intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

197
lượt xem
57
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chính sách tiền lương và thu nhập là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của đất nước và có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, khai thác các khả năng tiềm tàng của mỗi người lao động. Trong những năm gần đây, Đảng ta coi “phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách tiền lương và thu nhập là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của đất nước và có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, khai thác các khả năng tiềm tàng của mỗi người lao động. Trong những năm gần đây, Đảng ta coi “phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Để thể hiện giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu thì vấn đề đặt ra là phải đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dạy - học của cả thầy và trò, trong đó giáo dục đào tạo bậc đại học là nơi chủ yếu cung cấp nguồn nhân lực tri thức cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc đại học, những năm qua nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, một mặt tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, mặt khác thể hiện xã hội hoá giáo dục đào tạo nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển giáo dục đào tạo. Bên cạnh một số kết quả đạt được như quy mô đào tạo tăng lên, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy ở nhiều trường được trang bị tốt hơn…Song cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp, tác động không tốt đến chất lượng đào tạo. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình đó là đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các tr ường Đại học chưa thực sự toàn tâm toàn ý thực hiện nâng cao chất lượng dạy - học, họ chỉ quan tâm đến tăng số lượng giờ giảng để tăng thu nhập. Tình trạng đó là do chế độ tiền lương đối với đội ngũ giáo viên ở các trường đại học chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động để họ hoàn thành tốt cả ba nhiệm vụ: Giảng dạy, học tập bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học để nâng cao chất lượng giảng dạy. Để tạo thêm thu nhập cho đội ngũ giảng viên, các trường đã mở nhiều loại lớp, giáo viên tập trung vào thực hiện nhiệm vụ giảng dạy trong tr ường và giảng dạy ở các trường khác, không còn thời gian để học tập bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng giảng dạy. Trước tình hình đó, là một giảng viên ở trường đại học tôi chọn “Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
  3. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, cuộc cải cách tiền lương năm 1993, đã có những thay đổi cơ bản về tiền lương từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết. Để tiếp tục cải cách chính sách tiền lương năm 1993, từ năm 2001 trở đi đã có nhiều đề án do các cơ quan ở cấp Trung ương tiến hành như sau - Bộ nội vụ xây dựng 3 đề án: * Đề án cải cách tiền lương chức vụ dân cử trong các cơ quan nhà nước. * Đề án cải cách chế độ đối với xã phường. * Đề án cải cách tiền lương của công chức, viên chức hành chính sự nghiệp. - Bộ lao động xã hội xây dựng 5 đề án: * Đề án tiền lương tối thiểu. * Đề án quan hệ tiền lương. * Đề án cải cách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh. * Đề án cải cách bảo hiểm xã hội * Đề án cải cách chế độ trợ cấp người có công. - Ban Chấp hành TW và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam xây dựng Đề án cải cách tiền lương cán bộ bầu cử của Đảng, Đoàn thể. - Bộ Tài chính và Bộ Công an xây dựng Đề án cải cách tiền lương thuộc quân đội và công an. - Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư xây dựng Đề án tạo nguồn cho cải cách tiền lương và trợ cấp xã hội. - Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Những đề án trên là cơ sở để Chính phủ ban hành nghị định số 204/2004/NĐ.CP ngày14 tháng 12 năm 2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Trong khoảng thời gian này, ngoài các đề án do các cơ quan nhà nước nghiên cứu, còn có một số công trình đã công bố sau đây:
  4. . Trần Hoàng Hà: Lý luận của Các Mác về tiền công và ý nghĩa của nó đối với việc cải cách tiền lương ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. . Bùi Thị Xuyến: Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của Các Mác vào thực tiễn KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. . Trần Thu Hương (2004): Tiền lương tối thiểu: Thực trạng và giải pháp, Lao động và xã hội số 247, tr.29- 31. . Trần Thu Hương: Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập đối với người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Luận án tiến kinh tế và tổ chức lao động, Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Làm rõ một số luận điểm cơ bản về tiền lương trong nền kinh tế thị trường và đặc điểm giá trị sức lao động của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một số khuyến nghị về tiền lương cho đội ngũ giảng viên. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích các luận điểm cơ bản về tiền công để làm rõ các bộ phận cấu thành giá trị sức lao động và phân tích đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta để xác định tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học hiện nay. - Phân tích thực trạng tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua, chỉ rõ những thành công, những mặt hạn chế của chính sách tiền lương đối với đội ngũ giảng viên đại học.
  5. - Đề xuất một số khuyến nghị tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, để họ chuyên tâm vào việc học tập, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Đề tài được thực hiện dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, cho nên đối tượng nghiên cứu là các quan hệ kinh tế khách quan qui định tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học. * Giới hạn phạm vi nghiên cứu: + Về nội dung: Đội ngũ giảng viên đại học bao gồm: giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp. Phân tích thực trạng, luận văn giới hạn ở việc tìm hiểu tiền lương của đội ngũ giảng viên ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. + Về thời gian: nghiên cứu tiền lương đội ngũ giảng viên đại học từ 1993 đến nay và đề xuất giải pháp đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề lao động, tiền lương và thu nhập áp dụng cho công chức, viên chức nhà nước. Ngoài ra, luận văn còn dựa vào kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề tiền lương để làm cơ sở cho việc nghiên cứu. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đi từ nguyên lý lý luận về tiền lương để phân tích thực tiễn tiền lương của đội ngũ giảng viên Đại học, qua đó đề xuất những kiến nghị. Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: kết hợp lý luận với thực tiễn, lôgic và lịch sử, phương pháp thống kê, điều tra khảo sát, phân tích đánh giá để rút ra các kết luận cần thiết. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn làm rõ một số quan điểm lý luận về tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các bộ phận cấu thành tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay.
  6. - Luận văn làm rõ thực trạng tiền lương của giảng viên đại học từ năm 1993 đến nay và đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền l ương đối với đội ngũ giảng viên Đại học trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5 tiết.
  7. Chương 1 Một số luận điểm cơ bản về tiền lương và những đặc điểm tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học 1.1. Một số luận điểm cơ bản về tiền lương và đặc điểm của tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 1.1.1. Một số quan điểm lý luận về tiền lương Tiền lương là phạm trù kinh tế, xuất hiện khi sức lao động của một bộ phận dân cư được một bộ phận dân cư khác trong xã hội sử dụng trên nguyên tắc tự nguyện. Đó là mối quan hệ giữa người sử dụng sức lao động (người chủ) sẵn sàng chi trả tiền và người có sức lao động tự nguyện cung cấp dịch vụ lao động(người lao động) để nhận một số tiền nhất định. Nghiên cứu về bản chất của “Tiền lương”, trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan tâm lý giải các mối quan hệ cung - cầu về lao động và tìm kiếm các căn cứ để xác định tiền lương, giải thích sự khác nhau về tiền lương giữa các loại lao động. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, dựa trên các quy luật phát triển khách quan và biểu hiện lợi ích của mỗi tầng lớp giai cấp nhất định mà các nhà kinh tế có các quan điểm khác nhau về vấn đề này. 1.1.1.1 Quan điểm về tiền lương của các nhà kinh tế trước C.Mác - Quan điểm cơ bản của Adam Smith về tiền lương: Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc”, A.Smith cho rằng, trong điều kiện chưa có tư hữu đất đai và tích luỹ tư bản, người lao động làm việc bằng chính những tư liệu sản xuất và ruộng đất của mình thì lẽ dĩ nhiên là người lao động đó phải nhận được sản phẩm toàn vẹn của lao động của họ.Còn trong điều kiện của xã hội tư bản khi mà tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số nhà tư bản, người lao động đã trở thành người làm thuê cho chủ tư bản, thì ở đây người lao động chỉ nhận được một số tiền từ phía chủ sau khi làm việc cho chủ trong một thời gian nhất định. Số tiền này được gọi là tiền lương. Như vậy, tiền lương của người lao động không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ mà chỉ là một bộ phận giá trị đó.A.Smith cho lượng tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết
  8. để nuôi sống người công nhân làm thuê và nuôi dưỡng giáo dục con cái họ để tiếp tục sau đó lại thay thế họ trên thị trường lao động. Mức tiền lương hợp lý phải đạt từ mức độ tối thiểu (giới hạn) trở lên. Ông cho rằng, tiền lương không được hạ thấp quá giới hạn đó, nếu thấp quá giới hạn này sẽ là thảm hoạ cho sự tồn tại của các dân tộc. A.Smith đã phân biệt sự khác nhau giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp: “Sức lao động bỏ ra trong 1 giờ lao động khó nhọc, có thể nhiều hơn sức lao động trong 2 giờ làm việc nhẹ nhàng, hoặc làm 1 giờ trong một nghề mà phải mất 10 năm học tập thì phải tốn hơn làm 1 tháng trong một nghề bình thường” [33, tr.87]. Khi tính giá trị của lao động (thực ra là giá trị của sức lao động), theo A.Smith cần phải chú ý tới đặc điểm của các loại lao động: nếu một loại lao động căng thẳng, nặng nhọc hơn loại lao động khác tất nhiên phải tính đến sự căng thẳng, nặng nhọc này [33, tr.107]. Đặc biệt, A.Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công, sự khác nhau về tiền công đối với các công việc khác nhau. Theo ông, tiền công lao động biến động tuỳ theo sự dễ dàng và rẻ tiền hoặc sự khó khăn và đắt tiền khi học việc. Ông cho rằng một người được đào tạo với khá nhiều phí tổn để nắm vững được chuyên môn nghề nghiệp và kỹ năng, kỹ xảo cần nhận được tiền lương cao hơn tiền lương của lao động bình thường để bù đắp lại những phí tổn học tập [33, tr.181]. Sự khác nhau về tiền lương của các công việc khác nhau còn tuỳ theo mức độ tin cậy nhiều hay ít vào người thợ. Theo A.Smith thì khi ta giao tính mạng cho một bác sĩ, giao tài sản và đôi khi cuộc sống của chúng ta cho một luật sư; sự tin cậy ấy không thể giao cho một ai khác,vì vậy tiền thù lao phải xứng đáng với vị trí quan trọng trong xã hội mà sự tin cậy ấy tạo ra và cũng là để trả cho thời gian, công sức, của cải vào việc học tập để có niềm tin cậy đó, giá trị lao động của họ phải được nâng cao [33, tr.186]. Ngoài ra, sự khác nhau về tiền công của các công việc khác nhau còn tuỳ theo khả năng thành đạt trong các công việc ấy. A.Smith cho rằng: nếu đi học nghề đóng giầy thì chắc chắn sẽ làm được một đôi giầy nhưng nếu đi học luật thì trong 20 người mới có 1 người sẽ trở thành tài giỏi để có thể kiếm sống bằng nghề đó. Một nghề mà trong 20 người chỉ có 1 người thành công, thì người thành công đó phải giành được tất cả những gì mà đáng lẽ 20 người kia cũng phải đạt được [33, tr.187].
  9. Như vậy, với việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương, sự khác nhau về tiền lương của các công việc khác nhau cho thấy quan điểm tiến bộ của A.Smith về tiền lương. Đây cũng là cơ sở lý luận để nghiên cứu tiền lương của đội ngũ giảng viên Đại học ở nước ta hiện nay, khi tính giá trị sức lao động cho các giảng viên đại học cần chú ý tới công lao và tiền của mà họ phải bỏ ra để có chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo mới có thể làm được giảng viên đứng trên bục giảng; tiền lương trả cho uy tín của người thầy giáo; tiền lương trả cho sự thành đạt của công việc mà một giảng viên Đại học có được… Tuy nhiên, quan điểm về tiền lương của A.Smith cũng có những hạn chế: ông thiếu quan điểm lịch sử cụ thể về tiền lương; do chưa phân biệt được lao động với sức lao động nên ông tin rằng tiền lương là tiền trả cho lao dộng. - Quan điểm cơ bản về tiền lương của David Ricardo: D.Ricardo coi tiền lương là giá cả của lao động và ông phân biệt hai loại “giá cả tự nhiên” và “giá cả thị trường” của lao động.Theo Ricardo “giá cả tự nhiên” của lao động bằng giá cả của tất cả các vật dụng hàng hoá dùng để duy trì cuộc sống của người công nhân và gia đình anh ta. Giá cả này tăng khi giá cả lương thực và giá cả tư liệu sinh hoạt khác tăng. Còn “giá cả thị trường’’của lao động là do giá cả tự nhiên của lao động quyết định và phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của lao động, lao động đắt khi nó ít và ngược lại. Ricardo cho rằng sự vận động lên xuống của tiền lương là do hai nguyên nhân: 1. Giá cả tự nhiên của lao động thay đổi; 2.Quan hệ cung cầu về lao động thay đổi. Theo ông, tiền lương của công nhân lúc nào cũng chỉ nên ở mức thấp vừa đủ sống, vì tiền lương cao người công nhân sẽ có khuynh hướng sinh đẻ nhiều và nếu đời sống sung túc thì tỉ lệ chết cũng giảm xuống tới mức tối thiểu. Do đó số công nhân cần làm việc sẽ gia tăng trong khi sức cầu về lao động tương đối không thay đổi và điều này sẽ làm cho tiền lương trở lại mức tối thiểu. Như vậy, cả A.Smith và D.Ricardo đều cho rằng tiền lương là giá cả của lao động. Vì cả hai ông chưa phân biệt được lao động và sức lao động. 1.1.1.2. Những luận điểm cơ bản của C.Mác về tiền công trong nền kinh tế thị trường tư bản Từ những năm 40 của thế kỷ XIX C.Mác đã đi đến kết luận là các phạm trù kinh tế, phản ánh đặc tính của phương thức sản xuất cần phải được phân tích như các phạm trù lịch
  10. sử. Chính vì lẽ đó mà C.Mác đã nghiên cứu xem phạm trù tiền công của công nhân với tư cách là nguồn thu nhập chủ yếu trong những điều kiện đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu tiền công trong CNTB, C.Mác chưa nghiên cứu tiền công(tiền lương) của công chức,viên chức làm việc trong các tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản vì tiền lương - thu nhập của đội ngũ này là do kết quả của phân phối lại mà có. C.Mác chỉ tập trung nghiên cứu tiền công(tiền lương) của công nhân làm thuê cho các nhà tư bản trong các ngành sản xuất vật chất (và một số ngành dịch vụ như thương nghiệp, ngân hàng...) để làm rõ quan hệ đặc trưng bản chất nhất của quan hệ sản xuất TBCN là quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, nhằm chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của gi á trị thặng dư, nguồn gốc đem lại sự giàu có của các nhà tư bản trong xã hội tư bản. Mặc dù C.Mác không nghiên cứu đầy đủ tiền lương của khu vực dịch vụ, song những luận điểm cơ bản của C.Mác về tiền công đã cho ta những cơ sở lý luận và phương pháp luận để tìm hiểu tiền lương của khu vực này. Dưới đây xin tóm lược những luận điểm cơ bản của C.Mác về tiền công (tiền lương). Một là, bản chất của tiền lương. Về mặt biểu hiện bên ngoài, tiền công của người công nhân là số tiền mà nhà tư bản trả cho người công nhân sau một thời gian lao động nhất định, hay sau khi hoàn tất một công việc nhất định. Do đó, người ta đã lầm tưởng tiền công là tiền trả cho người lao động khi làm xong công việc, số tiền đó ngang bằng với số lượng lao động mà người lao động đã bỏ ra, hay nói cách khác tiền công là giá cả của lao động. Để làm rõ bản chất của tiền công, C.Mác đã chứng minh thực tế, cái mà nhà tư bản mua là mua sức lao động - khả năng lao động của công nhân. Sức lao động là đối tượng mua bán giữa nhà tư bản với công nhân làm thuê. Sức lao động của công nhân cũng là hàng hoá như tất cả các hàng hoá khác. Sức lao động được trao đổi với các hàng hoá khác theo một tỷ lệ nhất định. Tiền công chỉ là một cái tên riêng của giá cả sức lao động. Nhưng C.Mác đã nhấn mạnh, trong tiền công vẫn còn ẩn chứa những quan hệ khác. Những quan hệ này chỉ được nhận thức sau khi phân tích nội dung bản chất của lao động dưới chủ nghĩa tư bản. Theo C.Mác, trong xã hội tư bản, lao động với tư cách là hoạt động của lao động sống, là sự biểu hiện cuộc sống riêng của người công nhân lại không thuộc về người công
  11. nhân. Đói với công nhân tiền công là mục đích, là sự thể hiện một lượng nhất định các phương tiện sống. Nhưng để có được các phương tiện sống, người công nhân buộc phải bán cái khả năng hoạt động sống của mình tức là sức lao động. Sức lao động trở thành hàng hoá khi trong xã hội có hai điều kiện cơ bản sau: Thứ nhất, người lao động phải được tự do. C.Mác viết: "Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể đem bán được nó với tư cách là hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình’’ [30, tr.251]. Như vậy, điều kiện đầu tiên để sức lao động trở thành hàng hoá là người chủ sở hữu sức lao động phải được tự do chi phối khả năng lao động của mình. Với tư cách là người sở hữu sức lao động được tự do, anh ta có quyền bán hoặc không bán sức lao động của mình, có quyền thỏa thuận giá cả với người mua, có quyền lựa chọn công việc mà mình thích, thời gian cũng như điều kiện lao động khi ở trên thị trường. Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất của mình để kết hợp với sức lao động của bản thân ở mọi lúc mọi nơi. Điều kiện căn bản thứ hai, cần thiết để người chủ tiền có thể tìm được sức lao động với tư cách là một hàng hoá trên thị trường, là người chủ sức lao động phải không còn khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán với tư cách là hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của anh ta thôi [30, tr.252- 253]. Nghiên cứu quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản, C.Mác chỉ rõ, trên thị trường mua bán sức lao động đó là quan hệ bình đẳng thuận mua vừa bán giữa người chủ có tiền với người chủ sức lao động. Nhưng khi đã thực hiện xong giao dịch mua bán sức lao động thì quyền sử dụng sức lao động là thuộc về nhà tư bản. Quan hệ bình đẳng trên thị trường bây giờ đã biến thành quan hệ lệ thuộc: người lao động tiến hành quá trình lao động dưới sự chỉ huy, điều khiển của nhà tư bản để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Thực chất của tư bản là ở chỗ nhà tư bản ứng ra một lượng giá trị nhất định để mua sức lao đông- khả năng lao động, nhưng khi bắt tay vào lao động thì lao động sống của
  12. người công nhân không những bảo tồn lao động tích luỹ- lao động quá khứ cho nhà tư bản mà còn làm tăng thêm giá trị của nó bằng cách người công nhân làm thuê nhường lại cho nhà tư bản "sức sáng tạo",‘‘sức tái sản xuất’’của mình. C.Mác đặc biệt chú trọng đến những khả năng của sức lao động trong quá trình sản xuất tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho tái sản xuất của người công nhân. Tư bản phải có lao động làm thuê, còn lao động làm thuê thì còn tư bản. Tư bản và lao động làm thuê quy định lẫn nhau. Tư bản trao đổi không phải trực tiếp lấy lao động, mà lấy thời gian lao động chứa đựng trong sức lao động. Hành vi mua - bán sức lao động là ngang giá và hành vi sử dụng sức lao động là không ngang giá. Nhà tư bản thu được giá trị thặng dư nhờ thuộc tính đặc biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là tạo ra và làm tăng giá trị. C.Mác đã chỉ ra số tiền mà người công nhân được nhận chỉ là một phần sản phẩm trong giá trị mới do công nhân sáng tạo ra, được coi là số tiền trả công nhất định đại biểu cho cái phần lao động ‘‘ cần thiết’’để duy trì và tái sản xuất sức lao động. Tiền trả công đó chính là tiền lương. Nó không phải là giá cả của lao động mà là giá trị của sức lao động. Hai là, mặt số lượng của tiền lương. Sau khi làm rõ chất của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là giá cả của hàng hoá sức lao đông, C.Mác chuyển sang nghiên cứu tính quy định về lượng của tiền công. Giá trị của sức lao động cũng như các hàng hoá khác, được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất, và do đó để tái sản xuất sức lao động.Tái sản xuất sức lao động là duy trì cuộc sống của người lao động. Muốn vậy, cần có một số tư liệu sinh hoạt nhất định, nên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động được quy thành thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói cách khác, giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy. Ông cho rằng: ‘"giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy’’ [30, tr.256]. Giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết đó không phải để duy trì cuộc sống của mỗi người công nhân nói chung mà để duy trì cuộc sống của mỗi người công nhân có sức lao động bỏ ra khác nhau. Do đó số lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết đó cũng khác nhau phụ thuộc vào giá trị sức lao động của từng người lao động bỏ ra ‘‘Hao
  13. phí càng nhiều thì việc bù đắp lại càng lớn" [30, tr.256]. C.Mác cũng chứng minh rằng đại lượng giá trị sức lao động phụ thuộc cả những yếu tố như: ‘‘năng suất lao động, lượng độ dài của thời gian lao động và cường độ lao động’’. Giá trị sức lao động bao gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần, lịch sử. Vì vậy, để xác định tiền lương cần xác định các yếu tố sau: * Giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động. Sức lao động chỉ được thực hiện bằng cách biểu hiện ra bên ngoài, tức trong lao động. Trong quá trình lao động, người lao động phải hao phí sức lực thần kinh, bắp thịt của mình. Do đó, ‘‘cần có lượng tư liệu sinh hoạt đủ để duy trì con người lao động với tư cách là như vậy ở trong một trạng thái sinh hoạt bình thường"[30, tr.256]. Đó là những tư liệu sinh hoạt thiết yếu, đáp ứng nhu cầu tồn tại cho người lao động như: ăn, ở, mặc, đi lại, đồ dùng cá nhân, bảo vệ sức khoẻ, vui chơi giải trí, giao tiếp xã hội... Nhưng sức lao động phải tồn tại trước khi đem bán, tức trước khi lao động. Vì vậy, việc tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt cũng diễn ra trước khi lao động, và giá trị các tư liệu sinh hoạt này đã chuyển vào giá trị sức lao động rồi. Tiền công được trả sau khi lao động đòi hỏi phải bao gồm chi phí cho các tư liệu sinh hoạt đã tiêu dùng từ trước. Thực tế, trong quá trình lao động người công nhân có những khoảng thời gian nghỉ ngơi để hồi phục lại sức lực thần kinh, bắp thịt của mình và tiêu dùng tư liệu sinh hoạt để duy trì sức lao động. Sau khi lao động, người công nhân vẫn phải tiếp tục tiêu dùng tư liệu sinh hoạt. Như vậy, việc tiêu dùng cá nhân của người lao động luôn diễn ra trước, trong và sau khi lao động, ngay cả khi không lao động trong thời gian dài, người công nhân vẫn phải tiêu dùng tư liệu sinh hoạt để tồn tại và duy trì sức lao động. Vấn đề đặt ra là có tính hết tất cả giá trị những tư liệu sinh hoạt ấy vào giá trị sức lao động hay không. Theo C.Mác, sức lao động chỉ đại biểu cho một lượng lao động xã hội trung bình nhất định đã vật hoá, và nó đã giả định sự tồn tại của con người có sức lao động đó rồi. Việc sản xuất ra sức lao động đó chỉ bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó mà thôi. Như vậy, chỉ những giá trị tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người công nhân trong quá trình lao động và việc phục hồi sức lao động đó sau quá trình lao động là được tính vào cấu thành giá trị sức lao động. Nếu hôm nay, người lao động đã hao phí sức lao động trong 8 giờ, thì trong quá trình lao động và cuối ngày lao động, người công nhân phải
  14. được nhận lại phần tư liệu sinh hoạt đủ để bù đắp sức lao động ít nhất là đủ phục vụ cho 8 giờ sản xuất của ngày hôm sau. * Giá trị những tư liệu sinh hoạt cho những người sẽ thay thế. "Giá trị sức lao động được quyết định không những bởi số thời gian lao động cần thiết để nuôi sống cá nhân người công nhân lớn tuổi, mà còn được quyết định bởi số thời gian cần thiết để nuôi sống gia đình anh ta nữa" [30, tr.257]. Người sở hữu sức lao động có thể chết đi bởi anh ta chỉ là một thực thể sinh vật cũng có quá trình sinh ra, lớn lên và chết đi. Nhưng xã hội luôn cần có sức lao động để tồn tại và phát triển, sản xuất sản phẩm hàng hoá luôn cần có sức lao động để đáp ứng quá trình sản xuất, quá trình tạo ra sản phẩm thặng dư cho xã hội cũng như việc chuyển hoá không ngừng của tiền thành t ư bản, nên người bán sức lao động luôn phải tồn tại "làm cho mình sống vĩnh cửu " và không ngừng xuất hiện trên thị trường. Mác viết "Người sở hữu sức lao động có thể chết đi. Do đó muốn người ấy không ngừng xuất hiện trên thị trường như việc chuyển hoá không ngừng của tiền thành tư bản đòi hỏi, thì người bán sức lao động phải làm cho mình sống vĩnh cửu "giống như mỗi một cá nhân đang sống đều làm cho mình trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh con đẻ cái " [30, tr.257]. Bằng cách sinh con đẻ cái và nuôi dưỡng nó, người công nhân đã tạo ra sức lao động thay thế sức lao động của họ sau này. Nhu cầu sinh đẻ, nuôi dạy con cái là nhu cầu tự nhiên của con người. Nhu cầu này không chỉ để duy trì giống nòi như một số sinh vật khác mà còn là nhu cầu tái tạo sức lao động mới cho xã hội, thay thế những sức lao động sẽ bị mất đi.Vì vậy, trong giá trị sức lao động phải bao hàm cả giá trị những tư liệu sinh hoạt cho con cái của họ: "Tổng số những tư liệu cần thiết cho việc sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó, tức là cho con cái của những lao động, khiến cho cái giống những người chủ hàng hoá đặc biệt đó được duy trì vĩnh cửu ở trên thị trường hàng hoá" [30, tr.257]. * Chi phí đào tạo người lao động. Người lao động nào muốn "trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù" [30, tr.257] thì người đó phải có kiến thức, trình độ học vấn và những thói quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định. Điều này chỉ có được khi người lao động phải trải qua một chương trình đào tạo nhất định với một chi phí cần thiết nào đó mà sức lao động bình
  15. thường không cần đến. Mác viết: "Muốn cải tạo bản tính chung của con người để làm cho nó có được kiến thức và những thói quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định, nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao động đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó" [30, tr.257]. Sản xuất ngày càng phát triển càng đòi hỏi người công nhân có một trình độ nhất định về nghề nghiệp cũng như hiểu biết xã hội để đáp ứng yêu cầu lao động của ngành. Người công nhân phải được đào tạo từ những kiến thức phổ thông cho tới đào tạo nghề. Tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động mà sức lao phải được đào tạo để đáp ứng. Trong cuộc cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau, ai có công nghệ tốt hơn, hạ được giá trị cá biệt của sản phẩm dưới mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch và sẽ chiến thắng. Do vậy, nhà tư bản phải đầu tư máy móc hiện đại cho năng suất cao và luôn tìm trên thị trường những sức lao động có trình độ phù hợp với yêu cầu sản xuất của mình chứ không phải mua sức lao động nào cũng được. Nếu không tìm thấy được sức lao động phù hợp, anh ta có thể tạm thời nhận những công nhân có trình độ gần tương đương thì phải có chi phí đào tạo để họ thích ứng với công việc. Phần chi phí đó cũng được tính vào giá trị sức lao động. Chúng ta có thể hiểu chi phí đào tạo ở đây bao gồm cả chi phí học tập phổ thông, chi phí đào tạo nghề(được đào tạo hoặc tự đào tạo), những kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lao động của người công nhân đã tích luỹ,"sự tái sản xuất ra giai cấp công nhân cũng còn bao hàm cả sự lưu truyền và tích luỹ tài khéo léo từ thế hệ này sang thế hệ khác" [30, tr.810]. Những chi phí học tập, đào tạo và tái đào tạo này phải gia nhập vào tổng số những chi phí để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Cho nên tiền công trả cho lao động phức tạp phải cao hơn lao động giản đơn, vì lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Đó là những chi phí làm tăng giá trị sức lao động, giúp cho người lao động có ưu thế trên thị trường lao động. Giá trị sức lao động gồm cả ba bộ phận chi phí trên, nhưng bản thân chi phí đó có thể thay đổi. Ta thấy, giá trị sức lao động là do giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết của một người lao động trung bình quyết định. Khối lượng những tư liệu sinh hoạt ấy là khôn g thay đổi đối với mỗi thời kỳ nhất định của một xã hội nhất định (hình thức của tư liệu sinh hoạt có thể thay đổi). Nhưng giá trị của những tư liệu sinh hoạt ấy có thể thay đổi do thói
  16. quen, nhu cầu tự nhiên của người lao động sản xuất ra tư liệu sinh hoạt đó, do đặc điểm tự nhiên, khí hậu, môi trường của nơi sử dụng tư liệu sinh hoạt và do trình độ lực lượng sản xuất của mỗi nước, nên"việc quy định giá trị của sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và tinh thần" [30, tr.257]. Sức lao động là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần (giải trí, sách báo, đào tạo...) nhất là với những người lao động trí óc, sự căng thẳng thần kinh sau một quá trình làm việc là rất lớn thì rất cần có thời gian nghỉ ngơi, giải trí để có thể tái sản xuất sức lao động cho quá trình sản xuất tiếp theo. Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu về lao động phức tạp ngày càng tăng, và mức độ sử dụng năng lực trí óc của người lao động cũng tăng lên, sự căng thẳng về tinh thần cũng ngày càng tăng với sức ép rất lớn từ công việc. Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng đến giá trị sức lao động, dẫn đến sự khác biệt của giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế. Những nhu cầu về tinh thần của người lao động phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân. Những bộ phận cấu thành giá trị sức lao động trên đây là cơ sở để xác định mức tiền công cho từng loại lao động, cho nên giới hạn thấp nhất của tiền công lao động là phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người lao động: Giá trị của cái khối lượng hàng hoá mà hàng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, tức là con người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là tạo thành giá trị của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý. Nếu như giá cả của sức lao động rơi xuống dưới mức tối thiểu ấy, thì nó sẽ rơi xuống thấp hơn giá trị của nó, và khi đó nó chỉ được duy trì và phát triển dưới trạng thái lay lắt mà thôi [30, tr.259]. Việc hạ thấp tiền công dưới giá trị sức lao động có thể gây ra ảnh hưởng không tốt tới việc duy trì giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Tiền công- giá cả sức lao động phải căn cứ vào giá trị sức lao động. Trên thị trường giá cả sức lao động còn phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu về giá trị sử dụng sức lao động. Khi cung nhỏ hơn cầu (thường đối với lao động lành nghề) thì giá cả sức lao động cao hơn
  17. giá trị của nó. Ngược lại khi cung lớn hơn cầu (thương đối với lao động giản đơn) thì giá cả của sức lao động thấp hơn giá trị của nó. Trong trường hợp này người mua thường tìm cách hạ thấp tiền công. Vì vậy, ở nhiều nước Nhà nước phải can thiệp bằng cách ban hành đạo luật về tiền công tối thiểu. C.Mác cho rằng: mức tiền công tối thiểu bao gồm các phương tiện sinh sống đáp ứng được những nhu cầu xã hội của người công nhân làm thuê.Tiền công tối thiểu không hạn chế ở giá trị những phương tiện sinh sống cần thiết chỉ để thoả mãn các nhu cầu thuần tuý thân xác mà bao gồm cả giá trị các tư liệu sinh hoạt để người lao động đáp ứng các nhu cầu xã hội. Tiền công tối thiểu được coi như tiền công đảm bảo tái sản xuất ra người công nhân, tái sản xuất ra sức lao động của anh ta ở mức tối thiểu và cần thiết cho nhà tư bản. Nói cách khác, tiền công tối thiểu là tiền công đảm bảo tái sản xuất giản đơn sức lao động. Từ quan điểm tiền công tối thiểu của C.Mác, có thể rút ra một số kết luận: + Tiền công tối thiểu tuỳ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. + Tiền công tối thiểu chung trong nền kinh tế là tiền công đảm bảo tái sản xuất giản đơn cho những sức lao động giản đơn. + Tuỳ thuộc vào đặc điểm và tính chất lao động trong các ngành nghề mà xác định tiền công tối tiểu theo ngành. + Tăng tiền công lên trên mức tối thiểu là để tái sản xuất mở rộng sức lao động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Ngoài các nhân tố ảnh hưởng như trên, hàng hoá sức lao động khi đem bán còn phụ thuộc vào giá trị (hay sức mua của đồng tiền). Hàng hoá sức lao động khi mua bán trên thị trường giả định theo đúng giá trị được thể hiện bằng một số tiền nhất định. Đó là số tiền mà người mua chấp nhận trả cho người bán sức lao động và được ghi trong hợp đồng lao động. Tiền công tính thành tiền được C.Mác gọi đó là tiền công danh nghĩa. Khối lượng tư liệu sinh hoạt mua được bằng tiền công đó gọi là tiền công thực tế. "Sự chênh lệch giữa giá trị trao đổi của sức lao động và khối lượng tư liệu sinh hoạt mà giá trị đó chuyển thành, bây giờ cũng thể hiện thành sự chênh lệch giữa tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế " [30, tr.766]. Xảy ra sự chệnh lệch giữa tiền công danh nghĩa và tiền côn g thực tế là do sức mua của đồng tiền (hay giá trị của đồng tiền) thay đổi.Với một lượng tiền công danh nghĩa được
  18. trả như nhau, nhưng tiền lương thực tế của những công nhân có thể khác nhau do ở nơi này mua được nhiều khối lượng tư liệu sinh hoạt hơn ở nơi khác, hoặc ở thời điểm này mua được nhiều hơn ở thời điểm khác. Từ vấn đề nêu ra ở trên ta thấy: khi giá trị của tiền không đổi thì tiền công thực tế (giá trị sức lao động) sẽ phụ thuộc vào giá trị các tư liệu sinh hoạt và vận động ngược chiều với giá cả các tư liệu sinh hoạt. Theo nguyên lý, giá cả thị tr ường của hàng hoá tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của nó và tỷ lệ nghịch với giá trị hay sức mua của đồng tiền. Khi tiền mất giá thì giá cả hàng hoá (bao gồm các tư liệu sinh hoạt) sẽ tăng lên. Nếu tiền công danh nghĩa không được nâng lên tương ứng với mức mất giá của tiền thì tiền công thực tế sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị sức lao động. Bởi vậy, khi có lạm phát mà tiền công danh nghĩa bị "đóng băng" hoặc được nâng lên không tương ứng với mức lạm phát thì mức sống của người lao động hưởng lương sẽ bị giảm. Việc nghiên cứu, phân biệt tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách tiền lương nói chung và xác định mức tiền lương tối thiểu cho từng giai đoạn tương ứng với những biến động của giá cả thị trường đảm bảo cuộc sống thực tế của người lao động hưởng lương. Ba là, hình thức tiền lương. Trong lý luận về tiền công, C. Mác còn chỉ ra hai hình thức cơ bản của tiền công là: tiền công theo thời gian và tiền công theo sản phẩm. Tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền gía trị hàng ngày, hàng tuần... của sức lao động. Quy luật chung của tiền công theo thời gian là: Nếu một số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần,…đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với những sự chênh lệch của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả lao động đã cho sẵn, thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần [30, tr.769]. Khi tiền công ngày hay tuần tăng thì giá cả sức lao động có thể không thay đổi về danh nghĩa, tuy vậy, nó vẫn có thể tụt xuống dưới mức bình thường của nó. Điều này xảy ra khi giá cả của giờ lao động không thay đổi, nhưng ngày lao động bị kéo dài quá mức bình thường của nó.Giá cả sức lao động thấp trong khoảng thời gian gọi là bình thường đã
  19. bắt buộc người công nhân, nếu muốn kiếm được một số tiền công nói chung tương đối đầy đủ, thì phải làm thêm ngoài giờ để được trả công cao hơn. Sự hạn chế ngày lao động bằng pháp luật đã giúp bảo vệ bảo vệ quyền lợi người lao động. Tiền công tính theo thời gian có quan hệ chặt chẽ với hình thức tiền công tính theo sản phẩm. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của hình thức tiền công tính theo thời gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao động không phải do phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao động với một số giờ nhất định quyết định mà là do năng lực công tác của người sản xuất quyết định" [30, tr.777]. Trên thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một quan hệ giá trị nào cả; trong hình thức này, người ta không đo giá trị của một đơn vị hàng hoá bằng thời gian lao động nhập vào hàng hoá đó, mà trái lại, lao động do người công nhân tiêu phí lại được đo bằng số lượng hàng hoá do anh ta đã sản xuất ra. "Trong tiền công tính theo thời gian, lao động được trực tiếp đo bằng thời gian dài ngắn của nó; còn trong tiền công tính theo sản phẩm thì lao động được đo theo số lượng sản phẩm trong đó lao động đã ngưng đọng lại trong một khoảng thời gian nhất định" [30, tr.780]. Tiền công tính theo sản phẩm là thước đo hoàn toàn chính xác để đo cường độ lao động và năng suất lao động.Về cường độ lao động, tiền công tính theo sản phẩm kích thích người công nhân nâng cao mức bình thường của cường độ lao động, vì người công nhân muốn có nhiều tiền công phải có nhiều sản phẩm. Về năng suất lao động, nếu năng suất lao động tăng lên và các điều kiện khác không đổi thì tiền công tính theo sản phẩm sẽ giảm; nói khác đi "tiền công tính theo sản phẩm giảm xuống theo cùng tỷ lệ với tỷ lệ tăng lên của số sản phẩm đã sản xuất ra trong cùng một thời gian" [30, tr.787]. Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa các công nhân với nhau do có sự khác biệt về tài khéo léo, sức lực, nghị lực, sức dẻo dai; qua đó góp phần phát triển cá tính, tinh thần tự do, tính độc lập và khả năng tự kiểm tra của người công nhân; thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công nhân với nhau. Điều này giúp cho việc quản lý lao động trở nên có hiệu quả hơn. Tiền công là giá cả sức lao động cho nên dù tiền công trả theo thời gian (biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động kết tinh theo thời gian) hay tiền công tính theo sản phẩm
  20. (biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động kết tinh trong từng sản phẩm) thì người lao động cũng chỉ nhận được sự trả công cho lao động cần thiết, còn phần lao động thặng dư thì bị người mua chiếm đoạt. Việc nghiên cứu các hình thức tiền công của C.Mác đặt ra vấn đề: tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học nên tính theo thời gian hay theo sản phẩm ? Nếu tính tiền công theo sản phẩm thì sản phẩm của đội ngũ giảng viên là những sản phẩm vô hình cho nên rất khó đánh giá đúng số lượng và chất lượng các loại sản phẩm thể hiện ở số lượng, chất lượng giờ giảng; số lượng và chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học; tác dụng của những sản phẩm đó đến người học như thế nào ? Nếu tính tiền công theo thời gian thì thời gian lao động của giảng viên là bao nhiêu cho giảng dạy trên lớp, chuẩn bị giáo án, làm thí nghiệm, tìm hiểu thực tế, nghiên cứu khoa học rất khó có thể tính đúng, tính đủ được giá trị sức lao động cho đội ngũ này khi thực hiện các nhiệm vụ trên. Tóm lại, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động lại được quy thành thời gian lao động cần thiết sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.Giá trị các tư liệu sinh hoạt ấy phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và xã hội, trình độ văn minh của mỗi nước, theo những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt của người lao động tự do.Tuy vậy, tiền công phải đảm bảo đầy đủ, ít nhất là ngang bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động. Các tư liệu sinh hoạt cần thiết đó có thể được tiêu dùng đi trong ngày như thức ăn, chất đốt, cũng có thể là những tư liệu sinh hoạt trong một khoảng thời gian dài hơn. Một số hàng hoá được mua hay trả tiền hàng ngày, một số khác thì hàng tuần, hàng quý... Nhưng dù cho tổng số chi phí ấy có phân bổ như thế nào trong thời gian một năm chẳng hạn, thì tổng số đó cũng phải được thanh toán bằng những thu nhập trung bình, thu được từ ngày này sang ngày khác [30, tr.258]. 1.1.2. Đặc điểm của tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, quan điểm về tiền lương ở nước ta đã từng bước được giải quyết theo kinh tế thị trường. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa sức lao động và việc làm, từ đó đã có nhận định quan trọng là:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0