intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ: Một số vấn đề về hoàn thiện các giải pháp chiến lược kinh doanh của công ty Mobifone

Chia sẻ: Trung đức | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:116

298
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn Thạc sỹ: Một số vấn đề về hoàn thiện các giải pháp chiến lược kinh doanh của công ty Mobifone là góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về chiến lược kinh doanh của công ty, khảo sát giải pháp chiến lược và công tác đẩy mạnh kinh doanh của Mobifone, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược kinh doanh trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Một số vấn đề về hoàn thiện các giải pháp chiến lược kinh doanh của công ty Mobifone

  1. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo MỤC LỤC Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  2. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là bài viết độc lập của bản thân tôi và với sự giúp đỡ  của người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Phan Văn Tiệm. Những số liệu, dữ liệu và các thông tin được đưa ra trong luận văn được  trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc. Những số liệu thu thập và tổng hợp của  cá nhân đảm bảo tính khách quan và trung thực. Học viên Trần Anh Thảo Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  3. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Từ chính Viết tắt 1 Điểm mạnh(Strengths) S 2 Điểm yếu(Weaknesses) W 3 Cơ hội(Opportunities) O 4 Nguy cơ(Threats) T 5 Cộng hòa liên bang CHLB 6 WTO Tổ chức thương mại quốc tế WTO 7 GPP Giao thức đối tác thế hệ thứ 3 GPP 8 Mạng lưới chuẩn phổ  biến cho mạng di động  GSM trên thế giới 9 3rd Generation partnership Proiect: Chuẩn hóa  3GPP mạng thông tin di động thế hệ thứ 3 Second generation: Hệ thống điện thoại thế hệ  2G thứ 2 Code Division Multiple Access: Mạng lưới đa  CDMA truy nhập (đa người dùng)  Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  4. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Sự phát triển thuê bao của công ty Mobifone những năm gần đây......40 Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thuê bao thực phát triển 5 năm gần đây của Mobifone......41 Bảng 2.3: Thị phần của Mobifone trên thị trường di động 5 năm gần đây..........42 Biểu đồ 2.4: Thị phần của Mobifone năm 2008....................................................43 Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu tài chính giai đoạn 2004­2008......................................44 Biểu đồ 2.6: Doanh thu phát sinh 5 năm gần đây của Mobifone...........................44 Biểu đồ 2.7: Tốc độ tăng trưởng thuê bao điện thoại di động của Việt Nam.....46 Hình 2.8: Mô hình các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp...59 Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng thuê bao di động của Việt Nam trong những năm tới...68 Biểu đồ 3.2: Tốc độ tăng trưởng thuê bao của Việt Nam..................................68   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  5. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới kinh tế, cơ chế  quản lý vĩ mô cũng như  cơ  chế  quản trị doanh nghiệp đã có sự thay đổi rất quan trọng. Đó là một nhân tố rất cơ  bản góp phần tạo nên những thành tựu phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao   mức sống nhân dân đưa vị  thế  đất nước lên một tầm cao mà lịch sử  mấy trăm   năm qua chưa hề đạt được. Song, việc chuyển đổi từ  cơ  chế cũ qua cơ  chế  mới tức là từ  cơ  chế  kế  hoạch hóa tập trung qua cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước là một   quá trình. Trong những năm qua quản lý theo kế  hoạch và theo chiến lược kinh   doanh còn là những trạng thái đan xen phổ  biến  ở  các doanh nghiệp, nhất là  doanh nghiệp nhà nước loại vừa và loại lớn. Đưa chiến lược kinh doanh trở  thành công cụ và phương pháp chủ đạo quản trị các doanh nghiệp trong nền kinh  tế  nước ta  ở  giai đoạn chuyển tiếp này có một tầm quan trọng đặc biệt. Điều  này đòi hỏi phải xử lý cả những vần đề lý luận và thực tiễn về cơ chế quản trị  doanh nghiệp. Trong đó làm rõ sự đồng nhất và phân biệt giữa hai phạm trù, hai  khái niệm là nội hàm của hai loại công cụ  và phương pháp chủ  đạo quản trị  doanh nghiệp thuộc hai cơ chế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế thị trường. Với mục  đích  tập  dượt  nghiên  cứu  khoa  học  quản  trị  kinh doanh,  các  doanh nghiệp trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế tôi mạnh   dạn chọn đề tài ”Một số vấn đề về hoàn thiện các giải pháp chiến lược kinh   doanh của công ty Mobifone”  làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề  lý luận về chiến lược kinh doanh của công ty, khảo sát giải pháp chiến lược và   công tác đẩy mạnh kinh doanh của Mobifone, đề  xuất một số  giải pháp nhằm  hoàn thiện chiến lược kinh doanh trong giai đoạn hiện nay.     Về  đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề  tài xác định đối tượng nghiên   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  6. Luận văn thạc sỹ kinh tế Trần Anh Thảo cứu là Công ty Mobifone và một số vấn đề  hoàn thiện các giải pháp chiến lược  kinh doanh của công ty Mobifone. Về phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng   thông qua phương pháp tổng hợp­phân tích, nghiên cứu, lý luận về  chiến lược   kinh doanh với thực tiễn quản lý điều hành trong thời gian chuyển đổi cơ  chế  quản trị kinh doanh công ty Mobifone. Về ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Nghiên cứu này có thể làm tài  liệu tham khảo cho những người quan tâm, nghiên cứu lý luận quản trị  doanh   nghiệp và có thể là những gợi ý bổ ích cho các nhà quản trị kinh doanh trong giai  đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế nói chung và chuyển đổi cơ chế quản trị  doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp trong ngành viễn thông hiện nay. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu thành 3  chương: Chương I:  Tổng luận về chiến lược kinh doanh và xây dựng chiến lược   kinh doanh của công ty. Chương II:  Thực trạng hoạch định các kế  hoạch và chiến lược kinh   doanh của công ty Mobifone. Chương III:  Các giải pháp chiến lược đẩy mạnh kinh doanh của công   ty Mobifone. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  7. Luận văn thạc sỹ kinh tế 1 Trần Anh Thảo CHƯƠNG I TỔNG LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH  VÀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA CÔNG TY 1.1. Tiếp cận thuật ngữ chiến lược và chiến lược kinh doanh của công   ty 1.1.1. Xuất xứ thuật ngữ chiến lược và ứng dụng khái niệm chiến lược 1.1.1.1. Xuất xứ  từ  thuật ngữ  quân sự  và  ứng dụng khái niệm chiến  lược của công ty Từ rất lâu, thuật ngữ “chiến lược” được dùng trước tiên trong lĩnh vực quân   sự. Một xuất bản trước đây của từ điển Larouse cho rằng: Chiến lược là nghệ  thuật chỉ huy các phương tiện để chiến thắng, đó là nghệ thuật chiến đấu ở vị trí   ưu thế. Một cách nói khác: Chiến lược trong quân sự  là nghệ  thuật sử  dụng binh  lực của các nhà chỉ huy cao cấp nhằm xoay chuyển tình thế, biến đổi tình trạng  so sánh lực lượng quân sự trên chiến trường từ yếu thành mạnh, từ bị động sang  chủ động để giành chiến thắng chung cuộc. Khi dùng thuật ngữ “chiến lược” với  chức năng là một tính từ để minh hoạ  tính chất của những quyết định, kế  hoạch, phương tiện... là người ta muốn nói  đến tầm quan trọng đặc biệt, tác dụng lớn lao, tính lợi hại, tinh nhuệ... của   những thứ đó, và đương nhiên nó sẽ đem lại lợi thế cho một bên tham chiến, làm   cho cán cân so sánh lực lượng tổng hợp nghiêng hẳn về  phía mình, đảm bảo   thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh. Như vậy, trong lĩnh vực quân sự, thuật ngữ “chiến lược” nói chung được quan  niệm như  một nghệ  thuật chỉ  huy của bộ  phận tham mưu cao nhất nhằm giành   thắng lợi trong cuộc chiến tranh, mang tính nghệ thuật đậm nét hơn tính khoa học. 1.1.1.2. Khái niệm về chiến lược kinh doanh Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  8. Luận văn thạc sỹ kinh tế 2 Trần Anh Thảo Từ giữa thế kỷ 20, thuật ngữ “chiến lược” đã được sử dụng phổ biến trong  lĩnh vực kinh tế cả ở bình diện vĩ mô cũng như vi mô. Ở bình diện quản lý vĩ mô, “chiến lược” được dùng để chỉ những kế hoạch  phát triển dài hạn, toàn diện, cơ bản về những định hướng chính của ngành, lĩnh   vực hay vùng lãnh thổ.  Ở  bình diện quản lý vi mô, các chiến lược cũng nhằm tới sự  phát triển  nhưng gắn chặt với ý nghĩa kinh doanh. Cho nên  ở  các doanh nghiệp, người ta   thường nói đến các “chiến lược kinh doanh” của doanh nghiệp, của công ty. Trong kinh doanh, nguồn lực của doanh nghiệp bao giờ cũng hữu hạn, môi   trường kinh doanh lại luôn biến động, trong lúc đó một doanh nghiệp lại phải  đối mặt với nhiều nhà cạnh tranh. Kinh doanh trên thương trường cũng chẳng  khác gì chiến đấu trên chiến trường. Từ  đó nghệ  thuật điều hành kinh doanh  ở  nhiều khía cạnh tương tự  như  trong quân sự. Từ  đó khái niệm về  “chiến lược   kinh doanh” ra đời với những quan niệm như sau: * Tiếp cận về phía “cạnh tranh”, một nhóm tác giả có quan điểm coi chiến  lược kinh doanh là một nghệ thuật để giành thắng lợi trong cạnh tranh: ­ Theo Micheal.E.Porter, Chiến lược kinh doanh là một nghệ thuật xây dựng  các lợi thế cạnh tranh để phòng thủ ­ Theo K.Ohmae, Mục đích của chiến lược là mang lại những điều thuận  lợi nhất cho mọi phía, đánh giá thời điểm tấn công hay rút lui, xác định đúng ranh  giới của sự thỏa hiệp và ông nhấn mạnh: Không có đối thủ cạnh tranh thì không  cần chiến lược, mục đích duy nhất của chiến lược là đảm bảo giành thắng lợi   bền vững đối với đối thủ cạnh tranh. * Theo hướng tiếp cận khác, có một nhóm tác giả  cho rằng chiến lược là  tập hợp các kế hoạch làm cơ sở hướng dẫn các hoạt động: ­ Theo James.B.Quinn, Chiến lược là một dạng thức hoặc một kế  hoạch   phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  9. Luận văn thạc sỹ kinh tế 3 Trần Anh Thảo tổng thể kết dính với nhau. ­ William J.Guech nhận định, Chiến lược là một kế hoạch mang tính thống  nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết kế  để  đảm bảo rằng các mục   tiêu cơ bản của một ngành sẽ được thực hiện. ­ Alfred Chandler l ại nh ận xét, Chiến lược bao hàm việc ấn định các mục  tiêu cơ  bản dài hạn của ngành, đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến trình   hành động và phân bổ các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó. Qua một số ý tưởng và quan niệm đã được trình bày, ta thấy “chiến lược”  là một khái niệm khá trừu tượng, các quan niệm nêu trên không hoàn toàn giống   nhau, không đồng nhất. Thực ra trên một bình diện nào đó có thể  nói khái niệm   “chiến lược” chỉ tồn tại trong đầu óc, trong suy nghĩ của ai đó có quan tâm đến  chiến lược, đó là những phát minh, sáng tạo của những Nhà chiến lược về  cách  thức hành động của doanh nghiệp trong tương lai sao cho có thể  giành được lợi   thế  trên thị  trường, đạt được những mục tiêu cơ  bản và quan trọng nhất tạo đà  cho sự phát triển vững chắc, không ngừng của doanh nghiệp trong tương lai.  Từ những phân tích trên, có thể diễn đạt khái niệm về chiến lược hay chiến   lược kinh doanh của một doanh nghiệp như sau: Chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp là sự  lựa chọn tối  ưu việc   phối hợp giữa các biện pháp (sử dụng sức mạnh, các nguồn lực hiện có và tiềm   năng của doanh nghiệp) với thời gian (thời cơ, thách thức), với không gian (lĩnh  vực và địa bàn hoạt động) theo sự phân tích môi trường kinh doanh và khả  năng  nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu cơ bản lâu dài phù hợp  với xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Để  dễ  hình dung cụ thể  hơn định nghĩa và các quan niệm trên, có thể  khái  quát nêu lên như sau: Chiến lược là một kế hoạch, trong đó bao gồm: a. Những mục tiêu cơ bản, trung và dài hạn (3 năm, 5 năm, 10 năm, ...), chỉ rõ   những định hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai ngắn, trung và dài  hạn. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  10. Luận văn thạc sỹ kinh tế 4 Trần Anh Thảo b. Các quyết định về những biện pháp chủ yếu để đạt được những mục tiêu  đó. c. Những chính sách lớn, quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực, phân bổ  và sử dụng tối ưu các nguồn lực đó. Tất cả những nội dung trên phải được xây dựng trong khuôn khổ môi trường   cạnh tranh sôi động và những biến cố bên ngoài đã được dự đoán trước. Tính định hướng của chiến lược đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên  tục, vững chắc trong môi trường kinh doanh thường xuyên biến động. Các quyết định chiến lược nhất thiết phải được đưa ra từ cấp lãnh đạo cao  nhất của doanh nghiệp mới có thể  đảm bảo tính chuẩn xác của các quyết định   dài hạn (về sản phẩm, thị  trường, đầu tư, đào tạo, ...), sự bí mật về thông tin và   cạnh tranh trên thị trường. Chiến lược luôn có tư tưởng tấn công để giành ưu thế trên thị trường. Chiến   lược phải được hoạch định và thực thi trên cơ sở nhận thức đúng đắn các cơ  hội  kinh doanh và nhận thức được lợi thế so sánh của doanh nghiệp so với các đối thủ  mới có thể  thu được thành công lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của doanh  nghiệp. 1.1.1.3. Vai trò của chiến lược kinh doanh đối với sự  tồn tại và phát   triển của Doanh nghiệp Chiến lược kinh doanh có vai trò định hướng phát triển, định hướng hoạt  động cho Công ty để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường nhằm cải thiện căn bản  tình hình và vị thế hiện tại của Công ty. Chiến lược kinh doanh đóng vai trò đặc  biệt quan trọng trong việc quyết định sự thành bại, hiệu quả hoạt động cũng như  mức độ  vững chắc của Công ty trên thị  trường. Nó là một công cụ  đắc lực để  giúp lãnh đạo Công ty đưa ra những quyết định đúng đắn và có hiệu quả. Thiếu   vắng chiến lược hoặc khi tầm quan trọng của nó không được đánh giá một cách  đầy đủ, nhà quản lý có thể  đưa ra những hành động hoặc quyết định gây căng   thẳng nội bộ, đưa Công ty vào những tình thế  bất lợi, vào những lĩnh vực ít lợi  Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  11. Luận văn thạc sỹ kinh tế 5 Trần Anh Thảo thế hoặc không phù hợp. Từ đó có thể đẩy Công ty phát triển theo hướng ngược   lại của quá trình phát triển, dần dần đi đến bế tắc và bị đào thải khỏi thị trường. Trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, các Công ty Việt Nam hoạt động  theo chỉ  tiêu, định hướng của Nhà nước. Mọi vấn đề  về: Sản xuất cái gì? Sản  xuất như  thế  nào? Số  lượng bao nhiêu? Sản xuất và bán hàng cho ai?... Tất cả  đều do Nhà nước chỉ định hết. Các Công ty chỉ thực hiện và hoàn thành kế hoạch   do trên giao. Họ  không cần quan tâm đến sản phẩm, khách hàng và lợi nhuận  Công ty. Lúc đó hình ảnh về người giám đốc giỏi là biết chạy đủ vật tư, lo lắng  công việc và nỗ  lực lao động cùng mọi người trong Công ty... Chính vì vậy, họ  không quan tâm đến và cũng không thấy được vai trò của chiến lược. Từ  khi chuyển sang cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của Nhà nước theo  định hướng xã hội Chủ  nghĩa, các Công ty hạch toán độc lập bắt đầu phải tìm  cách tự  giải đáp các câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như  thế  nào? Sản xuất  cho ai? Bán  ở  đâu? Phải cạnh tranh với ai? Số  lượng bao nhiêu?... Họ  tự  chịu   trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, phải hạch toán sao cho có lãi. Yêu cầu   đó đòi hỏi các Công ty phải nghiên cứu thị  trường, tìm ra các cách thức tốt nhất  để  thực hiện công việc của mình. Chính vì vậy đã bắt đầu có sự  thúc đẩy du  nhập khoa học quản trị chiến lược. Chiến lược kinh doanh càng ngày càng có vai  trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của các Công ty. Các công trình nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nào vận dụng quản trị  chiến lược thì đạt được kết quả  tốt hơn nhiều so với các kết quả  mà họ  đạt   được trước đó và các kết quả  của các doanh nghiệp không vận dụng quản trị  chiến lược. Nhưng điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp vận dụng quản  trị  chiến lược sẽ không gặp phải các vấn đề, thậm chí có thể  bị  phá sản, mà nó   chỉ  có nghĩa là việc vận dụng quản trị  chiến lược sẽ giảm bớt rủi ro gặp phải   các vấn đề  trầm trọng và tăng khả  năng của doanh nghiệp trong việc tranh thủ  các cơ hội trong môi trường khi chúng xuất hiện. Trong điều kiện nền kinh tế mở, thị trường cạnh tranh phần lớn các Công ty  Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  12. Luận văn thạc sỹ kinh tế 6 Trần Anh Thảo phải đối diện với môi trường kinh doanh ngày càng biến động, phức tạp và có  nhiều rủi ro. Trước đây, thực sự là nhiều Công ty đã từng thành công do tập trung  hầu như toàn bộ các nỗ lực quản lý vào việc giải quyết các chức năng hoạt động  nội bộ  và do thực hiện các công việc hàng ngày của mình một cách có hiệu quả  nhất. Mặc dù hiệu quả  hoạt động nội bộ  vẫn còn rất quan trọng, song việc làm  cho Công ty thích nghi với những thay đổi của điều kiện môi trường đã trở  thành  yếu tố hết sức cần thiết để đảm bảo thành công. Muốn vậy các Công ty cần phải   có những chiến lược thích nghi với nhưng điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở bên trong   cũng như bên ngoài Công ty. Chiến lược kinh doanh giúp Công ty nhận rõ mục đích, hướng đi của mình,   làm kim chỉ  nam cho mọi hoạt động của Công ty, đạt được các mục tiêu trước   mắt và lâu dài, tổng thể và bộ phận. Chiến lược kinh doanh giúp cho Công ty nắm bắt và tận dụng tốt các cơ  hội kinh doanh, chỉ ra được những lợi thế và bất lợi của Công ty, đồng thời tìm   ra các biện pháp khắc phục nguy cơ đe doạ đối với Công ty.  Chiến lược kinh doanh giúp cho Công ty nắm bắt và tận dụng nâng cao  hiệu quả  sử  dụng nguồn lực, đảm bảo tăng cường vị  thế  cạnh tranh của doanh   nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên tục bền vững. Chiến lược kinh doanh tạo những căn cứ  vững chắc cho việc đề  ra các  chính sách, quyết định về sản xuất kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị  trường. Ngoài ra chiến lược kinh doanh còn là chất gắn kết các nhân viên trong tổ  chức. Nó là cơ sở hoạt động của các bộ phận, tạo nên sự thống nhất trong hành   động ­ một sức mạnh to lớn thúc đẩy Công ty đến thành công. Các ý chí chiến   lược sẽ khuyến khích phát huy mọi khả năng sáng tạo, hướng các nỗ lực của cá   nhân vào mục tiêu chung. Tóm lại, chiến lược kinh doanh ngày càng trở thành công cụ quan trọng giúp   cho việc định hướng phát triển doanh nghiệp theo những mục tiêu đặt ra và phù   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  13. Luận văn thạc sỹ kinh tế 7 Trần Anh Thảo hợp với các điều kiện khách quan của môi trường kinh doanh. Nó cho phép kết   hợp hài hoà các mục đích bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Chiến lược kinh   doanh có vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn. Song có một chiến lược kinh doanh   hợp lý, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình không phải đơn giản.  Hai nhân tố có có tác động chủ đạo tới chiến lược quyết định có thể kế tới là:   Niềm tin vào quan hệ nhân ­ quả; và lựa chọn kết cục có thể xảy ra. Phân chia theo  tính tất định và bất định có thể đưa ra 4 loại quyết định: Quyết định dựa trên tính   toán, quyết định dựa trên phán đoán, quyết định thoả hiệp, hoặc quyết định gây áp   lực. Mức độ chắc chắn của môi trường phụ  thuộc rất lớn tính phức tạp và tính   ổn định của chính môi trường. Trong môi trường ổn định, số kết cục là hữu hạn,  trong khi đó, môi trường biến động cho một khoảng rộng các kết quả. Thêm vào   đó, các điều kiện thường xuyên biến đổi làm cho việc tiếp cận các thông tin cần  thiết phục vụ quá trình ra quyết định càng khó khăn hơn. Khi môi trường liên tục  biến đổi, hệ  thống phải không ngừng học cách điều chỉnh. Hệ  thống không thể  chỉ  dựa vào các thủ  tục và kinh nghiệm quá khứ  mà còn phải có khả  năng đối  mặt với tình huống mới trong đó, mỗi thành viên phải học cách vận dụng các   phương pháp mới. Thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc tập hợp và huy động các  nỗ  lực cá nhân vì mục đích chung nhiều hơn là tạo áp lực với mỗi thành viên.  Hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được cải thiện thông qua: (1) nhận thức rõ ràng  vai trò của từng thành viên trong doanh nghiệp; và (2) sử  dụng hệ  thống kế  hoạch   phù   hợp.   Trong   một   số   tình   huống,   thành   viên   của   doanh   nghiệp   có  nguyện vọng và khả năng thực hiện yêu cầu, hiểu rõ kỳ vọng của người đưa ra  yêu cầu, và nhận thức được cấu trúc mạch lạc và định hướng rõ ràng là chìa   khoá dẫn tới thành công. Trong những tình huống như  vậy, mọi khả  năng đều  được xem xét, các kết cục đã được biết trước, và tiêu chí đánh giá quyết định có  thể  được xác định dễ  dàng, tin cậy. Ra quyết định là vấn đề  của kiểm tra các   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  14. Luận văn thạc sỹ kinh tế 8 Trần Anh Thảo phương án có khả năng thay thế, và lựa chọn phương án tối ưu. Nhà quản lý đặt   ra mục tiêu và kiểm soát nhân viên trong môi trường làm việc gắn bó với các   công việc và mục tiêu cụ  thể, đồng thời quan tâm tới năng lực hoàn thành và   khen thưởng dựa trên kết quả công việc. Một định hướng xác định rõ vai trò của mỗi thành viên và miêu tả  rõ ràng   mục tiêu của doanh nghiệp cho phép các quyết định có tính thống nhất cao là   nguyên nhân của hiệu suất làm việc cao. Bởi khi đó, các quan hệ  nhân – quả  được hiểu đầy đủ  trong môi trường tương đối  ổn định. Tuy nhiên, phong cách  này cũng có thể tạo ra các kết quả bất ngờ do thay đổi quá nhanh của hoàn cảnh   hoặc quan hệ  nhân ­ quả  không rõ ràng. Trong tình thế  này, dựa vào ý kiến và   cam kết của các thành viên để  đưa ra các ước lượng và điều chỉnh của nhóm là   cách làm thích hợp. Kết quả  kinh doanh trong hoàn cảnh cơ  cấu ra quyết định có cấu trúc yếu   sẽ được cải thiện khi quá trình hành vi được xem xét và quản trị  phù hợp. Đó là   vì người ra quyết định không có ý thức về  các tiêu chí, phương án thay thế  hay   kết quả  để  xác định hiện trạng hoạt động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, các  nhân tố  được xem xét là phức tạp và không thể  dễ  dàng xác định, giải pháp tối   ưu rất khó đạt được. Để thay thế, người tham gia quá trình ra quyết định có thể  viện dẫn các giả  thiết, trực giác, “phán đoán”, kinh nghiệm, và cả  vận may.   Trong các tình huống thiếu tính cấu trúc, các quyết định được đưa ra dựa trên   thông số  từ  các cá nhân có trách nhiệm và sẵn sàng chia sẻ  quyết định và thông   tin trong bầu không khí cởi mở. Nhà quản lý trong hệ  thống kế  hoạch như  thế  cần gạt bỏ các trở ngại trong giao tiếp cá nhân để có thể phối hợp tốt nhất với  nhóm ra quyết định.  Công việc của nhân sự quản lý cao cấp là xác định hướng đi, đánh giá môi   trường kinh doanh và quyết định xem quá trình ra quyết định sẽ  được chia sẻ.  Các vị trí lãnh đạo này cũng có trách nhiệm cải thiện và khuyến khích hiệu quả  hoạt động của công ty. Tuy nhiên, khi cấu trúc của vấn đề  thường xuyên thay  Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  15. Luận văn thạc sỹ kinh tế 9 Trần Anh Thảo đổi, thì doanh nghiệp sẽ phải thích ứng bằng cách tìm ra vị trí riêng biệt, an toàn,   và ổn định hoặc tìm cách chế ngự  môi trường với chiến lược mạnh mẽ và sáng  tạo với các tính toán cẩn trọng về  rủi ro. Phân tích chặt chẽ  và định hướng cụ  thể của người lãnh đạo, không khí cởi mở giữa các thành viên của nhóm ra quyết   định, hay việc phát triển các kịch bản và tình huống nếu để  tách rời sẽ  không  đảm   bảo   hiệu   quả   hoạt   động   cao   cho   doanh   nghiệp.   Sự   kết   hợp   hoàn   hảo   thường chỉ  đạt được khi các mục tiêu của doanh nghiệp có sự  thống nhất cao.  Trong hoàn cảnh doanh nghiệp không có được cấu trúc này, quyết định cần có sự  tham gia của nhiều thành viên. Vào các thời điểm mà điều kiện môi trường liên   tục biến đổi và không chắc chắn, các quyết định cần có tính linh hoạt cao. Người  lập kế hoạch hiệu quả nhận thức rõ ràng rằng để có khả năng lập kế hoạch tốt   cần các kỹ năng phân tích, cảm nhận trực quan, và giao tiếp cũng như nắm được   bí quyết áp dụng các hệ thống lập kế hoạch khác nhau để  đạt được lợi thế  tối   đa trong từng hoàn cảnh. 1.1.1.4. Đặc trưng của chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh hay bất kỳ  phạm trù nào cũng đều có những đặc  trưng riêng để  phân biệt nó với các phạm trù, sự  vật, hiện tượng khác. Mặc dù  có nhiều cách tiếp cận chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp khác  nhau nhưng các đặc trưng cơ bản của chiến lược lại được quan niệm gần như  đồng nhất với nhau.  Ở phạm vi chiến lược phát triển toàn doanh nghiệp, chiến   lược có các đặc trưng cơ bản sau: Chiến lược kinh doanh thường được xác định cho một thời kỳ  tương đối  dài và xác định rõ những mục tiêu cơ bản, những phương hướng kinh doanh của   doanh nghiệp trong từng thời kỳ và được quán triệt một cách đầy đủ trong tất cả  các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho doanh  nghiệp phát triển liên tục và bền vững trong môi trường kinh doanh đầy biến   động. Việc “kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế” trong thực tế  kinh doanh là yêu cầu cần thiết để  đảm bảo hiệu quả kinh doanh và khắc phục   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  16. Luận văn thạc sỹ kinh tế 10 Trần Anh Thảo các sai lệch do tính định hướng của chiến lược gây ra. Chiến lược kinh doanh đảm bảo huy động tối đa và kết hợp tối  ưu việc   khai thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai,  phát huy những lợi thế  và nắm bắt cơ  hội để  giành được  ưu thế  trên thương   trường. Chiến lược kinh doanh phải phản ánh trong suốt một quá trình liên tục từ  việc xây dựng chiến lược, tổ  chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh  chiến lược. Các  quyết  định chiến lược  quan trọng  trong quá  trình xây dựng,   quyết định, tổ  chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá điều chỉnh phải được tập  trung về  cấp lãnh đạo doanh nghiệp. Điều đó đảm bảo tính chuẩn xác của các   quyết định cũng như  sự  bí mật về  thông tin và cạnh tranh trên thương trường.   Trên thực tế, chỉ  có người chủ  doanh nghiệp (chủ sở hữu như: doanh nhân, đại  hội cổ đông)và những người hoặc tổ chức được ủy quyền thay mặt chủ sở hữu   mới  có  quyền  quyết  định các   vấn  đề   chiến  lược   trọng  yếu nhất  của  doanh   nghiệp. Chiến lược kinh doanh phải mang tư  tưởng tiến công giành thắng lợi trên  thương trường kinh doanh. Chiến lược được hoạch định và thực thi dựa trên sự  phát hiện và sử dụng các cơ hội kinh doanh, các lợi thế so sánh của doanh nghiệp   nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đánh giá   đúng nội lực và thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi xây   dựng chiến lược và thường xuyên soát xét các yếu tố  nội tại khi thực thi chiến   lược. 1.1.1.5. Nội dung cơ bản của chiến lược kinh doanh Kinh doanh của doanh nghiệp như đã phân tích trên đây, việc xác định  chiến lược được tiến hành theo hai bộ phận chủ yếu sau: Mục tiêu chiến lược: Mục tiêu của chiến lược thể  hiện tập trung những nỗ lực quan trọng của   doanh nghiệp, biểu hiện mức phấn đấu mà doanh nghiệp cần phải vượt qua   trong thời kỳ  thực hiện chiến lược. Các mục tiêu của doanh nghiệp được xác   định bằng cách miêu tả  sản phẩm, thị  trường và công nghệ  của doanh nghiệp,  Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  17. Luận văn thạc sỹ kinh tế 11 Trần Anh Thảo nhiệm vụ mà doanh nghiệp phải đạt được. Mục tiêu phải được định lượng hay định tính rõ ràng và phải phản ánh toàn   diện các mặt phát triển của doanh nghiệp. Khi xác định mục tiêu thì mục tiêu đó  phải bao gồm các yêu cầu như tính cụ thể, tính linh hoạt, tính khả thi, định lượng   được, tính  thống nhất và hợp lý. Ở cấp độ  cao nhất của Công ty, thì thường có  các mục tiêu chung nhất và tổng quát nhất. Còn  ở  cấp thấp hơn thì thường có   những mục tiêu cụ  thể, nhiều khi những mục tiêu này được biểu biện bằng   những chỉ tiêu, con số cụ thể. Các chính sách và các giải pháp lớn: Các chính sách và các giải pháp lớn đề cập tới phương hướng và cách thức   tổng quát giúp doanh nghiệp biết cần phải làm gì để đạt được mục tiêu đã định. Các chính sách và giải pháp này bao gồm những vấn đề chủ yếu như: ­ Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp. ­ Cấu trúc và trình độ kĩ thuật cần đạt được của doanh nghiệp. ­ Các phương án chiến lược kinh doanh. ­ Triển khai các nguồn lực để đạt được mục tiêu. 1.2. Phân loại chiến lược kinh doanh của công ty 1.2.1. Các loại mục tiêu kinh doanh của công ty Thuật ngữ  “mục tiêu” được dùng để  chỉ  cả tiêu đích hoặc kết quả  cụ  thể  mà doanh nghiệp muốn đạt được. Tuy mục tiêu được suy ra trực tiếp từ  chức   năng nhiệm vụ, nhưng chúng cần phải cụ thể rõ ràng hơn. Thí dụ, nếu trong nội  dung chức năng có vấn đề  tổng quát trong đó hướng các nỗ  lực của công ty vào   các đối tượng công nhân viên có cuộc sống khó khăn, thì việc đề ra các mục tiêu   tương  ứng phải ghi rõ cụ  thể  số  lượng nhân viên đó được tuyển dụng vào làm  việc. Các lĩnh vưc thông thường khác đựơc đưa vào nội dung mục tiêu là mức lợi  nhuận, mức tăng trưởng của doanh thu bán hàng, thị phần, tính rủi ro và đổi mới. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  18. Luận văn thạc sỹ kinh tế 12 Trần Anh Thảo Có hai lọai mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Trước khi xác định chi tiết  từng loại mục tiêu này cần xác định rõ khung thời hạn của chúng. Thườ ng thì   hai mục tiêu này khác nhau về  số  năm thực hiện. Mục tiêu ngắn hạn thường  thực hiện trong một năm, mục tiêu dài hạn thường trong hơn một năm. Đôi khi   người ta còn thực hiện mục tiêu thứ  ba là mục tiêu trung hạn. Mục tiêu trung  hạn có thể  kéo dài từ  một – năm năm. Phương pháp phân chia đơn giản như  vậy chưa làm rõ đượ c sự  khác biệt giữa mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài  hạn. 1.2.1.1. Mục tiêu dài hạn Mục tiêu dài hạn là kết quả  mong muốn được đề  ra cho một khoảng thời   gian tương đối dài. Như  đã nói về  số  năm cụ  thể  có thể  khác nhau nhưng nhìn   chung thì dài hơn một chu kỳ xác định, các mục tiêu dài hạn thường cụ thể bằng  mục tiêu ngắn hạn và ta sẽ bàn tới dưới đây. Các mục tiêu dài hạn thường được   ấn định theo sáu lĩnh vực chủ đề sau:  1. Mức lợi nhuận 2. Năng suất 3. Vị thế cạnh tranh 4. Phát triển việc làm 5. Quan hệ giữa công nhân viên 6. Vị trí dẫn đầu về công nghệ 1.2.1.2. Mục tiêu ngắn hạn Mục tiêu ngắn hạn phải hết sức cụ thế và phải nêu ra các kết quả tiêu đích  một cách chi tiết. Kết quả cho thấy  ở mục tiêu ngắn hạn là kết quả  cụ  thể  mà  doanh nghiệp dự  định đạt được trong chu kỳ quyết định tiếp theo. Đương nhiên  từng mục tiêu ngắn hạn phải hướng vào chuỗi mục tiêu nhằm vào mục tiêu dài  hạn.  1.2.2. Các loại chiến lược Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  19. Luận văn thạc sỹ kinh tế 13 Trần Anh Thảo 1.2.2.1. Chiến lược tổng thể Mỗi chiến lược đều hoạch định tương lai phát triển của tổ  chức. Chiến   lược kinh doanh của doanh nghiệp vạch ra mục tiêu phát triển doanh nghiệp   trong khoảng thời gian dài, đó chính là chiến lược tổng thể. Chiến lược tổng thể bao gồm các nội dung sau: (còn gọi là các mục tiêu chiến   lược)  Tăng khả năng sinh lợi  Tạo thế lực trên thị trường  Bảo đảm an toàn trong kinh doanh Tăng khả năng sinh lợi và lợi nhuận:  Trong trường hợp không có đối thủ  cạnh tranh và kể  cả  có đối thủ  cạnh  tranh, mọi doanh nghiệp đều muốn tối đa hóa lợi nhuận với chi phí bỏ thêm cho  nó càng ít càng tốt. Mục tiêu tỷ  lệ  sinh lợi của đồng vốn và lợi nhuận càng cao   càng tốt phải là mục tiêu tổng thể của mọi doanh nghiệp. Tạo thế lực trên thị trường: Tuy nhiên, vào những thời kỳ  nhất định, doanh nghiệp có thể  đầu tư  thêm  nhiều vốn và tỷ  lệ  sinh lợi thấp nếu nó bỏ  qua mục tiêu nóng bỏng đầu tiên để  đạt được mục tiêu thứ  hai: tạo thế  lực trên thị  trường. Doanh nghiệp muốn tìm  cho mình một vị trí tốt, được nhiều người tiêu dùng biết đến, có tiếng tăm thì có   thể phải bỏ thêm nhiều chi phí để đối lấy tiếng tăm đó mà chưa chắc lợi nhuận  tăng thêm cùng tỷ lệ. Bảo đảm an toàn trong kinh doanh: Kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo,   cạnh tranh càng khốc liệt thì khả năng thu lợi lớn nhưng rủi ro cũng thường gặp. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro gồm: ­ Thiếu kiến thức và kỹ năng quản lý kinh doanh ­ Thiếu thích nghi với cạnh tranh Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
  20. Luận văn thạc sỹ kinh tế 14 Trần Anh Thảo ­ Thiếu thông tin kinh tế ­ Do nguyên nhân khách quan: Khi cơ chế quản lý vĩ mô thay đổi, lạm phát  cao và khủng hoảng kinh tế  trầm trọng, hàng giả  phát sinh hoặc nhập lậu tăng   mạnh. Tai nạn, hỏa hoạn, trộm cắp, thiên tai, luật pháp thay đổi và chính trị  không ổn định. Rủi ro là sự  bất trắc không mong đợi nhưng các nhà chiến lược khi xây  dựng chiến lược chấp nhận nó thì sẽ tìm cách ngăn ngừa, né tránh, hạn chế. Nếu   có chính sách phòng ngừa tốt thì sẽ hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất. Hệ thống phòng ngừa và phân tán rủi ro có hiệu quả bao gồm: đa dạng hóa  sản phẩm và dịch vụ, mua bảo hiểm, phân tích chiến lược thường xuyên. Mỗi  doanh nghiệp có thể  đặt cho mình cùng lúc cả  ba mục tiêu chiến lược nói trên   cho một khoảng thời gian. Cũng có thể chỉ đặt một hay hai trong ba mục tiêu đó. 1.2.2.2.Chiến lược bộ phận chức năng Mục tiêu của việc phân tích và hình thành chiến lược chính là việc thiết lập   nên các chiến lược bộ phận, lựa chọn ra trong số đó một vài chiến lược để  theo  đuổi. Phân tích và lựa chọn chiến lược nhằm định ra hàng loạt các hành động mà  nó có thể  giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu. Chiến lược hiện tại, các mục   tiêu của doanh nghiệp, kết hợp với đánh giá bên ngoài và đánh giá nội bộ là cơ sở  để đưa ra các chiến lược. Với các phần trên, doanh nghiệp có thể thu thập được các thông tin về môi  trường bên trong và bên ngoài một cách có hệ thống. Các thông tin có thể là thông   tin về  cạnh tranh, thông tin về  nguồn nhân lực, thông tin về  nghiên cứu và phát  triển, thông tin về  tài chính… Từ  đó, tổng hợp được các kết quả  phân tích và   đánh giá môi trường kinh doanh và sắp xếp theo xu hướng, mức độ tác động của  chúng. Tiếp đó là việc sử dụng các mô hình lựa chọn, xem xét tới các giai đoạn   nhập dữ  liệu, kết nối các dữ  liệu và thông tin phân tích được, từ  đó sản phẩm   cuối cùng thu được sẽ là các chiến lược cần theo đuổi. Các mô hình như ma trận  SWOT, BCG… cần được vận dụng để có được những đánh giá định lượng chính   Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Khóa 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2