Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sự tham gia của Cộng đồng dân cư trong việc Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn (Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là chỉ ra thực trạng về sự tham gia của người dân trong việc phát triển cở sở hạ tầng ở nông thôn. Qua đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia, dự báo xu hướng của việc người dân tham gia trong tương lai. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sự tham gia của Cộng đồng dân cư trong việc Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn (Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------******------ NGUYỄN TIẾN DŨNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN (Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước) Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 60 31 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------******------ NGUYỄN TIẾN DŨNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở NÔNG THÔN (Nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước) Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 60 31 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS VŨ HÀO QUANG HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………………...1 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ………………………………………………………...3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………….….…5 4. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu……………………………………..........5 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………..…7 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết……………………………………………23 PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu……………………………………………………...25 1.1.1. Trên thế giới……………………………………………………………………………....25 1.1.2. Ở Việt Nam………………………………………………………………………………...26 1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của địa bàn nghiên cứu…………………............31 1.2.1. Tỉnh Thanh Hóa…………………………………………………………………………..31 1.2.2 Tỉnh Bình Phước…………………………………………………………………………..35 1.3. Một số khái niệm công cụ………………………………………………………......37 1.3.1. Khái niệm sự tham gia của cộng đồng………………………………………………...37 1.3.2. Khái niệm về phân cấp ……………………………………………………………..…...39 1.3.3. Khái niệm về phát triển lấy cộng đồng làm định hướng……………………..……...41 1.3.4. Khái niệm cộng đồng………………………………………………………………..…...42 1.3.5 Khái niệm cơ sở hạ tầng nông thôn……………………………………………..…......43 CHƢƠNG II: VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM 2.1 Lập kế hoạch có sự tham gia .....................................................................................45
- 2.2 Lập ngân sách/kiểm toán tham gia ............................................................................50 2.3 Giám sát có sự tham gia .............................................................................................57 2.4 Đơn thƣ khiếu nại và tố cáo ……………………………………………….....…......61 2.5 Tiểu kết ……………………………………………………………………...……...62 CHƢƠNG III: SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHÁT TRIỂN CSHT NÔNG THÔN 3.1 Các nội dung tham gia trong phát triển CSHT ……………………….......................64 3.1.1. Quá trình tiếp nhận thông tin ………………………………………………………..…64 3.1.2 Tham gia trong các cuộc họp lựa chọn công trình……………………………...…….69 3.1.3 Sự tham gia trong Ban điều phối dự án xã……………………………………….…….74 3.1.4 Tham gia đóng góp các nguồn lực ……………………………………...............……..77 3.1.5 Tham giám sát xây dựng và duy tu bảo dưỡng công trình ………………..…………80 3.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự tham gia…………………………………..........…….84 3.2.1 Các yếu tố về nhân khẩu xã hội của cộng đồng…………………………………...….84 3.2.2 Vai trò của trưởng thôn…………………………………………………….................…89 3.2.3 Chính quyền cấp xã………………………………………………………………………..92 3.2.4 Các tổ chức trung gian/xã hội dân sự…………………………………………….…....95 3.2.5 Các yếu tố về cơ chế chính sách…………………………………………………….….99 3.2.5.1 Quá trình phân cấp quản lý đầu tư cho cấp xã…………………………..…………99 3.2.5.2 Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở………………………………..…..….....103 3.3 Tiểu kết …………………………………………………………………...……….105 PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận ……..………………………………………………………………………107 2. Khuyến nghị…………………………………………………………………………109 2.1 Những khuyến nghị chung………………………………………………………………...109 2.2 Các khuyến nghị cụ thể…………………………………………………………………....110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á CSHT: Cơ sở hạ tầng CSI : Chỉ số Xã hội dân sự NGO: Tổ chức Phi chính phủ HĐND: Hội đồng Nhân dân UNDP: Chương trình phát triển Liên hợp quốc UBND : Ủy ban nhân dân CDD: Phát triển lấy cộng đồng làm định hướng DTTS: Dân tộc thiểu số NHTG: Ngân hàng Thế giới XHDS: Xã hội dân sự XĐGN: Xóa đói giảm nghèo VDP: Kế hoạch phát triển thôn bản PPA: Đánh giá nghèo có sự tham gia ĐPDA: Điều phối dự án ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Năm 1993 Việt Nam vẫn còn khoảng 58% dân số sống trong nghèo đói, năm 1998 con số này là là 37% và năm 2002 đã giảm xuống 29%1. Những con số này thể hiện một cách tập trung những nỗ lực cải cách của Việt Nam kể từ khi tiến hành đổi mới vào năm 1986. Trên cơ sở không ngừng nâng cao khả năng tiếp cận với các dịch vụ giáo dục và y tế, Việt Nam đã và đang tiếp tục đạt được những thành quả đáng kể trong quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Ngoài ra, Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế của khu vực và toàn cầu. Khu vực nông thôn có diện tích đất chiếm 92% diện tích lãnh thổ Việt Nam với 75% dân số sinh sống đang trở thành một trong những trọng tâm của các chính sách phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, khu vực này mặc dù đã được đầu tư nhiều và đã có những chuyển biến tích cực, song còn nhiều yếu kém. Hiện nay trong khu vực nông thôn vẫn còn 16% dân cư sống cảng nghèo đói, 7 triệu người thiếu việc làm [13; 4]. Sự yếu kém của khu vực nông thôn còn thể hiện ở cả cơ sở hạ tầng. Hai thập kỷ qua, hạ tầng nông thôn tuy đã được đầu tư và cải thiện đáng kể, nhưng về cơ bản vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về hệ thống đường xã, cung cấp nước tưới và cung cấp điện. Những năm vừa qua, Việt Nam đã có những nỗ lực để phát triển toàn diện khu vực nông thôn thông qua các chương trình, dự án đầu tư. Theo đó, các dự án phát triển nông thôn tổng hợp đang ngày càng trở thành công cụ hữu hiệu trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong những thập kỷ gần đây. Trong các dự án phát triển nông thôn tổng hợp thì lĩnh vực cơ sở hạ tầng luôn được coi là một trong những khía cạnh được xem xét đầu tư vì nó mang tính quyết định lớn đến sự phát triển chung của nông thôn. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo cho người dân ở nông thôn có thể tiếp cận nhiều hơn với thị trường đồng thời cũng cải thiện được tình hình sản xuất và sinh hoạt trong cộng đồng của mình. Trong công tác quản lý dự án thì hiệu quả quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng cũng sẽ đóng vai trò quyết định đến hiệu quả chung của đầu tư và chất lượng của công trình xây dựng. 1 Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 của Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 1
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Trong những năm trước đây, nhiều chương trình của Chính phủ đã sử dụng phương pháp tiếp cận từ trên xuống thiếu sự tham gia của người dân, đặc biệt là người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương, nên đã làm hạn chế tính hiệu quả của các sáng kiến giảm nghèo và kết quả là thiếu sự cam kết, sự đóng góp và tinh thần làm chủ của người dân đối với những công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động giảm nghèo. Kinh nghiệm của nhiều dự án trong vòng 5 năm qua cho thấy một nhu cầu bức thiết phải xây dựng những cơ chế phù hợp để các nhóm mục tiêu dự án tham gia nhiều hơn vào quy trình ra quyết định, từ việc lập kế hoạch đến giám sát, đánh giá, vận hành bảo dưỡng công trình đầu tư. Có như vậy, hiệu quả của công trình đầu tư mới được đảm bảo và có tính bền vững. Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhiều chương trình cải cách theo hướng đảm bảo việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ với chất lượng tốt hơn cho người dân. Nhìn chung, Việt Nam đang thí điểm áp dụng một hệ thống lập kế hoạch, lập ngân sách và thực hiện các chương trình, dự án phát triển được phân cấp nhiều hơn cho các cấp địa phương. Cụ thể là theo tinh thần của Nghị định số 29 (Ban hành năm 1998) của Chính phủ về “phát huy dân chủ cấp cơ sở” thì các cấp chính quyền đã có cam kết rõ ràng hơn về trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào những công việc quản lý chung ở địa phương. Quá trình phân cấp cùng với nó là sự tham gia mạnh mẽ từ phía người dân đang là một trong những chủ trương đang được triển khai từng bước trong nhiều lĩnh vực như quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển, ngân sách nhà nước, v.v. ở các cấp chính quyền địa phương khác nhau và là một nội dung quan trọng của Chương trình Cải cách hành chính công của Chính phủ giai đoạn 2001-2010. Phân cấp quản lý các hoạt động đầu tư phát triển cấp xã cũng đã được từng bước triển khai trong hệ thống quản lý nhà nước cũng như các dự án phát triển nông thôn sử dụng nguồn vốn trong nước và nguồn tài trợ. Việc phân cấp này góp phần thúc đẩy việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường hiệu quả và tính bền vững của các hoạt động đầu tư. Ở một khía cạnh khác, xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với sự gia tăng những ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã đặt ra những yêu cầu về sự phát triển bền vững về mặt xã hội. Điều đó đã quy định cho khoa học Xã hội học những nhiệm vụ nghiên cứu mang tính thực tiễn về sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Phát triển bền vững là một khái niệm mang tính học thuật khá phức tạp, mặc dù nó đã và đang gây nhiều tranh cãi, nhưng mục tiêu cuối cùng mang tính khái quát hơn của sự phát triển bền vững lại mang tính xã hội và nhân văn, như được nêu trong Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 2
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Hiến chương của Liên hiệp quốc về Quyền con người. Đó là, “đảm bảo cho mỗi người quyền có được những điều kiện sống thích hợp cho sức khỏe và phúc lợi bao gồm đồ ăn, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết khác”. Về cơ bản, phát triển bền vững xã hội có cốt lõi nằm ở việc giải quyết những mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, cũng như phát triển con người. Tuy nhiên, ngay cả với một cách hiểu sơ lược như vậy, thì sự phát triển bền vững về mặt xã hội vẫn còn là một chủ đề lớn và phức tạp. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt xã hội, bên cạnh việc thúc đẩy tăng trưởng về mặt kinh tế, bảo vệ môi trường, thì vẫn còn những quá trình và những yếu tố xã hội cần được chú ý xem xét đúng mức, chẳng hạn: (i) hệ thống chính sách cần thiết đầu tư cho con người, thúc đầy phát triển con người, đảm bảo các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống của họ, (ii) cải thiện điều kiện sống, cơ sở hạ tầng thiết yếu của nhóm người nghèo, đặc biệt là nhóm xã hội nhạy cảm dễ bị tổn thương, (iii) huy động sự tham gia rộng rãi và có hiệu quả của cộng đồng và mọi người dân vào quá trình phát triển, và (iv) tăng cường về mặt thể chế các quá trình địa phương của xã hội dân sự. Đây cũng chính là những nhiệm vụ xuyên suốt mà Đảng và Nhà nước giao phó và yêu cầu đối với khoa học xã hội nói chung và Xã hội học nói riêng. Từ những vấn đề đã nêu, có thể khẳng định rằng, sự tham gia của cộng đồng là một trong những chủ đề đang được quan tâm cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình phát triển hiện nay. Trên tinh thần "Phát triển nông thôn là công việc của chính người dân nông thôn, với sự giúp đỡ tích cực của Chính phủ”, sự tham gia của cộng đồng đã và đang là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của công cuộc phát triển nông thôn và đất nước. Với ý nghĩa đó, đề tài nghiên cứu "Sự tham gia của Cộng đồng dân cư trong việc Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn" hy vọng sẽ góp phần vào việc nhận thức thực trạng sự tham gia cũng như một số nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng trong phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2.1 Ý nghĩa khoa học Đề tài nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các lý thuyết, các khái niệm xã hội học vào việc tìm hiều và mô tả sự tham gia của cộng đồng dân cư qua đó đưa ra được một thực trạng về sự tham gia của người dân trong các lĩnh vực thuộc về cơ sở hạ tầng Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 3
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học nông thôn.Qua đó tiến hành giải thích thực tế về sự tham gia dưới giác độ xã hội học và tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng. Thông qua quá trình nghiên cứu, các khái niệm liên quan đến cộng đồng và sự tham gia sẽ được làm sáng tỏ hơn, đồng thời phát hiện ra một số quy luật mang tính xã hội của quá trình tham gia của người dân. Trên cơ sở vận dụng tri thức xã hội học vào nghiên cứu, các khái niệm và các lý thuyết thuộc xã hội học đại cương có điều kiện va chạm và cọ sát với thực tiễn xã hội, qua đó góp phần nhìn nhận lại các khái niệm và lý thuyết và rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn cuộc sống. 2.2 Ý nghĩa thực tiễn Thông qua mô tả và giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia của người dân, nghiên cứu sẽ khuyến nghị các giải pháp mang tính thực tiễn cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể, nghiên cứu sẽ khuyến nghị những giải pháp tăng cường hiệu quả của sự tham gia của người dân trong việc lập kế hoạch phát triển thôn bản, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, trong phát triển cơ sở hạ tầng ở cơ sở. Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở tham khảo cho việc huy động sự tham gia của người dân ở các vùng nông thôn, qua đó tạo điều kiện cải thiện toàn diện chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội cho các cộng đồng dân cư nông thôn. Ngoài ra kết quả nghiên cứu cũng sẽ làm cơ sở tham khảo cho các cơ quan thiết kế chương trình, dự án đầu tư hướng vào phát triển toàn diện lĩnh vực nông thôn. Đặc biệt là trong lĩnh vực giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Với ý nghĩa này, đề tài sẽ góp phần vào việc hoàn thiện các phương pháp tiếp cận và các công cụ để huy động đến mức tối đa sự tham gia tích cực của người dân trong quá trình phát triển. Nghiên cứu cũng nhằm đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy cho sự nhìn nhận lại vai trò của người dân nông thôn cũng như sự tham gia của họ đối với chính các quyết định liên quan trực tiếp đến đời sống của họ dưới góc độ xã hội học. Như đã đặt vấn đề ở phần mở đầu, sự nghiệp phát triển nông thôn là công việc của chính người dân nông thôn, với ý nghĩa đó họ phải được tham gia vào các quá trình kinh tế xã hội diễn ra và có ảnh hưởng đến chính cuộc sống của họ bằng các phương pháp và công cụ hiệu quả nhất. Ngoài ra, với tỷ lệ dân cư sinh sống ở vùng nông thôn cao, nghiên cứu cũng mong muốn góp phần xác định lại những ảnh hưởng mang tính tất yếu của các cộng đồng dân cư nông thôn đối với toàn bộ tiến trình hình thành và phát triển xã hội nông Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 4
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học thôn và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. Cuối cùng, trên cơ sở toàn bộ kết quả nghiên cứu, đề tài cũng mong muốn sẽ đóng góp được một phần đối với chính quyền địa phương trong việc quản lý đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm chỉ ra thực trạng về sự tham gia của người dân trong việc phát triển cở sở hạ tầng ở nông thôn. Qua đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia, dự báo xu hướng của việc người dân tham gia trong tương lai. Nghiên cứu sẽ đưa ra một số kết luận và khuyến nghị cho việc huy động sự tham gia của cộng đồng vào phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn. Dựa vào mục đích đã nêu, nghiên cứu sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau: 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ những khái niệm, những cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp luận nghiên cứu vấn đề sự tham gia của cộng đồng. Khái quát một số nghiên cứu về sự tham gia của người dân và quá trình phân cấp trên thế giới và Việt Nam. Phân tích thực trạng về sự tham gia của người dân trong phát triển cơ sở hạ tầng thông qua việc làm rõ nội dung, hình thức và hiệu quả của sự tham gia. Phân tích các nguyên nhân thành công và thất bại trong quá trình huy động sự tham gia của người dân. Phân tích và làm rõ vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, qua đó dự báo xu hướng về sự tham gia. Đưa ra các kết luận, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, các khuyến nghị cho việc huy động sự tham gia của người dân đạt hiệu quả cao. 4. Đối tƣợng khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 5
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học 4.2 Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của đề tài là những người dân nông thôn tại hai tỉnh Thanh Hóa và Bình Phước. 4.3 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: nghiên cứu được tiến hành tại xã Bù Gia Mập - Phước Long - Bình Phước và xã Thành Minh - Thạch Thành – Thanh Hóa. Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006. 4.4 Giới hạn nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng dân cư là một quá trình rộng lớn và đề tài này sẽ không đề cập đến phạm vi rộng lớn đó. Đề tài chỉ đề cập đến những nội dung tham gia cơ bản nhất của người dân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ ở cấp thôn bản. Cụ thể, đề tài sẽ tập trung vào phân tích sự tham gia của người dân trong việc xây dựng các loại hình công trình sau: Đường giao thông nông thôn (bao gồm cả cầu và đập tràn); Trường học; Trạm y tế; Nhà sinh hoạt cộng đồng/ nhà văn hóa; Chợ nông thôn; Công trình thủy lợi nhỏ; và Công trình nước sạch. Nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích sự tham gia của người dân ở việc tiếp nhận thông tin, họp lựa chọn công trình, tham gia vào Ban điều phối dự án xã, tham gia vào tổ giám sát và vận hành bảo dưỡng công trình và tham gia đóng góp các nguồn lực cho việc xây dựng các công trình. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sẽ tiến hành phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia như đặc điểm nhân khẩu xã hội, vai trò của chính quyền cơ sở, của các tổ chức trung gian và một số yếu tố về thể chế chính sách. Sự tham gia của cộng đồng trong nghiên cứu này được xem xét như một quá trình, từ giai đoạn lựa chọn công trình cho đến khi công trình hoàn thiện và bàn giao cho cộng đồng quản lý và sử dụng. Thông qua quá trình đó, sự tham gia của cộng đồng sẽ được biểu hiện ra ở nhiều khía cạnh mang tính xã hội như: hình thức tham Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 6
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học gia, mức độ tham gia, hiệu quả tham gia và các tác động về mặt xã hội của sự tham gia đó đối với việc cải thiện đời sống của họ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghhiên cứu 5.1 Phương pháp luận 5.1.1 Phương pháp luận Mác – Lênin Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử cho rằng, thực tế xã hội có thể nhận thức được; và quá trình nhận thức này phải đi từ đơn giản đến phức tạp, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ khía cạnh bên ngoài, không bản chất của các hiện tượng xã hội đến khía cạnh sâu hơn của chúng. Điều đó cũng có nghĩa rằng nhận thức xã hội cần phải bắt đầu từ những nghiên cứu thực nghiệm, song không dừng lại ở đó. Nói cách khác, không chỉ nên dừng lại ở việc mô tả, quan sát, phân loại các sự kiện mà phải tiếp tục đi xa hơn, sâu hơn vào bản chất của sự kiện xã hội để chỉ ra được tính quy luật xã hội học, để tạo ra các giả thuyết mới, các quan điểm và nhận định khoa học mới cũng như các lý thuyết mới...và chính từ các giả thuyết mới này xuất hiện sự cần thiết các cuộc nghiên cứu xã hội học mới để kểm tra và khẳng định giả thuyết đó. Quá trình này được tiếp tục sẽ giúp chúng ta nhận thức được ngày càng sâu sắc về bản chất của thực tế xã hội [23; 60]. Mặt khác, trong các nghiên cứu xã hội học, phương pháp luận triết học Mác xít yêu cầu không được xem xét các hiện tượng xã hội một cách siêu hình, mà phải xem xét chúng một cách biện chứng. Có nghía là các hiện tượng xã hội cần phải được xem xét một cách hệ thống, chúng cần phải được đặt trong tương quan liên hệ với các sự vật hiện tượng xã hội khác; và chúng cần phải được xem xét trong mối quan hệ có tính quy luật, có sự phục thuộc và quyết định lẫn nhau. Các sự kiện,hiện tượng xã hội không thể được nghiên cứu như những vật thể bất động, hoặc chỉ có sự thay đổi về số lượng; mà chúng cần phải được nghiên cứu và xem xét như là đang trong trạng thái vận động có tính quy luật, trong đó nhìn nhận sự phát triển bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng Các sự vật hiện tượng cần phải được xem xét ở cả mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài để từ đó có thể thấy được nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Các nghiên cứu xã hội học cũng cần phải được đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Có nghĩa là ki phân tích một sự vật hiện tượng xã hội thì cần phải xuất phát từ thực tế lịch sử xã hội cụ thể chứa đựng sự vật hiện tượng đó. Thực tế lịch sử cần được xem xét như cơ sở, mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực nghiệm [23; 61]. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 7
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Vì vậy, đề tài sẽ xem xét sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn không phải là một hoạt động mang tính đơn lẻ, mà nó có mối liên hệ biện chứng cũng như mối liên hệ nhân quả với các quá trình kinh tế xã hội khác. Có nghĩa là sự tham gia của người dân, một mặt sẽ tác động lên các quá trình xã hội khác như là một nguyên nhân mang tính khách quan; mặt khác nó lại bị tác động bởi các yếu tố xã hội khác ở ngay chính xã hội nông thôn như một hệ quả tất yếu. 5.1.2 Một số lý thuyết được sử dung trong nghiên cứu 5.1.2.1 Lý thuyết phát triển cộng đồng Phát triển cộng đồng như một khái niệm lý thuyết và thực hành xuất hiện vào những năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm này như một công cụ để thực hiện các chương trình phát triển quốc gia với nhiều chương trình việc trợ quy mô lớn về kỹ thuật, phương pháp và tài chính vào thập kỷ 50 – 60 của thế kỷ trước. Lý thuyết phát triển cộng đồng dựa trên nguyên lý cho rằng mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là tạo ra sự chuyển biến xã hội trong đó tăng cường năng lực tổ chức, khả năng đoàn kết xã hội, hướng tới khả năng nâng cao tính cộng đồng. Trọng tâm của PTCĐ là con người (thành viên của cộng đồng) và phát triển con người vì con người. Điều này có nghĩa thước đo của phát triển được hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm này, tăng trưởng kinh tế chỉ là một trong những khía cạnh của phát triển. Những tiến bộ về vật chất không kèm theo sự phát triển của khả năng con người và định chế xã hội chỉ là những thành công có tính thời hạn và không bền vững. Do vậy, mục tiêu bao trùm của PTCĐ là góp phần mở rộng và phát triển các nhận thức và hành động có tính chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực tự quản cộng đồng. Mục tiêu tổng quát trên được thể hiện dưới 4 khía cạnh sau: - Hướng tới cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng, với sự cân bằng về vật chất và tinh thần, qua đó, tạo những chuyển biến xã hội trong cộng đồng. - Tạo sự bình đẳng trong tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, kể cả các nhóm thiệt thòi nhất đều có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và được tham gia vào các hoạt động phát triển, qua đó, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội. - Củng cố các thiết chế/ tổ chức để tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và tăng trưởng. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 8
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học - Thu hút sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển. Hai khái niệm then chốt của phát triển cộng đồng là tăng cường năng lực và tạo quyền lực được coi là hai trọng tâm của phát triển cộng đồng, để tạo được điều này, phát triển cộng đồng phải là một quá trình luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của một chương trình phát triển cộng đồng là giúp cho cộng đồng đi từ một tình trạng kém phát triển, không tự mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tới tự lực [27; 50]. Phát triển cộng đồng là một quá trình diễn ra theo các bước tuần tự từ thấp đến cao bao gồm bước chính là thức tỉnh (nhận diện vấn đề), tăng cường năng lực (chuẩn bị nguồn lực - tập luyên) và tự lực (tự giải quyết các vấn đề của mình). Trong đó, thức tỉnh là giai đoạn cộng đồng nhận diện về tình trạng phát triển của mình, xác định các khó khăn thuận lợi và xác lập những vấn đề ưu tiên. Sau đó cộng đồng sẽ được tăng cường năng lực thông qua những hỗ trợ từ phía bên ngoài và kết hợp với khả năng của bản thân để khắc phục những hạn chế và tăng cường kiến thức và kỹ năng để hành động. Tăng cường hoạt động liên kết, khả năng tổ chức, lãnh đạo và quản lý để hành động tập thể có hiệu quả hơn. Các hoạt động trong 2 bước nêu trên sẽ giúp cộng đồng trở nên tự lực. Mục đích cuối cùng không phải là mọi khó khăn, khủng hoảng không còn nữa, mà mỗi lần gặp khó khăn, cộng đồng có thể tự huy động nguồn lực từ bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề [27; 51]. Phát triển cộng đồng tuân thủ những định hướng nhất định, đó là phát triển cộng đồng phải dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (bottom – up) xuất phát từ nhu cầu của chính người dân. Muốn tự phát triển chính người dân phải tự ý thức cũng như tự tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình. Phát triển cộng đồng phải đồng bộ trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, văn hóa…phải cùng được nâng lên. Chỉ tiến công vào một khía cạnh thì không thể nào phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, dốt nát và bệnh tật. Nguồn lực thì có hạn nhưng tính đồng bộ của sự phát triển luôn đòi hỏi các chương trình phải có tính toán các điểm đột phá khẩn, từ đấy tìm ra chìa khóa của sự phát triển. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh sự tham dự của quần chúng và coi đó là đường lối phát triển cộng đồng. Yếu tố tổ chức là hết sức quan trọng. Các tổ chức thuộc chính quyền địa phương phải được điều chỉnh để thực hiện chưc năng phát triển, cũng như phải hỗ trợ để xây dựng và củng cố các tổ chức của người dân tại cộng đồng. Sự tham gia của chính quyền phải được coi như một nhân tố bên trong, nó không phải là một lực lượng đứng bên ngoài hoặc bên trên cộng đồng, mà là một thành phần quan trọng của cộng đồng [27; 49]. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 9
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Yêu cầu đối với phát triển cộng đồng là phải tạo được những chuyển biến xã hội. Đó là sự thay đổi nhận thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển. Đó là việc tạo được chuyển biến trong cơ cấu tổ chức và các mối tương quan lực lượng trong chính cộng đồng đó. Ngoài ra, phát triển cộng đồng cũng yêu cầu một sự phát triển năng lực trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” người dân. Người dân không thể hành động nếu thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động đơn phương, riêng lẻ mà phải kết hợp với các cá nhân, tổ chức cùng một chí hướng và quyền lợi để tạo thành quyền lực chung. Muốn cho người dân tự làm thì tổ chức thông qua đào tạo, huấn luyện là then chốt. Ngoài ra hoạt động đánh giá cũng là một bước quan trọng để “đo lường” hiệu quả xã hội của các dự án phát triển cộng đồng và mở ra những vấn đề mới cho cộng đồng. Từ đó tăng cường tính hiệu quả của các dự án [27; 49]. Phát triển cộng đồng phải tuân thủ theo những quy tắc hành động nhất định trên cơ sở niềm tin rằng mọi người dân và các cộng đồng hoàn toàn có khả năng giải quyết các vấn đề của họ trong cuộc sống. Năng lực tự quản là một năng lực tự có và tiềm ẩn trong các cộng đồng, vấn đề của phát triển cộng đồng là cần đánh thức hoặc củng cố năng lực đó. Phát triển cộng đồng chỉ có thể thành công trên cơ sở xuất phát từ ý chí và nội lực từ bên trong. “Làm thay, “nghĩ hộ” là những tư duy và hành động xa lạ với phát triển cộng đồng. Mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết nhằm bảo đảm tính tự chịu trách nhiệm của họ. Trong phát triển cộng đồng, cần chú ý và đảm bảo tính dân chủ và công bằng xã hội trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung của cộng đồng. Tuy nhiên, dân chủ đòi hỏi một quá trình làm quen, trong đó hình thức dân chủ nhất chính là tính tổ chức và tính kỷ luật. Hoạt động phát triển cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân - quả, muốn tạo ra hiệu quả mang tính tổng thể phải có một chuỗi các hoạt động liên quan và phụ thuọc lẫn nhau. Bên cạnh đó, phát triển cộng đồng cần ưu tiên các hoạt động mang tính đột phá cũng như các mục tiêu ưu tiên trên cơ sở đặt trong một cách nhìn mang tính tổng thể. Phát triển cộng đồng bao gồm các đối tượng ưu tiên là người nghèo và người thiệt thòi. Nghèo, dân trí thấp…là các vấn đề của phát triển cộng đồng. Các hình thức hợp tác là cơ sở để phát huy tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng đồng trong phát triển cộng đồng. Song song với nó, cần xây dựng và củng cố khả năng hợp tác để cộng đồng có khả năng ứng phó trong các tình huống nảy sinh khó khăn. Việc xác định những hỗ trợ từ bên ngoài từ chuyên môn đến các nguồn lực vật chất – tài chính là rất cần thiết đối với công tác phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, các vấn đề đó chỉ được coi là chất xúc tác. Điều quan trọng là “cách nghĩ” và “cách làm” của người dân đã thay đổi đến mức độ nào [27; 53]. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 10
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học 5.1.2.2 Lý thuyết về Xã hội dân sự/ xã hội công dân (civil society) Hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra các cuộc luận đàm về các hiện tượng và thực tế hoạt động của các hiệp hội; người ta nhận thấy ngày càng có nhiều quan tâm tới các tổ chức ở trong nước với thực tế là con số các tổ chức ngày càng tăng lên trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Thậm chí nhà nước cũng ngày càng quan tâm hơn tới các tổ chức và làm sao để cho các tổ chức này đóng một vai trò hữu ích hơn trong việc phát triển xã hội và hạn chế tham nhũng. Mặc dù hầu hết mọi người dân cho rằng các tổ chức quần chúng là các tổ chức phổ biến chủ yếu ở Việt Nam, Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội 2006-2010 (SEDP) - chiến lược phát triển của Việt Nam cho thời gian tới do Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 10 tổ chức vào tháng 4/2006 phê duyệt, đã đề cập tới sự tồn tại và khả năng tham gia của các tổ chức khác nhau. Chỉ riêng điều đó thôi cũng là một minh chứng về sự quan tâm của chính phủ và dân chúng đang tăng lên [9; 7]. Xã hội Dân sự là: Vũ đài nằm ngoài gia đình, nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài thị trường, là nơi người dân liên kết với nhau để thúc đẩy các quyền lợi chung [9; 7]. Hình 1. Ranh giới mờ nhạt của vũ đài xã hội dân sự [Nguồn: Irene Norlund, Khỏa lấp sự cách biệt: Xã hội dân dự mới nổi tại Việt Nam, Hà Nội – 2007]. Như đã được trình bày bằng hình vẽ nêu trên, điểm quan trọng về định nghĩa này là rộng và mở, và nó nhấn mạnh vào các ranh giới mờ nhạt giữa các khu vực khác nhau, đây là một vấn đề vô cùng quan trọng ở một đất nước như Việt Nam, nơi mà xã hội dân sự có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhà nước và không tách khỏi nhà Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 11
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học nước, như một số định nghĩa khác đưa ra. Định nghĩa này cũng nhằm mục đích đề cập đến trong định nghĩa của mình các chức năng hơn là các hình thái của các tổ chức đó, hay có thể nói là định nghĩa này bao hàm mọi nỗ lực nhằm hỗ trợ các hoạt động và các giá trị để cải thiện phúc lợi của người dân thông qua các hoạt động từ thiện, nhân đạo và các phương thức khác. Luận điểm này coi các tổ chức và các hiệp hội như là cốt lõi của xã hội dân sự, do các nhóm không chính thức và các liên minh không được tính đến. Việc này mở rộng định nghĩa về xã hội dân sự vượt ra khỏi giới hạn chỉ là lĩnh vực hiệp hội đoàn thể để tăng cường các hoạt động nhằm thúc đẩy các quyền lợi chung. Định nghĩa này hàm chứa đầy đủ và đủ linh hoạt để điều chỉnh đối với các quốc gia riêng biệt, bởi vì tiêu chí riêng cho việc định nghĩa xã hội dân sự phụ thuộc vào quan điểm quốc gia. Từ giữa thập niên 90, một số ít học giả Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu các tổ chức nhân dân. Vào đầu những năm 2000, một nghiên cứu về các tổ chức công dân đã được khởi xướng. Các học giả nước ngoài cũng đã bắt đầu viết về đề tài này từ giữa thập niên 90, nhưng hầu hết các học giả này không xem các tổ chức quần chúng là một bộ phận của XHDS, đúng hơn, các tổ chức này được xem là một phần của hệ thống Đảng. Hiện trạng của các NGO Việt Nam mới nổi cũng gây tranh cãi, do các tổ chức này không có cơ sở hội viên và lãnh đạo của các tổ chức này đa phần xuất phát từ các cơ quan Nhà nước hoặc cơ quan Đảng. Hầu hết các tổ chức này không được xếp loại tổ chức độc lập. Theo tiêu chí nổi bật nhất (tân-tự do), cơ bản ở Việt Nam là không có XHDS, cho dù một vài tổ chức có tiềm năng phát triển thành một XHDS2. Một trong những thách thức căn bản để hiểu XHDS ở Việt Nam là đương đầu với thực tế là các tổ chức không độc lập với Nhà nước và Đảng mà ngược lại gắn kết chặt chẽ với nhau và với Nhà nước. Kể từ sau cuộc cách mạng, nhà nước đã xem khu vực nhà nước là quan trọng bậc nhất ở Việt Nam, và theo như các học thuyết Mác-xit Lê-nin-nít, Nhà nước trở thành một cơ quan định ra khuôn khổ cho các tổ chức công dân hoặc XHDS. Tuy nhiên, kể từ sau công cuộc Đổi mới, các tổ chức và các hiệp hội đã diễn ra ở các hình thức, chức năng và mục tiêu hoàn toàn khác nhau, và không nghi ngờ gì, trong thập niên 90, họ đã có được một vai trò quan trọng. 2 Mark Sidel là một trong những học giả đầu tiên chỉ ra số lượng lớn các tổ chức ở Việt Nam trong Sidel (1995). Sự nổi lên của khu vực phi lợi nhuận và từ thiện tại nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong: Tadashi Yomamoto ed. (1995) Xã hội Dân sự mới nổi trong Cộng đồng Châu á Thái Bình Dương. Singapore, ISEAS. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 12
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Mỗi loại hình tổ chức nổi lên trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các nhóm ở làng xã, các nhóm dựa vào tín ngưỡng có lịch sử lâu đời nhất, đã tồn tại ở các làng xã từ hàng thế kỷ nay. Các tổ chức quần chúng được thành lập gắn với sự thành lập Đảng Cộng sản vào năm 1930 và cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Các tổ chức này được xem là các tổ chức trung gian giữa Đảng và người dân tiếp sau cuộc cách mạng và sự thiết lập quyền lực của Đảng vào năm 1954 ở miền Bắc, và 1975 ở miền Nam. Kể từ công cuộc đổi mới, đặc biệt là cuối thập niên 80, các tổ chức quần chúng dù sao cũng đã thay đổi về mặt hình thức. Họ ít nhận được sự quan tâm hỗ trợ từ phía Nhà nước và phải hoạt động một cách bán độc lập với tổ chức Đảng. Số lượng các tổ chức và các câu lạc bộ cơ sở trực thuộc các tổ chức quần chúng đã mở rộng một cách đáng kể từ cuối thập niên 90. Hội phụ nữ và Hội Nông dân đặc biệt phát triển mạnh, đầu tiên là ở các vùng nông thôn, và các NGO Việt Nam đã bắt đầu nổi lên vào đầu và giữa thập niên 90 là một loại hình các tổ chức mới. Vào giữa những năm 2000, các học giả, các nhà tài trợ và các tổ chức đã chấp thuận rộng rãi hơn rằng trên thực tế có một xã hội dân sự đang hoạt động ở Việt Nam cho dù chỉ có hệ thống chính trị một đảng của đất nước. Xã hội dân sự được định nghĩa trong tài liệu này là vũ đài bên ngoài gia đình, nhà nước và thị trường và là nơi mà người dân tụ hợp lại với nhau để thúc đẩy những quyền lợi chung. Định nghĩa này chỉ đúng với Việt Nam với một thực tế là ranh giới giữa nhà nước và xã hội dân sự là rất không rõ ràng. Người ta lập luận rằng nếu xét trong bối cảnh toàn diện của xã hội dân sự, tất cả các tổ chức phải được coi là một bộ phận của xã hội dân sự, các tổ chức này bao gồm cả các tổ chức quần chúng, mô hình tổ chức phổ biến nhất, ở tất cả các cấp và tại hầu hết các địa phương (đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Nông dân). Các tổ chức này triển khai các chiến dịch do nhà nước khởi xướng, nhưng họ cũng thực hiện hàng ngàn dự án và chương trình tín dụng cho người nghèo, và các chi nhánh cơ sở của các tổ chức quần chúng này có mức độ độc lập đáng kể để đáp ứng được các nhu cầu của cộng đồng. Thứ hai, có các hiệp hội nghề nghiệp tập hợp những người có cùng lợi ích nghề nghiệp trong nhiều lĩnh vực tại hầu hết các tỉnh thành. Thứ ba, các NGO Việt Nam, đa số là có trụ sở tại các thành phố nhưng lại thực hiện các dự án tập trung hơn vào một vài lĩnh vực trên toàn quốc và thường trú trọng vào các dự án về phát triển, giới, y tế và phát triển cộng đồng. Cuối cùng, các CBO đang phát triển nhanh chóng, trú trọng vào các dịch vụ dân sinh ở cấp cơ sở tại nhiều tỉnh thành. Sự vững mạnh của xã hội dân sự được thể hiện qua việc gia tăng về số lượng và tính đa dạng của các tổ chức xã hội dân sự ở các cấp, sự tham gia tích cực vào các Đánh giá Nhiều bên của hàng ngàn dự án trên cả nước và các cuộc thảo luận công khai trên báo chí. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 13
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học Đối với các tổ chức chính thống hơn thì vai trò của nhà nước là tối quan trọng, vì chính nhà nước thiết lập khuôn khổ chính thức cho các tổ chức này. Nếu như các tổ chức quần chúng có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, thì hiện nay số lượng các tổ chức dân sự thậm chí còn lớn hơn và rộng hơn về hoạt động, và đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, hiện có thể chưa thích hợp khi gọi các tổ chức này là tự quản, vì vẫn có sự liên kết và sự chồng chéo về đặc tính hoạt động với các tổ chức được nhà nước bảo trợ. Nhà nước không cấm các tổ chức, điều này được minh chứng bằng số lượng lớn các hội viên. Mặt khác, nhà nước tham gia vào việc lãnh đạo của Đảng nhiều hơn là trong xã hội dân sự. Dự thảo Luật về Hội đã cho thấy nhà nước vẫn đang cân nhắc việc quản lý xã hội dân sự, điều này ngược với tính chất của hội và tổ chức là dựa trên các sáng kiến của nhân dân. Cho dù có sự chồng chéo giữa nhà nước, Đảng và xã hội dân sự tại Việt nam, động lực của xã hội dân sự không thể được hiểu một cách đơn giản là vì nhà nước chống lại xã hội dân sự. Đã có nhiều thay đổi liên quan đến các hoạt động trong phạm vi của nhà nước. Tuy nhiên, cũng có các hoạt động diễn ra bên ngoài hoặc, ít nhất là tại phần rìa ngoài phạm vi của nhà nước, trong các nhóm được hình thành ở cấp cơ sở - thậm chí là cả trong các tổ chức quần chúng. Các nhóm này gồm các nhóm tôn giáo, nhóm dân tộc thiểu số, các nhóm văn hoá nghệ thuật và các hình thức khác nhau của hoạt động dân sinh. Điều này hoàn toàn khác với ý tưởng về các dự án của CSI, trong đó tính tự chủ là điều quan trọng đối với các hội. Kể từ khi bắt đầu đổi mới và đặc biệt là từ khi nền kinh tế phát triển nhanh cùng với các thay đổi về xã hội trong thập kỷ qua, chính phủ đã phải đối mặt với các vấn đề xã hội gia tăng cùng với phát triển và tăng dân số. Các vấn đề mới nổi lên đặt ra nhiều thách thức mới đối với chính phủ; còn chính phủ thì chưa được trang bị đầy đủ để tự thực hiện các nhiệm vụ này. Chính phủ chú trọng vào hỗ trợ cơ sở hạ tầng của bệnh viện và trường học, với các chiến dịch quốc gia để kiểm soát bệnh dịch và cung cấp dịch vụ cho trẻ em nghèo. Hệ thống y tế của Việt Nam chưa phát triển tốt, và với việc áp dụng các chính sách .xã hội hoá., chính phủ không thể hoặc không sẵn sàng tự mình gánh tránh nhiệm cải thiện các dịch vụ xã hội. Xã hội dân sự có thể giúp nhận biết và xác định các vấn đề, và có thể giúp cung cấp các dịch vụ cần thiết. Xã hội dân sự có thể giúp đỡ một cách hiệu quả hơn khi có những nhu cầu thiết yếu hỗ trợ người nghèo, những người ốm yếu, những người tàn tật hoặc những người ít được tiếp cận hỗ trợ xã hội, chẳng hạn như ở các khu vực nông thôn. ở thành phố, có rất nhiều vấn đề mới đối với trẻ em đường phố, nạn mại dâm, buôn bán trẻ em và phụ nữ, HIV/AIDS và nạn nghiện hút. Có những cách biệt và nhu cầu mà xã hội công dân có thể thu hẹp và đáp ứng được còn nhà nước thì không thể bao Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 14
- Nguyễn Tiến Dũng Luận văn Thạc sỹ Xã hội học quát hết. Do đó, nhu cầu cần phải được nhận biết, và xã hội dân sự phải tham gia tích cực hơn để xác định nhu cầu và hỗ trợ cho những nơi có nhu cầu lớn nhất. Bằng việc tạo cho xã hội dân sự một tiếng nói rõ ràng hơn trong mọi khía cạnh của cuộc sống, không chỉ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mà còn trong việc nâng cao năng lực và các hoạt động ủng hộ ở các cấp, một quốc gia sẽ đạt được sự phát triển kinh tế và xã hội đồng đều hơn. Ngoài ra, xã hội dân sự có một vai trò tiềm tàng rất quan trọng trong việc tăng cường tính minh bạch và chống tham nhũng. Sức mạnh của xã hội dân sự là tính chất đa dạng dựa trên hoạt động và tính sáng tạo của con người. Việt Nam vẫn là một nước nghèo và phải đối mặt với nhiều rào cản để vượt qua đói nghèo và sự bất bình đẳng đang gia tăng. Việt Nam cũng phải phát huy hết tiềm năng kinh tế xã hội và giải phóng tiềm năng con người để giúp đỡ những người bất hạnh. Trong khi đó, nhà nước có thể hỗ trợ và khuyến khích xã hội dân sự thông qua nhiều hình thức hợp tác khác nhau. Nhà nước là người có trách nhiệm sau cùng đối với người dân bằng cách đảm bảo giải quyết các thách thức mới theo cách mà có thể giúp tăng cường phúc lợi cho nhân dân, nhưng nhà nước có thể phối hợp với xã hội dân sự, và xã hội dân sự cũng có thể đóng góp bằng cách tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước. 5.1.2.3 Luận điểm về phát triển nông thôn bền vững Một định nghĩa được nêu ra ở đây là: Phát triển Nông thôn là…một quá trình thay đổi bền vững có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương. Phát triển nông thôn bền vững nhấn mạnh vào quá trình có chủ ý và bền vững. Phát triển nông thôn không phải là một công việc làm trong một thời gian ngắn. Nó cần phải được theo đuổi trong một thời gian dài nhiều năm và có chủ ý. Nó cũng nhấn mạnh vào nâng cao đời sống của người dân địa phương. Một số phát triển “địa phương” (hoặc “khu vực”) trước đây được khuyến khích do nhu cầu quốc gia (như điện, nước hoặc quốc phòng), hơn là nhu cầu của bản thân người dân địa phương. Nhu cầu quốc gia tất nhiên có thể được đáp ứng thông qua phát triển nông thôn, và bất cứ sự đáp ứng thành công nào nhu cầu địa phương sẽ đóng góp gián tiếp cho sự phồn thịnh của quốc gia. Nhưng khái niệm hiện đại về phát triển nông thôn nhấn mạnh hàng đầu vào việc đáp ứng nhu cầu của người dân nông thôn. Phát triển nông thôn đang được theo đuổi ở hầu hết các nước trên thế giới. Rất nhiều người tham gia trong lĩnh vực này cho rằng phát triển nông thôn có một số đặc điểm, đó là một sự phát triển toàn diện, dựa vào cộng đồng và mang tính bền vững. Sự tham gia của cộng đồng trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Vai trò của phụ nữ đối với việc đảm bảo an toàn thực phẩm gia đình ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay
40 p | 196 | 58
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Việc sử dụng mạng xã hội và kết quả học tập của sinh viên (Nghiên cứu trường hợp sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN)
111 p | 669 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thực trạng và giải pháp
123 p | 169 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Hành vi tiêu dùng thực phẩm thịt lợn an toàn của cư dân đô thị (Nghiên cứu tại khu đô thị Đặng Xá và khu đô thị Ecopark)
102 p | 149 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại thông minh đến quan hệ xã hội của sinh viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
106 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay
127 p | 77 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Biến đổi xã hội trong quá trình đô thị hóa vùng ven đô
137 p | 85 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sự tham gia của khách du lịch trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên tại khu du lịch Sa Pa, Lào Cai
110 p | 39 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành công tác xã hội (Nghiên cứu trường hợp sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
120 p | 47 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người công giáo nhập cư tại Hà Nội hiện nay
140 p | 52 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Hiện tượng xăm mình của giới trẻ Hà Nội hiện nay
110 p | 53 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Định hướng việc làm cho sinh viên ngành Xã hội học (nghiên cứu trường hợp tại Khoa Xã hội học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn & Trường Đại học Công Đoàn
126 p | 63 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Mạng lưới xã hội trong quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên trường Đại học Công đoàn
104 p | 52 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay của người lao động ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
113 p | 102 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Văn hóa ứng xử trong công việc của cán bộ, công chức tại xã Tiền Yên, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
142 p | 45 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Di động xã hội của công nhân trong doanh nghiệp tại khu công nghiệp Thanh Trì, Hà Nội
131 p | 13 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ tỉnh Đắk Lắk (Nghiên cứu trường hợp tại phường Tự An và phường Thắng Lợi
142 p | 51 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Nhu cầu của người dân về việc hỗ trợ sau tái định cư
91 p | 37 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn