BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
LUẬN VĂN TIẾN SỸ
UĐỀ TÀIU:
ÑOÀNG AÂM VAØ ÑA NGHÓA TRONG TIEÂNG VIEÄT
(ÑOÁI CHIEÁU VÔÙI TIEÁNG HAÙN HIEÄN ÑAÏI)
Mã số: 62.22.01.01
GVHD SVTH
: PGS. HỒ LÊ, TS. TRẦN HOÀNG : ĐÀO MẠNH TOÀN
TP. HỒ CHÍ MINH - 2011
MỤC LỤC
0TMỤC LỤC0T ....................................................................................................................................... 2
0T
0TDẪN NHẬP ..................................................................................................................................... 5
0T1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI0T ................................................................... 5
0T2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 0T .............................................................................................................................. 6
0T3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN0T ............................................................................................................ 28
0T4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU0T .............................................................. 28
0T5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN0T............................................................................................. 30
0T6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN0T ................................................................................................................. 31
0TChương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG0T ........................................................................... 33
0T1.1. TỪ VÀ CẤU TRÚC NGHĨA TỪ0T .................................................................................................... 33 0T1.2.HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI CỦA TỪ0T ................................................................................... 37
0T1.3. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM VÀ HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA0T ............................................................................................................................. 38
0T1.4. KHÁI NIỆM ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA0T ..................................... 40
0T1.5. VỀ DANH XƯNG “TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA”0T .................................................................. 44
0T1.6. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA0T . 44
0T1.7. GIỚI HẠN CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA0T .............................................................. 46
0T1.8. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA0T .................................................................................................................................................. 49
0T1.9. VỊ TRÍ CỦA TỪ ĐỒNG ÂM CÙNG GỐC TRONG TỔNG THỂ TỪ ĐỒNG ÂM TIẾNG VIỆT0T ... 54
0T1.10. NHẬN DIỆN CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN0T ................................................................................................................... 55
0TChương 2 : HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI0T ...................................................................................................................................... 58
0T2.1. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT0T ........................................................................ 58
0T2.1.1. Tổng quan về hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt 0T .................................................................. 58
0T2.1.2. Phân loại hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt0T ......................................................................... 58
0T2.1.2.1. Phân loại hiện tượng đồng âm từ tiêu chí nguồn gốc0T ......................................................... 58
0T2.1.2.2. Phân loại HTĐÂ từ tiêu chí SLÂT và từ tiêu chí quan hệ ngữ nghĩa0T ................................. 60
0T2.1.2.3. Phân loại hiện tượng đồng âm từ góc độ các đơn vị ngôn ngữ0T .......................................... 61
0T2.1.2.5. Những hiện tượng đồng âm khác0T ...................................................................................... 76
0T2.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐÂ TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ0T ................................................. 76
0T2.2.1. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo0T .................................................. 77
0T2.2.2. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí hình - âm – nghĩa0T............................................................. 78
0T2.2.2.1. Hiện tượng đồng âm đồng hình trong THHĐ0T .................................................................... 78
0T2.2.2.2. Hiện tượng đồng âm dị hình trong THHĐ0T ......................................................................... 86
0T2.3. TIỂU KẾT0T....................................................................................................................................... 88
0TChương 3 : HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI0T ...................................................................................................................................... 90
0T3.1. HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT0T ........................................................................ 90
0T3.1.1. Tổng quan về hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt 0T .................................................................. 90
0T3.1.2. Phân loại hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt0T ......................................................................... 90
0T3.1.2.1.Hiện tượng đa nghĩa biểu vật0T ............................................................................................. 91
0T3.1.2.2. Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm và việc phân loại đa nghĩa biểu niệm0T ............................... 91
0T3.1.2.3. Hiện tượng đa nghĩa thường gặp0T ....................................................................................... 94
0T3.1.2.4. Hiện tượng đa nghĩa ít gặp0T ................................................................................................ 94
0T3.1.2.5. Hiện tượng từ đa nghĩa0T ..................................................................................................... 96
0T3.1.2.6. Hiện tượng ngữ đa nghĩa0T .................................................................................................. 96
0T3.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐN TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ0T ................................................. 97
0T3.2.1. Các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ0T ............................................................................................. 97
0T3.2.2. Phân loại các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ0T ............................................................................ 102
0T3.2.2.1. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo0T ............................ 103
0T3.2.2.2. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí DLN0T ........................................................ 105
1 P, 0T3.2.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ăn, hoa, hồng, đỏ trong TV với các từ吃P
1 花P
P,红, 赤trong THHĐ0T .................................................................................................................. 106
0T3.2.3.1. Cơ sở đối chiếu0T ............................................................................................................... 106
1 0T3.2.3.2. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ hoaR1 Rtrong TV với từ 花P Ptrong THHĐ0T .... 107
0T3.2.3.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của các từ hồng, đỏ trong TV với các từ 红, 赤trong THHĐ0T ................................................................................................................................................... 112
1 0T3.2.3.4. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ ăn trong TV với từ 吃P
Ptrong THHĐ0T........ 120
0T3.3. TIỂU KẾT0T..................................................................................................................................... 127
0TChương 4 : TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI0T .......................................................................................................................... 128
0T4.1. VỀ CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN0T ............................................. 128
0T4.2. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG TIẾNG VIỆT0T ..................................................... 128
0T4.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐỒNG ÂM KHÁC GỐC NGỮ NGHĨA0T ................................................................................................................................................ 128
0T4.3.1. Về nguồn gốc0T ......................................................................................................................... 128
0T4.3.2. Về dung lượng nghĩa0T .............................................................................................................. 131
0T4.3.3. Về cấu tạo0T .............................................................................................................................. 131
0T4.3.4. Về quan hệ ngữ nghĩa0T ............................................................................................................ 131
0T4.3.4.1. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong loạt đồng âm0T ............................................ 131
0T4.3.4.2. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một đơn vị ĐÂ&ĐN0T ................................. 131
0T4.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐV ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐÂCG0T .......................................... 133
0T4.4.1. Về số lượng0T .......................................................................................................................... 133
0T4.4.2. Về cấu tạo0T .............................................................................................................................. 133
0T4.4.3. Về dung lượng nghĩa0T .............................................................................................................. 136
0T4.5. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN KHÁC GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ 0T ............................................................................................................................................................ 138
0T4.5.1. Về số lượng và nguồn gốc0T ......................................................................................................... 138
0T4.5.2. Về dung lượng nghĩa0T .................................................................................................................. 138
0T4.5.3. Về chữ viết và cấu tạo0T ................................................................................................................ 138
0T4.5.4. Về quan hệ ngữ nghĩa0T ................................................................................................................. 139
0T4.6. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN CÙNG GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ 0T ............................................................................................................................................................ 140
0T4.6.1.Những điểm tương đồng0T ......................................................................................................... 140
0T4.6.2. Những điểm khác biệt 0T ............................................................................................................ 142
0T4.7. TIỂU KẾT0T..................................................................................................................................... 143
0TKẾT LUẬN0T .................................................................................................................................. 144
0T
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................ 150
DẪN NHẬP
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong ngôn ngữ, nó bao gồm:
ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT
phổ biến nhất. Với tư cách là trung tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ
khá sớm. Tuy vậy, cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu. Những công
trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều hướng và mỗi hướng
tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận thì những đặc điểm,
những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau
giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận và mức độ
khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng xác định các tiêu chí nhận diện từ ĐÂ, từ ĐN, đề
xuất các hướng miêu tả, phân loại chúng. Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ.
Tuy nhiên, chưa có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của mình,
đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG) với những từ ĐÂKG nghĩa
(ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ ĐN, sự khác biệt
giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ
ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác
định: đối tượng nghiên cứu chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối
chiếu nó với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm ra những
chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng chọn đề tài: Đồng âm và đa
nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói chung mà sẽ còn tập
trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối
tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng
làm rõ được vị trí, vai trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy được những điểm
giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ
ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới trong một số tự vị
do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa
được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn tự điển tường giải
đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ
XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì: “Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc
âm tự vị đã phân biệt được các đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình
này chúng tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá trình phân li
ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…
Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới HTĐÂ của TV với
việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng
những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t,
có g hay là không có g ở sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai
phần (1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm thu thập những
ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc Ấn Âu không được thu thập và giải
thích trong công trình này. Mặc dù tác giả không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích,
sắp xếp của tác giả, ta vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác
nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn Văn Mai mới chỉ
thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ
trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song
bước đầu cũng đã gợi mở ra một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ
thuần Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn tiết.… Đó là
những đóng góp không thể phủ nhận.
Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam quấc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các
ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán
để phân biệt. Nghĩa của các ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều
có ví dụ minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số La Mã. Sau
cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn, loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải
thích và sắp xếp như sau:
I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc: Rèn một lưỡi a
A.
bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)
Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình này vẫn còn bỏ sót
những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ giữa những ĐV thuần Việt với những
ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…
Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây là một bộ TĐ có
ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích, phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán
Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt,
xử lí các ĐVĐÂ Hán và Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các
ĐVĐÂ có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các ĐVĐÂ đó
cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là DAO được ông phân tách thành
07 mục từ nhỏ như sau:
Dao 摇 Lay động.
Dao 遥 Xa.
Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.
Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.
Dao 徭 Xch. Dao dịch.
Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước tàu… (Hán Việt từ điển,
tr. 197-198)
Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN được tác giả bàn
đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần Lược khảo về từ chương (tr.139).
Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau. Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè –
Nước Việt Nam – Nước cờ là những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm trong Việt Nam văn
phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì trong chương I Những điều khái lược
(tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và
ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái
nghĩa thì khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ có vua
quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng năm là nói khoảng thời
gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ: “những tiếng ĐÂ ấy
nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明,
chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề
thì viết chữ 盟, chữ minh là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ
鸣”.Theo họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc - ngữ
thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu tiếng minh có sáu nghĩa
riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có năm cái dấu giọng
có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm tuy đúng, song khi gặp những tiếng
đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân -
biệt những nghĩa khác nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).
Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm lưu ý. Ở giai đoạn
này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công trình có tính lí luận, những công trình
tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số
học giả nên thành tựu nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN
trong TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái khó của việc
phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi không có chữ Hán chú kèm, (2)
HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3) việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột
giữa các loại văn tự đã và đang được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận
diện các ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách phát âm
vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...
Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học.
Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi các học giả phía Nam vẫn tuân theo
tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả
phía Bắc lại có xu thế nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này
phần lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến bộ hơn Nguyễn
Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược điểm, những bất cập của chữ Quốc
ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh
đối chiếu và chọn mẫu trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu
các tự điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và thống - nhứt
văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những cải tiến, sáng tạo hơn về phương
pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi
một đầu mục từ hay sau mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay
hình vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào ngoặc đơn để
phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê những kết hợp từ có chứa hình vị
được giải thích. Ví dụ:
Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ; ái tình ; bác ái ; bể ái ;
luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3 Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái
ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).
Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong Đồng âm vận tuyển khá
rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ
được đưa ra giải thích còn có phần Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những
hình vị được giải thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được
đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát nhằm mục đích giúp
“Án binh, hương án, án quan
Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).
người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và áng được tác giả phân biệt như sau:
Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm vận tuyển còn thu
thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.
Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công trình này vẫn bộc
lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các
ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó
nghĩa của hình vị bạch trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị
này ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn, không có của
cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27). Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn
Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển
loại” như: cuốc (dt) <-> cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự-
điển Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).
Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng Phê [104, tr.3-18].
Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất
khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển
phổ thông, nếu quan hệ giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.
Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải thích nghĩa của các ĐV
từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối
với các ĐVĐN. Đây là một công trình thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.
Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những khó khăn của việc
biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn trong việc giải thích nghĩa của từ TV và
khẳng định: “điều quan trọng nhất là tính hệ thống trong cách làm việc”.
Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những quyển từ điển của ta
trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này
thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không
thể giúp cho người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng từ
vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở cách giải thích các
nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó là “người đọc từ cách giải thích đó
thường không thấy được mối quan hệ giữa các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ
và tách nghĩa của từ với những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong
trường hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01 hay 02 nghĩa.
Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm hai từ nhưng ở một từ khác tương
tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ băng, đèn, bay.
Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách nghĩa của từ, các
nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển. Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03
tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:
Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần chú ý đến các HT
giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối tượng. […] Vì việc tách một ĐV
thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ
Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt
mà ngày nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của từ thì có
thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ.... Không thể tách các từ ĐÂ nếu HT
chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có
tách thành từ ĐÂ hay không là tùy vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh
hưởng gì tới toàn hệ thống”.
Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực tổ chức và chi phối
các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với các từ một nghĩa thì việc so sánh nó
với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa
thì ngoài việc cần so sánh với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với
nhau”.
Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp làm sao cho quan hệ
giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường trực được nổi bật và được hiện lên trong
lời giải thích”.
Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải thích có bao nhiêu
đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc
điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa
trong phạm vi đặc điểm từ loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau
nếu trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ loại khác xét về
ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông, trong ba tiêu chuẩn trên thì các
tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong
các cuốn từ điển trước đây.
Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn mạnh và chú ý nhiều
tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng
trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta thấy được những khó khăn và những giải pháp của các
nhà từ điển học cũng như của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc
thu thập, sắp xếp, xử lí các từ ĐÂ và ĐN.
Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về HTĐÂ trong TV. Theo
ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐÂ trong TV là: (1) không biến hình và (2) hình vị
trong TV thường trùng với âm tiết. Theo Nguyễn Thiện Giáp, từ ĐÂ trong TV có 04 đặc điểm sau:
từ đơn một âm tiết nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép ĐÂ với nhau nhờ HT
chuyển loại. HTĐÂ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng Hán ít hơn TV và
bao giờ cũng có giá trị đối lập về ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của HTĐÂ trong TV là ĐÂ bộ phận
(ĐÂ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một từ một hình vị). Ông phân loại từ ĐÂ trong TV
thành 02 loại là: từ ĐÂ hoàn toàn và từ ĐÂ bộ phận.
Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học.
Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả, khi trình bày về Các
mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua việc lập danh sách các loại nguyên vị trong
TV đã phân biệt rất rõ ràng các nguyên vị ĐÂ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công
trình này Hồ Lê còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ, ĐN
trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú pháp của các từ loại dt, đg,
tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại
đg). Về HTĐN nói chung và về từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc
về lí luận [82].
Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của mình về từ ĐÂ (ĐÂ
do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những ĐVĐÂ do chuyển loại có SL không lớn, là
những ĐV có chung biểu vật nhưng thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình
thái học nhưng có những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường
hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên tách ra hai từ riêng biệt
và nên xếp chúng vào hai từ ĐÂ ngữ pháp và chỉ có thể phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp.
Và như vậy, chúng trở thành một tiểu loại ĐÂ (ĐÂ ngữ pháp) bên cạnh loại ĐÂ truyền thống là ĐÂ
ngẫu nhiên.
Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ ĐÂ dưới góc độ tu từ học. Qua việc khảo
sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập thành một từ, hoạt động hạn chế với tư
cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm
đối lập có thể tạo nên ĐÂ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên
âm trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập trên, tác giả đã
loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết phiên âm và (2) âm tiết láy âm ĐÂ với âm
tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm
tiết tự do ĐÂ với âm tiết tự do xuất hiện nhiều nhất”.
Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập chung chủ yếu ở
chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321-
337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc, cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ ĐÂ
thành hai kiểu: (1) Từ ĐÂ từ vựng và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ ĐÂ có ba nguồn gốc
sau: (1) Từ ĐÂ ngẫu nhiên, (2) từ ĐÂ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ ĐÂ do sự tách rời các
ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu
khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt
ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại. Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn
trong việc phân biệt từ nhiều nghĩa và từ ĐÂ trong TV.
Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng: “những ĐVĐÂ là
những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là ĐÂ
thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là ĐÂ những trường
hợp do cách phát âm lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự
trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra.
Bàn về việc phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “khó khăn nhất là
phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì
tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...”
Những trường hợp khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt) và thịt (thịt một
con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển tiểu loại như: chạy (chạy
trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3) những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các
nghĩa tuy đã khá mờ nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng
tay), lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa thể giải quyết
được (tr.231-233).
Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189]. Trong chương IV,
tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị, thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng
có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại
bộ phận là có nghĩa, ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có
nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về Biểu hiện ĐÂ giữa
các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐÂ thành: (1) HTĐÂ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2)
ĐÂ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3) HTĐÂ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc
ngôn ngữ.
Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “ĐÂ là những ĐV khác nhau, có hình thức ngữ
âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ
sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ (cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị,
từ tổ), (3) các mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về âm
thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐÂ khác bậc. Còn những ĐV giống
nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội dung thì là những ĐVĐÂ cùng bậc (ĐÂ
giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại
01vào ĐÂ hình vị. Theo ông, khi phân biệt các hình vị ĐÂ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ý
nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo ông, “Trong TV,
các hình vị ĐÂ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều ĐÂ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần
– hình vị Hán Việt)” (tr.140).
Bàn về các dạng thể hiện ĐÂ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện ĐÂ điển hình hơn cả là từ, vì
rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác
nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là
ĐV phức tạp, điển hình về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với ĐÂ từ vựng, cần phải xem xét:
các dạng biểu hiện ĐÂ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và ĐÂ hình thái của từ (có ý nghĩa
ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ý là những nhận xét của tác giả về 02 khái niệm “hình thức từ” và
“âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh
và cả chữ viết. Khi nói về sự giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất
là âm thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn chính xác là
giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống chữ viết dù là “ghi âm vị” như
TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu
hiện kèm theo. ĐÂ là giống nhau về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142).
Theo tác giả, ĐÂ hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp khác
nhau thì đó là ĐÂ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không có ĐÂ hình thái.
Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về ĐÂ cần chú ý tới các dạng ĐÂ và các thuật ngữ sau: (1) ĐT
dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), (2) ĐÂ dạng: là dạng
nói giống nhau của những từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), là ĐÂ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ:
là những từ khác nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ ĐÂ hoàn toàn, ĐÂ theo nghĩa hẹp, (4) ĐÂ
hình thái: là ĐÂ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống nhau về mặt âm thanh và
chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau.
Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện ĐÂ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang Thiêm cho rằng:
“ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan
trọng để xác định từ ĐÂ hoàn toàn là khả năng kết hợp của từ, (2) ĐÂ bộ phận (thường là các từ ĐÂ
khác từ loại, khả năng kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: vềR1 R(về nhà) vềR2 R(bàn về)…, (3) ĐÂ dạng,
R(ty; sở); tiR2 R (cái ti). Trong TV, HTĐÂ dạng xảy ra với từ có cách viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z
có khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết để xác định: tyR1
– d, gi… như: cuốc R1 R (cái cuốc) và quốc R2 R (tổ quốc); dâyR1 R (sợi dây) và giâyR2 R ( giây phút), (4) khi bàn
về Đồng tự dạng trong TV phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV
không biến đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”.
Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội dung của nó có nhiều
nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”. (tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà
nội dung bao gồm một số nghĩa khác nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối
quan hệ liên kết với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét nghĩa
loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở trên một số giống nhau
về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước
hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ
thống ổn định này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định
trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc điểm ĐN của mỗi
ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó
cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản
của ngôn ngữ.” (tr.178).
Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong 37.088 từ TV đã đưa ra
số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm 38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN
qua các từ loại chính như sau:
DANH TỪ
ĐỘNG TỪ
TÍNH TỪ
ĐN
Đơn nghĩa
ĐN
Đơn nghĩa
ĐN
Đơn nghĩa
30,16 %
69,84 %
31,48 %
69,52 %
27,70 %
72,30 %
Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179.
Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN của các ĐVĐN
trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau:
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
79,30 % 12,60
6,38
1,82
0,82
0,53
0,54
0,17
0,12
0,9
0,08
….
%
%
%
%
%
%
%
%
%
%
Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184.
Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa có chứa các nét
nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình. Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các
nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa
cơ bản và một số nghĩa không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể
dựa vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình và ít hơn vào
các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa về mặt đồng đại được tổ chức
theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song, xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối
quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các
nghĩa liên kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở những từ trên
hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan
hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp.
Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành ĐÂ và tiêu chuẩn xác định những ĐVĐÂ ngữ
nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu
chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.
Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân biệt các loại quan hệ
tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ đồng đại và TĐ lịch đại. Theo ông, cần
phân biệt hai loại quan hệ tôn ty sau: (1) tôn ty theo tuần tự phái sinh, phát triển (tôn ty lịch đại) để
phân biệt nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và các nghĩa phái sinh thứ cấp, (2) tôn ty hiện hành (tôn ty
đồng đại) để phân biệt nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản định danh, nghĩa không cơ bản hình
tượng (nghĩa bóng). Theo ông thì: “đối với những từ có từ 2 nghĩa trở lên thì việc phân biệt theo tôn
ty nhiều khi không thực hiện được vì rất khó xác định niên đại và mô tả 2 ý nghĩa cùng loại. Đặc
biệt là đối với kiểu sơ đồ cấu trúc nghĩa có quan hệ hình nhánh”. Đây là một nhận xét rất chính xác.
Năm 1992, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang [31]. Hai tác
giả này khi phân tích các câu mơ hồ trên chữ viết, các kiểu câu mơ hồ về từ vựng đã gián tiếp bình
luận tới nguyên nhân và tác dụng của từ ĐÂ và từ ĐN (tr. 88, 91- 93) đồng thời chỉ ra các kiểu ĐÂ
trong các từ loại, nhất là trong các từ loại có SL lớn như dt, đg, tt (tr.113-116). Họ không những
khảo sát và chỉ ra HT mơ hồ do việc sử dụng những từ đơn tiết ĐÂ mà còn khảo sát sự mơ hồ do sử
dụng những ngữ ĐÂ, chuỗi ĐÂ (tr.113-120) và từ ĐÂ Hán Việt gây ra như: đồng tử R1 R và đồng tửR2 R
(tr.120).
Năm 1995, đáng chú ý là quan điểm của Phan Ngọc [100, tr.51-74]. Tuy mục đích là bàn về
phong cách, song qua những lập luận của tác giả, ta có thể thấy được quan điểm của ông về HTĐÂ
trong TV.
Phan Ngọc khẳng định “Mọi ngôn ngữ đều có HTĐÂ vì vỏ ngữ âm của từ là võ đoán, không
liên can gì đến nội dung của nó […] kết quả là một hình thức ngữ âm có thể hiểu hai ba cách”. Theo
tác giả, “HTĐÂ chỉ phổ biến ở những từ chỉ có một hay hai âm tiết mà thôi, trái lại, rất hiếm ở
những từ ba âm tiết trở lên […]. Mặt khác, ở các ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Hán, TV, tiếng
Thái…số từ ĐÂ phải lớn hơn ở các ngôn ngữ đa tiết.” (tr. 66). Theo Phan Ngọc, nếu đã thừa nhận
trong TV có 3 lớp từ là thuần Việt, Hán Việt, láy âm thì về mặt lí thuyết, tối đa chỉ có 6 kiểu từ ĐÂ
sau: (1) thuần Việt - thuần Việt, (2) láy âm - láy âm, (3) thuần Việt - láy âm, (4) Hán Việt - thuần
Việt, (5) Hán Việt - láy âm, (6) Hán Việt - Hán Việt.
Từ việc xác lập 6 kiểu từ ĐÂ, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu một và khẳng định: “tuy
về mặt cấu trúc có thể có sáu kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi TV đã là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ
giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện
nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi HTĐÂ khác” (tr. 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan
Ngọc thì đứng ở vị trí thứ hai trong sáu kiểu ĐÂ là kiểu Hán Việt - Hán Việt. Trong bài viết, Phan
Ngọc còn lí giải một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới HTĐÂ trong TV khác với HTĐÂ
trong THHĐ là do SL âm tiết thực sử dụng của tiếng Hán ít hơn so với TV.
Năm 1998, đáng chú ý là quan điểm của của Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.147-189]. Tác giả
phân chia từ vựng TV thành hai loại là từ, ngữ (ngữ định danh, thành ngữ, ngữ láy âm, quán ngữ).
Ông cho rằng “từ của TV là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức
của một âm tiết, một khối viết liền” (tr 69). Ông quan niệm “nghĩa của từ là quan hệ” (tr. 125), bao
gồm 04 thành tố sau: (1) nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng, (4) nghĩa kết cấu. Tác
giả chia các từ của TV thành năm loại: (1) các từ kiểu một như: nhà, đẹp, đi…, (2) các từ kiểu hai
như: sẽ, tuy, với…, (3) các từ kiểu ba như: quốc, thủy, hỏa…, (4) các từ kiểu bốn như: búa (chợ
búa), lạnh (lạnh lẽo)…, (5) các từ kiểu năm như: bù, nhìn, bồ, hóng….
Theo ông, HTĐN trong TV có những đặc điểm riêng sau đây: (1) để biểu thị những SV, HT hoặc
khái niệm mới, TV có thiên hướng cấu tạo các ĐV từ vựng mới hơn là phát triển nghĩa của các ĐV từ
vựng đã có từ trước, (2) số ĐV có nhiều nghĩa cũng như số nghĩa trong những từ ĐN của TV đều thấp
hơn so với nhiều ngôn ngữ khác, trong khi đó, SL các ĐV từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là
những ĐV hai âm tiết, (3) HTĐN của TV chủ yếu xảy ra ở các từ, ở các ngữ thì tỷ lệ ĐN chỉ khoảng
1/10 và cũng chỉ có hai hoặc ba nghĩa mà thôi. Các ngữ ĐN phần lớn là có nguồn gốc Hán.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, HT từ ĐN của TV chỉ bao gồm 2 kiểu sau đây: (1) HTĐN của các
từ kiểu một (nhà, đẹp, đi) và (2) HTĐN của các từ kiểu ba (quốc, thủy, hỏa). Tiến hành thống kê,
phân tích những từ ĐN kiểu một trong TĐTV do Văn Tân chủ biên, ông nhận xét: (1) số từ ĐN
chiếm khoảng 33% tổng số (33% tổng số từ kiểu một, là những từ thuần Việt và đều là đơn tiết),
trong đó những từ có 2 và 3 nghĩa chiếm khoảng 86% tổng số từ ĐN, từ nhiều nghĩa nhất là 19
nghĩa, (2) về tỉ lệ ĐN ở các từ loại, đg có tỉ lệ cao nhất (32%), kế đó là dt (23%), cuối cùng là
tt (20%).
Phân tích các nghĩa của mỗi từ ĐN, tác giả đi đến 2 nhận xét sau: (1) Các nghĩa của mỗi từ ĐN
có thể thuộc hai loại là: nghĩa tự do (là nghĩa liên hệ trực tiếp với sự phản ánh các HT của TTKQ),
sự hoạt động của các nghĩa này không bị hạn chế vào các ngữ cố định, có mối quan hệ đa dạng.
Nghĩa hạn chế (là nghĩa chỉ được thể hiện trong những kết hợp hạn chế, do quy luật nội tại của hệ
thống từ vựng quy định, không do nội dung lô gích của các từ quy định). Theo tác giả, đối với TV
thì nghĩa hạn chế là HT phổ biến hơn trong các ngôn ngữ khác vì TV đã và đang phát triển mạnh
khả năng cấu tạo các ngữ bởi chính các nghĩa hạn chế góp phần tạo ra tính cố định của các cụm từ.
(2) Trong các nghĩa của một từ ĐN, có một nghĩa là cơ bản còn các nghĩa khác là phái sinh. Theo
ông, nghĩa cơ bản thường phải là nghĩa tự do. Trong trường hợp từ có một vài nghĩa tự do thì sẽ có
một nghĩa tự do là cơ bản, các nghĩa khác là nghĩa tự do phái sinh.
Trong phần III của Từ vựng học TV (tr.147-189), HTĐÂ cũng là một trong sáu trọng tâm được
Nguyễn Thiện Giáp đề cập tới. Trong phần Nhận xét chung, trước tiên, ông coi HTĐÂ là một phổ
niệm trong ngôn ngữ. Kế đó, tác giả đi vào phân tích, so sánh HTĐÂ trong các loại hình ngôn ngữ
đơn lập và biến hình với ngữ liệu từ tiếng Anh, tiếng Nga, TV, tiếng Hán. Đáng chú ý là 5 nhận xét
sau:
(1) HTĐÂ thường xảy ra trong phạm vi những từ ngắn, có cấu trúc đơn giản do có tính võ
đoán cao.
(2) Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, từ ĐÂ thường là các từ đơn. Trong TV, do mỗi âm tiết đồng thời
là một từ, cấu trúc âm tiết TV lại gồm các thành phần (âm đầu, vần, thanh điệu. Vần lại chia ra thành âm
chính, âm cuối, âm đệm), mỗi thành phần của âm tiết làm thành một đối hệ do đó các thành phần cấu
tạo âm tiết luôn có mặt. Vì vậy, HTĐÂ trong TV chắc chắn phổ biến hơn các ngôn ngữ Ấn Âu.
(3) HTĐÂ phụ thuộc rất nhiều vào SLÂT được ngôn ngữ sử dụng là nhiều hay ít. TV sử dụng
khoảng 6000 âm tiết, còn tiếng Hán chỉ sử dụng một SL ít (khoảng 1/10 TV) cho nên HTĐÂ trong tiếng
Hán phổ biến hơn, nhiều hơn trong TV.
(4) So với các tiếng Ấn Âu, từ ĐÂ trong TV có những phẩm chất khác như sau: (a) Vì TV
không biến hình cho nên các từ đã có quan hệ ĐÂ sẽ giữ mãi quan hệ đó trong tất cả hoàn cảnh sử
dụng của mình, không có HTĐÂ ở một dạng thức biến đổi nào đó của từ, TV chỉ có một dạng ĐÂ
hoàn toàn mà thôi. (b) Vì trong TV, mỗi hình vị là một từ cho nên cũng không có sự đối lập giữa
HTĐÂ gốc từ và HTĐÂ phái sinh, chỉ có một loại ĐÂ gốc từ mà thôi.
(5) Trong TV, tuy có HTĐÂ giữa các ngữ và các cụm từ như: băng hàR1 R và băng hàR2 R… nhưng
HTĐÂ của từ vẫn là cơ bản và quan trọng nhất bởi: (a) HTĐÂ hoàn toàn của ngữ hoặc cụm từ tự do
ít hơn rất nhiều so với HTĐÂ của từ. (b) HTĐÂ của ngữ và cụm từ thường chỉ tạo nên từng cặp một,
trong khi ấy, loạt ĐÂ của từ khá phong phú, có khi lên tới 8 hay 9 thành viên. (c) Sự ĐÂ của từ
quyết định toàn bộ sự ĐÂ của những ĐV khác vì các ngữ, các cụm từ tự do ĐÂ với nhau là do từng
từ một tạo nên, chúng có quan hệ ĐÂ với nhau. HTĐÂ của ngữ và cụm từ chỉ là sản phẩm hậu kỳ
do kết quả của quá trình sử dụng có dụng ý của con người. (d) Các HTĐÂ trong TV đều bắt nguồn
từ sự ĐÂ của các từ và cần phải xuất phát từ sự ĐÂ của các từ để soi sáng các HTĐÂ khác là phù
hợp với thực tế TV. Tuy kết luận như vậy, nhưng tác giả cũng nêu lên những ngoại lệ sau: anh
nuôiR1 R và anh nuôiR2 R (theo tác giả là hai từ ghép); ý thứcR1 R và ý thức R2;R hy vọngR1 R và hy vọngR2… Rcũng
không phải là do ĐÂ của những từ đơn tiết tạo ra mà được hình thành từ HTCL.
Căn cứ vào năm kiểu từ khác nhau về nghĩa đã được phân chia, tác giả chia từ ĐÂ thành 14
kiểu quan hệ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, bức tranh về HTĐÂ của TV rất đa dạng, trong một loạt ĐÂ
của TV có thể có trên dưới 10 từ thuộc các kiểu khác nhau (tr.173). Nguyễn Thiện Giáp còn bình
luận về tác dụng của từ ĐÂ. Theo ông, trong 14 kiểu quan hệ trên, chỉ có hai kiểu quan hệ có thể
gây ra sự hiểu lầm đó là: kiểu từ thuần việt - từ Hán Việt (kiểu 1.3) và kiểu từ Hán Việt - từ Hán
Việt (kiểu 3.3). Theo ông, sở dĩ các từ kiểu 1.3 và 3.3 dễ gây hiểu lầm bởi chúng không hoạt động
tự do nhưng cũng không chỉ nằm trong những kết hợp đơn nhất, nghĩa của chúng ít nhiều có sự
cộng hưởng với nghĩa của các từ cùng kết hợp với chúng, vì vậy người ta khó nhận ra nghĩa riêng
của từng từ. Ví dụ: nghĩa của các từ đại trong các kết hợp đại ác; đại biểu, thời đại…
Theo Nguyễn Thiện Giáp, có bốn con đường hình thành nên các ĐVĐÂ của TV, đó là: (1) do
sự tiếp nhận các từ nước ngoài, trong đó, các từ gốc Hán tạo nên SL lớn các loạt ĐÂ trong TV, (2)
do sự biến đổi ngữ âm, (3) do sự phân hóa ý nghĩa của từ ĐN, (4) do sự hình thành các ĐV từ vựng
mới trên chất liệu cũ.
Bàn về vấn đề phân biệt ĐVĐN và ĐVĐÂ trong TV, tác giả cho rằng: “TV là ngôn ngữ không
biến hình cho nên không thể áp dụng tiêu chuẩn hình thái của từ vì hoàn toàn không có tác dụng”.
Ông chủ trương vận dụng tiêu chuẩn ngữ nghĩa, theo ông “khi một ý nghĩa của một ĐV nhiều nghĩa
bị phân hóa xa đến mức cái nghĩa tố chung vốn có của ý nghĩa này với các ý nghĩa khác của từ trở
nên không quan yếu đối với nó nữa, đặc trưng cho ý nghĩa này là một nghĩa tố khác, chính nghĩa tố
đó đưa từ nhập vào một trường HT mới, khi đó có thể coi như đã xuất hiện một từ mới”.
Năm 1998, có quan điểm của tập thể tác giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn
Khang [57, tr.143-184]. Xuất phát từ quan điểm của Bloomfield, họ cho rằng: “hình vị là ĐV ngôn
ngữ nhỏ nhất, có nghĩa”. Các tác giả này tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về từ song họ
thừa nhận “từ là ĐV cơ bản của TV”.
Theo họ, ĐÂ và nhiều nghĩa là những khái niệm khác nhau trong ngôn ngữ học. Song có một
điểm chung là: “sự khác nhau về ý nghĩa trong khi đồng nhất về hình thức”, điểm khác biệt giữa hai
HT này là ở chỗ: “trong trường hợp ĐÂ thì những cái được biểu hiện là khác nhau, còn trong trường
hợp nhiều nghĩa thì cái biểu hiện chỉ là một” (tr.159). Theo họ, “Hệ thống các nghĩa của từ ĐN
chính là toàn bộ các mối liên hệ [...] bị chế định theo một kiểu nhất định [...] và được bảo đảm bằng
tính liên tục của các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa riêng rẽ của hệ thống... chỉ cần tính liên tục
này bị phá hủy, bị đứt đoạn dù chỉ ở một chỗ, chỉ cần một mắt xích bảo đảm cho tính liên tục này bị
mất đi thì sự thống nhất về ngữ nghĩa của từ sẽ bị phá vỡ và khi đó xảy ra sự phân rã HT nhiều
nghĩa, tức là biến một từ nhiều nghĩa thành hai từ ĐÂ không có liên hệ gì với nhau nữa”(tr.161).
Theo họ, “để nhận biết sự tồn tại hay vắng mặt các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa có thể dùng:
phương pháp phân tích thành tố, phương pháp so sánh cách giải thích của từ điển, phương pháp cải
biến cách giải thích”(tr.162)... Họ đưa ra 02 tiêu chí sau để xác định HTĐÂ trong TV: (1) đồng nhất
về mặt biểu hiện (trùng về âm thanh), (2) khác nhau về bình diện được biểu hiện (ý nghĩa từ vựng, ý
nghĩa ngữ pháp).
Năm 1999, có quan điểm của Diệp Quang Ban [03, tr.69-70]. Ông quan niệm: “từ là ĐV nhỏ
nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do trong câu”. Khi bàn về yếu tố ngoại lai trong CTT TV,
tác giả có đề cập tới HTĐÂ trong TV. Ông khẳng định: “các yếu tố Hán vừa chiếm đa số vừa giữ
vai trò khá quan trọng trong vốn từ và trong CTT TV”. Theo ông, “các yếu tố gốc Hán du nhập vào
TV vốn tự chúng đã chứa nhiều trường hợp ĐÂ như: thủy R1 R (nước), thủyR2 R (bắt đầu, trước...). Thêm
vào đó là những trường hợp ĐÂ giữa các yếu tố gốc Hán với các yếu tố thuần Việt như: côngR1 R
(thuần Việt) có nghĩa là “tha đi” như trong chim công mồi...và côngR2 R (Hán Việt) có ý nghĩa
là “chung cho mọi người” như trong của công, ruộng công...
Năm 1999, Lê Biên [05, tr.177-183] dưới góc độ cú pháp học, gián tiếp trình bày quan điểm
của mình về từ ĐÂ và ĐN khi trình bày HTCL trong TV. Theo tác giả, HTCL có liên quan đến
HTĐÂ, ĐN của từ: chuyển loại không phải là HTĐÂ từ vựng mà là ĐÂ – ngữ pháp (ĐÂCG). Theo
tác giả, “đây là những từ giống nhau về hình thức ngữ âm (ĐÂ), cùng gốc (xét về nghĩa) mà hiện
nay được sử dụng thành hai từ khác nhau về bản chất từ loại” (tr.179).
Năm 1999, Bùi Minh Toán [133, tr.61-68; tr.79,101] trình bày quan điểm của mình về từ ĐÂ và
ĐN trong TV. Tác giả cho rằng: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể dùng độc lập để tạo câu,
đồng thời là ĐV nhỏ nhất mà thực hiện được một số chức năng đối với tư duy và giao tiếp” (tr 39).
Theo ông, nghĩa của từ bao gồm: (1) thành phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa tình
thái.
Ông cho rằng: “Từ ĐÂ là những từ có hình thức âm thanh hoàn toàn giống nhau nhưng lại
khác hẳn nhau về ý nghĩa và có thể khác nhau cả về các phương diện khác như bản chất ngữ pháp,
chức năng trong giao tiếp, sắc thái phong cách...” (tr. 61). Theo ông, từ ĐÂ là HT có trong nhiều
ngôn ngữ. Nhưng có những ngôn ngữ, từ ĐÂ chỉ tồn tại trong dạng ngôn ngữ nói, còn khi hoạt động
giao tiếp tiến hành bằng ngôn ngữ viết thì chữ viết hiện thực hóa sự khác nhau giữa những từ ĐÂ
khác nghĩa. Lúc đó, các từ ĐÂ chỉ giống nhau khi nói hoặc khi đọc, còn khi viết, chúng được hiện
thực hóa theo các dạng chữ viết khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong các loại chữ viết như chữ
Hán. Ông nêu ví dụ : trungR1 R中 có nghĩa là: ở giữa và: trungR2 R忠có nghĩa là: sự trung thành, một
lòng một dạ.
Theo Bùi Minh Toán, trong TV “các từ ĐÂ có sự giống nhau cả ở hình thức âm thanh khi nói, cả
ở hình thức văn tự khi viết. Nếu viết các từ ĐÂ bằng chữ quốc ngữ và viết rời từng từ thì ta không thể
phân biệt được chúng với nhau”. Theo ông, trong TV, đại đa số các từ ĐÂ là từ đơn tiết. Tuy vậy vẫn
có từ ĐÂ đa tiết. Cũng theo tác giả, “không chỉ ở bình diện nghĩa mà ở bình diện ngữ pháp cũng có từ
ĐÂ. Nhưng chúng mang những thuộc tính và bản chất ngữ pháp hoàn toàn khác nhau. Chúng thuộc các
hệ thống từ loại khác nhau, do đó chúng hiện thực hóa các thuộc tính ngữ pháp khác nhau khi tham gia
hoạt động giao tiếp”, (tr.79). Ông nêu ví dụ : làR1R (là dt, chỉ hàng tơ, thưa, mỏng), làR2R (là đg, chỉ hành
động làm phẳng quần áo), làR3R (chỉ hành động sà xuống gần sát mặt phẳng nằm ngang nào đó), làR4R (là
hệ từ) Nó là sinh viên, làR5R (là tình thái từ) trông nó hiền hiền là.
Theo chúng tôi, mặc dù tác giả đã nêu lên được một số đặc điểm cơ bản của HT từ ĐÂ, ĐN
trong một số ngôn ngữ và trong TV, song khái quát chưa đủ, chưa toàn diện. Chẳng hạn, khi bàn về
HTĐÂ trong THHĐ ông đã bỏ sót HT ĐÂĐT và những HTĐÂ trong khi nói nhưng trên chữ viết lại
phân biệt trong TV.
Năm 2001, đáng lưu ý là công trình Từ điển đồng âm tiếng Việt của tập thể tác giả Hoàng Văn
Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành, [58]. Công trình thu thập và giải thích
khoảng 7000 ĐVĐÂ (bao gồm từ, ngữ và các yếu tố CTT), đây là một trong số rất ít những công
trình thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lí những ĐVĐÂ trong TV. Mặc dù kết quả thống kê, phân loại và xử
lí của họ vẫn còn tồn tại những nhược điểm như: bỏ sót khá nhiều ĐV ĐÂST của TV… song đóng góp của
họ là quan trọng và rất đáng ghi nhận.
Năm 2007, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Văn Khang [69, tr.144-198]. Những nội dung
liên quan tới HT từ ĐÂ, ĐN trong TV chủ yếu được tác giả khai thác từ góc độ từ ngoại lai.
Theo tác giả, khi các từ Hán Việt hoạt động trong TV đã tạo ra xung đột ĐÂ: Thứ nhất là HTĐÂ xảy
ra giữa các từ Hán Việt với từ Việt như: 埃 (ai) bụi ĐÂ với ai (đại từ);布(bố) vải ĐÂ với bố (cha);车(xa)
xe ĐÂ với xa (nói về khoảng cách). Thứ hai, là HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với nhau như:平 (bình)
bằng ĐÂ với 评 (bình) bình luận;人(nhân) người ĐÂ với 仁 (nhân) nhân đức (tr.144).
Theo tác giả, HTĐÂ có thể xảy ra giữa từ với từ, giữa hình vị với hình vị, giữa hình vị với từ
như: yếu要(quan trọng, là hình vị) ĐÂ với yếu (không khỏe, là từ) lưu留(giữ, ở lại; là từ) ĐÂ với
lưu流 (chảy, là hình vị). Mặt khác, ĐÂ không chỉ liên quan tới các từ đơn tiết mà còn liên quan tới
cả những từ Hán Việt đa tiết như: yếu điểmR1 R (điểm quan trọng) và yếu điểmR2 R (điểm chưa đạt, chưa tốt).
Ông còn thảo luận về HT: người Việt khi sử dụng từ Hán Việt đã đem những từ Hán Việt có âm đọc
giống nhau, có nghĩa gần nhau, chữ viết gần giống nhau nhập lại thành một từ ĐN do phiên chuyển
những ĐV này sang hệ chữ la tinh như những trường hợp có âm đọc là chi, luyện, bản, dục, man,
phản... trong một số cuốn từ điển của người Việt.
Về những từ ngoại lai gốc Pháp (tr.257-320), theo tác giả, cũng như những từ Hán Việt, từ
mượn Pháp khi nhập vào TV, do quá trình Việt hóa về mặt ngữ âm đã làm cho các từ mượn Pháp
một mặt ĐÂ với các từ Việt vốn có, mặt khác ĐÂ với các từ mượn Pháp khác (vốn trong tiếng Pháp
chúng không ĐÂ), thậm chí là ĐÂ với những từ mượn trong các ngôn ngữ khác như: can (canne và
calque) với can (can ngăn) và can (can đảm); băng (đạn) và băng (tuyết), băng (qua cánh đồng)...
Theo tác giả, “cũng giống như HT du nhập của các từ mượn Hán, do sự gần nhau về nghĩa và
ĐÂ nhờ Việt hóa mà có HT nghĩa của các từ Pháp khác nhau được xếp thành một từ ĐN như cách
xử lí từ băng thành một từ ĐN trong các từ điển TV là kết quả của việc đồng hóa và đập nhập ngữ
nghĩa của các từ ĐÂ - gần nghĩa trong tiếng Pháp như: bande, bandeau, bande role, ruban, panser...
thông qua nét nghĩa chung dải dài và hẹp để dùng vào việc gì đó”.
2.2. Ở Trung Quốc, ngay từ giai đoạn 1950 – 1976, HTĐÂ, ĐN đã nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu như: Cao Danh Khải, Tôn Thường Tự, Chu Tổ Mạc, Thôi Hạ Ái,
Hà Ái Nhân, Vương Cần – Võ Chiếm Khôn….Đối với HT từ ĐÂ, trong giai đoạn này có 02 quan
niệm rộng và hẹp. Đại diện cho quan niệm rộng là Tôn Thường Tự [200, tr.199]. Ông cho rằng: “từ
có hình thức ngữ âm tương đồng và có nghĩa khác biệt nhau gọi là từ Đ”. Sở dĩ chúng tôi xếp Tôn
Thường Tự vào quan niệm rộng là bởi cách hiểu của ông về tiêu chí ngữ âm tương đồng có điểm
khác biệt với những tác giả khác. Trong các ví dụ đưa ra của ông có cả những từ vốn không cùng
thanh điệu. Chẳng hạn: dūn 吨 (đốn; mang thanh một: tấn) và: dùn 吨 (đốn; mang thanh bốn: bữa,
trận); dà yi 大意 (đại ý; mang thanh bốn và thanh nhẹ: sơ xuất, vô ý) và: dà yì 大意(đại ý; mang hai
thanh bốn: đại ý, ý chính) đều được xếp vào hai loạt ĐÂ. Ngày nay, (dūn 吨) và (dùn 吨) được xếp vào
những từ ĐH nhưng không ĐÂ còn (大意 dà yi) và (dà yì 大意) được xếp vào hai từ song tiết đồng từ tố.
Đại diện cho quan niệm hẹp là Hà Ái Nhân, Chu Tổ Mạc, Cao Danh Khải và một số tác giả
khác. Cao Danh Khải [169, tr.300] cho rằng: “hai hoặc hơn hai từ phát âm giống nhau nhưng ý
nghĩa hoàn toàn khác biệt gọi là từ Đ”. Hà Ái Nhân [183] cho rằng: “từ Đ là chỉ những từ có kết
cấu âm tiết và thanh điệu tương đồng và có ý nghĩa khác nhau”. Chu Tổ Mạc [177, tr.23] quan niệm
“từ ĐÂ là chỉ những từ có âm tố và thanh điệu hoàn toàn tương đồng… nếu chỉ là âm tố tương đồng
mà thanh điệu không giống nhau thì đó không thể gọi là từ Đ”. Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159]
còn chỉ rõ hơn: “cái gọi là hình thức ngữ âm tương đồng là chỉ thanh, vận, điệu của từ… còn những
từ nào đó mà có sự khác biệt nhau về một trong các yếu tố thanh, vận, điệu thì không phải là từ Đ”.
Về vấn đề phân loại từ ĐÂ, các tác giả giai đoạn này có xu thế chia từ ĐÂ thành bốn loại: (1)
do ngữ âm biến đổi, (2) do âm đọc ngẫu nhiên trùng nhau, (3) do sự phân hóa ý nghĩa của từ ĐN
nhưng vẫn bảo lưu được âm đọc, (4) do mượn dùng từ ngoại lai. Do ở thời kỳ này các khái niệm
như từ, tự đã được phân biệt rõ ràng nên một số tác giả như Chu Tổ Mạc [177], Hà Ái Nhân [183]
còn đề nghị phân biệt rõ tự ĐÂ và từ ĐÂ còn Thôi Hạ Ái [150] cùng một số tác giả khác như Vương
Cần, Võ Chiếm Khôn [159] lại đề nghị phân biệt từ ĐÂ dưới góc độ tự hình với hai kiểu: ĐÂĐH và
ĐÂDH.
Quan điểm cho rằng từ ĐÂ và từ đồng hình đều thuộc về vấn đề hình thức cũng được nêu ra ở
giai đoạn này. Chẳng hạn, Vương Cần – Võ Chiếm Khôn [159] một mặt cho rằng “trong từ vựng, từ
có âm nghĩa khác nhau, chỉ có hình thức chữ viết giống nhau, nhìn từ góc độ văn tự ta gọi nó là từ
đồng hình”, mặt khác, họ bổ sung thêm: “phạm vi của từ đồng hình đương nhiên không phải là tuyệt
đối, không phải là không mở rộng được… nhưng nếu khảo sát từ phương diện ngữ nghĩa thì nên đẩy
nó vào đối tượng nghiên cứu của từ đồng hình dị âm”.
Thôi Hạ Ái [150] lại cho rằng: “một tổ hợp từ mà có ý nghĩa hoàn toàn không giống nhau, âm
đọc không giống nhau, chỉ giống nhau về hình thể gọi là từ đồng hình. Hai tổ hợp từ mà có hình
thức chữ viết giống nhau còn thì khác nhau thì đó chính là đặc điểm của từ đồng hình”. Theo chúng
tôi, quan niệm trên của Thôi Hạ Ái là không chính xác bởi bản chất của từ đồng hình là chỉ xét ở
phương diện hình thức (văn tự), chỉ cần hình thức văn tự giống nhau thì đó là từ đồng hình, nhưng
nếu gặp hai tổ hợp từ có hình thức văn tự giống nhau, có nghĩa khác nhau (vốn là hai từ ĐÂĐH với
nhau) thì xử lí sẽ mâu thuẫn bởi chúng không thể vừa là từ đồng hình lại vừa là từ ĐÂĐH được.
Một số tác giả thời kỳ này còn đi vào bình luận về tác dụng của từ ĐÂ (tác dụng tích cực và
tiêu cực) đối với quá trình giao tiếp của con người cũng như chỉ ra những đặc trưng nổi bật của
tiếng Hán. Theo họ, một trong những nét đặc thù của tiếng Hán là “có nhiều từ đơn tiết ĐÂ, tiếng
Hán đang phát triển theo xu thế là đơn âm đến đa âm” [Cao Danh Khải, 169].
Năm 1975, đáng lưu ý là quan điểm của Lưu Thúc Tân và Lí Hành Kiện [186]. Công trình
gồm 08 chương với 26 tiết. Trong chương 02 có đề cập tới vấn đề từ và nghĩa của từ. Họ thừa nhận
những phương thức làm biến đổi ý nghĩa của từ là: mở rộng, rút gọn, chuyển di và đưa ra hai thuật
ngữ mới là 深化 (thâm hóa: làm sâu sắc thêm) và 分割 (phân cát: chia cắt) trong đó: 深化 (thâm
hóa) có hàm nghĩa là có thêm nhận thức mới về sự vật cũ, HT cũ còn 分割 (phân cát) có hàm nghĩa
là chỉ một từ ĐN biến đổi thành hai từ ĐÂ khác nhau vì những mối quan hệ vốn có về nghĩa đã bị
triệt tiêu hoàn toàn.
Giai đoạn (1977 – 1989) đáng chú ý là quan điểm của Trương Vĩnh Ngôn [182] và Phù Phó
Thanh [189]. Đây là những công trình khảo cứu chuyên sâu về từ vựng ngữ nghĩa học, có ứng dụng
lí luận của nước ngoài vào việc nghiên cứu từ vựng tiếng Hán.
Từ vựng học giản luận của Trương Vĩnh Ngôn gồm 06 chương, trong đó chương 05 là chương
có đề cập khá nhiều và khá sâu về vấn đề ĐÂ, ĐN trong tiếng Hán. Về vấn đề từ ĐÂ, Trương Vĩnh
Ngôn cho rằng: đã là ĐÂ thì phải thỏa mãn ba điều kiện: (1) giống nhau về âm thanh, (2) giống
nhau về hình thức chữ viết, (3) có ý nghĩa khác nhau. Ông đặt ra thuật ngữ 等音词(đẳng âm từ) và
dùng thuật ngữ này để chỉ những từ có âm đọc giống nhau.
Hiện đại Hán ngữ từ vựng [1985] của Phù Phó Thanh gồm 10 chương. Tác giả quan niệm: từ
là ĐV nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa, dùng để tạo câu. Từ có hai mặt là hình thức ngữ âm và khái
niệm (nội dung). Theo Phù Phó Thanh, từ trong quá trình sử dụng chịu rất nhiều những chế định,
ảnh hưởng và nghĩa của từ thể hiện ra rất nhiều điểm dị biệt. Tuy vậy, trong những điểm dị biệt ấy
vẫn có những nét chung có thể xác định được, đó chính là ý nghĩa của từ. Và một ý nghĩa xác định
được của từ gọi là một nghĩa hạng của từ. Theo tác giả, “nghĩa hạng có tính khái quát và là đơn vị
cơ bản của nghĩa từ”.
Trong chương 04, trên cơ sở xây dựng và xác định khái niệm nghĩa hạng, ông thảo luận về vấn
đề từ ĐN và từ ĐÂ. Theo ông, “từ đơn nghĩa là từ có một hình thức ngữ âm liên hệ tới một nghĩa
hạng. Còn từ ĐN là từ có một hình thức ngữ âm liên hệ với hơn một nghĩa hạng trở lên và giữa các
nghĩa hạng vẫn còn tồn tại một mối quan hệ mà hiện thời vẫn nhận ra. Nếu giữa các nghĩa hạng
không còn nhận ra được mối quan hệ nữa thì chúng sẽ tách ra thành những từ ĐÂ. Từ ĐÂ là một
hình thức ngữ âm liên hệ với hơn một nghĩa hạng mà hiện nay đã không còn nhận diện được quan
hệ nữa vì vậy mà được coi là những từ có âm thanh giống nhau và ý nghĩa khác nhau” (tr.51).
Về vấn đề từ ĐÂ, Phù Phó Thanh cho rằng “hai từ trở lên mà có thanh mẫu, vận mẫu và thanh
điệu giống nhau thì là những từ Đ” (tr.72). Tác giả chia từ Đ thành: (1) từ ĐÂĐH, (2) từ ĐÂDH
(3) từ ĐÂ phái sinh. Phù Phó Thanh còn đi vào phân tích những hệ quả xấu do nhận thức không tốt
từ ĐÂ đưa lại mà việc đem từ ĐÂ viết thành chữ khác là một ví dụ điển hình với các biểu hiện như:
(1) viết sai những từ ĐÂ có hình và nghĩa khác xa nhau, (2) viết sai những từ ĐÂ có hình chữ gần
giống nhau, (3) viết sai những từ ĐÂ có nghĩa gần nhau.
Bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ ông cho rằng: có ba nguồn gốc chính là: (1) do ngữ âm biến đổi
mà thành ĐÂ, (2) do quá trình phân li ý nghĩa của từ ĐN tạo thành, (3) do việc phiên dịch từ ngoại
lai tạo nên. Bàn về giới hạn của từ ĐÂ và từ ĐN ông cho rằng: “quan trọng nhất là xem hiện nay có
còn quan hệ về ngữ nghĩa hay không. Nếu không còn quan hệ thì là từ ĐÂ, nếu còn quan hệ thì là từ
ĐN”. Theo ông, có thể xét ở hai góc độ: (1) trong từ nguyên có quan hệ hay không? (2) hiện nay có
thể cảm nhận được không?, ông còn bình luận về tác dụng của từ ĐÂ và từ ĐN dưới cả hai góc độ
tích cực và tiêu cực.
Có thể nói rằng Hiện đại Hán ngữ từ vựng của Phù Phó Thanh là một công trình khoa học rất
chú trọng tới thao tác mô tả và hình thức hóa vấn đề. Đây là một trong số ít công trình nghiên cứu
về từ vựng học có tầm ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc đương thời và cho đến tận bây giờ.
Bên cạnh ba công trình có ảnh hưởng lớn ở trên, trong giai đoạn này còn có một số chuyên đề,
bài viết nghiên cứu khá sâu về vấn đề từ ĐÂ và từ ĐN. Tiêu biểu là nhóm Vương Cần, Võ Chiếm
Khôn [159], Cát Bản Nghi [179], Tôn Tích Quân [184], Cao văn Đạt, Vương Lập Ứng [162], Tạ
Văn Khánh, Vương Chấn Côn [170], Từ Thanh [191]…. Những nghiên cứu về HTĐN trong những
công trình này tập trung chủ yếu vào hai vấn đề là: quan hệ giữa các ý nghĩa của từ ĐN và những
nguyên nhân sản sinh ra từ ĐN.
Về HT từ ĐÂ, các tác giả chủ yếu tập chung vào ba phương diện sau: những nhận định về tính
chất của từ ĐÂ, những nguyên nhân hình thành từ ĐÂ và việc phân loại từ ĐÂ, tác dụng của từ ĐÂ.
Nhận định về tính chất của từ ĐÂ, nhiều nhà nghiên cứu kiên trì quan điểm âm giống, nghĩa
khác. Chẳng hạn: năm 1982, Cao Văn Đạt và Vương Lập Ứng [162] cho rằng: “một tổ hợp từ trong
kho từ vựng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau mà có âm thanh tương đồng gọi là từ Đ”. Cát Bản
Nghi [179] cũng cho rằng: “…giữa các từ ĐÂ không có quan hệ gì về nghĩa”.… Một số nhà nghiên cứu
Hán ngữ khác còn đề xuất thêm tiêu chí giống nhau về trọng âm đối với những từ ĐÂ đa tiết bên cạnh
tiêu chí có thanh, vận, điệu tương đồng.
Về nguyên nhân hình thành từ ĐÂ cũng có rất nhiều ý kiến. Ngoài quan điểm của Phù Phó Thanh
[189], Võ Chiếm Khôn và Vương Cần [172] còn đưa ra 4 nguyên nhân hình thành từ ĐÂ là: (1) do ĐÂ
ngẫu nhiên, (2) do lịch sử ngữ âm biến đổi làm cho một số từ có âm đọc khác nhau trở thành có âm đọc
giống nhau, (3) do sự tiếp nhận vốn từ địa phương, từ có nguồn gốc nước ngoài cũng tạo nên một SL từ
ĐÂ, (4) do sự phân hóa của từ ĐN.
Về tác dụng của từ ĐÂ, Tạ Văn Khánh, Vương Chấn Côn [170] cho rằng: “từ ĐÂ trong quá
trình phát triển của ngôn ngữ học có tác dụng vô cùng quan trọng và tích cực” Còn Cao Văn Đạt và
Vương Lập Ứng [162] thì cho rằng: “con người khi tiến hành giao tiếp, đặc biệt là trong khẩu ngữ
thì việc sử dụng từ ĐÂ có khi tạo ra những trường hợp không rõ ràng […] nhưng không thể phủ
nhận những khả năng gây ra nhầm lẫn do từ ĐÂ tạo nên”. Còn Từ Thanh [191] thì viết: “sự tồn tại
của từ ĐÂ cần phải cho rằng đó là một chuyện không tốt, nó gây ra những trở ngại cho quá trình
biểu đạt tư tưởng […] sự tồn tại của từ ĐÂ đối với yêu cầu biểu đạt rõ ràng hiển nhiên là rất bất lợi
[…] tác dụng của từ ĐÂ là thứ yếu, không thể bù đắp cho những điều mà nó gây ra”.
Trong thời kì này, vấn đề thống kê từ ĐÂ cũng đã được chú ý tới, đáng chú ý là số liệu thống
kê từ ĐÂST trong Hiện đại Hán ngữ từ điển của Tạ Văn Khánh, Vương Chấn Côn [170]. Theo số
liệu của họ thì: trong Hiện đại Hán ngữ từ điển có 168 tổ hợp ĐÂST với 346 từ. Trong đó, từ
ĐÂĐH có 65 tổ hợp với 130 từ, chiếm 37% tổng số từ ĐÂST. Từ ĐÂDH có 103 tổ hợp với 216 từ,
chiếm 62% tổng số từ ĐÂST. Đây là bài viết sớm nhất có sử dụng thao tác thống kê mô tả về từ ĐÂ
trong THHĐ.
Ở giai đoạn (1990 – 1999), đáng nhắc đến là công trình nghiên cứu của Lưu Thúc Tân [187].
Công trình gồm 12 vấn đề lớn. Trong 12 vấn đề chính, đáng chú ý là vấn đề thứ 5 (bàn về hình thức
ngữ âm của từ và ngữ cố định trong THHĐ). Theo tác giả, hình thức ngữ âm của từ và ngữ cố định
trong THHĐ có 3 đặc điểm lớn sau: có thanh điệu, cấu trúc tương đối ngắn và nhẹ, tồn tại một SL
lớn từ ĐÂ. Khi bàn về đặc điểm thứ ba, Lưu Thúc Tân đã trình bày rất rõ quan điểm của mình về
HTĐÂ nói chung và HT từ ĐÂ nói riêng.
Theo tác giả, những nguyên nhân chính làm cho THHĐ có một SL lớn từ ĐÂ là: (1) do
những đặc điểm về ngữ âm đưa lại (ngắn, nhẹ), (2) SL âm tiết trong THHĐ là hữu hạn, (3) hình
thức ngữ âm của từ trong tiếng Hán phần lớn là hai âm tiết khác nhau xâu chuỗi vào nhau hoặc
là đơn tiết cho nên rất dễ nảy sinh HT ĐÂ ngẫu nhiên. Theo Lưu Thúc Tân, “nói tới HTĐÂ là
nói tới hai từ hoặc trên hai từ có âm đọc giống nhau trở lên”, ông chia HTĐÂ thành hai loại lớn
là: ĐÂ ngẫu nhiên và từ ĐÂ. Theo tác giả thì “đối với trường hợp ĐÂ ngẫu nhiên, ý nghĩa của
chúng khác nhau rất xa. Trong lịch sử cũng không có quan hệ gì với nhau hoặc cũng không có
quan hệ diễn sinh. Loại ĐÂ ngẫu nhiên này nếu là đơn tiết thường có SL hơn một, còn nếu là
song tiết, thường thành cặp và có SL khá nhiều. Hai âm tiết trở lên có SL rất ít, ba âm tiết kiểu
như: 礼拜寺 (lễ bái tự) lên chùa lễ phật) và: 礼拜四 (lễ bái tứ)chỉ ngày thứ năm trong tuần
cũng rất hiếm gặp”. Tác giả cũng chỉ ra rằng “trong những từ ĐÂ ngẫu nhiên mà không phải là
đơn âm tiết, thường có cùng một yếu tố đóng vai trò là từ tố của từ căn như: 财力(tài lực) chỉ tài
lực, sức của, vốn liếng) và: 才力(tài lực) chỉ tài năng, năng lực. Những từ ĐÂ này do có cùng
chung một từ căn nên thường có quan hệ ít nhiều với nhau”.
Tác giả còn cho rằng: “trong những từ ĐÂ ngẫu nhiên, có một bộ phận nhỏ có ý nghĩa rất gần
nhau, tồn tại một mối quan hệ khá rõ ràng (quan hệ đồng nghĩa) kiểu như: 厉害(lệ hại) ghê gớm, lợi
2
1 nghĩa rất đặc biệt” (tr 174). Còn đối với những từ như: 月P
P(nguyệt) tháng và: 月P
P (nguyệt) trăng; 满
2
1
1 月P
P (mãn nguyệt) đầy tháng, đầy cữ trẻ con và: 满月P
P (mãn nguyệt) chỉ trăng rằm; 快P
P (khoái)
2
1
hại, kịch liệt, hung dữ mạnh mẽ) và: 利害 (lợi hại) lợi hại, hơn thiệt. Đây là những từ ĐÂ đồng
P (khoái) sắp; 顶子P
P (đỉnh tử) chỉ chóp của tháp, kiệu…, chỉ ngọc (đính trên đỉnh mũ)
2
P (đỉnh tử) chỉ nóc nhà thì ông coi là “những từ ĐÂ được phân hóa từ những từ ĐN mà ra,
nhanhR Rvà: 快P
và: 顶子P
giữa chúng đã từng là một từ, không phải là ĐÂ ngẫu nhiên. Nếu xem xét từ góc độ nghĩa thì những
từ này về mặt lịch sử có quan hệ cội nguồn hay quan hệ diễn sinh nhưng hiện nay đã không còn
quan hệ gì nữa và nên xếp chúng vào nhóm ĐÂĐH”. Tuy vậy, tác giả cũng bổ sung thêm rằng:
1
2
“Song cũng có những từ ĐÂĐH không xuất phát từ một từ mà do những từ khác nhau có hình thức
P (điền kê) chỉ loài ếch và: 田鸡P
P (điền kê) chỉ một loài chim
văn tự và ngữ âm giống nhau như: 田鸡P
sống ở thảo nguyên và ruộng lúa nước có hình dạng giống như gà” (tr.176).
2
1
Bên cạnh những loại ĐÂ kể trên, tác giả còn giới thiệu một loại HTĐÂ khác là ĐÂ giữa những
P(hướng tiền khán) nhìn về phía trước) và: 向钱看P
P(hướng tiền
ngữ cố định với nhau như: 向前看P
khán; chỉ biết có tiền)… và khẳng định rằng: “ngữ cố định cũng có trường hợp ĐÂ với từ ghép như:
大会(đại hội) chỉ đại hội, mít tinh và: 大恚 (đại khuể) nỗi oán hận lớn và HTĐÂ xảy ra giữa ngữ
cố định với ngữ cố định, giữa từ và ngữ cố định là ít gặp”. Ông lí giải nguyên nhân của HT này là
“do hình thức ngữ âm của ngữ cố định nói chung là dài hơn từ”. Từ đó, ông kết luận: “nói chung,
khi nhắc đến HTĐÂ trong từ vựng chỉ nói đến từ mà không đề cập tới các ĐV từ vựng của từ thì
mới chỉ đề cập và nắm được đối tượng chính. Nói tới cả những đối tượng như từ kiêm cấp và ngữ cố
định mới là nắm vững HTĐÂ của từ vựng tiếng Hán.” Từ đó ông đề xuất thuật ngữ từ ngữ ĐÂ (同
音词语) để chỉ các HT trên.
Bàn về tác dụng của từ ĐÂ, tác giả khẳng định cả tác dụng tích cực và tiêu cực và chỉ ra rằng
“đối với người học tiếng Hán như một ngoại ngữ thì HTĐÂ trong THHĐ đã gây ra không ít những
khó khăn, đặc biệt là với vấn đề văn tự phiên âm”.
Những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình nghiên cứu vấn đề ĐÂ, ĐN trong THHĐ có những bước
phát triển vượt bậc. Theo số liệu của Chu Tồn và Dương Thế Thiết [198, tr.576] thì từ năm 2000
đến năm 2007 đã có 87 luận văn bàn về nghĩa của từ và có 6 công trình bàn về từ ĐÂ. Đặc điểm của
các công trình này là luôn chú trọng tới thao tác thống kê và mô tả, đào sâu những vấn đề cũ bằng
những lí luận mới. Các tác giả tiêu biểu phải kể đến là Lưu Tân Xuân, Lưu xuyên Dân [161], Tôn
Kế Thiện [192], Chu Tồn [199]…. Chẳng hạn:
Trương Bác [151] đã lật lại vấn đề khu biệt từ ĐÂĐH và từ ĐN. Ông đề xuất các phương pháp
sau: phương pháp phân tích nghĩa tố, phương pháp khảo sát từ nguyên, phương pháp so sánh đối
chiếu và phương pháp xử lí nghĩa dẫn xuất. Theo tác giả thì phương pháp phân tích nghĩa tố thích
hợp với việc kiểm nghiệm xem những từ có hơn một nghĩa hạng do sự mở rộng ý nghĩa, thu hẹp ý
nghĩa và chuyển di ý nghĩa hiện nay có còn tồn tại quan hệ hay không. Phương pháp xử lí nghĩa dẫn
xuất có lợi cho việc phân tích những từ ĐÂĐH mà có nhiều nghĩa hạng. Phương pháp so sánh đối
chiếu rất có lợi cho việc làm sáng rõ những trường hợp đã bị hư hóa về ý nghĩa và ẩn dụ. Phương
pháp khảo sát từ nguyên lại có ích cho việc kiểm nghiệm những ý nghĩa mà hiện nay có cảm giác là
có quan hệ với từ nguyên học.
Tác giả Lưu Xuyên Dân [161] lại chú ý tới việc thống kê số liệu và phân tích những nhược
điểm của TĐ thể hiện ở việc xử lí từ ĐÂĐH trong TĐ. Qua việc khảo sát Hán ngữ từ điển; 1996, tác
giả đưa ra số liệu từ ĐÂĐH trong Hán ngữ từ điển là 270 tổ hợp. Tiến hành phân tích số liệu này,
tác giả cho rằng: số liệu chính xác là từ ĐÂĐH chỉ có 237 tổ hợp, chiếm 88% tổng số. Số liệu
không phải là từ ĐÂĐH nhưng bị xử lí thành từ ĐÂĐH là 33 tổ hợp, chiếm 12%. Lí do dẫn đến việc
tác giả phủ nhận 33 tổ hợp không phải là từ ĐÂĐH là vì: giữa những nét nghĩa của những từ này
hoặc còn có quan hệ dẫn xuất như trường hợp của 海口(hải khẩu) và 青皮(thanh bì) Hoặc là thông
qua việc chuyển hóa từ tính mà tạo nên như trường hợp 南面 (nam diện) và 杀气 (sát khí). Hoặc là
do việc sử dụng những chữ cũ, mới mà tạo nên như trường hợp của 皇皇 (hoàng hoàng) và 累累
(lụy lụy). Từ kết quả phân tích này, tác giả cho rằng: khi nghiên cứu từ ĐÂĐH, cần phải chú ý tới
mối quan hệ giữa tiếng Hán xưa và nay cũng như phải chú ý tới việc nghiên cứu quy luật diễn biến,
phát triển nghĩa dẫn xuất của từ vựng tiếng Hán mới có thể nắm vững được.
Tôn Kế Thiện [192], trước tiên nêu lên những khó khăn trong việc phân biệt từ ĐÂĐH SÂT và
từ ĐN SÂT: “việc phân biệt từ ĐÂĐH SÂT và từ ĐN SÂT trên thực tế là rất phức tạp. Ngoài việc
cần phải khảo sát cân nhắc xem giữa chúng còn có quan hệ dẫn xuất về nghĩa hay không còn phải
cân nhắc phương thức cấu từ giữa những ngữ tố và những ngữ tố đại diện cho hai âm tiết xem
chúng có tương đồng hay không”. Tiếp đó, tác giả căn cứ vào cách xác lập các đầu mục của Hiện
đại Hán ngữ từ điển; 1996 để đưa ra 8 loại hình từ ĐÂ. Cuối cùng tác giả cho rằng: đã là từ ĐÂĐH
song tiết cần phải hội đủ các đặc trưng sau đây: (1) hai từ phải có âm đọc hoàn toàn giống nhau và
không có quan hệ dẫn xuất về nghĩa, (2) phải bao hàm một hoặc hai ngữ tố ĐÂ, (3) phải bao hàm
một hoặc hai ngữ tố ĐN biểu thị những nghĩa hạng khác nhau, (4) nghĩa hạng của ngữ tố phải giống
nhau nhưng có phương thức cấu tạo từ khác nhau. Trong 04 điều kiện trên, thì chỉ cần thỏa mãn 03
tiêu chuẩn là đạt.
Chu Anh Quý [185] công nhận: “từ ĐÂ là những từ có âm thanh giống nhau và có ý nghĩa
khác nhau”, và “trong THHĐ thì SL từ ĐÂ đơn tiết nhiều hơn SL từ ĐÂ song tiết gấp nhiều lần”.
Chọn đối tượng khảo sát của mình là từ ĐÂ song tiết, loại bỏ những ĐVĐÂ đơn tiết và những
ĐVĐÂ có từ ba âm tiết trở lên. Ông đề xuất thêm một tiêu chí phân loại từ ĐÂ song tiết khác là
“dựa vào những điểm giống nhau và khác nhau về phương thức cấu tạo từ”. Theo tác giả “cách phân
loại này sẽ giúp các nhà nghiên cứu có thể những nhận thức mới về điểm khác biệt và mối liên hệ
giữa những từ ĐÂ song tiết với nhau”. Kết quả phân loại của tác giả về từ ĐÂ song tiết trong Hán
ngữ ngữ pháp tản luận như sau:
Căn cứ vào các tiêu chuẩn như “có hai yếu tố đồng hình”, “có yếu tố trước đồng hình”, “có yếu
tố sau đồng hình” Chu Anh Quý chia thành 4 loại lớn là: (1) từ SÂT ĐÂĐH có cùng cấu tạo, cùng
tính chất, (2) từ ĐÂ SÂT đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂ SÂT đồng cấu đồng tính, (4) từ ĐÂ SÂT dị cấu
dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có yếu tố trước đồng hình”, ông chia làm 4 loại nhỏ sau đây: (1) từ
ĐÂST đồng cấu đồng tính, (2) từ ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂST dị cấu đồng tính, (4) từ ĐÂST
dị cấu dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có yếu tố sau đồng hình”, ông chia làm 4 loại nhỏ sau: (1) từ ĐÂST
đồng cấu đồng tính, (2) từ ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂST dị cấu đồng tính, (4) từ ĐÂST dị cấu
dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có cả hai yếu tố dị hình”, ông chia làm 4 loại: (1) từ ĐÂST đồng cấu đồng tính, (2) từ
ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂ ST dị cấu đồng tính, (4) từ ĐÂ ST dị cấu dị tính.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu HTĐÂ, ĐN ta thấy: (i) Qua các thời kì, HTĐÂ, ĐN luôn là một
vấn đề nhận được sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học, các nhà từ điển học… (ii) Với cách tiếp
cận khác nhau, những khía cạnh có liên can tới HTĐÂ, ĐN như: tiêu chí xác định từ ĐÂ, từ ĐN;
tiêu chí xác định nghĩa có quan hệ dẫn xuất (đối với các ĐVĐN thông thường) và nghĩa giữa các từ
ĐÂ (không có quan hệ dẫn xuất, chỉ có liên hệ về nghĩa) cũng đã được họ phân tích, bàn luận và đề
cập tới với những mức độ nông, sâu khác nhau.
Trên tinh thần kế thừa thành tựu nghiên cứu TV, tiếng Hán và lí thuyết NNH ĐC, LA có
những nhiệm vụ sau:
3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
(1) Thống kê, phân loại và miêu tả các kiểu ĐVĐÂ, ĐN trong TV (dựa trên cứ liệu của TĐTV
2006 là chính).
(2) Tập trung xác định vị trí của từ ĐÂST, từ ĐÂCG trong tổng thể từ ĐÂ của TV.
(3) Xác định vị trí của từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và trong tổng thể từ ĐN và từ
ĐÂ của TV.
(4) Đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN, từ vừa ĐÂ vừa ĐN của TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ vừa ĐÂ vừa
ĐN trong THHĐ.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
4.1. Với đối tượng và nhiệm vụ được xác định như trên, LA chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
(1) Phương pháp thống kê ngôn ngữ. Phương pháp này một mặt nhằm nâng cao tính khách
quan trong việc miêu tả cũng như những kết luận đưa ra trong LA, mặt khác sẽ là cơ sở quan trọng
để khái quát những biểu hiện phong phú của HT ĐÂ và ĐN trong cả hai ngôn ngữ Việt, Hán.
(2) Phương pháp miêu tả. LA tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận
về các vấn đề có liên quan tới HTĐÂ và ĐN trong cả hai ngôn ngữ Việt, Hán.
(3) Phương pháp đối chiếu. Phương pháp này được sử dụng nhằm góp phần làm rõ các tiêu chí,
cơ sở ngữ nghĩa, dấu hiệu hình thức thể hiện HTĐÂ và ĐN trong các ngôn ngữ khác nhau. THHĐ
là ngôn ngữ chủ yếu được dùng để đối chiếu với TV. Đây là một ngôn ngữ có nhiều nét tương đồng
về phương diện loại hình với TV và cũng là ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới để
tâm nghiên cứu từ lâu.
(4) Phương pháp phân lập và đối lập ngữ nghĩa trong phân tích ngữ nghĩa.
Trong các phương pháp trên thì các phương pháp (1), (2), (3) là những phương pháp chính,
phương pháp còn lại là phương pháp bổ sung.
Trong quá trình khảo sát, miêu tả ngữ liệu cũng như khi tiến hành đối chiếu, chúng tôi đứng trên
quan điểm đồng đại là chính. Tuy nhiên, để làm rõ một số vấn đề, quan điểm lịch đại cũng được tham
khảo và áp dụng như một hướng nhìn bổ sung.
4.2. Nguồn ngữ liệu chủ yếu mà LA khảo sát là TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên) và TĐ
THHĐ 2005.... Xét ở dạng thức thể hiện, ngôn ngữ nói (những ví dụ được trích xuất trong từ điển)
sẽ được lưu ý hơn so với ngôn ngữ viết. Xét từ phương diện nguồn gốc, những từ thuần Việt, từ Hán
Việt sẽ được lưu ý nhiều hơn những từ có nguồn gốc ngoại lai khác như những từ gốc Ấn Âu…).
4.3. Với mục đích là khái quát tất cả những biểu hiện phong phú của HT ĐÂ và ĐN trong cả
hai ngôn ngữ Việt, Hán và do cách hiểu về ĐV cơ bản của TV và sự phân biệt các ĐV cùng chức
năng cú pháp như từ, ngữ… trong TV vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng nên chúng tôi chủ trương
dùng khái niệm các ĐV ĐÂ, các ĐV ĐN để chỉ tất cả các ĐVĐÂ hay ĐN là từ hay là ngữ.
Về khái niệm từ, quan niệm của chúng tôi như sau: xét từ phương diện cấu tạo, từ có thể là từ đơn
tiết, như: ăn, ngủ, chạy, nhảy, cười, nói, nghe, đánh, giúp..., chúng cũng có thể là đa tiết (bao gồm cả từ
phức là những từ có ít nhất 01 âm tiết vô nghĩa như: vui vẻ, trẻ trung, động đậy, kín mít…, hoặc cả 02 âm
tiết đều có nghĩa tiềm tàng như: ngưỡng mộ, nhẫn tâm…, và từ ghép là những từ mà các âm tiết đều có
nghĩa như: kiêng cữ, động lòng, thù ghét, miễn giảm…, đại bộ phận chúng thường có cấu tạo 02 âm tiết),
Những từ đa tiết như trên, thuộc vào một trong những kiểu kết hợp: (i) cả hai âm tiết vốn là những từ Hán
Việt không có khả năng hoạt động độc lập, (ii) một hoặc tất cả các âm tiết không có nghĩa xác định, (iii)
mối quan hệ giữa các âm tiết có tính chất cố định, thành ngữ. Xét về phương diện nghĩa, chúng có thể là
những ĐV đơn nghĩa (chiếm đa số), và cũng có thể là những ĐV ĐN; chúng có thể chỉ có nghĩa thực
(chiếm đa số), cũng có thể chỉ có nghĩa ngữ pháp và nhiều khi có cả hai loại ý nghĩa trên trong cùng một
ĐV. Một số ĐV từ, ngữ vay mượn còn mới, hoặc chỉ được sử dụng trong phạm vi giới hạn, có SL
không nhiều sẽ không được đưa vào phạm vi khảo sát hoặc sẽ không được ưu tiên khảo sát như:
chat, e-mail, fax, phone, penalty …
Một nội dung quan trọng của LA là so sánh từ ĐÂ và ĐN trong hai ngôn ngữ Việt, Hán, do đó,
ĐV cơ bản trong tiếng Hán cũng cần được xác định rõ ràng: (i) về cấu tạo, cũng như trong TV, ĐV
cơ bản trong tiếng Hán cũng là những ĐV nhất thể ba ngôi, chúng có thể là những ĐV đơn tiết như:
说 (thuyết) nói, 走 (tẩu) đi, 看 (khán) thăm, xem, nhìn…, cũng có thể là những ĐV đa tiết (phần
lớn là những ĐV có cấu tạo 02 âm tiết) như: 参观 (tham quan) tham quan, 家庭 (gia đình) gia đình,
好看 (hảo khán) đẹp, dễ coi….Chúng tôi cũng xem là đối tượng khảo sát của LA những ĐV có cấu
tạo từ 03 âm tiết trở lên như: 礼拜四 (lễ bái tứ) chỉ thứ năm, 缩手缩脚 (súc thủ súc giảo)…vì
những ĐV này cũng có đầy đủ những đặc điểm của những ĐV khác đồng cấp với chúng như từ nên
không có lí do gì để gạt bỏ chúng. (ii) Về nghĩa, nghĩa của các ĐV này mang tính thành ngữ – nghĩa
của chúng khác với tổng ý nghĩa của các yếu tố hợp thành. (iii) Về cú pháp, đây là những kết hợp cố
định, khi tham gia vào câu chúng cũng giữ những chức vụ cú pháp nhất định như từ (làm bổ ngữ,
chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ…).
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Về phương diện lí luận, LA có những đóng góp sau đây: LA góp phần làm rõ đặc điểm, vai
trò và vị trí quan trọng của từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂCG nói chung cũng như từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong
khu vực ĐÂCG của TV nói riêng.
Từ các tiêu chí: từ loại; SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ và ĐN của TV; DLN; nét
nghĩa và từ cấu trúc ngữ nghĩa của các ĐVĐN…, cùng với việc vận dụng các khái niệm truyền
thống như: ĐÂ đơn tiết, ĐÂ đa tiết, ĐÂ cùng từ loại, ĐÂ khác từ loại, ĐÂ chuỗi…, ĐN đơn tiết,
ĐN đa tiết, ĐN thường gặp, ĐN ít gặp…, từ việc khái quát hóa các HT từ ĐÂ và ĐN trong hai ngôn
ngữ, dựa trên 2 khối ngữ liệu đáng tin cậy của TV và THHĐ là TĐTV 2006 và TĐ THHĐ 2005,
LA đã tiến hành thống kê, mô tả và phân loại chi tiết những biểu hiện của HT từ ĐÂ, từ ĐN cũng
như những đặc điểm của HT từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong TV, tiếng Hán, đồng thời lí giải được nguyên
nhân của những biểu hiện và HT ấy. Ở một góc độ nào đó, những đồng nhất và khác biệt trong TV
và THHĐ thể hiện ở HT từ ĐÂ, từ ĐN và HT từ vừa ĐÂ vừa ĐN đã được LA chứng minh, kiến
giải một cách có cơ sở khoa học từ việc thống kê, mô tả và đối chiếu ở diện rộng và từ một số phạm
trù hẹp song có tính phổ quát trong hai ngôn ngữ.
Về phương diện thực tiễn, LA đã đưa ra số liệu cập nhật, chi tiết về các ĐVĐÂ, các ĐVĐN,
các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong TV và ở một mức độ nào đó là số liệu về các các ĐVĐÂ, các ĐVĐN,
các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong tiếng Hán. Trong một chừng mực nào đó, những số liệu này sẽ đem
đến những lợi ích nhất định cho việc biên soạn giáo trình từ vựng ngữ nghĩa học, từ điển đồng âm
TV, giáo trình dạy TV cho người nước ngoài, giáo trình dạy tiếng Hán cho người Việt cũng như rất
thuận tiện cho việc tra cứu nhanh trong quá trình học TV, tiếng Hán. Những số liệu của LA cũng có
thể được dùng cho việc xây dựng ngôn ngữ máy và dịch máy.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ đặt ra, LA được sắp xếp thành các phần sau: phần chính văn
có dung lượng 181 trang gồm phần Dẫn nhập, Kết luận và bốn chương nội dung; phần còn lại gồm
3 Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung các phần của chính văn được tóm tắt như sau:
Phần Dẫn nhập có dung lượng 37 trang trình bày Lí do chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu
(mục §1), Lịch sử vấn đề (mục §2), Nhiệm vụ của LA (mục §3), Phương pháp nghiên cứu và nguồn
ngữ liệu (mục §4), Những đóng góp của LA (mục §5), Bố cục LA (mục §6).
Chương 1 với tiêu đề “Những vấn đề lí luận” có dung lượng 32 trang nêu những vấn đề lí luận
chung làm nền tảng cho việc tìm hiểu HTĐÂ và ĐN nói chung, HTĐÂ và ĐN trong TV và THHĐ nói
riêng. Cụ thể là: Từ và cấu trúc nghĩa từ (mục §1.1.), HT chuyển loại của từ (mục §1.2.), Vai trò của
chữ viết trong việc nghiên cứu HTĐÂ và HTĐN (mục §1.3.), Khái niệm ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục
§1.4.), Về danh xưng từ ĐÂ và ĐN (mục §1.5.), Tiêu chí xác định các ĐVĐÂ, ĐN và từ ĐÂ ĐN (mục
§1.6.), Giới hạn của các ĐVĐÂ, ĐN (mục §1.7.), Vấn đề phân loại các ĐV ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục
§1.8.), Vị trí của từ ĐÂCG trong tổng thể từ ĐÂTV (mục §1.9.), Nhận diện các ĐVĐÂ, ĐN trong TĐ
(mục §1.10.), Tiểu kết (mục §1.11.).
Chương 2 với tiêu đề “HTĐÂ trong TV đối chiếu với THHĐ” là một trong ba phần trọng tâm của LA
có dung lượng 36 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Trình bày số liệu về các ĐVĐÂ trong TĐTV
2006 (tổng số loạt và tổng số ĐVĐÂ, tỷ lệ ĐÂ); phân loại và mô tả chi tiết các HTĐÂ của TV thông qua 04
tiêu chí: nguồn gốc, từ loại, từ góc độ các ĐV ngôn ngữ, SLÂT tham gia cấu tạo và quan hệ ngữ nghĩa trong
nội bộ từ (mục §2.1 và các tiểu mục 2.1.1., 2.1.2.). (2) Trình bày các giải pháp phân loại các ĐVĐÂ trong
tiếng Hán của các nhà nghiên cứu Hán ngữ từ các tiêu chí hình – âm – nghĩa và từ SLÂT tham gia cấu tạo
cũng như đi vào mô tả một HTĐÂ đặc biệt chỉ thấy trong THHĐ (ĐÂ phái sinh sau 儿化); trình bày số liệu
thống kê ở diện rộng các ĐVĐÂ trong THHĐ từ 02 tiêu chí: từ loại và SLÂT tham gia cấu tạo. (3) Đối
chiếu từ ĐÂCG trong TV với từ ĐÂCG trong THHĐ, nhận xét về HTĐÂ trong tiếng Hán và HTĐÂ trong
TV (mục § 2.2 và các tiểu mục 2.2.1; 2.2.2 và 2.2.3.), (4) Tiểu kết.
Chương 3 với tiêu đề “HTĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” cũng là một trọng tâm của LA có
dung lượng 46 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Thống kê số liệu các ĐVĐN trong TĐTV
2006, (2) Phân loại và mô tả chi tiết các HTĐN của TV thông qua 03 tiêu chí: từ loại, SLÂT tham
gia cấu tạo và DLN. Dựa vào đó làm cơ sở để xác định những HTĐN thường gặp, ĐN ít gặp hay
những trường hợp ĐN cơ bản, không cơ bản của TV (mục §3.1 và các tiểu mục 3.1.1., 3.1.2.), (3)
Trình bày quan niệm cũng như các giải pháp phân loại các ĐV ĐN trong tiếng Hán của các nhà
nghiên cứu Hán ngữ; trình bày số liệu thống kê ở diện rộng các ĐVĐN trong THHĐ của chúng tôi
trong TĐTHHĐ 2005 từ 03 tiêu chí: từ loại, SLÂT tham gia cấu tạo và DLN, (4) Đối chiếu và nhận
xét về HTĐN trong tiếng Hán với HTĐN trong TV ở diện rộng cũng như ở diện hẹp của hai khối
ngữ liệu (qua số liệu của TĐ và qua một số phạm trù phổ quát) với mục đích để làm nổi bật những
tương đồng cũng như những khác biệt giữa hai ngôn ngữ, qua đó tìm thêm luận cứ cho việc biện
giải HTĐN trong TV (mục §3.2 và các tiểu mục 3.2.1, 3.2.2, 3.2.3), (5) Tiểu kết.
Chương 4 với tiêu đề “Từ ĐÂ và ĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” có dung lượng 20 trang gồm
các nội dung chính sau đây: (1) Trình bày số liệu về các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và khác
gốc ngữ nghĩa, (2) Phân loại các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong TV, tiếng Hán. (3) Mô tả nguồn gốc, đặc điểm
cấu tạo, dung lượng ngữ nghĩa, quan hệ ngữ nghĩa của những ĐV này trong TV, tiếng Hán. (4) Đối chiếu từ
ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa và khác gốc nghĩa trong TV với từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa và khác gốc nghĩa
trong THHĐ (trọng tâm là đối chiếu từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa trong 2 ngôn ngữ), nhằm chỉ ra những
điểm tương đồng và khác biệt về vấn đề này trong hai ngôn ngữ.
Phần Kết luận có dung lượng 10 trang nhằm tổng kết những nội dung cơ bản của LA, nêu lên
những khó khăn trong quá trình thực hiện LA cũng như những vấn đề LA đề cập chưa đầy đủ hoặc
chưa giải quyết được.
Chương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. TỪ VÀ CẤU TRÚC NGHĨA TỪ
1.1.1. Là một trong những ĐV cơ bản và trung tâm của ngôn ngữ (âm vị, hình vị, từ, câu) song
thế nào là từ thì cho tới tận bây giờ vẫn chưa có một định nghĩa nào có đủ sức khái quát từ của mọi
ngôn ngữ. F.de Saussure [113, tr.111] từng viết “…Từ là một ĐV luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng
ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ mặc dù khái niệm này khó định
nghĩa”. Theo Nguyễn Thiện Giáp [46, tr.61] thì “hiện nay có trên 300 định nghĩa về từ”. Viện sĩ
L.V.Sherba; (tr.09) cho rằng: “trong thực tế từ là gì, thiết nghĩ rằng, trong các ngôn ngữ khác nhau,
từ sẽ khác nhau. Do đó, tất sẽ không có khái niệm từ nói chung” [57, tr.12]. Ngược lại với ý kiến
này là quan điểm của những nhà ngữ học như V. M.Solncev, B.A.Serebrennikov…. Họ cho rằng:
“đằng sau sự đa dạng về các thuộc tính của từ vẫn có thể tìm thấy những thuộc tính bản chất, chung
cho từ trong mọi ngôn ngữ”. Theo họ, từ có những thuộc tính sau: (i) Là ĐV ngôn ngữ có hai mặt
âm và nghĩa (ii) Có khả năng độc lập về cú pháp khi sử dụng trong lời nói (thuộc tính bản chất) [57,
tr.13-14]. Về sau, các nhà ngôn ngữ học lại đưa ra một chùm tiêu chí cụ thể hơn để phân định ranh
giới của từ với các ĐV ngôn ngữ khác. Những tiêu chí này liên quan đến ba mặt: âm, nghĩa và chức
năng cú pháp của ĐV được đưa ra để xem xét.
Đối với các nhà Việt ngữ học, vấn đề nhận diện từ và vấn đề phân biệt từ với những ĐV ngôn
ngữ khác cho tới nay vẫn chưa có sự thống nhất. Về cơ bản, có thể phân thành các khuynh hướng
sau:
(1) Khuynh hướng coi tiếng (âm tiết) là từ. Đại diện là Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện
Giáp…., chẳng hạn: Nguyễn Tài Cẩn [08, tr.50] cho rằng: “tiếng là ĐV cơ bản trong truyền thống
ngữ văn Việt Nam” và “trong TV, đi từ tiếng lên từ ghép hay từ từ ghép lên đoản ngữ rõ ràng là đi
từ một ĐV bé lên một ĐV lớn hơn”. Có thể hình dung quan điểm của ông qua sơ đồ sau:
Tiếng
chặt
Từ ghép
↓
Đoản ngữ
Lỏng
bé
→
lớn
Trong sơ đồ trên, ông cho rằng: từ ghép thuộc tổ hợp cố định, đoản ngữ thuộc tổ hợp tự do.
Điểm khác biệt giữa hai tác giả này là ở chỗ: Nguyễn Thiện Giáp [44] không thừa nhận từ
ghép là từ, còn tiếng được Nguyễn Thiện Giáp coi là từ (bao gồm cả những từ điển hình và những
từ không điển hình). Từ đó ông kết luận: “đường ranh giới rành mạch nhất, hiển nhiên nhất bao giờ
cũng là đường ranh giới độc lập một bên là “tiếng” ( từ điển hình, từ không điển hình) và một bên là
“tổ hợp tiếng” (bao gồm từ ghép và các tổ hợp cố định còn lại)”.
(2) Đại diện cho khuynh hướng thứ hai là các tác giả như Nguyễn Kim Thản [120], Hoàng Tuệ
[141], Đái Xuân Ninh [103], Lưu Vân Lăng [73], Hồ Lê [77], [78], Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến
Lê [26], Nguyễn Văn Tu [136], [138], Hoàng Văn Hành [57], Đỗ Hữu Châu [16], [21], Trần Ngọc
Thêm [128]…. Mặc dù giữa các tác giả này không phải là không còn tồn tại những điểm khác nhau
như: hệ thống phân loại khác nhau, tiêu chí phân loại khác nhau, sử dụng hệ thống thuật ngữ khác
nhau (người thì dựa vào tiêu chí khối lượng để chia thành hình vị lớn hơn âm tiết, bằng âm tiết và nhỏ
hơn âm tiết; người thì dựa vào tiêu chí nghĩa để để chia thành hình vị thực, hình vị hư, hình vị hệ
thống hay nguyên vị thực, nguyên vị hư và nguyên vị hệ thống…) song về cơ bản họ đều cho rằng: (a)
Tuy còn có nhiều khó khăn trong việc phân định ranh giới từ TV song từ vẫn là một thực thể, tồn tại
với một tư cách là một ĐV cơ bản của TV, là khái niệm trung tâm của Việt ngữ học, (b) để nhận diện
từ, cần dựa vào các tiêu chí như: tính nhất thể về ngữ âm, tính hoàn chỉnh về ngữ nghĩa, tính độc lập
về cú pháp (khi hoạt động trong lời nói), (c) tuy còn tồn tại những khó khăn nhất định song vẫn có thể
chấp nhận và vận dụng khái niệm hình vị vào phân tích cấu trúc từ TV, (d) từ TV về cơ bản có thể
phân thành: từ đơn, từ phức (bao gồm từ ghép và từ láy).
Những năm gần đây, đặc biệt là vào những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ
XXI, lại nổi lên xu hướng coi tiếng (âm tiết) là từ, những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là
Cao Xuân Hạo [49], [54], [52], Nguyễn Quang Hồng [60], [61]…. Chẳng hạn: Cao Xuân Hạo [52,
tr.180-183,188] đã chỉ ra rằng: “kích thước ngữ âm của hình vị TV là âm tiết (chiếm tới 97% hình vị
TV) và 100% trường hợp biên giới hình vị trùng với biên giới âm tiết (kể cả những hình vị đa tiết),
không có HT phụ âm cuối của một âm tiết đứng trước nhảy sang một âm tiết khác bắt đầu bằng một
nguyên âm để làm thay đổi diện mạo của nó đi, mỗi âm tiết là một ĐV mang nghĩa, có cấu trúc chặt chẽ
như từ của các ngôn ngữ Châu Âu. Tình hình này cũng tương tự trong tiếng Trung Quốc. Bloomfield
(1926) cho rằng: “trong tiếng Trung Quốc, tiêu chuẩn để phân định từ là có hay không có hình thức âm
tiết (mỗi từ là một âm tiết gồm hai hay ba âm vị)” và còn nói rõ thêm: “ngôn ngữ này không có hình thái
ràng buộc” cho nên ngữ pháp “chung quy là cú pháp, không có hình thái học”.
Cùng có quan điểm như Cao Xuân Hạo, Nguyễn Quang Hồng [61,tr. 215] ngoài những vấn đề
có tính lí luận còn đưa ra những số liệu quan trọng sau: (i) số lượng (SL) âm tiết được sử dụng phổ
biến trong TV văn hóa là 8590 âm tiết. (theo Vương Hữu Lễ; 1974 là 6900 âm tiết. Theo Hoàng Tuệ
và Hoàng Minh; 1978 là 6100 âm tiết). (ii) SL âm tiết có được trên lý thuyết là 19520 âm tiết. (iii)
SL âm tiết tiềm năng (không hoặc hầu như không được dùng đến) trong TV văn hóa hiện đại là:
19520 - 5890 = 13630 (âm tiết tiềm năng). Cũng theo Nguyễn Quang Hồng (dẫn lại của Đẳng Thiếu
Văn; 1964), trong THHĐ có 1255 âm tiết được sử dụng trong thực tế, 365 âm tiết tiềm năng và có
khoảng 1620 âm tiết có thể có được trong THHĐ, nếu loại trừ thanh điệu sẽ còn 408 khuôn âm tiết
cho hệ thống ngữ âm THHĐ (tr.219-224). Cũng theo Nguyễn Quang Hồng [60, tr.39] thì: SL âm tiết
cơ bản của tiếng Hán là ngày càng ít đi và hệ quả của nó là tiếng Hán sẽ ngày càng có xu thế tiến gần
tới chắp dính và chắc chắn sẽ kém điển hình hơn về mặt loại hình so với TV.
Theo quan điểm của chúng tôi, khuynh hướng thứ hai mặc dù có những ưu điểm nhất định trong việc
nhận diện và phân định từ trong TV song vẫn phải dựa trên những khái niệm cơ sở là âm tiết (tiếng) để lí
giải. Trong LA này, chúng tôi tiếp thu những thành tựu của khuynh hướng này song chúng tôi thấy rằng:
giải thuyết âm tiết/tiếng – từ một tiếng - hình vị là một thể ba ngôi là phù hợp hơn, có lợi hơn cho hướng đi
của LA.
1.1.2. Theo John Lyons (89, tr.37-38-57), cùng với các khái niệm ngữ ngôn (Langue), lời nói
(Parole)… cho đến tận bây giờ thì thế nào là nghĩa (meaning) và thế nào là nghĩa của từ vẫn là một
vấn đề chưa có sự thống nhất. Chẳng hạn: (1) Thuyết qui chiếu hay sở thị (denotational) cho rằng:
“nghĩa của một biểu thức chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra hay biểu thị hoặc đại diện.
Chẳng hạn “chó” thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là các đặc trưng bản
chất chung của chúng.”, (2) Thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lý (mentalistic) cho rằng “nghĩa của
một biểu thức là cái ý niệm hay quan niệm gắn với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được
biểu thức đó.”, (3) Thuyết hành vi (behaviourist) cho rằng “nghĩa của một biểu thức là cái kích thích
được gợi ra cho nó hay cái phản ứng mà nó gợi ra hoặc là sự kết hợp của hai thứ này trong một tình
huống phát ngôn cụ thể.”, (4) Thuyết nghĩa là cách dùng (meaning is use) cho rằng “nghĩa của một
biểu thức được xác định và đồng nhất với cách dùng của nó trong ngôn ngữ.”, (5) Thuyết thẩm định
(verification ist) thì cho rằng “nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này được xác định bởi chứng
cứ lấy từ câu hay mệnh đề chứa biểu thức đó.”, (6) Thuyết điều kiện chân trị (truth conditional) lại
cho rằng “nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó.”.
Và trên thực tế, vẫn không có thuyết nào tự mình làm thành cơ sở cho một lí thuyết ngữ nghĩa học
toàn diện và giàu sức giải thích thực tiễn song chúng đều có những đóng góp nhất định cho việc xây
dựng một lí thuyết toàn diện hơn.
Để làm việc, trong LA này chúng tôi chấp nhận định nghĩa sau: “Nghĩa của từ (cũng như của
các ĐV ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó.” Đây cũng là quan
niệm khá phổ biến trong giới Việt ngữ học hiện nay. Theo chúng tôi, cần phân biệt rõ 02 vấn đề là:
nghĩa (là nội dung tinh thần, là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó) và vật sở chỉ
(những thực thể được từ, ngữ… chỉ ra. Trên thực tế, vật sở chỉ có thể có thực hoặc có thể không có
thực (là giả tưởng).
Về vấn đề cấu trúc của nghĩa từ, cũng có không ít những cách hiểu và quan niệm khác nhau,
cách sử dụng thuật ngữ cũng khác nhau, chẳng hạn: Đỗ Hữu Châu [19, tr.103-105] cho rằng: các
thành phần ý nghĩa chính trong từ (thực từ) gồm 05 thành tố là: (1) nghĩa biểu vật (NBV), (2) nghĩa
biểu niệm (NBN), (3) nghĩa biểu thái (NBT), (4) nghĩa ngữ pháp, (5) những nét nghĩa liên hội.
Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.125-128] cho rằng: nghĩa của từ bao gồm 04 thành tố là: (1) nghĩa sở chỉ,
(2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng, (4) nghĩa kết cấu. Bùi Minh Toán [133, tr.46-48] cho rằng: nghĩa
của từ bao gồm 03 thành phần là: (1) thành phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa
tình thái. Ba thành phần này làm nên nghĩa từ vựng của từ. Hoàng Dũng – Bùi Mạnh Hùng [35, tr.124]
thì cho rằng: nghĩa của từ bao gồm (1) nghĩa biểu hiện (là trung tâm của nghĩa từ, là sự hợp thành của
nghĩa sở biểu và nghĩa sở thị), (2) nghĩa liên hệ, (3) nghĩa liên tưởng. Hoàng Phê [105, tr.14] thì cho
rằng: nghĩa của từ bao gồm 02 thành phần có cấp bậc khác nhau là: (1) nghĩa chính thức, (2) thành
phần hàm ẩn (chỉ có ở một số từ, không có giá trị thông báo chính thức). Hồ Lê [82, tr.155; tr. 179-
226] cho rằng: “về phương diện nghĩa, ngôn ngữ nào cũng đều có những nghĩa vị (nét nghĩa) biểu vật,
biểu niệm, biểu thái, biểu chức năng…”. Nghĩa vị theo Hồ Lê “là một ĐV nghĩa” còn nghĩa “là một
phạm trù”. Theo ông, “khi nói từ vị này có nhiều nghĩa hoặc có nghĩa này, nghĩa kia thì cần hiểu là từ
vị ấy mang nhiều nghĩa vị hoặc mang nghĩa vị này, nghĩa vị kia…” (tr.198). Theo Hồ Lê “nghĩa vị
phải là mô hình được khái quát từ nhiều biến thể nghĩa cùng nội dung” (tr.206). Theo ông, cấu trúc
nghĩa trong một từ vị có thể được miêu tả bằng một trong 07 tập nghĩa vị (tr.276) và hoàn toàn có thể
xây dựng công thức của 04 loại nghĩa vị biểu vật, biểu niệm, biểu thái, chức năng (tr.275). Lê Quang
Thiêm [130, tr.177-178] thì cho rằng: những thành phần nghĩa thường có mặt trong từ là (1) NBV, (2)
NBN (là trung tâm của nghĩa từ), (3) NBT….
Về cấu trúc của nghĩa từ, chúng tôi quan niệm: (1) có nhiều thành phần nghĩa có mặt trong từ
và những thành phần thường có mặt trong từ là: (a) NBV (tồn tại trong thực từ), (b) NBN (là hạt
nhân cơ bản, là cái ổn định, là trung tâm của nghĩa từ), (c) NBT. (2) Cấu trúc của nghĩa từ là một
cấu trúc có tính tôn ty gồm nghĩa, nét nghĩa (nghĩa vị). Trong đó: nét nghĩa là những đặc trưng nhỏ
nhất, dùng để phân biệt từ này với từ kia. Chẳng hạn: nghĩa của 02 từ đàn ông, đàn bà (TĐTV
Đàn ông
Đàn bà
Người lớn +
tr.206) có thể phân tích thành 02 nét nghĩa như sau:
+
Nam giới +
-
Đối với THHĐ, do đặc điểm nổi bật của từ vựng tiếng Hán là từ song tiết (chiếm tới 67%) nên
sự chú ý của các nhà từ vựng học tiếng Hán tập trung vào sự phân biệt giữa nghĩa của từ và nghĩa
của từ tố (nghĩa của hình vị cấu tạo từ). Về việc xác định ĐV cơ bản của nghĩa từ, đại đa số họ đều
cho rằng đó là nghĩa hạng (là những nét nghĩa chung nhất, khái quát nhất giữa các nghĩa hạng,
nghĩa hạng là khái niệm tương đương với khái niệm nét nghĩa chung trong TV). Từ 02 khái niệm
xuất phát là nghĩa hạng và nghĩa của từ tố nhiều nhà Hán ngữ chủ trương chia từ ĐN thành 04 loại
là: (1) toàn bộ nghĩa hạng của từ đều ĐN, (2) chỉ có một nghĩa hạng là nghĩa của từ, còn lại là nghĩa
của những từ tố ĐN, (3) từ đã có nhiều nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN, (4) đều
là những từ tố ĐN. Đây cũng là cơ sở để họ phân chia các nghĩa hạng thành 04 loại sau: (1) nghĩa
gốc, (2) nghĩa cơ bản, (3) nghĩa dẫn xuất, (4) nghĩa tỷ dụ. Trong đó: nghĩa gốc là ý nghĩa xưa nhất,
cổ nhất của từ được ghi lại. Nghĩa cơ bản là ý nghĩa chủ yếu, thường dùng nhất của từ ngày nay. Là
trường hợp hợp nhất giữa nghĩa gốc và nghĩa cơ bản. Nghĩa dẫn xuất là ý nghĩa do phái sinh mà
thành. Nghĩa dẫn xuất gồm 02 loại: (i) phát triển từ nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, (ii) phát triển từ nghĩa
dẫn xuất khác. Nghĩa tỷ dụ là ý nghĩa do những biện pháp tu từ về từ của từ cố định lại mà thành.
1.2.HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI CỦA TỪ
Hiện tượng chuyển loại (HTCL) của từ được gọi bằng rất nhiều tên khác nhau trong TV và
tiếng Hán như: HT chuyển loại, chuyển hóa từ loại, chuyển từ loại, chuyển di từ loại, HT cùng gốc
khác loại, HT ĐÂ ngữ nghĩa, HT từ kiêm loại, những từ ĐÂ ngữ pháp, HT các từ có đặc trưng hỗn
hợp của các từ loại…
Theo chúng tôi, HTCL của từ là một phương thức cấu tạo từ (CTT), nhờ đó một từ mới thuộc phạm
trù từ loại này được tạo ra từ một từ loại khác mà vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh, đồng thời tạo ra ý nghĩa mới
có quan hệ nhất định với ý nghĩa của từ xuất phát và nhận những đặc trưng ngữ pháp mới (thể hiện ở khả
năng kết hợp và chức năng làm thành phần câu) khác với đặc trưng ngữ pháp của từ xuất phát.
Trong các ngôn ngữ biến hình như tiếng Anh, HT chuyển loại của từ thường đi kèm với những
đặc điểm về hình thái như: Happy (ad; vui)→ happiness (n; hạnh phúc), lazy (ad; lười) → laziness (n;
sự lười nhác), sad (ad; buồn) → sadness (n: nỗi buồn), free (ad; tự do) → freedom (n, sự tự do), arrive
(đến) → arrival (điểm đến), learn (học) → learner (người học), play (chơi/thực hiện) → player (người
chơi/người làm), employ (v; thất nghiệp) → employment (n; sự thất nghiệp), nation (n; quốc gia) →
national (ad; thuộc về quốc gia), care (v; cẩn thận) → careness (n; sự cẩn thận), child (n; trẻ con) →
childlike (ad; tính trẻ con), fun (n; vui đùa) → funny (ad; tính hài hước), man (n; đàn ông) → manly (ad;
tính đàn ông/nam tính), modern (n; hiện đại) → modernize (v; hiện đại hóa), beauty (n; vẻ đẹp) →
beautify (v; làm đẹp), popular (ad; được ưa chuộng) → popularize (v; phổ biến), class (n; lớp/loại) →
classify (v; phân loại)…
Trong các ngôn đơn lập như TV, tiếng Hán, HTCL của từ đại bộ phận là không kèm phụ phẩm.
Cụ thể, trong TV chỉ có một phương thức chuyển loại (PTCL) không kèm phụ phẩm. VD: Lan vác cuốc
ra vườn để cuốc đất. (dt – đg)
VD: Cảnh chùa ngày thường thật tĩnh lặng. _ Nó xài tiền chùa nên không biết tiếc. (dt – t)
Đây là PTCL duy nhất và hiện vẫn đang diễn ra mạnh mẽ trong TV hiện đại.
Trong THHĐ, tuyệt đại bộ phận HTCL là không kèm phụ phẩm, trừ những từ phái sinh dùng
儿化kiểu như: 2T坐 2Tzuò (đg; ngồi) 2T坐儿 2Tzuòr (dt; chỗ ngồi)…
1.3. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM VÀ HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA
Như lí luận ngôn ngữ học đại cương (NNHĐC) đã chỉ rõ: đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học là
“cái sản phẩm xã hội được lưu trữ trong óc mỗi người” hay “ngôn ngữ thuộc về hệ thống bên trong,
độc lập với chữ viết” và “ngôn ngữ và chữ viết là 02 hệ thống dấu hiệu khác nhau” và “lí do tồn tại
duy nhất của chữ viết là để biểu hiện ngôn ngữ”. Song cũng chính lí luận NNHĐC cũng từng khẳng
định: “trong mỗi tập thể ngôn ngữ, cái sản phẩm này (ngôn ngữ) lại khác, thành ra những cái chúng
ta có được là những ngôn ngữ khác nhau” và “…Chúng ta thường chỉ biết các ngôn ngữ qua chữ
viết […] đặc biệt là đối với những ngôn ngữ phương xa và những ngôn ngữ đã mất đi […] cho nên,
tuy chữ viết tự bản thân nó vốn xa lạ đối với hệ thống bên trong, vẫn không thể nào không đếm xỉa
đến nó vốn là biện pháp luôn luôn được dùng để biểu thị ngôn ngữ, cần phải biết công dụng của nó,
những nhược điểm của nó và những mối nguy hiểm do nó gây ra.” Saussure [113, tr.67-68].
Cũng trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (tr.69), Saussure từng khẳng định: “đối tượng
của NNH không phải là sự kết hợp giữa cái từ được viết ra với cái từ được nói ra, chỉ cái sau này
mới là đối tượng của NNH. Song những từ viết (chữ viết) luôn xen lẫn một cách khít khao với
những từ nói (ngữ âm, âm thanh) mà nó là hình ảnh…” hay “ngôn ngữ có một truyền thống phát âm
độc lập với chữ viết và lại cố định hơn nữa…”.
Ông đồng thời chỉ rõ 03 nguyên nhân khiến cho chữ viết có ưu thế hơn đối với ngôn ngữ là: (1)
trước hết, hình ảnh chữ viết của từ đập vào trí ta như một vật cố định và vững chắc, thích hợp hơn là
âm thanh đối với việc duy trì tính thống nhất của ngôn ngữ qua thời gian. Mặc dầu mối liên hệ này
rất hời hợt và tạo ra một sự thống nhất thuần túy giả tạo, nó vẫn dễ thấy hơn nhiều, so với mối liên
hệ tự nhiên, mối liên hệ duy nhất chân chính của âm thanh, (2) ở phần lớn chúng ta, các ấn tượng thị
giác vẫn rõ và bền hơn các ấn tượng thính giác, cho nên người ta thường bám vào loại trên hơn.
Hình tượng chữ viết rốt cục lấn át âm thanh, (3) ngôn ngữ văn học càng làm tăng thêm cái ưu thế
không đáng được hưởng của chữ viết. Nó có những pho từ điển, những bộ ngữ pháp của nó; người
ta giảng dạy ở nhà trường cũng theo sách và bằng sách; ngôn ngữ có một quy phạm chi phối; mà cái
quy phạm này cũng là một hệ thống luật lệ bằng chữ viết, tuân theo một cách dùng nghiêm ngặt là
chính tả, và thế là chữ viết đã có được một tầm quan trọng hàng đầu. Rốt cục người ta quên mất
rằng mình học nói rồi mới học viết, và mối quan hệ tự nhiên bị đảo ngược lại. Cuối cùng, mỗi khi
có sự mâu thuẫn giữa ngôn ngữ và chính tả, thì bao giờ cuộc tranh chấp cũng khó giải quyết đối với
bất cứ ai không phải là nhà ngôn ngữ học lại không có tiếng nói ở đây, cho nên hình thức chữ viết
hầu như tất nhiên phải thắng thế, bởi lẽ bất cứ giải pháp nào dựa vào nó cũng vẫn dễ hơn; do đó chữ
viết tự gán cho mình một tầm quan trọng mà nó không đáng có.
Saussure đồng thời cũng chỉ ra rằng: “chỉ có 2 loại chữ viết là loại biểu ý (văn tự của người
Trung Quốc) và loại chữ viết ngữ âm học” và “từ viết có xu hướng thay thế cho từ nói trong trí óc ta;
điều đó đúng với cả 2 loại chữ viết, nhưng trong loại đầu (loại chữ viết biểu ý) xu hướng này mạnh
hơn. Đối với người Trung Quốc, chữ biểu ý và từ nói đều là những dấu hiệu của ý niệm như nhau;
đối với họ, chữ viết là một ngôn ngữ thứ hai, và trong khi nói chuyện, nếu gặp 2 từ nói phát âm như
nhau (ĐÂ), đôi lúc họ phải nhờ đến chữ viết để giải thích ý nghĩ của mình. Nhưng sự thay thế này,
vì nó có thể là tuyệt đối, không có những hậu quả phiền hà như trong chữ viết của ta (chữ viết ngữ
âm học), những từ Trung Quốc thuộc nhiều phương ngữ khác nhau nhưng tương ứng với một ý thì
đều có thể cùng được biểu hiện bằng một chữ”.
Cũng trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, sau khi chỉ ra ưu thế của chữ viết so với khẩu
ngữ, Saussure đã giới hạn đối tượng nghiên cứu của mình ở loại văn tự ngữ âm học và chỉ ra những
nguyên nhân của tình trạng không ăn khớp giữa cách viết và cách phát âm. Theo ông, có những
nguyên nhân chính sau (1) do ngôn ngữ biến hóa không ngừng trong khi chữ viết có xu thế đứng yên,
(2) do sự vay mượn hệ thống chữ cái của một dân tộc khác dẫn đến sự không tương thích…, (3) do sự
chi phối của từ nguyên học. Và những hậu quả của nó là: (1) chữ viết che mất bộ mặt thật của ngôn
ngữ, (2) chữ viết ngày càng ít biểu hiện cái mà nó phải biểu hiện và cái xu hướng muốn lấy nó (chữ
viết) làm cơ sở lại càng mạnh thêm dẫn tới đảo ngược mối quan hệ chính đáng và hiện thực giữa chữ
viết và ngôn ngữ, (3) nó tác động đến ngôn ngữ và làm cho ngôn ngữ thay đổi (trong những ngôn ngữ
văn học) thậm chí là tạo ra những quái thai của chính tả.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX đã có rất nhiều ý kiến khen, chê của các nhà
khoa học về chữ Quốc ngữ như: Nguyễn Bạt Tụy [142]; nhóm Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy
Khiêm [70]; Cao Xuân Hạo [52]…. Trong những ý kiến này đáng lưu ý là quan điểm của Cao Xuân
Hạo [52, tr.157, 160-161]. Theo Cao Xuân Hạo, nhược điểm của chữ Quốc ngữ chính là ở chỗ “nó
có tính chất thuần túy ghi âm và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải
đảm đương, và nhược điểm ấy bộc lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong các trường hợp các từ ĐÂ vốn
có rất nhiều trong TV [….] Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải được nữa
nhưng người ta còn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt
buộc ở trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi TV nếu không thấu đáo nghĩa của các từ
Hán Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn từ TV” (tr.160-161) và “trên bình diện ngôn ngữ học
lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với TV” (tr.157).
Theo chúng tôi, những luận điểm trên có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu
HTĐÂ, HTĐN trong TV và THHĐ. Chúng tôi cho rằng, không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của
chữ viết trong việc nhận diện, phân loại các ĐVĐÂ trong THHĐ và một bộ phận không nhỏ từ ĐÂ
của TV (ĐÂ Hán Việt). Hơn thế nữa, chữ viết còn là một tiêu chí quan trọng bên cạnh các tiêu chí
âm, nghĩa tạo thành một bộ tiêu chí quan trọng (hình – âm – nghĩa) trong việc phân biệt các ĐVĐÂ
của THHĐ và các yếu tố cấu tạo từ (YT CTT) kiểu như: đại trong các kết hợp đại ác (大恶), đại
biểu (代表) thời đại (时代)… trong TV hiện đại. Các yếu tố này hiện nay, do việc thay đổi văn tự
(từ văn tự biểu ý sang văn tự ngữ âm) đã che mờ những sự khác biệt về văn tự và ý nghĩa vốn tồn tại
thật trong những ĐV Hán Việt này của TV – một bộ phận mà theo ước tính là chiếm gần 70% vốn
từ TV và hiện vẫn có rất nhiều yếu tố có sức sản sinh từ vựng mạnh và có một vị trí xứng đáng
trong tâm thức của người Việt.
Chúng tôi, mặc dầu cũng ý thức được những đặc điểm phong phú đa dạng và phức tạp của
HTĐÂ trong TV song do nhiệm vụ chính đã được xác định nên chọn cho mình một quan điểm là:
các ĐVĐÂ trong TV đồng thời cũng là những ĐV đồng tự dạng trong mọi dạng thức biểu hiện của
ĐV ấy.
1.4. KHÁI NIỆM ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA
1.4.1. Theo Keith Brown [206, tr.72] thì: ĐÂ (homonyms) là những từ/mục từ (lexemes) khác
nhau nhưng chia sẻ cùng một hình thức giống nhau” và “các từ ĐÂ (homophones ) cần phải được
phát âm giống nhau” trong khi “các từ đồng tự (homographs) có chung hình thức viết giống nhau”.
ĐN (polysemy) có nguồn gốc từ những quá trình và quan hệ ngữ nghĩa – ngữ dụng trong đó
các nghĩa của từ được mở rộng hoặc chuyển đổi thành một mục từ vựng (lexical item) có nhiều nét
nghĩa phân biệt.”
Ở Việt Nam, chỉ có một số ít công trình có đưa ra khái niệm ĐÂ nói chung và khái niệm từ ĐÂ
nói riêng, chẳng hạn: Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94, tr.29] quan niệm: “ĐÂ nghĩa là đọc giống
nhau…, ĐÂ tất phải khác nghĩa”. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm [70, tr.18-19] cho
rằng: “tiếng ĐÂ là những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau nhưng cái nghĩa thì
khác mà không có liên lạc gì với nhau cả”. Hữu Quỳnh [110, tr.49] quan niệm: “từ ĐÂ là những từ
khác nhau nhưng có vỏ âm thanh giống nhau”. Đỗ Hữu Châu [19, tr.228] cho rằng: “những ĐVĐÂ
là những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa”. Tập thể tác giả Hoàng
Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang [57, tr.164-165] cho rằng: “HTĐÂ trong TV là HT
đồng nhất về mặt biểu hiện (trùng về âm thanh), khác nhau về bình diện được biểu hiện (ý nghĩa từ
vựng, ý nghĩa ngữ pháp)”. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan [36, tr.89] thì cho rằng: “từ ĐÂ
là những từ có cùng vỏ âm thanh nhưng nội dung ý nghĩa khác nhau”. Bùi Minh Toán [133, tr.61]
quan niệm: “từ ĐÂ là những từ có hình thức âm thanh hoàn toàn giống nhau nhưng lại khác hẳn
nhau về ý nghĩa và có thể khác nhau cả về các phương diện khác như bản chất ngữ pháp, chức năng
trong giao tiếp, sắc thái phong cách”.
Khảo sát các quan niệm trong giới Việt ngữ học chúng tôi nhận thấy, về cơ bản có thể phân
thành 03 quan niệm: (1) nhóm xác định từ ĐÂ bằng 3 tiêu chí (giống nhau về văn tự, giống nhau về
âm thanh, khác nhau về nghĩa). Đại diện cho nhóm này là nhóm Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy
Khiêm, (2) nhóm xác định từ ĐÂ bằng các tiêu chí như (giống nhau về hình thức âm thanh, khác nhau
về nghĩa và có thể khác cả về các phương diện ngữ pháp), (3) những tác giả còn lại đều chủ trương
xác định từ ĐÂ dựa trên 2 tiêu chí cơ bản là (giống nhau về âm thanh và khác nhau về ý nghĩa). Điều
chưa được hợp lý ở những tác giả này là cách diễn đạt cái gọi là “vỏ âm thanh” và “hình thức ngữ âm”
ở đây rất mơ hồ, dễ gây ra sự ngộ nhận những khái niệm này đơn thuần chỉ là chữ viết. Theo chúng
tôi, nên thay 02 khái niệm này bằng khái niệm hình thức biểu hiện hay chỉ rõ nội hàm và ngoại diên
của 02 khái niệm này thì sẽ phù hợp hơn.
Các tác giả không hiển ngôn khái niệm ĐÂ về cơ bản đều chủ trương 02 tiêu chí: âm giống,
nghĩa khác. Theo chúng tôi, HTĐÂ là những HT đồng nhất về mặt biểu hiện và khác nhau về bình
diện được biểu hiện. Và từ ĐÂ trong TV là những từ giống nhau về âm thanh, khác nhau về nghĩa
và hiện không có quan hệ gì với nhau. Cũng như Lê Quang Thiêm, chúng tôi cho rằng: hình thức từ
đối với nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện cả ở mặt âm thanh và chữ viết nhưng khi nói về sự giống
nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất là về âm thanh, song mặt khác, đối
với một số ngôn ngữ (tiếng Hán…) thì giống nhau về văn tự cũng là quan trọng mặc dù không hoàn
toàn chính xác song cũng cần lưu tâm vì đó là biểu hiện kèm theo. Trên thực tế, trong một số ngôn
ngữ như TV thì thậm chí loại văn tự hiện dùng (chữ Quốc ngữ) vẫn là một loại văn tự còn nhiều bất
cập trong việc phản ánh cách phát âm của người Việt. Điều này cũng đã được phản ánh nhiều trong
các công trình ngữ âm học TV như: Đoàn Thiện Thuật [127], Cao Xuân Hạo [52]…. Song, có lẽ
quan điểm có lợi cho quá trình dạy và học TV hơn cả là nên coi những ĐVĐÂ trong TV là những
ĐV giống nhau về âm đọc, khác nhau về nghĩa, trùng nhau về chữ viết và hiện không có quan hệ gì
về nghĩa.
Ở Việt Nam, khi xác định khái niệm ĐN, các nhà Việt ngữ học thường dựa trên 02 tiêu chí: “SL nghĩa, nét
nghĩa” và “quan hệ giữa các nghĩa” trong một ĐVĐN. Thông thường, một từ có từ 02 nghĩa trở lên và giữa 02
nghĩa ấy vẫn còn tồn tại một mối quan hệ nào đó (thường là quan hệ phái sinh) thì được coi là một ĐVĐN. LA
cũng có quan niệm như vậy. Các ĐVĐN thường được các nhà Việt ngữ học chia thành: ĐNBV, ĐN BN,
ĐNBT….Trong các HT này thì HT ĐNBN (các ý nghĩa của một ĐVĐN còn bao hàm những nét nghĩa nhỏ hơn)
Bấp bênh (t). 1 Dễ mất thăng bằng, dễ nghêng lệch vì không có chỗ tựa vững chắc. Tấm ván kê bấp
bênh. 2 Dễ thay đổi thất thường vì không có cơ sở vững chắc. Cuộc sống bấp bênh. 3 Dễ nghiêng ngả, dễ
dao động. Lập trường bấp bênh. // Láy: bấp ba bấp bênh (ý mức độ nghiêng). (TĐTV tr.49).
luôn được quan tâm chú ý nhiều. Chẳng hạn, phân tích các từ: bấp bênh, bấc, bắp chuối ta thấy:
Tính từ bấp bênh được coi là một từ ĐNBV đơn thuần (gồm 03 nghĩa, giữa các ý nghĩa có
quan hệ phái sinh theo kiểu s R1 R -> sR2 R -> sR3 R, trong mỗi ý nghĩa đều không bao hàm những nét nghĩa
Bấc (d). 1 Cây thân mọc thành cụm ở ven đầm hồ, thân có lõi xốp và nhẹ. Nhẹ như bấc. 2 Lõi của cây
bấc hoặc đoạn vải, sợi dùng làm vật dẫn dầu để thắp đèn. 3 Lõi xốp và nhẹ của một số cây. Bấc sậy. Mía bấc
(mía bị xốp ruột). (TĐTV tr.48).
nhỏ hơn).
Khác với tính từ bấp bênh, danh từ bấc lại là một từ ĐNBV, ĐNBN không hoàn toàn. (danh từ
bấc có 03 nghĩa, giữa các ý nghĩa có quan hệ phái sinh theo kiểu sR1 R -> sR2 R -> sR3 R, các ý nghĩa của từ
bấc chỉ 03 đối tượng khác nhau trong hiện thực khách quan (HTKQ) là: “cây thân mọc thành cụm ở
ven đầm hồ ”, “lõi của cây bấc hoặc đoạn vải ”, “lõi xốp và nhẹ của một số cây ”. Trong đó, các
nghĩa thứ 1 và thứ 2 của danh từ bấc còn bao hàm các nét nghĩa nhỏ hơn là: “có lõi xốp và nhẹ”,
Bắp chuối (d). 1 Phần hình bắp của cụm hoa chuối còn lại sau khi đã sinh buồng chuối, có thể dùng
làm rau ăn. 2 Trạng thái bị sưng tấy ở các cơ chân tay, trông giống hình cái bắp chuối. (TĐTV tr.46)
“dùng làm vật dẫn dầu để thắp đèn”.
Khác với tính từ bấp bênh và danh từ bấc, danh từ bắp chuối lại là một từ vừa ĐNBV vừa
ĐNBN hoàn toàn. 02 nghĩa của từ này có quan hệ phái sinh theo kiểu sR1 R -> sR2 Rvà chỉ 02 đối tượng
khác nhau trong HTKQ là: “phần hình bắp của cụm hoa chuối còn lại sau khi đã sinh buồng chuối ”
và “trạng thái bị sưng tấy ở các cơ chân tay ”. Ngoài ra, trong 02 nghĩa của danh từ bắp chuối còn
bao hàm những nét nghĩa nhỏ hơn là: “có thể dùng làm rau ăn”và “trông giống hình cái bắp chuối ”.
Ở Trung Quốc, đáng chú ý là các quan điểm sau: (1) quan điểm kiên trì 02 tiêu chí: ngữ âm
tương đồng và ý nghĩa hoàn toàn khác biệt là từ ĐÂ. Đại diện cho quan điểm này là: Tôn Thường
Tự [200], Lưu Thúc Tân [187], tập thể tác giả khoa văn học và ngôn ngữ học Trung Quốc [155],
Cao Văn Đạt, Vương Lập Ứng [162], Chu Anh Quý [185]…. Một số tác giả khác như Hà Ái Nhân
[183], Chu Tổ Mạc [177] trong Hán ngữ từ vựng giảng thoại, Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159],
Phù Phó Thanh [189]… tuy cũng chủ trương 02 tiêu chí trên song họ cụ thể hóa tiêu chí “ngữ âm
tương đồng” thành kết cấu âm tiết và thanh điệu tương đồng hay có thanh, vận, điệu tương đồng, (2)
một số tác giả khác như Trương Vĩnh Ngôn [182] thì ngoài 02 tiêu chí “âm giống, nghĩa khác” còn
đưa ra tiêu chí “giống nhau về chữ viết”.
Đối với những từ đồng âm đồng hình (ĐÂĐH), đặc biệt là đối với các ĐV ĐÂĐH song tiết,
các nhà Hán ngữ học còn đề cập tới 03 tiêu chuẩn là: có trọng âm giống nhau, không còn quan hệ
dẫn xuất về nghĩa và các PT CTT khác nhau.
Về khái niệm “ĐN”, các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc đều xây dựng khái niệm “ĐN” dựa
trên 02 tiêu chí số lượng và tiêu chí quan hệ. Chẳng hạn: Phù Phó Thanh [189, tr.51] cho rằng: “từ
ĐN là từ có nhiều ý nghĩa và những ý nghĩa này có quan hệ mật thiết với nhau”. Hay: “từ đơn nghĩa
là từ có một hình thức ngữ âm liên hệ tới một nghĩa hạng. Còn từ ĐN là từ có một hình thức ngữ âm
2
1 Pzhĭ huà] và [点子RRP Pdiǎn
liên hệ với hơn một nghĩa hạng trở lên và giữa các nghĩa hạng vẫn còn tồn tại một mối quan hệ mà
Ptrong THHĐ ta thấy: zi]P
P] zhĭ huà. Tranh vẽ bằng ngón tay (một lối quốc họa của Trung Quốc, nhúng ngón tay vào mực
2 [指画P
mà vẽ). (TĐ THHĐ 2005 tr.1753).
hiện thời vẫn nhận ra…”. Chẳng hạn: phân tích nghĩa của 02 danh từ: [指画P
1 [点子RRP
P]P
Pdiǎn zi. 1. Giọt/hạt: 雨点子Giọt mưa. 2. Vết: 油点子Vết dầu. 3. Nhịp: 鼓点子Nhịp trống. 4.
thôi. (TĐ THHĐ 2005 tr.305).
2 Từ ghép song tiết [指画P Pzhĭ huà] là 01 danh từ đơn nghĩa với 01 nghĩa hạng là “chỉ một loại tranh
1 vẽ bằng ngón tay của Trung Quốc”, còn từ ghép song tiết [点子RRP Plại là 01 danh từ ĐN với 04 Pdiǎn zi]P
1 sR2R -> sR3 R->sR4 R do chúng đều có chung một nguồn gốc (các nghĩa hạng của [点子RRP Pdiǎn zi] đều được phát
1 triển từ nghĩa hạng thứ 01, thứ 02 và thứ 07 của từ点RRP Pdiǎn dưới đây:
1 点 RRP
Pdiǎn. 1. Hạt/giọt: 雨点Hạt mưa. 2. Chấm/vết: 墨点儿Vết mực. 斑点Vết đốm….7. (lượng từ)
Điểm/điều: 两点意见Hai ý kiến. 他的错误主要有三点Sai lầm của nó chủ yếu có ba điểm….(TĐ THHĐ
2005, tr.304).
nghĩa hạng (ĐN biểu vật). Tất cả các nghĩa hạng này đều có mối quan hệ qua lại với nhau theo kiểu sR1R ->
Và về cơ bản, các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc đều chủ trương rằng: tính ĐN của từ là một
khái niệm đồng đại, không phải để chỉ quá trình biến đổi lịch đại nghĩa của từ.
1.4.2. Từ ĐÂ và ĐN là khái niệm dùng để chỉ 01 ĐV có 02 đặc điểm song song tồn tại là vừa
ĐÂ (xét trong mối quan hệ liên đối tượng trong một loạt ĐÂ) vừa ĐN (xét trong mối quan hệ giữa
các nghĩa trong bản thân nó).
Vấn đề ĐN của từ ĐÂ có nhiều điểm khác biệt so với các ĐVĐN thông thường (khác biệt về
dung lượng nghĩa (DLN)…) và có quan hệ rất mật thiết tới vấn đề phân li các nghĩa của một ĐVĐN
thành các ĐVĐÂ (ĐÂCG nghĩa), trực tiếp liên can tới vấn đề xác định giới hạn phân li của các
nghĩa thành các ĐVĐÂ trong một số từ ĐN TV. Trong các công trình bàn về từ vựng ngữ nghĩa học
TV chưa có tác giả nào khai thác vấn đề từ ĐÂ và ĐN theo hướng đi của LA. Phần lớn họ đều xử lí
vấn đề từ Đ và ĐN theo hướng tách rời “từ Đ” và “từ ĐN”. Một số tác giả như: Nguyễn Văn Tu
[138], Đỗ Hữu Châu [23]… tuy có bàn tới mối quan hệ giữa từ ĐÂ và từ ĐN khi giới thuyết về HT
phân li các nét nghĩa thành các ĐVĐÂ song chỉ dừng ở một mức độ rất sơ sài.
Trong các công trình viết về từ vựng ngữ nghĩa học ở Trung Quốc tình hình cũng tương tự.
Các nhà Hán ngữ học cũng có xu thế tách rời vấn đề từ ĐÂ và vấn đề từ ĐN thành hai vấn đề riêng
biệt và cũng chỉ dừng ở mức độ thảo luận sơ lược về mối quan hệ giữa từ ĐÂ và từ ĐN khi nói về
các ĐV ĐÂĐH mà thôi. Tiêu biểu phải kể đến là Phù Phó Thanh [189], Tôn Kế Thiện [192], Lưu
Xuyên Dân [161], Trương Bác [151]…
1.5. VỀ DANH XƯNG “TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA”
Trên thực tế, danh xưng “từ ĐÂ và ĐN”có 02 cách hiểu:
Cách hiểu thứ nhất, “từ ĐÂ và ĐN” là một khái niệm dùng để chỉ một đối tượng là từ vừa ĐÂ
(nằm trong một loạt ĐÂ nào đó) vừa ĐN (có từ 02 nghĩa trở lên). Trong danh xưng này chứa đựng
hai khái niệm là “từ Đ”, “từ ĐN” gắn kết chặt chẽ với nhau.
Cách hiểu thứ hai, “từ Đ và ĐN” gồm có hai đối tượng là “từ Đ” và “từ ĐN” tách rời nhau hay
không nhất thiết phải gắn kết với nhau.
Chúng tôi, trong LA này, hiểu danh xưng “từ ĐÂ và ĐN” theo cách hiểu thứ nhất. Nói cách khác, ở
diện rộng, LA không những lấy toàn bộ từ ĐÂ, từ ĐN của TV làm đối tượng khảo sát để khái quát lên
những HT cơ bản và quan trọng nhất của HTĐÂ, HTĐN trong TV mà ở diện hẹp, LA còn đi vào khảo sát
riêng một tiểu loại đặc biệt của từ ĐÂ và từ ĐN (ĐÂ kèm ĐN trong khu vực cùng gốc ngữ nghĩa. Còn gọi
Bã I d. Phần xác còn lại sau khi đã lấy hết chất nước cốt. Bã rượu. Theo voi ăn bã mía.(tng.).
là những từ ĐÂ mà lại ĐN trong khu vực cùng gốc ngữ nghĩa) kiểu như:
II t. 1 Rời, nát và nhạt nhẽo như chỉ là cái bã còn lại. Giò bã. 2 Mệt mỏi tới mức có cảm giác như chân
tay rã rời, không còn gắng gượng để hoạt động bình thường được. Mệt bã cả người. (TĐTV tr.23).
Bẫy I (d). 1 Dụng cụ thô sơ để lừa bắt, giết loài vật hoặc kẻ địch. Chim sa vào bẫy. Gài bẫy. Bẫy chông. 2
Cái bố trí sẵn để lừa cho người ta mắc vào. Tên cướp bị sa bẫy.
Hay như:
II (đg). 1 Bắt hoặc tiêu diệt bằng bẫy. Đốt đèn để bẫy bướm. 2 Lừa cho mắc mưu để làm hại. Bẫy
người vào tròng. (TĐTV tr.53).
Đây là những ĐV có mối liên hệ rất mật thiết tới quá trình phân li nghĩa và HTCL của từ TV.
Như vậy, đối tượng khảo sát của LA không chỉ thuộc về lĩnh vực từ ĐÂ, lĩnh vực từ ĐN đơn thuần
hay tách biệt mà còn bao gồm một bộ phận không nhỏ những đối tượng trung gian giữa HTĐÂ và
HTĐN. Theo chúng tôi, làm như vậy mới có thể bao quát được tất cả những biểu hiện đa dạng,
phong phú cũng như chỉ ra được những điểm đồng nhất và khác biệt tinh tế giữa hai HT này.
1.6. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA
1.6.1. Trong ngôn ngữ học, 03 tiêu chí cần và đủ để xác định những ĐVĐÂ là: (1) tiêu chí về
ngữ âm (giống nhau về âm thanh), (2) tiêu chí nghĩa (khác nhau về nghĩa), (3) tiêu chí quan hệ
(không có quan hệ gì với nhau). Chẳng hạn: trong tiếng Anh bankR1 R(chỉ tổ chức tài chính) và bankR2 R
(chỉ sườn dốc của con sông) là 02 từ ĐÂ với nhau (ĐÂ hoàn toàn) vì có âm thanh giống nhau, có
nghĩa khác nhau, không có quan hệ về từ nguyên. Trong TV, baR1 R (chỉ số đếm sau số hai) và baR2 R (chỉ
người đàn ông trong mối quan hệ với con) là 02 từ ĐÂ. anh vũR1 R (chỉ chim vẹt) và anh vũR2 R (chỉ một
loài cá nước ngọt) cũng là 02 từ ĐÂ với nhau. Trong THHĐ 尝 (thường) nếm và 长 (trường) dài là
02 từ đơn tiết ĐÂ với nhau.会议 (hội nghị) hội nghị và 会意 (hội ý) hội ý, biết ý, hiểu ý là 02 từ
song tiết ĐÂ với nhau. Tuy vậy, trên thực tế, khi xác định những ĐVĐÂ một số nhà ngữ học vẫn
đưa thêm vào một số tiêu chí khác như: văn tự, dạng thức….
Theo chúng tôi, TV và THHĐ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến đổi hình thái nên
phương pháp xác định các ĐVĐÂ nói chung và từ ĐÂ nói riêng sẽ không giống vói các ngôn ngữ Ấn
Âu (không có ĐÂ hình thái), các từ đã có quan hệ ĐÂ sẽ giữ mãi quan hệ đó trong tất cả quan hệ sử
dụng của mình và mặc dù chữ viết (văn tự) về lí luận chỉ là “cái để biểu hiện ngôn ngữ”, “ nằm ngoài
ngôn ngữ”… song do những đặc thù về lịch sử của 2 ngôn ngữ Việt, Hán như: trong TV có một bộ phận
không nhỏ từ Hán Việt (xấp xỉ 70 %), người Việt đã sử dụng chữ Hán trong một thời gian dài song song
với việc sử dụng văn tự âm vị học và THHĐ hiện vẫn đang sử dụng loại văn tự biểu ý nên theo chúng
tôi, bên cạnh 3 tiêu chí (ngữ âm, ý nghĩa, quan hệ) thì tiêu chí phụ (tiêu chí văn tự) sẽ có một vai trò
nhất định trong việc xác định, phân loại các ĐVĐÂ trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán (dùng để phân biệt các
ĐV ĐÂĐH trong tiếng Hán, phân biệt các ĐVĐÂ ngẫu nhiên với những ĐVĐÂ được phân tách từ
những ĐVĐN…).
1.6.2. Trong ngôn ngữ học, những tiêu chí thường được dùng để xác định một ĐVĐN là: (1) tiêu
chí SL nghĩa (có từ 2 nghĩa trở lên), (2) tiêu chí quan hệ (giữa các nét nghĩa của một ĐVĐN hiện vẫn
còn tồn tại mối quan hệ nào đó với nhau), (3) tiêu chí từ nguyên (có quan hệ về từ nguyên học).
Theo thống kê của chúng tôi, trong TV, từ có nhiều nghĩa nhất là từ đánh (có 27 nghĩa), trong
tiếng Hán, từ có nhiều nghĩa nhất là từ 打(đả; có 25 nghĩa) song phổ biến nhất là những từ có 2 hoặc
3 nghĩa. Về mặt quan hệ, các nghĩa của một từ ĐN thường được xác định là phải có một mối quan
hệ nào đó với nhau thông qua một vài nét nghĩa chung và một số nét nghĩa loại biệt. Các nét nghĩa
loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở trên một số điểm giống
nhau về chức năng, hình thức hoặc một thuộc tính nào đó của đối tượng. Những tiêu chí này đã dẫn
tới những hệ quả như: sự phân loại các ĐV ý nghĩa trong một từ ĐN thành: (1) HT ĐNBV (phạm vi
hiện thực khách quan ứng với từ), HT ĐNBN, HT ĐNBT. (2) Nghĩa gốc (nghĩa chính) – nghĩa phụ,
(3) nghĩa cơ bản – nghĩa không cơ bản, (4) nghĩa tự do, nghĩa hạn chế, (5) nghĩa dẫn xuất bậc một,
nghĩa dẫn xuất bậc hai…. Đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để nhận diện hiện tượng đẳng cấu
ngữ nghĩa trong ngôn ngữ (đó là những ĐV có SL nét nghĩa như nhau, trật tự các nét nghĩa giống
nhau, quan hệ giá trị của các nét nghĩa giống nhau).
Theo quan điểm của LA, cùng với các phương pháp phân loại khác, việc phân loại HTĐN
thành: ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT cũng là hướng phân loại hợp lí. Trong đó, theo chúng tôi HT ĐNBN
là HT cần được lưu tâm nhất bởi đó là dạng nghĩa khái quát, ổn định, có tính hệ thống cao, nhờ đó
mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty. Mặt khác, dựa trên cấu trúc biểu
niệm thì mới có được cơ sở vững chắc để đối chiếu đặc điểm ĐN của các ngôn ngữ với nhau, từ đó
mới thấy được cái chung và cái riêng của từ ĐN trong các lớp từ vựng hay trong các từ loại cơ bản
của ngôn ngữ.
Qua thực tiễn thống kê, mô tả chúng tôi nhận thấy: đối với TV, mối quan hệ về nghĩa trong các
ĐVĐN thường được xây dựng trên 3 kiểu quan hệ là: quan hệ kế tiếp, quan hệ song hành và xen kẽ kế
tiếp với song hành.
1.6.3. Từ ĐÂ và ĐN là từ vừa ĐÂ (nằm trong một loạt ĐÂ nào đó) vừa ĐN (có từ 02 nghĩa trở
lên). Trong TV, từ ĐÂ và ĐN có mặt ở cả hai khu vực: khu vực ĐÂCG và khu vực ĐÂKG, chúng
bao gồm cả những ĐV đơn tiết và đa tiết. Điểm khác biệt cơ bản giữa những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN
trong khu vực ĐÂCG và những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG là ở chỗ: những ĐV vừa
ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG vẫn còn tồn tại một mối liên hệ về nghĩa nào đó trong khi đó
những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG thì không.
1.7. GIỚI HẠN CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA
Trong giới NNH, vấn đề giới hạn của từ ĐÂ và từ ĐN được thảo luận khá nhiều và hiện vẫn là
một vấn đề nan giải. Chẳng hạn:
John lyons [89, tr.75-77] cho rằng: “02 tiêu chí thường được dẫn ra liên quan đến vấn đề này trong
tiếng Anh (vấn đề sự khác biệt về lí thuyết giữa ĐÂ và ĐN) là tiêu chí từ nguyên (lai nguyên lịch sử của
từ) và tính có liên hệ về nghĩa […] trong phần lớn trường hợp, từ nguyên học ủng hộ trực cảm của
người bản ngữ bình thường về sự khác biệt giữa ĐÂ và ĐN […] và chính sự mở rộng nghĩa theo ẩn dụ
với tư cách một quá trình đồng đại là vấn đề gây tranh cãi khi người ta dẫn ra các nghĩa có liên quan tới
nhau của một từ vị ĐN […] nói cho cùng, không thể nào vạch ra được một sự phân biệt dứt khoát giữa
sự mở rộng hay chuyển di ngữ nghĩa tự phát, do những người nói cá biệt thực hiện trong những tình
huống cụ thể với việc họ dùng các nghĩa của một từ vị được mở rộng và chuyển di, đã được thể chế hóa,
tồn tại trước đó, được tìm thấy trong từ điển…”
Nguyễn Văn Tu [137, tr.53] chủ trương: “nên dựa vào những tài liệu khách quan của ngôn
ngữ toàn dân trong một giai đoạn lịch sử nhất định”. Tới công trình Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại
năm 1978 (tr.153), ông hiển ngôn như sau: “những từ ĐÂ do sự tách rời các ý nghĩa cũa một từ ĐN
ra thuộc về HT nhất từ đa loại”. Theo ông, có thể phân biệt bằng 03 cách sau: (1) tìm những dấu
hiệu hình thái học và cú pháp, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) phải chú ý tới cả mặt lô gích,
mặt tâm lí của nghĩa và mặt ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại. Theo ông, trong 03 phương pháp
này thì phương pháp thứ ba là phương pháp có hiệu năng hơn cả.
Hoàng Phê [104, tr.13] cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa và HT từ ĐÂ là một vấn đề khó
khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều nghĩa hay là nên tách ra thành mấy
từ ĐÂ… nếu quan hệ giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm thì tốt hơn là tách ra thành ĐÂ.”
Đỗ Hữu Châu [17, tr.48] đã đề ra tiêu chuẩn tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra
một cách cá biệt mà ngày nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác
của từ thì có thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ…” Tới công trình Từ vựng ngữ
nghĩa tiếng Việt [1981, tr.232], Đỗ Hữu Châu còn cho rằng: “khó khăn nhất là phân biệt từ ĐÂ và từ
nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì tách ra thành hai ba từ
ĐÂ... tuy nhiên rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...” Những trường hợp
khó xác định theo ông là: “(1) Những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển từ loại lớn như:
cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt) và thịt (thịt một con lợn)..., (2) những trường
hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển tiểu loại như: chạy (chạy trên đường) và chạy (chạy gạo)...,
(3) những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các nghĩa tuy đã khá mờ nhạt nhưng vẫn chưa
mất hoàn toàn kiểu như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng tay), lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)”.... Theo
ông, nếu chỉ xét trong hệ thống từ vựng (không xét vận động từ ngôn ngữ sang lời nói) thì có thể có
những mức độ sau đây: (a) một hình thức ngữ âm, một nghĩa, (b) một hình thức ngữ âm, nhiều
nghĩa (HT nhiều nghĩa bao gồm cả các NBV, biểu niệm và nghĩa ngữ pháp, có tính đồng loạt cao
kiểu như những trường hợp chuyển từ loại, tiểu loại hoặc như trường hợp chuyển từ dt chỉ đồ vật
sang dt chỉ đơn vị, trường hợp chuyển tên gọi hoạt động sang tên gọi đơn vị, sự vật do hoạt động đó mà có,
(c) một hình thức ngữ âm, nhiều nghĩa (HT nhiều nghĩa chỉ bao gồm các NBV, không bao gồm ý nghĩa
ngữ pháp) nhưng tính đồng loạt vẫn cao, biểu hiện trong sự chuyễn nghĩa theo cùng một hướng của những
từ trong cùng một trường kiểu như: mặt - mặt ghế; chân – chân tường; lòng – lòng súng…, (d) Một hình
thức ngữ âm, nhiều nghĩa (HT nhiều nghĩa bao gồm cả NBV) tính cùng hướng không rõ ràng tuy vậy vẫn
có thể đoán được cơ chế chuyển nghĩa theo hướng ẩn dụ, hoán dụ hay rút gọn kiểu như: lùa (lùa vịt) với
lùa (lùa cơm vào miệng), đầm (ao đầm) với đầm (lệ đầm thấm khăn), (e) một hình thức ngữ âm, nhiều
nghĩa nhưng không có tính đồng loạt, không nhận ra được cơ chế, tính nhiều nghĩa hoàn toàn cá biệt kiểu
như: đi (đi giày) với đi (đi Hà Nội) và những trường hợp ĐÂ ngẫu nhiên do nhiều nguyên nhân mà có.
Theo Đỗ Hữu Châu, chỉ có thể xem là từ ĐÂ ở trường hợp (c) còn các trường hợp (a; b; d; e) thì là từ
nhiều nghĩa.
Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.188] thì chủ trương vận dụng tiêu chuẩn “ngữ nghĩa”, ông viết: “khi
một ý nghĩa của một ĐV nhiều nghĩa bị phân hoá xa đến mức cái nghĩa tố chung vốn có của ý nghĩa
này với các ý nghĩa khác của từ trở nên không quan yếu đối với nó nữa, đặc trưng cho ý nghĩa này
là một nghĩa tố khác, chính nghĩa tố đó đưa từ nhập vào một trường HT mới, khi đó có thể coi như
đã xuất hiện một từ mới.”
Theo tập thể tác giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang [57, tr.159-160]
thì “giới hạn của từ ĐÂ và từ ĐN có thể được nhận diện qua tiêu chí “nhận biết sự tồn tại hay vắng
mặt các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa của một từ ĐN”.
Lê Quang Thiêm [130, tr.193] cho rằng “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung trong các
nghĩa của từ ĐN là tiêu chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.
Cao Xuân Hạo [52, tr.138-148] khi bàn về trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong TV (trọng
âm trong câu, trọng âm trong các tổ hợp đẳng kết) đã bước đầu ứng dụng lý thuyết trọng âm khá
thành công vào phân biệt những kiểu câu mà trước đây được dán nhãn là “câu mơ hồ”, “câu Đ”,
“câu đồng nghĩa” kiểu như: Sinh viên mới học ngôn ngữ học. Theo tác giả, câu này là cách ghi dùng
cho 03 câu nói khác nhau về mô hình trọng âm. Theo ông, nếu phát âm với mô hình [001001] (trọng
âm đánh vào chữ mới cho biết rằng chữ này kết thúc một ngữ đoạn danh từ làm chủ ngữ (làm chủ đề
của câu) còn học ngữ học là vị ngữ (phần thuyết). Nếu phát âm với mô hình [011101] trọng âm ở
chữ viên, cho biết rằng chủ ngữ kết thúc ở đó; 02 trọng âm trên mới học cho thấy mối quan hệ giữa
một vị từ tình thái với bổ ngữ của nó. Còn nếu phát âm với mô hình [010101], ngữ đoạn chủ đề
cũng kết thúc với viên nhưng chữ mới khác hẳn với chữ mới trong mô hình trước (nó không có
trọng âm và nguyên âm của nó bị nhược hóa, đọc nghe như “mí”). Theo ông, đây cũng là từ tình
thái nhưng ý nghĩa của nó rất khác với mới mang trọng âm. Nó cho biết tính “duy nhất” của đối
tượng được nói tới ở phần đề (chỉ có sinh viên mí học ngôn ngữ học mà thôi). Bên cạnh việc ứng
dụng lý thuyết trọng âm vào việc phân tích câu như vừa dẫn ở trên, Cao Xuân Hạo còn áp dụng lý
thuyết này vào việc phân biệt một số hư từ hay giới từ với những thực từ vốn là gốc phát sinh của
nó hoặc ngẫu nhiên ĐÂ với nó như: chỉ, là, với, và, thì, cho…. Theo ông, lý thuyết trọng âm còn có
thể giúp phân biệt quan hệ ngữ pháp của những cặp tổ hợp có thành phần đồng nhất như:
a. bút mực [11] và bút mực [01]
b. cửa ngõ [11] và cửa ngõ [01]
c. em út [11] và em út [01]
d. cá mú [11] và cá mú [01]
Trong đó, những tổ hợp có mô hình [11] là một biểu thức có nghĩa “tập hợp”. Tổ hợp có mô
hình [01] là một kết cấu định ngữ hạn định (thứ bút gì…). Theo chúng tôi, đây là một lý thuyết mới,
có hiệu quả giải thích đối với TV song cần tiếp tục kiểm nghiệm thêm.
Các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc như Tôn Kế Thiện [192] trước tiên nêu lên những khó
khăn trong việc phân biệt từ ĐÂĐH SÂT và từ ĐN SÂT: “việc phân biệt từ ĐÂĐH SÂT và từ ĐN
SÂT trên thực tế là rất phức tạp. Ngoài việc cần phải khảo sát cân nhắc xem giữa chúng còn có quan
hệ dẫn xuất về nghĩa hay không còn phải cân nhắc phương thức cấu từ giữa những ngữ tố và những
ngữ tố đại diện cho hai âm tiết xem chúng có tương đồng hay không”. Tiếp đó, ông căn cứ vào cách
xác lập các đầu mục của Hiện đại Hán ngữ từ điển, 1996 để đưa ra 08 loại hình từ ĐÂ. Cuối cùng
ông cho rằng: đã là từ ĐÂĐH SÂT cần phải hội đủ các đặc trưng sau đây: (1) Hai từ phải có âm
đọc hoàn toàn giống nhau và không có quan hệ dẫn xuất về nghĩa, (2) phải bao hàm một hoặc
hai ngữ tố ĐÂ, (3) phải bao hàm một hoặc hai ngữ tố ĐN biểu thị những nghĩa hạng khác nhau,
(4) nghĩa hạng của ngữ tố phải giống nhau nhưng có phương thức CTT khác nhau. Trong 04
điều kiện trên, thì chỉ cần thỏa mãn 03 tiêu chuẩn là đạt”.
Phù Phó Thanh [189] thì cho rằng: “quan trọng nhất là xem hiện nay có còn quan hệ về ngữ
nghĩa hay không. Nếu không còn quan hệ thì là từ ĐÂ, nếu còn quan hệ thì là từ ĐN”. Theo ông, có
thể xét ở hai góc độ: trong từ nguyên có quan hệ hay không? Hiện nay có thể cảm nhận được không?
Từ hai góc độ này, có thể có 4 khả năng là: (a) Trong từ nguyên có quan hệ, hiện nay vẫn cảm nhận
được quan hệ, (b) trong từ nguyên có quan hệ, hiện nay không cảm nhận được quan hệ, (c) trong từ
nguyên không có quan hệ, hiện nay vẫn cảm nhận được quan hệ, (d) trong từ nguyên không có quan
hệ, hiện nay không cảm nhận được quan hệ. Theo ông, ở trường hợp (a) là ĐN, trường hợp (d) là ĐÂ,
khó khăn là ở các trường hợp (b) và (c). Theo ông, trường hợp (c) xử lí thành từ ĐÂ là tốt nhất”.
Trương Vĩnh Ngôn [182, tr.56] cho rằng: “khi một nghĩa mới của từ và một nghĩa cũ vẫn còn
tồn tại một quan hệ nhất định, thuộc về cùng một kết cấu ý nghĩa của một từ thì đó chính là sự phát
triển về chất chứ không phải sự tăng trưởng về lượng của từ vựng. Nếu mối quan hệ giữa ý nghĩa cũ
và mới của một từ đã đứt hẳn hoặc bị giải thể thì sản sinh ra từ mới và xảy ra sự tăng trưởng về
lượng và đồng thời cũng bao hàm sự phát triển về chất”.
Chúng tôi quan niệm: HTĐÂ là mối quan hệ nằm giữa 02 hoặc hơn 02 ĐV khác biệt nhau còn
HTĐN lại là một đặc trưng của một ĐV đơn nhất. Và mặc dầu sự khác biệt giữa ĐÂ và ĐN không
phải lúc nào cũng rạch ròi trong những trường hợp cụ thể song có lẽ sự áp dụng đồng thời nhiều tiêu
chí (tiêu chí từ nguyên học, tiêu chí có tính liên hệ về nghĩa, tiêu chí khả năng kết hợp…) sẽ có tác
dụng cho việc phân biệt những ĐV này trong TV và trong THHĐ.
1.8. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA
1.8.1. Về vấn đề phân loại các ĐVĐÂ, trong một số ngôn ngữ biến hình như tiếng Anh, việc
phân loại các ĐVĐÂ có nhiều khác biệt so với việc phân loại các ĐVĐÂ trong các ngôn ngữ đơn
lập như TV, tiếng Hán. Chẳng hạn:
John Lyons [89, tr.75] phân loại ĐÂ thành 02 loại là ĐÂ tuyệt đối (absolute homonymy) và
ĐÂ không hoàn toàn (partial homonymy). Trong đó, những từ ĐÂ tuyệt đối ngoài điều kiện bắt
buộc tối thiểu cho mọi kiểu ĐÂ là giống nhau ít nhất ở một dạng thức ra còn phải thỏa mãn 03 điều
kiện là: (i) chúng không có quan hệ gì về nghĩa, (ii) tất cả các dạng thức đều đồng nhất, (iii) các
dạng thức đồng nhất đều tương đương về ngữ pháp như: bank R1 R (tổ chức tài chính) và bankR2 R (sườn
dốc của con sông); soleR1 R(chỉ phần đáy của bàn chân hay giày) với soleR2 R (chỉ một loại cá). Còn ĐÂ
không hoàn toàn tức là những trường hợp mà: (i) có sự giống nhau tối thiểu về một dạng thức, (ii)
có một, hai chứ không phải tất cả 03 điều kiện trên được thỏa mãn, ví dụ như: các động từ find và
found cùng chung nhau dạng thức found song không chung nhau các dạng thức finds, finding hoặc
founds, founding… Hay HTĐÂ hoàn toàn của tính từ lastR1 R trong last week (tuần trước) và động từ
lastR2 R trong bricks last a long time (gạch bền trong một thời gian dài). Hoặc: danh từ rung (chỉ thanh
ngang của cái thang) và động từ ring (reo) trong 02 phát ngôn sau cũng là ĐÂ không hoàn toàn: a
rung of the ladder was broken (một cái thanh ngang của cái thang đã gãy) và the bell was rung at
midnight (chuông reo vào lúc nửa đêm). Theo John Lyons, “trong tiếng Anh, tình cờ là các dạng
trích dẫn trùng với dạng cơ bản trong tất cả những từ vị chuẩn mực về hình thái học song thực tế
không được như vậy ở tất cả các ngôn ngữ”.
Ở Trung Quốc, các nhà ngôn ngữ học như Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159] đề nghị phân
biệt từ ĐÂ dưới góc độ tự hình với 02 kiểu: ĐÂĐH và ĐÂDH. Các tác giả như Cao Danh Khải
[169], Tôn Thường Tự [200], Chu Tổ Mạc [177], Thôi Hạ Ái [150], Hà Ái Nhân [183] có xu thế
chia từ ĐÂ thành 04 loại: do ngữ âm biến đổi mà thành ĐÂ, do âm đọc ngẫu nhiên trùng nhau, do
sự phân hóa ý nghĩa của từ ĐN nhưng vẫn bảo lưu được âm đọc, do mượn dùng từ ngoại lai. Phù
Phó Thanh [189] căn cứ vào 03 tiêu chí hình – âm – nghĩa chia từ ĐÂ thành 03 loại: từ ĐÂĐH (từ
và từ tố ĐÂĐH, từ tố ĐÂĐH với từ tố), từ ĐÂ DH (hình chữ nửa giống nửa khác, hình chữ hoàn
toàn khác nhau), từ ĐÂ phái sinh. Lưu Thúc Tân [187] chia HTĐÂ thành 02 loại: ĐÂ ngẫu nhiên và
từ ĐÂ.
Ở Việt Nam, năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.22-24] đã phân từ ĐÂ trong TV thành 02 loại
là: những từ ĐÂ hoàn toàn và từ ĐÂ bộ phận (từ đơn ĐÂ với bộ phận của từ đa tiết, bộ phận từ đa âm
tiết ĐÂ với bộ phận của từ đa âm tiết). Đinh Văn Đức [40, tr.38-39] chia từ ĐÂ thành 02 loại: ĐÂ ngữ
pháp và ĐÂ ngẫu nhiên. Nhữ Thành [124, tr.40-48] đưa ra các khả năng có thể tạo nên HTĐÂ là: âm
tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết tự do, âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết Hán việt, âm tiết phiên âm ĐÂ với
âm tiết láy âm… và cho rằng: âm tiết tự do ĐÂ với âm tiết tự do xuất hiện nhiều nhất.
Nguyễn Văn Tu [138, tr.145] lại căn cứ vào “chỗ khác nhau về nghĩa từ vựng và phạm trù ngữ
pháp của các từ Đ” chia từ Đ thành hai kiểu: (1) Từ Đ từ vựng (cùng từ loại, khác nhau về ý nghĩa
từ vựng) và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp (những từ ĐÂ với nhau cả về ngữ pháp lẫn nghĩa từ vựng).
R(cất hàng), cấtR4 R(cất vó) và ĐÂ không hoàn toàn như: chảy (chảy nước mắt), trảy (trảy quả). Loại ĐÂ từ
Trong đó loại ĐÂ từ vựng gồm hai tiểu loại là ĐÂ hoàn toàn như: cấtR1 R(cất sách đi), cấtR2 R(cất rượu), cấtR3
vựng – ngữ pháp cũng bao gồm hai tiểu loại là: loại đơn giản (chỉ có hai từ loại với nhau) kiểu như: bào
(đgt) – bào (dt); về (giới từ) – về (về nhà). Loại phức tạp (gồm nhiều từ loại khác nhau) như: dầu (liên
từ) – dầu (dt) – giầu (tt) – rầu (tt)”.
Phan Ngọc [100, tr.67] thì chia từ ĐÂ thành 06 loại là: (1) thuần Việt ĐÂ với thuần Việt, (2)
láy âm ĐÂ với láy âm, (3) thuần Việt ĐÂ với láy âm, (4) Hán Việt ĐÂ với thuần Việt, (5) Hán Việt
ĐÂ với láy âm, (6) Hán Việt ĐÂ với Hán Việt. Từ việc xác lập 06 kiểu từ ĐÂ trên, ông lần lượt đi
vào khảo sát từng kiểu một và khẳng định: “Tuy về mặt cấu trúc có thể có 06 kiểu từ ĐÂ, nhưng
một khi TV đã là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ bản
nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi HTĐÂ khác” (tr 67).
Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan Ngọc thì đứng ở vị trí thứ hai trong 06 kiểu ĐÂ là kiểu
Hán Việt ĐÂ với Hán Việt.
Nguyễn Thiện Giáp [44], [47; tr.174-178] chia từ ĐÂ thành 02 loại là: (1) ĐÂ giữa từ với từ (là
cơ bản nhất), (2) ĐÂ giữa ngữ và cụm từ (là sản phẩm hậu kỳ của quá trình sử dụng ngôn ngữ) với 14
kiểu quan hệ. Tập thể tác giả Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan [36, tr.89-90] chia từ ĐÂ thành 02
loại là (1) ĐÂ hoàn toàn: là ĐÂ giữa hai ĐV cùng cấp độ. Tức là ĐÂ giữa từ với từ hoặc giữa từ tố với
từ tố, (2) ĐÂ khác bậc: là kiểu ĐÂ giữa một từ tố với một từ độc lập”. Bùi Minh Toán [133, tr.65] chia
từ ĐÂ thành 04 loại là (1) ĐÂ từ vựng, (2) ĐÂ ngữ pháp, (3) ĐÂ đơn tiết, (4) ĐÂ đa tiết. Nguyễn Văn
Khang [69, tr.144,476] chia từ ĐÂ thành 03 loại là: ĐÂ giữa từ Hán Việt với từ Việt, từ Hán Việt ĐÂ
với từ Hán Việt, ĐÂ giữa từ mượn Pháp với từ Việt, rồi lại chia nhỏ thành: ĐÂ giữa từ với từ, ĐÂ giữa
hình vị với hình vị, ĐÂ giữa từ với hình vị. Lê Quang Thiêm [130, tr.139-141] thì chia thành 02 loại là
(1) ĐÂ cùng bậc và (2) ĐÂ khác bậc và khẳng định “ĐV ĐÂ điển hình là từ bởi từ là ĐV phức tạp về
cấu trúc, ý nghĩa, đảm nhiệm nhiều chức năng và có nhiều dạng thể hiện trong lời nói”…
Theo chúng tôi, tất cả những cách phân loại trên đều có cơ sở khoa học, vẫn có giá trị giải
thích đối với HTĐÂ trong TV. Và trong những thời điểm nhất định đã giúp ích cho việc dạy và học
TV. Song có lẽ do tiến hành thống kê trong những bộ từ điển được biên soạn đã quá lâu nên số liệu
tới nay đã không còn hoàn toàn chính xác. Mặt khác, một số tác giả khi làm thống kê chưa thật sự
triệt để mà chỉ làm điểm một số mục từ rồi dựa vào đó để đoán định nên kết quả là bỏ sót nhiều
HTĐÂ lí thú của TV và khi kiểm tra lại thấy còn mơ hồ hoặc còn nhiều sai sót. Chẳng hạn: Đỗ Hữu
Châu [1981; tr. 229-230] cho rằng: “…HT ĐÂ trong tiếng Việt xuất hiện khá nhiều ở những từ một
âm tiết”. Theo kết quả thống kê xử lí mục L trong từ điển của ông thì: “…Có tổng cộng 106 âm tiết
tương đương với hai từ trở lên và có 164 âm tiết tương đương với một từ. Ở các mục từ khác thì tỷ
lệ giữa các âm tiết ĐÂ và âm tiết một từ cũng xấp xỉ tỷ lệ trên. Còn những trường hợp ĐÂ song tiết
(02 âm tiết) là cực kỳ hiếm thấy…”. (chỉ thấy ông đưa ra có 06 cặp). Thống kê Từ điển từ đồng âm
tiếng Việt; 2001 [58] chúng tôi thu được 136 loạt ĐÂST với 272 ĐV. Còn theo số liệu thống kê
TĐTV 2006 của chúng tôi thì trong TV hiện có tới 282 loạt ĐÂST với 577 ĐV.
Theo quan điểm của LA, nếu tiến hành phân loại các ĐVĐÂ theo hướng đối lập từ địa phương
với từ toàn dân thì sẽ đứng trước một tình trạng là rất khó phân biệt được một cách rạch ròi giữa từ
ĐÂ địa phương với từ ĐÂ toàn dân, nhất là trong bối cảnh giao thoa ngôn ngữ mạnh mẽ như hiện
nay. Những khó khăn tương tự cũng là như vậy nếu chọn cách đối lập giữa từ thuần Việt với từ Hán
việt. Còn nếu tiến hành phân loại các ĐVĐÂ theo tôn ty, cấp bậc của các ĐV ngôn ngữ thì cũng sẽ
có một số khó khăn như: sự phân biệt giữa những ĐV như từ ghép và ngữ cố định… là không rõ
ràng. Còn nếu tiến hành phân loại các ĐVĐÂ theo từ loại của chúng thì sẽ có một khó khăn như:
cho tới tận bây giờ, sự phân biệt các từ loại trong TV vẫn không thật sự rõ ràng, thậm chí còn có
nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn như sự phân biệt giữa đg từ với tt, giữa tt với dt… Điều này dẫn
tới một thực tế là sẽ có những ĐVĐÂ mà khi chú từ loại sẽ phải dùng một giải pháp lưỡng khả là
đg cũng được mà tt cũng được hay dt hay tt cũng không sai. Khảo sát những ĐVĐÂ trong TĐTV
2006 chúng tôi thấy những trường hợp như vậy là không hiếm gặp. Mặt khác, có một số ĐVĐÂ
nhưng đồng thời lại là những ĐVĐN, các nghĩa của những ĐVĐÂ - ĐN này lại thuộc về các từ
loại khác nhau và sự sắp xếp ý nghĩa này trước ý nghĩa kia nhiều khi chỉ có tính võ đoán chứ không
phản ánh một trật tự lôgic nào, lắm khi chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người biên soạn….
Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng ở một mức độ nào đó tới việc thống kê, quy loại và đánh giá tỷ lệ
các ĐV ĐÂ trong nội bộ một từ loại và liên từ loại.
Ý thức được những khó khăn này, chúng tôi khi thống kê xử lí những ĐV kiểu này đã triệt để
tuân thủ một nguyên tắc là: lấy việc chú loại cho nghĩa thứ nhất làm cơ sở quy loại cho ĐV được
thống kê đối với những ĐVĐÂ có hai nghĩa trở lên mà những nghĩa đó lại thuộc về những từ loại
khác nhau…
Chúng tôi còn nhận thấy, ngoài Nguyễn Văn Tu [138], Nguyễn Đức Dân [32] và Nguyễn Thiện
Giáp [44], [47], các tác giả Việt ngữ khác khi tìm hiểu HTĐÂ của TV dưới góc độ từ loại không thấy
đề cập tới những HT mà trên thực tế đã xẩy ra như: có HTĐÂ giữa những ĐV thuộc về nhiều từ loại
khác nhau (trên 2 từ loại), thậm chí lên tới 4 từ loại. Và ngoài những HTĐÂ thường gặp giữa các
thực từ thì còn có những HTĐÂ giữa những ĐV hư từ với nhau với nhiều dạng thức khác
nhau….Theo chúng tôi, nhìn nhận HTĐÂ dưới góc độ từ loại tuy có phức tạp song nếu tiến hành triệt
để, nhất quán thì những kết luận đưa lại vẫn có giá trị tham khảo, vẫn có ích cho thực tiễn. Đứng
trước những tồn tại chưa được giải quyết của HTĐÂ trong TV và với những băn khoăn của mình,
chúng tôi quyết định thống kê, phân loại tất cả những ĐVĐÂ trong TĐTV 2006. Từ việc thống kê đó,
thử lật lại vấn đề dưới hai góc độ: từ góc độ SLÂT tham gia cấu tạo nên các loạt ĐÂ và từ góc độ từ
loại. Hi vọng rằng, với một cách làm triệt để sẽ tìm thấy những khám phá mới về HTĐÂ trong TV
hay chí ít ra cũng kiểm chứng và củng cố được một cách chắc chắn những kết luận đã được một số
tác giả đi trước nêu ra.
1.8.2. Về việc phân loại các ĐVĐN trong các ngôn ngữ cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Trong
giới nghiên cứu Hán ngữ học, vấn đề phân loại các ĐV ĐN trong tiếng Hán cũng là một vấn đề hết
sức phức tạp. Đáng chú ý và hợp l ý hơn cả là quan điểm của Phù Phó Thanh [189]. Căn cứ vào
nghĩa hạng và nghĩa của từ tố, ông chia từ ĐN thành 04 loại: (1) toàn bộ nghĩa hạng của từ đều ĐN,
(2) chỉ có một nghĩa hạng là nghĩa của từ, còn lại là nghĩa của những từ tố ĐN, (3) từ đã có nhiều
nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN, (4) là những từ tố ĐN.
Trong TV, lấy đối tượng khảo sát là thực từ (dt, đg, tt), Đỗ Hữu Châu [19, tr.131] phân loại các
ĐVĐN thành: (1) HT nhiều NBV, (2) HT nhiều NBN, (3) HT nhiều NBT trong đó: căn cứ để xác
định từ nhiều NBV là phạm vi, các lãnh vực sự vật hiện tượng thực tế khác nhau ứng với từ. Theo
ông, phải lưu ý đến HT nhiều NBV trong ngôn ngữ (đã cố định lại trong ngôn ngữ). Theo tác giả,
căn cứ để xác định một từ có nhiều NBN là dựa vào các tiêu chuẩn sau: (i) ý nghĩa từ loại khác
nhau, đặc điểm ngữ pháp khác nhau, (ii) đặc điểm ngữ pháp của các từ loại và kèm theo là các ý
nghĩa ngữ pháp của các từ loại nhỏ trong một từ loại lớn, (iii) dựa vào tính đồng nhất giữa các NBN
được tách ra trong một từ với ý NBN của các từ khác. Theo ông, “SL NBN thường ít hơn SL NBV”
và “có nhiều cách phân loại ý nghĩa biểu vật của một từ (05 cách) và nên dùng sự phân biệt nghĩa
chính (nghĩa cơ bản) và nghĩa phụ”.
Nguyễn Thiện Giáp [44], [47; tr.148) thì chia thành: (1) HT từ ĐN (chiếm tuyệt đối) và (2) HT
ngữ ĐN (chiếm một tỷ lệ nhỏ). Theo ông, trong mỗi một từ ĐN thì có thể có những nghĩa thuộc về
nghĩa tự do, và có những nghĩa thuộc về nghĩa hạn chế. Và trong một từ ĐN sẽ có một nghĩa là cơ
bản và một số nghĩa là phái sinh. Lê Quang Thiêm [130, tr.178] tuy không hiển ngôn về phân chia từ
ĐN song nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa khái quát, ổn định, mang
tính hệ thống cao, là yếu tố của ngôn ngữ. Nhờ có tính hệ thống ổn định này mà ta mới có thể phân
lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định trong từ điển…. Dựa trên cấu trúc biểu niệm
thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành
tựu được tập thể ngôn ngữ xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng của từ ĐN
trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ”.
Một số tác giả như Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.150], Lê Quang Thiêm [130, tr.178-179, 184]
còn có xu hướng tích hợp thêm những tiêu chí về lượng (thống kê phân loại các ĐVĐÂ, ĐN của
TV dưới góc độ từ loại, SL nghĩa, SLÂT tham gia cấu tạo nên các loạt ĐÂ, các ĐVĐN). Theo
chúng tôi, đây là phương pháp tiếp cận và phân loại hợp lí bởi nó cho phép chúng ta tiếp cận vấn đề
từ cả 02 hướng bên trong và bên ngoài. Thông qua kết quả thống kê, xử lí từ điển của họ, số liệu về
các ĐVĐÂ, ĐN trong TV hiện lên một cách khá cụ thể. Đáng tiếc là phương pháp này chưa được
áp dụng một cách triệt để, nhất quán; khối ngữ liệu thống kê còn nhỏ, thời gian thống kê cách đây
đã khá lâu (trên 20 năm) nên cho tới nay một số điểm đã không còn phù hợp, cần phải được kiểm
chứng lại.
Có thể nói rằng, các nhà Việt ngữ học khi phân loại các ĐVĐN thường đi từ các hướng tiếp
cận như: (1) từ quan điểm hệ thống, cấu trúc luận và đều nhấn mạnh đến những ĐVĐN thuộc ngôn
ngữ như: từ ĐN, ngữ ĐN, ĐNBV cố định, ĐNBN…, (2) từ quan điểm cú pháp học (từ loại, tôn
ty…). Chúng tôi cho rằng: những phương pháp tiếp cận và phân loại các ĐVĐN trên đây đều dựa
trên những cơ sở khoa học khách quan và đều góp phần bổ sung soi sáng cho HTĐN trong TV.
Song cũng phải thừa nhận một thực tế là cũng như một số các đường hướng phân loại khác, sự
phân loại này chưa bao giờ được áp dụng và kiểm chứng một cách triệt để trên một khối ngữ liệu
đủ lớn để xem năng lực giải thích của chúng thế nào mà mới chỉ dừng ở việc chứng minh sự tồn tại
của các phương pháp phân loại này mà thôi. Trong LA này, chúng tôi sẽ bước đầu thử nghiệm
những tiêu chí phân loại khác như: (1) Tiêu chí về lượng (DLN, nét nghĩa của các ĐVĐN), (2) tiêu
chí từ loại, (3) tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên một ĐVĐN…. Tuy nhiên, các phương pháp
phân loại truyền thống cũng sẽ được tham khảo và áp dụng trong một chừng mực nhất định mà
chúng tôi cho là hợp lí. Chẳng hạn, chúng tôi cũng sẽ đặc biệt chú ý tới việc đối chiếu cấu trúc biểu
niệm, biểu vật (HT đa nghĩa biểu niệm, đa nghĩa biểu vật) trong tiếng Hán với TV thông qua việc
so sánh một số đg, dt, tt… thuộc lớp từ vựng cơ bản của 02 ngôn ngữ. Từ đó chỉ ra những điểm
tương đồng và dị biệt trong nhận thức và phản ánh HTKQ của 02 dân tộc Việt, Hán.
1.8.3. Về vấn đề phân loại các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN, căn cứ vào tiêu chuẩn: các ý nghĩa của
một ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN bao chứa/không bao chứa hoàn toàn các nét nghĩa chúng tôi phân loại
các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN thành 02 loại là: (i) ĐÂĐN đa nét nghĩa hoàn toàn và (ii) ĐÂĐN đa nét
nghĩa không hoàn toàn.
1.9. VỊ TRÍ CỦA TỪ ĐỒNG ÂM CÙNG GỐC TRONG TỔNG THỂ TỪ ĐỒNG ÂM TIẾNG VIỆT
Chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng thể từ ĐÂTV (36,1 % với 3060 ĐV và với 1480 loạt),
những ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong TV có một vị trí và vai trò quan trọng trong việc thể hiện đặc
điểm loại hình của TV: đơn lập, không biến hình; từ một mặt có những đặc điểm từ loại khá mơ hồ
(chủ yếu là phụ thuộc vào vị trí của từ trong hoàn cảnh sử dụng, trong cấu trúc câu), một mặt lại thể
hiện được tính linh hoạt, uyển chuyển trong quá trình sử dụng. Thêm vào đó là đặc điểm cấu tạo
đơn giản: phần lớn là đơn tiết, những ĐV có cấu tạo đa tiết (02, 03, 04 âm tiết) chiếm tỷ lệ ít, lại có
DLN thấp (đại bộ phận là từ đơn nghĩa) nên những ĐVĐÂ này thường được sử dụng làm nguyên
liệu cho những thủ pháp tu từ về từ, nhất là trong câu đối hay chơi chữ. Tuy nhiên chúng cũng có
một nhược điểm lớn là có thể gây ra những khó khăn nhất định trong giao tiếp, nhất là đối với
người nước ngoài học TV, đặc biệt là khi họ phải đối mặt với những ĐV ĐÂCG có đặc điểm vừa
ĐÂ lại vừa ĐN (bao gồm cả những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN hoàn toàn và không hoàn toàn). Chẳng
Bẫy I (d). 1 Dụng cụ thô sơ để lừa bắt, giết loài vật hoặc kẻ địch. Chim sa vào bẫy. Gài bẫy. Bẫy chông. 2
Cái bố trí sẵn để lừa cho người ta mắc vào. Tên cướp bị sa bẫy.
hạn như các ĐVĐÂ nằm trong 02 loạt ĐÂCG có âm đọc là bẫy và bã dưới đây:
II (đg). 1 Bắt hoặc tiêu diệt bằng bẫy. Đốt đèn để bẫy bướm. 2 Lừa cho mắc mưu để làm hại. Bẫy
người vào tròng. (TĐTV tr.53).
Bã I d. Phần xác còn lại sau khi đã lấy hết chất nước cốt. Bã rượu. Theo voi ăn bã mía.(tng.).
II t.1 Rời, nát và nhạt nhẽo như chỉ là cái bã còn lại. Giò bã. 2 Mệt mỏi tới mức có cảm giác như chân
tay rã rời, không còn gắng gượng để hoạt động bình thường được. Mệt bã cả người. (TĐTV tr.23).
Đi vào nghiên cứu, tìm hiểu từ ĐÂ và ĐN nói chung cũng như đi vào tìm hiểu từ vừa ĐÂ vừa
ĐN trong khu vực ĐÂCG nói riêng, một mặt sẽ thấy rõ được đặc điểm và tầm quan trọng của
HTCL trong TV, tiếng Hán. Mặt khác chính là đi vào tìm hiểu một khu vực nhạy cảm – khu vực
giao thoa giữa ĐÂ và ĐN. Ở đó, có sự thể hiện rất tinh tế cái lằn ranh tế nhị và mơ hồ, thể hiện
những nét đồng nhất và khác biệt giữa HTĐÂ và HTĐN.
1.10. NHẬN DIỆN CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN
Trong TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên), mỗi một ĐVĐÂ là một mục từ. Các mục từ ĐÂ được xếp
theo một trật tự: từ trước tổ hợp cố định hoặc hình vị trước từ. Nếu cùng là từ cả thì được căn cứ vào từ loại
để xếp theo thứ tự: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, phụ từ, trợ từ, kết từ, cảm từ. Nếu là từ thuộc cùng một
từ loại (thường là dt, cũng có khi là đg, tt) thì căn cứ vào nội dung ngữ nghĩa, xếp theo thứ tự: từ có nghĩa cụ
thể trước, từ có nghĩa trừu tượng sau; trong từ có nghĩa cụ thể thì từ nói về cái có sẵn trong tự nhiên (người,
động vật, khoáng vật) trước, từ nói về cái do con người tạo ra sau. Các ĐVĐÂ hợp lại với nhau tạo thành
những loạt ĐÂ, những ĐVĐÂ trong loạt ĐÂ được phân biệt với nhau bằng việc phân tách thành các
đề mục riêng và bằng các kí số Ả rập 1, 2 , 3, 4…
Trong TĐTV 2006 còn có một kiểu ĐÂ được gọi là “ĐÂ ngữ nghĩa” (vì những ĐV này hiện
còn có mối quan hệ nguồn gốc - ngữ nghĩa khá rõ ràng). Những ĐV này có khi là những ĐV chuyển
loại trong cùng một từ loại như: bươm bướm, tóc tơ… có khi là những ĐV chuyển loại thành những
ĐV khác từ loại như: hỗn hợp, bạnh… những ĐVĐÂ ngữ nghĩa này được phân biệt với nhau bằng
việc phân tách thành các đề mục riêng và bằng các kí số La mã I, II, III, IV.
Khảo sát nghĩa của ĐV được TĐTV 2006 dán nhãn là “ĐÂ ngữ nghĩa” này ta nhận thấy:
chúng thường là những ĐV có chung biểu vật, giữa những ĐV này vẫn có mối liên hệ ngữ nghĩa
nào đó với nhau dẫu không còn rõ ràng. Theo số liệu thống kê của chúng tôi, những ĐV kiểu này có
SL là 1480 ĐV, trong đó đơn tiết có 804 ĐV và đa tiết là 676 ĐV.
Trong TĐTV 2006, các ĐVĐN của TV bao gồm 02 loại lớn là: đơn tiết (có SL nhiều nhất) và
đa tiết (có SL ít hơn). Các ĐVĐN của TV có khi là những ĐV đơn tiết như: ăn, đi, làm…, có khi là
những ĐV đa tiết như: giảng viên, luận cứ, luận thuyết…, có khi là những ngữ cố định như: nói
trống không, mức thiếu hụt, hạch toán kinh tế, khoa học kỹ thuật, nhất hô bá ứng…. Trong đó, các
ĐV là từ, ngữ chiếm SL tuyệt đối. Trong những ĐV là từ thì những ĐV đơn tiết ĐN chiếm ưu thế
hơn các ĐV đa tiết ĐN (nhiều hơn về SL ĐV, nhiều hơn về DLN).
Các ý nghĩa của một ĐVĐN trong TV có khi chỉ thuộc về một từ loại duy nhất như: bắn
(TĐTV tr.44), bấc (TĐTV tr.48), bập bùng (TĐTV tr.50)…, có khi thuộc về nhiều từ loại như: hỗn
hợp (TĐTV tr.462), huyềnR1 R (TĐTV tr.470)…, có khi có cấu trúc nghĩa khá cân đối (vừa ĐN đa nét
nghĩa hoàn toàn) như: anh (TĐTV tr.06)…, có khi có cấu trúc nghĩa không cân đối (ĐN đa nét
nghĩa không hoàn toàn) như: nói (TĐTV tr.732), đỏ (TĐTV tr. 327)…
Hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa trong TV là HT thường gặp (chủ yếu là đẳng cấu ngữ nghĩa ở những
ĐV có 02 nghĩa và 03 nghĩa, chiếm xấp xỉ 93%). Những ĐV ĐN có từ 04 đến 27 nghĩa có SL rất ít (chỉ
chiếm hơn 7%) trong đó những ĐV có từ 07 đến 27 nghĩa chỉ có 72 ĐV, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ và tất cả
đều là những ĐV đơn tiết. Đây là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tiến hành phân loại các ĐVĐN của
TV từ 03 góc độ: góc độ DLN của các ĐVĐN, góc độ từ loại, góc độ SLÂT tham gia cấu tạo nên một
ĐVĐN. Các ý nghĩa của các ĐVĐN trong TV được phân biệt với nhau bởi các kí số Ả-rập 1, 2, 3, 4, 5….
HTĐN của TV nhiều nhất xếp theo thứ tự là: dt, đg, tt…
Trong TĐ THHĐ 2005, cũng có 2 loại ĐVĐÂ được thu thập, xử lí là: (1) Các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa
còn gọi là những ĐV ĐÂĐH (chúng có hình văn tự giống nhau, có nghĩa khác nhau song những ĐV này
hiện vẫn còn cảm nhận được mối liên hệ về nguồn gốc - ngữ nghĩa giữa chúng). Trong từ điển, những ĐV
2
1
P (nguyệt) trăng; 满月P
P (mãn nguyệt) đầy tháng, đầy cữ
1 P(nguyệt) tháng và: 月P ở phía trên bên phải như: 月P
2
này vừa được phân tách thành các đầu mục riêng biệt vừa được phân biệt bằng các kí số Ả rập 1,2,3…đánh
P (mãn nguyệt) chỉ trăng rằm… (2) Các ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa còn gọi là những ĐV
trẻ con và: 满月P
ĐÂDH (chúng có hình văn tự khác nhau, có nghĩa khác nhau, giữa những ĐV này không còn cảm nhận
được bất cứ mối liên hệ nào về nguồn gốc - ngữ nghĩa). Trong từ điển, những ĐV này được phân tách thành
các đầu mục riêng biệt như: 尝 (thường) có nghĩa là nếm ĐÂ với长 (trường) có nghĩa là dài,目的 (mục
đích) chỉ mục đích ĐÂ với 墓地 (mộ địa) chỉ nghĩa trang…
Các ĐVĐN trong TĐ THHĐ 2005 bao gồm cả những ĐV đơn tiết và đa tiết, có mặt ở tất cả
các từ loại của tiếng Hán, nhiều nhất về SL là các ĐV thuộc về các từ loại như: dt, đg, hình dung từ,
phó từ. Chúng bao gồm các ĐV là từ, ngữ và hình vị cấu tạo từ (từ tố, ngữ tố). Trong đó ĐV trung
tâm của HTĐN trong THHĐ là từ ĐN (từ đơn tiết, từ song tiết).
1.11. TIỂU KẾT
Chương 1 có nhiệm vụ trình bày những vấn đề lí luận cơ bản làm nền tảng cho việc thống kê, khảo sát
và miêu tả những vấn đề liên quan tới HTĐÂ, HTĐN trong ngôn ngữ nói chung cũng như trong TV, tiếng
Hán nói riêng. Trong quá trình trình bày, phân tích và thảo luận những vấn đề lí luận có liên quan, LA đã cố
gắng chọn lọc, tóm tắt các lí thuyết và phương pháp tiếp cận, phân loại HTĐÂ, HTĐN của các nhà NNH
trong một số loại hình ngôn ngữ như: loại hình ngôn ngữ biến hình, loại hình ngôn ngữ đơn lập…. Từ đó,
chọn cho mình một hướng tiếp cận phù hợp. Theo quan điểm của LA, nghiên cứu, tìm hiểu HTĐÂ, HTĐN
trong TV, tiếng Hán một mặt vừa phải biết kế thừa, nắm vững những thành tựu lí luận của NNH đại cương,
một mặt cần phải xuất phát từ những đặc điểm riêng về loại hình của đối tượng nghiên cứu.
Những cơ sở lí luận được trình bày, thảo luận trong chương 1 này là xuất phát điểm, là cơ sở
để LA tiến hành so sánh, đối chiếu HTĐÂ, HTĐN, từ ĐÂ và ĐN trong TV với THHĐ trong những
chương tiếp theo.
Chương 2 : HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
2.1. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT
2.1.1. Tổng quan về hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt
Là một ngôn ngữ đơn lập điển hình có tiếng/âm tiết - từ một tiếng - hình vị gần như trùng làm
một nên TV có nhiều ĐVĐÂ. Theo số liệu thống kê của chúng tôi, trong TĐTV 2006 hiện có 3691
loạt ĐÂ với 8408 ĐVĐÂ chiếm 21,06 % khối ngữ liệu của TĐTV 2006.
Biểu hiện của bức tranh ĐÂ trong TV khá phong phú và đa dạng: có cả hình vị ĐÂ như: nhân
viên – công viên…, có cả từ đơn ĐÂ như: ánR1 R và ánR2… R, có cả từ phức, từ ghép ĐÂ như: ác ôn I và ác
ôn II…, có cả ngữ ĐÂ như: cộng sản nguyên thuỷ I và cộng sản nguyên thuỷ II… Các ĐVĐÂ của
TV bao gồm những cả những ĐV có cấu tạo 01 âm tiết, 02 âm tiết, 03 âm tiết và tối đa là 04 âm tiết,
chúng bao gồm cả những ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa và ĐÂKG như: đại biểu I và đại biểu II; aoR1 R và
aoR2 R… Các ĐVĐÂ của TV bao gồm những ĐV có nguồn gốc khác nhau (chủ yếu là gốc Hán, thuần
Việt và một số ít gốc Ấn Âu). Chẳng hạn: đảo chính I và đảo chính II, crêp I và crêp II, ba rọi I và
ba rọiII… Đây sẽ là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tiến hành phân loại các ĐVĐÂ của TV từ
các tiêu chí: nguồn gốc, SLÂT tham gia cấu tạo, quan hệ ngữ nghĩa giữa các ĐVĐÂ và từ góc độ
các ĐV ngôn ngữ.
2.1.2. Phân loại hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt
2.1.2.1. Phân loại hiện tượng đồng âm từ tiêu chí nguồn gốc
(1) Những đơn vị đồng âm gốc Hán
Bao gồm cả những ĐVĐÂ ngẫu nhiên và những ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa, chiếm SL nhiều nhất
là những ĐV có cấu tạo đơn tiết (bao gồm cả từ đơn tiết và hình vị cấu tạo từ), song tiết (từ ghép, từ
phức) và một số ít các ĐV có cấu tạo 03 âm tiết và 04 âm tiết vốn là những ngữ cố định như: tiểu tư
sản I d. II t. (TĐTV tr. 992), xã hội chủ nghĩa I d. II t. (TĐTV, tr. 1140)…. Những ĐVĐÂ gốc Hán
hiện chiếm SL đông đảo nhất trong tổng thể từ ĐÂTV. Những ĐVĐÂ gốc Hán một mặt, tương tác
với nhau tạo ra những loạt ĐÂ thuần chất. Những loạt ĐÂ thuần chất này thường chứa 02 và 03 ĐV
song nhiều khi lên tới 06 ĐV như: tiếtR1,2,3,4,5,6 R (TĐTV, tr. 989)… Một mặt, thông qua PTCL đối với
những ĐV có cấu tạo song tiết và một số ít là các ĐV có cấu tạo 04 âm tiết (chủ yếu là chuyển hóa
thành hai từ loại và một số ít là chuyển hóa trong nội bộ một từ loại) đã tạo nên một PT CTT chủ
yếu của TV, làm tăng thêm vốn từ song tiết cho TV. Mặt khác, những ĐVĐÂ gốc Hán còn tương
tác với những ĐVĐÂ thuần Việt và với những ĐVĐÂ gốc Ấn Âu tạo nên những loạt ĐÂ hỗn hợp
về nguồn gốc chứa tới 09 ĐV như: banR1,2,3,4,5,6,7,8,9 R (TĐTV, tr. 28).
Một đặc trưng dễ nhận biết và nổi bật của những ĐV Hán Việt nói chung và những ĐVĐÂ
Hán Việt nói riêng là tính trang trọng và tính hàm súc của chúng. Xét về DLN thì đại bộ phận những
ĐV ĐÂ Hán Việt đơn tiết thường có SL nghĩa nhiều hơn và khái quát hơn nghĩa của những ĐVĐÂ
Hán Việt đa tiết. Ngược lại, nghĩa những ĐVĐÂ Hán Việt đa tiết lại rõ ràng, cụ thể hơn nghĩa của
những ĐVĐÂ Hán Việt đơn tiết.
(2) Những đơn vị đồng âm thuần Việt
Bao gồm cả những ĐVĐÂ ngẫu nhiên và những ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa, có SL chỉ xếp sau từ ĐÂ
gốc Hán, phần nhiều là từ đơn tiết, song tiết, và một số ít là từ có cấu tạo 03 và 04 âm tiết (bao gồm từ
phức, từ ghép, từ láy và ngữ cố định) như: cócR1,2,3R (TĐTV tr.196); cóI, II, III, IV, V (TĐTV, tr.195);
huếch hoácI,II (TĐTV, tr.468); nhọ nồiR1,2 R (TĐTV, tr.721), chan chátR1,2R (TĐTV, tr.132), cọc cà cọc
cạchR1,2 R (TĐTV, tr.197), những ĐVĐÂ thuần Việt cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng thể từ
ĐÂTV. Những ĐVĐÂ này một mặt cũng tự mình tạo nên những loạt ĐÂ thuần chất. Những loạt ĐÂ
R(TĐTV, tr.1109). Thông qua PTCL của những ĐV có cấu tạo đơn tiết, song tiết và một số ít là các ĐV
thuần chất này phần lớn thường chứa 02 và 03 ĐV song nhiều khi lên tới 07 ĐV như: veR1,2,3,4,5,6,7
có cấu tạo 03 và 04 âm tiết (chủ yếu là chuyển hóa thành hai từ loại và một số ít là chuyển hóa trong nội
bộ một từ loại), sự chuyển hóa từ loại của những ĐVĐÂ này cũng đã và đang trở thành một PT CTT
quan trọng của TV, làm tăng thêm vốn từ đơn tiết và đa tiết cho TV. Kết quả khảo sát thống kê cho thấy:
đối với những ĐV đơn tiết, sự chuyển hóa từ loại thường gặp là thành 02 ĐV khác từ loại song có khi
diễn ra tới 05 từ loại, chẳng hạn như loạt ĐÂ thuần Việt có âm đọc là có sau đây: cóI (đg), cóII (d),
cóIII (t), cóIV(p), cóV (tr) (TĐTV, tr.195). Đối với những ĐV đa tiết, sự chuỵển hóa từ loại thường là
diễn ra theo kịch bản tự nhân đôi thành 02 ĐV khác nhau (thường là khác từ loại) và tối đa là phân rã
thành 03 ĐV.
Một đặc trưng dễ thấy và khá điển hình của những ĐVĐÂ thuần Việt là tính biểu cảm rất cao
của chúng. Đặc biệt là khi chúng là từ tượng thanh, từ tượng hình hoặc vừa là từ tượng thanh lại vừa
là từ tượng hình như: tong tongR2 R; lốp bốpI; san sátI,II; sền sệtR2 R; hơ hớR1,2 R….
(3) Những đơn vị đồng âm có nguồn gốc Ấn Âu
Bao gồm cả những ĐV được phiên chuyển thành đơn tiết và đa tiết (thường là song tiết) như: bítR1R
(binary Digit; TĐTV 2006 tr.70), baR2R (bar; TĐTV 2006 tr.21), bonsevichI, crêpII.… Những ĐVĐÂ có
nguồn gốc Ấn Âu hiện chiếm tỷ lệ ít nhất trong tổng thể từ ĐÂTV. Chúng xuất hiện cả trong 02 khu vực
ĐÂ ngẫu nhiên và ĐÂCG song chỉ ở khu vực ĐÂCG mới xảy ra HTĐÂ giữa những ĐV có chung nguồn
gốc Ấn Âu với nhau còn ở khu vực ĐÂKG thì hoặc chỉ xảy ra HTĐÂ giữa những ĐV có chung nguồn gốc
Ấn Âu với những ĐV thuần Việt hoặc chỉ xảy ra HTĐÂ giữa những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu với những
ĐV có nguồn gốc Hán mà thôi. Theo chúng tôi, sở dĩ có tình trạng này là bởi: khác với những ĐV như bítR1R,
baR2R… là những ĐV mới được du nhập vào vốn từ TV từ quá trình hội nhập quốc tế gần đây, còn những
ĐVĐÂ có nguồn gốc Ấn Âu ở khu vực ĐÂ cùng gốc như bonsevichI, logicI, cao suI… lại là những ĐV đã
được du nhập khá lâu vào trong vốn từ TV, được người Việt sử dụng nhiều, cũng như nhiều ĐV khác trong
TV, chúng cũng chịu tác động của quy luật chuyển hóa từ loại trong TV và xảy ra HTĐÂ. Thậm chí, một
số ĐVĐÂ có nguồn gốc Ấn Âu ở khu vực ĐÂCG còn trở thành những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN hoàn toàn.
Thí dụ 1: Logic [lô- jíc] cv, lôgic.I 1. cn. Logic học. Khoa học nghiên cứu các quy luật và hình thức
của tư duy, nghiên cứu sự suy luận đúng đắn. Nghiên cứu logic. Logic hình thức. 2. Trật tự chặt chẽ, tất yếu
giữa các HT. Logic của cuộc sống. 3. Sự gắn bó chặt chẽ giữa các ý, các suy luận chặt chẽ. Lập luận thiếu
logic.
Chẳng hạn như loạt ĐÂCG có chung âm đọc là logic dưới đây:
II t. 1. Hợp với quy luật logic. Một kết luận logic. Cách suy luận logic. 2. Hợp với logic, giữa các HT có quan
hệ chặt chẽ, tất yếu. Sự việc diễn ra rất logic. (TĐTV 2006 tr. 576).
Sau đây là danh sách của những ĐVĐÂ có nguồn gốc Ấn Âu thống kê được trong khu vực
fát xít I t. II d. (TĐTV, tr. 366), logic Id. II t. (TĐTV, tr. 576), măng sông R1R d. măng sôngR2R I d. II đg. (TĐTV, tr.
619), mit tinh I d. II đg. (TĐTV, tr. 634), phăng teo I d. II đg. (TĐTV, tr. 769, 770), xíchR1R I d. II đg. xíchR2R đg.
(TĐTV, tr. 1150), xô viêt I d. II t. (TĐTV, tr. 1157)…
ĐÂCG: Crêp I d. II d. (TĐTV, tr. 218), bonsevich Id. II t. (TĐTV, tr. 76), cao su I d. II t. (TĐTV, tr. 115),
Chúng tôi cho rằng: theo xu thế hội nhập hóa ngày càng sâu như hiện nay thì những ĐVĐÂ có
nguồn gốc Ấn Âu chắc chắn sẽ ngày càng tăng thêm trong tổng thể từ ĐÂTV.
2.1.2.2. Phân loại HTĐÂ từ tiêu chí SLÂT và từ tiêu chí quan hệ ngữ nghĩa
Từ tiêu chí SLÂT và từ tiêu chí quan hệ ngữ nghĩa chúng ta có bảng 2.1 và 2.2 dưới đây:
(1) Bảng 2.1. Bảng thống kê các loạt ĐÂ trong TĐTV 2006:
Bảng thống kê các loạt ĐÂ trong TĐTV 2006
ĐÂ đơn tiết
ĐÂ đa tiết
Cùng gốc
02 âm tiết
04 âm tiết
03 âm tiết
Ngẫu nhiên
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
1913
807
282
673
04
03
02
07
2720 loạt
955 loạt
07 loạt
09 loạt
3691 loạt
(2) Bảng 2.2. Bảng thống kê các ĐV ĐÂ trong TĐTV 2006:
Bảng thống kê các ĐV ĐÂ trong TĐTV 2006
ĐÂ đơn tiết
ĐÂ đa tiết
Cùng gốc
02 âm tiết
04 âm tiết
03 âm tiết
Ngẫu nhiên
4843
1598
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
Ngẫu nhiên
Cùng gốc
577
1356
10
06
04
14
6441 đvị
1933 đvị
16 đvị
18 đvị
8408 đvị (chiếm 21,06 % TĐTV 2006)
Kết quả thống kê cho thấy: (1) trong TV, các ĐVĐÂ phần lớn có cấu tạo đơn giản, đại bộ phận là ĐÂ
ngẫu nhiên. (2) Sự phân bố của các ĐV ĐÂCG trong vốn từ TV là không đều. Cụ thể: trong khu vực những
ĐVĐÂ đơn tiết thì những ĐVĐÂ ngẫu nhiên đơn tiết có SL nhiều hơn hẳn các ĐV ĐÂCG đơn tiết
(chiếm tới 75,19 % các ĐVĐÂ đơn tiết). Song ở khu vực ĐÂ song tiết thì các ĐV ĐÂST cùng gốc lại
chiếm SL áp đảo (chiếm tới 70,15 % các ĐV ĐÂST). Nhưng về tổng quan thì SL các ĐVĐÂ ngẫu nhiên
bao giờ cũng có SL lớn hơn các ĐV ĐÂCG (5434 ĐV ĐÂ ngẫu nhiên / 8408 tổng số; chiếm 64,63 %). (3)
Những từ ĐÂ có cấu tạo đơn tiết và từ ĐÂST đã và đang giữ vai trò chủ đạo làm nên diện mạo chính cho
HTĐÂ TV. (4) Trong TV, ngữ ĐÂ có SL rất ít và chỉ là sản phẩm hậu kì, không phải là “nhân vật chính”
của HTĐÂ TV.
2.1.2.3. Phân loại hiện tượng đồng âm từ góc độ các đơn vị ngôn ngữ
(1) Hiện tượng từ đơn tiết đồng âm với từ đơn tiết
Đây là HTĐÂ thường gặp nhất do tỷ lệ từ đơn tiết trong TV chiếm đa số so với từ đa tiết và thường là
các ĐVĐÂ ngẫu nhiên (1913 loạt với 4843 ĐV là các ĐVĐÂ ngẫu nhiên). Tuy vậy, theo thống kê của
chúng tôi, trong các loạt ĐÂ đơn tiết thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên cũng chỉ có 01 loạt duy nhất có chung
âm đọc là ban (TĐTV, tr. 28). chứa tối đa là 09 ĐVĐÂ. Còn ở khu vực ĐÂCG cũng chỉ có 01 loạt duy nhất
có âm đọc là có (TĐTV, tr.195) chứa tối đa là 05 ĐVĐÂ mà thôi.
(2) Hiện tượng từ song tiết đồng âm với từ song tiết
Chiếm vị trí thứ yếu sau HT từ đơn tiết ĐÂ với từ đơn tiết, HT từ song tiết ĐÂ với từ song tiết cũng là
HT hay gặp trong TV.
Về SL, trong TĐTV 2006 hiện thống kê được 1828 ĐV ĐÂST với 894 loạt. Trong đó: có 858
loạt chứa 02 ĐV với SL là 1716 ĐV, có 32 loạt chứa 03 ĐV với SL là 96 ĐV, có 04 loạt chứa 04
ĐV với SL là 16 ĐV.
Về DLN, đại bộ phận các ĐV ĐÂST của TV là những ĐV đơn nghĩa (1630 ĐV đơn nghĩa
/1828 ĐV thống kê được, chiếm 89,1%). Chỉ có 198 ĐVĐN /1828 ĐV thống kê được, chiếm 10,9%.
Trong 198 ĐVĐN này thì những ĐV có 02 và 03 nghĩa chiếm tỷ lệ tuyệt đối (187 ĐV/198 ĐVĐN
thống kê được, chiếm tỷ lệ 94,4 %), những ĐV có 04, 05, 06 nghĩa chỉ có 11 ĐV/ 198 ĐVĐN
thống kê được, chiếm tỷ lệ 5,6%). (Chi tiết xem bảng 2.3)
Bảng 2.3. Bảng thống kê SL và DLN của các ĐV ĐÂST trong TĐTV 2006:
Các đơn vị đồng âm song tiết trong TĐTV 2006
Đơn nghĩa
Đa nghĩa
02 nghĩa
03 nghĩa
04 nghĩa
05 nghĩa
06 nghĩa
160 đ.vị
27 đ.vị
09 đ.vị
01 đ.vị
01 đ.vị
Tổng số: 198 đơn vị
Tổng số:1630 đơn vị
Chiếm: 98,1%
Chiếm: 10,9%
Khảo sát mối quan hệ giữa các nghĩa trong những ĐVĐÂ SÂT ĐN ta thấy: Trong các ĐV có
02 nghĩa, phần lớn chúng đều có quan hệ dẫn xuất hay phái sinh theo kiểu: SR1 R SR2 R.
khác. Sống độc lập. Độc lập suy nghĩ. 2. (Nước hoặc dân tộc) có chủ quyền, không phụ thuộc vào nước khác
hoặc dân tộc khác. (TĐTV tr.40).
Thí dụ 2: Độc lậpI t. 1. Tự mình tồn tại, hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì
Trong các ĐVĐÂ SÂT có từ 03 nghĩa trở lên, phần lớn vẫn là quan hệ dẫn xuất song khó xác
định hơn.
Huệ là một anh hùng dân tộc. 2. Nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi
thường. Các anh hùng trong truyện thần thoại Hy Lạp. 3. Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng
cho người hoặc ĐV có thành tích và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu. Anh hùng lao
động. Anh hùng các lực lượng vũ trang. Đại đội không quân anh hùng. (TĐTV, tr.07).
Thí dụ 3: Anh hùng I d. 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất nước. Nguyễn
Về nguồn gốc, khảo sát khối ngữ liệu thống kê được chúng tôi nhận thấy chúng có ba nguồn
gốc:
Chiếm gần 2/3 là những ĐV có nguồn gốc Hán – Việt như: ảnh hưởng, an toàn…. Chiếm 1/3
là những ĐV thuần Việt như: bánh tẻ, lay lắt…. Những ĐV gốc Pháp chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, trên
thực tế chỉ thống kê được 05 loạt là: li tô, măng xét, măng xông, xúc xích, bùng binh với 10 ĐV.
Khảo sát mối quan hệ về âm và nghĩa giữa các tiếng trong từ ĐÂST TV, chúng tôi nhận thấy,
giữa các tiếng trong các ĐV ĐÂST có các kiểu quan hệ sau đây: (i) giữa các tiếng có quan hệ về ý
nghĩa như: bà mụ, bọ gạo, công đức, cộng sản, pháp y, hợp tác, hoa hồng…, (ii) giữa các tiếng có
quan hệ về ngữ âm như: bo bo, cọc cạch, chan chát, tích tắc…, (iii) giữa các tiếng không có quan hệ
ngữ âm và không có quan hệ ý nghĩa như: lay lắt, ba rọi, gạo cội, mặc nhiên…
Về cấu tạo, các ĐV ĐÂST của TV thuộc về một trong các kiểu cấu tạo sau đây: (i) là từ ghép
đặt theo quan hệ ý nghĩa (từ ghép nghĩa) như: chiến thắng, độc lập…, (ii) là từ ghép đặt theo quan
hệ ngữ âm (từ láy âm, từ lắp láy) như: chong chóng, đủng đỉnh…, (iii) là từ ghép đặt theo quan hệ
ngẫu nhiên (từ ngẫu kết, từ ngẫu hợp) như: chĩa ba, đãi đằng…
Khảo sát các ĐV ĐÂST của TV chúng tôi thống kê được các dạng ĐÂ sau:
Có 202 loạt ĐÂ trong một từ loại. Trong đó: có 111 loạt ĐÂ giữa danh từ - danh từ, có 38 loạt
ĐÂ giữa động từ - động từ, có 53 loạt ĐÂ giữa tính từ - tính từ.
Có 674 loạt xảy ra HTĐÂ giữa hai từ loại. Trong đó: ĐÂ giữa danh từ - động từ có 279 loạt, ĐÂ
giữa danh từ - tính từ có 245 loạt, ĐÂ giữa danh từ - đại từ có 01 loạt, ĐÂ giữa danh từ - cảm từ có 01
loạt, ĐÂ giữa danh từ - kết từ có 01 loạt, ĐÂ giữa danh từ - phụ từ có 07 loạt, ĐÂ giữa động từ - phụ từ
có 06 loạt, ĐÂ giữa tính từ - động từ có 114 loạt, ĐÂ giữa tính từ - phụ từ có 15 loạt, ĐÂ giữa tính từ -
trợ từ có 01 loạt, ĐÂ giữa tính từ - cảm từ có 01 loạt, ĐÂ giữa phụ từ - kết từ có 01 loạt, ĐÂ giữa phụ từ
- trợ từ có 01 loạt, ĐÂ giữa kết từ - tính từ có 01 loạt.
Có 14 loạt xảy ra HTĐÂ giữa 03 từ loại. Trong đó: ĐÂ giữa danh từ - phụ từ - kết từ có 01 loạt,
ĐÂ giữa danh từ - tính từ - phụ từ có 02 loạt, ĐÂ giữa danh từ - tính từ - động từ có 11 loạt.
Có 545 ĐVĐÂ ngẫu nhiên (đánh số Ả-rập); Có 1283 ĐV ĐÂCG (loại có đánh số La mã)
Thống kê từ loại của các ĐV ĐÂST của TV chúng tôi có số liệu sau:
Thuộc về danh từ có 794 ĐV, chiếm 43,4 %; thuộc về động từ có 486 ĐV, chiếm 26,6 %;
thuộc về tính từ có 506 ĐV, chiếm 27,7 %; thuộc về phụ từ có 34 ĐV, chiếm 1,85 %; thuộc về kết từ có
03 ĐV, chiếm 0,2 %; thuộc về cảm từ có 02 ĐV, chiếm 0,1 %; thuộc về trợ từ có 02 ĐV, chiếm 0,1 %;
thuộc về đại từ có 01 ĐV, chiếm 0,05 %. (Chi tiết xin xem bảng 2.4)
Bảng 2.4. Bảng thống kê từ loại của các ĐVĐÂ song tiết trong TĐTV 2006:
Từ loại
Ghi chú
Tsố đvị
Danh Động
Tính
Đại
Cảm
Phụ
Kết
Trợ
01 đvị 02 đvị 34 đvị 03 đvị 02 đvị
1828 đvị
794 đvị
486 đvị
506 đvị
Chiếm: 97,7%
Chiếm: 2,3%
Từ kết quả trên ta thấy:
Các ĐV ĐÂST của TV đều là những ĐV có DLN thấp (chỉ có từ 01- 06 nghĩa). Những ĐV
ĐÂST ĐN có SL ít (198 ĐV). Quan hệ giữa các đợn vị ĐÂ ST của TV đại bộ phận là quan hệ phái
sinh theo kiểu mô hình SR1 R SR2 R…
Các ĐV ĐÂST của TV có 03 nguồn gốc chính là: Hán Việt, thuần Việt và gốc Ấn Âu. Trong
đó, các ĐV gốc Hán có SL nhiều nhất, kế đó là các ĐV thuần Việt, và cuối cùng là các ĐV có
nguồn gốc Ấn Âu.
Mối quan hệ giữa các tiếng trong từ ghép song tiết ĐÂ của TV phần lớn thuộc về 03 quan hệ là:
(i). Giữa các tiếng đều có mối quan hệ về ý nghĩa, (ii). giữa các tiếng đều có quan hệ về ngữ âm,
(iii). giữa các tiếng đều không có quan hệ về ngữ âm và đều không có quan hệ về ý nghĩa.
Các ĐV ĐÂST của TV xét về mặt cấu tạo phần lớn đều thuộc về 03 loại là: (i) từ ghép nghĩa:
chiếm tỷ lệ lớn nhất, kế đó là (ii) từ ghép láy âm và (iii) từ ghép ngẫu hợp.
Trong các kiểu ĐÂ của các ĐV ĐÂST (ĐÂ trong nội bộ một từ loại, ĐÂ giữa hai từ loại, giữa
ba từ loại…) thì ĐÂ giữa 2 từ loại có SL nhiều nhất, thường gặp nhất.
Đại bộ phận từ ĐÂST của TV là được cấu tạo và sản sinh bằng PTCL. Chiếm SL nhiều nhất
là các ĐV thuộc các từ loại: danh, động, tính…
(3) Hiện tượng từ đơn tiết đồng âm với hình vị cấu tạo từ
HT từ đơn tiết ĐÂ với hình vị cấu tạo từ cũng là một HT thường gặp trong TV. Trong TV, có ba
loại hình vị cấu tạo từ thường gặp là: hình vị ghép trước, hình vị ghép sau và loại hình vị vừa có khả
năng ghép trước lại vừa có khả năng ghép sau. Tuyệt đại bộ phận hình vị cấu tạo từ của TV là các hình
vị đơn tiết. Ba loại hình vị này thấy xuất hiện trong các kiểu ĐÂ giữa từ đơn với hình vị cấu tạo từ.
Thí dụ 4: ĐÂ giữa từ đơn tiết với hình vị cấu tạo từ là một yếu tố ghép trước như: TiềnR3 RII
(TĐTV 2006, tr.984) là yếu tố ghép trước để cấu tạo danh từ, tính từ, có nghĩa “trước, ở phía trước,
thuộc thời kỳ trước” trong các kết hợp như: Tiền tệ. Tiền đồn. Tiền tư bản chủ nghĩa. Tiền khởi
nghĩa. ĐÂ với danh từ đơn tiết tiền R1 Rvới ý nghĩa là “vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy do ngân
hàng phát hành, dùng làm ĐV tiền tệ”. trong các kết hợp như: hết tiềnR1 R, vay tiềnR1 R…
Thí dụ 5: ĐÂ giữa từ đơn với hình vị cấu tạo từ là yếu tố ghép sau như: HọcR1 RI (TĐTV 2006,
tr.453) là yếu tố ghép sau để cấu tạo danh từ, có nghĩa “khoa học về một lĩnh vực nào đó”như: Tâm
lý học. Toán học… ĐÂ với động từ đơn tiết họcR1 RI với ý nghĩa là “thu nhận kiến thức, luyện tập kĩ
năng do người khác truyền lại” và với ý nghĩa là “đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm cho nhớ” trong các
kết hợp như: học nghề, học văn hóa, học bài, học thuộc lòng…
Thí dụ 6: ĐÂ giữa từ đơn với hình vị cấu tạo từ vừa là yếu tố ghép trước vừa là yếu tố ghép
sau như: Trưởng III (TĐTV 2006, tr.1058) là yếu tố ghép trước hoặc ghép sau để cấu tạo danh từ,
có nghĩa “người cấp trưởng”. Trưởng phòng. Trưởng ban. Hội trưởng. Đại hội trưởng. Kế toán
trưởng… ĐÂ với tính từ đơn tiết trưởngII với ý nghĩa là “người đứng đầu trong gia đình” trong các
kết hợp như: Anh ấy là trưởng, còn em là thứ…
Thí dụ 7: ĐÂ giữa một tính từ đơn tiết - YT CTT như:
Sợ táiR1 R cả mặt ______ Bệnh cũ lại táiR2 R phát.
Thí dụ 8: ĐÂ giữa một động từ đơn tiết - YT CTT như:
Mua rẻ bánR1 R đắt ______ hoạt động bánR2 R công khai.
Mời anh vôR1 R nhà ______ VôR2 R cùng, vôR2 R dụng, vôR2 R luận…
Thí dụ 9: ĐÂ giữa một danh từ đơn tiết - YT CTT như:
Đun một siêuR1 R nước ______ SiêuR3 R mẫu, siêuR3 R thoát…
Sống rất có hiếuR1RI _____Người con hiếuR2R học. Gia đình này hiếuR2R khách…
Thí dụ 10: ĐÂ giữa danh từ - động từ - YT CTT như:
Đây là cây báchR1
Bị báchR2 R nên phải làm
BáchR3 R chiến bách thắng, cửa hàng báchR3 R hóa
Thí dụ 11: ĐÂ giữa danh từ - trợ từ - YT CTT như:
Kia là cây đaR1
Việc đó coi bộ khó dữ đaR2
ĐaR3 R sầu, đaR3 R diện…
Thí dụ 12: ĐÂ giữa đại từ - động tù – YT CTT như:
ĐệR2 R chúc mừng huynh
ĐệR1 R đơn xin từ chức
ĐệR3 R tam, đệ nhất (chu niên)….
Trong TĐTV 2006 hiện chỉ thống kê được 21 hình vị cấu tạo từ ĐÂ với từ đơn tiết trong khu
vực ĐÂCG là: bộ R3 RII (TĐTV 2006, tr.79), chủ nghĩaII (TĐTV 2006, tr.147), cựuII (TĐTV 2006,
tr.235), đạiIII (TĐTV 2006, tr.278), đồngR6 RII (TĐTV 2006, tr.341), hậuR1 RII (TĐTV 2006, tr.430),
hóaR2 RII (TĐTV 2006, tr.447), họcR1 RI (TĐTV 2006, tr.453), lãoIII (TĐTV 2006, tr.546), nguyênR1 RVI
(TĐTV 2006, tr.693), nữIII (TĐTV 2006, tr.744), phảnR2 RII (TĐTV 2006, tr.764), phiR7 RII (TĐTV
2006, tr.777), phóR1 RII (TĐTV 2006, tr.781), tânR2 RII (cũ). (TĐTV 2006, tr.899), tiềnR3 RII (TĐTV 2006,
tr.984), tiểuR4 RII (TĐTV2006, tr. 991), tínhR1 RII (TĐTV 2006, tr.998), tổngR2 RII (TĐTV 2006, tr.1013),
trưởngIII (TĐTV 2006, tr.1058), viênR2 RII (TĐTV 2006, tr.1115).
(4) Hiện tượng ngữ đồng âm với ngữ
Trong TV, HT ngữ ĐÂ với ngữ là HT rất hiếm gặp (trong TĐTV 2006, hiện chỉ thống kê được
09 loạt với 18 ĐV). Các ngữ ĐÂ của TV phần lớn nằm ở khu vực ĐÂCG, đa phần có cấu tạo 04 âm
tiết và chủ yếu được sản sinh nhờ phương thức chuyển hóa từ loại và phương thức ghép (ghép trước,
ghép sau). Các ngữ ĐÂ của TV phần lớn là các cấu tạo có chứa yếu tố Hán Việt và hoàn toàn là đơn
nghĩa, phần lớn thuộc về lớp từ vựng chính trị xã hội. Trong đó, nhiều nhất xếp theo thứ tự là: ngữ
danh từ, ngữ động từ, ngữ tính từ.
Dưới đây là danh sách các ngữ ĐÂ của TV:
Cá nhân chủ nghĩa I t. II d. (TĐTV tr.100), cộng sản nguyên thủy I d. II t. (TĐTV tr.212), đế
quốc chủ nghĩa I t. II d. (TĐTV tr.309), điều hòa nhiệt độ I đg. II d. (TĐTV tr.321), điều khiển từ xa
I đg. II d. (TĐTV tr.321), hình thức chủ nghĩa I t.II d. (TĐTV tr.442), thực dụng chủ nghĩa Id. II t.
(TĐTV tr.973), tiểu tư sản I d. II t. (TĐTV tr.992), xã hội chủ nghĩa I d. II t. (TĐTV tr.1140).
(5) Hiện tượng hình vị đồng âm với hình vị
HT hình vị ĐÂ với hình vị cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của HTĐÂ TV. Do trong
TV, từ song tiết ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn, do phương thức cấu tạo từ chủ đạo trong TV là
phương thức ghép và do các hình vị cấu tạo từ trong TV tuyệt đại bộ phận là các hình vị đơn tiết có
nguồn gốc Hán Việt nên các kiểu ĐÂ giữa hình vị cấu tạo từ đơn tiết với hình vị cấu tạo từ đơn tiết
trong các kết hợp đa tiết sẽ đóng vai trò chủ đạo cho HT hình vị ĐÂ với hình vị trong TV. HT các
hình vị cấu tạo từ đơn tiết như: sĩ, viên, bán, giả, tử, hóa… ĐÂ với nhau trong các kết hợp từ đa tiết
kiểu như: hình vị hóa trong hóa học ĐÂ với hình vị hóa trong xanh hóa… chính là nhũng ví dụ tiêu
biểu cho HT hình vị ĐÂ với hình vị trong TV.
2.1.2.4. Phân loại hiện tượng đồng âm từ góc độ từ loại
Từ góc độ từ loại, HTĐÂ trong TV sẽ gồm những loại dưới đây:
(1) Hiện tượng đồng âm trong nội bộ một từ loại
a) Danh từ đồng âm với danh từ
Một gánhII thóc nặng ______ GánhIII xiếc này rất nổi tiếng
Anh cho tôi mượn cái chĩa baI ______ Đây là cây chĩa baII
ÁnhR2 RI đèn ______ Khoai sọ trồng bằng ánhR1
Yếu trâu còn hơn khỏe bòR1 RI _____Đong mấy bò R1 RII gạo
Đồ ăn trầu của bà nội bị thiếu mất cái chìa vôiI
Đây là chim chìa vôiII
Đồng tửR1 R của mắt tôi có vấn đề
Đây là đồng tửR2 R của một đạo sĩ
Thí dụ 13:
b) Động từ đồng âm với động từ
Điệu hát cảmI được người nghe ______ Lan bị cảmII
Không hợp nhau nên phải chia tayI ______ Chia tayII nhau của ăn cắp
LiếcR1 R mắt nhìn trộm ______ LiếcR2 R dao vào trôn bát
Viết hết một câu thì phải chấmII ______ Giáo viên chấmIII bài
Bày vẽR1 R ra cho thêm việc ______ Bày vẽR2 R cách làm ăn
Thí dụ 14:
c) Tính từ đồng âm với tính từ
Thị trường đang khanI hàng ______ Nói nhiều khanII cổ quá
Thuyền đậu san sátI ở bến ______ Nói san sátII cả ngày
ỐmR1 R liệt giường ______ Người ốm R2 R như que củi
Quần áo bê bếtR1R dầu mỡ ______ Công việc bê bếtR2R vì không có người điều khiển
Tiếng vỗ tay lốp bốpI ______ Ăn nói lốp bốpII
Thí dụ 15:
(2) Hiện tượng đồng âm khác từ loại
a) Hiện tượng đồng âm giữa hai từ loại
a1) Danh từ - động từ
Thí dụ 16:
Trâu kéo bừaR1 RI ______ Chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa R1 RII (cd)
Được cử làm chỉ huyII ______Chi huyI một cuộc hành quân
Lan đi mua thanR1 R ______ Anh ấy thanR2 R với tôi
Băng hàR1 R đã bắt đầu tan chảy ______ Vua băng hàR2
a2) Danh từ - tính từ
CáoR1 RI bắt gà ______ Thằng cha ấy cáoR1 RII lắm
Pha chế thuốc theo công thứcI ______ Phát biểu rất công thứcII
Tôi thích ăn bánh tẻR1 R ______ Tre bánh tẻR2 R làm lạt buộc mới tốt
Đây là bơR1 R loại tốt ______ Nó bơR3 R đi vờ như không biết
Thí dụ 17:
a3) Động từ - tính từ
CăngR2 RI mặt trống ______ Quả bóng bơm rất căngR2 RII
Trồng cây để điều hòaII khí hậu ______ Mưa nắng điều hòaI
Nhân bảnR1 R vô tính người. ______ Đó là hành vi rất nhân bảnR2 R.
LẳngR1 R cho một phát ngã nhào ra thềm ______Con bé ấy rất lẳngR2 R.
Thí dụ 18:
a4) Danh từ - trợ từ
Đủ cả, không thiếu cáiR2 RI gì ______ CáiR2 RII đời tủi nhục ngày xưa
Giỗ tổR3 R ______ Chiều cho lắm chỉ tổR4 R hư
Bắn trúng đíchR1 R ______ ĐíchR2 R là nét chữ của anh ta
Thí dụ 19:
a5) Danh từ - đại từ
Chiếc thuyền nằm phơi mìnhI trên bãi ______ Cậu giúp mìnhII một tay
Lan đi chụp ảnhR1 R______ ẢnhR2 R nói, ảnh thương em
Đừng tham đóR1 R bỏ đăng ______ Từ đây đến đóR2 R không xa lắm
Thí dụ 20:
a6) Danh từ - kết từ
CủaI bền tại người (tng) ______ Sách củaII thư viện
Nêu thí dụI ______ Thí dụII (giả sử) nó ốm thì anh làm thế nào
Hoa đi mua dùR1 R ______ DùR2 R mưa to Lan vẫn đi
MàR1 R cua ______ Đói màR2 R chẳng muốn ăn
Thí dụ 21:
a7) Danh từ - phụ từ
Mũi Cà Mau ở cựcR1 RI nam đất nước ______ Món ăn này cựcR1 RII ngon
Mâu thuẫn đến cực độI ______ Vui mừng cực độII
Thí dụ 22:
CàngR1 R xe bò ______ Có gió, lửa càngR2 R bốc cao
Đây là đồng thanhR1 R ______ Không ai bảo mọi người đồng thanhR2 R đáp
a8) Danh từ - cảm từ
Có trời đấtI chứng giám ______ Trời đấtII! Có chuyện đó sao.
Nó cậy nó ôR2 R to ______ ÔR5 R, sao lại thế!
DạR3 RI thưa bác, mẹ con đi vắng ______ DạII một tiếng thật dài
Thí dụ 23:
a9) Động từ - phụ từ
Cơn mưa àoI tới ______ Lội àoII xuống ruộng
Cái đồ cổ lỗ ấy đã được tống tángII từ lâu ______ Ăn tống tángII cho hết
Nó lịmR2 R người đi ______ Nó tím lịmR1 R cả người
Nó xiếtR3 R được một cái xe ______ Tiền của nó nhiều không đếm xiếtR4
Giai đoạn quá độR1 R ______ Chơi bời quá độR2
Thí dụ 24:
a10) Động từ - trợ từ
MấtI tín hiệu liên lạc ______ Nhanh lên! Kẻo muộn mấtII
Nó nháR1 R máy cho tôi ______ Em đi nháR2
Lũ trẻ àR1 R vào vườn ______ Mới đó mà đã quên rồi àR2 RI
Thí dụ 25:
a11) Động từ - kết từ
Vô ý lỡR1 RI gây ra chuyện đáng tiếc ______ Mang thêm tiền, lỡR1RII có việc cần tiêu
VớiR1 RI tay tắt đèn ______ Tôi vớiR2 RI nó như hình với bóng
MiễnR1 R thuế ______ Đi đâu cũng được miễn R2 R là đúng giờ
Thí dụ 26:
a12) Động từ - cảm từ
VângI lời cha mẹ ______ Con ở nhà nhé (VângII! )
ThayR1 R người giúp việc ______ Đau đớn thayR2 R
Nước ồR1 R vào thuyền ______ Ồ! Tôi nhớ ra rồi
Thí dụ 27:
a13) Động từ - đại từ
Ngồi đâuR1 R lưng vào nhau ______ Từ sáng tới giờ đi những đâuR1 RI
QuaR1 RI nhà bên cạnh ______ QuaR2 R đây là bạn của má
Thí dụ 28:
a14) Phụ từ - trợ từ
Nghỉ cái đã R2 RI, rồi hãy làm tiếp ______ ĐãR2 RII dễ gì bảo được anh ta
Thí dụ 29:
Tịnh vôI tin tức ______ Tịnh vôII không ai biết cả
a15) Phụ từ - kết từ
Từ đầu chíR4 RI cuối ______ Nói chíR4 RII phải
Anh chờ một chút, rồi cùng về nhân thểR2RI __ Có anh ở đây, nhân thểR2RII nhờ anh 1việc.
ChớR1 R vì thất bại mà nản lòng ______ Thà chết chớR2 R không khai
Thí dụ 30:
a16) Đại từ - trợ từ
Từ đây đến đóR2 RI không xa lắm ______ Tình hình là như vậy đóR2 RII
ĐâyI là bạn tôi ______ Chắc là có chuyện gì đâyII
Mình về mình có nhớ taR1 R ______ Ông quê ở đâu taR2
Thí dụ 31:
a17) Đại từ - phụ từ
Bọn cướp và tên cầm đầu của chúngI đã bị bắt ___Mời chị tới nhà chơi với chúngII em
Thí dụ 32:
a18) Kết từ - trợ từ
Thà chết chứI không khai ______ Anh vẫn khỏe chứII!
Nói màR2 RI không làm ______ Thôi màR2 RII
Thí dụ 33:
a19) Tính từ - kết từ
Cái tên ấy nghe thật ngộR1R ______ Đem theo ít thuốc, ngộR3R có lúc phải dùng đến.
Thí dụ 34:
a20) Tính từ - cảm từ
Thịt bị ôi R1 R ______ ÔiR2 R! Đẹp quá
Ăn chua nhiều êR1 RI cả răng ______ Ê II, đi đâu đấy
Thí dụ 35:
a21) Tính từ - trợ từ
Câu nói nửa kín nủa hởR1 RI ______ Có chuyện gì thế hởR2 R con
Tiên xuống cõi phàmR1 R ______ PhàmR2 R việc gì khởi đầu cũng khó
Thí dụ 36:
a22) Tính từ - đại từ
Nát bấyR1 R ______ Từ bấyR2 R đến nay
Thí dụ 37:
b) Hiện tượng đồng âm chuỗi (đồng âm giữa 03 từ loại trở lên)
b1) Đồng âm giữa danh từ - động từ - tính từ
* Một cânI đường
Thí dụ 38:
CânII nhẹ đong vơi
Bức tranh treo không cânIII
* Không khí là một hỗn hợpI khí, chủ yếu gồm nitrogen và oxygen
Hỗn hợpII hai thứ này vào nhau sẽ được thứ ta cần
Một chương trình biểu diễn quá hỗn hợpIII
*Cái suốt R1 R (sợi) bị hư rồi
Đi suốtR2 R lúa
Phải cưa đứt, đục suốtR3
b2) Đồng âm giữa danh từ - tính từ - phụ từ
* Tan tác như ong mất chúaI
Thằng ấy về khoa nói thì chúaII lắm
Anh ta chúaIII ghét thói ba hoa
* Về căn bảnI là vậy
Sự khác nhau căn bảnII
Ý kiến căn bảnIII giống nhau
*Quá mùR1 R ra mưa
Có mắt như mùR2
Mùi cao su cháy khét mùR3
Thí dụ 39:
b3) Đồng âm giữa danh từ - đại từ - trợ từ
Không mai thì kiaII, thế nào cũng có tin
Bức tranh này đẹp hơn bức tranh kiaI
Anh bảo tôi đến kiaIII mà
Thí dụ 40:
b4) Đồng âm giữa danh từ - tính từ - trợ từ
MốcR1 RI tương
Gạo mốcR1 RII
Có còn xu mốcR1 RIII nào đâu
Thí dụ 41:
b5) Đồng âm giữa danh từ - trợ từ - cảm từ
Sao trên trờiI
Suốt mấy ngày trờiII
TrờiIII ! , Sao lại có thể như vậy được
Thí dụ 42:
b6) Đồng âm giữa danh từ - động từ - kết từ
Thí dụ 43:
Mở víR1 R lấy tiền
Công ơn cha mẹ víR2 R như trời biển
VíR3 R đây đổi phận làm trai được
b7) Đồng âm giữa danh từ - động từ - đại từ
Đi mượn cái bayR1 R về xây tường rào
Chim bayR2
Tụi bay R3 R muốn giở trò gì
Thí dụ 44:
b8) Đồng âm giữa danh từ - động từ - phụ từ
LầnR1 R đầu tiên sai hẹn
LầnR2 R túi tìm chiếc chìa khóa
Sắm lầnR3 R (dần) các thứ cần dùng
Thí dụ 45:
b9) Đồng âm giữa danh từ - động từ - cảm từ
Rung chàR1 R cá nhảy
ChàR2 R bột làm bánh
ChàR3 R! Đẹp lắm
Thí dụ 46:
b10) Đồng âm giữa danh từ - động từ - trợ từ
Vai hềR1 R diễn rất đạt
Nhà sập nhưng không có ai hềR2 RII gì
Tôi chưa hề R2 RII nói dối
Thí dụ 47:
b11) Đồng âm giữa danh từ - đại từ - cảm từ
Chơi họ R1 Rphải góp tiền họ
Có mấy người đến nhưng họR2 R lại đi rồi
HọR4 R! (tiếng hô cho trâu dừng lại)
Thí dụ 48:
b12) Đồng âm giữa danh từ - đại từ - kết từ
Nguyễn Du tựR2 Rlà Tố Như
TựR3 R tay mình làm ra
TựR4 R anh nên hỏng việc
Thí dụ 49:
b13) Đồng âm giữa danh từ - đại từ - phụ từ
Chân đi tấtR1
Thí dụ 50:
Có tiền việc gì cũng xong tấtR2
Cái gì phải đến tấtR3 R sẽ đến
Thí dụ 51:
Lan đi mua dầuR2 R khuynh diệp
Vải bị dầu R3 R hết rồi
DầuR4 R thế nào cũng phải đi
b14) Đồng âm giữa danh từ - tính từ - kết từ
b15) Đồng âm giữa danh từ - tính từ - cảm từ
Vỡ ốiR1 R là sắp đẻ
Còn ốiR2 R chuyện phải làm
ỐiR3 R! đau quá
Thí dụ 52:
b16) Đồng âm giữa danh từ - phụ từ - trợ từ
NàR1 R (bãi) ngô xanh tốt
Rượt nàR2 R (riết) theo
Thôi nàR3 R (nào)
Thí dụ 53:
b17) Đồng âm giữa động từ - tính từ - trợ từ
*Cứ chắcR2 RII là được, ai ngờ lại thua
Chưa lấy gì làm chắcR2 RI
Anh quen thằng ấy chắcR2 RII
*TịnhR1 R lương thực đã vào bao trước khi cho vào kho
Trên đường tịnhR3 R không có một bóng người
Nó tịnhR2 R khẩu cho yên chuyện
Thí dụ 54:
b18) Đồng âm giữa động từ - kết từ - trợ từ
Tàu đếnI ga
Vấn đề đã được bàn đếnII
Hoa đếnIII là thơm
Thí dụ 55:
b19) Đồng âm giữa động từ - phụ từ - kết từ
Kẻ còn R2 RI người mất
Anh ấy cònR2 RII rất trẻ
Nắng thì đi cònR2RIII mưa thì nghỉ
Thí dụ 56:
b20) Đồng âm giữa động từ - tính từ - cảm từ
Ai cũng gớmI mặt hắn
Hắn cũng vào loại gớmII
GớmIII, nhỡ một tí thôi mà!
Thí dụ 57:
b21) Đồng âm giữa động từ - trợ từ - cảm từ
ThôiR2 RI chức chủ tịch
Bài văn ấy ngắn thôiR2 RII nhưng rất hay
ThôiR2 RIII thế là hết
Thí dụ 58:
b22) Đồng âm giữa động từ - tính từ - kết từ
NhằmI thẳng mục tiêu mà bắn
Đánh nhằmII chổ hiểm
Nói thêm nhằmIII thanh minh
Thí dụ 59:
b23) Đồng âm giữa động từ - tính từ - phụ từ
TrầnR3 RII thân mới có được miếng ăn
Mình trần R3 RI
Trên người chỉ trầnR3 RIII một chiếc áo lót
Thí dụ 60:
b24) Đồng âm giữa tính từ - kết từ - trợ từ
Anh em cùngR2 RI cha khác mẹ
Nó đến cùngR2 RII với bạn
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nươc thì thương nhau cùngR2 RIII" (Ca dao)
Thí dụ 61:
b25) Đồng âm giữa tính từ - phụ từ - kết từ
Ruộng liềnI khoảnh
Chỉ kịp dặn vài câu rồi đi liềnII
Cả mẹ liềnIII (lẫn) con đều biết
Thí dụ 62:
b26) Đồng âm giữa tính từ - phụ từ - trợ từ
Đứng cho ngayI hàng thẳng lối
Đưa ngayII bệnh nhân đến bệnh viện
NgayIII một đồng cũng không có
Thí dụ 63:
b27) Đồng âm giữa đại từ - trợ từ - cảm từ
Cái thời ấyI đã qua rồi
Nó đang bận làm gì ấyII
ẤyIII đừng làm thế
Thí dụ 64:
b28) Đồng âm giữa đại từ - phụ từ - trợ từ
Cái gìI kia ?
Có nhiều nhặn gìII cho cam
Nó chẳng biết gìIII
Thí dụ 65:
b29) Đồng âm giữa danh từ - động từ - phụ từ - trợ từ
Tạm rút về cứII
CứI phép công mà làm
Đừng sợ, cứIII nói !
Nặng thế mà nó xách cứIV như không
Thí dụ 66:
b30) Đồng âm giữa danh từ - động từ - tính từ - phụ từ
Đêm năm canh, ngày sáu khắcR1
KhắcR2 R chữ vào đá
Thủy khắc R3 R hỏa
Việc của tôi, tôi khắc R4 R lo
Thí dụ 67:
b31) Đồng âm giữa danh từ - động từ - tính từ - kết từ
Một năm học có hai kìR2
KìR3 R lưng cho sạch
Tính anh ta kìR4 R lắm
Làm cho kì R5 R xong
Thí dụ 68:
b32) Đồng âm giữa danh từ - động từ - đại từ - phụ từ
Xe chỉR1 R luồn kim
ChỉR5 R cho cách làm ăn
ChỉR4 R nói, chỉ thương ảnh
ChỉR6 R một mình anh ấy trở lại
Thí dụ 69:
b33) Đồng âm giữa danh từ - động từ - đại từ - kết từ
Lòng vảR1 R cũng như lòng sung
Thí dụ 70:
VảR2 R cho mấy cái
Tôi vừa gặp vảR3 R (anh ta, ông ta) hôm qua
Tôi không thích, vảR4 R (vả lại) không có thì giờ đi xem
b34) Đồng âm giữa động từ - tính từ - phụ từ - trợ từ
ĐượcI của rơi, trả lại cho người mất
Cô ấy đượcII người được nết
Nghe lõm bõm câu đượcIII câu chăng
Gặp đượcIV người tốt
Thí dụ 71:
b35) Đồng âm giữa động từ - phụ từ - kết từ - trợ từ
Bơi qua R1 RI sông
Tạt quaR1 RII hiệu sách
Học tập quaR1 RIII sách vở
Chẳng nói quaR1 RIV một lời nào
Thí dụ 72:
b36) Đồng âm giữa động từ - tính từ - phụ từ - kết từ
HayR1 Rtin tôi ốm, nó liền tới thăm
Vở kịch hayR2 R
Ông khách hayR3 R đến chơi nhà
Về hayR4 R ở
Thí dụ 73:
b37) Đồng âm giữa tính từ - phụ từ - kết từ - trợ từ
Ăn cơm mớiI , nói chuyện cũ (tng)
Ngôi nhà này vừa mớiII xây xong
Có thực mớiIII vực được đạo (tng)
Cảnh mớiIV đẹp làm sao
Thí dụ 74:
b38) Đồng âm giữa đại từ - phụ từ - trợ từ - cảm từ
Anh biết người nàoI trong tấm ảnh
NàoII thấy ai đâu
Chờ nó ăn xong đã nàoIII
NàoIV, có giỏi thì đánh đi !
Thí dụ 75:
b39) Đồng âm giữa danh từ - động từ - tính từ - phụ từ - trợ từ
Doanh nghiệp này nợ nhiều hơn cóII
Thí dụ 76:
Cơ hội ngàn năm cóI một
Lúc cóIII phải nghĩ khi túng thiếu
CóIV cứng mới đứng đầu gió
Nó chỉ ăn cóV một bát cơm
2.1.2.5. Những hiện tượng đồng âm khác
a) Đồng âm giữa một tính từ - yếu tố tình thái
a1) Giá cả phải chăngR1
a2) Phải chăngR2 R nguyên nhân việc đó là như vậy
Thí dụ 77:
b) Đồng âm giữa động từ - yếu tố tình thái
b2) Nó nhanh nhẹn, phải tộiR2 R (chỉ mỗi tội) hơi lười
Thí dụ 78: b1) Báng bổ thần thánh thế thì phải tộiR1 R chết
2.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐÂ TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
Là một ngôn ngữ đơn lập khá điển hình, THHĐ có nhiều ĐVĐÂ. Lí do THHĐ có nhiều
ĐVĐÂ đã được bàn đến và phân tích khá nhiều như: do có SL âm tiết cơ bản và SL âm tiết tính trên
lí thuyết ít, SL âm tiết thực sử dụng cũng không nhiều, do những biến đổi về ngữ âm trong lịch sử,
do sự du nhập và phiên chuyển các yếu tố ngoại lai vào tiếng Hán, do sự du nhập ngôn ngữ địa
phương vào ngôn ngữ toàn dân, do quá trình phân li các nét nghĩa của từ ĐN tạo nên…
Hiện nay, quan điểm về HTĐÂ trong giới nghiên cứu Hán ngữ vẫn còn nhiều điều không thống
nhất song theo quan điểm phổ biến của những nhà nghiên cứu Hán ngữ thì : (i) những ĐV có âm đọc
giống nhau, có nghĩa khác nhau là những ĐVĐÂ với nhau, (ii) do những đặc trưng của tiếng Hán quy
định nên việc nghiên cứu tìm hiểu HTĐÂ trong THHĐ không thể tách rời mối quan hệ khăng khít giữa
ba mặt hình – âm – nghĩa, (iii) không thể tách rời những đặc điểm vốn có của một ngôn ngữ đơn lập khá
điển hình như tiếng Hán (đơn lập, không biến đổi hình thái, cấu trúc của các ĐV từ vựng ngắn, có tính
võ đoán cao…), (iv) có thể phân loại HTĐÂ trong THHĐ thành các kiểu như: ĐÂ ngẫu nhiên và ĐÂ
do quá trình phân li những nét nghĩa của từ ĐN (Lưu Thúc Tân; 1990), ĐÂĐT với ĐÂDT, ĐÂ đơn tiết
với ĐÂ đa tiết và ĐÂ phái sinh (Phù Phó Thanh; 1983), ĐÂ đồng cấu đồng tính, ĐÂ đồng cấu dị tính
(Chu Anh Quý; 2002)…
Theo quan điểm của chúng tôi, việc phân loại các ĐVĐÂ của tiếng Hán dựa vào các tiêu chí
hình – âm – nghĩa và tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ là cách phân loại hợp lí, khoa
học và có sức giải thích cao còn các cách phân loại xuất phát từ những góc độ khác, tiêu chí khác
cũng có giá trị tham khảo, có ích với thực tiễn nếu được tiến hành một cách nghiêm túc, triệt để.
Do đứng trước một khối lượng ngữ liệu quá lớn, do mục đích của LA không đặt ra nên chúng
tôi không thống kê tất cả những ĐVĐÂ trong THHĐ mà chỉ làm điểm một số loại đặc biệt và sử
dụng số liệu từ những công trình khoa học có làm thống kê về ĐÂ trong THHĐ làm cơ sở so sánh
đối chiếu với TV.
Sau đây là kết quả phân loại và mô tả các ĐVĐÂ của THHĐ dựa vào các tiêu chí hình – âm –
nghĩa, tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ và từ góc độ cấu tạo từ.
2.2.1. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo
Cũng giống như TV, âm tiết là ĐV cơ bản, dễ nhận biết của THHĐ. Âm tiết của THHĐ có cấu
tạo đơn giản, ở dạng đầy đủ gồm có 03 thành tố (thanh mẫu, vận mẫu, thanh điệu). Ở dạng tối thiểu
bao gồm 02 thành tố (vận mẫu và thanh điệu). SLÂT chưa tính thanh điệu trong tiếng Hán theo TĐ
THHĐ 1996 là 400, SLÂT có thanh điệu thực sử dụng là khoảng 1250.
Theo số liệu thống kê từ TĐ THHĐ 1996 của Chu Tồn [199, tr.365–375] thì: nếu nhìn từ góc
độ lí thuyết âm tiết, vốn từ vựng của THHĐ (bao gồm 58.481 ĐV được thu thập và giải thích ) sẽ
gồm hai mảng lớn là: mảng những ĐV đơn tiết (chỉ có một âm tiết) và mảng những ĐV đa tiết (có
từ 02 đến 12 âm tiết). Chi tiết xin xem bảng dưới đây:
STT
LOẠI ĐƠN VỊ
SỐ LƯỢNG
TỶ LỆ %
01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11
Có 01 âm tiết Có 02 âm tiết Có 03 âm tiết Có 04 âm tiết Có 05 âm tiết Có 06 âm tiết Có 07 âm tiết Có 08 âm tiết Có 09 âm tiết Có 10 âm tiết Có 12 âm tiết Tổng số: 11 loại
8795 39548 4910 4798 218 104 48 50 07 02 01 58.481 đvị
15,039 67,625 8,396 8,204 0,373 0,178 0,082 0,086 0,012 0,003 0,002 100 %
Theo số liệu này thì những ĐV đơn tiết và song tiết mới là những ĐV làm nên diện mạo chính
cho kho từ vựng tiếng Hán (với 48.343 ĐV, chiếm khoảng 83 %) trong đó, những ĐV có cấu tạo 02
âm tiết chiếm tỷ lệ cao nhất (với 39.548 ĐV, chiếm 67,625%). Điều này đã giúp chúng ta giải thích
tại sao trong THHĐ chỉ hay gặp những ĐVĐÂ đơn tiết và song tiết kiểu như: 福 (phúc) là một từ
đơn tiết ĐN chỉ sự hạnh phúc, may mắn… đồng âm với 蝠 (bức) là một từ đơn tiết đơn nghĩa chỉ
con dơi. Hay: 暴力 (bạo lực) là một ĐV song tiết chỉ bạo lực, vũ lực đồng âm với暴利 (bạo lợi) là
một ĐV song tiết chỉ hành vi dùng thủ đoạn bất chính, trong một thời gian ngắn kiếm được lợi
nhuận lớn. Còn những ĐVĐÂ có cấu tạo từ 03 âm tiết trở lên kiểu: lễ chùa 礼拜寺 (lễ bái tự) ĐÂ
với thứ năm礼拜四 (lễ bái tứ) hay: viêm khí quản气管炎(khí quản viêm) ĐÂ với bị vợ quản thúc
1 钱看(hướng tiền khán) chỉ chú đến vấn đề tiền bạc, 满堂红P
P (mãn đường hồng) chỉ (thắng lợi) trọn
nghiêm ngặt妻管严(thê quản nghiêm), nhìn về phía trước向前看 (hướng tiền khán) đồng âm với向
2 vẹn, xuất sắc đồng âm với满堂红P
PR R(mãn đường hồng) chỉ (cây, hoa) mãn đường hồng... rất hiếm
gặp và thường là ĐÂ ngẫu nhiên.
Theo số liệu của Trương Đình [163] thì: trong Hiện đại Hán ngữ từ điển; 1996 có 97,85% các
ĐV đơn tiết được thống kê trong TĐ có liên quan tới ĐÂ và có 15,157% các ĐV đa tiết được thống
kê trong TĐ có liên quan tới ĐÂ. Còn số liệu các ĐVĐÂ song tiết mà tác giả thống kê được trong
Hiện đại Hán ngữ từ điển 1996 chiếm 7,67% tổng số ĐV song tiết của từ điển. Còn theo số liệu của
Cố Việt [203] thì tổng số ĐVĐÂ của THHĐ là vào khoảng 9,5 %.
2.2.2. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí hình - âm – nghĩa
Như chúng ta đã biết, do những đặc điểm riêng mà ba tiêu chí hình – âm – nghĩa đã từ lâu
được coi là những tiêu chí quan trọng mà các nhà ngôn ngữ học dùng để phân loại những ĐVĐÂ
trong THHĐ. Từ góc độ này, các ĐVĐÂ của tiếng Hán được phân loại thành ba loại lớn là: (1) ĐÂĐT, (2) ĐÂDT và (3) ĐÂ phái sinh. Chẳng hạn: 在 (tại) có nghĩa là ở và再 (tái) có nghĩa là lại là 2 1 P (sinh địa) là tên một vị thuốc và生地 P hai ĐV đơn tiết ĐÂDT. Còn 生地 P P (sinh địa) chỉ đất hoang, đất không trồng trọt là những ĐV SÂT ĐÂĐT. Còn hai từ 盘 (bàn) và牌 (bài) vốn là những ĐV đơn âm tiết khác nhau, không ĐÂ với nhau nhưng sau khi được 儿化 (nhi hóa) mà trở thành hai ĐVĐÂ với
盘[bàn; pán] chậu rửa tay ->盘儿[pár] cái khay, cái mâm
牌[bài; pái] nhịp điệu -> 牌儿[pár] tấm biển của cửa hiệu
nhau. Chẳng hạn:
2.2.2.1. Hiện tượng đồng âm đồng hình trong THHĐ
2 P(hắc nhân) chỉ người da đen và黑人P
P(hắc nhân) chỉ người
1 hoàn toàn khác nhau trong THHĐ như: 黑人P 2 1 P(sinh khí) có nghĩa là tức giận và生气P không có hộ khẩu là hai ĐV song tiết ĐÂĐH với nhau. 生气 P P (sinh 2 1 khí) chỉ sức sống cũng là hai ĐV song tiết ĐÂĐH với nhau. Còn 叫P P (khiếu) có nghĩa là kêu, gáy và叫P P (khiếu) có nghĩa là baûo, laøm cho, khieán cho là hai ĐV đơn tiết ĐÂĐH với nhau.
ĐÂĐH là khái niệm dùng để chỉ những ĐV có âm đọc và hình chữ giống hệt nhau nhưng có ý nghĩa
1
2 P (giá) tạm thời sử dụng tiền hay đồ vật của người khác là một từ đơn tiết ĐÂ với借P P (giá)
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Hán ngữ hiện đại, thuộc về HT ĐÂĐH còn có:
1 P (cùng) là một từ đơn
2
(1) Hiện tượng đồng âm đồng hình giữa từ với từ tố Ví dụ: 借P
P (cùng) là một YT CTT trong穷途 (cùng đồ) có nghĩa là đường cùng.
1
2
là một từ tố ( YT CTT) trong 借故 (giá cố) có nghĩa là mượn cớ, vin vào cớ . 穷P tiết có nghĩa là nghèo ĐÂ với穷P
P (tân) trong 津液 (tân dịch) chỉ nước bọt, nước miếng ĐÂ với từ tố津 P
P (tân) trong 1 P (công) trong 工业 (công nghiệp) chỉ công nghiệp ĐÂ với 津渡 (tân độ) chỉ bến sông, bến đò. Từ tố 工P 2 từ tố工P P (công) trong 工作 (công tác) chỉ công tác, lao động sản xuất.
(2) Hiện tượng đồng âm đồng hình giữa từ tố với từ tố Ví dụ: từ tố 津P
Hiện nay, theo quan điểm phổ biến, những ĐV ĐÂĐH trong THHĐ được coi là những ĐVĐÂ bị phân
li từ những nét nghĩa của các ĐVĐN. Chúng có SL ít hơn nhiều so với những ĐV ĐÂDT. Theo số liệu của Tạ
Văn Khánh và Vương Chấn Côn [170] thì trong Hiện đại Hán ngữ từ điển có 168 tổ hợp ĐÂST với 346 từ.
Trong đó: từ ĐÂĐH là 65 tổ hợp với 130 từ chiếm 37% tổng số từ ĐÂST, từ song tiết ĐÂDH là 103 tổ hợp
với 216 từ chiếm 62% tổng số từ ĐÂST. Còn theo số liệu của Lưu Xuyên Dân [161] thì trong Hiện đại Hán
ngữ từ điển có 273 tổ hợp là từ ĐÂ song tiết.
(3)Từ đồng âm đồng hình song âm tiết trong THHĐ
Tiến hành khảo sát, thống kê TĐ THHĐ 2005 chúng tôi thu được 317 loạt ĐÂĐH SÂT với
645 ĐV. Trong đó phổ biến nhất là HT những loạt ĐÂĐH SÂT có chứa hai ĐV. Những loạt có chứa
03 ĐV chỉ có 07 loạt dưới đây: (xin xem bảng 2.5)
Bảng 2.5. Bảng kê những loạt ĐÂĐH song tiết chứa 03 đv trong THHĐ 2005:
stt ĐV được thống kê
Âm Hán Việt
TĐ Trang
(1) (2) (3)
Bả tử
01 把子P
Tr 21
(1) (2) (3)
Lưu tử
02 溜子P
Tr 939
(1) (2) (3)
Ngật thủy
03 吃水P
Tr 180
(1) (2) (3)
Đả nhãn
04 打眼P
Tr 247
(1) (2) (3)
Thanh sắc
05 声色P
Tr 1222
(1) (2) (3)
Thủy ấn
06 水印P
Tr 1334
(1) (2) (3)
Tiểu hiệu
07 小号P
Tr 1497
Và chúng tôi cũng chỉ thống kê được 06 loạt ĐÂĐH có cấu tạo 03 âm tiết và 01 loạt ĐÂĐH có cấu tạo 04
âm tiết. (Chi tiết xin xem bảng 2.6)
Bảng 2.6. Bảng kê Những loạt ĐÂĐH ST có cấu tạo 03, 04 âm tiết trong THHĐ:
stt ĐV được thống kê
Âm Hán Việt
TĐ Trang
(1) (2)
Bần cốt đầu
Tr 1110
01 贫骨头P
(1) (2)
Trúc diệp thanh
Tr 1777
02 竹叶青P
(1) (2)
Quái bất đắc
Tr 499
03 怪不得P
(1) (2)
Bá vương tiên
Tr 22
04 霸王鞭P
(1) (2)
Bạch đầu ông
Tr 27
05 白头翁P
(1) (2)
Đỉnh ngưu nhi
Tr 319/320
06 顶牛儿P
(1) (2)
Bả hỏa quán nhi
Tr 19
07 把火罐儿P
Những ĐV này bao gồm: từ ĐÂĐH SÂT, ngữ ĐÂĐH SÂT. Đây là những ĐV có cấu tạo 02
âm tiết, có chữ viết (hình văn tự) giống nhau, có âm đọc giống nhau (giống nhau về thanh mẫu, vận
mẫu, thanh điệu).
Về ngữ nghĩa, những ĐV ĐÂĐH có nghĩa khác nhau, phần lớn chúng là những ĐV có 01
nghĩa (đơn nghĩa), những ĐVĐN có SL ít hơn. DLN của những ĐV ĐÂĐH SÂT trong THHĐ là từ
01 đến 05 nghĩa.
Về nguồn gốc, khác với những ĐV ĐÂDT song tiết, những ĐV ĐÂĐH SÂT thường có mối
quan hệ về nguồn gốc với nhau. Đại bộ phận là do chuyển loại mà thành. Sự chuyển loại trong
những ĐV này tuyệt đại bộ phận là diễn ra trong một từ loại (60,6%), những ĐV chuyển loại khác
từ loại ít gặp hơn (39,4%). Trong TĐ THHĐ 2005 hiện chỉ tìm thấy sự chuyển loại thành hai từ loại
khác nhau. Mô hình chuyển loại giữa hai từ loại thường gặp là:
1 Thí dụ 79:【黑人】P P (hēi rén) (名): 指黑种人( chỉ người da đen). 我的男朋友是黑人bạn trai của tôi là
người da đen.
2 P (hēi rén) (名): 躲藏起来不敢会开露面的人 (chỉ những kẻ sống chui lủi, không có hộ khẩu). 【黑人】P
在这个城市里 有很多黑人ở thành phố này có rất nhiều người không có hộ khẩu. ( TĐ THHĐ tr. 557)
(i). Thực từ <=> thực từ
1 Thí dụ 80:【立地】P
P (lì dì) (动): 立在地上(đứng trên mặt đất). 顶天立地đầu đội trời, chân
(ii). Thực từ <=> hư từ
2 【立地】P
P (lì dì)(副): 立该 (Lập tức). 放下屠刀, 立地成佛bỏ con dao giết người xuống
đạp đất.
là lập tức thành phật ngay. ( TĐ THHĐ tr. 838)
1 Thí dụ 81: 【就是】P
P(jiù shì) (助): 用在句末表示肯定 (dùng ở cuối câu biểu thị sự khẳng
(iii). Hư từ <=> hư từ
2 【就是】P
P(jiù shì) (连): 表示假设的让步 (biểu thị sự nhượng bộ). 就是在日常生活中,也
định: là được, là xong). 我一定办到,你放心就是了tôi nhất định làm được, anh cứ yên tâm
需要有一定的科学知识ngay cả trong cuộc sống thường ngày, cũng cần có những hiểu biết khoa
học nhất định. ( TĐ THHĐ tr.734)
Trong 03 mô hình chuyển loại trên đây thì mô hình (i) có SL nhiều nhất, kế đó là mô hình (ii),
cuối cùng là mô hình (iii).
Phân loại các ĐV ĐÂĐH từ góc độ từ loại ta sẽ có 02 loại chính dưới đây:
(i). Từ ĐÂĐH song tiết ĐÂ trong nội bộ một từ loại. Loại này gồm 04 kiểu HT sau:
P (àn . zi)(名)一种旧式的狭长桌子或架起来代替桌子用的长本板
1 Thí dụ 82:【案子】 P
- Danh từ đồng âm với danh từ
(chỉ loại bàn dài kiểu cũ hoặc tấm phản thay cho bàn).我家有一张裁缝案子nhà tôi có một cái bàn
2 【案子】 P
P (àn . zi)(名) 案件 (Vụ án, vụ kiện).办了一件案件thụ lý một vụ kiện. ( TĐ
THHĐ tr.11)
cắt may.
1 Thí dụ 83:【参见】P
P(cān jiàn) (动) chỉ thuật ngữ dùng khi chú thích: xem, xem thêm…
- Động từ đồng âm với động từ
2 【参见】P P (cān jiàn) (动): 以一定礼节进见;谒见 (bái kiến, yết kiến với một lễ nghi nhất
định).参见师傅bái kiến sư phụ. ( TĐ THHĐ tr. 128)
P(diān lián ) (形): 困苦 (khốn khổ). 颠连无告khốn khổ song không có ai
1 Thí dụ 84:【颠连】P
- Hình dung từ đồng âm với hình dung từ
2 【颠连】P
P(diān lián ) (形): 形容连棉不断. (trùng điệp, dằng dặc). 群山颠连起伏núi non
thổ lộ.
nhấp nhô trùng điệp. ( TĐ THHĐ tr. 303)
P(yě bà ) (助): 算了,也就算了 (được rồi, đành vậy): 也罢, 你一定走,
1 Thí dụ 85:【也罢】P
- Trợ từ đồng âm với trợ từ
2 【也罢】P
P(yě bà ) (助): 表示在任何情况下都是这样 (vẫn thế, cũng được): 你去也罢,不
我送你上车。được rồi, anh muốn đi thì tôi sẽ tiễn anh lên xe.
THHĐ tr. 1588)
去也罢,反正我是不去。anh đi cũng được, không đi cũng được, dù sao tôi cũng không đi. ( TĐ
(ii). Từ ĐÂĐH song tiết ĐÂ khác từ loại với 10 kiểu HT sau:
1 Thí dụ 86:【包金】P P (bāo jīn) (动)用薄金叶包在金属首饰外面 (bọc vàng).包金项链vòng
- Động từ đồng âm với danh từ
2 【包金】P
P(bāo jīn) (名): 旧时戏院按期付给剧团或主要演员的约定的报酬 (Tiền lương/
cổ bọc vàng.
Thù lao (thời xưa, chủ rạp định kì trả thù lao cho gánh hát hoặc diễn viên chính theo mức thỏa
thuận). 这个月他的包金是三百元 tiền lương tháng này của anh ta là ba trăm đồng. ( TĐ THHĐ
tr. 44)
1 Thí dụ 87:【草本】P P (cǎo běn) (形):有草质茎的 (植物) (chỉ những thực vật có tính chất hay
- Danh từ đồng âm với hình dung từ
2 【草本】P
P(cǎo běn) (名):文稿的底本 (bản thảo). 明天你给我草本吧 ngày mai bạn đưa bản
đặc điểm của thực vật thân thảo).
thảo cho tôi nhé. (TĐ THHĐ tr.135)
P(jī . ling) (形): 聪明伶俐;机智 (thông minh, lanh lợi)这孩子怪机灵的。
1 Thí dụ 88:【机灵】P
- Động từ đồng âm với hình dung từ
2 【机灵】P
P(jī . ling) (动): 受惊吓猛然料动 (giật mình). 他吓得一机灵就醒了 hắn ta sợ đến
đứa bé này thật tinh nhanh.
nỗi giật mình tỉnh dậy (TĐ THHĐ tr. 627; 634)
- Động từ đồng âm với phó từ
1 Thí dụ 89:【立地】P
P (lì dì) (动): 立在地上(đứng trên mặt đất). 顶天立地 đầu đội trời, chân
2 【立地】P
P (lì dì)(副): 立该 (Lập tức). 放下屠刀, 立地成佛bỏ con dao giết người xuống là
đạp đất.
lập tức thành phật ngay. (TĐ THHĐ tr. 838)
1 Thí dụ 90:【恰恰】P P (qià qià) (副) 刚好;正(vừa hay/vừa vặn). 我跑到那里恰恰十二点tôi
- Danh từ đồng âm với phó từ
2 【恰恰】 P P(qià qià) (名)拉丁舞哥的一种chỉ một vũ điệu latinh có tên là cha- cha. (TĐ
THHĐ tr.1083)
đi đến đó vừa đúng 12 giờ.
1 Thí dụ 91:【自是】P
P(zì shì) (副): 自然是 (tất nhiên là). 久别重逢,自是高兴xa nhau lâu
- Hình dung từ đồng âm với phó từ
2 【自是】P P(zì shì) (形): 自以为是 (tự cho là đúng, tự thị, tự cho mình là đúng). 他既很自是有很顽固
ngày gặp lại tất nhiên là vui.
hắn ta đã hay tự thị lại còn rất ngoan cố. (TĐ THHĐ tr. 1808)
1 Thí dụ 92:【大家】P
P(dà jiā) (名): 1. 著名的专家 (chuyên gia nổi tiếng)书法大家nhà thư pháp
- Danh từ đồng âm với đại từ
2 【大家】P
P(dà jiā) (代): 指一定范围内所有的人 (chỉ tất cả mọi người trong một phạm vi nhất
nổi tiếng. 2. 世家望族 (chỉ gia đình quyền quý): 大家闺秀tiểu thư khuê các.
định). 大家的事大家办Việc của mọi người thì mọi người làm. 大家安静一点儿, 现在开会了mọi
người trật tự một chút, bây giờ đã vào cuộc họp rồi. (TĐ THHĐ tr. 252)
1 Thí dụ 93:【绺子】P P(liǔ . zi) (量): 绺儿 (bó, nắm). 一绺子头发một nắm tóc.
2 【绺子】P
P(liǔ . zi) (名): 土匪帮伙 (bọn, đám thổ phỉ). 这绺子人很可怕bọn thổ phỉ này rất
- Danh từ đồng âm với lượng từ
đáng sợ. (TĐ THHĐ tr. 877)
1 Thí dụ 94:【纵令】P P(zòng lìng) (连): 却使 (dù cho/ dù có). 纵令有大困难,也吓不倒我们cho dù
khó khăn đến mấy cũng không khuất phục nổi chúng ta.
2 【纵令】P P(zòng lìng) (动): 放任不加管束,听凭 (lơi lỏng, để mặc). 不得纵令坏人逃脱không
- Động từ đồng âm với liên từ
được nơi lỏng cho kẻ xấu trốn thoát. (TĐ THHĐ tr. 1815)
1 Thí dụ 95:【就是】P P(jiù shì) 1. (助): (用在句末表示肯定, 常加 “了”(dùng ở cuối câu, biểu
- Trợ từ đồng âm với liên từ
thị sự khẳng định, thường thêm “了”: là được, là xong). 我一定办到,你放心就是了tôi nhất định
làm được, anh cứ yên tâm. 2.(副)(单用,表示同意dùng một mình, biểu thị sự đồng ý):就是,
2 【就是】P P(jiù shì) (连): 表示假设的让步 下半句常用“也”呼应(Biểu thị sự nhượng bộ có
就是 你的话很对vâng, vâng, ý kiến của anh rất đúng.
tính giả thiết). 就是在日常生活中,也需要有一定的科学知识 (Ngay cả trong cuộc sống thường
ngày, cũng cần có những hiểu biết khoa học nhất định). (TĐ THHĐ tr. 734). Tổng hợp lại, LA có bảng
2.7 và 2.8 dưới đây:
Bảng 2.7. Bảng thống kê, phân loại các ĐV ĐÂĐH SÂT trong TĐTHHĐ 2005 (ĐÂ trong một
từ loại):
HT ĐÂ trong nội bộ một từ loại (04 HT)
Danh từ -Danh từ Động từ - Động từ
Hình dung từ - Hình dung từ
Trợ từ - Trợ từ
101 loạt
80 loạt
10 loạt
01 loạt
192/317 loạt (chiếm 60,6%)
Bảng 2.8. Bảng thống kê, phân loại các ĐV ĐÂĐH SÂT trong TĐ THHĐ 2005 (ĐÂ giữa hai
từ loại):
HT ĐÂ giữa hai từ loại (10 HT)
Hiện Tượng
01 Động từ - Danh từ 02 Danh từ - hình dung từ 03 Động từ - Hình dung từ 04 Động từ - Phó từ 05 Danh từ - Phó từ 06 Hình dung từ- Phó từ 07 Danh từ - Đại từ 08 Danh từ - Lượng từ 08 Động từ - Liên từ 10
Số Lượng loạt 72 loạt (Từ - ngữ: 30 loạt; Từ - từ: 42 loạt) 20 loạt (Từ - ngữ: 03 loạt; Từ - từ 17 loạt) 27 loạt ( Từ - ngữ: 17 loạt; Từ - từ: 8 loạt; Ngữ- ngữ: 02 loạt) 05 loạt ( Từ - ngữ: 01 loạt; Từ - từ: 04 loạt) 03 loạt 01 loạt 01 loạt 03 loạt 01 loạt 01 loạt
Trợ từ - Liên từ Tổng số: 10 HT
124/317 loạt, chiếm 39,4%
Từ góc độ các ĐV ngôn ngữ, các ĐV ĐÂĐH SÂT gồm 03 kiểu HT là:
1 Thí dụ 96:【海口】P
P (hǎi kǒu) 1. (名): 河流通海的地方 (chỉ nơi thông ra ăn với biển).九龙江
(i). Từ đồng âm với từ
2 【海口】P
P(hǎi kǒu) (名)漫无边际地说大话 (nói khoác).他是一个海口的人anh ta là một
有九海口sông Cửu Long có chín cửa. 2. 海湾内的港口 (chỉ cảng trong vịnh biển)
người nói khoác (TĐ THHĐ tr. 530; 790)
1 Thí dụ 97:【插口】P P (chā//kǒu)(动)在别人说中间插进去说话 (nói leo, nói chen vào). 你
(ii). Ngữ đồng âm với từ
2 【插口】P
P(chā kǒu) (名)可以插入东西的孔 (ổ cắm, phích cắm). 扩音器上有两个插口,
别插口,先听我说完bạn đừng nói leo, hãy nghe tôi nói hết đã.
一个插麦克风,一个插电唱头trên máy phóng thanh (tăng âm) có hai lỗ cắm, một cắm micro, một
cắm loa. (TĐ THHĐ tr.141)
1 Thí dụ 98:【成家】P
P(chéng//jiā) (动)结婚 (kết hôn, lập gia đình. Thường dùng cho nam
(iii). Ngữ đồng âm với ngữ
2 【成家】P
P(chéng//jiā) (动)成为专家 (trở thành chuyên gia).他才三十岁已有名的成家了
giới).姐姐出嫁了,哥哥也成了家chị gái đi lấy chồng rồi, anh trai cũng đã lập gia đình.
anh ta mới 30 tuổi đã trở thành chuyên gia nối tiếng rồi. (TĐ THHĐ tr.172). Tổng hợp lại chúng ta
có bảng 2.9 dưới đây:
Bảng 2.9. Bảng phân loại các ĐV ĐÂĐH SÂT trong TĐTHHĐ 2005 (từ góc độ các ĐV ngôn
ngữ):
Bảng phân loại các ĐV ĐÂĐH từ góc độ các ĐV ngôn ngữ Từ - ngữ
Từ - từ
Ngữ - ngữ
65 loạt Chiếm: 20,5%
20 loạt Chiếm: 6,3%
232 loạt Chiếm: 73,2% Tổng số: 317 loạt
- Khảo sát các ĐV ĐÂĐH từ góc độ DLN, chúng tôi nhận thấy:
2 P (ài hǔ) và 【艾虎】P
P(ài hǔ)
1 dụ 99:【艾虎】P
(i). Đại bộ phận các ĐVĐÂ SÂT trong THHĐ là những ĐV đơn nghĩa (260 loạt/ 317 loạt). Thí
(ii). Những ĐV ĐÂĐH song tiết có đặc điểm vừa ĐÂ vừa ĐN không hoàn toàn (có một trong
P (bái dì) 1. (名) 没有种上庄稼的田地。(đất chưa gieo trồng). 留下一块
1 Thí dụ 100:【白地】P
những ĐV nằm trong loạt ĐÂ là ĐVĐN) có SL đáng kể (101 loạt/ 317 loạt)
白地准备种白薯để một vạt đất không chuẩn bị trồng khoai. 2. 没有树木, 房屋等的土地 (chỉ nơi
không có nhà cửa cây cối gì):村子被烧成一片白地 làng xóm bị thiêu rụi thành một vùng đất
2 【白地】P
P (bái dì) (名) 白色的衬托面:白色儿红花儿 hoa hồng trên nền trắng. (TĐ THHĐ
trống.
tr. 24)
(iii). Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN (tất cả các ĐV trong loạt ĐÂ đều là những ĐVĐN) có SL
1 Thí dụ 101:【花红】P
P (名) (huā hóng) 1. Chỉ một loại táo tây quả nhỏ. 2. Chỉ quả táo tây loại
rất ít (10/ 317 loạt)
2 【花红】P
P(huā hóng) (名) 1. đồ dẫn cưới: 花红彩礼lễ dẫn cưới. 2. Tiền hoa hồng. 3. Tiền
nhỏ.
thưởng. (TĐ THHĐ tr. 581)
- Những ĐVĐÂ song tiết ĐN trong tiếng Hán là những ĐV có DLN thấp (từ 02 đến 05 nghĩa),
chúng thuộc về các kiểu quan hệ ngữ nghĩa dưới đây:
P(huā hóng) (TĐ THHĐ tr. 581)
1 Thí dụ 102:【花红】P
(i). Giữa các nghĩa có quan hệ phái sinh (quan hệ dẫn xuất, quan hệ kế tiếp)
(ii). Giữa các nghĩa có quan hệ song song
1 Thí dụ 103:【笼头】P P (lóng tóu) (名) 1. Chỉ cái vòi nước. 2. Chỉ cái ghi đông xe đạp.
2 【笼头】P P(lóng tóu) (名) 1. Tỷ dụ về việc dẫn đầu/đầu tàu: 笼头企业 xí nghiệp dẫn đầu. 2. Thủ
lĩnh (cầm đầu băng đảng đường sông). (TĐ THHĐ tr. 880)
2 Thí dụ 104:【花红】P P(huā hóng) (名) 1. Đồ dẫn cưới: 花红彩礼lễ dẫn cưới. 2. Tiền hoa hồng. 3. Tiền
(iii). Giữa các nghĩa vừa có quan hệ phái sinh vừa có cả quan hệ song song
thưởng.(TĐ THHĐ tr. 581). (Chi tiết xem bảng 2.10 và 2.11)
Bảng 2.10 Bảng thống kê các ĐV ĐÂĐH SÂT đơn nghĩa, ĐN không hoàn toàn và ĐN hoàn
toàn trong TĐTHHĐ 2005:
ĐÂĐH song tiết đơn nghĩa
ĐÂĐH song tiết ĐN không hoàn toàn
Từ -từ
Từ - ngữ Ngữ - ngữ
Từ - từ
Từ - ngữ
Từ - từ
150 loạt
15 loạt
76 loạt
Ngữ - ngữ 03 loạt
Ngữ - ngữ 02 loạt
06 loạt
41 loạt 206 loạt Chiếm 65%
ĐÂĐH song tiết ĐN hoàn toàn Từ - ngữ 02 loạt 10 loạt Chiếm 3,1%
22 loạt 101 loạt Chiếm 31,9% Tổng số: 317 loạt
Bảng 2.11 Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂĐH SÂT trong TĐTHHĐ 2005:
01 nghĩa
Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂĐH song tiết 04 nghĩa
03 nghĩa
02 nghĩa
05 nghĩa
Ngữ
Từ 437 đvị
Ngữ 87 đvị
Từ 85 đvị
Ngữ 15 đvị
Từ 13 đvị
Ngữ 01 đvị
Từ 05 đvị
Ngữ 01 đvị
Từ 01 đvị
100 đvị
14 đvị
06 đvị
01 đvị
524 đvị Chiếm 81,2%
121 đvị Chiếm 18,8%
Tổng số: 645 đvị
Từ góc độ cấu tạo từ, chúng tôi nhận thấy: các ĐV ĐÂĐH (từ) che phủ hết các kiểu cấu tạo từ
trong THHĐ. Cụ thể là:
(1) Thuộc về phương thức cấu tạo từ hợp thành như:
(i) Là phương thức thêm phụ gia tố (thêm hậu tố) như: 案子 àn.zi;把子 bǎ. zi…
(ii) Là phương thức động tân như: 吃水 chī shuǐ;包金 bāo jīn;结果 jié guǒ…
(iii) Là phương thức chính phụ như: 黑人 hēi rén;香烟 xiāng yān…
(iv) Là phương thức liên hợp như: 水火 shuǐ huǒ 面盆 miàn pén 上下 shàng xià…
(v) Là phương thức bổ sung như: 辩证 biàn zhèng; 消耗 xiāo hào…
(vi) Là phương thức chủ - vị như: 花红 huā hóng…
(vii) Là phương thức lặp lại như: 恰恰 qià qià…
(2) Thuộc về phương thức cấu tạo từ đơn thuần như:皇皇 Huáng huáng, 累累 leǐ leǐ…
Trong hai phương thức cấu tạo từ trên đây (phương thức cấu tạo từ đơn thuần, phương thức
cấu tạo từ hợp thành) thì phương thức cấu tạo từ hợp thành là phương thức gặp nhiều nhất.
Có thể nói rằng, tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thể từ ĐÂ của THHĐ song những ĐV
ĐÂĐH SÂT của THHĐ là những ĐVĐÂ có nhiều đặc điểm lí thú cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu
tiếp. Theo các nhà nghiên cứu Hán ngữ hiện đại thì những ĐV ĐÂĐH trong THHĐ là những ĐV gây
lên sự tranh cãi nhiều nhất bởi vấn đề này có liên can tới nhiều vấn đề phức tạp khác như: mối quan hệ
giữa tiếng Hán xưa và nay cũng như phải chú yù tới quy luật diễn biến, phát triển nghĩa dẫn xuất của từ
vựng học tiếng Hán mới có thể nắm vững chúng được.
2.2.2.2. Hiện tượng đồng âm dị hình trong THHĐ
Khái niệm ĐÂDH là khái niệm dùng để chỉ những ĐV có âm đọc giống nhau, hình thức văn tự có
điểm khác nhau hoặc hoàn toàn khác nhau, có ý nghĩa khác nhau. Trên thực tế, các ĐV này được phân
ra thành các loại nhỏ sau:
(1) Hình chữ nửa giống nửa khác
Thí dụ 105: 会议 (hội nghị) chỉ hội nghị và 会意 (hội ý) có nghĩa là hiểu ý, biết ý. Đây là hai ĐV
ĐÂDT (khác nhau ở yếu tố cấu tạo thứ hai). 事物 (sự vật) chỉ SVHT nói chung và 事务 (sự vụ)
chỉ việc, công việc, việc hành chính quản trị… cũng là hai ĐV ĐÂDT (khác nhau ở yếu tố cấu
tạo thứ hai).
(2) Hình chữ hoàn toàn khác nhau
Thí dụ 106: 尝 (thường) có nghĩa là nếm ĐÂ với 长 (trường) có nghĩa là dài và ĐÂ với 肠 (trường)
chỉ ruột là 3 ĐVĐÂ đơn tiết có hình chữ hoàn toàn khác nhau. 目的 (mục đích) chỉ mục đích ĐÂ với
墓地 (mộ địa) chỉ nghĩa trang cũng là những ĐVĐÂ song tiết có hình chữ hoàn toàn khác nhau. 密封
(mật phong) có nghĩa là đóng kín, gói kín ĐÂ với 蜜蜂 (mật phong) chỉ mật ong là những ĐVĐÂ song
tiết có hình chữ hoàn toàn khác nhau.
1 P(bố) chỉ vải ĐÂ với 簿(bộ/bạ) trong簿子 (bạ tử) chỉ sổ sách, vở * HT từ và từ tố ĐÂDH như: 布P
2 1 ghi chép nói chung. 刁P P (điêu) trong碉堡 (điêu bảo) chỉ lô cốt, boong ke. P (điêu) chỉ họ điêu ĐÂ với碉P
Ngoài 02 loại trên, các ĐV ĐÂDH trong tiếng Hán còn bao gồm:
* HT từ tố và từ tố ĐÂDH như: 躯 (khu) chỉ thân thể ĐÂ với 祛 (khư) có ý nghĩa là trừ bỏ; 欣
(hân) là vui ĐÂ với 薪 (tân) chỉ củi lửa, tiền lương…
Trên thực tế thì những ĐV ĐÂDH (bao gồm cả đơn tiết lẫn đa tiết) là những ĐV có SL đông đảo
nhất và cũng là những ĐV làm nên diện mạo chính cho HTĐÂ trong THHĐ.
2.2.3. Hiện tượng đồng âm phái sinh trong THHĐ nhìn từ góc độ cấu từ pháp
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu từ vựng học Trung Quốc thì ĐÂ phái sinh là khái
niệm dùng để chỉ “những từ mà ban đầu có âm đọc không giống nhau, sau khi âm biến đổi mà trở
thành Đ” (Phù Phó Thanh; 1983; tr.77). Hay: “hình thức ban đầu của những từ Đ phái sinh là
những từ có âm đọc khác nhau, do sự chi phối có quy luật của sự biến đổi ngữ âm của từ, có một số
từ ban đầu không Đ sau khi biến đổi trở thành Đ” (Tôn Thường Tự; 1957; tr.207). Thuộc về từ
ĐÂ phái sinh có các loại: (i) Do HT biến điệu về thanh điệu ở từ song tiết, (ii) do việc bảo lưu một
số âm cổ trong một số vùng phương ngôn, (iii) do việc tiếp nhận và sử dụng từ nước ngoài, (iv) do
儿化 đưa lại…Trong LA này chúng tôi bước đầu đi vào tìm hiểu loại ĐÂ phái sinh do 儿化 đưa lại.
Trong THHĐ, HTĐÂ phái sinh nói chung và HTĐÂ phái sinh do 儿化 đưa lại là HT thường
gặp.
Thí dụ 107:
盘[pán] chậu rửa tay >盘儿 [pár] cái khay, cái mâm
牌[pái] nhịp điệu > 牌儿 [pár] tấm biển của cửa hiệu
坛[tán] cái đàn tế, luống, hội tế thần > 坛儿 [tár] cái vò, cái hũ
台[tái] lượng từ > 台儿 [tár] cái đài, cái bục…
柜[gùi] cái két > 柜儿 [gùr] cái tủ
棍[gùn] chỉ kẻ xấu nói chung > 棍儿 [gùr] cái que, cái gậy…
Khảo sát, so sánh từng cặp từ trên ta thấy: khi chưa chịu sự tác động của 儿化 chúng là những
từ khác nhau về âm đọc, chỉ giống nhau về thanh điệu và có cùng một kiểu kết thúc vận mẫu. Sau
khi chịu sự tác động của 儿化 trở thành hai từ hoàn toàn ĐÂ. Chẳng hạn: 盘 [pán] chậu rửa tay và
牌 [pái] nhịp điệu là hai từ khác nhau về âm đọc, chỉ giống nhau về thanh điệu và có cùng một
kiểu kết thúc vận mẫu (khai khẩu hô), sau khi chịu sự tác động của 儿化 trở thành hai từ hoàn toàn
ĐÂ: 盘儿 [pár] cái khay, cái mâm;牌儿 [pár] tấm biển của cửa hiệu.
Tương tự như vậy 柜 [gùi] và 棍 [gùn] cũng là hai từ khác nhau về âm đọc, chỉ giống nhau về
thanh điệu và có cùng một kiểu kết thúc vận mẫu (hợp khẩu hô), sau khi chịu sự tác động của 儿化
trở thành hai từ hoàn toàn ĐÂ: 柜儿 [gùr] cái tủ, cái két;棍儿 [gùr] cái que, cái gậy…
Qua việc phân tích các ví dụ ta thấy: xét về bản chất thì loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 không những có
nguyên nhân từ quá trình 儿化 đưa lại mà còn có nguyên nhân từ cách kết thúc đuôi vần trong THHĐ,
liên quan tới khái niệm tứ hô (四呼). Để rõ ràng hơn chúng tôi xin được nói rõ hơn về vấn đề này: tứ hô là
khái niệm chỉ những cách kết thúc đuôi vần trong cấu trúc âm tiết tiếng Hán với 04 kiểu: khai khẩu hô (开
口呼 ), tề xỉ hô (齐齿呼), hợp khẩu hô (合口呼), toát khẩu hô (撮口呼). Trong đó: tề xỉ hô chỉ những vận
mẫu là [i] hoặc lấy [i] làm giới âm. Căn cứ vào TĐ THHĐ thì trong tiếng Hán có khoảng 400 âm tiết, nếu
tính âm tiết mang thanh điệu thực sử dụng thì có khoảng 1250 âm tiết (nếu tính cả những âm tiết có 儿化
thì SL còn lớn hơn). Trong 400 âm tiết này thì có tới 83 âm tiết có kiểu kết thúc này. Hợp khẩu hô chỉ
những vận mẫu là [u] hoặc lấy [u] làm giới âm, loại này gồm 114 âm tiết. Toát khẩu hô chỉ những vận
mẫu là [ü] hoặc lấy [ü] làm giới âm, loại này có SL ít (chỉ có 24 âm tiết). Khai khẩu hô chỉ những vận
mẫu không dùng [i, u, ü] cũng không lấy [i, u, ü] làm giới âm. Loại này gồm 179 âm tiết, chiếm gần ½
SL âm tiết của tiếng Hán.
Thực tế cho thấy rằng: loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 chỉ nảy sinh ở những từ khác nhau, có cùng
một kiểu kết thúc đuôi vần, cùng thanh điệu, sau khi chịu tác động của quá trình 儿化 mà trở thành
ĐÂ. Mặt khác, từ số liệu thống kê ta cũng có thể dự đoán rằng: tiềm năng sản sinh ra loại ĐÂ phái
sinh sau 儿化 nhiều nhất xếp theo thứ tự là nhóm âm tiết khai khẩu hô, hợp khẩu hô, tề xỉ hô và toát
khẩu hô.
Theo chúng tôi loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 thuộc về HTĐÂ ngẫu nhiên song cái cơ chế tạo ra
HT này là rất đặc biệt, nó thuộc về lĩnh vực ĐÂ song lại có liên quan mật thiết tới tới HT 儿化 trong
THHĐ. Còn HTĐÂ phái sinh trong THHĐ nói chung có quan hệ tới việc giao thoa giữa ngôn ngữ
toàn dân và ngôn ngữ địa phương cũng như với HT biến đổi ngữ âm trong lời nói…
Có thể nói rằng, sản sinh ra những lớp từ vựng mới nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống luôn là yêu cầu
cấp thiết của mọi ngôn ngữ. Bên cạnh những phương thức sản sinh từ vựng thường gặp, trong một số ngôn ngữ
chúng ta còn thấy những phương thức sản sinh đặc biệt khác và phương pháp phái sinh dùng 儿化 và ĐÂ phái
sinh sau 儿化 trong THHĐ là một ví dụ điển hình. Nó điển hình vì bởi nó không tìm thấy trong tiếng Hán cổ và
cũng không tìm thấy trong các ngôn ngữ đơn lập khác như TV. Từ cách thức và sản phẩm mà nó tạo ra cho
chúng ta thấy rõ hơn những nét đại đồng tiểu dị trong các ngôn ngữ thuộc về cùng một loại hình.
2.3. TIỂU KẾT
Trên đây là kết quả thống kê, phân loại, mô tả và đối chiếu các ĐVĐÂ, các HTĐÂ trong TV với các
ĐVĐÂ và các HTĐÂ trong THHĐ của chúng tôi từ các góc độ: nguồn gốc, SLÂT tham gia cấu tạo nên loạt
ĐÂ, góc độ hình – âm – nghĩa, góc độ cấu tạo từ… Từ kết quả làm việc trên, chúng ta có thể củng cố và rút ra
những nhận xét sau:
(i) Cũng như TV, THHĐ là một ngôn ngữ có nhiều ĐVĐÂ do có SLÂT ít, cấu trúc đơn giản dẫn
đến tính võ đoán cao.
(ii) Nếu như trong TV, các ĐVĐÂ có thể được phân loại bằng các tiêu chí như: nguồn gốc,
SLÂT tham gia cấu tạo, các ĐV ngôn ngữ…thì trong THHĐ, cách phân loại các ĐVĐÂ dựa trên các
tiêu chí: SLÂT tham gia cấu tạo nên loạt ĐÂ, bộ ba tiêu chí hình – âm – nghĩa hay từ góc độ cấu
tạo từ…lại là cách phân loại tỏ ra phù hợp với đặc thù của THHĐ và có công năng giải thích cao.
(iii) Việc tìm hiểu nghiên cứu HTĐÂ của THHĐ luôn gắn bó mật thiết với nhiều vấn đề, nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là gắn chặt với việc nghiên cứu HTĐN hay vấn đề văn tự học…
(iv) Tuy đều là những ngôn ngữ đơn lập nhưng HTĐÂ của TV và THHĐ vẫn có những dị biệt nhất
định và kiểu các ĐVĐÂ phái sinh sau 儿化 và các ĐV ĐÂDH là những ví dụ điển hình.
Theo chúng tôi, việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới HTĐÂ trong TV,
THHĐ sẽ rất có ích đối với việc làm sáng tỏ hơn một số vấn đề về loại hình học cũng như có ích đối với
việc học tập và giảng dạy TV, THHĐ.
Chương 3 : HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
3.1. HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT
3.1.1. Tổng quan về hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt
TV là một ngôn ngữ có một tỉ lệ đáng kể các ĐVĐN (chiếm 13,58 %). Trong đó, chiếm phần
lớn là các ĐV đơn tiết và 02 âm tiết, đại bộ phận chúng thuộc về các từ loại: dt, đg, tt. (Xem bảng
3.1)
Bảng 3.1 Bảng thống kê tỉ lệ đơn nghĩa/ĐN của các ĐV từ vựng trong TĐTV 2006:
Bảng thống kê tỉ lệ đơn/đa nghĩa của các đơn vị từ vựng trong TĐTV 2006
Đơn nghĩa
Đa nghĩa
34504 ĐV (chiếm 86,42%)
5420 ĐV (chiếm 13,58 %)
39924 ĐV (100%)
Nhìn từ góc độ từ loại chúng tôi nhận thấy: HTĐN của TV nhiều nhất là ở dt, kế đó là
đg, tt rồi đến các từ loại khác.
Nhìn từ DLN, có thể thấy rằng: TV là một ngôn ngữ có DLN thấp, phần lớn các ĐVĐN của
TV là các ĐV có 02 hoặc 03 nghĩa, những ĐV có 07 nghĩa trở lên chỉ chiếm 1,42%. Từ góc độ
này thì đg lại là từ loại có nhiều nghĩa nhất, kế đó là dt và tt.
Các ĐVĐN trong TV thuộc loại có cấu tạo đơn giản, phần lớn là các ĐV đơn tiết và song tiết,
những ĐV nào có cấu tạo phức tạp nhất cũng chỉ lên tới 04 âm tiết là cùng và cũng chỉ có một SL
rất ít.
Quan hệ giữa các nghĩa trong từ ĐN TV phần lớn thuộc về 03 kiểu là: (i) quan hệ kế tiếp (quan
hệ phái sinh), (ii) quan hệ song song và (iii) quan hệ kế tiếp xen kẽ với song song.
3.1.2. Phân loại hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt
- Hướng phân loại từ cấu trúc nghĩa của từ
Từ góc độ cấu trúc ngữ nghĩa, các ĐVĐN của TV có thể được phân loại thành: HT ĐNBV, HT
ĐNBN, HT ĐNBT. Ba thành phần ý nghĩa trên đây là các thành phần ý nghĩa thường có mặt ở trong
từ. Trong đó:
Căn cứ để xác định tính nhiều NBV là các phạm vi, các lĩnh vực, SVHT thực tế khác nhau ứng
với từ.
Căn cứ để xác định tính nhiều NBN của từ là: (i) Ý nghĩa từ loại khác nhau và đi kèm với
chúng là các đặc điểm ngữ pháp khác nhau. (ii) Các đặc điểm ngữ pháp của các từ loại và đi kèm
với chúng là các ý nghĩa ngữ pháp của các từ loại nhỏ trong một từ loại lớn. (iii) Tính đồng nhất
giữa các NBN được tách ra trong một từ với ý NBN của các từ khác.
Do DLN của các ĐVĐN TV phần lớn là thấp (những ĐV có 02 và 03 nghĩa chiếm trên 90 %)
nên sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là: cấu trúc của các ĐV ĐN BV, ĐNBN, ĐNBT trong TV phần
lớn cũng sẽ là kiểu cấu trúc đơn giản. LA bước đầu chỉ khảo sát, phân tích một số HT ĐNBV,
ĐNBN cố định mà thôi.
3.1.2.1.Hiện tượng đa nghĩa biểu vật
Thí dụ 01: ÂuR1R d. 1. Âu tàu (nói tắt) 2. ụ (để đưa tàu lên thuyền) (TĐTV, tr. 19)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ âuR1 R ta thấy: danh từ âu R1 Rlà từ ĐNBV. Cụ thể, danh từ từ
âuR1 Rcó có 02 NBV dưới đây:
Nghĩa biểu vật của từ
1. NBV 01: Chỉ âu tàu (nói tắt) 2. NBV 02: Chỉ ụ (để đưa tàu lên thuyền)
Từ âuR1 Thí dụ 02: Ăn mày I đg. 1. Xin của bố thí để sống. Xách bị đi ăn mày. 2. Cầu xin của Thánh, Phật theo
quan điểm tín ngưỡng. Ăn mày của Phật. (TĐTV, tr. 13)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của động từ ăn mày I ta thấy: động từ ăn mày I cũng là một từ ĐNBV.
Động từ ăn mày I có 02 NBV sau:
Nghĩa biểu vật của từ
1. NBV 01: Xin của bố thí để sống. 2. NBV 02: Cầu xin của Thánh, Phật theo quan điểm tín ngưỡng.
Từ ăn mày I
tương xứng với công lao. (TĐTV, tr. 24)
Thí dụ 03: Bạc bẽo t. 1. Không nghĩ gì đến tình nghĩa, ân nghĩa. Ăn ở bạc bẽo. 2. Không đền bù
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ bạc bẽo ta thấy: tính từ bạc bẽo cũng là một từ ĐNBV.
SL NBV của tính từ bạc bẽo được phân tích như sau:
Nghĩa biểu vật của từ
1. NBV 01: Không nghĩ gì đến tình nghĩa, ân nghĩa. 2. NBV 02: Không đền bù tương xứng với công lao.
Từ bạc bẽo Các từ âuR1, Răn mày I, bạc bẽo trên đây chỉ là những từ ĐNBV đơn thuần. Nghĩa của chúng ứng
với các phạm vi, các lĩnh vực, SVHT thực tế khác nhau trong cuộc sống, trong các nghĩa của những
ĐVĐN này không bao hàm những nét nghĩa nhỏ hơn.
3.1.2.2. Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm và việc phân loại đa nghĩa biểu niệm
3.1.2.2.1. Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm
(sinh trước, là con nhà bác, v.v.; có thể dùng để xưng gọi). Anh ruột. Anh rể. Anh họ. Người anh con bác. 2.
Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn ông còn trẻ; hay là dùng để gọi người đàn ông cùng tuổi hoặc vai anh
Thí dụ 04: Anh d. 1. Người con trai cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ, nhưng thuộc hàng trên
mình. 3. Từ phụ nữ dùng để gọi chồng, người yêu hoặc người đàn ông dùng để tự xưng khi nói với vợ,
người yêu. 4. Từ dùng để gọi người đàn ông thuộc thế hệ sau mình (như cha mẹ gọi con rể hoặc con trai đã
trưởng thành, v.v.) với ý coi trọng (gọi theo cách gọi của những con còn nhỏ tuổi của mình). (TĐTV, tr. 06)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ anh ta thấy: danh từ anh là một từ vừa ĐNBV vừa ĐNBN.
(i) SL NBV của từ anh có thể được phân tích như sau:
Nghĩa biểu vật của từ
Từ anh
1. NBV 01: Chỉ con trai cùng thế hệ trong họ, thuộc hàng trên. 2. NBV 02: Chỉ người đàn ông còn trẻ (bằng hoặc hơn vai mình). 3. NBV 03: Chỉ chồng hay người yêu của phụ nữ. 4. NBV 04: Chỉ người đàn ông thuộc thế hệ sau mình. (ii) SL nét nghĩa của từ anh có thể được phân tích như sau:
Nghĩa
SL nét nghĩa (cấu trúc NBN) của từ
Nghĩa 01
Nghĩa 02
Từ anh
Nghĩa 03
Nghĩa 04
(1) Chỉ người con trai cùng thế hệ trong họ (2) Thuộc hàng trên (3) Dùng để xưng gọi (1) Chỉ hoặc gọi người đàn ông còn trẻ (2) Gọi người đàn ông cùng tuổi hoặc vai anh mình. (1) Từ mà người phụ nữ dùng để gọi chồng hay người yêu (2) Từ mà người đàn ông tự xưng khi nói với vợ, người yêu. (1) Từ dùng để gọi người đàn ông thuộc thế hệ sau mình (2) Có ý coi trọng.
Nghĩ sao nói vậy. Ăn nên đọi, nói lên lời (tng.). Hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa. Đã nói là làm. Nói mãi, nó
mới nghe. 2. Phát âm. Nói giọng Nam Bộ. 3. Sử dụng một thứ tiếng nào đó, phát âm để giao tiếp. Nói TV.
Đọc được tiếng Hán, nhưng không nói được. 4. Có ý kiến chê trách, chê bai. Người ta nói nhiều lắm về ông
ta. Làm đừng để cho ai nói. 5. (id.). Trình bày bằng hình thức nói. Nói thơ Lục Vân Tiên. Hát nói *. 6. Thể
hiện một nội dung nào đó. Bức tranh nói với người xem nhiều điều. Những con số nói lên một phần sự thật.
Nói với nhau bằng ánh mắt. (TĐTV, tr. 732).
Thí dụ 05: Nói đg. 1. Phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung nhất định trong giao tiếp.
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nói ta thấy: nói là một từ vừa ĐNBV vừa ĐNBN. Động
từ này có 06 NBV sau đây:
Từ nói
Nghĩa biểu vật của từ 1. NBV 01: Phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung nhất định trong giao tiếp. 2. NBV 02: Phát âm 3. NBV 03: Sử dụng một thứ tiếng nào đó, phát âm để giao tiếp. 4. NBV 04: Có ý kiến chê trách, chê bai. 5 NBV 05: Trình bày bằng hình thức nói. 6 NBV 06: Thể hiện một nội dung nào đó.
Dưới đây là cấu trúc NBN của động từ nói:
SL nét nghĩa (cấu trúc nghĩa biểu niệm) của từ
Nghĩa Nghĩa 01
Nghĩa 02 Nghĩa 03
(1) Phát ra thành tiếng, thành lời (2) Nhằm diễn đạt nội dung nhất định trong giao tiếp. (1) Phát âm (1) Sử dụng một thứ tiếng nào đó (2) Phát âm để giao tiếp
Nghĩa 04 Nghĩa 05 Nghĩa 06
(1) Có ý kiến chê trách, chê bai. (1) Trình bày bằng hình thức nói. (6) Thể hiện một nội dung nào đó.
gấc. Lửa đỏ rực một góc trời. 2. (hay đg.). Ở trạng thái hay làm cho ở trạng thái cháy (nói về lửa). Lửa đã đỏ
lại bỏ thêm rơm. (tng.). Đỏ lửa*. 3. Thuộc về cách mạng vô sản, có tư tưởng vô sản (do coi màu đỏ là biểu
tượng của cách mạng vô sản.). Công hội đỏ. Đội tự vệ đỏ. 4. Có sự may mắn ngẫu nhiên nào đó; trái với đen.
Số đỏ. Gặp vận đỏ. // Láy: đo đỏ (ng.l; ý mức độ ít) (TĐTV, tr. 327).
Thí dụ 06: Đỏ t. 1. Có màu như màu của son, của máu. Mực đỏ. Khăn quàng đỏ. Thẹn quá mặt đỏ như
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ đỏ ta thấy: tính từ đỏ cũng là một từ vừa ĐNBV vừa
ĐNBN. Cụ thể, tính từ đỏ có 04 NBV sau đây:
(1) Chỉ màu giống như màu của máu, của son
(2) (lửa) ở trạng thái cháy hoặc làm cho ở trạng thái cháy
(3) Thuộc về cách mạng vô sản, có tư tưởng vô sản
(4) Có sự may mắn ngẫu nhiên nào đó, trái với đen
Tính từ đỏ có cấu trúc NBN như sau:
Nghĩa Nghĩa 01 Nghĩa 02 Nghĩa 03
Nghĩa 04
SL nét nghĩa (cấu trúc NBN của từ) (1) Giống như màu của máu, của son (1) Nói về lửa (ở trạng thái cháy) (1) Thuộc về cách mạng vô sản (2) Có tư tưởng vô sản (1) Có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó (2) Trái với đen
Từ kết quả phân tích trên, ta thấy rằng: cũng như danh từ anh và động từ nói, tính từ đỏ cũng
là một từ vừa ĐNBV vừa ĐNBN. Tuy vậy, giữa động từ nói, tính từ đỏ và danh từ anh vẫn có một
điểm khác biệt cơ bản là: trong khi cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nói, tính từ đỏ chỉ có một số ý
nghĩa có bao hàm những nét nghĩa nhỏ hơn thì tất cả các ý nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của danh
từ anh đều bao hàm những nét nghĩa nhỏ hơn.
Và như vậy là, nghĩa của các ĐVĐN có cấu trúc ngữ nghĩa giống với cấu trúc ngữ nghĩa của các
từ: đỏ, nói trên đây chính là những ĐV vừa ĐNBV vừa ĐN BN không hoàn toàn. Còn nghĩa của các
ĐVĐN có cấu trúc ngữ nghĩa giống với cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ anh chính là những ĐV vừa
ĐNBV vừa ĐNBN hoàn toàn.
3.1.2.2.2. Phân loại hiện tượng đa nghĩa biểu niệm
(1) Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm không hoàn toàn
HT ĐNBN không hoàn toàn là HT mà trong đó một trong các nghĩa của một ĐVĐN hay hầu
hết các nghĩa của một ĐVĐN đều bao hàm các nét nghĩa nhỏ hơn. Những ĐVĐN có cấu trúc ngữ
nghĩa kiểu như cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ đỏ, động từ nói mà ta vừa phân tích ở trên chính là
kiểu ĐNBN không hoàn toàn.
(2) Hiện tượng đa nghĩa biểu niệm hoàn toàn
HT ĐNBN hoàn toàn là HT mà tất cả các tất cả các nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của một
ĐVĐN đều bao hàm các nét nghĩa nhỏ hơn. Những ĐV ĐNBN hoàn toàn là những ĐV có kiểu cấu
trúc ngữ nghĩa giống như cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ anh như vừa phân tích ở trên.
Trong TV, HT ĐNBN hoàn toàn và không hoàn toàn đều là những HT thường gặp, thường
thấy trong các ĐVĐN của TV. Nhất là trong các ĐVĐN có SL nghĩa từ 04 nghĩa trở lên. Xét về SL
thì những ĐV ĐNBN không hoàn toàn có SL nhiều hơn những ĐV ĐNBN hoàn toàn.
- Từ hướng phân loại bằng DLN, ta sẽ có 02 HT: (i) HTĐN thường gặp và (ii) HTĐN ít gặp.
3.1.2.3. Hiện tượng đa nghĩa thường gặp
Khái niệm HTĐN thường gặp là khái niệm dùng để chỉ HTĐN phổ biến trong TV, làm nên
diện mạo chính cho HTĐN TV. (chỉ các ĐVĐN có DLN từ 02 đến 06 nghĩa, chiếm tới 98,58 %
HTĐN của TV). Có SL nhiều nhất là các ĐV thuộc về các từ loại như: dt, đg, tt; bao gồm cả những
ĐV có cấu tạo đơn tiết và đa tiết (nhiều nhất là các ĐV đơn tiết và song tiết, những ĐV có cấu tạo
03 hay 04 âm tiết chỉ có 24 ĐV và đều là những thành ngữ, quán ngữ thường dùng của TV). Tuyệt
đại bộ phận chúng là những ĐV có nguồn gốc Hán Việt, thuần Việt và một SL không đáng kể là từ
gốc Ấn Âu. Trong HTĐN thường gặp ta thấy cả những ĐV chỉ ĐNBV, những ĐV vừa ĐNBV lại
vừa ĐNBN (bao gồm cả những ĐV vừa ĐNBV vừa ĐNBN hoàn toàn và những ĐV vừa ĐNBV
vừa ĐNBN không hoàn toàn), những ĐV ĐNBT…
3.1.2.4. Hiện tượng đa nghĩa ít gặp
Khái niệm HTĐN ít gặp là khái niệm dùng để chỉ HTĐN không phổ biến trong TV (chỉ những
ĐV có từ 07 đến 27 nghĩa). Trong TV, thuộc về HT này chỉ có 72 ĐV, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng số các ĐVĐN của TV (chiếm 1,42 %). Đây là nhóm xưa nay hay được chú ý tới, thường được
đưa ra làm ngữ liệu phân tích trong các công trình viết về từ vựng ngữ nghĩa học TV. Khảo sát
những ĐV này chúng tôi nhận thấy: tuy không phải là những ĐV làm nên diện mạo chính cho HTĐN
TV song chúng có một đặc điểm nổi bật là có nhiều nghĩa nhất, có cấu trúc ngữ nghĩa phức tạp nhất,
thường là những ĐV vừa ĐNBV lại vừa ĐNBN, chúng là những ĐV đơn tiết và thường là thực từ.
Trong đó có:
* 28 ĐV có 07 nghĩa là: chú, côngR2 R, giờ, hoaR1, RhơiR1 R, mũi, người, phép, ý, dập, đứngR2 R, kể, rút,
bắt, đâm, chết, tròn, choI, đểI, điểmI, kêuI, màI, ngoàiI, quayI, vàoI, vềI, vòngI, vớiR2 RI.
* 13 ĐV có 08 nghĩa là: chịu, mangR 3 R, vậtR2, RgiốngR1 R, mạchR2 R, mặtR1 R, nhà, nonR2 R, trơ, bóngR1 RI, đượcI,
giàI, quaR1 RI.
* 17 ĐV có 09 nghĩa là: đất, đầuR1 R, đườngR2 R, lớp, sốR1 R, tay, cánh, đổ, đưa, bỏ, cắtR2 R, cầmR2 R, cấtR1 R,
chữI, lấyI, lênI, nổiI.
* 05 ĐV có 10 nghĩa là: đời, theo, cứng, nặngR2 R, nhẹ.
* 01 ĐV có 11 nghĩa là : kéoR2 R.
* 04 ĐV có 12 nghĩa là: làm, ra, chạyI, lạiR2 RI.
* 02 ĐV có 13 nghĩa là: đóng, ăn.
* 01 ĐV có 18 nghĩa là: điI
* 01 ĐV có 27 nghĩa là: đánh.
Trong 72 ĐV này thì có tới 37 ĐV là động từ, 26 ĐV là danh từ, 07 ĐV là tính từ, 02 ĐV là
kết từ. Và tất cả các ĐV này đều nằm trong vốn từ vựng cơ bản của TV. Cụ thể là: dùng để chỉ
người và các bộ phận cơ thể người như: người, mũi, mặtR1 R, đầuR1 R, tay. Dùng để chỉ các hoạt động cơ
bản thường dùng trong cuộc sống như: dập, đứngR2 R, kể, rút, bắt, đâm, chịu, mangR3 R, vậtR2 R, đổ, đưa, bỏ,
cắtR2 R, cầm R2 R, cấtR1 R, theo, kéo, làm, ra, đóng, ăn, đánh, choI, chạyI, điI…. Dùng chỉ quan hệ gia đình
như: chú. Dùng để chỉ lĩnh vực tâm lí, tâm linh hay quản lí xã hội như: phép, ý, chết, đời. Dùng để
chỉ công trình kiến trúc và những gì liên quan đến gia đình như: nhà. Dùng để chỉ các đặc điểm, tính
chất của sự vật mà con người có thể trực tiếp tri giác được như: tròn, non R2 R, trơ, cứng, nặng, nhẹ,
giàI… Dùng để chỉ số đếm như: số một. Dùng để chỉ công cụ sản xuất như: giốngR1 R, đất. Dùng để
chỉ các ĐV đo lường hay các phương pháp đo lường, tính toán như: côngR2 R, giờ, hơiR1 R. Dùng để chỉ
lĩnh vực lưu thông, giao thông như: đườngR2 R, mạchR2 R. Dùng để chỉ thực vật và những ẩn dụ về cái đẹp
như: hoaR1.R Dùng để chỉ cấu tạo hay kiến trúc của sự vật, HT như: lớp, cánh…. Dùng để chỉ vị trí,
phuơng hướng như: ngoàiI…. Dùng để liên kết các ý trong một phát ngôn như: màI, vớiR2 RI. Dùng để
chỉ các hành động di chuyển của con người trong không gian như: quayI, vàoI, vềI, vòngI, quaR1 RI,
lạiR2 RI, lênI….
Theo chúng tôi, đây là những ĐV cần đi vào khảo sát kĩ bởi nó cung cấp cho ngôn ngữ học tri
nhận nhiều tư liệu quí. (Xem bảng 3.2)
Bảng 3.2 Bảng thống kê tỉ lệ các ĐVĐN thường gặp, ĐN ít gặp trong TĐTV 2006:
Các đơn vị đa nghĩa của tiếng Việt trong TĐTV 2006
Các ĐVĐN thường gặp
Các ĐVĐN ít gặp
5343 đvị
72 đvị Chiếm 1,42 % vốn từ ĐN
Chiếm 98,58% vốn từ ĐN
5420 ĐVĐN (100%)
- Phân loại các ĐVĐN từ góc độ các ĐV ngôn ngữ, ta sẽ có 02 HT: (i) HT từ ĐN và (ii) HT
ngữ ĐN.
3.1.2.5. Hiện tượng từ đa nghĩa
Trước hết, cần khẳng định rằng: đối với TV, HT từ ĐN là HT chủ yếu (xấp xỉ 99 % các ĐVĐN
của TV là từ). HT từ ĐN trong TV bao gồm 02 HT là: (i) HT từ đơn tiết ĐN và (ii) HT từ song tiết
ĐN (bao gồm cả từ phức, từ ghép ĐN).
(1) Hiện tượng từ đơn tiết đa nghĩa
HT từ đơn tiết ĐN là HT cơ bản và quan trọng nhất của HT từ ĐN TV vì: chúng không những
có SL nhiều nhất mà còn có DLN cao nhất (tất cả những ĐV có từ 07 đến 27 nghĩa đều là từ đơn
tiết). Các ĐV đơn tiết ĐN tuyệt đại bộ phận là những ĐV gốc Hán và thuần Việt, phần lớn chúng
thuộc về thực từ, có SL nhiều nhất là: dt, đg, tt... Song nếu tính theo DLN thì trật tự sẽ là: đg, dt,
tt…
Các ĐVĐN đơn tiết của TV bao hàm tất cả các biểu hiện của HTĐN TV như: ĐNBV, ĐNBN,
ĐN BT như vừa phân tích ở trên.
(2) Hiện tượng từ song tiết đa nghĩa
HT từ song tiết ĐN là HT cơ bản và quan trọng thứ yếu của HT từ ĐN TV với một số đặc
điểm nổi bật sau đây: (i) chúng có SL chỉ đứng sau các ĐV đơn tiết ĐN, (ii) đại bộ phận chúng là
những ĐV có DLN trung bình (phần lớn là những ĐV có 02 và 03 nghĩa, chỉ có một SL không
đáng kể có 04 nghĩa, 05 nghĩa và 06 nghĩa), (iii) chiếm tỷ lệ lớn nhất là các ĐV song tiết gốc Hán,
kế đó là các ĐV song tiết thuần Việt và một SL nhỏ là từ gốc Ấn Âu. Cũng giống như các ĐVĐN
đơn tiết của TV, từ song tiết ĐN của TV cũng bao hàm tất cả các biểu hiện của HTĐN TV như:
ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT, phần lớn chúng thuộc về thực từ, có SL nhiều nhất là: dt, đg, tt...
3.1.2.6. Hiện tượng ngữ đa nghĩa
HT ngữ ĐN là HT rất ít gặp trong TV (chỉ có 24 ĐV); và chủ yếu là các ĐV không được chú
loại, chúng có DLN thấp (từ 02 đến 05 nghĩa) trong đó tuyệt đại bộ phận là 02 nghĩa. Chúng gồm 02
nhóm dưới đây:
(1) Nhóm các ĐV có hình thức là những ngữ cố định (thành ngữ), có cấu tạo 04 âm tiết: ăn sống
nuốt tươi (02 nghĩa, TĐTV tr.14), chiêu binh mãi mã (02 nghĩa, TĐTV tr.159), chồng chung vợ chạ (02
nghĩa, TĐTV tr.170), một lòng một dạ (02 nghĩa, TĐTV tr. 643), nhất hô bá ứng (02 nghĩa, TĐTV tr.
714), tô son điểm phấn (02 nghĩa, TĐTV tr.1007), trái gió trở giời (02 nghĩa, TĐTV tr. 1021).
(2) Nhóm các ĐV có cấu tạo 02 âm tiết và 03 âm tiết (những quán từ, quán ngữ) như: ra dáng
(02 nghĩa, TĐTV tr.817), ra tuồng (02 nghĩa, TĐTV tr. 818), ra vẻ (02 nghĩa, TĐTV tr.818), kể cả
(02 nghĩa, TĐTV tr.485), nói chung (02 nghĩa, TĐTV tr.732), phải chăngR2 R (02 nghĩa, TĐTV tr.763),
đến nỗi (02 nghĩa, TĐTV tr.311), gọi là (02 nghĩa, TĐTV tr.408), việc gì (03 nghĩa, TĐTV tr.115),
làm gì (02 nghĩa, TĐTV tr.539), làm sao (05 nghĩa, TĐTV tr.540), thì có (02 nghĩa, TĐTV tr.937),
thôi thì (02 nghĩa, TĐTV tr.950), bớt miệng (02 nghĩa, TĐTV tr.87), trộm vía (02 nghĩa, TĐTV
tr.1041), ví như (02 nghĩa, TĐTV tr. 1114), sạch nước cản (02 nghĩa, TĐTV tr.843).
3.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐN TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
3.2.1. Các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ
Cũng như trong TV, HTĐN trong THHĐ cũng có nhiều biểu hiện phong phú và phức tạp. Về
quan niệm, các nhà Hán ngữ hiện đại cũng chủ trương xác định một ĐV ĐN dựa trên 02 tiêu chí là:
(i) tiêu chí về lượng: có từ 02 nghĩa (nghĩa hạng) trở lên, (ii) tiêu chí quan hệ: các nghĩa hạng của
Thí dụ 07: 插 [ tháp]1. Cắm, cấy, giâm, giắt, gài, thọc (vào) 2. Chen, cắm, nhúng, chõ, chêm (vào).
尝 [ thường] 1. Nếm 2. Nếm trải. (TĐ THHĐ tr. 140, 154).
một ĐVĐN có quan hệ với nhau. Chẳng hạn, hai ĐV dưới đây là 02 ĐVĐN:
Từ góc độ ĐV cơ bản của ngôn ngữ, các ĐVĐN của tiếng Hán có thể là những ĐV đơn tiết
như: 插,尝... có khi là những ĐV đa tiết (từ 02 đến 06 âm tiết) như: 有一搭, 没一搭 (hữu nhất đáp,
một nhất đáp).
Từ góc độ các ĐV ngôn ngữ và góc độ cấu từ pháp ta thấy: các ĐVĐN của tiếng Hán có thể là
một ngữ như: 吃白饭(ngật bạch phạn), 站住脚(trạm trú giảo)… Có thể là từ (bao gồm từ đơn và từ
phức) như: 刨 (bào, 02 nghĩa,); 报告 (báo cáo, 02 nghĩa); 霸王鞭(bá vương tiên, 02 nghĩa)…, có
thể là những YT CTT như: 阿 (a, 02 nghĩa); 儿 (nhi, 02 nghĩa); có thể là những từ tố (hình vị) như:
员 (viên) song thường gặp nhất là 04 kiểu dưới đây:
Kiểu 1: toàn bộ nghĩa hạng đều là nghĩa của từ như:
缺课 (không đi học, không đến lớp) 缺勤 (không đi làm). 4. thiếu, trống, khuyết: 补一个缺 (bù vào một chỗ khuyết).
Thí dụ 08: 缺 (khuyết): 1. thiếu: 缺人 (thiếu người). 2. sứt, mẻ: 缺口 (sứt miệng). 3. vắng mặt, không có mặt:
(TĐ THHĐ tr. 1134).
Kiểu 2: chỉ có một hoặc một số nghĩa hạng của từ còn lại là nghĩa của những từ tố ĐN như:
tập: 存折(sổ tiết kiệm). (TĐ THHĐ tr. 1725).
Thí dụ 09: 折 (chiết): 1. gấp, gập, xếp: 把信折好装在信封里 (gấp xong thư, bỏ vào phong bì) 2. sổ,
Kiểu 3: từ đã có nhiều nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN. Chẳng hạn như
nghĩa của từ 风(fēng; phong) dưới đây:
sạch. 3. Hong: 风鸡 gà hong, 风肉 thịt hong. 4. Nhanh như gió: 风发 hăm hở/phấn khởi. 风行 thịnh hành. 5.
Phong khí/phong tục: 蔚然成风 Phát triển mạnh mẽ thành phong trào. 移风易俗 Thay đổi phong tục. 不正
之风 Phong khí bất chính/nếp làm sai trái. 6. Cảnh tượng: 风景 phong cảnh. 风光 Phong quang. 7. Thái độ:
Thí dụ 10: 风(fēng) 1. Gió. 2. Làm khô (bằng sức gió): 风干 Hong cho khô. 晒干风净 Phơi khô quạt
作风 Tác phong. 风度 Phong độ. 8. Phong thanh/tin đồn/tin tức: 闻风而动 Nghe tin liền nổi dậy. 刚听见一
点风儿就来打听 Vừa nghe thấy một chút phong thanh liền tới hỏi thăm. 9. Đồn đại/không có căn cứ chắc
chắn: 风闻 Nghe đồn. 风言风语 Lời đồn nhảm/điều bịa đặt. 10. Dân ca: 采风 Thu thập dân ca. 11. (đông y
chỉ một số bệnh) bệnh phong: 鹅掌风 Bệnh tổ đỉa. 羊痫风 Bệnh động kinh. (TĐ THHĐ tr.405).
Trong các nghĩa của từ 风(fēng) trên thì các nghĩa 1, 4, 7 là nghĩa của từ, các nghĩa còn lại là
nghĩa của từ tố.
1
P (nguyên): 1. Đầu tiên, thứ nhất: 元始 (nguyên thủy). 2. Đứng đầu: 状元 (trạng
Kiểu 4: đều là nghĩa của từ tố như:
nguyên). 3. Chủ yếu, cơ bản, cơ sở: 元素(nguyên tố),元音(nguyên âm). 4. Nguyên tố: 一元论 (nhất nguyên
luận). 5. Tổ hợp tự cấu thành chỉnh thể hoặc hệ thống: 单元 (đơn nguyên). ( TĐ THHĐ tr. 1672).
Thí dụ 11: 元 P
Từ góc độ từ loại, các ĐVĐN của THHĐ có thể thuộc về 12 từ loại của tiếng Hán. Trong đó,
chiếm SL nhiều nhất là các ĐV thuộc về danh từ, động từ, hình dung từ. Chẳng hạn:
Thuộc về danh từ như:
hệ và tuổi xấp xỉ với mẹ mình). 3. Cô (xưng gọi cô bảo mẫu). ( TĐ THHĐ tr. 01).
Thí dụ 12: 阿姨 (a di): 1. Dì, dà (chị gái, em gái của mẹ). 2. Cô, dì (xưng gọi người phụ nữ cùng thế
Thuộc về động từ như:
chức đời sống). 安排他当统计员(cắt đặt anh ta làm nhân viên thống kê). 2. Quy hoạch, sắp xếp, tổ chức:重新安
排家乡的山河 (quy hoạch lại núi sông quê nhà). (TĐ THHĐ tr. 07).
Thí dụ 13: 安排 (an bài): 1. Xếp đặt, sắp đặt, bố trí (việc, người): 安排工作(bố trí công tác). 安排生活(tổ
Thuộc về hình dung từ như:
ổn: 孩子睡得很安静 (con ngủ rất yên giấc). 过了几年安静生活 (sống mấy năm yên ổn). (TĐ THHĐ tr. 07).
Thí dụ 14: 安静 (yên tĩnh): 1. Yên tĩnh, yên lặng: 病人需要安静 (người bệnh cần yên tĩnh). 2. Yên, yên
Phổ biến nhất là những ĐVĐN có các nghĩa hạng thuộc về các từ loại khác nhau như:
Thí dụ 15: 犁 (lê): 1. (dt): Cái cày 2. (đgt): Cày (TĐ THHĐ tr. 832).
nhất): Nhất trên đời, chẳng gì bằng, cực kì, hết mức: 再好不过(tốt chẳng gì hơn được nữa). 最快不
过 (nhanh hết mức).乖巧的孩子不过(đứa bé cực kì kháu khỉnh). 2. (phó từ, biểu thị phạm vi thu
hẹp): Chỉ có, vẻn vẹn, không quá, chỉ, mới có: 当年她参军的时候不过十七岁 (hồi ấy, khi chị tòng
quân tuổi mới mười bảy). 3. (liên từ, đứng đầu phân câu sau, biểu thị sự trái ngược): Nhưng, song,
Thí dụ 16: 不过 (bất quá): 1. (phó từ; dùng sau cụm hình dung từ SÂT, biểu thị mức độ cao
chỉ có điều là: 病人精神还不错,不过胃口不太好 (bệnh nhân tinh thần vẫn khá, có điều là ăn uống
chưa ngon miệng lắm). (TĐ THHĐ tr.112).
Đặc biệt, trong các ĐV đơn tiết thường có nhiều từ loại tham gia vào việc tạo nên các nghĩa
hạng của một ĐVĐN. Chẳng hạn như:
một cô gái). 2. đg: Thích, ưa: 爱游泳 (thích bơi) 爱看电影 (thích xem phim). 3. đg: Quý, trọng: 爱公物 (quý của
công). 爱集体荣誉 (trọng vinh dự tập thể). 4. phó từ: Hay, dễ (nảy sinh): 爱笑 (hay cười).爱哭 (hay khóc). 铁
爱生锈 (sắt dễ gỉ). 5. dt: Tình yêu, lòng thương yêu, tình: 谈情说爱 (tình tự). 母爱 (tình mẹ). 同志爱 (tình
đồng chí). ( TĐ THHĐ tr. 05).
Thí dụ 17: 爱 (ái): 1. đg: Yêu, chuộng: 爱劳动 (yêu lao động). 他爱上了一个姑娘 (anh ta đem lòng yêu
Một điều hết sức thú vị là hầu hết các từ được TĐTV 2006 tách thành những ĐV ĐÂCG như: cày,
bừa, đục, cưa, bào, sơn, biên dịch, phiên dịch, quan niệm, quy định, lãnh đạo, quyết định… thì trong
TĐ THHĐ 2005 lại được xử lý thành những ĐVĐN. (Xin xem một số ví dụ dưới đây):
stt
ĐVĐN
SL nghĩa
Quan hệ giữa các nghĩa hạng
Từ loại 01 Dt; cái cày
Từ loại 02 Đg; cày
Công cụ - chức năng
TĐ Tr 832
Dt; cái bừa
Đg; bừa
Công cụ - chức năng
1015
Dt; cái đục
Đg; đục
Công cụ - chức năng
1697
Dt; cái cưa
Đg; cưa
Công cụ - chức năng
792
Dt; cái bào
Đg; bào
Công cụ - chức năng
52
Dt; sơn
Đg; sơn
Chất liệu - động tác
1648
Dt; nghề
Đg; biên dịch
80
01 犁 lê 02 耙 bà 03 錾 tạm 04 据 cự 05 刨 bào 06 油漆 du tất 07 编译 biên dịch
502
08 观念 quan niệm Dt; quan niệm Đg; quan niệm
Dt; quy định
Đg; quy định
513
09 规定 quy định
Nghề-hoạt động đặc thù của nghề Nhận thức - thể hiện nhận thức Sản phẩm - hành vi, động tác Bản chất – mức độ
1320
hdt ; tham lam
203
Đg; cuốc
Công cụ - chức năng
10 贪心 tham tâm Dt; lòng tham Dt; cái cuốc 11 锄 sừ
Từ góc độ cấu trúc ngữ nghĩa các ĐVĐN của THHĐ có thể là những ĐV ĐNBV như:
Thí dụ 19: 扳手(ban thủ): 1. Cờ lê, lắc lê (dụng cụ vặn mở ốc vít, ê cu). 2. Tay quay, cán vặn. (TĐ THHĐ tr.
棒子(bổng tử): 1. Cái gậy. 2. Chỉ ngô (một loại ngũ cốc). (TĐ THHĐ tr.42).
包子(bao tử): 1. Bánh bao. 2. Nồi luyện gang thép. (TĐ THHĐ tr. 44).
33).
Có thể là những ĐV ĐNBT như:
事 (ôi, thật là một chuyện không thể nào ngờ). 2. Này, nè (tỏ ý nhắc nhở): 哎, 我倒有个办法,你们大家看
行不行 (này, tôi có một biện pháp, mọi người xem có được không). (TĐ THHĐ tr. 02).
Thí dụ 20: 哎 (ai): 1.Ôi, ôi chao, ồ, ơ kìa (tỏ ý ngạc nhiên hoặc không vừa lòng): 哎,真是没想到的
Có thể là những ĐV ĐNBN như:
thuẫn (trong phép biện chứng chỉ mối quan hệ giữa các mặt đối lập trong nội bộ sự vật khách quan và trong
tư tưởng của người ta, vừa dựa vào nhau vừa bài xích lẫn nhau). 3. Mâu thuẫn (trong lôgích hình thức chỉ mối
quan hệ giữa hai khái niệm bài xích lẫn nhau hoặc giữa hai phán đoán không thể cùng đúng cũng không thể cùng
sai). 4. Mâu thuẫn (chỉ chung các sự vật đối lập bài xích lẫn nhau) 他俩的意见有矛盾 (ý kiến của hai người ấy
có mâu thuẫn với nhau). (TĐ THHĐ tr. 923).
Thí dụ 21: 矛盾 (mâu thuẫn): 1. Chỉ 02 loại vũ khí thời cổ đại (mâu để đâm và thuẫn để đỡ). 2. Mâu
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu: từ cụ thể đến khái quát như:
300…). 2. Dấu, kí hiệu (nói chung). (TĐ THHĐ tr. 88).
Thí dụ 22: 标号 (tiêu hiệu): 1. Mác (chữ số ghi tính năng vật lí của sản phẩm như xi măng mác 200,
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo một trật tự dẫn xuất: SR1 R-> SR2 R-> SR3 R…như:
người hoặc ĐV gương mẫu): Tấm gương, mẫu mực, kiểu mẫu: 树立标兵 (dựng kiểu mẫu, nêu tấm gương). 服
务标兵 (tấm gương phục vụ, phục vụ kiểu mẫu). ( TĐ THHĐ tr. 87).
标的 (tiêu đích): 1. Cái bia (tập bắn). 2. Mục đích. 3. Chỉ tiêu (hàng hóa, lao động, hạng mục công
trình… mà quyền lợi mà nghĩa vụ của hai bên kí hợp đồng cần cùng nhau đạt tới). ( TĐ THHĐ tr. 88).
正房 (chính phòng): 1. Nhà chính, nhà trên. 2.Vợ cả. ( TĐ THHĐ tr. 1739).
Thí dụ 23: 标兵 (tiêu binh): 1. Tiêu binh (người đứng làm mốc ranh giới trong duyệt binh, mít tinh). 2. (ví
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu “song song” như:
1 Thí dụ 24: 按P P(án): 1. (dùng ngón tay hoặc tay) Ấn, bấm, đè: 按电铃 (bấm chuông). 按图钉(bấm đinh
ghim bản đồ). 按脉 (bắt mạch). 一手按着纸 (một tay đè lên giấy). 2. Ỉm đi, gác lại, để lại, ém: 按下此事不
说 (ỉm việc đó đi không nói). 3. Nén, kìm, ức chế: 按不住心头怒火 (không nén nổi tức giận). 4. (tay) Đặt
lên: 按剑 (tay đặt lên đốc kiếm). 5. Theo, dựa vào: 按时上班 (làm ca theo giờ). 按质论价 (định giá theo
chất lượng). 按制度办事 (làm việc theo đúng chế độ). ( TĐ THHĐ tr. 10).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu “hỗn hợp”như:
Thí dụ 25: 正面 (chính diện): 1. Chính diện, mặt trước, mặt tiền, phía trước: 正面图 (bản vẽ chính
diện). 大楼的正面有八根大理石的住子 (mặt trước của tòa lầu có tám trụ đá hoa). 一连从正面进攻,二连,
三连侧面包抄 (đại đội một tấn công trực diện, đại đội hai, đại đội ba đánh vòng hai bên). 2. Mặt phải, mặt
ngoài, mặt trước, mặt trên của vật mỏng: 牛皮纸的正面比较光滑 (mặt phải của giấy bao bì khá nhẵn). 3.
Mặt tốt, mặt tích cực, chính diện: 正面人物(nhân vật chính diện). 正面教育 (giáo dục mặt tốt). 4. Mặt phải,
mặt bộc lộ (của sự việc, vấn đề…): 不但要看问题的正面,还要看问题的反面(không những phải xem xét
mặt phải của vấn đề, mà còn phải xét tới cà mặt trái của vấn đề). 5. Trực tiếp, thẳng, trực diện: 有问题正面
提出来,别绕弯子(có vấn đề gì cứ nói thẳng ra, đừng có vòng vo). ( TĐ THHĐ tr. 1739).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu từ nghĩa đen (nghĩa gốc) đến nghĩa bóng (nghĩa
chuyển, nghĩa tỷ dụ) như:
nhiều người ở hậu đài hát họa theo). 2. (tỷ dụ) Về hùa, phụ họa, ủng hộ, nói giúp: 帮腔助势 (nói giúp thêm thế). 他
看见没有人帮腔,也就不再坚持了(anh ta thấy chẳng có ai về hùa ủng hộ, cũng không dám kiên trì nữa). ( TĐ
THHĐ tr. 40).
病根 (bệnh căn): 1. Bệnh căn, bệnh cũ (chưa chữa khỏi hẳn): 这是坐月子时留下的病根 (đây là
bệnh cũ hồi ở cữ để lại). 2. (ví với nguyên nhân gây ra thất bại, tai họa): Căn nguyên, mầm tai họa, mầm
bệnh: 我厂连年亏损的病根要找出来 (phải tìm ra căn nguyên làm nhà máy ta mấy năm liên tiếp thua lỗ).
Thí dụ 26: 帮腔 (bang xoang): 1. Hát theo, hát đệm, hát đế, hát phụ họa (một người hát chính trên sân khấu,
园丁(viên đinh): 1. Người làm vườn, nhân viên công ti cây xanh. 2. Người trồng vườn (ví với người
thầy giáo). ( TĐ THHĐ tr. 1673).
( TĐ THHĐ tr. 100).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu đối lập (có những nét nghĩa đối lập nhau trong
một cấu trúc ngữ nghĩa) như:
了(công chúa Thiết Phiến đã bị thua trận). 2. Chiến thắng, đánh thắng, đánh bại (kẻ thù): 孙行者打败了铁扇公
主 (Tôn Hành Giả đã đánh thắng công chúa Thiết Phiến). 孙行者把铁扇公主打败了(Tôn Hành Giả đã đánh
bại công chúa Thiết Phiến). ( TĐ THHĐ tr. 1713).
Thí dụ 27: 战败 (chiến bại): 1. Chiến bại, thua trận, bị đánh bại: 战败国 (nước thua trận). 铁扇公主打败
打败 (đả bại): 1. Đánh bại: 打败侵略者 (đánh bại kẻ xâm lược). 2. Thua, bị thua, bị đánh bại: 这场比
赛如果你们打败了,就失去赛资格 (trận đấu này nếu các anh thua thì mất quyền vào chung kết). ( TĐ
THHĐ tr. 243).
下药 (hạ dược), 谢客 (tạ khách), 虚文 (hư văn), 压称 (áp xưng),直眉瞪眼 (trực mi trừng nhãn), 抓耳挠腮
(trảo nhĩ náo tai), 打败 (đả bại), 打包 (đả bao)… Các ĐV này phần lớn là ngữ (từ tổ, đoản ngữ), có
Thuộc về những ĐV được sắp xếp theo kiểu đối lập này còn có các ĐV như:下船 (hạ thuyền),
cấu tạo và cấu trúc ngữ nghĩa đơn giản (thường là có 02 nghĩa hạng) và có một đặc điểm đặc biệt là
các nghĩa hạng luôn luôn đối lập nhau. Theo chúng tôi, đây là những ĐVĐN hết sức thú vị cần tiếp
tục đào sâu nghiên cứu.
3.2.2. Phân loại các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ
Cũng như trong TV, vấn đề phân loại các ĐVĐN trong tiếng Hán cũng rất phức tạp. Trên thực
tế đã có các giải pháp phân loại sau đây:
(i) Xuất phát từ cấu trúc ngữ nghĩa để phân loại thành ĐNBV, ĐNBN, ĐN BT, (ii) dựa vào trật
tự, tính chất giữa các nghĩa hạng để chia thành: nghĩa cơ bản (nghĩa gốc), nghĩa chuyển (nghĩa dẫn
xuất, nghĩa tỷ dụ), (iii) dựa vào tần xuất sử dụng hay phạm vi rộng hẹp để chia thành: nghĩa thường
dùng và nghĩa không thường dùng, (iv) dựa vào quan hệ chặt/ lỏng giữa các nghĩa hạng để phân loại
thành: nghĩa tự do và nghĩa không tự do, (v) dựa vào ĐV ngôn ngữ để phân loại thành nghĩa của từ
và nghĩa của từ tố (hình vị), (vi) dựa vào SLÂT tham gia cấu tạo để phân loại thành từ đơn tiết ĐN
và từ đa tiết ĐN…
Song cũng như trong TV, phần lớn những công trình có đề cập tới vấn đề phân loại các ĐVĐN
của tiếng Hán chỉ đi vào chứng minh lý do tồn tại của các giải pháp phân loại này hơn là việc đi vào
chứng minh khả năng giải thích, ứng dụng vào thực tiễn của các giải pháp phân loại trên. Những
công trình chứng minh được tính hiệu quả của việc phân loại và giải thích cũng như khả năng bao
quát khối ngữ liệu rất ít, chủ yếu tập trung vào mảng ĐÂĐH là mảng có giao thoa với HTĐN (Tạ
Văn Khánh, Vương Chấn Côn, 1980; Lưu Xuyên Dân, 2001; Chu Anh Quý, 2002). Số liệu về các
ĐVĐN trong THHĐ rất sơ sài, thiếu bổ sung cập nhật.
Chúng tôi, trong LA này, bước đầu thử nghiệm hướng phân loại các ĐVĐN của THHĐ từ các tiêu
chí: (i) Từ DLN của các ĐVĐN, (ii) từ cấu tạo của các ĐV ĐN (SLÂT tham gia cấu tạo nên các
ĐVĐN), (iii) từ góc độ từ loại. Do đứng trước một khối ngữ liệu quá lớn nên chúng tôi chủ trương: (i)
Chỉ thống kê điểm một số mục từ trong TĐ THHĐ 2005 (mục A,B; có tham khảo những mục từ còn lại)
để chứng minh hiệu quả của giải pháp phân loại từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐN
trong THHĐ. (ii) Quét toàn bộ ngữ liệu của TĐ THHĐ 2005 đối với 02 hướng phân loại còn lại. Sau
đây là kết quả thống kê, phân loại cụ thể:
3.2.2.1. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo
Thống kê điểm một số mục từ trong TĐTHHĐ 2005 (mục A,B) từ tiêu chí SLÂT tham gia
cấu tạo chúng tôi thu được kết quả sau: (xem bảng 3.3)
Bảng 3.3 Bảng thống kê, phân loại các ĐVĐN trong TĐ THHĐ 2005 mục A,B từ tiêu chí
SLÂT tham gia cấu tạo:
Tổng số ĐVĐN
Số lượng âm tiết tham gia cấu tạo
Đơn tiết
02 âm tiết 339 đv
04 âm tiết 18 đv
692 đv
289 đv
84,12 %
Đa tiết 03 âm tiết 46 đv 403 đv 11,41 %
4,47 %
Tỷ lệ %
41,76 %
58,24 %
Kết hợp với số liệu của các mục từ khác trong TĐ chúng tôi nhận thấy: các ĐVĐN của tiếng
Hán gồm 02 loại: đơn tiết (chiếm tỷ lệ thứ yếu) và đa tiết (chiếm tỷ lệ chủ yếu). Kết quả khảo sát
còn cho thấy, các ĐV đa tiết ĐN trong tiếng Hán có cấu tạo từ 02 đến 06 âm tiết, trong đó thường
gặp nhất, có SL nhiều nhất là những ĐV song tiết như: 爱人(ái nhân), 安静 (yên tĩnh)… nhưng có
khi là những ĐV có cấu tạo 03 âm tiết như: 站住脚 (trạm trú giảo, 04 nghĩa), 吃白饭 (ngật bạch
phạn, 03 nghĩa )…, có khi lại là những ĐV có cấu tạo 04 âm tiết như: 缩手缩脚 (súc thủ súc giảo,
02 nghĩa), 直眉瞪眼 (trực mi trùng nhãn, 02 nghĩa), có khi là những ĐV có cấu tạo 05 âm tiết như:
无政府主义 (vô chính phủ chủ nghĩa, 02 nghĩa) và có cấu tạo tối đa là 06 âm tiết như: 有一搭没一
搭 (hữu nhất đáp, một nhất đáp, 02 nghĩa). Các ĐVĐN có cấu tạo từ 03 âm tiết trở lên trong tiếng
Hán có SL ít và có DLN không cao (thường chỉ có 02 hoặc 03 nghĩa), quét toàn bộ TĐ THHĐ 2005
chúng tôi chỉ thu thập được 01 ĐV có cấu tạo 03 âm tiết có 04 nghĩa là: 站住脚 (trạm trú giảo, 04
nghĩa), và duy nhất 01 ĐV có cấu tạo 04 âm tiết có 05 nghĩa là: 昏天黑地 (hôn thiên hắc địa).
Các ĐVĐN SÂT trong tiếng Hán tuy chiếm tỷ lệ áp đảo hơn song có DLN không cao (thường gặp
nhất là có 02 hoặc 03 nghĩa). Thống kê toàn bộ TĐ THHĐ 2005 chúng tôi chỉ thu thập được 07 ĐV có
06 nghĩa là: 底子(để tử); 上面 (thượng diện); 先生(tiên sinh); 意思 (ý tứ); 宽松 (khoan tùng); 拉扯
(lạp chỉ/xả); 关系 (quan hệ), 04 ĐV có 07 nghĩa là: 倒是 (đảo thị); 人事 (nhân sự); 什么 (thân ma); 抓
挠 (trảo náo); và chỉ tìm được duy nhất 01 ĐV có 08 nghĩa là: 一头 (nhất đầu). Và cũng chỉ thống kê
được 46 ĐV có 05 nghĩa bao gồm cả từ và ngữ. (xem bảng 3.4)
Bảng 3.4 Bảng thống kê các ĐVĐN song tiết có từ 05 nghĩa hạng trở lên trong THHĐ 2005:
Âm Hán Việt tổng lí
SL nghĩa 05 nghĩa
TĐ trang 1814
tổ chức
05 nghĩa
1820
tả hữu
05 nghĩa
1825
giao thông
05 nghĩa
680
lí hội
05 nghĩa
835
một hữu
05 nghĩa
927
môn hộ
05 nghĩa
944
miễn cưỡng
05 nghĩa
1053
nội tuyến
05 nghĩa
570
hậu thân
05 nghĩa
572
hậu thực
05 nghĩa
591
hoài bão
05 nghĩa
617
hoạt động
05 nghĩa
1715
trạm trú
05 nghĩa
1719
chiêu hô
05 nghĩa
1739
chính diện
05 nghĩa
1594
nhất định
05 nghĩa
1628
dẫn tử
05 nghĩa
1059
phá hoại
05 nghĩa
1114
thanh sảng
05 nghĩa
1146
nhân tình
05 nghĩa
1218
sinh hoạt
05 nghĩa
1243
thế giới
05 nghĩa
1363
thông báo
05 nghĩa
1378
thốc lỗ
05 nghĩa
1398
ngoại gia
05 nghĩa
1419
vĩ ba
05 nghĩa
1468
hạ hải
05 nghĩa
335
độc lập
05 nghĩa
231
thô trọng
05 nghĩa
257
đại tiểu
05 nghĩa
213
song khẩu
05 nghĩa
143
tra nhi
05 nghĩa
156
trường diện
05 nghĩa
366
stt ĐV ĐN 01 总理 02 组织 03 左右 04 交通 05 理会 06 没有 07 门户 08 勉强 09 内线 10 后身 11 厚实 12 怀抱 13 活动 14 站住 15 招呼 16 正面 17 一定 18 引子 19 破坏 20 清爽 21 人情 22 生活 23 世界 24 通报 25 秃噜 26 外家 27 尾巴 28 下海 29 独立 30 粗重 31 大小 32 窗口 33 碴儿 34 场面
phát hỏa
05 nghĩa
379
phản ánh
05 nghĩa
383
Phương tiện
05 nghĩa
390
phóng pháo
05 nghĩa
399
phân giải
05 nghĩa
408
phong tình
05 nghĩa
450
cao đê
05 nghĩa
454
cao áp
05 nghĩa
457
ngật đáp
05 nghĩa
464
căn bản
05 nghĩa
526
quá khứ
05 nghĩa
117
bất hành
05 nghĩa
117
35 发火 36 反映 37 方便 38 放炮 39 分解 40 风情 41 高低 42 高压 43 疙瘩 44 根本 45 过去 46 不行
Từ số liệu trên có thể thấy rằng: (i) Các ĐVĐN có cấu tạo phức tạp trong tiếng Hán có SL
nhiều hơn trong TV, (ii) cũng như các ĐVĐN của TV, các ĐV ĐN trong tiếng Hán cũng có chung
một quy luật là: những ĐV nào có cấu tạo càng đơn giản thì ý nghĩa càng phức tạp và ngược lại,
những ĐV nào có cấu tạo càng phức tạp thì ý nghĩa càng đơn giản. Và nếu như trong TV, vấn đề
ĐN của những ĐV đơn tiết là vấn đề nổi bật hơn thì trong THHĐ, vấn đề ĐN của những ĐV đa tiết
lại là vấn đề cần được lưu tâm hơn (đặc biệt là với những ĐV SÂT). Điều này cũng có nghĩa là,
trong THHĐ, vấn đề nghĩa của từ tố (hình vị) là một trọng tâm cần chú ý.
3.2.2.2. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí DLN
Từ danh sách 692 ĐVĐN thống kê được trong TĐ THHĐ 2005 chúng tôi tiếp tục phân loại
các ĐV này từ tiêu chí DLN, kết quả như sau: (Xem bảng 3.5)
Bảng 3.5 Bảng phân loại các ĐVĐN song tiết trong TĐTHHĐ 2005 mục A,B từ tiêu chí DLN:
Dung lượng nghĩa
Tổng số ĐV ĐN
04 37 đvị
05 28 đvị
06 11 đvị
02 473 đvị
10 04 đvị
11 01 đvị
13 01 đvị
07 07 đvị
09 05 đvị
03 117 đvị 590 đvị
08 08 đvị 102 đvị
692 đvị Tỷ lệ %
85,26 %
14,74 %
Kết hợp với số liệu của các mục từ khác trong TĐ chúng tôi nhận thấy: các ĐVĐN của tiếng
Hán có dung lượng từ 02 đến 25 nghĩa. Trong đó những ĐV có 02 và 03 nghĩa chiếm SL tuyệt đối,
ĐV có nhiều nghĩa nhất là 打 (đả, 25 nghĩa). Với mục đích so sánh những ĐVĐN ít gặp trong TV
và THHĐ, chúng tôi tiến hành thống kê những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên trong TĐ THHĐ 2005 và
thu được số liệu sau: (Xem bảng 3.6)
Bảng 3.6 Bảng TK các ĐV có từ 07 nghĩa hạng trở lên trong TĐ THHĐ 2005:
SỐ LƯỢNG NGHĨA
08
07 đơn đa đơn đa 01 87
04
75
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 25 slg 01 49
28
09
14
09
01
01
01
04
02
07
02
295
91
76
Sl & Tlệ tl %
So sánh bảng số liệu này với số liệu thống kê những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên trong TĐTV
2006 chúng tôi thấy: những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên trong THHĐ có SL lớn hơn trong TV (gần
gấp 05 lần). Trong những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên thì đại đa số là các ĐV đơn tiết (290/295 ĐV).
Số liệu này chứng tỏ rằng: về tổng quát THHĐ không những có SL các ĐVĐN nhiều hơn TV mà
THHĐ còn có nhiều ĐVĐN có cấu trúc ngữ nghĩa phức tạp hơn TV.
Trong cả hai ngôn ngữ Việt, Hán đều có các kiểu quan hệ ngữ nghĩa phổ biến như: quan hệ dẫn xuất,
quan hệ song song, quan hệ xen kẽ giữa dẫn xuất và song song, quan hệ hình nhánh. Tuy nhiên, kiểu từ có
cấu trúc nghĩa đối lập nhau trong tiếng Hán phổ biến hơn trong TV và HT hình vị cấu tạo từ ĐN trong TV
ít gặp hơn trong THHĐ.
3.2.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ăn, hoa, hồng, đỏ trong TV với
các từ 吃 1,花 1,红, 赤 trong THHĐ
3.2.3.1. Cơ sở đối chiếu
TV và THHĐ đều được xếp vào loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến hình. Các ĐVĐN
trong TV và tiếng Hán đều có thể phân thành các từ loại như: dt, đg, tt… và sự đối lập giữa các từ
loại này về cơ bản là có thể xác lập được.
Trong TV, các ĐV đơn tiết nói chung và các ĐV đơn tiết ĐN nói riêng có một SL đông đảo
(chiếm tỷ lệ cao hơn so với các ĐV đa tiết và các ĐV đa tiết ĐN). DLN trong các ĐVĐN đơn tiết
trong TV và trong tiếng Hán bao giờ cũng cao hơn DLN trong các ĐVĐN đa tiết.
Các ĐV đơn tiết ĐN trong TV và tiếng Hán có cấu trúc phức tạp về ngữ nghĩa song phần lớn
đều thuộc lớp từ vựng cơ bản của một ngôn ngữ, hàm chứa trong đó những lớp trầm tích về văn hóa
và tư duy của người bản ngữ, lịch sử của dân tộc nên việc đối chiếu chúng là cần thiết để tìm ra
điểm tương đồng và dị biệt về tư duy và văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Hán.
Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của một số ĐV đơn tiết thuộc lớp từ vựng cơ bản trong hai ngôn
ngữ Việt – Hán, chúng tôi có tham khảo, đối chiếu danh sách các ĐV từ vựng cơ bản của Swadesh
[48].
Những ĐV đơn tiết này thuộc hệ thống từ vựng cơ bản, liên quan tới các khu vực như: họ hàng,
màu sắc, thực vật, động vật, trọng lượng và đo lường, cấp bậc trong quân đội, cách đánh giá trong đạo
đức và thẩm mỹ; những loại kiến thức kĩ năng và trí năng khác nhau…. Là những dấu hiệu góp phần
khẳng định một luận điểm quan trọng của De. Saussure là “mỗi ngôn ngữ áp đặt một hình thức riêng
cho một chất liệu tiên nghiệm chưa được biện biệt của bình diện nội dung”.
Chúng tôi trong LA này, để làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt về tư duy giữa hai
dân tộc Việt, Hán, sẽ tiến hành đối chiếu một số ĐV thuộc lớp từ chỉ màu sắc (chỉ màu đỏ,
màu hồng), chỉ thực vật (hoa); chỉ một trong những hoạt động cơ bản (ăn) trong hai ngôn ngữ
Việt, Hán. Những phương pháp được sử dụng ở đây là phương pháp thống kê ngôn ngữ học và
phương pháp phân tích nghĩa tố.
3.2.3.2. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ hoa1 trong TV với từ 花1 trong
THHĐ
P(hoa) trong THHĐ là những ĐV ĐN có cấu trúc ngữ nghĩa đặc biệt (vừa
1 gặp, hoaR1 R trong TV và花P
Nằm trong lớp từ chỉ thực vật thuộc hệ thống từ vựng cơ bản, lại là 02 ĐV ĐN dùng chung ít
P(hoa) trong THHĐ.
1 tôi sẽ tiến hành đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của từ hoaR1 R trong TV với từ花P
có điểm tương đồng, vừa có điểm khác biệt). Để làm rõ những điểm tương đồng, dị biệt này, chúng
Trong TĐTV 2006, có thu thập và xử lí 03 từ ĐÂ có chung một vỏ ngữ âm là hoa trong đó: hoaR2 Rlà động
từ, có nghĩa tương tự như động từ khoaR3R: dùng tay hay vật cầm ở tay dơ lên và đưa đi đưa lại thành vòng phía
trước mặt; vung. Khoa đèn lên soi. Khoa kiếm, (TĐTV 2006; tr. 502). Và: tính từ hoaR3R: ở trạng thái nhìn thấy
mọi vật xung quanh đều lờ mờ và như quay tròn trước mắt, do quá mệt mỏi hoặc do thị giác bị kích thích mạnh
Rvà hoaR3 Rnày không phải là đối tượng của LA.
2 Trong TĐTHHĐ cũng có 02 từ 花 (hoa) ĐÂĐH. Trong đó: 花P
P(hoa R2 R) là đg; có nghĩa là: tiêu
và đột ngột. Sức kiệt mắt hoa. Đi nắng hoa cả mắt. Hoa mắt lên vì màu sắc. (TĐTV 2006; tr. 444). Hai từ: hoaR2
dùng, sử dụng. Đây cũng không phải là đối tượng của LA.
Khảo sát cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ hoaR1 R trong TV qua một số từ điển, tự điển do người
Việt biên soạn chúng tôi có được kết quả sau: (Xem bảng 3.7)
Bảng 3.7 Bảng thống kê nghĩa của từ hoaR1 Rqua các tự điển, từ điển do người Việt Nam biên
soạn:
Stt
Nguồn
Số Lượng nghĩa
Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang Hồng chủ biên) Nxb GD 2006; tr 481.
01
1. Chỉ cơ quan sinh sản hữu tính của loài cây có hạt, thường có màu sắc, hương thơm. 2. Hình dung sự vật tươi đẹp. 3. Hình dung vẻ đẹp của người phụ nữ. Nói về người phụ nữ.
02
花 [kèm 14 dẫn liệu] TĐ từ Hán – Việt (Phan Văn Các) Nxb TP HCM 2001; tr 190. 花 [kèm 09 dẫn liệu]
1. d. Cơ quan sinh sản của cây hạt kín, thường có hương thơm và màu sắc. 2. (Vch). Người con gái đẹp. 3. Phần mười của lạng. 4. Có hình hoa. 5. Choáng váng, có cảm giác như các vật xoay tròn. 6. Vung tròn lên (một vũ khí).
03
TĐ Hán – Việt (Đào Duy Anh) Nxb Trường Thi 1957; tr 365. [kèm 54 dẫn liệu]
04
TĐTV (Văn Tân chủ biên) Nxb KHXH 1967; tr 492. Tách từ “Hoa” thành 04 từ ĐÂ. [Không chú chữ Hán; kèm 39 dẫn liệu]
05
TĐTV 2006, Nxb Đà Nắng (Hoàng Phê chủ biên) tr 444. [Không chú chữ Hán; kèm 51 dẫn liệu]
Việt Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của) 1895; tr 427.
06
花 [kèm 36 dẫn liệu]
07
1. Bộ phận trọng yếu của loài cây kết thành quả. 2. Sắc tạp loạn. 3. Chỉ Ả đào hoặc đĩ. 4. Bệnh đậu trời. 5. Tiêu phí. (化) Hoa. - Cơ quan sinh sản của cây bí tử thường có hương thơm và màu sắc. Ngb. Từ chỉ phụ nữ đẹp trong văn học xưa: hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa (k). Hoa. - Quáng mắt vì bệnh ánh sáng quá mạnh rọi vào hoặc bị rối loạn về sinh lí. Hoa. – “Hoa tai” nói tắt: đeo hoa tai. Hoa. – Hòn dái của gà đã luộc rồi. 1. Cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín, thường có màu sắc và hương thơm. Hoa sen. Ra hoa. Kết quả. Cười tươi như hoa. 2. Cây trồng để lấy hoa làm cảnh. Trồng hoa. Mấy khóm hoa. Vườn hoa nhiều hương sắc. 3. Vật có hình tựa bông hoa. Hoa lửa. Hoa tuyết. Hoa đèn. 4. (id). Hoa tai (nói tắt). Đeo hoa. 5. (Kng). ĐV đo khối lượng, bằng một phần mười lạng, ngày trước được tính bằng dấu hoa thị trên cán cân. Ba lạng hai hoa. 6. (Dùng phụ sau dt). Hình hoa trang trí. Đĩa men hoa (có hình hoa). Vải hoa. Chiếu hoa. 7. (Kết hợp hạn chế). Dạng chữ đặc biệt, to hơn chữ thường, thường dùng ở đầu câu và đầu danh từ riêng. Viết hoa. Chữ A hoa. Hán (bông). 1. Cái tinh anh cây cỏ. 2. Phát ra có nhiều màu sắc. 3. Cái tốt. 4. Cái nhuân nhụy. 1. Bông hoa; Người con gái. 2. Tốt đẹp; Nước Trung Hoa.
08
TĐ từ và ngữ Hán – Việt (Nguyễn Lân) Nxb TĐBách Khoa 2002; tr 303. (không chú chữ Hán). Song nhập 02 từ 华 và 花 vào làm một. [kèm 25 dẫn liệu] TĐTV (Thanh Nghị) Sài Gòn 1951; tr 550. (Tách ra làm 05 từ ĐÂ). [Không chú chữ Hán; với 50 dẫn liệu]
1 Hoa P P (huê) dt. 1. Phần trong cây cỏ nở ra đầu mút cành nhỏ, để rồi kết thành quả: Có hoa rồi mới có quả (…). Ngb. a, Người đàn bà (tươi tốt, mong manh như hoa) (…). b, Ả đào, đĩ: hoa liễu. 2. Bịnh đậu trời: lên hoa. 2 Hoa P P tt. (khd). 1. Rực rỡ; Hoa – mỹ. 2. Nói chữ viết lớn, khác với chữ thường (…) 3 Hoa P P đt. Huơ, vẩy, động đậy: hoa chân múa tay. 4 Hoa P P (khd). Nước trung Hoa nói tắt (…) 5 P đt. Choáng, làm chói: lửa sáng quá hoa Hoa P cả mắt.
09
Tự - điển Việt – Nam Phổ - Thông (Đào Văn Tập) Sài Gòn 1951; tr 270. [Không chú chữ Hán; kèm 39dẫn liệu]
10
Tự điển Việt Nam (Hội Khai Trí Tiến Đức) 1931; tr 238. 花 (tách ra thành 02 từ ĐÂ ĐH) [kèm 20 dẫn liệu]
1. Bộ - phận sinh – thực của cây cối, thường có hương có sắc (nh. Bông): (…) 2. Vật gì hình cái hoa: (…) 3. Đẹp (…) 4. Con gái đẹp (…) 5. Chỉ chữ viết lối lớn và đặc biệt cho khác với chữ nhỏ thường (…) 6. Hoa tai (…) 7. Hoa mắt (…) 1 Hoa P P. 1. Bộ phận của cây cỏ nảy ra, thường kết thành quả (…) 2. Nghĩa rộng: Cái gì có hình giống cái hoa: Hoa đèn. 2 P: Choáng: Trời nắng hoa cả mắt. Hoa P
Từ kết quả thu thập, xử lí nghĩa của hoaR1R qua các bộ TĐ trên, chúng tôi thấy:
Cách các bộ TĐ của ta giải thích nghĩa của từ hoaR1 Rlà rất khác nhau và không thống nhất, cụ thể là: (i)
khác nhau ở SL nghĩa ( SL nghĩa dao động từ 02 đến 07 nghĩa). (ii) Khác nhau ở việc tách các nghĩa của
một ĐVĐN có chung một âm đọc là hoa ra thành một số ĐVĐÂ: Tự điển Việt Nam, 1931, tách 花ra
thành 02 từ ĐÂĐH; TĐTV (Thanh Nghị), 1951, tách ra làm 05 từ ĐÂ). Ngược lại với việc tách các nghĩa
của từ hoa thành các ĐVĐÂ là việc nhập các nghĩa của một số ĐVĐÂ có cùng âm đọc là hoa vào một
ĐVĐN (Nguyễn Lân, Đào Văn Tập, Phan Văn Các…). Nguyên nhân của sự khác nhau thì có nhiều
nhưng chủ yếu là do liên quan tới lí luận của các tác giả về vấn đề ĐÂ, ĐN, liên quan tới việc có/không
chú Hán tự (những từ điển, tự điển có chú Hán tự thì tính ổn định cao hơn và những sự khác biệt giữa họ
về cơ bản là đều có thể lí giải được), do quá trình mở rộng ý nghĩa của từ hoa theo thời gian. Thậm chí là
1 Rtrong TĐTV 2006 làm điển mẫu để phân tích và đối chiếu với từ花P Ptrong THHĐ.
do những sai lầm hay nhầm lẫn của các nhà biên soạn TĐ đưa lại. LA lấy cách giải nghĩa của từ hoaR1
Xem xét cách giải thích nghĩa của từ hoaR1 Rtrong TĐTV 2006 ta thấy: (i) hoaR1R là một ĐVĐN ít gặp,
là một ĐVĐN đa nét nghĩa không hoàn toàn. (ii) Các nghĩa của hoaR1R được sắp xếp theo kiểu từ nghĩa gốc
đến nghĩa phái sinh (sR1R-> sR2 R-> sR3 R-> sR4 R-> sR5 R-> sR6 R-> sR7R). (iii) Trong 07 nghĩa của hoaR1 Rthì nghĩa phái sinh thứ
ba (chỉ những vật có hình tựa bông hoa) là nghĩa được sử dụng nhiều nhất hiện nay còn các nghĩa 05, 06,
07 xét về bản chất cũng chỉ là những nghĩa phái sinh ra từ nghĩa thứ 03 này mà thôi. Các kết hợp có chứa
hoaR1R theo nghĩa này cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số các kết hợp được thống kê trong từ điển. (iv)
Trong các nghĩa của hoaR1R thì các nghĩa 01 và 03 là những nghĩa thường dùng và cổ xưa nhất, nghĩa 07 là
nghĩa sau này mới có (liên quan tới chữ quốc ngữ và những quy định chính tả của chữ quốc ngữ).
Khảo sát các kết hợp có chứa hoaR1 Rtrong TĐTV 2006 ta thấy: (i) hoaR1 Rlà yếu tố chính trong các
kết hợp chính - phụ của những từ hay ngữ định danh như: hoa đèn, hoa đăng, hoa lệ, hoa mĩ, hoa
tai, hoa thị, hoa văn, hoa môi, hoa láR1 R, hoa hiên, hoa loa kèn…(ii) có khả năng kết hợp với một số
yếu tố khác để tạo ra một số ẩn dụ từ vựng cố định như: hoa láR1 R, hoa hoét: (có hàm ý chê, mỉa mai
những biểu hiện phô trương hình thức), hoa nguyệt (ẩn dụ thường dùng để nói về chuyện trai gái,
cũng có lúc đảo ngược trật tự thành nguyệt hoa), hoa niên (ẩn dụ chỉ tuổi trẻ - tuổi được coi là tuổi
đẹp nhất trong đời người), hoa râm (ẩn dụ chỉ tuổi trung niên), hoa tàn nhị rữa (ẩn dụ chỉ sắc đẹp
của người phụ nữ đã bị tàn tạ), hoa tay (ẩn dụ chỉ dấu hiệu biểu thị tài nghệ khéo léo có tính chất
1 P là 华và còn viết là 华. Hình chữ trong kim văn giống như một đóa Trong tiếng Hán, chữ gốc của花P
bẩm sinh của con người), hoa cái (ẩn dụ chỉ xương sọ của người chết)…
1 P có nghĩa gốc là chỉ hoa. Ví dụ: 桃之夭夭, 灼灼其华Cây đào mơn mởn, rực rỡ trên. Trong kinh thi, 花P
1 Pcó thêm ý nghĩa là 光彩 (quang thái), 光辉 (quang huy), 繁荣 (phồn vinh). Trong những hoa. Về sau, 花P
1 Thuyết văn, 花P P cũng được giải thích là phồn vinh, tươi tốt: 华,荣也Hoa là phồn vinh. Trong Cổ Hán ngữ
P 1. Chỉ đóa hoa. 2. Chỉ những vật có hình dạng
1 1 tự điển của Vương Lực, (tr.1045) 花P P có 05 nghĩa sau:花P
giống bông hoa. 3. Chỉ những vật có màu sắc, hoa văn. 4. Chỉ màu sắc tạp loạn. 5. Chỉ dung mạo xinh đẹp
của phụ nữ.
1 Trong TĐTHHĐ 2005, hiện có 02 từ花 ĐÂĐH, trong đó: 花P
2 Plà danh từ, 花P
P là động từ, có
1 P. Trong TĐTHHĐ花P
P(Hoa) gồm 19 nghĩa hạng
1 nghĩa là tiêu dùng/sử dụng. Đối tượng của LA là花P
hoa. Về sau (từ tiểu triện, lệ thư, khải thư, thảo thư, hành thư và chữ giản thể) có thêm bộ thảo đầu “艹” ở
như sau:
1. (~ 儿) Hoa: 一朵花儿 Một bông hoa. 2. (~ 儿) (Một loại thực vật dùng để thưởng thức) Hoa: 花木
Hoa, cây cảnh. 花盆儿 Chậu hoa. 花儿匠 Thợ trồng hoa. 种花 Trồng hoa. 3. (~ 儿) (Vật có hình dạng như
cái hoa) Hoa: 灯花儿 Hoa đèn. 火花 Hoa lửa/ tia lửa. 雪花 Hoa tuyết. 4. (Một loại pháo hoa) Hoa: 花炮
Pháo hoa. 礼花 Pháo hoa/ pháo bông. 放花 Đốt pháo hoa. 5. (~ 儿) Vân hoa: 白地蓝花儿 Nền trắng vân
hoa xanh. 这被面花太密 Chiếc vỏ chăn này vân hoa quá dày. 6. (Trang trí bằng hoa) Hoa: 花圈 Vòng hoa.
花篮 Lẵng hoa. 花灯 Hoa đăng. 花车 Xe hoa. 花布 Vải hoa. 7. (Màu sắc hoặc chủng loại hỗn tạp trộn lẫn
vào nhau) Hoa/ đốm/ lốm đốm: 花猫 Mèo hoa. 花花绿绿 Sặc sỡ. 8. (Mắt nhìn lờ mờ) Hoa/ mờ: 眼花 Mắt
hoa. 昏花 Hoa mắt/mờ mắt. 9. Sờn: 袖子都磨花了 Ống tay sờn hết cả. 10. Giả dối: 花招儿 Mánh khóe. 花
账 Khoản ma. 花言巧语 Lời ngon ngọt. 11. (Tinh hoa, tinh túy) Bông hoa: 文艺之花 Bông hoa văn nghệ.
革命之花 Bông hoa cách mạng. 12. Hoa khôi: 校花 Hoa khôi của trường. 交际花 Hoa khôi giao tế/ bông
hoa giao tiếp. 13. (Chỉ gái điếm hoặc có liên quan đến gái điếm) Hoa: 花魁 Hoa khôi. 花街柳巷 Đường hoa
ngõ liễu. 寻花问柳 Tìm hoa hỏi liễu. 14. Bông: 扎花 Cán bông. 弹花 Bật bông. 花纱布 Vải sợi bông. 15. (~
儿) Giọt/hạt/vụn: 泪花 Giọt lệ. 油花 Giọt dầu. 花葱 Hành thái vụn. 16. Nhỏ/con: 蚕花 Tằm nhỏ. 鱼花 Cá
con. 17. (~ 儿) (Bệnh) Đậu: 天花 Bệnh đậu mùa. 种花儿 Chủng đậu. 出过花儿 Đã từng bị lên đậu. 18. Bị
thương: 挂了两次花 Đã bị thương hai lần. 19. (Họ) Hoa.
1 Khảo sát các nghĩa hạng của花P
P chúng tôi nhận thấy: về cơ bản, quan hệ giữa các nghĩa hạng
1 của花P
P là quan hệ dẫn xuất (quan hệ phái sinh), trong đó: quan hệ giữa các nghĩa hạng 01, 02, 03, 04,
05, 06 hay quan hệ giữa các nghĩa hạng 07, 08 hay quan hệ giữa các nghĩa hạng 11, 12, 13 là còn
nhận ra khá rõ. Trong khi đó, quan hệ giữa các nhóm nghĩa hạng 07, 08 với các nghĩa hạng 09, 10 là
khá mơ hồ. Tương tự như vậy, mối quan hệ giữa các nghĩa hạng 09, 10 với nhóm các nghĩa hạng 11,
12, 13 hay mối quan hệ giữa các nghĩa hạng 11, 12, 13 với các nghĩa hạng 14, 15, 16, 17, 18, 19
1 P thì các nghĩa hạng 01, 02, 03, 04, 05, 06, 07, 08, 11,12, 13, 17, 19 là Trong 19 nghĩa hạng của花P
cũng là khá mờ nhạt.
các nghĩa hạng thường dùng, các nghĩa hạng còn lại (09, 10, 14, 15, 16, 18) là những nghĩa hạng
không thường dùng. Trong các nghĩa hạng thường dùng thì nghĩa hạng 03 (chỉ những vật có hình
1 1 nghĩa thường dùng với nghĩa gốc, nghĩa cơ bản của từ花P P trong THHĐ và điểm giống nhau giữa花P
P
dạng như cái hoa) là nghĩa hạng được dùng nhiều nhất. Như vậy là ở đây, có một sự tương ứng giữa
1 Khảo sát 134/142 kết hợp có chứa花P
1 P trong TĐTHHĐ 2005, chúng tôi nhận thấy: (i) 花P
P đóng
1 vai trò là YT CTT trong các kết hợp đa tiết (từ 02 đến 05 âm tiết), (ii) 花P
P cũng có khả năng kết hợp
trong THHĐ và hoaR1 R trong TV cũng bộc lộ ở nghĩa hạng này.
với một số yếu tố khác để tạo nên nhiều ẩn dụ từ vựng cố định đặc sắc. (Xem bảng 3.8)
1 Bảng 3.8 Bảng TK những ĐV ẩn dụ từ vựng cố định có chứa 花P Ptrong THHĐ:
stt
Nghĩa/Quy chiếu của ẩn dụ
TĐ Trang
ĐV ẩn dụ từ vựng cố định 1 có chứa花P
Công tử bột
581
Thế giới ăn chơi/chốn phồn hoa
581
582
01 花花公子 hoa hoa công tử 02 花花世界 hoa hoa thế giới 03
花架子 hoa giá tử
1. Chỉ những động tác vũ thuật biến hóa đẹp nhưng không thực dụng. 2. Mẽ bên ngoài. Đường hoa ngõ liễu/xóm làng chơi
582
582
04 花街柳巷 hoa nhai liễu hạng 05 花魁 hoa khôi
582
06 花里胡哨 hoa lí hồ tiêu
Hoa khôi/chúa của trăm hoa/kĩ nữ nổi tiếng Sặc sỡ lòe loẹt/hoa hòe hoa sói/hào nhoáng Trò bịp bợm
583
Rượu chè đĩ bợm/ăn chơi đàng điếm
583
07 花抢 hoa thương 08 花天酒地 hoa thiên tửu địa
584
09 花言巧语 hoa ngôn giảo ngữ
1. Nói ngon nói ngọt. 2. lời đường mật/lời ngon ngọt. Kẻ ăn mày
584
Ăn mặc đẹp như hoa
584
Đuốc hoa/đèn nến đêm tân hôn
584
Tin ngoài lề/dư luận
584
583
Gấm hoa rực rỡ/gấm hoa lộng lẫy
583
10 花子 hoa tử 11 花枝招展 hoa chi chiêu triển 12 花烛 hoa chúc 13 花絮 hoa tự/nhứ 14 花容月貌 hoa dung nguyệt mạo Mặt hoa da phấn 15 花团锦簇 hoa đoàn cẩm tộc …
Phần lớn các ẩn dụ từ vựng này gắn với phụ nữ, diễn tả vẻ đẹp về dung mạo và trang phục của
phụ nữ, gắn với thế giới ăn chơi (kĩ viện, nhà chứa), chỉ khách làng chơi và kĩ nữ, chỉ những hành
động hay sự sự vật có vẻ hoa mĩ về hình thức song không có thực chất, chỉ những trò bịp bợm hay
chỉ những gì còn chưa chính thức, chưa xảy ra, chưa được xác thực hóa… Tất cả những ẩn dụ từ
vựng này đều là những ẩn dụ giàu sức gợi cảm, gợi tả và rất phổ biến trong giao tiếp xã hội của
P trong THHĐ, chúng tôi
1 Qua việc khảo sát nghĩa và khả năng kết hợp của hoaR1 R trong TV và花P
người Hán xưa và nay.
P trong THHĐ có SL nghĩa cao gần
1 nghĩa (mở rộng nghĩa) của 02 ĐV này là không như nhau (花P
thấy rằng: (i) Tuy đều là những ĐV dùng chung trong TV và tiếng Hán song mức độ phát triển
gấp 03 lần hoaR1 R trong TV). Nói khác đi thì chúng chỉ giống nhau ở nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, khác
nhau ở những nét nghĩa phái sinh. (ii) Bên cạnh những điểm tương đồng về nghĩa (ở các nét nghĩa
01, 02, 03, 06 trong TV và các nghĩa hạng 01, 02, 03, 06 trong THHĐ) thì những điểm khác biệt
P trong THHĐ đều là những ĐV có khả năng kết hợp với một số yếu tố khác để
1 HoaR1 R trong TV và花P
trong hai ngôn ngữ là khá rõ ràng (các nét nghĩa và nghĩa hạng còn lại trong hai ngôn ngữ). (iii)
tạo ra nhiều ẩn dụ từ vựng cố định trong ngôn ngữ. Trong những ẩn dụ từ vựng cố định này thì điểm
giống nhau là cơ bản, điểm khác biệt là nét không cơ bản (ẩn dụ liên quan đến hoa R1 R trong TV đa
dạng hơn trong THHĐ. Ví dụ như: hoa cái, hoa tay… là những ẩn dụ từ vựng chỉ có trong TV mà
không thấy trong tiếng Hán song những ẩn dụ từ vựng trong TV thường ít hơn THHĐ về SL ĐV.
3.2.3.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của các từ hồng, đỏ trong TV với các từ 红, 赤trong
THHĐ
Từ chỉ màu sắc là một trong những vấn đề thuộc vốn từ vựng cơ bản của một dân tộc. Trong hội
họa, màu sắc được hiểu là độ sáng tối của màu. Trong đó: màu là tên gọi (màu đỏ, màu vàng…). Sắc là
độ sáng tối của màu. Lý luận hội họa cũng thừa nhận: sự tham gia một phần của ánh sáng đã làm cho
màu sắc thay đổi.
Trong hội họa, thông thường người ta hay nhắc tới 03 màu cơ bản (màu bậc một) như: đỏ,
vàng, lam. (vì không thể pha 03 màu này từ những màu khác). Từ màu đỏ và màu vàng sẽ tạo thành
màu da cam; từ màu vàng và màu xanh dương cho ta màu lục; từ màu xanh dương và màu đỏ cho ta
màu tím. Và những màu da cam, màu lục, màu tím được màu bậc hai. Quy luật này cũng đúng với
những màu bậc ba vốn được tạo ra từ một màu cơ bản và một màu bậc hai kế tiếp nó, hình thành
những màu như: đỏ cam, cam vàng, vàng lục, lục xanh dương, xanh tím hay tím đỏ. Trong hội họa,
tất cả các màu được xếp vào hai loại: nóng và lạnh. Trong đó các màu nóng gồm: đỏ, cam, vàng.
Các màu lạnh gồm: lục, xanh dương (lam) và tím. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này chỉ tương đối vì hầu
như các màu đều có hai yếu tố nóng và lạnh và đứng một mình thì được xem là nóng song có thể trở
thành lạnh khi đứng cạnh màu khác tương tự nhưng “nóng” hơn. Do màu nóng và màu lạnh có sự
tương phản nhau nên trong hội họa người ta thường sử dụng màu thứ ba tham gia vào đó là màu đen
hoặc trắng để tạo ra độ sáng hay tối.
Như vậy, trong hội họa, danh sách các màu cơ bản gồm: đỏ, vàng, lam, đen, trắng, và trên thực
thế đã và có thể quy về hai gam màu (tông màu) cơ bản: nóng, lạnh và cũng có thể quy thành ba loại
là: những màu tương phản, những màu tương đồng, những màu bổ túc (chỉ xảy ra bên màu tương
phản). Đồng thời lý luận về hội họa cũng đã khẳng định rằng: (1) tất cả các sắc độ của một màu đều
có thể so sánh tương đương với một một thanh sắc độ chuyển dần từ đen sang trắng, (2) việc phân
biệt sắc độ riêng của một số màu là không phải dễ, (3) màu sắc có thể tạo nên cảm giác và là
phương tiện để thể hiện cảm xúc như: vui – buồn, đẹp – xấu… và khi vẽ, phần lớn các họa sĩ
thường sử dụng ít nhất 02 màu và nhiều là 06 màu.
Trong ngôn ngữ học, khu vực màu sắc là một trong những khu vực được bàn luận khá nhiều vì
đây là khu vực được dùng làm ví dụ để chứng minh rằng: cùng một chất liệu có thể có những hình
thức khác nhau do các ngôn ngữ khác nhau áp đặt cho nó. Lí luận ngôn ngữ đại cương cũng đã chỉ
rõ: trong các ngôn ngữ, SL chỉ màu sắc là không hoàn toàn như nhau chẳng hạn:
Trong tiếng Anh, các từ chỉ màu sắc thường gặp là: red (đỏ), orange (cam), yellow (vàng);
green (xanh) và blue (xanh da trời)… trong từ điển, nghĩa của chúng thường được quy chiếu với
một sự vật nào đó gắn với đặc điểm điển hình của bối cảnh.
Theo conklin [88, tr. 677] Trong tiếng Hanu nóo (một ngôn ngữ ở Philippines) lại có 04
từ chỉ màu sắc chính là: sáng, tối, ướt và khô. Cũng theo conklin thì “màu, theo ý nghĩa
chuyên môn của phương tây, không phải là khái niệm phổ quát; các đối lập quy định thực chất
của màu trong các ngôn ngữ có thể lệ thuộc trước tiên vào sự liên tưởng của các ĐV từ vựng
với các đặc điểm quan trọng về mặt văn hóa của các sự vật trong môi trường tự nhiên”. Còn
Lý Toàn Thắng [126, tr. 36, 37], dựa vào những nghiên cứu của Rosch 1970, 1971, 1972 và
các tác giả khác như Berlin và Kay năm 1969 thì lại nhận định rằng: “khi phạm trù hóa các
màu sắc, chúng ta dựa vào một số điểm quy chiếu để định hướng trong việc lựa chọn thẻ màu
nào là đúng nhất, là “tâm điểm nhất” của một màu nào đó…và dựa vào “các màu trung tâm”
vốn không những được người bản ngữ dễ dàng đồng tình trong sự phân loại mà còn rất nhất
quán giữa các ngôn ngữ khác nhau. Các tâm điểm hay các màu trung tâm này có một tôn ty
nhất định mang tính phổ quát chứ không phải mang tính tương đối) rất rõ qua khảo sát các từ
chỉ màu cơ sở (basis colour terms) của 98 ngôn ngữ trên thế giới. Cụ thể là với 11 phạm trù
màu cơ sở (Trắng – Tr, Đen – Đn, Đỏ - Đ, Xanh lá cây – Xlc, Xanh da trời – Xdt, Vàng – V,
Nâu – N, Tía – T, Hồng – H, Da cam – Dc, Xám – X) thì quy tắc phân bổ các từ chỉ màu cơ sở
trong 98 ngôn ngữ như sau: /Tr/Đn/ < /Đ/ < /Xlc/ /V/ < /Xdt/ < /N/ < /T/H/Dc/X/. Nghĩa là tất
cả 98 ngôn ngữ đều có 02 từ chỉ màu đen và màu trắng. Và một ngôn ngữ có 03 từ chỉ màu thì
ngôn ngữ đó sẽ có thêm từ chỉ màu đỏ, nếu có 04 từ thì sẽ có thêm từ chỉ màu xanh lá cây hoặc
vàng…. Và tiến trình lịch sử xuất hiện các từ chỉ màu cơ sở gồm 07 giai đoạn sau:
/Xlc/ → /V/ /Tr/Đ/ → /Đ/ /Xdt/ → /N/ /T/H/Dc/X/
/V/ → /Xlc/ Tiếng Việt, theo Berlin và Kay, với 09 từ chỉ màu cơ sở đã phát triển tới giai đoạn 07…” .
Chúng tôi thấy rằng: màu hồng và màu đỏ được xếp vào danh sách các màu cơ bản của TV
(trắng, đen, vàng, đỏ, hồng, xanh). Trong từ điển, chúng được xử lí thành 02 màu riêng biệt (màu đỏ,
TĐTV 2006; tr. 327; màu hồng, TĐTV 2006; tr. 462). Song bản chất đều là một màu (chỉ khác nhau
ChuR3 R (朱): đỏ như màu son. Cái ấm chuyên da chu. (TĐTV 2006 tr.173)
về thang độ đậm – nhạt). Trong TV, để diễn tả màu đỏ hay màu hồng còn có các ĐV khác như:
chu sa (朱砂): Đỏ như màu son (là thủy ngân kết tinh thành hạt, nhỏ như cát, màu đỏ tươi, rất độc,
thường dùng làm chất màu hoặc làm thuốc). (TĐTV 2006 tr.173)
Xích (赤) trong các kết hợp xích thằng, xích thố, xích vệ, xích tử….(TĐTV 2006 tr.1150)
Song đó chỉ là những yếu tố gốc Hán không độc lập (các hình vị gốc Hán) dùng để cấu tạo từ.
Trong các văn bản cổ, TV cũng dùng các từ này để chỉ màu đỏ và màu hồng. Sau đây là nghĩa của
02 ĐVĐN hồng và đỏ được thu thập, phân tích qua một số TĐ của người Việt: (Xem bảng 3.9)
Bảng 3.9 Bảng thống kê nghĩa của từ hồng qua các tự điển, từ điển do người Việt Nam biên
soạn:
Stt
Nguồn
Số lượng nghĩa
01
Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang Hồng); Nxb GD 2006; tr 495. 红
1. Màu đỏ. 2. Trỏ người con gái đẹp: Bóng hồng, má hồng. 3. Trỏ nhân duyên: Tơ hồng, chỉ hồng. 4. Một loài cây, hoa (thường màu đỏ). 5. Chỉ thế gian trần tục. 6. Cây ăn quả, cùng họ với thị, quả chín màu đỏ. [kèm 22 dẫn liệu có liên quan]
02
1. tt. Đỏ. Cờ hồng. Má hồng. 2. Lợi tức. [kèm 10 dẫn liệu có liên quan]
TĐ Hán – Việt (Phan Văn Các); Nxb TpHCM 2001; tr 202. 红 TĐTV ( Văn Tân) 1967; Nxb KHXH; tr 512.
1. Đỏ: Cờ hồng. 2. Đỏ nhạt mà tươi: Má hồng.
03
[không chú Hán tự]
[kèm 13 dẫn liệu có liên quan]
Đỏ lợt gọi là hồng (đơn nghĩa). [kèm 23 dẫn liệu có liên quan]
04
TĐ Hán – Việt (Đào Duy Anh) Nxb Tràng Thi 1957; tr 390. 红
TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên); tr 462.
05
[không chú Hán tự]
tt. 1. (Vch; kết hợp hạn chế). Đỏ, có màu đỏ. Cờ hồng. Ngọn lửa hồng. 2. Có màu đỏ nhạt và tươi. Má ửng hồng. Tia nắng hồng ban mai. 3. (cũ; kết hợp hạn chế). Có tư tưởng vô sản, tư tưởng cách mạng. Vừa hồng vừa chuyên. [kèm 20 dẫn liệu có liên quan] Màu đỏ tươi (đơn nghĩa)
06 Việt Nam Quấc âm tự vị (Huỳnh Tịnh
Của) 1895; tr 446.
[kèm 20 dẫn liệu có liên quan]
Màu đỏ (đơn nghĩa)
07 Việt Nam Tự điển (Hội Khai Trí Tiến
Đức) 1931; tr 248.
[kèm 14 dẫn liệu có liên quan]
08 Tự điển Việt - Nam - Phổ - Thông (Đào Văn Tập, Sài gòn 1951); tr 285. Gộp tất cả các từ “hồng” thành một từ ĐN với 05 nét nghĩa.
1. Giống cây có quả, thuộc loài cây: Cốm ăn với hồng. 2. Giống cây nhỏ, có hoa thơm: Hoa hồng. 3. Màu đỏ: Phấn hồng. Má hồng. 4. Lớn: Hồng phúc. 5. Chim thuộc loài ngỗng: Chim hồng, chim hộc.
[không chú Hán tự]
[kèm 23 dẫn liệu liên quan tới nghĩa 03].
09
Nhận xét: - Nhầm lẫn với nghĩa của từ 洪 “Hồng” (nghĩa 04). - Nhầm lẫn với nghĩa của từ 鸿 “Hồng” (nghĩa 05). TĐTV (Thanh Nghị, Sài gòn 1951); tr 583. Tách thành 04 từ Hồng ĐÂ. [có chú từ loại; không chú Hán tự]
HồngR1R: dt. (th). Cây có trái, đến khi chín đỏ hồng, trái ăn rất ngon, trái đỏ như quả hồng. Hồng ngâm, thứ hồng phải ngâm nước rồi mới ăn được. HồngR2R: dt. (th). Loại cây có hoa màu sắc rất đẹp và rất thơm, cành cây có nhiều gai: Anh kia sao khéo hoài công, tham hái hoa hồng bị mắc phải gai (cd). HồngR3R: tt. 1. Đỏ lạt, đỏ: Má hồng. Mây hồng. 2. Màu hồng lạt: HồngR4R: dt. (đ). Chim thuộc loại Ngỗng: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời ( Nguyễn Du).
[kèm 25 dẫn liệu liên quan tới hồngR3 R].
10
1. Đỏ. 2. Lớn. 3. Ngỗng trời.
TĐ từ và nghĩa Hán – Việt (Nguyễn Lân; Nxb TĐBách khoa 2002); tr 326. Tách “Hồng” làm 03 ĐV ĐÂ. [không chú Hán tự]
[kèm 17 dẫn liệu liên quan tới “đỏ”].
Từ kết quả thu thập, xử lí nghĩa của hồng trên, chúng tôi thấy rằng:
Cách các bộ TĐ giải thích nghĩa của từ hồng là không thống nhất, trong đó: (i) Đào Văn Tập
[118, tr. 285] khi giải thích nghĩa của từ红 (hồng) đã có sự nhầm lẫn ở nghĩa thứ 04 và 05. Cụ thể: ở
nghĩa 04 đã nhầm sang nghĩa của từ 洪, ở nghĩa 05 đã nhầm sang nghĩa của từ 鸿. Mặt khác, việc
tách thêm các nghĩa 01 và 02 là không hợp lí mà nên xử lí chúng thành hai từ ĐÂ, và như vậy, chỉ
có nghĩa 03 mới là nghĩa chính của từ红 (hồng). (ii) Thanh Nghị [96, tr.583] tách thành 04 ĐV hồng
ĐÂ song chỉ có hồng R3 R mới là đối tượng của LA. (iii) Các tác giả còn lại (trừ Hoàng Phê, Nguyễn
Quang Hồng, Phan Văn Các), về cơ bản đều quy chiếu nghĩa của từ红 (hồng) về 02 sắc độ của đỏ là
đỏ và đỏ nhạt (đỏ tươi). (iv) Nguyễn Quang Hồng [62, tr. 495] tách红 (hồng) thành 06 nghĩa song
theo chúng tôi đó là những ý nghĩa của những ĐV红 (hồng) ĐÂĐT với nhau. (v) Phan Văn Các [06,
tr. 202] thì ngoài việc quy chiếu nghĩa của红 (hồng) về màu đỏ còn cấp thêm cho红 (hồng) một nét
nghĩa mới (chỉ lợi tức). Theo chúng tôi, đây là ý nghĩa chỉ có ở红 (hồng) trong THHĐ, 红 (hồng)
trong TV không có ý nghĩa này. (vi) TĐTV 2006, tr.462 tách nghĩa của红 (hồng) thành 03 nghĩa.
Trong đó: 02 nghĩa đầu quy chiếu nghĩa của từ红 (hồng) về 02 sắc độ là đỏ và đỏ nhạt (đỏ tươi),
ngoài ra còn chú thêm 01 nghĩa nữa là “có tư tưởng cách mạng, tư tưởng vô sản”. Theo chúng tôi,
cách chú giải nghĩa của红 (hồng) trong TĐTV 2006 là cách chú giải hợp lí hơn. Trong LA, chúng
tôi lấy cách chú giải này làm điển mẫu để so sánh với THHĐ.
Thống kê cách thu thập, giải thích nghĩa của từ đỏ trong một số bộ từ điển và tự điển
của ta chúng tôi có được kết quả dưới đây: (Xem bảng 3.10)
Bảng 3.10 Bảng thống kê nghĩa của từ đỏ qua các tự điển, từ điển do người Việt Nam biên
soạn:
Nguồn
SL nghĩa
stt 01 Việt Nam Quấc âm tự vị (Huỳnh Tịnh Của);
Nôm: Màu lửa, thuộc về nam phương. Màu tươi tốt. đỏ lòm, đỏ chói…
1895; tr 303. [kèm 38 dẫn liệu có liên quan].
02 Việt Nam tự điển (Hội Khai Trí Tiến Đức);
Đỏ. Màu hồng: Phẩm đỏ, vải đỏ, mặt trời đỏ. Nghĩa bóng: Nói về lúc vận may, gặp dịp: Vận đỏ dễ làm ăn, đánh bạc gặp canh đỏ.
1931; tr 184. [kèm 07 dẫn liệu có liên quan]
03 Tự điển Việt – Nam – phổ - Thông (Đào Văn
04
Tập); 1951, Sài gòn; tr 200. [kèm 13 dẫn liệu có liên quan] TĐTV (Thanh Nghị); 1951; tr 424 [kèm 17 dẫn liệu có liên quan]
05
TĐTV (Văn Tân chủ biên); 1967; tr 378. [kèm 30 dẫn liệu có liên quan]
06
TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên); tr 327. [kèm 38 dẫn liệu có liên quan]
Đỏ. 1. Màu hồng tươi và xẫm: phẩm đỏ; mặt đỏ 2. Gặp may (nh. Hên sui): Cuộc đỏ đen. Đỏ: tt. Hồng thẫm. Nghĩa bóng: may mắn: vận đỏ, số đỏ. Đỏ: I. R.R1. Có màu như màu máu: Cờ nền đỏ sao vàng. 2. May mắn: Vận đỏ. 3. Cộng sản, có tư tưởng cộng sản: Vừa chuyên vừa đỏ. II. Sáng, sáng lên: Đỏ đèn. Đỏ. tt. 1. Có màu đỏ như màu của son, của máu. Mực đỏ. Khăn quàng đỏ. Thẹn quá, mặt đỏ như gấc. Lửa đỏ rực cả góc trời. 2. (Hay đg). Ở trạng thái hoặc làm cho ở trạng thái cháy (nói về lửa). Lửa đã đỏ lại bỏ thêm rơm (tng). Đỏ lửa. 3. Thuộc về cách mạng vô sản, có tư tưởng vô sản (do coi màu đỏ là biểu tượng của cách mạng vô sản). Công hội đỏ. Đội tự vệ đỏ.
07 Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang Hồng) Nxb
GD 2002; tr 345.
[có chú chữ nôm; kèm 30 dẫn liệu
có liên quan]
4. Có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó; trái với đen. Số đỏ. Gặp vận đỏ. Láy: đo đỏ (nghĩa 1; ý mức độ ít). 1. Màu thắm. 2. Hoa quả chín (ngả màu vàng sẫm). 3. Trẻ nhỏ, đứa bé. 4. Màu tượng trưng cho vận may.
Phân tích cách thu thập, giải thích nghĩa của từ đỏ trong một số bộ từ điển và tự điển của ta ở
trên chúng tôi nhận thấy: tuy việc phân tách nghĩa và giải thích nghĩa của từ đỏ là không hoàn toàn
như nhau song nét chung nhất, dễ nhận thấy nhất là: (i) Đều quy chiếu nghĩa của đỏ vào sắc độ đậm
của đỏ (màu lửa, màu của phẩm đỏ, hồng thẫm, màu của máu, màu của son…). (ii) Đều hướng tới
những ẩn dụ, so sánh về sự may mắn, tốt lành, tích cực hay sự thay đổi theo chiều hướng tốt. (iii) Đỏ
có sự tương liên nhất định với ý nghĩa của hồng song phân biệt nhau ở sắc độ (đỏ có sắc độ mạnh và
cao hơn hồng), ý nghĩa và sự quy chiếu của đỏ trong TV gần với ý nghĩa và sự quy chiếu của 赤 (xích)
trong THHĐ hơn là đối với 红 (hồng). (iv) Rõ ràng là có sự phát triển về nghĩa của đỏ (thuộc về cách
mạng vô sản, có tư tưởng vô sản; có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó…) so với ý nghĩa và sự quy
chiếu ban đầu (đơn thuần là chỉ sắc độ của màu sắc).
Phân tích các kết hợp của hồngR4R (20/32 kết hợp) trong TĐTV 2006 chúng tôi nhận thấy: (i) chỉ có
20/32 kết hợp từ là thuộc hồngR4R. (ii) HồngR4 R luôn là yếu tố chính của các kết hợp đa tiết Hán Việt (đại bộ
phận là song tiết) có cấu tạo theo kiểu chính - phụ của ngữ định danh như: hồng lâu, hồng cầu, hồng nhan,
hồng thập tự, hồng y giáo chủ…(iii) HồngR4 R thường được quy chiếu tới các sắc độ sáng hơn là tối. (iv) Sắc
thái biểu cảm của hồngR4 R thiên về trung tính. (v) HồngR4 R có xu thế thiên về diễn tả ngoại giới hơn là nội
giới. (vi) HồngR4 R cũng có tiềm năng tạo lên những ẩn dụ từ vựng cố định như: vừa hồng vừa chuyên (vừa
có đạo đức cách mạng, vừa có năng lực trong công tác), hồng nhân (chỉ người tri kỉ với mình), hồng trần
(chỉ cuộc đời trần tục nhiều đau khổ), hồng quần (chỉ phụ nữ nói chung)…
Phân tích các kết hợp của đỏ (38 kết hợp) trong TĐTV 2006 chúng tôi nhận thấy: (i) đỏ là yếu
tố chính, thường nằm trong các kết hợp của những ĐV đa tiết Hán Việt có cấu tạo theo kiểu chính -
phụ của ngữ tính từ như: đỏ au, đỏ chóe, đỏ chói…(ii) Các sắc độ mà các kết hợp của đỏ quy chiếu
rất đa dạng, có khi là những sắc độ sáng như: đỏ chót, đỏ hoe, đỏ rực, đỏ ửng, đỏ au, đỏ chóe, đỏ
chói…. Có khi là những sắc độ tối như: đỏ đọc, đỏ hoét, đỏ hỏn, đỏ khè, đỏ kè, đỏ khé, đỏ loét, đỏ
lòm, đỏ lừ, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ nhừ, đỏ ối, đỏ quạch…(iii) Sắc thái biểu cảm mà các kết hợp
của đỏ biểu thị cũng rất phong phú như: đỏ bừng (đỏ lên nhanh, thời gian ngắn), đỏ gay (diện
rộng, thời gian dài), đỏ loét (mức độ đậm, loang lổ không đều), đỏ ối (mức độ đều, rộng
khắp)….(iv) Đỏ có khả năng diễn tả tinh tế cả ngoại giới và thế giới nội tâm. (v) Đỏ cũng có
khả năng tạo nên những ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ tu từ như: công hội đỏ (chỉ công đoàn luôn đấu
tranh vì quyền lợi của công nhân, người lao động, đối lập với công đoàn vàng), máu đỏ da
vàng (chỉ những người có cùng chủng tộc)….
Tuy vậy, trong TV hiện nay, vẫn tồn tại những khu vực chồng lấn trong việc tri nhận màu đỏ
của người Việt. Chẳng hạn: Trong công trình Những cây cỏ và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi
[87] chúng tôi thấy rằng: có khá nhiều vị thuốc, cây thuốc có liên quan tới màu đỏ được người Việt
định danh có tính tương đối (không phân biệt một cách dứt khoát giữa các sắc độ của đỏ nữa).
Chẳng hạn: Quất hồng bì (红皮) = Quất hoàng bì (黄皮); Chu sa (朱砂) = Đan sa (丹砂); Đan sâm
(丹参) = Xích sâm (赤参); Duyên đơn (铅丹) = Hồng đơn (红丹)….
Theo chúng tôi, nguyên nhân đầu tiên có lẽ là do việc sử dụng chung các tên thuốc, vị thuốc
với y học cổ truyền Trung Quốc (có nhiều tên thuốc, vị thuốc được sử dụng cho tới nay đã tới vài
ngàn năm). Nguyên nhân thứ hai là do SVHT luôn phát triển, biến đổi trong suốt quá trình sinh
trưởng và phát triển của nó, dẫn tới “những nét đặc thù” của đối tượng được định danh cũng có sự
biến đổi ít nhiều theo thời gian hay theo một thang độ nào đó nhưng vẫn còn là nó. Và có thể còn do
những nguyên nhân khách quan khác như: do sự di thực các cây thuốc, vị thuốc từ khu vực này sang khu
vực khác; do đặc điểm về thổ nhưỡng, khí hậu… của các vùng miền không giống nhau nên sinh giới ở
những vùng miền khác nhau sẽ có một số đặc điểm khác nhau và sự khác nhau này thể hiện ngay trong
từng họ, loài và thậm chí là ở từng cá thể…. Bởi vậy, việc định danh các đối tượng như vậy chỉ là tương
đối và trên thực tế, người Việt cũng đã chấp nhận điều này.
Trong tiếng Hán, đặc biệt là tiếng Hán cổ cũng có khá nhiều ĐV dùng để phản ánh những sự
vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng”. Khảo sát sơ bộ công trình Cổ Hán ngữ tự điển của Vương
Lực [176 ]; chúng tôi thu thập được không ít các ĐV dùng để phản ánh những sự vật, HT có thuộc
Hà (瑕): 有赤色之玉 chỉ ngọc có sắc đỏ
Hà (霞): 赤色云气 chỉ ráng mây hồng
Hà (鰕): chỉ tôm
Hà (騢): chỉ một giống ngựa có màu pha trộn giữa đỏ và trắng
Hà (驖): chỉ một giống ngựa có màu pha trộn giữa đỏ và đen
Lưu (骝): chỉ một loại ngựa xích thố (có bờm và lông đuôi màu đen) ….
tính “đỏ” hay “hồng” chẳng hạn như:
Trong TĐ THHĐ, hiện cũng còn thu thập, lưu giữ và giải thích khá nhiều những ĐV dùng để
phản ánh những sự vật, HT có màu đỏ, màu hồng và liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng. (Xem
bảng 3.11)
Bảng 3.11 Bảng thống kê những ĐV dùng để phản ánh những SVHT có màu đỏ, màu hồng và
liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng trong THHĐ:
Stt
Từ diễn tả hồng, đỏ
Âm Hán Việt
Nghĩa
TĐ Trang
tấn
chỉ lụa điều, lụa đỏ
716
Phi
chỉ màu đỏ
394
đề
chỉ màu cam
1340
Cám
chỉ màu đen pha màu hồng 446
Trâu/ tưu Huân Noãn
màu bánh mật, ngăm đen màu hồng nhạt màu đỏ
1816 1597 982
Chu/châu
màu đỏ như màu son
1775
Đan/đơn
màu đỏ tươi
263
Khiếm
màu đỏ
1092
đồng
màu đỏ
11368
Giáng Giả
màu đỏ thẫm màu đỏ
678 1726
01 缙 02 绯 03 缇 04 绀 05 緅 06 緟 07 赧 08 朱 09 丹 10 茜 11 彤 12 絳 13 赭
Tuy là vậy nhưng phần lớn các ĐV trên hiện rất ít sử dụng hay chỉ là những hình vị cấu tạo từ
(từ tố) trong các kết hợp như: 朱墨 (chu mặc): màu đỏ và màu đen; 丹枫 (đơn cương): cây bàng; 茜
纱 (khiếm sa): the màu đỏ… trong những ĐV dùng để phản ánh những SVHT có màu đỏ, màu hồng
và liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng có 02 ĐV 红 (hồng) và 赤 (xích) là hai ĐV được sử dụng
nhiều, trong đó: 赤 (xích) được dùng nhiều trong ngôn ngữ viết còn 红 (hồng) xuất hiện trong cả
ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói và là từ điển hình (điển mẫu) cho nhóm từ chỉ màu đỏ, màu hồng và
liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng trong THHĐ. Trong Hán ngữ từ điển, 红 (hồng) và 赤(xích)
được giải thích như sau: (Xem bảng 3.12)
Bảng 3.12 Bảng kê nghĩa của từ 赤 và 红 cùng các kết hợp của chúng trong THHĐ:
Nghĩa của 红 (hồng)
Nghĩa của 赤 (xích) 1. Màu đỏ tươi hơi nhạt, màu son 2. Màu đỏ (chỉ chung) 3. Đỏ (tượng trưng cho cách mạng) 4. Trung thành, son sắt: 赤心…
5. Để trần, trần truồng: 赤子…
6. Không, không có gì cả: 赤贫, 赤身…
1. Đỏ, hồng 2. Chỉ vải đỏ, lụa hồng 3. Chỉ sự thuận lợi, thành công 4. Màu tượng trưng cho cách mạng 5. Chỉ lợi nhuận, lãi, tiền hoa hồng
7. Chỉ vàng ròng: 赤金
[TĐ THHĐ; tr. 613; Kèm 75 kết hợp]
[TĐ THHĐ; tr. 216; Kèm 29 kết hợp] Khảo sát các kết hợp của 红 (hồng) và 赤 (xích), chúng tôi nhận thấy: 红 (hồng) và 赤 (xích)
cũng là hai từ đồng nghĩa (đồng nghĩa không hoàn toàn), các nghĩa hạng của 赤 (xích) được thu
thập trong từ điển nhiều hơn so với 红 (hồng) nhưng tần số sử dụng và khả năng kết hợp để sản sinh
từ vựng mới của 红 (hồng) là mạnh hơn so với 赤 (xích). 红 (hồng) và 赤 (xích) đều có thể kết hợp
với một số ĐV để tạo ra những ẩn dụ tu từ như: ẩn dụ về cách mạng, về sự thành công…. Nhưng 赤
(xích) thường được quy chiếu về những gam màu đậm hơn so với 红 (hồng) và cũng có một số
trường hợp mà sự quy chiếu về thang độ của 红 (hồng) và 赤 (xích) là rất khó phân biệt (có chồng
lấn). Nhìn về tổng quan, 赤 (xích) thiên về chỉ nội giới còn 红 (hồng) thiên về chỉ ngoại giới hơn.
Nhìn về tổng thể, chúng ta thấy rằng: (i) TV và THHĐ đều là những ngôn ngữ có nhiều ĐV
dùng để phản ánh những sự vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng” và SL những ĐV sử dụng chung
trong cả hai ngôn ngữ là khá nhiều, đó là do những nguyên nhân sâu xa từ lịch sử để lại. (ii) Xét về
SL thì THHĐ có nhiều ĐV dùng để phản ánh những SVHT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng” hơn TV.
(iii) Nếu như trong TV, hai từ hồng và đỏ là hai ĐV được sử dụng chính (là điển mẫu) thì trong
THHĐ 红 (hồng) và 赤 (xích) lại là những từ vựng điển hình dùng để phản ánh những sự vật, HT
có thuộc tính “đỏ” hay “hồng”. (iv) Trong hai ĐV hồng và đỏ của TV thì đỏ có xu hướng phát triển
các nghĩa mạnh hơn và có tần số sử dụng cao hơn so với hồng. Trong THHĐ 赤 (xích) tuy có nhiều
nghĩa hơn so với 红 (hồng) song tần số sử dụng của 红 (hồng) lại cao hơn nhiều so với 赤 (xích). (v)
Hồng và đỏ trong TV cũng như 红 (hồng) và 赤 (xích) trong THHĐ đều là những màu sắc được sử
dụng để tạo nên nhiều ẩn dụ tu từ với nhiều sắc thái biểu cảm như: ẩn dụ về cách mạng, về sự may
mắn, tốt đẹp….
3.2.3.4. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ ăn trong TV với từ 吃1trong THHĐ
Là một trong những hành vi quan trọng nhằm duy trì sự sống, phạm trù ăn cũng là một phạm
trù quan trọng trong nhiều ngôn ngữ. Trong TV, có khá nhiều ĐV dùng để diễn tả sự tình ăn với rất
nhiều sắc thái biểu cảm như: chén, măm, ngốn, xơi, đớp, hốc, tọng, xực, dùng…. Bên cạnh đó, trong
lớp từ Hán Việt còn có những ĐV cũng dùng để diễn tả sự tình ăn hay liên can tới việc diễn tả sự
tình ăn như: 食 (thực) trong các kết hợp như: thực túc binh cường, lễ hội ẩm thực, nam thực như hổ
nữ thực như miêu…, 服(phục) trong các kết hợp như: phục thuốc… Trần Ngọc Thêm [129, tr.342,
343] cho rằng: “hiển nhiên, để duy trì sự sống, ăn uống luôn là việc có tầm quan trọng số một. Tuy
nhiên, quan niệm của các dân tộc về việc này lại không giống nhau […] người Việt Nam nông
nghiệp với tính thiết thực thì trái lại, công khai nói to lên rằng ăn quan trọng lắm: có thực mới vực
được đạo (thành ngữ), có năng lượng vật chất thì mới nói đến chuyện tinh thần được […] Người
Việt Nam rất có “tâm hồn ăn uống” […] Trong TV, các từ ghép chỉ những hành động thông thường
hầu hết đều bắt đầu bằng từ tố “ăn” […] Ngay cả khi tính thời gian, người Việt Nam xưa cũng lấy
việc ăn uống và cấy trồng làm đơn vị tính…”.
Trong các tự điển, từ điển của người Việt, ăn là một trong những ĐV có nhiều nghĩa nhất (xem
bảng 3.13). Theo kết quả thống kê chi tiết của chúng tôi, trong TĐTV 2006, ăn là một trong 72 ĐV
có nhiều nghĩa nhất trong 5420 ĐVĐN của TV, SL nghĩa của ăn chỉ đứng sau 02 ĐVĐN có nhiều
nghĩa nhất của TV là: đi (18 nghĩa), đánh (27 nghĩa). Trong những ĐV đồng nghĩa với ăn, chúng tôi
1 của ăn trong TĐTV 2006 làm đối tượng để so sánh, đối chiếu với cấu trúc ngữ nghĩa của “吃P
P ”
coi ăn là điển mẫu trong số những ĐV dùng để diễn tả sự tình ăn trong TV và lấy cấu trúc ngữ nghĩa
trong THHĐ. Tuy nhiên để có được một cái nhìn lịch đại và tổng quát về quá trình phát triển về ngữ
nghĩa của ăn trong TV, góp phần làm sáng tỏ cấu trúc ngữ nghĩa và đặc điểm của đối tượng khảo sát,
chúng tôi thấy rằng cần phải có những số liệu thống kê chi tiết cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng và khả
năng kết hợp của ăn trong các tự điển, từ điển của người Việt. (Xem bảng 3.13)
Bảng 3.13 Bảng thống kê nghĩa của từ ăn qua các tự điển, từ điển do người Việt Nam biên
soạn:
Số lượng nghĩa
stt 01
Nôm: Nhai nuốt, hưởng dùng
[kèm 125 dẫn liệu có liên quan].
02
Nguồn Việt Nam Quấc âm tự vị (Huỳnh Tịnh Của); 1895; tr 09. Việt Nam tự điển (Hội Khai Trí Tiến Đức); 1931; tr 08. [kèm 410 dẫn liệu có liên quan]
03
I. Cắn, gậm, bỏ vào miệng nhai rồi nuốt đi. Ăn cơm, ăn bánh (…) II. Nói chung về sự ăn uống, sự tiêu dùng. Nhà nọ đủ ăn đủ tiêu (…) III. Nói chung cuộc ăn uống trong sự vui mừng hay ngày giỗ tết: Ăn cưới, ăn giỗ (…) IV. Hưởng thụ cái của lợi lộc gì: Ăn lương, ăn bổng … V. Thu nhận một cách không chính đáng: Ăn tiền, ăn đút … VI. Lấy, tìm cách mà lấy làm của mình: Ăn cắp, ăn gian … VII. 1. Vừa vặn bằng nhau, đúng khớp, in nhịp: Đàn ăn nhịp, hai cánh cửa này ăn khớp nhau như in (…) 2. Xứng nhau mà làm cho tôn lên: Nước da ăn phấn ăn đèn (…) VIII. Được hơn trong cuộc đố, trong đám cờ bạc hoặc trong đám cạnh tranh: Ăn cuộc, ăn gà… IX. Ưng thuận, nhận, chịu: Đặt mười đồng có ăn không?; ăn giá… X. Đi kiếm ăn: Vạc đi kiếm ăn (…) XI. 1. Xâm vào, bén vào: sơn ăn mặt (…) 2. Lấn ra: Cỏ ăn lan ra, rễ ăn sâu vào (…) 3. Thấm vào: Cá ăn muối, giấy ăn mực, nước ăn chân (…) 4. Dính vào: Hồ loãng dán không ăn. XII. Mua hàng, tiêu thụ đồ, hàng: Độ này tàu ăn gạo nhiều. Người khách đương ăn tơ nhiều. 1. Cho vào miệng rồi nuốt vào dạ dày (…) 2. Bày cuộc ăn uống nhân một cơ hội nào (…) 3. Kiếm ăn: Cò đi ăn đêm 4. Thâu nạp, thừa nhận: ăn lãi, giấy không ăn mực. 5. Mua: Tàu ăn hàng 6. Nhận của hối lộ: Viên quan ăn bẩn… 7. Vừa, đúng, hợp: Mặt ăn ảnh; da ăn phấn. 8. (Cờ bạc) được, hơn 9. Xâm lấn: Ăn lan ra, ăn sâu vào.
Tự điển Việt - Nam - Phổ - Thông (Đào Văn Tập, Sài gòn 1951); tr 18. [kèm 57 dẫn liệu có liên
04
quan] TĐTV (Thanh Nghị); 1951; tr 30 [kèm 85 dẫn liệu có liên quan]
10. Nói về địa vị, ngôi thứ trong một đoàn thể: ăn lên, ăn trên. 1. Cắn, nhai và nuốt. 2. Dùng với các tiếng khác để chỉ sự ăn uống, tiêu pha trong nhà. 3.Dùng với tiếng khác để chỉ sự hưởng lợi lộc gì: Ăn huê hồng, ăn lương. 4. Dùng với tiếng khác để chỉ sự ăn uống, tiệc tùng, giỗ cúng. 5. Dùng với tiếng khác để chỉ sự thu nhận tiền của không chính đáng: Ăn hối lộ, ăn đút… 6. Dùng với tiếng khác để chỉ sự được, hơn trong một cuộc tranh chấp, cờ bạc: Ăn non, ăn lường… 7. Dùng với tiếng khác để chỉ sự lấy của người làm của mình một cách hèn mọn: Ăn cắp, ăn lận… 8. Dùng với tiếng khác để chỉ sự vừa vặn, thích hợp nhau: Ăn nhịp… 9. Dùng với tiếng khác để chỉ sự ưng, thuận: Ăn giá, ăn lời... 10. Chỉ sự đi tìm thức ăn, tìm sự sống: Thú vật đi ăn đêm; quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa (Nguyễn Du). 11. Tùy thuộc với: Đất này ăn về làng anh. 12. Chỉ sự mua hàng, tiêu thụ: Dạo nầy gạo hút vì có tàu ăn nhiều. 13. a. Chỉ sự mòn: Chất hóa học ăn da.
05
TĐTV (Văn Tân chủ biên); 1967; tr 21. [kèm 157 dẫn liệu có liên quan]
06
b. Lấn: Cỏ ăn lan cả sân. c. Thấm vào: Giấy thấm ăn mực. d. Dính: Hồ dán không ăn. 1. Bỏ vào miệng, nhai và nuốt. (…) 2. Hút thuốc vì thói quen: Ăn thuốc lào. 3. Dự một cuộc ăn uống nhân một dịp gì. 4. Dùng những dụng cụ như bát, đũa, thìa để ăn: Người Châu Âu không quen ăn đũa. 5. Ăn uống tiêu dùng nói chung. 6. Hưởng một lợi lộc gì. 7. Vơ về mình, thu về mình một cách không chính đáng. 8. Hợp với nhau, khớp với nhau. 9. Có tác dụng đến, như thấm vào, dính vào hoặc lan ra, làm cho loét ra (…) 10. Nắm phần thắng trong một cuộc đố, một đám bạc hay một cuộc cạnh tranh (…) 11. Tiêu thụ, lấy hàng, lấy khách để chở đi (…) 12. Tính theo giá tiền, tương đương với: Một cân ta ăn sáu trăm gam. 13. Thuộc vào: Đất này ăn vào làng bên. 14. Thông ra, thông đến (…) 15. Từ ghép trước một động từ để khái quát hóa ý nghĩa của động từ ấy: ăn cướp, ăn mặc. 1. Nhận hưởng. Sinh nhai. a. Nhận hưởng vật phẩm. Hưởng thụ vật phẩm, của cải (…) b. Hành nghề sinh hai (làm ăn, kiếm ăn…) c. Cách sống xử thế (ăn ở, ăn nói…) d. Được phần hơn, đạt hiệu quả. (…) 2. Trong ăn năn.
[có chú chữ Nôm; kèm 35dẫn liệu có liên quan]
07
ý mỉa mai). Ăn đòn. Ăn đạn.
Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang Hồng) Nxb GD 2002; tr 07. TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên); tr 12 [kèm 114 dẫn liệu có liên quan]
1. Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống. Ăn cơm. Thức ăn. Ăn có nhai, nói có nghĩ (tng.). Làm đủ ăn. Cỏ ăn hết màu. 2. Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới. ăn liên hoan. Ăn tết. 3. (Máy móc, phương tiện vận tải) tiếp nhận cái cần thiết cho sự hoạt động. Cho máy ăn dầu mỡ. Xe ăn tốn xăng. Tàu đang ăn hàng (nhận hàng để chuyên chở) ở cảng. 4. (Kết hợp hạn chế). Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng. Ăn thừa tự. Ăn lương tháng. 5. (kng.). Phải nhận lấy, chịu lấy (cái không hay; hàm 6. Giành về mình phần hơn, phần thắng (trong cuộc thi đấu). Ăn con xe. Ăn giải. Ăn cuộc. Ăn ở tinh thần. 7. Hấp thu cho thấm vào, nhiễm vào trong bản thân. Vải ăn màu. Da ăn nắng. Cá không ăn muối, cá ươn (tng.). 8. Gắn, dính chặt vào nhau, khớp với nhau. Hồ dán không ăn. Gạch ăn vôi vữa. Phanh không ăn. 9. (kết hợp hạn chế). Hợp với nhau tạo nên một cái gì hài hòa. Hai màu rất ăn nhau. Người ăn ảnh (chụp ảnh dễ đẹp).
10. Làm tiêu hao, hủy hoại dần dần từng phần. Sương muối ăn bạc trắng cả lá. Sơn ăn mặt. 11. Lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó (nói về khu vực hoặc phạm vi tác động của cái gì). Rễ tre ăn ra tới ruộng. Sông ăn ra biển. Phong trào ăn sâu, lan rộng. 12. (kng.). Là một phần ở ngoài phụ vào; thuộc về. Đám đất này ăn về xã bên. Khoản này ăn vào ngân sách của tỉnh. 13. (ĐV tiền tệ, đo lường) có thể đổi ngang giá. Một dollar ăn mấy đồng Việt Nam?
Trong TĐTV 2006, các nghĩa của ăn được sắp xếp theo một trật tự dẫn xuất (từ nghĩa gốc đến
nghĩa phái sinh), từ những nghĩa thường dùng tới những nghĩa không thường dùng. Quan hệ giữa
các nghĩa của ăn về cơ bản là có thể giải thích được, còn nhận ra được.
Khảo sát các kết hợp có chứa ăn chúng tôi nhận thấy: (i) ăn là yếu tố chính trong 114 kết hợp
đa tiết (từ 02 đến 05 âm tiết). Trong 114 kết hợp này có 15 kết hợp là những ĐVĐN, 99 kết hợp là
những ĐV đơn nghĩa. Các kết hợp này có khi là từ như: ăn học, ăn cướp, ăn mày…, có khi là những
cụm từ cố định như: ăn chắc mặc bền, ăn hương ăn hoa…, (ii) cùng với một số yếu tố khác, ăn
trong TV đã góp phần tạo ra nhiều ẩn dụ từ vựng cố định giàu sức gợi cảm gợi tả như: ăn cháo đái
bát, ăn dầm nằm dề, ăn hại đái nát, ăn không ngồi rồi, ăn không nói có, ăn lông ở lỗ, ăn mày đòi
xôi gấc, ăn mặn khát nước, ăn miếng trả miếng, ăn nên làm ra, ăn no vác nặng, ăn như mỏ khoét,
ăn ốc nói mò, ăn sống nuốt tươi, ăn sung mặc sướng, ăn thật làm giả, ăn to nói lớn, ăn trắng mặc
trơn, ăn trên ngồi trốc, ăn xổi ở thì, ăn đời ở kiếp, ăn xôi nghe kèn, ăn phải đũa (bị ảnh hưởng xấu,
nhiễm thói xấu của kẻ khác), ăn cám (vô tích sự, vô dụng), ăn đất (chết), ăn đong (túng thiếu), ăn
gỏi (đoạt được thắng lợi một cách dễ dàng), ăn hớt (chiếm và hưởng trước thành quả của người
khác), ăn nằm (có sự chung đụng về xác thịt), ăn sương (kiếm ăn một cách không chính đáng), ăn
xổi (muốn đạt kết quả ngay vì nóng vội)…. Đây là những ẩn dụ xuất phát từ đời sống thực tế hàng
ngày, đã đi vào lời ăn tiếng nói của người Việt nên nói ra ai cũng hiểu và cảm nhận được ngay hàm
ý của chúng.
Trong THHĐ có 03 ĐV đơn tiết thường dùng để diễn tả phạm trù ăn là: 吃 (ngật), 食(thực), 用
(dụng). Trong 03 ĐV này thì 吃 (ngật) là điển mẫu, là ĐV thường dùng để diễn tả phạm trù ăn trong
THHĐ. Trong đó: chức năng chủ yếu của 食(thực) là ĐV dùng để cấu tạo nên các ngữ định danh
liên quan tới phạm trù ăn như: 食堂 (thực đường, nhà ăn), 食品 (thực phẩm), 主食 (chủ thực, thức
ăn chính), 面食 (diện thực, chỉ đồ ăn chế biến từ bột mì), 食客 (thực khách, chỉ khách ăn uống
trong nhà hàng), 食谱 (thực phổ, sách dạy nấu ăn), 食油 (thực du, dầu ăn), 食盐 (thực diêm, muối
ăn), 饮食 (ẩm thực, chỉ chuyện ăn uống nói chung)…. Còn chức năng chủ yếu của 吃 (ngật) là để
trực tiếp diễn tả sự tình ăn trong THHĐ như: 吃饭 (ngật phạn, ăn cơm), 吃药 (ngật dược, uống
thuốc), 吃奶 (ngật nãi, uống sữa), 吃素 (ngật tố, ăn chay)…. Còn 用(dụng) cũng có chức năng như
吃 (ngật) song có hàm ý trang trọng lịch sự hơn 吃 (ngật). 用(dụng) có cách dùng tương đương với
xơi, dùng trong TV còn 吃 (ngật) có sắc thái trung hòa giống như ăn trong TV.
1 吃P
P chī [NGẬT] 1. Ăn/uống: 吃饭Ăn cơm. 吃奶Ăn sữa/uống sữa. 吃药Uống thuốc. 2. Ăn ở nơi bán
nào đó/ăn theo tiêu chuẩn nào đó: 吃食堂Ăn ở nhà ăn. 吃大灶Ăn đại táo. 吃大灶Ăn tiểu táo. 3. Sống
nhờ/ăn nhờ: 靠山吃山,靠水吃水Ở ven rừng núi ăn nhờ rừng núi, ở ven sông biển ăn nhờ sông biển. 4.
Thấm/ngấm/hút (nước): 道林纸不吃墨Giấy Đạo Lâm (Dowling) không thấm mực. 5. Ăn sâu/ngập: 这条船
吃水浅Chiếc thuyền này mớn nước nông. 6. Tiêu diệt/xơi/ăn (dùng về quân sự và đánh cờ): 吃敌人一个团
Xơi tái một trung đoàn địch. 拿车吃他的炮Dùng con xe ăn con pháo của anh ấy. 7. Lĩnh hội/nắm chắc: 吃
透文件精神Hiểu thấu tinh thần văn kiện. 他的心思我还吃不准Tâm tư anh ấy tôi còn chưa nắm đúng. 8.
Chịu đựng/gánh chịu: 这根绳子吃不住这么重的分量Sợi dây này chịu không được phân lượng nặng đến
thế. 9. Bị: 吃批评Bị phê bình. 10. Hao phí/tốn. 11. Bị (thường gặp trong văn bạch thoại thời kì đầu): 吃他耻
笑Bị anh ta cười khinh. (TĐTH; tr. 208).
吃 (ngật) trong TĐ THHĐ có 11 nghĩa hạng sau đây:
Khảo sát mối quan hệ giữa các nghĩa hạng của 吃 (ngật) chúng tôi nhận thấy: quan hệ giữa các
nghĩa hạng của 吃 là quan hệ dẫn xuất (từ nghĩa gốc tới nghĩa phái sinh), từ nghĩa thường dùng đến
nghĩa không thường dùng. Thống kê các kết hợp có chứa 吃 trong TĐTHHĐ 2005 chúng tôi thu
được số liệu sau: 吃 nằm trong 80 kết hợp đa tiết (từ 02 đến 06 âm tiết) trong đó có 15 kết hợp ĐN,
65 kết hợp đơn nghĩa, trong 80 kết hợp này thì những kết hợp SÂT chiếm đại bộ phận và cùng với
một số các yếu tố khác, 吃 (ngật) cũng tạo nên rất nhiều ẩn dụ từ vựng cố định: (Xem bảng 3.14)
1 Bảng 3.14 Bảng thống kê những ĐV ẩn dụ từ vựng cố định có chứa 吃P
Ptrong THHĐ:
Stt ẩn dụ từ vựng chứa
Quy chiếu của ẩn dụ
TĐ Trang
Âm Hán Việt
吃
179
Ngật thố
01 吃醋
Ghen tuông/đánh ghen/ghen (trong quan hệ nam nữ)
179
Ngật đậu hủ Chòng ghẹo đàn bà con
02 吃豆腐
179
gái/ đi viếng đám ma Ăn một mình/ăn mảnh
03 吃独食
209
04 吃粉笔灰
180
Ngật độc thực Ngật phấn bút khôi Ngật lí ba
Ăn bụi phấn (chỉ nghề dạy học, hàm ý khôi hài) Ăn táo, rào sung
05 吃里爬外
210
06 吃抢子
180
ngoại Ngật thương tử Ngật tố
07 吃素
180
08 吃闲饭
180
09 吃现成饭
180
Chết súng/chết đạn (lời rủa) Ăn chay/ăn nhạt (không làm chuyện sát thương) Lười biếng/ngồi ăn Ngật nhàn không phạn Ăn sẵn/ngồi mát ăn bát Ngật hiện thành phạn vàng Ngật áp đản Ăn trứng vịt (ví với thi
10 吃鸭蛋
180
11 吃哑巴亏
Ngật á ba khuy
180
12 吃一堑长一智
180/181
Ngật nhất khiếm, trưởng nhất trí Ngật trọng
13 吃重
179
14 吃白饭
Ngật bạch phạn
209
15 吃回扣
Ngật hồi khấu
cử/thi đấu bị điểm không) (bị thiệt thòi mà không nói ra được): ngậm bồ hòn làm ngọt/ngậm đắng nuốt cay (sự trưởng thành): có dại mới nên khôn/đi một ngày đàng học một sàng khôn… (phải gánh vác những việc khó nhọc hay trách nhiệm nặng nề): nặng nề/khó nhọc/gay go/vất vả Ăn không của người khác mà không làm gì đền đáp Hưởng phần trăm do mua sắm dùm hoặc do dẫn khách tới mua hàng
So sánh cấu trúc ngữ nghĩa của từ ăn trong TV với cấu trúc ngữ nghĩa của 吃 (ngật) trong
THHĐ chúng tôi nhận thấy: tuy giữa chúng có một số điểm giống nhau (các nghĩa 01, 06, 07 của từ
ăn trong TV giống với các nghĩa hạng 01, 04, 06 của từ 吃 (ngật) trong THHĐ) song điểm khác biệt
giữa chúng vẫn là cơ bản (các nghĩa và các nghĩa hạng còn lại trong hai ngôn ngữ), cụ thể là: (i) Đối
tượng mà động từ ăn của TV hướng tới là phong phú, đa dạng hơn rất nhiều đối tượng của động từ
吃 trong THHĐ. Trong TV, chúng có thể là thực phẩm để nuôi sống con người như cơm, thức ăn,
rau…, mà cũng có thể là: cưới, liên hoan, thừa tự, sinh nhật, tân gia…, chúng có thể là nguyên,
nhiên liệu hay hàng hóa như: xăng, dầu mỡ, hàng, đất, than…, có khi chúng là những lợi ích vật
chất như: hoa hồng, chiết khấu, lương, tiền bo, hối lộ, lại quả… và cũng có thể là những đối tượng
gây bất lợi như: đòn, đạn, chửi, bả… hay những đối tượng trừu tượng thiên về đời sống tinh thần
như: giải, cuộc, may…. (ii) Chủ thể của động từ ăn trong TV cũng đa dạng hơn trong tiếng Hán, nó
có thể là người, động vật, thực vật hay đồ vật, máy móc, công cụ do con người chế tạo ra, nó có thể
là những đối tượng thuộc về thế giới tự nhiên như: sông, biển, núi, đất, nước, sương muối.… (iii)
Sắc thái biểu cảm của từ ăn trong TV cũng phong phú, đa dạng hơn 吃 (ngật) trong THHĐ. Nó có
thể là trung tính trong các trường hợp như: ăn cơm, ăn liên hoan, ăn tết… Nó có thể là tiêu cực
trong các trường hợp như: ăn đòn, ăn đạn, ăn bẩn… Nó có thể là tích cực trong các trường hợp như:
ăn lộc, ăn giải, ăn cuộc….
Chính vì vậy, để chuyển tải hết chức năng ngữ nghĩa của từ ăn trong TV sang tiếng Hán người
ta bắt buộc phải sử dụng rất nhiều vị từ khác nhau như: 过(qua), 加 (gia), 装(trang), 享(hưởng), 受
(thụ), 拿(nã), 吞 (thôn), 换(hoán), 属于 (thuộc vu), 添 (thiêm)…, thậm chí còn phải dùng tới
những kiểu cấu trúc có cấu tạo phức tạp hơn từ bao gồm một vị từ và một động từ đứng sau làm bổ
ngữ chỉ kết quả như: 相上 (tương thượng), 相合 (tương hợp), 通到 (thông đáo)… thậm chí là cả
các ĐV bậc trên từ như câu. Chẳng hạn: để truyền tải một nội dung thông báo là xe này ăn tốn xăng
từ TV sang tiếng Hán người ta sẽ không thể dùng động từ吃 (ngật) để diễn tả mà chắc chắn sẽ dùng
một vị từ như 耗 (hao) để thay thế hay dùng một ngữ vị từ như: 不好用 (bất hảo dụng, xài không
ngon) hay耗油量多 (hao du lượng đa, tiêu tốn rất nhiều xăng)… thì mới có thể chuyển tải hết chức
năng ngữ nghĩa của từ ăn trong phát ngôn này. (iv) Khác với THHĐ, trong TV, dường như có sự
đối lập hay phân biệt một cách khá rõ ràng giữa việc ăn những thực phẩm có đặc tính đặc với những
* kẹo, ăn kem, uống nước, uống sữa, uống thuốc… mà sẽ không nói hay ít nói là: uống súpP P, ăn canh,
* * * P như người Hán. Nói khác đi thì trong TV, cái đặc thù của thực phẩm P, uống cháoP P, ăn thuốcP ăn sữaP
thực phẩm có đặc tính lỏng. Chẳng hạn, người Việt sẽ nói: ăn cơm, ăn súp, ăn cháo, ăn bánh, ăn
(± đặc/lỏng) dùng để ăn sẽ quy định việc dùng động từ ăn hay uống. Nếu đặc, sẽ có xu hướng thiên
về dùng ăn, nếu lỏng sẽ có thiên hướng dùng uống. Nếu thực phẩm dùng để ăn có đặc điểm pha trộn
giữa đặc và lỏng thì xu thế lựa chọn này vẫn là phổ biến, chẳng hạn: người Việt sẽ nói: khôn ăn cái,
dại uống/húp nước hay: không ăn cái thì uống/húp nước chứ không nói là: khôn uống cái dại ăn
nước hoặc: không uống/húp cái thì ăn nước… nhưng nếu với động từ dùng thì đều được. Cũng bởi
chính vì có sự phân biệt dứt khoát và tinh tế này mà TĐTV 2006; tr 1087 đã định nghĩa động từ
uống rất đơn giản và ngắn gọn như sau:
Uống đg. Đưa chất lỏng vào miệng rồi nuốt. Uống bia. Uống nước nhớ nguồn (tng). Nghe như
uống từng lời.
Ngay cả đối với những trường hợp lưỡng khả như: ăn canh, ăn cháo… nếu xét về bản chất
cũng chỉ thường dùng khi nhằm nhận xét, đánh giá bản chất nói chung như: ăn canh cả cặn, ăn
cháo đái bát.… Nói khác đi thì chúng chỉ nằm trong hệ thống của những nhận xét, đánh giá kiểu
như: ăn chó cả lông, ăn hồng cả hạt; ăn tục nói phét, ăn trên ngồi trốc… mà thôi.
3.3. TIỂU KẾT
Qua thống kê, khảo sát và so sánh các ĐVĐN trong TĐTV 2006 và TĐTHHĐ 2005 chúng ta
có thể thấy rằng: Các ĐVĐN trong TV và THHĐ vừa có những điểm tương đồng và có những điểm
dị biệt. Những điểm tương đồng và dị biệt ấy có thể được khái quát lại như sau:
(1) Những điểm tương đồng
Trong TV và THHĐ đều tồn tại một SL đáng kể các ĐVĐN (từ ĐN, ngữ ĐN) song trung tâm
vẫn là từ ĐN.
Các ĐVĐN trong TV và THHĐ đều có chung một qui luật là: những ĐV ĐN có cấu trúc ngắn,
thường dùng và là thực từ bao giờ cũng có DLN cao hơn các ĐV có cấu trúc phức tạp và không
thường dùng. Đại bộ phận các ĐVĐN là thuộc về thực từ, chiếm SL nhiều nhất là các từ loại dt, đg,
tt…
Căn cứ vào cấu trúc ngữ nghĩa, tần số sử dụng của các ĐVĐN, cấu tạo của chúng cũng như
căn cứ vào tầng bậc, sự bao hàm hoàn toàn hay không hoàn toàn các nét nghĩa trong các nghĩa của
từ mà các ĐVĐN trong hai ngôn ngữ đều có thể được phân loại thành: (i) HT ĐNBV, HT ĐNBN,
HT ĐNBT. (ii) HTĐN thường gặp và ít gặp. (iii) HT hình vị ĐN, từ ĐN và ngữ ĐN. (iv) HT ĐNBN
(hoàn toàn, không hoàn toàn), (v) HT từ đơn tiết ĐN, HT từ đa tiết ĐN.
(2) Những điểm dị biệt
Trong THHĐ, các ĐVĐN có cấu trúc phức tạp và có DLN cao có SL nhiều hơn hẳn TV.
Trong THHĐ, bên cạnh những HT phổ biến như: từ ĐN (từ đơn, từ ghép), ngữ ĐN còn có cả
một SL đáng kể hình vị cấu tạo từ ĐN. Trong TV, rất hiếm gặp HT hình vị cấu tạo từ ĐN và nếu có
thì DLN của chúng cũng thường chỉ là hai hoặc ba nghĩa mà thôi.
Cấu trúc ngữ nghĩa của một ĐVĐN trong tiếng Hán có xu thế ổn định hơn, khó phân rã hơn
cấu trúc của các ĐVĐN TV nhờ sự ràng buộc của các yếu tố hình - âm - nghĩa trong 01 kí hiệu khối
vuông.
Trong 02 ngôn ngữ Việt – Hán, hiện tồn tại đáng kể một lớp từ ĐN dùng chung như: hoa, hồng,
xích, ngật… song quá trình phát triển ngữ nghĩa của chúng trong hai ngôn ngữ là không hoàn toàn
như nhau.
Chương 4 : TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
4.1. VỀ CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN
Như trong các mục 1.4 và 1.5 đã thảo luận, các ĐVĐÂ và ĐN cũng chính là các ĐV có đặc
điểm vừa ĐÂ vừa ĐN. Chúng là những ĐV giao thoa giữa HT ĐÂ và HTĐN.
Trong TĐTV 2006, hiện thu thập khá nhiều những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN. Nếu phân loại các
ĐVĐÂ của tiếng Việt thành hai khu vực: ĐÂKG và ĐÂCG ngữ nghĩa thì chỉ xét trong khu vực
ĐÂCG đã có tới gần 600 loạt (594 loạt ĐÂ) (bao gồm cả đơn tiết lẫn đa tiết) với SL hơn ngàn ĐV
(1264 ĐV) liên quan tới HT này. Số liệu này đã nói rõ tỉ trọng đáng kể của những ĐV vừa ĐÂ vừa
ĐN trong tổng thể từ ĐÂTV.
4.2. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG TIẾNG VIỆT
Trong TV, các ĐVĐÂ và ĐN bao gồm hai loại, phân bố trong hai khu vực là:
(i) Các ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên (ĐÂKG).
(ii) Các ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa.
Trong chương 4 này, LA ưu tiên cho việc tìm hiểu những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực
ĐÂCG của TV vì đây là những ĐVĐÂ và ĐN thể hiện rõ được một số đặc trưng về loại hình của
TV. Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG cũng được LA tiến hành khảo sát, miêu tả
song không phải là đối tượng chính của LA.
Dưới đây là kết quả thống kê, khảo sát và mô tả đặc điểm của những ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực
ĐÂ ngẫu nhiên và những ĐV ĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa của TV.
4.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐỒNG ÂM KHÁC GỐC NGỮ NGHĨA
4.3.1. Về nguồn gốc
Kết quả thống kê, khảo sát cho thấy: đây là những ĐVĐÂ ngẫu nhiên với nhau (khác gốc ngữ
nghĩa), do có âm đọc ngẫu nhiên giống nhau nên được xếp chung vào cùng một loạt ĐÂ. Các loạt
ĐÂ này tạo thành các lớp ĐÂ trong từ điển. Các ĐV trong các loạt ĐÂ này đại bộ phận thuộc về
các lớp từ thuần Việt, Hán Việt, Ấn Âu. Dưới đây là các dạng biểu hiện của những loạt ĐÂ này:
(1) Toàn bộ những đơn vị đồng âm trong loạt đều là từ Hán Việt
Thí dụ 1: Loạt ĐÂ có âm đọc là “bản vị” và “bất tử” dưới đây:
Bản vịR1 R d. 1. Trọng lượng kim loại quí dùng làm đơn vị tiền tệ cơ sở của một nước. 2. Kiểu
chế độ tiền tệ. Bản vị bạc (lấy bạc làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Bản vị vàng.
Bản vị R2 R t. Chỉ biết chú ý và bênh vực lợi ích của bộ phận mình mà không quan tâm đến lợi ích
của bộ phận khác. Tư tưởng bản vị. (TĐTV. tr 31).
Thí dụ: Bất tửR1 R t. 1. (tr tr.). Không bao giờ chết, còn sống mãi trong trí nhớ, tình cảm của người
đời. Những người anh hùng đã trở thành bất tử. 2. (thgt.). Bạt mạng. Tứ bất tử. Ăn nói bất tử.
Bất tửR2 R p. (Ph.). Bất thình lình. Ngã lăn ra chết bất tử. (TĐTV. tr 52).
(2) Toàn bộ những đơn vị đồng âm trong loạt đều là từ thuần Việt
Thí dụ 2: Loạt ĐÂ có âm đọc là “bánh” và “ang” dưới đây:
BánhR1 R d. 1. Món ăn chín có hình khối nhất định chế biến bằng bột thường có thêm chất ngọt,
mặn, béo. Gói bánh. Nhân bánh. 2. (thường dùng phụ trước d.). Từ dùng để chỉ ĐV có hình khối bề
ngoài giống như chiếc bánh. Bánh xà phòng. Bánh pháo. Đóng thành bánh.
BánhR2R d. (thường nói bánh xe). Bộ phận của xe máy, có dạng đĩa tròn hoặc vành lắp nan hoa, quay
quanh một trục để thực hiện một chuyển động hoặc để truyền chuyển động. Xe ba bánh. Không thể quay
ngược bánh xe lịch sử. (TĐTV. tr 34).
AngR1R d. 1. Đồ đựng nước bằng đất nung, thành hơi phình, miệng rộng. Ang sành. Ang đựng nước. 2. Đồ
đựng bằng đồng, thấp, thành hơi phình, miệng rộng.
AngR2 R d. Dụng cụ đong lường bằng gỗ hoặc đan bằng tre, hình hộp, dung tích khoảng bảy tám
lít, dùng ở một số địa phương để đong chất hạt rời. Một ang gạo. (TĐTV. tr 06)
Tuy vậy, trong TV vẫn có một SL lớn những loạt ĐÂ chứa những ĐV khác nhau về nguồn
gốc. Chẳng hạn như:
(3) Là những ĐV Hán Việt đồng âm với những ĐV thuần Việt
Thí dụ 3: BiểuR1R (表) d. 1. Bảng kê số liệu có đối chiếu. Biểu thuế. 2. (chm). Cn. Biểu thống kê. Bảng
thống kê làm theo mẫu quy định trước. Lập biểu. Lên biểu.
BiểuR2 R (表) d. Bài văn tâu lên vua, trình bày ý kiến về sự việc quan trọng. Biểu trần tình. Biểu
tạ ơn.
BiểuR3R đg. Dán tranh lên giấy mỏng để giữ cho mặt tranh phẳng và hình vẽ nổi rõ lên.
BiểuR4 R (Ph.). x. bảo. (TĐTV. tr 66).
Trong loạt ĐÂ có chung âm đọc là “biểu” trên đây, những ĐV như biểuR1,2 Rlà những ĐVĐÂ có
nguồn gốc Hán Việt còn những ĐV như biểuR3,4 Rlà những ĐV ĐÂ thuần Việt.
(4) Là những ĐV thuần Việt đồng âm với những ĐV gốc Ấn Âu
Thí dụ 4: các loạt ĐÂ có chung âm đọc là “ba”, “bít” và “bếp” dưới đây:
BaR1 R d. Cha (chỉ dùng để xưng gọi). Ba má tôi.
BaR2 R (gốc Ấn âu ) x. bar.
BaR3 R d. 1. Số tiếp theo số hai trong dãy số tự nhiên. Một trăm lẻ ba. Một vạn ba (kng.; ba nghìn).
Một mét ba (kng.; ba tấc). Hạng ba. Công nhân làm ca ba. 2. Từ chỉ số lượng không xác định,
nhưng là ít, không đáng kể. Ăn ba miếng lót dạ. Mới ba tuổi đầu. 3. Từ chỉ số lượng không xác
định, nhưng không phải một vài mà là nhiều. Người ba đấng, của ba loài (có những loại khác nhau).
Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại, nên hòn núi cao (cd.). (TĐTV. tr 21).
BítR1 R (Tiếng Anh Binary Digit, “con số nhị phân”, viết tắt). d. đơn vị thông tin nhỏ nhất, được
lưu giữ trong bộ nhớ của máy tính, tương đương với sự lựa chọn giữa một trong hai giá trị (thường
được kí hiệu bằng 0 và 1); một chuỗi 8 bit làm thành một byte, đơn vị thông tin cơ bản của máy tính.
BítR2 R đg. 1. Làm cho chỗ hở hoặc lối thông với bên ngoài trở thành kín đi, bị tắc đi. Nhét giấy
bít khe hở. Bít miệng hang. Cây đổ làm bít lối đi. 2. (id.). Như bịt (ng. 2). (TĐTV. tr 70).
BếpR1 R d. 1. Dụng cụ để đun nấu. Bếp lò. Bếp điện. Nhóm bếp. 2. Gian nhà làm nơi đặt bếp để
nấu ăn. 3. Người đàn ông đi ở hoặc làm thuê chuyên việc nấu ăn thời trước. Làm bồi, làm bếp. Đầu
bếp. 4. (cũ). Đơn vị gia đình riêng lẻ, ăn cùng một bếp; hộ. Nhà này có hai bếp.
BếpR2 R d. 1. (id.). Lính trong quân đội thời phong kiến (hàm ý coi trọng). 2. Binh nhất trong
quân đội thời thực dân Pháp. (TĐTV. tr 59).
Một điểm đáng lưu ý là, những loạt ĐÂ chứa những ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂKG là
những loạt ĐÂ có chứa SL ĐVĐÂ đông đảo nhất của TV. Trong những trường hợp đó, các ĐV trong
loạt thường là những ĐV hỗn hợp về nguồn gốc.
Thí dụ 5: Loạt ĐÂ có âm đọc là ban dưới đây:
BanR1 Rd. Cây nhỡ, lá hình móng bò, hoa màu trắng.
BanR2 R (斑) d. Nốt đỏ bất thường nổi thành từng mảng trên da, thường thấy khi mắc một số bệnh.
Sốt phát ban.
BanR3 R d. (Ph.) Bóng (đồ chơi thể thao).
BanR4 R (班) d. 1. Hàng quan lại trong triều đình phong kiến, chia theo văn, võ (hoặc tả, hữu) và
phân theo hạn bậc. Hai ban văn võ. 2. Tổ chức gồm một tập thể người được lập ra để cùng làm một
công việc. Ban văn nghệ. Ban bầu cử. Ban thư kí của hội nghị. Ban quản trị. 3. (kết hợp hạn chế).
Phiên làm việc để bảo đảm công tác liên tục. Nhận ban. Giao ban.
BanR5 R (般) d. (cũ). Môn (võ nghệ).
BanR6 R d. (dùng trong một số tổ hợp). Khoảng thời gian không xác định rõ, nhưng tương đối
ngắn (thường trong phạm vi một phần nào đó của ngày). Ban trưa. Ban chiều. Ban đêm. Ban nãy.
BanR7 R đg. (ph.) San cho bằng. Ban mô đất. Ban bờ.
BanR8 Rđg. (kng.) Pan.
BanR9 R (颁) đg. 1. (cũ; trtr.). Cho, cấp cho người dưới. Ban lộc. Ban phúc. 2. (cũ). Truyền cho
mọi người biết. Lệnh trên ban xuống. (TĐTV. tr 28).
Trong loạt ĐÂ có âm đọc là “ban” trên đây, các ĐVĐÂ trong loạt như: banR2 R (斑), banR4 R (班),
banR5 R (般), banR9 R (颁) là những ĐVĐÂ Hán Việt. Những ĐVĐÂ trong loạt như: ban R1 R, banR6 R, banR7 R là
những ĐVĐÂ thuần Việt. Còn banR3 R, banR8 Rlại là những ĐVĐÂ có nguồn gốc Ấn Âu.
4.3.2. Về dung lượng nghĩa
Những ĐV ĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên nhìn chung là những ĐV có DLN thấp.
Đại bộ phận là những ĐV có 2 và 3 nghĩa. ĐV có nhiều nghĩa nhất là 12 nghĩa và chỉ có duy nhất
một ĐV là lạiR2 R(TĐTV. tr 537)
4.3.3. Về cấu tạo
Những ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên có cấu tạo tối đa là 04 âm tiết như: cọc cà
cọc cạchR1,2 R. Trong đó: những ĐV có cấu tạo 01 âm tiết như: bêR2 R, ảiR1 R… có SL nhiều nhất, kế tiếp là
những ĐV có cấu tạo 02 âm tiết như: bà mụR2 R, bản vịR1 R, bẻ baiR2 R, bo boR4 R…. Kết quả thống kê cho thấy:
về SL, những ĐVĐÂ và ĐN có cấu tạo song tiết trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên có SL ít hơn hẳn
những ĐVĐÂ và ĐN có cấu tạo song tiết trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa.
4.3.4. Về quan hệ ngữ nghĩa
4.3.4.1. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong loạt đồng âm
Qua khảo sát ngữ liệu của TĐTV 2006 chúng tôi thấy rằng: những ĐVĐÂ và ĐN trong một
loạt ĐÂ ngẫu nhiên không hề có mối quan hệ hay liên hệ gì về nghĩa với nhau.
Thí dụ 6: Loạt ĐÂ có âm đọc là bết dưới đây:
BếtR1 R đg. Dính hành lớp, dính sát. Quần áo ướt dính bết vào người.
BếtR2 R t. (Ph.; kng.) 1. Mệt quá sức. Trâu cày đã bết. 2. Kém, tồi. Nhà máy này bết lắm. (TĐTV.
tr 59).
4.3.4.2. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một đơn vị ĐÂ&ĐN
Kết quả thống kê, khảo sát của chúng tôi cũng cho thấy, mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa
trong một ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên thuộc về một trong ba kiểu dưới đây:
(1) Chỉ có mối quan hệ phái sinh về ngữ nghĩa
Thí dụ 7: ÁcR1 R d. 1. (Ph.). Quạ. Ác tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa (tng.). Gửi trứng cho ác. 2.
Miếng gỗ đẽo hình con quạ để mắc dây go trong khung cửi. 3. (cũ; vch.). Từ dùng để chỉ mặt trời.
Thỏ lặn, ác tà.
Ác R2 R t. 1. (Người hoặc việc) gây hoặc thích gây đau khổ, tai hoạ cho người khác. Kẻ ác. Làm
điều ác. Đối xử ác. 2. Có tác dụng gây nhiều tai họa. Năm nay rét ác hơn mọi năm. Trận đánh ác. 3.
(kng.; thường dùng phụ sau đg.). (Làm việc gì) ở mức độ cao khác thường, gây ấn tượng mạnh.
Dạo này cô ta diện ác lắm. (TĐTV. tr 02)
Thí dụ 8: BôngR1 R d. 1. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, Lá hình chân vịt, hoa màu vàng, quả già chứa
xơ trắng dùng để kéo thành sợi vải. Ruộng bông. 2. Chất sợi lấy từ quả của bông hoặc một số cây
khác. Cung bông. Bông gạo. Chăn bông. Áo Bông. 3. (dùng trong tên gọi một số sản phẩm). Chất
tơi xốp như bông. Ruốc bông. (TĐTV. tr 83).
Trong các thí dụ trên, trật tự các ý nghĩa là không thể đảo lộn. Nếu cố tình đảo lộn sẽ dẫn tới
việc phá vỡ cấu trúc ngữ nghĩa vốn rất chặt chẽ và logic của chúng. Đây chính là những ĐV có cấu
trúc ngữ nghĩa theo kiểu phái sinh.
(2) Chỉ có mối quan hệ song song về ngữ nghĩa
Thí dụ 9: Bà mụR3R d. 1. Người đàn bà đỡ đẻ ở nông thôn ngày trước. 2. Nữ thần nặn ra hình đứa trẻ và chăm
nom, che chở cho trẻ, theo tín ngưỡng dân gian. (TĐTV. tr 22).
Thí dụ 10: BớtR2 R đg. 1. Làm cho hoặc trở lên ít đi một phần về số lượng, mức độ. Giảm bớt chi
phí. Thêm bạn bớt thù. Chặt cho ngắn bớt. 2. (kng.). Lấy ra một phần dùng vào việc khác. Bớt lại
một tí để dành. 3. (kng.). Nhường hoặc bán lại một phần. Bớt cho ít gạch để xây giếng. (TĐTV. tr
87).
Trong 2 ví dụ trên, các ý nghĩa của bà mụR3 R và bớtR2 Rhoàn toàn có thể hoán đổi vị trí cho nhau
mà không hề ảnh hưởng gì tới cấu trúc ngữ nghĩa của từ. Đây chính là những ĐV có cấu trúc ngữ
nghĩa theo kiểu song song.
(3) Vừa có mối quan hệ phái sinh lại vừa có mối quan hệ song song về ngữ nghĩa
Thí dụ 11: BốR1 R d. 1. (kng., hoặc ph.). Cha (có thể dùng để xưng gọi). Con giống bố. Bố chồng.
Con lại đây với bố! 2. (thường dùng phụ sau d.). Con vật đực thuộc thế hệ trước, trong quan hệ với
những con vật thuộc thế hệ sau và được trực tiếp sinh ra. Lựa chọn cá bố, cá mẹ. 3. (kng.). Thường
dùng để gọi nhười lớn tuổi, đáng mặt cha (tỏ ý thân mật hoặc vui đùa). Nhà bố ở đâu? Bố già. 4.
(thgt.). Từ dùng để gọi người đàn ông hàng bạn bè hoặc trẻ em trai (hàm ý đùa nghịch hoặc không
bằng lòng, trách mắng). Thôi đi các bố, đừng nghịch nữa! 5. (kng.; dùng phụ sau d., trong một số tổ
hợp). Cỡ lớn, to (thường nói về chai lọ). Chai bố. 6. (thgt.; dùng sau đg., kết hợp hạn chế). Từ dùng
trong tiếng rủa, biểu thị ý hơi bực mình. Mất bố cái đồng hồ rồi. (TĐTV. tr 78).
Trong ví dụ trên thì các nghĩa thứ nhất, thứ hai và thứ ba là các nghĩa có quan hệ phái sinh
(không thể đảo lộn trật tự các nghĩa này) còn các nghĩa thứ tư, thứ năm và thứ sáu là những nghĩa có
quan hệ song song với nhau (có thể hoán đổi trật tự các nghĩa cho nhau mà không ảnh hưởng gì tới
cấu trúc ngữ nghĩa của từ). Kiểu cấu trúc ngữ nghĩa này là kiểu cấu trúc ngữ nghĩa hỗn hợp (tức là
vừa có mối quan hệ phái sinh lại vừa có mối quan hệ song song về ngữ nghĩa).
Thí dụ 12: BầuR1R d. 1. Cây leo bằng tua cuốn, lá mềm rộng và có lông mịn, quả tròn, dài hay thắt eo ở
giữa, dùng làm thức ăn. Canh bầu. Bầu ơi, hương lấy bí cùng… (cd.). 2. Đồ đựng làm bằng vỏ quả bầu tròn
và to đã nạo ruột và phơi khô; đồ đựng hoặc nói chung vật giống hình quả bầu. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
(tng.). Bầu rượu. Bầu đèn. 3. (chm.). Phần phình to ở phía dưới của nhuỵ hoa, bên trong chứa noãn. 4. Khối
đất bọc quanh rễ khi bứng cây lên để đem đi trồng nơi khác. Trồng cây bằng cách đánh bầu. 5. (kng.; kết
hợp hạn chế). Thai. Có bầu. Mang bầu. 6. (dùng trước d, trong một số tổ hợp). Từ dùng để chỉ một lượng
nhiều, nhưng không xác định, những tình cảm, ý nghĩ, tưởng tượng như chứa đầy trong tim, trong lòng. Dốc
bầu tâm sự (kể hết nỗi lòng). Bầu nhiệt huyết. (TĐTV. tr 52).
Trong ví dụ trên thì các nghĩa thứ nhất và thứ hai là các nghĩa có quan hệ phái sinh (không thể
đảo lộn trật tự các nghĩa) còn các nghĩa thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu là những nghĩa có quan
hệ song song với nhau (có thể thay đổi trật tự các nghĩa). Đây cũng là một ĐV có kiểu cấu trúc ngữ
nghĩa hỗn hợp.
Qua việc thống kê, khảo sát những ĐV này chúng tôi nhận thấy:
(i) Trong ba kiểu quan hệ ngữ nghĩa trên đây thì kiểu (3) là kiểu có SL ĐV ít hơn kiểu (1) và
kiểu (2).
(ii) Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên của
TV có nhiều nét tương đồng với những ĐVĐN thường gặp của TV.
4.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐV ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐÂCG
4.4.1. Về số lượng
Trong TĐTV 2006 hiện thu thập và xử lí một SL đáng kể những ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực
ĐÂCG ngữ nghĩa. (Xem bảng 4.1)
Bảng 4.1 Bảng Tkê các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG của TV.
Các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong TĐTV 2006
ĐÂ đơn thuần
ĐÂ – ĐN
ĐÂ - ĐN
(không ĐN)
không hoàn toàn
hoàn toàn
886 loạt (1772 đv)
479 loạt (1029 đv)
115 loạt (235 đv)
1480 loạt (3036 đv)
4.4.2. Về cấu tạo
Trước hết, phải thấy rõ rằng: những ĐV ĐÂCG nói chung, những ĐV ĐÂvà ĐN cùng gốc ngữ
nghĩa nói riêng vốn là những ĐV được sản sinh bằng PTCL. Sự chuyển loại của những ĐV kiểu
này có khi diễn ra trong nội bộ một từ loại (danh từ, động từ, tính từ...), có khi diễn ra thành nhiều
từ loại mà nhiều nhất là 02 từ loại với các kiểu mô hình thường gặp như: danh – động, danh – tính,
động – tính.... Những ĐV chuyển hóa thành 03 từ loại khác nhau trở lên kiểu (danh – động – tính...)
rất hiếm gặp. Nhiều nhất là chuyển hóa thành 04 từ loại. Chẳng hạn như loạt ĐÂ có âm đọc là
cứ dưới đây:
không có chủ ngữ). Dựa vào, lấy đó làm điều kiện tất yếu cho sự việc gì. Chẳng cứ có kiểm tra mới làm cẩn
thận. Cứ đà này thì công việc sẽ hoàn thành đúng thời hạn. Cứ đúng 7 giờ là đóng cửa. Cứ gì khó dễ, việc
cần là làm.
Thí dụ 13: Cứ I đg. 1. Dựa theo để hành động hoặc lập luận. Cứ phép công mà làm. 2. (thường dùng
II d. 1. (cũ ; id.). Khu vực dùng làm chỗ dựa để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh. Chọn nơi làm cứ. 2.
(kng.). Căn cứ địa cách mạng ở vùng nông thôn hoặc rừng núi. Tạm rút về cứ.
III p. Từ biểu thị ý khẳng định về hoạt động, trạng thái nhất định như thế, bất chấp mọi điều kiện. Dù
có phải hi sinh cũng cứ làm. Đừng sợ, cứ nói ! Tôi cứ tưởng là đã hết. Nó vẫn cứ chứng nào tật ấy.
IV tr. (kng.). Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái khẳng định, không kể khách quan như thế nào.
Cứ nói trắng ra. Nặng thế mà nó xách cứ như không. (TĐTV 2006 tr. 228).
Trong TV, sự chuyển hóa từ loại trong nội bộ một từ loại của các ĐV ĐÂ CG ít hơn sự chuyển
hóa thành nhiều từ loại. Sự chuyển hóa khác từ loại của chúng có các kiểu sau:
Thực từ <-> thực từ. (i)
Chẳng hạn như 2 loạt ĐÂ có âm đọc là bừa, cưa dưới đây:
sạch cỏ, có nhiều kiểu loại khác nhau. Kéo bừa. Bừa cải tiến.
Bừa II đg. Làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san bằng ruộng hoặc làm sạch cỏ bằng cái bừa. Cày sâu bừa kĩ. ...
chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa (cd.). (TĐTV 2006 tr. 93).
Cưa I d. Dụng cụ để xẻ, cắt gỗ, kim loại và vật liệu cứng khác, lưỡi bằng thép mỏng có nhiều răng sắc
nhọn.
Cưa II đg. 1. xẻ, cắt, làm cho đứt bằng cái cưa. Cưa gỗ. Nhà máy cưa. Chân bị thương, phải cưa. 2.
(thgt.). Tán tỉnh, làm cho xiêu lòng mà đồng ý nghe theo ( thường nói về quan hện tình cảm). Tán tỉnh mãi mà
không cưa được cô nào. (TĐTV 2006 tr. 228).
Thí dụ 14: BừaR1 R I d. Nông cụ dùng sức kéo để làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san bằng ruộng hoặc làm
Thực từ <-> hư từ. (ii)
Thí dụ như 2 loạt ĐÂ có âm đọc là của, đố dưới đây:
Người làm nên của, của chẳng làm nên người (tng.). Bảo vệ của công. Của bền tại người (tng.). 2. Cái ăn,
về mặt có đặc tính nào đó. Thích của ngọt. Của không ngon, nhà đông con cũng hết (tng.). 3. (kng. ; thường
dùng trước ấy, này.). Đồ vật hoặc người thuộc loại, hạng nào đó (hàm ý coi khinh). Mua làm gì cái của ấy !
của ấy chỉ biết ăn diện.
Của II k. Từ biểu thị quan hệ sở thuộc. 1. Biểu thị điều sắp nêu ra là người hay sự vật có quyền sở hữu,
quyền chi phối đối với cái vừa được nói đến. Chiếc đồng hồ của tôi. Sách của thư viện. 2. Biểu thị điều sắp
Thí dụ 15: Của I d. 1. Vật do sức con người làm ra, về mặt thuộc quyền sở hữu của người nào đó.
nêu ra là chỉnh thể, mà bộn phận là cái vừa được nói đến. Tay của em bé. Nắp của cái hộp. Một phần mười
của giây. 3. Biểu thị điều sắp nêu ra là người hay sự vật có thuộc tính hoặc hoạt động vừa được nói đến.
Lòng dũng cảm của anh ta. Mùi hương của hoa nhài. Đề nghị của cấp dưới. Sự phát triển của xã hội. 4.
Biểu thị điều sắp nêu ra là người hay sự vật có quan hệ nguồn gốc, thân thuộc, tác động qua lại,v.v. với
người hay sự vật vừa được nói đến. Tác phẩm của nhà văn trẻ. Tác giả của bài thơ. Người bạn của tôi.
Nguyên nhân của sự việc. (TĐTV 2006 tr 220).
Đố R3 R I đg. 1. Hỏi để thử trí thông minh hoặc trí nhớ. Chơi trò đố chữ. Câu đố. 2. Nói khích người khác
thử làm việc gì đó, với ngụ ý cho rằng người ấy không làm nổi. Không thầy đố mày làm nên (tng.). Đố ai
quét sạch lá rừng. Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây (cd.).
Đố R3 R II p. (kng.). Từ biểu thị ý phủ định tuyệt đối ; hoàn toàn không, không hề. Dọa thế mà nó đố có sợ.
(TĐTV 2006 tr. 334).
Hư từ <-> hư từ. (iii)
Chẳng hạn như 3 loạt ĐÂ có âm đọc là chứ, đã, đếch dưới đây:
sung khẳng định thêm điều muốn nói. Tôi vẫn còn nhớ, chứ quên thế nào được. Anh ta chứ ai ! thế chứ còn
gì nữa. Thà chết, chứ không khai.
Chứ II tr. (dùng trong đối thoại, thường ở cuối câu hoặc cuối đọan câu). 1. Từ biểu thị ý ít nhiều đã
khẳng định về điều nêu ra để hỏi, tựa như chỉ là để xác định thêm. Anh vẫn khỏe đấy chứ ? Anh quen ông ấy
chứ ? 2. Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm điều vừa khẳng định hoặc yêu cầu, cho là không có khả năng ngược
lại. Có thế chứ ! Đẹp đấy chứ nhỉ ! Khẽ chứ ! Phải làm thế nào chứ, cứ để như thế à ? (TĐTV 2006 tr. 190).
ĐãR2 R I p. 1. (thường dùng trước đg., t.). Từ biểu thị sự việc, HT nói đến xảy ra trước hiện tại hoặc trước
một thời điểm nào đó được xem là mốc, trong quá khứ hoặc tương lai. Bệnh đã khỏi từ hôm qua. Mai nó về
thì tôi đã đi rồi. Đã nói là làm. 2. (dùng ở cuối vế câu, thường trong câu cầu khiến). Từ biểu thị việc vừa nói
đến cần được hoàn thành trước khi làm việc nào đó. Đi đâu mà vội, chờ cho tạnh mưa đã. Nghỉ cái đã, rồi
hãy làm tiếp.
ĐãR2 R II tr. 1. Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái khẳng định của một nhận xét. Nhà ấy đã lắm của.
Đã đẹp chưa kìa ? Đã đành như thế. 2. (dùng trong câu có hình thức nghi vấn). Từ biểu thị ý nhấn mạnh
thêm về sắc thái nghi vấn. Phê bình chưa chắc nó đã nghe. Đã dễ gì bảo được anh ta. (TĐTV 2006 tr. 276).
Đếch I p. (thgt.). Từ biểu thị ý phủ định dứt khoát một cách nặng lời. Đếch cần. Đếch ai tin. Đếch ra gì.
Đếch II tr. (thgt.). Từ biểu thị ý nhấn mạnh về sắc thái phủ định dứt khoát một cách nặng lời. Nói làm
đếch gì nữa. Đi thế đếch nào được. Việc đếch gì phải buồn. (TĐTV 2006 tr. 309).
Thí dụ 16: Chứ I k. Từ biểu thị điều sắp nêu ra phủ định khả năng ngược lại điều vừa nói đến, để bổ
Những ĐV ĐÂCG nói chung và những ĐVĐÂ và ĐN cùng gốc nói riêng có cấu tạo từ 01 đến
04 âm tiết, đại bộ phận là những ĐV có cấu tạo 01 và 02 âm tiết. Những ĐV có cấu tạo 03 và 04 âm
tiết có SL rất ít (chỉ có 10 loạt với 20 ĐV) và đều là ngữ. Trong những ĐV có cấu tạo 01 âm tiết và
02 âm tiết thì chiếm tuyệt đối là từ đơn tiết và từ song tiết, chỉ có một SL rất nhỏ các ĐV đơn tiết là
các YT CTT (yếu tố phụ trước, phụ sau danh từ, động từ, tính từ). Các YT CTT này luôn luôn là
những ĐV đơn nghĩa. (Chi tiết, xem bảng 4.2)
Bảng 4.2 Bảng thống kê, phân loại các ĐV ĐÂCG trong TV ( SL loạt) nhìn từ tiêu chí SLÂT
tham gia cấu tạo:
Bảng thống kê các ĐV ĐÂCG nhìn từ tiêu chí SLÂT
Đơn tiết
797 loạt
02 âm tiết 673 loạt
04 âm tiết 07 loạt
Đa tiết 03 âm tiết 03 loạt 683 loạt
1480 loạt
Những ĐV ĐÂ cùng gốc nói chung và những ĐV ĐÂ và ĐN cùng gốc nói riêng có 03 nguồn
gốc là: từ thuần Việt, từ Hán Việt, từ gốc Ấn Âu. Trong đó, nhiều nhất xếp theo thứ tự là: từ Hán
Việt, từ thuần Việt, từ gốc Ấn Âu. Chúng có mặt ở tất cả 08 từ loại cơ bản của TV và có SL nhiều
nhất là ở các từ loại: danh từ, động từ, tính từ, phó từ...
4.4.3. Về dung lượng nghĩa
Những ĐV ĐÂCG của TV có biên độ nghĩa rộng (có từ 01 đến 18 nghĩa). Trong những ĐV
vừa ĐÂ vừa ĐN thì những ĐV có 02 và 03 nghĩa chiếm SL tuyệt đối. Những ĐV có nhiều nghĩa
nhất là những ĐV có cấu tạo đơn tiết và 02 âm tiết. Những ĐV có cấu tạo 03 và 04 âm tiết đều là
đơn nghĩa. Những từ loại có nhiều nghĩa nhất là động từ, danh từ, tính từ.... (Chi tiết xin xem bảng
4.3)
Bảng 4.3 Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂCG trong TĐTV 2006:
Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂCG
Đơn nghĩa 2195 đvị
02 563 đvị
03 129 đvị
04 78 đvị
05 35 đvị
08 04 đvị
09 04 đvị
12 02 đvị
18 01 đvị
Đa nghĩa 07 06 11 14 đvị đvị
841 đvị
3036 đvị
Khảo sát 841 ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa về các phương diện từ loại,
chúng tôi nhận thấy:
Cũng giống như các ĐVĐN thông thường, các ĐVĐN trong khu vực ĐÂ CG cũng tuân theo
quy luật: (i) các ĐV đơn tiết bao giờ cũng có nhiều nghĩa hơn các ĐV song tiết, (ii) xét về SL thì
các ĐVĐN thuộc thực từ bao giờ cũng chiếm SL tuyệt đối so với các ĐV hư từ. Trong các ĐVĐN
thuộc thực từ như danh từ, động từ, tính từ, thì những ĐVĐN thuộc từ loại danh từ bao giờ cũng có
SL nhiều nhất. Song nếu xét về DLN thì những ĐV là động từ lại có DLN cao hơn.
4.4.4. Về quan hệ ngữ nghĩa
Khảo sát mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một ĐVĐN thuộc khu vực vừa ĐÂ vừa
ĐN chúng tôi cũng nhận thấy một quy luật chung là: về cơ bản, chúng cũng có 03 kiểu quan hệ: (i)
quan hệ phái sinh (thường gặp nhất trong những ĐV có 02 và 03 nghĩa). (ii) quan hệ song song
(thường gặp nhất là trong những ĐV có từ 04 nghĩa trở lên). (iii) quan hệ vừa phái sinh vừa song
song (thường gặp trong các ĐV có từ 05 nghĩa trở lên.
Ruột xót như bào. 2. (chm.). Cắt các mặt do một đường thẳng chuyển động vạch ra trên vật kim loại đang
chế tạo bằng cách dùng một lưỡi dao hớt từng lớp mỏng theo phương của đường thẳng ấy. (TĐTV 2006 tr.
38).
Thí dụ 17: (quan hệ phái sinh): bào II đg. 1. Làm nhẵn mặt gỗ bằng cái bào. Bào tấm ván. Vỏ bào.
hàng, do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động, v.v. Bạn nghèo với nhau.
Bạn chiến đấu. Người với người là bạn. 2. (ph.). Người đàn ông đi ở làm thuê theo mùa, theo việc trong xã
hội cũ. Ở bạn. Bạn ghe. 3. Người đồng tình, ủng hộ. Bạn đồng minh. Thêm bạn bớt thù. 4. (dùng phụ sau d.).
ĐV tổ chức có quan hệ gần gũi. Đội bạn. Nước bạn. (TĐTV 2006 tr. 33).
Thí dụ 18: (quan hệ song song): bạn I d. 1. Người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang
một vât che khuất, hoặc hình của vật ấy trên nền. Dưới bóng cây. Bóng người in lên vách. Ngồi sấp bóng (quay
lưng về phía ánh sáng). Trong bóng đêm (bóng tối ban đêm). Đi đôi với nhau như hình với bóng. 2. (Dùng sau
đg.; kết hợp hạn chế.). Bóng của người có thế lực, dùng để ví sự che chở. Núp bóng. Nương bóng từ bi. 3. (chm.).
Mảng sáng tối trên bề mặt của vật do tác dụng của ánh sáng. Đánh bóng. 4. (kết hợp hạn chế). Ánh, ánh sáng.
Bóng nắng xuống thềm. Bóng trăng mờ mờ. 5. Hình ảnh do phản chiếu mà có. Soi bóng trong gương. Bóng cây
in xuống nước. 6. Hình dạng không rõ nét hoặc thấp thoáng. Bóng núi trong sương. 7. (thường dùng sau đg.,
trong một số tổ hợp.). Hình ảnh gián tiếp hoặc vu vơ. Nói bóng. Dọa bóng. Chó sủa bóng. (sủa vu vơ trong đêm.).
Thí dụ 19: (quan hệ phái sinh kèm song song): bóngR1 RI d. 1. Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị
8. (ph.). Ảnh. Chụp bóng. (TĐTV 2006 tr. 74-75).
Khác với những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên (giữa các nghĩa của một
ĐVĐN và các ĐVĐÂ trong loạt không có mối liên hệ hay quan hệ gì với nhau – võ đoán tuyệt đối),
các nghĩa của một ĐVĐN hay một số nghĩa của chúng với các ĐVĐÂ trong loạt ĐÂ của khu vực
ĐÂCG luôn có mối liên hệ về ngữ nghĩa với nhau mà hiện thời chúng ta vẫn có thể cảm nhận được.
Chẳng hạn như:
Mối liên hệ giữa nghĩa thứ nhất của bào II (làm nhẵn mặt gỗ bằng cái bào) với một danh từ
cùng gốc nghĩa với nó là bào I (dụng cụ của thợ mộc ; gồm một đoạn gỗ có lắp lưỡi thép nằm
ngang; dùng để nạo nhẵn mặt gỗ) là hoàn toàn có thể nhận ra. Đó là mối liên hệ giữa một danh từ
với chức năng của danh từ đó. Đây chính là lí do dẫn đến việc một số từ điển nhập chung các nghĩa
của hai từ bào I, II thành một từ ĐN.
Quy luật này cũng giống như mối liên hệ giữa nghĩa thứ nhất của danh từ bạn I “chỉ người
quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng
chí hướng, cùng hoạt động như: Bạn nghèo với nhau. Bạn chiến đấu. Người với người là bạn. với
động từ bạn II vốn có nghĩa là “kết bạn”.
4.5. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN KHÁC GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
Cũng như trong TV, THHĐ cũng có 2 loại ĐVĐÂ là: (1) Những ĐV ĐÂ KG ngữ nghĩa (những
1
2
1 P霸王鞭 P
ĐV ĐÂDH) như: 保(bǎo) và 饱 (bǎo), 变 症(bin zhèng)và辩 证(bin zhèng)…(2) những ĐV
P(ān)và安 P
P(ān),P
P(b wáng bin)và霸王
2 鞭P
P(b wáng bin)…
ĐÂCG ngữ nghĩa (những ĐV ĐÂ ĐH) như: 安 P
4.5.1. Về số lượng và nguồn gốc
Về SL, những ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa trong THHĐ cũng có SL nhiều hơn những ĐV ĐÂCG
ngữ nghĩa. Trong đó: những ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa và cùng gốc ngữ nghĩa đơn tiết chiếm SL nhiều
nhất, kế đó là các ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa và cùng gốc ngữ nghĩa đa tiết (tuyệt đại bộ phận những
ĐVĐÂ, ĐN đa tiết là những ĐV có cấu tạo song tiết). Đây cũng là điểm giống nhau giữa TV và
THHĐ.
Về nguồn gốc, những ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa trong THHĐ là những ĐVĐÂ ngẫu nhiên với
nhau (có âm đọc ngẫu nhiên giống nhau, có nghĩa khác nhau, hình văn tự khác nhau). Còn những
ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa là những ĐV có quan hệ về cội nguồn với nhau, có âm đọc giống nhau, có
nghĩa khác nhau, có hình văn tự giống nhau.
Giống như trong TV, các ĐV ĐÂCG nghĩa trong THHĐ đều có thể truy nguyên về nguồn gốc
bằng những thủ pháp về từ nguyên học hay hình văn tự học. Ngày nay, trong phần lớn các trường
hợp, chúng ta thường vẫn cảm nhận được sự liên hệ về ngữ nghĩa giữa chúng.
4.5.2. Về dung lượng nghĩa
Kết quả khảo sát, thống kê ở diện rộng cho thấy: các ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa trong THHĐ là
1
những ĐV có DLN thấp hơn các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa. (ĐV có nhiều nghĩa nhất trong khu vực
P(có tới 25 nghĩa hạng). Đây cũng là ĐV có nhiều nghĩa hạng
ĐÂCG ngữ nghĩa của THHĐ là đả打P
nhất trong THHĐ.
4.5.3. Về chữ viết và cấu tạo
Những ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa trong THHĐ có cấu tạo từ 01 tới 04 âm tiết, chúng là những ĐV
có hình văn tự khác nhau. Cụ thể là: có hình văn tự khác nhau hoàn toàn ở những ĐV đơn tiết như:
砹(ài) và 爱(ài), khác nhau hoàn toàn hay khác nhau ở YT CTT thứ nhất trong các ĐV có cấu tạo
từ song tiết trở lên như: 杯子(bēi zi)và 背子(bēi zi), 保健 (bǎo jiàn)và 宝剑 (bǎo jiàn)…
Trong TV, những ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa cũng có cấu tạo từ 01 tới 04 âm tiết song do sự thay đổi
về văn tự (từ văn tự biểu ý sang văn tự ghi âm âm vị học) nên những điểm khác biệt về văn tự giữa hai
loại ĐV ĐÂCG và khác gốc của TV về căn bản đã bị xóa nhòa, thay vào đó là những kí số Ả rập và kí
số La Mã vốn không thích hợp lắm với phần đông các ĐVĐÂ trong TV được các nhà biên soạn TĐ
sử dụng để phân biệt chúng với nhau, điều này đã gây nên những khó khăn nhất định khi nhận diện và
phân biệt những ĐV ĐÂCG có nguồn gốc Hán.
4.5.4. Về quan hệ ngữ nghĩa
Qua thống kê, khảo sát mối quan hệ về ngữ nghĩa giữa các ĐVĐÂ trong loạt cũng như mối
quan hệ về ngữ nghĩa giữa các nghĩa hạng của những ĐV ĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂDH trong
THHĐ chúng tôi thấy rằng:
(i) Giữa các ĐVĐÂ và ĐN trong loạt hiện nay không hề cảm nhận được mối liên hệ hay quan
hệ gì về ngữ nghĩa.
(ii) Giữa các nghĩa hạng trong một ĐVĐÂ và ĐN cũng có các kiểu quan hệ giống như các
ĐVĐN thông thường của THHĐ (có cả quan hệ phái sinh, quan hệ song song và xen kẽ giữa quan
hệ phái sinh và quan hệ song song…). Chẳng hạn:
(1) Tất cả các nghĩa hạng của từ đều là quan hệ phái sinh.
Thí dụ 20: 饱 bǎo 1.No: 我饱了,一点也不下了 Tôi no rồi, không ăn thêm được nữa đâu. 2.
Mẩy/chắc: 谷粒儿很饱 Hạt thóc rất mẩy. 3. Đầy đủ/đủ/nhiều: 饱经世故 Thế thái nhân tình đã trải
đủ. 饱览大好河山 Giang sơn gấm vóc ngắm đủ. 4. Thỏa mãn/no. 一饱眼福 Nhìn no mắt. 饱看 Xem
thỏa thích. 5. Vơ đầy/vét cho đầy túi: 折扣军粮,以饱私囊 Khấu giảm quân lương, vơ đầy túi riêng.
(2) Trong các nghĩa hạng của từ, có một số nghĩa hạng là quan hệ phái sinh còn một số
nghĩa hạng lại là quan hệ song song.
Thí dụ 21: 保 bǎo 1. Báu vật/của quý/của báu: 国宝 Quốc bảo. 粮食是宝中之宝 Lương thực
là thứ quý nhất. 2. Quý báu/báu: 宝剑 Kiếm báu. 3. Chỉ con súc sắc (bằng sừng, hình vuông, mặt có
kí hiệu chỉ phương hướng, dùng để đánh bạc. 4. (kính từ, dùng để xưng gọi gia quyến, cửa
hiệu…của người đối thoại): 宝号 Quý tiệm/ quý hiệu. 宝眷 Quý quyến. (TĐ THHĐ 2005. tr 45).
Trong thí dụ trên, 2 nghĩa hạng đầu tiên thuộc về quan hệ phái sinh (nghĩa hạng 2 là nghĩa
hạng phái sinh từ nghĩa hạng thứ nhất, trật tự của 2 nghĩa hạng là không thể đảo ngược). Còn 2
nghĩa hạng sau thuộc về quan hệ song song (trật tự của 2 nghĩa hạng là có thể thay đổi).
(3) Tất cả các nghĩa hạng của từ đều là quan hệ song song
Thí dụ 22: 报子 bào zi 1. Người cung cấp tin/thám tử 2. Người báo tin mừng (để xin tiền
thưởng). 3. Giấy báo tin mừng. 贴报子 Dán tin mừng. 4. Quảng cáo/áp phích: 新戏的报子一贴轰
动了全成 Áp phích vở mới dán lên làm vang động cả thành phố. (TĐ THHĐ 2005. tr 52)
刨子 bào zi: Cái bào (thủ công) (TĐ THHĐ 2005. tr 52)
Có thể nói rằng: mối quan hệ giữa các ĐVĐÂ trong loạt và mối quan hệ giữa các nghĩa hạng
trong một ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên của THHĐ cũng có nhiều nét tương đồng với
những ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên của TV.
Dưới đây là những kết quả mà chúng tôi rút ra được từ việc đối chiếu từ ĐÂ và ĐN cùng gốc
nghĩa trong TV với từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa trong THHĐ.
4.6. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN CÙNG GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
4.6.1.Những điểm tương đồng
Cũng như trong TV, trong THHĐ cũng có một SL đáng kể các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong tổng
thể từ ĐÂ của THHĐ. Kết quả thống kê và đối chiếu 02 mục A, B trong TĐTV 2006 và TĐTHHĐ 2005
đã nói rõ điều này. (Xem bảng 4.4)
Bảng 4.4 Bảng đối chiếu (SL và cấu tạo) của những ĐV ĐÂCG mục A,B trong TĐTV 2006
với những ĐV ĐÂCG mục A,B trong TĐ THHĐ 2005:
Từ ĐÂCG Trong TĐTV 2006 (mục A,B)
Đa tiết
Đa tiết
Đơn tiết 80 đvị
Từ ĐÂCG Trong TĐTH HĐ 2005 (mục A,B) Đơn tiết 111 đvị
02 âm tiết 49 đvị
03 âm tiết 01 đvị
02 âm tiết 31 đvị
03 âm tiết 04 đvị
50 đvị
35 đvị
130 đvị
146 đvị
Cũng như trong TV, các ĐV ĐÂCG đơn tiết trong THHĐ có SL đông đảo hơn các ĐV đa tiết.
Theo số liệu thống kê từ TĐ THHĐ 2005, hiện chỉ tìm thấy 317 loạt với 645 ĐV ĐÂCG có cấu tạo
song tiết, những ĐV có cấu tạo 03 và 04 âm tiết là rất hiếm gặp, hiện chỉ thống kê được 07 loạt với
14 ĐV mà thôi.
Về cơ bản, mối liên hệ ngữ nghĩa giữa các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong THHĐ là vẫn có thể
2 Pvà bao kim包金P
P ta thấy:
1 kim包金P
1 包金P
动。用薄金叶包在金属首饰外面:项链。 Dịch: Dùng giấy vàng hoặc bạc bọc bên ngoài kim loại quí hay đồ trang sức: vòng cổ bọc vàng. Tương đương với động từ bọc trong TV.
2 包金P 名。包银。旧时戏院按期付给剧团或主要演员的 约定的报酬。 Dịch: Có nghĩa giống như 包银 (thời trước, rạp hát căn cứ vào thời gian để trả thù lao cho đoàn kịch hoặc diễn viên chính một số tiến thù lao nhất định. Tương đương với: tiền bao, tiền cátxê... trong TV.
nhận ra. Chẳng hạn, xét mối liên hệ ngữ nghĩa giữa 02 ĐV ĐÂCG trong TĐTHHĐ 2005 là bao
2
Pvà包金P
P) đều là hai từ được phát triển từ những nét nghĩa khác nhau của từ đa
1 bởi chúng (包金P
Mối liên hệ về mặt ngữ nghĩa giữa hai ĐV song tiết cùng gốc ngữ nghĩa này vẫn có thể nhận ra
2 1 Pphát triển từ nghĩa 01 còn包金P nghĩa 包. Trong đó, 包金P
P phát triển từ nghĩa thứ 12 của từ包mà
thành:
包 bāo BAO 1. Gói/ bọc/ đùm/ bao: 包书 bọc sách, gói sách. 包饺子 làm bánh cảo (bánh chẻo/
bánh xếp). 头上抱着一条毛巾 trên đầu bịt/quấn/ trùm một chiếc khăn mặt. 2. Buộc/ băng bó: 把伤
口包扎起来 băng vết thương. 3. (包儿) Bao/ túi (đồ vật): 包药 Túi thuốc. 邮包 Túi bưu kiện. 打了
个抱 Gói một bọc. 4. Túi/ cặp/ ví:书包 Cặp sách.皮包 Ví da/ ví tiền/ cặp da. 病包儿 Túi bệnh. 坏包
Túi rách/ túi thủng. 淘气包儿 Túi nghịch ngợm. 5. (lượng từ) Gói/ bao/ túi/ bọc : 两包大米 Hai bao
gạo. 一大包衣服 Một bọc to quần áo. 6. Khối u/ cục bướu trên vật thể hoặc thân thể: 树干上有个大
包 Trên thân cây có một cục bướu. 脚上起了个包 Bắp chân nổi lên một cái u. 7. Lều mái tròn căng
bằng thảm :蒙古包 Lều người Mông cổ. 8. Vây quanh/ bao quanh/ quây/ bao bọc : 火苗包住了锅台
Ngọn lửa bọc lấy kiềng bếp. 骑兵分两路包过去 Kị binh phân hai mũi quây lại. 9. Bao gồm/ bao
quát/ bao trùm/ bao hàm/ chứa đựng: 无所不包 Bao quát hết thảy. 10. Khoán/ bao/ nhận khoán/
nhận làm cả gói: 包医 Chữa bệnh khoán. 包教 Dạy khoán. 包片儿 Mảng việc nhận khoán. 11.
Đảm bảo/ bảo đảm/ cam đoan/ chắc chắn:包你没错 Bảo đảm với anh là không sai. 包你满意 Tôi
cam đoan rằng nhất định anh sẽ vừa lòng. 12. Thuê bao/ mua bao/ bao cả/ khoán: 包车 Khoán xe/
nhận khoán xe/ mua bao cả chuyến xe (tàu). 包场 Mua bao cả buổi (chiếu/ diễn). 包了一只船
2 1 P và 白地P Thí dụ 23: Đối chiếu nghĩa của 白地P
P ta thấy:
Thuê bao cả một thuyền. 13. (Họ). Bao
1 白地P
2 白地P
名。 1 没有种上庄稼的天地:留下一块白地准备种白
(白地儿)名。白色的衬托面:白地
薯。2 没有树木,房屋等的土地:村子被烧成一片白
儿红花儿。
地。
Dịch : Nền trắng : Bông hoa hồng trên
nền trắng.
Dịch: 1. Đất chưa gieo trồng: Để một vạt đất không, chuẩn
bị trồng khoai. 2. Đất không (không nhà cửa, cây cối) : Làng
xóm bị thiêu trụi thành một giải đất không.
1 Nghĩa của白地P
2 P và 白地P
1 P đều được phát triển từ các nghĩa khác nhau của từ 白P
P dưới đây.
1
2 P được phát triển từ nghĩa thứ 04 còn白地P
P là phát triển từ nghĩa thứ 01.
P bái 1. 形。像霜或雪的颜色(跟 “黑”相对)。2. 形。光亮;明亮:东方发白/ 大天白
1 白P
日。3. 清楚;明白;弄明白:真相大白/ 不白之冤。4. 没有加上什么东西的;空白:白卷/ 白饭/
白开水/ 一穷二白。5. 副。没有效果,徒然:白跑一趟/ 白费力气。6. 副。无代价;无报偿:白
吃/ 白给/白看戏。7. 象征反动:白军/ 白区。8. 指丧事:白事。9. 动。用白眼珠看人,表示轻
视或不满:白了他一眼。10. (bái)名。姓。
Trong đó: 白地P
Dịch: BẠCH 1. (Hình dung từ) giống như màu của sương hay tuyết (ngược lại với đen): Trắng/ bạc. 2.
(Hình dung từ) Sáng/ rạng/ quang sáng/ tỏ: phương đông hừng sáng/ trời đông đã rạng. Thanh thiên bạch
nhật/ ban ngày ban mặt/ giữa ban ngày. 3. Rõ ràng/ rõ/ làm rõ/ sáng rõ. Rõ chân tướng/ rõ bộ mặt thật. Nỗi
oan chưa tỏ. 4. Trắng không (không có gì thêm)/ không/ suông/ trống/ hổng: một nghèo hai trắng. Một vùng
đất trống không. Công tác khoa học còn có một số điểm trống hổng. Thịt gà luộc. 5. Mất công/ uổng phí/ toi/
chẳng được tích sự gì: Toi công một chuyến đi. Uổng phí một ngày trời. 6. Không phải trả tiền: Cho không.
Ăn không. Xem chạc (không trả tiền.). 7. Trắng (phản động) : Bạch quân. Vùng trắng. 8. (Chỉ việc tang) :
Việc hiếu hỉ/ đám cưới đám tang. 9. Lườm/ nguýt (tỏ ý khinh thị hoặc không hài lòng): Lườm nó một cái. 10.
Bạch (tên dân tộc): dân tộc Bạch. 11. (Họ) Bạch.
Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG nghĩa trong THHĐ có biên độ nghĩa rất
rộng (từ 02 đến 27 nghĩa). Trong đó, những ĐV có 02 nghĩa, 03 nghĩa, chiếm tỉ lệ lớn nhất. Chúng
che phủ tất cả HTĐN trong THHĐ như: ĐN BV, ĐNBN, ĐNBT, từ đơn ĐN, từ tố ĐN, từ song tiết
ĐN, ngữ ĐN.
Dưới đây là bảng đối sánh DLN trong các ĐV ĐÂCG nghĩa trong mục A, B của TĐTV 2006
và TĐTH HĐ 2005.
Bảng 4.5 Bảng đối chiếu DLN của những ĐV ĐÂCG mục A,B trong TĐTV 2006 với DLN
của những ĐV ĐÂCG mục A,B trong TĐ THHĐ:
01
SL
07
08
09
10
11
12
161đvị
146 đvị
112 đvị 80 đvị
02 34 đvị 27 đvị
03 08 đvị 14 đvị
04 03 đvị 08 đvị
05 03 đvị 04 đvị
06 01 đvị 03 đvị
02 đvị
02 đvị
02 đvị
02 đvị
01 đvị
01 đvị
TĐ TV 2006 Mục A, B TĐT HHĐ 2005 Mục A, B
Khảo sát các YT CTT trong TV và tiếng Hán cũng như các ĐV dùng chung trong hai ngôn
ngữ ở khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa chúng tôi nhận thấy những điểm khác biệt dưới đây:
4.6.2. Những điểm khác biệt
(i) Trong khi THHĐ có một SL không nhỏ các YT CTT đa nghĩa thì trong TV các YT CTT đa
nghĩa là rất hiếm gặp.
(ii) Các ĐV đơn tiết cùng gốc ngữ nghĩa trong TV như: cuốc, bào, đục, cưa... luôn có xu
hướng phân hóa thành 02 ĐV ĐÂCG. Trong đó thường là chuyển hóa thành một ĐV danh từ (chỉ
tên gọi) và một ĐV động từ (chỉ chức năng) thì trong THHĐ, những ĐV kiểu này lại có xu thế tích
hợp hay được xử lí thành những ĐVĐN (thường là có 02 nghĩa). Trong đó, nghĩa đầu tiên (thường
là danh từ) có chức năng miêu tả, định danh. Nghĩa thứ 02 (thường là động từ) có chức năng mô tả
chức năng của danh từ đó. Các ĐV đa tiết dùng chung như: âm mưu, anh hùng, ảnh hưởng, bảo an,
báo cáo... cũng có xu thế như vậy. Thậm chí đối với các ĐV đa tiết khác (bao gồm từ và ngữ) như:
cá nhân, bộ phận, cá nhân chủ nghĩa... thì cũng luôn tuân theo quy luật này. Các xu thế “phân rã”
thành 03 hay 04 hoặc 05 ĐV ĐÂCG trong TV hiện nay là rất hiếm gặp, nếu có thì chỉ thấy ở những
ĐV đơn tiết. Xu thế “phân rã” áp đảo phổ biến hiện nay trong TV là kiểu “phân rã” thành 02 ĐV.
Đó cũng là những điểm lí thú của 02 ngôn ngữ.
4.7. TIỂU KẾT
Từ những khảo sát trên đây về các ĐVĐÂ và ĐN trong hai ngôn ngữ và những ĐV từ vựng
dùng chung trong TV và tiếng Hán, cùng với những kết quả đã phân tích ở các chương trước, chúng
ta có thể thấy rất rõ hai xu thế ngược nhau của TV và tiếng Hán là: trong khi TV có xu thế ĐÂ hóa
(tách các nghĩa, các nét nghĩa của những ĐVĐN thành những ĐV ĐÂCG thì trong tiếng Hán lại có
xu thế ĐN hóa.). Đặc trưng ĐN hóa này kết hợp với xu thế đa tiết hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong
THHĐ, theo chúng tôi sẽ dẫn đến những hệ quả tất yếu sau đây:
(i) Về tổng quan, các ĐV ĐÂKG ngữ nghĩa trong TV và tiếng Hán bao giờ cũng có SL nhiều
hơn các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa.
(ii) Các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong TV sẽ chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng thể từ ĐÂTV và sẽ
còn tiếp tục được sản sinh bằng phương pháp chuyển loại. Và chắc chắn chúng sẽ có SL và tỉ lệ
nhiều hơn so với các ĐV ĐÂCG trong tổng thể từ ĐÂ của THHĐ.
(iii) THHĐ chắc chắn sẽ có nhiều ĐVĐN hơn trong TV và cấu trúc ngữ nghĩa của các ĐVĐN
trong tiếng Hán sẽ chặt hơn so với cấu trúc ngữ nghĩa của các ĐVĐN trong TV. Số liệu thống kê ở
diện rộng của chúng tôi cũng đã chứng minh rõ điều này.
Theo chúng tôi, có nhiều nguyên nhân dẫn tới những điểm khác biệt này và một trong những
nguyên nhân ấy là do trong tiếng Hán các ĐV ngôn ngữ vẫn giữ được mối quan hệ khăng khít giữa
ba mặt âm – hình – nghĩa trong một kí tín hiệu ngôn ngữ. Điều này làm cho kí tín hiệu ngôn ngữ
trong tiếng Hán đỡ võ đoán hơn các kí tín hiệu ngôn ngữ trong TV. Đây cũng là kết luận chung
trong nhiều công trình viết về tín hiệu học, văn tự học, ngữ nghĩa học, từ vựng học trên thế giới và ở
Việt Nam: Saussure (1973; tr 69), Cao Xuân Hạo (2001), Nguyễn Văn Khang (2007)…
KẾT LUẬN
HTĐÂ,ĐN trong ngôn ngữ cũng như HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong TV, THHĐ là một vấn
đề lớn mà phạm vi của một LA cũng như khả năng có hạn của người viết sẽ không thể nào bao quát
đầy đủ được. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của mình, chúng tôi cũng đã tiếp cận được một số khía cạnh
cơ bản và quan trọng của vấn đề cũng như có được một số đóng góp nhất định về số liệu và lí luận.
Dưới đây là những thuận lợi, khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong quá trình thực hiện LA cũng
như các kết quả cơ bản đã thực hiện được và những vấn đề còn tồn đọng chưa giải quyết được liên
quan tới đề tài.
1. Việc nghiên cứu HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong ngôn ngữ cũng như trong TV, THHĐ đã
được đề cập tới từ lâu và hiện vẫn đang được tiếp tục. Đây là thuận lợi lớn cho chúng tôi. Trong giới
Việt ngữ học, những vấn đề liên quan tới HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN được đề cập tới từ khá sớm.
Tuy nhiên, vì nhiều lí do, HT này chưa được khảo sát có hệ thống trên cùng một khối ngữ liệu mà
chỉ được tiến hành với quy mô nhỏ và tản mạn, số liệu đã cũ do được thống kê cách đây trên 20 năm
nên đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp nữa. Tuy vậy, có rất nhiều vấn đề có liên quan như:
HT ĐÂĐH, ĐÂDH, HT ĐÂCG, HTCL, HT ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT, mối quan hệ giữa ngôn ngữ
với chữ viết… đã được nhiều nhà Việt ngữ học, Hán ngữ học khảo sát và đề cập tới. Đây chính là
những điều kiện quan trọng mà thiếu nó, chúng tôi sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra. Trên
cơ sở thực tiễn sử dụng TV, thông qua việc thống kê, mô tả số liệu của TĐTV 2006, TĐ THHĐ
2005, LA đã xác lập được một cách khá hệ thống những đồng nhất và khác biệt giữa HTĐÂ, HTĐN
cũng như sự khác biệt giữa những ĐV ĐÂ&ĐN trong khu vực ĐÂCG với những ĐV ĐÂ&ĐN
trong khu vực ĐÂKG trong TV và THHĐ cả ở diện rộng, diện hẹp và ở một số phạm trù cơ bản;
LA đã xác lập được vị trí, vai trò của những ĐV ĐÂCG trong tổng thể từ ĐÂ của TV, đã chứng
minh được tầm quan trọng của HTCL trong TV. Cụ thể là:
1.1. Về HTĐÂ, nếu như trong THHĐ vấn đề gây nên tranh luận chỉ nằm ở một SL nhất định các
ĐV ĐÂĐH (các ĐV phân li từ những nghĩa hạng của một ĐVĐN), còn đại bộ phận các ĐVĐÂ trong
tiếng Hán đã có 3 tiêu chí hình, âm, nghĩa ràng buộc và khu biệt thì trong TV, do việc từ bỏ chữ Hán,
chữ Nôm dẫn tới mối quan hệ giữa ba mặt hình, âm, nghĩa của gần 70% vốn từ Hán Việt và một tỷ lệ
không nhỏ từ thuần Việt hoàn toàn bị đứt đoạn, do việc xác định các đối lập cơ bản giữa những ĐV
đồng cấp độ như từ, ngữ… trong TV còn nhiều chỗ đáng phải bàn thêm nên việc nhận diện, xác định
và phân loại các ĐVĐÂ hay ĐN gặp rất nhiều khó khăn, tạo nên nhiều khu vực có sự tròng tréo hay
lưỡng khả mà những ĐV được TĐTV 2006 dán nhãn là ĐÂ ngữ nghĩa là một ví dụ điển hình. Mặt
khác, do sự đối lập giữa những lớp từ loại của TV như: đg - tt, dt - tt… cũng là những chỗ chưa có
được những tiêu chuẩn rõ ràng nên cũng gây ra nhiều tranh luận trong nhận diện, quy loại, phân loại
và xử lý các ĐVĐÂ và ĐN trong TV. Tiếp đó là những khó khăn không nhỏ do HTCL của các ĐV
ngôn ngữ gây nên. Tiếp nữa là việc xác định những giới hạn hay điều kiện phân li cho những ĐV vốn
là những nét nghĩa của một ĐVĐN để chúng trở thành những ĐVĐÂ với nhau cũng là những thách
thức không nhỏ… Cuối cùng phải kể đến là những khó khăn do quan niệm hay do phương pháp xử lí
khác nhau của các công trình từ điển học, từ vựng ngữ nghĩa học. Thực tế này dẫn đến những số liệu
khác nhau, không khớp nhau, thậm chí trái ngược nhau qua các thời kỳ đã gây ra sự phân vân, thậm
chí là những ngộ nhận cho người viết. Chính những điều này đã tạo ra những khó khăn trong nhận
diện, phân loại và mô tả các ĐV ĐÂ,ĐN trong TV và tất yếu sẽ dẫn đến một sự thật là: hoặc phải
chấp nhận rất nhiều ngoại lệ hay vùng giao vùng mờ, hoặc phải tìm ra những tiêu chí phân loại mới
hay phải triệt để nhất quán hơn với một chùm tiêu chí trên cùng một khối ngữ liệu.
Chọn hướng tiếp cận, phân loại các ĐVĐÂ của TV không chỉ từ tiêu chí ngữ nghĩa đơn thuần hay
từ tiêu chí nguồn gốc, LA còn kết hợp với 2 tiêu chí: SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ; Từ loại
của các ĐVĐÂ để tiến thống kê, phân loại và mô tả các ĐVĐÂ của TV trên một khối ngữ liệu 39.924
ĐV của TĐTV 2006. Đây không phải là một hướng phân loại mới song được thực hiện triệt để, nhất
quán và là số liệu cập nhật nhất sau hơn 20 năm.
Từ tiêu chí phân loại thứ nhất (từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ), tức là xuất
phát từ chính những đặc điểm cơ bản của TV (đơn lập; có tiếng/âm tiết – từ đơn tiết - hình vị là 1
thể ba ngôi), tức là xuất phát và dựa trên những cơ sở quan trọng của lý thuyết tín hiệu học. Từ tiêu
chí này, các ĐVĐÂ của TV được khảo sát, thống kê chi tiết tới từng loạt ĐÂ, từng ĐVĐÂ và được
mô tả chi tiết về sự phân bố của chúng qua từng khu vực và hoàn toàn có thể kiểm tra được bằng từ
điển. Từ số liệu này, tỷ lệ của các ĐVĐÂ trong kho ngữ liệu được đánh giá cụ thể với 8408 ĐV
(chiếm 21,06 % TĐTV 2006) với 3691 loạt chứ không phải bằng những con số ước lượng. Các cấu
tạo tối đa của các ĐVĐÂ cũng được thống kê và mô tả chi tiết (tối đa là 4 âm tiết). Từ số liệu này,
các ĐVĐÂ cũng như các kiểu HTĐÂ cơ bản, không cơ bản của TV cũng được làm rõ. Đó là các
ĐV có một vỏ ngữ âm ứng với 2, 3 ĐV và kiểu ĐVĐÂ đơn tiết.
Từ tiêu chí phân loại thứ hai (từ tiêu chí từ loại của các ĐVĐÂ) tức là xuất phát từ tiêu chí ngữ
pháp, tức là xuất phát từ bên ngoài, các ĐVĐÂ của TV sẽ có 3 loại là: ĐÂ cùng từ loại (với 3 tiểu
loại kèm danh sách chi tiết); ĐÂ khác từ loại (với 2 tiểu loại); và các HTĐÂ khác (với 2 tiểu loại).
Điểm mạnh của 2 tiêu chí phân loại này là có thể giải thích được toàn bộ khối ngữ liệu ĐÂ của
TĐTV 2006 mà không gặp bất cứ sự cản trở hay mâu thuẫn nào.
Từ tiêu chí phân loại thứ ba (từ tiêu chí nguồn gốc của các ĐVĐÂ) tức là xuất phát từ tiêu chí
từ nguyên, các ĐVĐÂ của TV sẽ có 3 loại là: ĐÂ Hán Việt (chiếm đa số), ĐÂ thuần Việt (chiếm tỷ
lệ thứ yếu) và ĐÂ gốc Ấn Âu (chiếm tỷ lệ ít nhất).
Từ tiêu chí ± quan hệ ngữ nghĩa, ta sẽ có 2 loại là: từ ĐÂKG (không có liên hệ, quan hệ gì về
nghĩa, chiếm tỷ lệ nhiều nhất) và từ ĐÂCG (giữa các ĐVĐÂ vẫn còn tồn tại một mối liên hệ mơ hồ
về nghĩa thông qua PTCL của từ (chiếm tỷ lệ thứ yếu).
Từ các hướng tiếp cận và phân loại khả quan này, chúng tôi cũng tiến hành với khối ngữ liệu
của TĐ THHĐ 2005 nhằm kiểm tra thêm năng lực giải thích của những tiêu chí này đối với HTĐÂ
của một ngôn ngữ đơn lập cùng loại hình song kém điển hình hơn TV. Kết quả khảo sát ở diện rộng
và những đối chiếu ở diện hẹp trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán đã chứng tỏ ưu điểm của những tiêu chí
phân loại này. Sau đây là những kết luận quan trọng được rút ra từ việc so sánh đối chiếu HTĐÂ
trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán:
1.1.1 Nếu như trong TV, HTĐÂ của các ĐV đơn tiết mới là kịch bản chính (ĐÂ giữa những
ĐV đơn tiết với những ĐV đơn tiết là quan trọng) thì trong THHĐ vấn đề ĐÂ của các ĐV đa tiết
(nhất là các ĐV song âm tiết) lại là vấn đề then chốt. Điều này dẫn tới một hệ quả tất yếu là: trong
THHĐ, HTĐÂ của từ tố là vấn đề quan trọng còn HTĐÂ giữa từ đơn tiết với từ đơn tiết, giữa từ với
từ tố là vấn đề thứ yếu.
1.1.2. Đứng ở góc độ lý thuyết tín hiệu học, THHĐ do có SL âm cơ bản ít hơn TV nên tỷ lệ ĐÂ
phải cao hơn TV. Kết quả thống kê của chúng tôi ở diện rộng đã chứng minh rất rõ điều này. Trong
TV, ta chỉ gặp những ĐVĐÂ đơn tiết là chính và SL các ĐVĐÂ đa tiết có cấu tạo phức tạp (2, 3, 4
âm tiết) là rất ít (gồm có 1967 ĐV, chỉ chiếm 10,867 % tổng số các ĐVĐÂ của TV) và chỉ có cấu
tạo tối đa là 4 âm tiết nhưng trong THHĐ, ta lại thường gặp các ĐVĐÂ đa tiết là chính (phần lớn là
song tiết) và cấu tạo của chúng lên tới 6 âm tiết. Bên cạnh những loại ĐÂ thường gặp như: ĐÂĐT,
ĐÂDT… trong THHĐ còn có những HTĐÂ đặc biệt khác không tìm thấy trong TV và cũng không
thấy trong tiếng Hán cổ là loại ĐÂ phái sinh sau 儿化.
1.1.3. Do việc từ bỏ loại văn tự biểu ý và chuyển sang sử dụng loại văn tự ghi âm mà HTĐÂ
của TV đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, khó nhận diện, xử lí hơn trong THHĐ do mối
quan hệ then chốt, vốn có giữa ba mặt hình – âm – nghĩa của một tín hiệu văn tự biểu ý bị phá vỡ
hoàn toàn dẫn đến tính võ đoán của các ĐVĐÂ trong TV cao hơn trong THHĐ rất nhiều.… Theo
chúng tôi, để khắc phục điều này cần phải có những giải pháp mạnh trong việc dạy và học từ Hán
Việt ở các cấp học và bậc học (bắt buộc phải học viết chừng 500 chữ Hán thông dụng chứ không chỉ
dừng ở việc nhận diện từ Hán Việt thông qua âm đọc ghi bằng chữ quốc ngữ) như ý kiến của nhiều
nhà ngôn ngữ học đã đề nghị. Chúng tôi, do những giới hạn về thời gian nên đã không thể thống kê,
mô tả và phân loại toàn bộ các ĐVĐÂ trong THHĐ mà mới chỉ dừng ở diện khái quát mà thôi. Đây
là điều mà chúng tôi thấy còn thiếu sót trong LA.
1.2. Với tư cách là một trong những vấn đề trọng tâm của từ vựng ngữ nghĩa học, có mối quan
hệ mật thiết với HTĐÂ, HTĐN trong TV cũng là một trong những vấn đề được luận án quan tâm,
giải quyết.
1.2.1. Xuất phát từ quan niệm một ĐVĐN là 1 ĐV có từ 2 nghĩa trở lên, giữa các nghĩa còn tồn
tại một quan hệ nào đó; với mục đích khái quát các biểu hiện của HTĐN TV, đánh giá tổng quan về
các ĐVĐN trong TV, làm cơ sở đối chiếu với HTĐN trong THHĐ ở diện rộng, ở diện hẹp và ở một
số phạm trù phổ quát; qua việc xử lý TĐTV 2006, chúng tôi thống kê được 5420 ĐVĐN (bao gồm
từ, ngữ ĐN; chiếm 13,58 % khối ngữ liệu của TĐTV 2006). Chọn hướng phân loại, miêu tả 5420
ĐV này từ tiêu chí: DLN của các ĐVĐN; SLÂT cấu tạo nên các ĐVĐN và từ tiêu chí từ loại,
chúng tôi thu được kết quả sau:
1.2.1.1. Nhìn từ tiêu chí SLÂT các ĐVĐN của TV sẽ gồm 5420 ĐV. Số liệu rút ra từ hướng
phân loại này đã chỉ rõ đặc điểm của các ĐVĐN trong TV là: đơn tiết chiếm ưu thế hơn đa tiết, các
ĐVĐN trong TV là những ĐV có cấu tạo đơn giản (từ 1 - 4 âm tiết).
1.2.1.2. Từ tiêu chí DLN, các ĐVĐN của TV có 2 HT thường gặp: (i) HTĐN thường gặp (có từ
2 - 6 nghĩa) với 5343 ĐV, chiếm 98,58 % các ĐVĐN. (ii) HTĐN ít gặp (có từ 7 nghĩa trở lên) với
72 ĐV đơn tiết chiếm 1,42 % các ĐVĐN. Số liệu và những phân tích ở hướng phân loại này đã chỉ
rõ: những ĐVĐN thường gặp với hạt nhân là những ĐVcó 2, 3 nghĩa mới là vấn đề cơ bản của
HTĐN TV còn những ĐVĐN ít gặp là HT không cơ bản, chúng chỉ góp phần tạo nên bức tranh
chung về HTĐN TV mà thôi. (iii) HT đẳng cấu ngữ nghĩa thường gặp trong TV là HT đẳng cấu ở
những ĐVcó 2 và 3 nghĩa.
1.2.1.3. Từ tiêu chí từ loại, ta lại thấy được một số khía cạnh khác của HTĐN TV là: các
ĐVĐN có mặt ở tất các các từ loại của TV, nhiều nhất là: dt, đg, tt… song nếu xét về DLN thì trật
tự sẽ là: đg, dt, tt… thực tế này phù hợp với tỷ lệ của các từ loại trong TV.
Từ 3 tiêu chí tiếp cận trên, đặc điểm của các ĐVĐN TV bộc lộ rõ và cụ thể qua từng khu vực, từng
danh sách, góp phần làm sáng tỏ hơn lí luận của NNH đại cương và lý thuyết tín hiệu học. Đây là những
đóng góp quan trọng của luận án.
1.2.2. Dựa vào đặc điểm của các ĐVĐN TV, kết hợp với các khái niệm như: nghĩa, nét nghĩa
chúng tôi đề xuất một số thuật ngữ sau đây: ĐN đơn tiết, ĐN đa tiết, ĐN thường gặp, ĐN ít gặp,
ĐNBV đơn thuần, ĐN đa nét nghĩa không hoàn toàn (ĐNBN không hoàn toàn), ĐN đa nét nghĩa
hoàn toàn (ĐNBN hoàn toàn). Các khái niệm này được xây dựng dựa trên những đặc điểm nội tại
của các ĐVĐN TV, dựa trên những số liệu thực của từ điển tiếng Việt, chúng bao quát và giải thích
được toàn bộ khối ngữ liệu ĐN của TV.
1.3. Luận án cũng tiến hành thống kê ở diện rộng các ĐVĐN của tiếng Hán trong TĐ THHĐ
2005 từ 3 tiêu chí trên. Kết quả thống kê cũng chỉ rõ: hoàn toàn có thể ứng dụng 3 tiêu chí này vào
việc nhận diện, mô tả và phân loại các ĐVĐN của THHĐ. Sau đây là những kết luận được rút ra từ
việc đối chiếu HTĐN TV với HTĐN trong THHĐ:
1.3.1. Nhìn từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐN ta thấy: nếu như trong TV,
ĐVĐN có cấu tạo tối đa là 4 âm tiết thì trong THHĐ, chúng có thể có cấu tạo lên tới 6 âm tiết (có
cấu tạo phức tạp hơn TV). Nếu như trong TV, HTĐN của các ĐVđơn tiết là HT nổi bật thì trong
THHĐ, HTĐN của các ĐV đa tiết (2 âm tiết) là HT phải được lưu tâm. Nói khác đi: trong TV, HT
từ đơn tiết ĐN là trung tâm, các HT khác là biên còn trong THHĐ vấn đề từ tố ĐN lại là trung tâm,
các HT khác thuộc về biên. Nguyên do sâu xa là do xu thế đa tiết hóa đã và đang diễn ra mạnh trong
THHĐ. Nói khác đi là do THHĐ là một ngôn ngữ đơn lập kém điển hình hơn TV.
1.3.2. Nhìn từ tiêu chí DLN của các ĐVĐN ta lại thấy: ở diện rộng của khối ngữ liệu, THHĐ là
ngôn ngữ có DLN cao hơn hẳn so với TV. Trong TV, chỉ thống kê được 72 ĐV có 7 nghĩa trở lên
và toàn là những ĐV đơn tiết. Trong THHĐ, số lượng các ĐVĐN có 7 nghĩa trở lên có số lượng
gần gấp 5 lần TV, bao gồm cả những ĐV đa tiết, đơn tiết (trong đó, đơn tiết chiếm SL tuyệt đối).
1.3.3. Nhìn từ tiêu chí từ loại của các ĐVĐN ta lại thấy: giống như trong TV, các ĐVĐN của
THHĐ cũng có mặt ở tất cả các từ loại cơ bản. Và nếu xét về SL thì ba từ loại có số lượng ĐVĐN
nhiều nhất là: dt, đg, hình dung từ… song nếu xét ở DLN thì trật tự cũng sẽ là: đg, dt, hình dung từ.
1.4. Với mục đích làm rõ thêm những điểm tương đồng và khác biệt về tư duy, văn hóa và tri
nhận của hai dân tộc Việt, Hán, LA đã tiến hành khảo sát, đối chiếu một số ĐV dùng chung trong
hai ngôn ngữ và một số phạm trù cơ bản như: cấu trúc ngữ nghĩa của lớp từ chỉ màu sắc (màu đỏ,
màu hồng), các hoạt động cơ bản nhằm duy trì sự sống (động từ ăn), lớp từ chỉ thực vật (danh từ
hoa) trong 2 ngôn ngữ. Qua phân tích đối chiếu, những điểm tương đồng và dị biệt về cơ bản đã
được miêu tả và làm rõ. Đây cũng là một đóng góp của LA.
1.5. Với mục đích: làm rõ thêm những điểm tương đồng và khác biệt giữa những ĐV vừa ĐÂ
vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG với những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG, tìm hiểu tỷ
trọng của những ĐV ĐÂCG và những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong tổng thể từ ĐÂ và từ ĐN TV, chỉ
ra những khác biệt cơ bản giữa những ĐVĐN thông thường và những ĐVĐN nằm trong khu vực
ĐÂCG, trong chương 4, LA đã đi vào thống kê, mô tả những ĐV vừa ĐÂ lại vừa ĐN trong 2 khu
vực: khác gốc và cùng gốc ngữ nghĩa về các mặt: cấu tạo, DLN, quan hệ ngữ nghĩa… trong TV và
đối chiếu vấn đề này với THHĐ. Những kết quả đối chiếu rút ra ở khu vực này một lần nữa đã làm
sáng tỏ thêm những đồng nhất và khác biệt về HTĐÂ, HTĐN trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán. Cụ thể là:
(1) Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG của TV và THHĐ đều là những ĐV được sản
sinh bằng PTCL. Trong TV, sự chuyển loại trong nội bộ một từ loại của các ĐV ĐÂCG ít hơn sự
chuyển hóa thành nhiều từ loại. Trong THHĐ thì ngược lại. (2) Khác với những ĐV vừa ĐÂ vừa
ĐN trong khu vực ĐÂKG (giữa các nghĩa của một ĐVĐN và các ĐVĐÂ trong loạt không có mối
quan hệ hay liên hệ gì với nhau – võ đoán tuyệt đối), các nghĩa của một ĐVĐN hay một số nghĩa
của chúng với các ĐVĐÂ trong loạt thuộc khu vực ĐÂCG luôn có mối liên hệ về ngữ nghĩa với
nhau mà hiện thời chúng ta vẫn có thể cảm nhận được. (3) Trong khi TVcó xu thế ĐÂ hóa (tách các
nghĩa, các nét nghĩa của những ĐVĐN thành những ĐV ĐÂCG thì THHĐ lại có xu thế ĐN hóa.…
Trên đây là một số kết quả và những vấn đề còn tồn tại liên quan đến LA. Chắc chắn có nhiều
vấn đề mà hướng giải quyết của LA không phải là tối ưu, cần bổ khuyết hoặc cần phải được nghiên
cứu kĩ hơn trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT :
1. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển, Nxb Tràng Thi.
2. Đào Duy Anh (1978), "Để hiểu nghĩa, cần biết từ nguyên", Ngôn ngữ số 04.
3. Diệp Quang Ban (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1, 2. Nxb GD.
4. Diệp Quang Ban, Hoàng văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1 Nxb GD.
5. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb GD.
6. Phan Văn Các (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp HCM.
7. Nguyễn Tài Cẩn (1975a), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975b), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
9. Nguyễn Tài Cẩn (1998), “Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 10.
10. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
11. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1,
Nxb GD, Hà Nội.
12.Nguyễn Hồng Cổn (2003), "Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
13. Huỳnh Tịnh Của (1895), Việt Nam quấc âm tự vị, Quyển I,II, Sài Gòn.
14. Hoàng Cao Cương (2004), "Về chữ Quốc Ngữ hiện nay", Ngôn ngữ số 01.
15. Chafe.W.L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb GD.
16. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ (từ hội học), Nxb GD.
17. Đỗ Hữu Châu (1969), “Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng Việt”, Ngôn ngữ
số 02.
18. Đỗ Hữu Châu (1979), "Cách xử lý những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ ", Ngôn ngữ số 01.
19. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
20. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động", Ngôn ngữ số 01.
21. Đỗ Hữu Châu (1985), “Từ và tiếng” (thảo luận về bài báo Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng), Ngôn
ngữ số 03.
22. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD.
23. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
24. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á.
26. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Nxb Đại học Huế.
27. Trương Chính (2001), Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn, Nxb GD.
28. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), Tủ sách ra khơi Sài Gòn.
29. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD.
30. Mai Ngọc Chừ (2001), Các ngôn ngữ phương Đông, Nxb ĐHQG Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Dân (1999), Lô gích và tiếng Việt, Nxb GD.
32. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang (1992), Câu sai và câu mơ hồ, Nxb GD.
33. Nguyễn Đức Dân (2005), “Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, Ngôn ngữ số 09.
34. Trần Trí Dõi (2007), Giáo trình lịch sử tiếng Việt sơ thảo, Nxb ĐHQG Hà Nội.
35. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐHSP.
36. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD.
37. ĐHQG Tp HCM, (2001), Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG Tp HCM.
38. Phạm Hữu Điển (1933), Trùng -Âm - Dị -Tự (in lần 2 năm 1949), Sài Gòn.
39. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 07-08.
40. Đinh Văn Đức (1978), “Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 02.
41. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐH và THCN.
42. Lê Văn Đức (chủ biên) 1962, Việt Nam tự điển, Quyển thượng, quyển hạ, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
43. Nguyễn Thiện Giáp (1971), "Một vài suy nghĩ về hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 04.
44. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Hà Nội, Nxb ĐH và THCN.
45. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb GD.
46. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD.
47. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD.
48. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb GD.
49. Cao Xuân Hạo (1985), “Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng” Ngôn ngữ số 01.
50. Cao Xuân Hạo (1991a), “Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp”, Ngôn ngữ số 02.
51. Cao Xuân Hạo (1991b), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển I, Nxb KHXH.
52. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb GD.
53. Cao Xuân Hạo (2001a), “Hai phép tính cộng và trừ trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 10.
54. Cao Xuân Hạo (2001b), Âm vị học và tuyến tính, Nxb ĐHQG Tp HCM.
55. Cao Xuân Hạo (2002), “Bắt buộc và tùy ý về hai cách biểu đạt nghĩa trong ngôn ngữ”, Ngôn ngữ số 09.
56. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (2005), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm, Ngữ pháp chức
năng tiếng Việt, quyển 2 - Ngữ đoạn và từ loại, Nxb GD.
57. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1998), Từ tiếng Việt, Nxb KHXH.
58. Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành (2001), Từ điển đồng âm tiếng Việt,
Nxb Tp HCM.
59. Honey. P.J (1965), Vài nhận xét về văn phạm Việt Nam, Trong: "Tham luận về từ pháp và cú pháp Việt
ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
60. Nguyễn Quang Hồng (1986), “Hiện tượng đơn lập hóa âm tiết về mặt ngữ âm trong các ngôn ngữ có
thanh điệu ở phương đông” Ngôn ngữ số 02.
61. Nguyễn Quang Hồng (2002), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb ĐHQG Hà Nội.
62. Nguyễn Quang Hồng (2006), Tự điển chữ Nôm, Nxb GD.
63. Hội Khai trí Tiến đức (1931), Việt Nam tự điển, Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội.
64. Đinh Thanh Huệ (1986), Hư từ đa chức năng trong tiếng Việt hiện đại, Trong: "Những vấn đề ngôn ngữ
học về các ngôn ngữ phương Đông", Hà Nội.
65. Đỗ Việt Hùng (2004),"Nét nghĩa và hoạt động của nét nghĩa trong kết hợp từ" Ngôn ngữ số 02.
66. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb GD, Hà Nội.
67. Kasevich. V.B. (1977), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương (Trần Ngọc Thêm dịch, 1998),
Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
68. Trần Văn Khải (1951), Đồng âm vận tuyển, Thanh Trung thư xã xuất bản, Sài Gòn.
69. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb GD.
70. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam văn phạm, Sài Gòn (in lại 1973).
71. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu. Nxb Đà Nẵng, (tái bản, 1997).
72. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH.
73. Lưu Vân Lăng (1986), “Cần phân biệt hình (trong từ vựng) với tiếng trong ngữ pháp” Ngôn ngữ số 04.
74. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb KHXH.
75. Nguyễn Lân (1956), Ngữ pháp Việt – Nam, Hà Nội.
76. Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa.
77. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH Hà Nội.
78. Hồ Lê (1985), "Vị trí của âm tiết, nguyên vị và từ trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
79. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Quyển I, (phương pháp nghiên cứu cú pháp), Nxb KHXH Hà Nội.
80. Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt, Quyển II, (cú pháp cơ sở), Nxb KHXH Hà Nội.
81. Hồ Lê (1993), Cú pháp tiếng Việt, Quyển III, (cú pháp tình huống), Nxb KHXH.
82. Hồ Lê (1995), Quy luật ngôn ngữ, Quyển 1, (tính quy luật của bộ máy ngôn ngữ), Nxb KHXH.
83. Hồ Lê (2002), Một số vấn đề về lý luận ngữ pháp, Nxb ĐHQG Tp HCM.
84. Nguyễn Hiến Lê (1952), Để hiểu văn phạm, Nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn.
85. Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Quyết Thắng (1990), Chúng tôi tập viết tiếng Việt, Nxb Long An.
86. Đặng Chấn Liêu (1978), "Những câu và nhóm từ mơ hồ hoặc nhiều nghĩa ở tiếng Việt và tiếng Anh",
Ngôn ngữ số 03.
87. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây cỏ và vị thuốc Việt Nam,; Nxb Y học.
88. Lyons J. (1968), Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, (Vương Hữu Lễ dịch, 1996), Nxb GD, Hà Nội.
89. Lyons. J (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), Nxb GD.
90. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
91. Nguyễn Văn Mai (1925), Đồng âm tự vị, Sài Gòn.
92. Hà Quang Năng (1988), Đặc trưng ngữ pháp của hiện tượng chuyển từ loại trong tiếng Việt,
“Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt”. Nxb KHXH, Hà Nội.
93. Nguyễn Thị Thanh Nga (1997), “Vài nhận xét về việc chú từ loại trong từ điển tiếng Việt”, Ngôn ngữ
số 01.
94. Trà Ngân (1939), Khảo cứu về tiếng Việt Nam, Nxb Cộng Lực, Hà Nội.
95. Lý Lạc Nghị, Jim Waters (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế giới.
96. Thanh Nghị (1951), Tân từ điển tiếng Việt, Sài Gòn.
97. Vũ Đức Nghiệu (1986), Về sự biến dịch âm - nghĩa ở một ở số nhóm từ trong tiếng Việt. Trong: "Những vấn đề ngôn
ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông", Hà Nội.
98. Vũ Đức Nghiệu (2004), "Một số hệ quả của xu thế đơn tiết hoá trong quá trình phát triển của tiếng Việt",
Ngôn ngữ số 02.
99. Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á xuất bản.
100. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ.
101. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
102. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt. Nxb KHXH.
103. Đái Xuân Ninh (1986), “Hình vị, đơn vị cơ sở của tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 01.
104. Hoàng Phê (1969), “Về việc biên soạn một cuốn từ điển tiếng Việt mới”, Ngôn ngữ số 02.
105. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ số 02.
106. Hoàng Phê (1989), Lô gích ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
107. Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
108. Hoàng Phê (2003), Chính tả tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
109. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
110. Hữu Quỳnh (1978), Cơ sở ngôn ngữ học, Tập 1, Nxb GD.
111. Rhodes. A.de (1651) Từ điển ANNAM – LUSITAN – LATINH, Nxb KHXH (in lại 1991).
112. Sapir E.D (2000), Ngôn ngữ dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Tp HCM.
113. Saussure F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb KHXH Hà Nội.
114. Solncev V-M (1980), "Một số vấn đề lý thuyết nghĩa" (hay ngữ nghĩa), Ngôn ngữ số 02.
115. Solncev V-M (1986), "Những thuộc tính về mặt loại hình học của các ngôn ngữ đơn lập" (trên cứ liệu
tiếng Hán và tiếng Việt), Ngôn ngữ số 03.
116. Taberd. A.J.L (1838), Dictionarium Anamitico Latinum, Nxb Văn Học (in lại 2004).
117. Văn Tân (chủ biên) (1976), Từ điển tiếng Việt.
118. Đào Văn Tập (1951), Từ điển Việt Nam phổ thông, Sài Gòn.
119. Vũ Thế Thạch (1985), “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ tiếng Việt (khuynh hướng định danh
trong nghiên cứu ngữ nghĩa)”, Ngôn ngữ số 03.
120. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Tập 2,Nxb KHXH.
121. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH.
122. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD.
123. Trần Văn Thanh (1953), Đồng âm dẫn giải và mẹo – luật chánh – tả, Sài Gòn.
124. Nhữ Thành (1978), "Cấu trúc từ đồng âm trong câu đối", Ngôn ngữ số 02.
125. Lý Toàn Thắng (2004), Lý thuyết về trật tự từ trong cú pháp, Nxb ĐHQG Hà Nội.
126. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb
KHXH.
127. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN.
128. Trần Ngọc Thêm (1984), “Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học đại cương”, Ngôn ngữ
số 01.
129. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp HCM.
130. Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb ĐH và THCN.
131. Lê Quang Thiêm (2003), lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 – 1945, Nxb KHXH.
132. Bùi Đức Tịnh (1968), Văn phạm Việt Nam giản dị và thực dụng, Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục, Sài
Gòn.
133. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb GD.
134. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt
(trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb ĐHQG Hà Nội.
135. Nguyễn Đức Tồn (2001), Phương pháp dạy và học tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
136. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb GD, Hà Nội.
137. Nguyễn Văn Tu (1969), “Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong từ điển tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 02.
138. Nguyễn Văn Tu (1978), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
139. Hoàng Tuệ (1962), Giáo trình Việt ngữ, Nxb GD.
140. Hoàng Tuệ (1969), "Chung quanh một cái từ nho nhỏ của tiếng Việt”, Tác phẩm mới, số 04, Trích trong: Tuyển
tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG Tp HCM, 2001.
141. Hoàng Tuệ (1984), Thảo luận chuyên đề “Tiếng, hình vị và từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 01, Trích trong:
Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG Tp HCM.
142. Nguyễn Bạt Tụy (1959), Ngôn – ngữ - học Việt – Nam, chữ và vần Việt khoa – học, Sài Gòn.
143. Lê Ngọc Trụ (1959), Việt-Ngữ, chánh- tả, Tự -vị, Thanh Tân xuất bản, Sài Gòn.
144. Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên từ điển Việt Nam, Nxb Tp HCM.
145. Nguyễn Văn Trung (1975), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu pháp thuộc, Nam Sơn xuất bản.
146. Thomas. D (1965), Thế nào là một “tiếng” trong Việt ngữ , Trong: “Tham luận về từ pháp và cú pháp
Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
147. Thompson L.C (1965), Tính cách nội tâm của các cấu tạo ngữ pháp tiếng Việt. Trong: “Tham luận về từ pháp
và cú pháp Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
148. UB KHXH Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH Hà Nội.
149. Xtankêvich N.V (1982), Loại hình các ngôn ngữ, Nxb ĐH &THCN.
TIẾNG HÁN: 150. 崔夏爱, (1957),《现代汉语词义讲话》.
151. 张博, (2000),《现代汉语同形同音词与多义词的区分原则和方法》语言教学与研究 04 期。
152. 张博, (2006), 《影响同形同音词与多义词区分的深层原因》摘自《词汇学理论与应用》商务印
书馆。
153. 北京语言大学出版, (2004),《汉语语言学文萃》.
154. 北京大学出版, (1959), 《现代汉语》.
155. 北京师范大学中文系小组, (1972),《多义词,同义词,反义词》北京人民出版社.
156. 王建平, (2005),《常见错别字辨析词典》世界用书出版公司。
157. 诸葛平, 徐来娣, 姜雅明, 判例超, (2001),《汉俄语言对比实验研究》南京大学出版社。
158. 高等教育出版社, (1959),《汉语讲义》。
159. 王勤, 武战昆, (1959),《现代汉语词汇》。
160. 章士钊, (1907)《初等国文典》。
161.刘川民, (2001),《现代汉语词典中的同形同音词》杭州师范学院报 01 期。
162. 高文达, 王立适, (1982),《词汇知识》。
163. 张廷 (2006), 《现代汉语单音节同音词现状分析及辨析》
164. FanciscoVaro “Arte dela lengua mandarina” , (2003), 姚小平, 马又青, 外语教学与研究出版社。
165. 许威汉, (2001),《二十世纪的汉语词汇学》书海出版社。
166. 华中师范大学中文系, (1973),《现代汉语词汇知识》湖北人民出版社。
167. 吕文华, (1993),《对外汉语教学语法探索》语文出版社。
168. 杨青蕙, (1995),《现代汉语正吴辞典》湖南出版社。
169. 高名凯, (1957),《普通语言学》新知识出版社。
170. 谢文庆, 王振昆, (1980),《试论同音词在现代汉语发展中的作用》语文杂志 03 期。
171. 刘梦溪, (1996),《赵元任卷》河北教育出版社。
172. 武战昆, 王勤, (1983), 《现代汉语词汇概要》内蒙古人民出版社。
173. 张世林, (1999),《学林春秋》朝华出版社。
174. 王力, (1996),《汉语史稿》中华书局。
175. 王力, (1999),《同源词典》商务印书馆。
176. 王力, (2007),《古汉语字典》中华书局出版社。
177. 周祖模, (1959),《汉语词汇讲话》人民教育出版社。
178. 俞敏, 黄智显, (1956),《语言学概论讲义》北京师范大学出版。
179. 葛本仪, (1985),《汉语词汇研究》山东教育出版社。
180. 张志毅, 张庆云, (2005),《词汇词义学》商务印书馆。
181. 邢富义, (2000),《汉语语法学》东北师范大学出版社。
182. 张永言, (1982),《词汇学讲论》华中工学院出版社出版。
183. 何霭人, (?)《 普通话讲义》
184. 孙积君, (1982),《论词义》。
185. 朱英贵, (2002),《汉语语法散论》香港新天出版社。
186. 刘叔新, 李行健, (1975),《怎样使用词语》天津人民出版社。
187. 刘叔新, (2000),《汉语描写词汇学》商务印书馆。
188. 周星, (1981),《汉语词义简析》湖北人民出版社出版。
189. 符准清, (1985),《现代汉语词汇》北京大学出版社。
190. 符准清, (1996),《词义的分析和描写》语文出版社。
191. 徐青, (1983),《词汇漫谈》浙江出版社。
192. 孙继善, (2001),《双音节多义词与双音节同音词的划界问题》内蒙古社会科学 05 期。
193. 商务印书馆, (2006),《词汇学理论与应用》。
194. 商务印书馆, (2006),《普通话水平测试实施纲要》。
195. 商务印书馆, (1998),《现代汉语词典》修订本。
196. 上海外国语学院—哈尔滨外国语学院, (1959),《语言学引论》时代出版社。
197. 徐世荣, (1996),《北京土语词典》。
198. 周存, 杨世铁, (2006),《汉语词汇研究百年史》外语教学与研究出版社。
199. 周存, (2006),《词汇学词典学研究》商务印书馆。
200. 孙常孜, (1956), 《汉语词汇》.
201. 吕叔湘, (2003)《现代汉语八百词》商务印书馆。
202. 马建忠, (?)《马氏文通》。
203. 顾越, (1981), 《汉语拼音词汇同音词再统计》, 语文研究.
204. 刁晏, (2004),《现代汉语虚义动词研究》,辽宁师范大学出版社。
205. 肖懋燕, 陈杰, (2002),《多功能学生语文词典》上海辞书出版社。
TIẾNG ANH :
206. Ashe, R.E (ed) (1994). The Encyclopedia of Language and Linguistics. Volume 08, Pergamon Press
Ltd.
207. Thompson L.C (1965). A Vietnamese Grammar. University of Washington Press.