intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ Luật học: Công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội phục vụ hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: LÃNG TỬ YẾN THANH | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:135

306
lượt xem
52
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là làm rõ hơn trong nhận thức chung về công tác điều tra cơ bản; đánh giá được thực trạng công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát nói chung và lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội nói riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua; rút ra được những ưu điểm, kinh nghiệm, tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội phục vụ hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ Luật học: Công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội phục vụ hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố  Hồ  Chí Minh được xác định là một trong những trung   tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, thương mại, dịch vụ của cả nước và trong   khu vực. Trong những năm qua, Thành phố  đã phát triển nhanh về  mọi   mặt. Theo đó, là sự gia tăng dân số cơ học, hình thành nhiều loại hình kinh   tế  đa dạng, sự  hòa nhập với quốc tế, nảy sinh nhiều thuận lợi và khó   khăn của chính nền kinh tế  thị trường … Cũng vì thế, tình hình tội phạm  và vi phạm pháp luật ngày càng diễn biến phức tạp; sự trà trộn và ẩn náu  của tội phạm, tiềm  ẩn nhiều nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội  phạm, xuất hiện nhiều yếu tố khách quan và chủ quan làm ảnh hưởng tới   công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Toàn Thành phố  Hồ  Chí  Minh hiện có 24 quận, huyện (19 quận và 05 huyện), với 259 phường, 58   xã và 05 thị trấn.  Theo thống kê của Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã  hội, đến hết tháng 6 năm 2007, trên địa bàn TP.HCM có 1.244.176 hộ thực  tế  cư  trú, với 6.443.638 nhân khẩu, trong đó, riêng số  nhân khẩu tạm trú  diện KT4 (vãng lai, thời vụ, không cố  định …) là 862.322 người; người   nước ngoài ở khu vực có 1326 hộ, với 4636 người. ­Về quản lý đối tượng thuộc hệ quản lý hành chính đang thực tế cư  trú: Có 149.005 đối tượng, trong đó 94.752 đối tượng chính trị, 36.314 đối  tượng hình sự, 1830 đối tượng kinh tế, 7782 đối tượng ma tuý, 4913 đối  tượng tệ nạn xã hội, 2534 thanh thiếu niên hư, phạm pháp … 1
  2. ­Có 5304 đối tượng sưu tra (3393 về hình sự, 469 về  kinh tế, 1473   về ma tuý). ­Có 31.315 đối tượng tù tha về  (26.974 hình sự, 860 kinh tế, 3481   ma tuý) … Trong các biện pháp công tác của lực lượng Công an nói chung và  Cảnh sát nhân dân nói riêng, công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng   Cảnh sát nhân dân là một hệ thống hoạt động nghiệp vụ có tính cốt lõi, là  cơ sở, nền tảng cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đấu tranh phòng,   chống tội phạm, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội của lực lượng Cảnh sát   nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, góp phần  to lớn cho công tác giữ  gìn an ninh trật tự, thời gian qua công tác nghiệp   vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân vẫn còn bộc lộ  những hạn   chế, tồn tại cả  về  trong qui trình, quy định, lẫn trong việc tổ  chức thực   hiện. Trên cơ  sở  đó, ngày 06/06/2003, Bộ  Công an có Chỉ  thị  số  05/CT­ BCA(C11), về  việc chấn chỉnh, tăng cường công tác nghiệp vụ  cơ  bản  của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình mới. Kèm theo đó là các  Quyết định số  360/QĐ (Qui định về  công tác điều tra cơ  bản), 361/QĐ  (Qui định về công tác sưu tra, công tác xác minh hiềm nghi), 362/QĐ (Qui  định về  công tác đấu tranh chuyên án) và 363/QĐ (Qui định về  công tác   xây dựng, sử dụng mạng lưới bí mật). Mục đích chính là để nâng cao hiệu   quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân,  đáp  ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong tình hình  mới. Bên cạnh đó, cũng là xuất phát từ những yêu cầu của cuộc đấu tranh  phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội; quá trình xây dựng  nền dân chủ, pháp chế  xã hội chủ  nghĩa, cải cách tư  pháp … đòi hỏi các   2
  3. hoạt động nghiệp vụ  của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải được đổi  mới, phù hợp thực tiễn. Trên cơ  sở  lý luận và thực tiễn cho thấy, điều tra cơ  bản là hoạt   động có tính chất khởi nguồn và đóng vai trò định hướng cho các mặt   nghiệp vụ  khác. Kết quả  điều tra cơ  bản không những phục vụ  tốt cho  các hoạt động nghiệp vụ  của ngành mà còn phục vụ  cho Đảng, chính  quyền chỉ đạo công tác một cách đồng bộ và hiệu quả. Nếu thực hiện tốt   công tác này, vừa tạo điều kiện thực hiện tốt các công tác khác trong thực   hiện chức năng quản lý nhà nước như  phát triển kinh tế, văn hóa­xã hội,  vừa tạo điều kiện, hỗ  trợ  đắc lực cho công tác phòng ngừa, đấu tranh  chống tội phạm. Trong những năm vừa qua, trên tinh thần các văn bản của Bộ Công  an, dựa vào các điều kiện thực tiễn, công tác nghiệp vụ cơ bản nói chung  và công tác điều tra cơ bản nói riêng đã được Công an Thành phố Hồ Chí   Minh rất quan tâm và có những văn bản tổ  chức thực hiện thực hiện cụ  thể. Theo đánh giá chung của Công an Thành phố  Hồ  Chí Minh, kết quả  điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát nói chung và của lực lượng Cảnh   sát quản lý hành chính về  trật tự  xã hội thực hiện theo Hướng dẫn số  32/HD­CATP(PC13) về  công tác nghiệp vụ  cơ  bản đã phục vụ  tốt cho   công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác an ninh trật tự nói riêng,   góp phần cho sự phát triển kinh tế ­ văn hóa – xã hội của Thành phố, tạo  sự ổn định cơ bản để phát triển mọi mặt. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan và chủ quan, công tác điều tra   cơ  bản của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về  trật tự  xã hội tại  Thành phố Hồ Chí Minh đôi khi chưa cập nhật sát thực tiễn, độ chính xác  của số  liệu còn vướng mắc, yếu tố  khoa học kỹ  thuật chưa được  ứng  3
  4. dụng nhiều … . Do vậy, cũng đã xảy ra những tình huống, vụ việc nghiêm  trọng, bất ngờ  vì ta chưa kịp nắm đuợc những nguyên nhân, điều kiện,  biểu hiện ngay từ  ban đầu.  Cụ  thể, qua tìm hiểu đánh giá về  công tác  nghiệp vụ  cơ  bản 06 tháng đầu năm 2007 của Công an Thành phố, cho   thấy công tác điều tra cơ  bản còn mang tính hành chính và hầu hết mới  thực hiện được bước thu thập tài liệu và đăng ký hồ  sơ; chưa triển khai  việc hệ thống hóa, đánh giá, phân tích tài liệu, do đó việc đề xuất các biện   pháp phòng chống tội phạm còn hạn chế. Một số  Cán bộ  chiến sỹ  nhận  thức về công tác điều tra cơ bản chưa đầy đủ, sâu sắc, chưa phân biệt rõ  được giữa nội dung điều tra cơ  bản với nội dung sưu tra chuyên đề  và  nhầm lẫn giữa hệ  loại đối tượng điều tra cơ  bản và hệ  loại đối tượng   sưu tra. Chất lượng hồ  sơ  điều tra cơ  bản chưa đáp  ứng được yêu cầu;  tình hình, số  liệu tài liệu được thu thập còn tản mạn và chưa được bổ  sung thường xuyên. Công tác điều tra cơ bản tuy tốn nhiều thời gian công  sức, nhưng chưa đáp  ứng được yêu cầu phòng ngừa đấu tranh chống tội  phạm. Từ thực trạng trên, để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công tác giữ gìn   an ninh trật tự  trong tình hình mới tại Thành phố  Hồ  Chí Minh, tác giả  chọn nghiên cứu đề tài: “Công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh   sát quản lý hành chính về  trật tự  xã hội phục vụ  hoạt động phòng   ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh   ­ Thực trạng và giải pháp” làm Luận văn thạc sỹ luật học là đòi hỏi thực  sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.  2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn 4
  5. Trong những năm gần đây, đã có một số  đề  tài, công trình nghiên   cứu khoa học, bài viết chuyên đề  có liên quan đến nội dung nghiên cứu  của đề tài luận văn như: ­ Quản lý nhà nước về  nhân khẩu, hộ  khẩu trong tình hình mới –  Thực trạng và giải pháp (Đề tài khoa học cấp Bộ của Tổng cục Cảnh sát,  Bộ Công an – năm 1996). ­ Sự  phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về  trật   tự  xã hội với các lực lượng Cảnh sát nghiệp vụ  khác trong điều tra và   phòng ngừa tội phạm (Luận án Tiến sỹ  luật học của Đỗ  Thái Học – bảo  vệ năm 2001). ­ Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát quản lý   hành chính về  trật tự  xã hội trên địa bàn Thành phố  Hải Phòng – Thực   trạng và giải pháp (Luận án tiến sỹ  luật học của Trần Vĩnh ­ bảo vệ  tại   Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2004). ­ Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về  trật tự  xã  hội Công an Thành phố Hà Nội trong điều tra các vụ án hình sự (Luận văn   thạc sỹ  luật học của Chữ  Đức Trường, bảo vệ  tại Học viện Cảnh sát  nhân dân năm 2005). ­ Bài viết về  chuyên đề  “Nội dung và kết quả  thực hiện chương   trình   quốc   gia   phòng,   chống   tội   phạm”   (Năm   2005,   người   biên   soạn:   PGS.TS Trần Phương Đạt, Học viện Cảnh sát nhân dân). Ngoài ra, còn có một số  bài viết có liên quan đến đề  tài được đăng  trên các báo, tạp chí của lực lượng Công an nhân dân và trong kỷ yếu một  số cuộc hội thảo, hội nghị cấp Bộ. 5
  6. Tuy nhiên, các công trình đã công bố mới chỉ nghiên cứu những vấn  đề khác của công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, chưa có đề  tài   nào nghiên cứu chuyên sâu về  công tác điều tra cơ  bản của lực lượng   Cảnh sát quản lý hành chính về  trật tự  xã hội phục vụ  hoạt động phòng  ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ  Chí Minh. Vì   vậy, đề tài này không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công   bố từ trước đến nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của của đề tài luận văn Mục đích nghiên cứu của đề  tài luận văn là làm rõ hơn trong nhận  thức chung về công tác điều tra cơ bản; đánh giá được thực trạng công tác   điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát nói chung và lực lượng Cảnh sát  quản lý hành chính về trật tự xã hội nói riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh   trong thời gian qua; rút ra được những  ưu điểm, kinh nghiệm, tồn tại,  vướng mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp nhằm   nâng cao hơn nữa hiệu công tác điều tra cơ  bản của lực lượng Cảnh sát  quản lý hành chính về trật tự xã hội phục vụ hoạt động phòng ngừa, đấu  tranh chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Để đạt được những mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài  luận văn là: ­ Làm rõ những vấn đề cơ bản trong công tác điều tra cơ bản và các   cơ  sở  pháp lý, các qui định có liên quan của Bộ, của Công an Thành phố  Hồ Chí Minh về công tác điều tra cơ bản phục vụ phòng ngừa, đấu tranh   chống tội phạm. ­ Đánh giá đúng thực trạng công tác điều tra cơ bản của lực lượng   Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trên địa bàn Thành phố  Hồ  6
  7. Chí Minh; rút ra những nhận xét về ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong  công tác này. ­ Trên cơ  sở  đó, dự  báo các tình hình có thể  diễn ra liên quan đến  công tác điều tra cơ  bản, để  đề  xuất đưa ra các giải pháp góp phần làm   cho công tác điều tra cơ  bản của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính   về  trật tự  xã hội  ở  Thành phố  Hồ  Chí Minh phục vụ  phòng ngừa, đấu  tranh chống tội phạm được toàn diện hơn, hiệu quả hơn. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là những vấn đề về  công tác điều  tra cơ  bản nói chung, công tác điều tra cơ  bản của lực lượng Cảnh sát   quản lý hành chính về trật tự xã hội nói riêng, nhằm phục vụ cho công tác   phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Do đó, phạm vi nghiên cứu của đề  tài là công tác điều tra cơ  bản   của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về  trật tự xã hội mà chủ  yếu   là cấp quận và phường (cấp cơ sở), tại Công an Thành phố Hồ Chí Minh;  thời gian khảo sát, nghiên cứu là từ năm 2002 đến tháng 06 năm 2007. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài  ­ Phương pháp luận: Đề  tài được nghiên cứu trên cơ  sở  phương pháp luận của của Chủ  nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường lối,  chính sách của Đảng, Pháp luật của nhà nước; qui định của Bộ  Công an  về  công tác điều tra, công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh sát  nhân dân trong đấu tranh, phòng chống tội phạm và lý luận chung về  tội  phạm học và điều tra tội phạm. ­ Phương pháp nghiên cứu:  7
  8. Trên cơ sở phương pháp luận, trong quá trình nghiên cứu đề  tài, tác  giả đã sử dụng một  số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Cụ  thể  là: Tiến hành thu thập,  nghiên cứu các văn bản pháp luật và các đề  tài có liên quan đến công tác  điều tra cơ bản. Nghiên cứu các báo cáo, các tổng kết, tài liệu tập huấn …  về công tác điều tra cơ bản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. + Phương pháp thống kê. Cụ  thể là: Thu thập, hệ thống, phân tích,  đánh giá tổng hợp số liệu, tình hình về  công tác an ninh trật tự nói chung  và công tác điều tra cơ  bản nói riêng của Công an Thành phố  Hồ  Chí  Minh, trong đó có hoạt động của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính  về trật tự xã hội. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. Cụ  thể là: Thông qua các tài   liệu, khảo sát hoạt động thực tiễn trong điều tra cơ bản phục vụ công tác  phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố  Hồ  Chí  Minh. Qua đó rút ra các vấn đề  về  thực trạng, để  làm cơ  sở  dự  báo tình   hình và đề ra các giải pháp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận văn Về  mặt lý luận, trong phạm vi và khả  năng nghiên cứu, tác giả  mong mỏi được góp phần nhỏ  làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy,  nghiên cứu của các trường Công an nhân dân. Về  mặt thực tiễn, góp phần thúc đẩy công tác điều tra cơ  bản của   lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về  trật tự  xã hội, trong đó có tại  Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Đảm bảo việc thực hiện đúng yêu cầu,   đúng pháp luật, kịp thời về tiến độ, phục vụ tốt cho công tác phòng ngừa,   đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn. 8
  9. 7. Cấu trúc của đề tài luận văn  Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các  phụ lục kèm theo, nội dung đề tài luận văn được trình bày theo 3 Chương,   09 tiết. 9
  10. Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ  CÔNG TÁC ĐIỀU TRA CƠ  BẢN   CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN NÓI CHUNG VÀ CỦA  LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ  TRẬT TỰ  XàHỘI NÓI RIÊNG 1.1. Nhận thức chung về  công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực  lượng Cảnh sát nhân dân 1.1.1.   Vai   trò   của   công   tác   nghiệp   vụ   cơ   bản   của   lực   lượng   Cảnh sát nhân dân Công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân là một  hệ thống hoạt động nghiệp vụ có tính cốt lõi, là cơ sở, nền tảng cho việc   thực hiện chức năng, nhiệm vụ  đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm  bảo trật tự, an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân  dân. Đây cũng là hoạt động nghiệp vụ  có tính đặc thù mà Đảng và Nhà  nước giao cho lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành nhằm chủ  động  phòng ngừa, ngăn chặn và kịp thời phát hiện, điều tra, khám phá tội phạm.  Trên cơ  sở  xác định rõ vai trò, cũng như  tổng kết thực tiễn, ngày  06/06/2003 Bộ trưởng Bộ Công an có Chỉ thị số 05/CT­BCA(C11) về chấn  chỉnh, tăng cường công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân  dân trong tình hình mới. Trong Chỉ thị này có nêu rõ: “Trong quá trình triển   khai thực hiện các quyết định 31/QĐ­BNV(C11) ngày 28/02/1995, Quyết  định   225/QĐ­BNV(C11)   ngày   17/08/1994   và   Quyết   định   658,   659/QĐ­ BCA(C11) ngày 10/10/1998 của Bộ, công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi,   xây dựng và sử dụng mạng lưới bí mật của lực lượng Cảnh sát nhân dân  đã được chấn chỉnh, từng bước nâng cao chất lượng, phục vụ có hiệu quả  10
  11. hơn công tác phòng, chống tội phạm, nhất là từ  khi triển khai thực hiện  Chỉ thị 13/1998/CT­BCA(C11) của Bộ trưởng về tăng cường công tác sưu  tra, xác minh hiềm nghi, xây dựng và sử dụng mạng lưới bí mật trong tình  hình mới, nhận thức của cán bộ, chiến sỹ  về  công tác nghiệp vụ  cơ  bản   được nâng cao, quá trình thực hiện có nhiều chuyển biến phù hợp hơn với   tình hình và các yêu cầu thực tiễn, đã chủ  động kết hợp giữa công tác   nghiệp vụ  cơ  bản với việc thực hiện Nghị  quyết số 09/NQ­CP, chương   trình Quốc gia phòng chống tội phạm, phát động được đông đảo tầng lớp  nhân dân tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, góp phần đảm  bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội …”. [ 7 ] Trên cơ  sở  lý luận và thực tiễn, chúng ta cần có những nhận thức  đúng hơn về  vai trò của công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh   sát nhân dân, đó là : ­ Thực hiện công tác nghiệp vụ cơ bản là sự cụ thể hoá quan điểm,   đường lối chỉ  đạo của Đảng về  nâng cao chất lượng, hiệu quả  công tác  Công   an   trong   tình   hình   mới   theo   Nghị   quyết   số   40/NQ­TW   ngày  08/11/2004 của Bộ  Chính trị. Theo đó, lực lượng Công an nhân dân được   thực hiện các biện pháp công tác: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại  giao, kinh tế, khoa học­kỹ  thuật, nghiệp vụ, vũ trang. Tại điểm 6, Điều  14, Chương II của Luật Công an nhân dân cũng có qui định về vấn đề này. ­ Công tác nghiệp vụ  cơ  bản là một trong những nội dung công tác  trọng  tâm  và   đặc  biệt  quan  trọng trong hoạt  động  nghiệp vụ   của lực  lượng Cảnh sát nhân dân, đảm bảo cho lực lượng Cảnh sát nhân dân thực  hiện được vai trò nòng cốt của mình trong phòng ngừa, đấu tranh chống   tội phạm, đảm bảo trật tự  an toàn xã hội. Đây là vấn đề  đã được khẳng  định từ  trước đến nay và trong tình hình mới chúng ta càng phải nhấn  11
  12. mạnh để chú trọng, tập trung thực hiện cho đúng với tầm quan trọng của   nó. Tính cơ bản và đặc biệt quan trọng của công tác nghiệp vụ cơ bản   thể  hiện  ở  chỗ: Trước tiên, đó là phương thức hoạt động giúp cho lực  lượng Cảnh sát nhân dân chủ  động nắm được tình hình có liên quan để  triển khai toàn bộ các hoạt động phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự  an toàn xã hội một cách có chiến lược, có kế  hoạch, có tính đột phá; chủ  động phòng ngừa và phát hiện tội phạm để  ngăn chặn, đấu tranh ngay từ  việc quản lý con người một cách có trọng tâm; huy động được sức mạnh   của quần chúng vào công tác nghiệp vụ; sử  dụng “vũ khí”, chiến thuật   nghiệp vụ bí mật để đấu tranh một cách chủ động với các hoạt động tinh  vi, xảo quyệt của bọn tội phạm. Mặt khác, tính cơ bản của các mặt công  tác này còn được thể  hiện  ở  chỗ, kết quả  của nó được kế  thừa và phát  huy trong hầu hết các hoạt động nghiệp vụ  khác của lực lượng Cảnh sát  nhân dân, nhất là trong điều tra, khám phá tội phạm, nếu công tác nghiệp  vụ cơ bản không có hiệu quả tốt sẽ dẫn đến việc điều tra, xử lý nhiều vụ  án gặp bế tắc, việc phát hiện tội phạm thiếu tính chủ động dẫn đến tình  trạng chạy theo vụ  việc, chạy theo tình hình, làm giảm hiệu lực quản lý  nhà nước về an ninh trật tự của lực lượng Công an nhân dân nói chung và  lực lượng Cảnh sát nhân dân nói riêng.  1.1.2. Nội dung công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh   sát nhân dân Qua nghiên cứu, công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát  nhân dân gồm những mặt công tác chính như sau: Một là, công tác điều tra cơ bản: Công tác điều tra cơ  bản của lực  lượng Cảnh sát nhân dân là một bộ phận của công tác điều tra nghiên cứu,   12
  13. có nhiệm vụ  thu thập rộng rãi có hệ  thống các thông tin, tài liệu về  tình   hình có liên quan  ở  một địa bàn, tuyến, lĩnh vực, hệ  loại đối tượng …  phục vụ  công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ  gìn trật tự  an toàn xã hội. Hai là, công tác sưu tra và công tác xác minh hiềm nghi: ­ Công tác sưu tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân là công tác điều  tra nghiên cứu về  những người có điều kiện, khả  năng phạm tội hoặc  đang có những biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội về  hình sự, kinh   tế, ma tuý nhằm mục đích nắm tình hình diễn biến hoạt động của các loại  đối tượng, phát hiện tội phạm; đồng thời tìm ra những sơ  hở, thiếu sót   trong quản lý kinh tế  – xã hội … để  đề  xuất những biện pháp tích cực,  góp phần nâng cao hiệu quả các mặt công tác quản lý nhà nước về an ninh  trật tự. ­ Xác minh hiềm nghi trong đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ  gìn trật tự an toàn xã hội là những người, việc, hiện tượng nghi vấn hoạt   động phạm  tội  mà lực  lượng Cảnh sát nhân dân phải tiến hành khẩn  trương xác minh làm rõ để  kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh  chống tội phạm. Hiềm nghi được xác lập khi có các căn cứ theo qui định.  Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng Cảnh sát nhân dân là xác lập  và tập trung xác minh làm rõ nghi vấn và đi đến kết luận có hoạt động  phạm tội hay không. Ba là, công tác đấu tranh chuyên án. Chuyên án trong công tác phòng,  chống tội phạm, đảm bảo trật tự  an toàn xã hội của lực lượng Cảnh sát   nhân dân là hoạt động điều tra trinh sát, có sự  chỉ  đạo tập trung, thống   nhất, phối hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng, sử dụng đồng bộ  các biện   pháp, phương tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ, nhằm vào những đối   13
  14. tượng nguy hiểm, phức tạp  đã xác định để  phòng ngừa, ngăn chặn và   khám phá, truy bắt tội phạm, đảm bảo kịp thời, hiệu quả. Bốn là, công tác xây dựng, sử dụng mạng lưới bí mật của lực lượng   Cảnh sát nhân dân. Trong công tác này, gồm các nội dung chính: ­ Xây dựng, sử dụng đặc tình của lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đặc   tình là người cộng tác bí mật đặc biệt của lực lượng Cảnh sát nhân dân,  ngoài biên chế  của Công an nhân dân, được tuyển chọn, tổ  chức và hoạt  động theo những quy định chặt chẽ, thống nhất để  thực hiện nhiệm vụ  phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo đảm trật tự an toàn  xã hội. ­ Xây dựng, sử dụng cộng tác viên danh dự của lực lượng Cảnh sát  nhân dân. Cộng tác viên danh dự  của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong  công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội là người có vị  trí quan trọng và uy  tín trong xã hội hoặc người có phẩm chất đạo đức tốt và có trình độ  về  các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, chuyên môn kỹ  thuật; tự  nguyện   cộng tác bí mật với lực lượng Cảnh sát nhân dân trong sự  nghiệp bảo vệ  trật tự an toàn xã hội. ­ Xây dựng, sử dụng cơ sở bí mật của lực lượng Cảnh sát nhân dân.  Cơ  sở  bí mật của lực lượng Cảnh sát nhân dân là người tự  nguyện cộng   tác bí mật với lực lượng Cảnh sát nhân dân, được xây dựng và sử  dụng  rộng rãi trong các lĩnh vực, tuyến, địa bàn để  phục vụ  phòng ngừa, đấu  tranh chống tội phạm, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. ­ Xây dựng, sử  dụng hộp thư  bí mật của lực lượng Cảnh sát nhân  dân. Hộp thư bí mật của lực lượng Cảnh sát nhân dân bao gồm nhà ở của   công dân; những căn phòng, căn nhà do lực lượng Cảnh sát nhân dân thuê,  14
  15. mượn hoặc được nhà nước giao quản lý, để sử dụng làm nơi tổ chức kết  nạp, liên lạc, sinh hoạt bí mật với đặc tình. Trong triển khai thực hiện, phải thấy hết được mối quan hệ  khăng  khít giữa các mặt công tác điều tra cơ bản – sưu tra, xác minh hiềm nghi –  đấu tranh chuyên án – xây dựng, sử dụng mạng lưới bí mật. Mỗi mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, từ điều tra cơ bản, sưu tra, xác  minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án đến xây dựng, sử dụng mạng lưới bí  mật là một khâu trong quá trình điều tra về tội phạm của lực lượng Cảnh  sát nhân dân. Nội dung cần thiết trong cơ cấu công tác nghiệp vụ cơ  bản   của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải tương ứng và phù hợp với yêu cầu  khách quan của công tác phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và điều tra,  khám phá tội phạm, theo một chu trình từ khâu mở đầu đến khâu kết thúc.  Theo lý luận trong tội phạm học, hành vi phạm tội nói chung thường diễn  biến theo quy luật: Nguyên nhân, điều kiện phát sinh – tác động vào đối  tượng – xuất hiện ý định phạm tội – chuẩn bị  thực hiện hành vi – thực  hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, để  phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn tội  phạm phải thực hiện theo các khâu tương ứng, từ việc tiến hành công tác  điều tra cơ  bản để  nghiên cứu, thu thập tình hình, xác định các địa bàn,  tuyến, lĩnh vực, các đối tượng có thể bị xâm hại … ; qua công tác sưu tra   nhằm quản lý các đối tượng có nhiều yếu tố  dễ  bị  tác động, hoặc đã bị  tác động bởi các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm làm xuất hiện   ý định phạm tội; tiếp đến, bằng công tác xác minh hiềm nghi để xác định   sự thật về các dấu hiệu, biểu hiện về ý định phạm tội chuyển sang chuẩn   bị hoặc thực hiện hành vi phạm tội để có biện pháp ngăn chặn, đấu tranh,   đồng thời thông qua công tác đấu tranh chuyên án để  tổ  chức các chiến  thuật nghiệp vụ  nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ  chứng minh tội phạm,   15
  16. bắt giữ đối tượng phạm tội nguy hiểm. Ngoài ra, trong quá trình thu thập  thông tin, tài liệu để thực hiện các nhiệm vụ này, một biện pháp mang lại  hiệu quả  cao và không thể  thiếu được, đó là sử  dụng người cộng tác bí   mật có điều kiện, khả  năng tiếp cận đối tượng và thu thập thông tin, tài  liệu.  Trên cơ sở xác định công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh   sát nhân dân bao gồm các công tác chính: Điều tra cơ  bản; sưu tra, xác   minh hiềm nghi; dấu tranh chuyên án; xây dựng và sử  dụng mạng lưới bí  mật. Trong quá trình phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, các công tác   trên được kết hợp thực hiện thường xuyên, liên tục. Tuỳ  từng loại đối  tượng và tình huống nghiệp vụ cụ  thể, việc tiến hành các nội dung công  tác có thể  tuân theo tuần tự  từ  điều tra cơ  bản, sưu tra, xác minh hiềm  nghi, đấu tranh chuyên án; hoặc cũng có thể bỏ qua một số khâu nhất định  để đảm bảo hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, triệt phá tội phạm, như từ  sưu tra có thể  chuyển ngay sang xác lập, đấu tranh chuyên án … Tuy   nhiên, trong tổng thể chung đó là một quá trình điều tra nghiên cứu mang  tính chủ động và khách quan, đi từ  diện đến điểm, từ  nông đến sâu, giữa  các mặt công tác có sự kế thừa, tương hỗ lẫn nhau trong mối quan hệ chặt   chẽ. Mối quan hệ của các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản còn thể hiện ở  sự tác động tương hỗ lẫn nhau giữa các mặt công tác, việc thực hiện công   tác này là điều kiện đảm bảo hiệu quả của công tác khác. Ví dụ như phải  làm tốt công tác xây dựng, sử  dụng mạng lưới bí mật thì mới có cơ  sở  thông tin, tài liệu để  quản lý đối tượng sưu tra, xác minh hiềm nghi, đấu  tranh chuyên án; ngược lại, làm tốt công tác sưu tra sẽ  có cơ  sở  cho việc   16
  17. phát triển hiềm nghi, chuyên án và phát hiện, lựa chọn con người phù hợp  để xây dựng và bố trí vào mạng lưới bí mật. Công tác nghiệp vụ  cơ  bản còn có mối quan hệ  xuyên suốt trong  toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ khác của lực lượng Cảnh sát nhân dân,  nhất là có mối quan hệ  khăng khít với công tác điều tra hình sự; quản lý,  giáo dục, cải tạo phạm nhân; công tác quản lý hành chính về  trật tự  xã   hội; các biện pháp kỹ  thuật nghiệp vụ, khoa học hình sự; tuần tra, kiểm  soát vũ trang; công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ  an ninh tổ  quốc ở địa bàn cơ sở … Các mặt công tác này phải thường xuyên có sự hỗ  trợ, cung cấp thông tin, tài liệu cho nhau, đồng thời có thể hỗ trợ tác chiến   trong những trường hợp cần thiết. Thấy hết được những mối quan hệ  này, để  chúng ta thực hiện các  mặt công tác nghiệp vụ một cách đồng bộ, khi làm việc này thì phải chú ý  nghiên cứu phát triển cho việc khác, muốn làm tốt việc này thì phải làm có  hiệu quả  việc kia, tạo cho công tác nghiệp vụ  có hệ  thống, kế  thừa liên   tục các thành quả đã đạt được, khắc phục tình trạng rời rạc, cục bộ, kém  hiệu quả. Trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế  và sự  phát triển của   khoa học công nghệ, công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh sát  nhân dân cần phải vươn lên về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa,   đấu tranh với các loại tội phạm có tính quốc tế  và việc mở rộng hợp tác   quốc tế về phòng, chống tội phạm. Đây là yêu cầu có tính khách quan, vì  tình hình tội phạm quốc tế  hoạt động rất phức tạp và có xu hướng gia  tăng nguy hiểm trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Tiếp tục thực hiện   đường lối đổi mới và phát triển và phát triển kinh tế đất nước, với xu thế  hội nhập, đa phương hoá, đa dạng hoá. Việt Nam đã trực tiếp tham gia   17
  18. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), tham gia Diễn đàn hợp tác Á­ Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương  (APEC), gia nhập Tổ  chức Thương mại thế  giới (WTO), tiếp tục tăng  cường mở  rộng hợp tác kinh tế  với các nước trên thế  giới. Bên cạnh  những thuận lợi, do tác động của những yếu tố  tiêu cực nảy sinh, tình   hình an ninh trật tự nói chung và tình hình hoạt động của bọn tội phạm nói  riêng cũng sẽ có nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, hoạt động của loại   tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia sẽ  gia tăng trên nhiều   phương diện, hoạt động của chúng diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực, trong  quan hệ đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch …; bên cạnh đó là hoạt động   buôn ma tuý, buôn bán vũ khí, buôn bán người, khủng bố, cướp biển, tội   phạm lẩn trốn ra nước ngoài … Trong một số  lĩnh vực, đã xuất hiện tội  phạm quốc tế liên quan đến Việt Nam và có xu hướng ngày càng gia tăng,  nhất là tội phạm về  ma tuý, buôn bán phụ  nữ, trẻ  em, lừa đảo trong kinh  doanh, dịch vụ. Xác định rõ vấn đề  này, trong các văn bản của Bộ  đã có  phần qui định về  đối tượng sưu tra là người nước ngoài, xây dựng đặc  tình người nước ngoài, đặc tình ngoại biên … để đảm bảo cơ sở cho việc   tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tội phạm có   tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia. Tuy nhiên trong thực tế, các đơn vị,   địa phương chưa thực hiện được nhiều, mà nguyên nhân chủ yếu là năng   lực trong lĩnh vực này còn hạn chế, điều kiện đảm bảo còn thiếu. Vì vậy,   công tác nghiệp vụ  cơ  bản trong thời gian tới cần phải nghiên cứu biện  pháp để  đẩy mạnh trên các lĩnh vực có yếu tố  nước ngoài, đảm bảo cho  việc tổ  chức phòng, chống các tội phạm có yếu tố  nước ngoài được chủ  động ngay từ  đầu, cần tập trung phòng ngừa khi tình hình còn chưa đến  mức quá phức tạp; đồng thời phải nâng cao trình độ, khả  năng chuyên   môn về phòng, chống tội phạm mới có thể  đáp ứng được yêu cầu phòng,  18
  19. chống tội phạm hoạt động trên phạm vi quốc tế  có liên quan đến Việt   Nam và yêu cầu hợp tác với các nước trong phòng, chống tội phạm. 1.2.   Nhận   thức   chung   về   công   tác   điều   tra   cơ   bản   của   lực   lượng Cảnh sát nhân dân 1.2.1. Khái niệm, vai trò của công tác điều tra cơ  bản của lực   lượng Cảnh sát nhân dân Công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân luôn  được  chú  trọng thực  hiện, thông qua các  văn bản của Bộ, ngành như  Quyết định số 31/QĐ­BNV(C11) ngày 28/02/1995, Quyết định số 225/QĐ­ BNV(C11) ngày 17/08/1994, các Quyết định số  658, 659/QĐ­BCA(C11)  về công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi, xây dựng và sử dụng mạng lưới   bí mật. Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng, công tác, chiến đấu, các quy định  về công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân trước đây có  những nội dung còn thiếu hoặc không còn phù hợp, chậm được bổ  sung,  đổi mới; trong đó chưa có văn bản quy định riêng chính thức về  công tác  điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân.  Trên tinh thần nhằm nâng cao hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng cảnh sát nhân đáp  ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu  tranh chống tội phạm trong tình hình mới, Bộ  Công an có ra Chỉ  thị  số  05/CT­BCA(C11) ngày 06/06/2003 về  việc chấn chỉnh, tăng cường công  tác nghiệp vụ  cơ  bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình   mới;   kèm   theo   đó   có   Quyết   định   số   360/2003/QĐ­BCA(C11)   ngày  06/06/2003 của Bộ  trưởng Bộ  Công an, về  việc ban hành Qui định công  tác điều tra cơ  bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân. Điều 1 của Quyết   định 360 nói trên đã nêu rõ:  19
  20. “Công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân là một   bộ  phận của công tác điều tra nghiên cứu, có nhiệm vụ  thu thập rộng rãi   có hệ thống các thông tin, tài liệu về tình hình có liên quan ở một địa bàn,   tuyến, lĩnh vực, hệ  loại đối tượng … phục vụ  công tác phòng ngừa, đấu   tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Công tác điều tra cơ bản là cơ sở quan trọng xác định những hệ loại  đối tượng, tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, phức tạp về trật tự an toàn  xã hội; phát hiện việc, hiện tượng, con người liên quan đến trật tự an toàn  xã hội một cách có hệ  thống; làm cơ  sở  đề  ra các chủ  trương, kế  hoạch,  biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn  xã hội”. [ 9 ] Trên cơ sở  lý luận và thực tiễn, có thể  thấy được một số  điểm về  vai trò và ý nghĩa của công tác điều tra cơ  bản của lực lượng Cảnh sát   nhân dân: ­ Đây là văn bản đầu tiên của Bộ Công an mang tính thống nhất  các   văn bản khác về nội dung công tác điều tra cơ bản của lực lượng Cảnh sát  nhân dân. ­ Trong công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân   bao gồm các mặt công tác cụ thể như: Công tác điều tra cơ bản; công tác  sưu tra, xác minh hiềm nghi; công tác xây dựng, sử  dụng mạng lưới bí  mật; công tác đấu tranh chuyên án. Các mặt công tác cụ  thể  có liên quan,  bổ  sung, hỗ  trợ cho nhau, trong đó công tác điều tra cơ  bản là bước khởi   nguồn, định hướng cho các mặt công tác nghiệp vụ  trong lĩnh vực bảo  đảm trật tự an toàn xã hội. ­ Mối quan hệ giữa các mặt công tác nghiệp vụ  cơ  bản thể hiện  ở  sự  kế  thừa và phát triển từ  công tác này đến công tác khác, nhưng khởi  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0