ưu tiên

và hỗ trợ đối với nhóm đối tượng thuộc dan di cư có hoàn cảnh khó khăn, có bệnh

hiểm nghèo, sức khỏe kém...

Các cơ sở y tế đóng trên địa bàn hiện đang chăm sóc sức khỏe, khám chữa

bệnh cho người dân địa phương; cần có chính sách quan tâm, trợ giúp nhóm đối

tượng là người dân di cư, để họ có thể dễ dàng và thuận tiện hơn trong việc tiếp cận

với hoạt động khám chữa bệnh tại địa bàn. Có chính sách và chế độ khám, điều trị

đặc biệt cho những đối tượng người dân di cư thuộc gia đình chính sách, đối tượng

có hoàn cảnh khó khăn.

Tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp thiết bị kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu

cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ngày càng cao ở người dân, đặc biệt là

người dân di cư. Giảm thiểu các khó khăn, hạn chế về thủ tục hành chính, nâng cao

chất lượng khám và điều trị bằng dịch vụ BHYT, nhằm thu hút người dân di cư

tham gia sử dụng dịch vụ BHYT phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức

khỏe thường xuyên hơn.

3. Đối với người dân di cư tại địa bàn phường Vĩnh Tuy

Đối với nhóm người dân di cư không sử dụng thẻ BHYT: Cần có chính sách hỗ

trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nhóm đối tượng này được tiếp cận với dịch vụ

BHYT, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh; đối với những nhóm

106

dân di cư yếu thế, gặp những khó khăn về tài chính cần có mức hỗ trợ phù hợp, có

chính sách ưu tiên nhất định nhằm tạo cơ hội để họ được tham gia dịch vụ này.

Đối với nhóm người dân di cư có thẻ BHYT, nhưng không sử dụng: Đối với

nhóm đối tượng này, cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông, tuyên truyền về các

quyền, lợi ích khi tham gia sử dụng BHYT, giúp họ thấy được vai trò và tầm quan

trọng của BHYT đối với nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh của họ.

Ngoài ra, cần khắc phục những khó khăn, hạn chế của dịch vụ BHYT để họ thay đổi

quan điểm, cách nhìn nhận, tin tưởng hơn khi sử dụng dịch vụ này.

Đối với nhóm người di cư đang sử dụng thẻ BHYT: Cần sử dụng dịch vụ khám

chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe thông qua dịch vụ BHYT một cách thường xuyên

hơn. Duy trì tham gia đóng BHYT và sử dụng BHYT đã có một cách hiệu quả. Chia

sẻ những hiểu biết, những quyền và lợi ích của việc sử dụng BHYT cho những

người xung quanh, nhằm tăng cường sự tham gia và khả năng tiếp cận dịch vụ này

cho những người có nhu cầu sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh, chăm sóc sức

khỏe.

107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1999), Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy

làn sóng di dân tự do từ khác khu vực nông thôn ra đô thị trong quá trình

chuyển đổi kinh tế ở nước ta hiện nay và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển

kinh tế - xã hội các vùng đô thị, Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan,

Hà Nội.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1999), Tăng cường năng lực cho

chính sách di dân nội địa ở Việt Nam, dự án VIE/95/004. Hà Nội.

3. Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê (2003). Báo cáo chuyên đề Điều tra Y tế Quốc gia

2001-2002: Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ y tế. Nhà xuất bản Y học. Hà

Nội – Việt Nam.

4. Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê (2003), Báo cáo chuyên đề Điều tra Y tế Quốc gia

2001-2002: Chính sách hỗ trợcủa Nhà nước trong CSSK – Nhìn từ phía người

hưởng lợi. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội - Việt Nam.

5. BộY tế-Tổng cục Thống kê (2003), Báo cáo kết quả Điều tra Y tế Quốc Gia

2001-2002. Nhà xuất bản Y học, Hà nội

6. Báo cáo điều tra ban đầu chương trình RHIYA Việt Nam (2005). TTDS Đại

học Kinh tế quốc dân thực hiện do Quỹ Dân sốLiên Hợp Quốc (UNFPA) và

Liên minh Châu Âu (EU) tài trợ. Hà Nội, Việt Nam.

7. Bộ Y tế (2011), Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe

nhân dân giai đoạn 2011 – 2020.

8. Đỗ Văn Hòa (1999), Nghiên cứu di dân ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp.

9. Điều tra di dân năm (2004), Mối quan hệ giữa di dân và sức khỏe.

10. Đặng Nguyên Anh (2005). Di dân trong nước: Vận hội và thách thức đối với

công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái

Bình Dương. Nhà xuất bản Thế giới. Hà Nội, Việt Nam.

11. Đặng Nguyên Anh (2006), Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh tế-

xã hội ở các tỉnh miền núi, Nxb Thế giới, Hà Nội).

12. Đặng Nguyên Anh (2012), Di dân con lắc và di dân mùa vụ trong giai đoạn

phát triển mới của đất nước, Tạp chí Xã hội học (4).

108

13. Đinh Quang Hà (2014), Di dân tự do nông thôn – đô thị với trật tự xã hội ở Hà

Nội, luận án tiến sĩ ngành Xã hội học.

14. Hoàng Đình Cầu (1995), Quản lý và Chăm sóc sức khỏe ban đầu, NXB Y học

Hà Nội.

15. Hoàng Văn Chức (2004), Di dân tự do đến Hà Nội – Thực trạng và giải pháp,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Liên hợp quốc (1958), Khái niệm về di dân và các hình thức di dân trên thế

giới.

17. Nguyễn Đức Vinh (1998), Điều kiện chăm sóc sức khỏe của người dân di cư.

18. Phạm Đức Thành; Mai Quốc Chánh (1998), Giáo trình Kinh tế Lao động.

19. Phạm Quý Thọ (2000), Mối quan hệ giữa di dân nông thôn – Hà Nội với vấn đề

việc làm và mức sống.

20. Phạm Tất Dong- Lê Ngọc Hùng (2000), Xã hội học đại cương, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

21. Tổ chức Y tế thế giới – WHO (1976), Khái niệm về sức khỏe và những vấn đề

chung về sức khỏe.

22. Trung tâm nghiên cứu dân số, nguồn lao động (1993), Báo cáo tổng quan về di

dân tự do ở Việt Nam, Dự án VIE/93/PO2. Hà Nội.

23. Trịnh Văn Tùng (1999), Tổng thuật từ André Akoun và Ansart Pierre, Từ điển

Xã hội học, Paris, Nxb. Le Robert và Seuil, trang 272 (588 trang).

24. Trương Thị Kim Chuyên (2004), Di chuyển xã hội sự khác biệt giữa các vùng

và quỹ đạo phát triển mới ở nông thôn Việt Nam.

25. Tổng cục thống kê (2005), Sách hướng dấn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt

Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

26. Tổng cục DS-KHHGĐ (2011), Dân số học, Tài liệu dùng cho Chương trình bồi

dưỡng nghiệp vụ dân số-kế hoạch hoá gia đình.

27. Tổng Cục Thống kê và Quỹ dân số Liên hợp quốc (2011), Di cư và đô thị hóa ở

Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt.

109

28. Trung tâm Nghiên cứu Phát triển và Khoa Xã hội học-Công tác Xã hội-Đông

Nam Á học (2014), Nghiên cứu về di cư và di dân nhìn từ góc độ xã hội học,

trường Đại học Mở - TP.HCM.

29. UBND Tp. Hà Nội (2013), Báo cáo tổng quan về tình hình kinh tế, chính trị, xã

hội.

30. UBND phường Vĩnh Tuy (2013), Thống kê về tình hình dân cư và vấn đề chăm

sóc sức khỏe các nhóm dân cư.

31. Viện Xã hội học (1997), Di cư và Sức khỏe.

32. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2012), Từ nông thôn ra thành phố, tác

động kinh tế - xã hội của di cư Việt Nam.

33. ActionAid (2012), Tiếp cận an sinh xã hội của người lao động nhập cư. Nghiên

cứu được tiến hành tại một số khu đô thị của Việt Nam như: TP.HCM, Hải

Phòng.

34. David Bender (1995), Immigrateion Policy Greenhaven prees; San Diego,

Caliafornia; U.S.A.

35. Oxfam GB và Ngân hàng thế giới (2010), Đánh giá nhanh về tác động xã hội

của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ở Việt Nam.

36. Soskolne and Shtarkshall (2002), Mối quan hệ giữa di cư với tình trạng sức

khoẻ.

37. Stephen Castles (2011), Một số vấn đề về di dân, Đại học Sydney, năm .2011

38. Tungu (2005), Tác động của di cư đến sức khoẻ.

39. VanLandingham (2004), Nghiên cứu di cư nông thôn - đô thị ở Tp. Hồ Chí

Minh.

40. Xiushi Yang et al, Archana K. Roy (2005), Nghiên cứu về tỷ lệ tử vong của trẻ

em di cư, Bangladesh.

110

PHỤ LỤC

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Kính chào Anh/chị.

Nghiên cứu “Các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe của người di

cư qua nghiên cứu trường hợp phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội'”

được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng vấn đề sử dụng bảo hiểm y tế trong việc

khám chữa bệnh của người dân nhập cư đến phường Vĩnh Tuy.

Chúng tôi kính mời anh/chị tham gia cuộc nghiên cứu này bằng cách trả lời

một số câu hỏi trong lĩnh vực Bảo hiểm y tế. Những ý kiến đóng góp của anh/chị rất

quan trọng với nghiên cứu. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin anh/chị cung cấp

chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu.

Trân trọng cám ơn sự hỗ trợ của anh/chị!

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Họ tên: ……………………..

2. Năm sinh: ………………….

3. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ

4. Tình trạng hôn nhân:

1. Độc thân 3. Ly hôn/ly thân 5. Khác

2. Đang có vợ/chồng 4. Goá

5. Dân tộc: 1. Kinh 2. Dân tộc khác (ghi rõ…........…..)

6. Trình độ học vấn:

1. Không biết chữ 2. Tiểu học 3. Trung học cơ sở

4. Trung học phổ thông 5. Trung cấp 6. Cao đẳng, Đại học

7. Trên đại học

7. Nghề nghiệp:

1. Nông dân 2. Công nhân 3. Cán bộ hưu trí

4. Giáo viên 5. Bộ đội/công an 6. Kinh doanh/buôn bán

7. Kỹ sư – Bác sỹ 8. Cán bộ chính quyền/đoàn thể

111

9. Khác (xin ghi rõ): ………………………………………………………………

8. Anh/ chị chuyển đến đây từ năm nào? Năm.....................................................

9.Lý do mà anh/chị chuyển đến đây là gì? (Có thể chọn nhiều đáp án)

1. Không tìm được việc làm ở nơi ở cũ

2. Tìm được việc làm ở nơi ở mới

3. Để cải thiện đời sống kinh tế

4. Muốn thay đổi môi trường sống

5. Vì tương lai của gia đình và con cái

6. Để chữa bệnh

7. Lí do khác.......................................

10. Anh/chị chuyển đến đây cùng với ai?

1.Vợ/chồng 2.Con cái3.Bố/mẹ4.Họ hàng5.Đồng hương

6.Bạn bè7.Người khác

11. Anh/chị có gặp khó khăn gì sau khi đến đây không?

1.Có

2.Không (bỏ quả câu 12)

12. Đó là những khó khăn gì?

1.Khó khăn về chỗ ở

2.Khó khăn về chính quyền

3.Không tìm được việc làm

4.Không tìm được nơi khám chữa bệnh hợp lí

5. Khó khăn khác

II. ĐIỀU KIỆN SỐNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH

Câu 1. Nhà anh/chị đang ở hiện nay có phải đi thuê không?

1. Có (Chuyển câu 1a)

2. Không (Chuyển câu 2)

Câu 2. Gia đình anh/chị có những phƣơng tiện/đồ dùng sau không?

1. Đài 6. Ô tô

2. Ti vi 7. Xe máy

112

8. Xe đạp 3. Điện thoại

9. Điều hòa nhiệt độ, máy lạnh 4. Máy tính

10. Khác.................................... 5. Tủ lạnh

Câu 3. Gia đình anh/chị sử dụng nguồn nƣớc nào cho sinh hoạt?

1. Nước máy

2. Nước mưa

3. Nước giếng đào

4. Nước ao, hồ, sông, suối

5. Nguồn nước khác

Câu 4. Gia đình anh/ chị sử dụng loại nhà vệ sinh nào?

1. Hố xí tự hoại

2. Hố xí một ngăn

3. Hố xí hai ngăn

4. Hố xí thùng

5. Không có hố xí

Câu 5: Trong năm qua, anh/chị chi tiêu cho những hoạt động nào?

1. Ăn, uống 2. Khám chữa bệnh 3. Đóng góp hiếu hỉ, lễ

hội...

4. Quần áo, giày dép 5. Học hành 6. Các loại đóng góp cho

cộng đồng và hội đoàn

7. Sửa chữa nhà cửa 8. Mua sắm đồ dùng gia 9. Chi các loại cho sản

đình xuất/kinh doanh

10. Điện, nước, phí vệ 11. Đi lại, du lịch, giải trí 12. Chi tiêu khác

sinh, chất đốt

113

Câu 6. Mức chi tiêu hàng tháng của gia đìnhanh/chị………………….(đồng).

Câu 7. Trong năm vừa qua, gia đình anh/chị có thu nhập từ những nguồn

nào ?

Nguồn thu nhập Nguồn thu Nguồn thu nhập Nguồn thu

chính chính

5. Kinh doanh, dịch vu

1. Lương

6. Lương hưu

2. Thưởng, làm thêm

7. Trợ cấp xã hội

3. Nông nghiệp

4. Tiểu thủ công nghiệp 8. Khác

Câu 8. Trong năm vừa qua, trung bình thu nhập một tháng của cả gia đình là bao

nhiêu? …………..............……………….(đồng)

Câu 9. Mức sống của gia đình anh/chị so với các gi điình khá tại địa phƣơng nhƣ

thế nào?

1. Giàu

4. Cận nghèo

2. Khá

5. Nghèo

3. Trung bình

III. TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE VÀ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE

Câu 10. Anh/chị đánh giá sức khỏe hiện tại của bản thân nhƣ thế nào?

1. Tốt

2. Trung bình

3. Yếu

4. Rất yếu

Câu 11. Khi gia đình có ngƣời ốm đau anh/chị thƣờng lựa chọn cơ sở khám

chữa bệnh nào? (chỉ lựa chọn 1 phương án)

114

1. Bệnh viện tuyến Trung ương 6. Phòng khám tư nhân

2. Bệnh viện tuyến tỉnh 7. Tự mua thuốc điều trị tại nhà

3. Bệnh viện tuyến huyện 8. Khác (ghi rõ):.............................

4. Trạm y tế xã, phường

5. Bệnh viện tư nhân

Câu 12. Khi lựa chọn cơ sở y tế, anh/chị thƣờng lựa chọn cơ sở y tế dựa vào

yếu tố nào?

1. Có thẻ bảo hiểm y tế 6. Tiết kiệm thời gian

2. Chất lượng khám, điều trị tốt 7. Thuận tiện

3. Thái độ phục vụ tốt 8. Gần nhà

4. Thủ tục đơn giản 9. Khác (ghi rõ):.........................

5. Chi phí hợp lý

Câu 13. Hiện tại, anh/chị có thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) hay không?

1. Có 2. Không (chuyển C22)

Câu 14. Anh/chị thuộc nhóm đóng BHYT nào trong các nhóm sau đây?

1. Nhóm hưu trí 4. Cán bộ/viên chức

2. Nhóm được Nhà nước cấp (hộ nghèo, người có công) 5. Nhóm tự nguyện

3. Nhóm được Nhà nước hỗ trợ một phần (học sinh, sinh 6. Khác (ghi rõ)

………………...... viên)

Câu 15. Anh/chị có BHYT thông qua nguồn nào?

1. Chính quyền địa phương 4. Tại Cơ quan, đơn vị lao động

2. Đại lý bán thẻ BHYT tại phường 5. Tại cơ quan BHXH quận, huyện

3. Nhờ người thân mua 6. Khác (ghi rõ)........................

115

Câu 16. Tình trạng sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong việc khám/chữa bệnh

chƣa?

4. Chưa bao giờ 1. Rất thường xuyên

2. Thường xuyên

3. Không thường xuyên

Câu 17. Đánh giá của ah/chị nhƣ thế nào về chất lƣợng dịch vụ khám/chữa

bệnh bằng thẻ BHYT ?

Nội dung Rất hài Hài lòng Không Không

lòng hài lòng biết

Chuyên môn và thái độ phục vụ của

cán bộ y tế

Số lượng và chất lượng thuốc được

cấp theo thẻ BHYT

Chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám

chữa bệnh theo thẻ BHYT

Câu 18. Anh/chị đánh giá nhƣ thế nào về thủ tục khám/chữa bệnh bằng thẻ

BHYT?

1. Rất thuận tiện 4. Không thuận tiện

5. Rất không thuận tiện 2. Thuận tiện

3. Binh thường

Câu 19. Chi phí hỗ trợ của BHYT khi anh/chị tham gia khám chữa bệnh?

1. Rất nhiều 4. Không biết

2. Nhiều

3. Không nhiều

Câu 20. Khi gặp những vƣớng mắc hay khó khăn trong việc sử dụng BHYT,

anh/chị thƣờng tìm sự hỗ trợ từ nguồn nào?

1. Chính quyền/ đoàn thể địa phương 5. Cơ quan, đơn vị lao động

2. Đại lý bán thẻ BHYT tại Phường 6. Cán bộ LĐ-TB&XH

116

3. Cơ quan BHXH 7. Khác

4. Tổng đài 1080

Câu 21. Anh/chị biết tới lợi ích của thẻ BHYT mang lại nhƣ thế nào?

1. Tiết kiệm chi phí khi tham gia khám, chữa bệnh

2. Sự an tâm cho chính bản thân

3. Chia sẻ rủi ro với cộng đồng xã hội

4. Khác (ghi rõ)…………………………….

Câu 22. Anh/chị thấy mức phí mua BHYT nhƣ thế nào?

1. Rất cao 3. Bình thường

2. Cao 4. Không cao

Câu 23. Anh/chị đánh giá nhƣ thế nào về mức độ sử dụng thẻ BHYT của

phƣờng Vĩnh Tuy hiện nay?

1. Rất phổ biến 4. Không phổ biến

2. Phổ biến 5. Không biết

3. Bình thường

Câu 24.Anh/chị thấy mức độ cần thiết của BHYT nhƣ thế nào?

1. Rất Cần thiết 4. Không cần thiết

2. Cần thiết 5. Không biết

3. Bình thường

Câu 25. Đánh giá của anh/chị về chất lƣợng dịch vụ khám chữa bệnh tại các cơ

sở y tế của phƣờng Vĩnh Tuy?

1. Tốt 2. Bình thường 3. Không tốt 4. Không biết

117

Câu 26. Đánh giá của anh/chị về khả năng tiếp cận của ngƣời dân với các cơ sở

y tế tại phƣờng Vĩnh Tuy?

Rất thuận Thuận Bình Không Không

tiện tiện thường thuận tiện biết

Trạm y tế phường

Trung tâm y tế quận

Bệnh viện y tế quận

Bệnh viện trung ương

Câu 27. Theo anh/chị các hoạt động y tế sau đang đƣợc thực hiện nhƣ thế nào

của phƣờng Vĩnh Tuy?

Rất tốt Tốt Bình Không tốt

thường

Chăm sóc sức khỏe sinh san

Chăm sóc sức khỏe trẻ em

Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi

Chăm sóc sức khỏe người nghèo

Chăm sóc sức khỏe gia đình chính

sách

Chăm sóc sức khỏe toàn dân

Câu 28. Theo anh/chị những giải pháp nào giúp tăng cƣờng sự tham gia BHYT

của ngƣời dân

1. Tăng cường tuyên truyền về BHYT

2. Giảm bớt thủ tục hành chính

3. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT

4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất ở các cơ sở khám chữa bệnh

5. Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ BHYT cho một số đối tượng

6. Bổ sung một số bệnh được chi trả bằng thẻ BHYT

118

7. Khác (ghi rõ).........................................................

Câu 29. Anh/chị có dự định tiếp tục tham gia BHYT trong thời gian tới không?

1. Có 2. Không

Nếu có, tại sao? .............................................................................................................

Nếu không, tại sao? .......................................................................................................

Xin cảm ơn anh/chị!

119