intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tìm hiểu về công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

150
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ sau Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI, các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm ở nước ta đã chuyển từ hoạt động kinh doanh theo cơ chế bao cấp, bù lỗ sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trên thực tế, cơ chế thị trường đã tác động ngày càng sâu, rộng vào hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Nhiều hiện tượng và khuynh hướng mới đã nảy sinh, trong đó nhiều vấn đề phải được xem xét và nhận thức lại. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tìm hiểu về công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998

  1. LUẬN VĂN: Tìm hiểu về công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998
  2. lời nói đầu Từ sau Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI, các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm ở nước ta đã chuyển từ hoạt động kinh doanh theo cơ chế bao cấp, bù lỗ sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trên thực tế, cơ chế thị trường đã tác động ngày càng sâu, rộng vào hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Nhiều hiện tượng và khuynh hướng mới đã nảy sinh, trong đó nhiều vấn đề phải được xem xét và nhận thức lại. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm đang diễn ra hết sức sôi động. Bên cạnh những thành tựu bước đầu rất quan trọng, còn bộc lộ không ít những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm những năm qua. Những hạn chế thiếu sót trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm do nhiều nguyên nhân, trong đó sự yếu kém trong công tác tổ chức quản lý kinh doanh là một nguyên nhân chủ yếu. Điều kiện và môi trường của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm đã thay đổi, trong khi đó phương thức tổ chức - quản lý kinh doanh chưa thay đổi kịp, nhiều vấn đề trong tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm đang được đặt ra, có những vấn đề rất gay gắt. Vì vậy nghiên cứu, tìm hiểu công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị Trường học Hà Nội là một đòi hỏi bức thiết cả về lý luận và thực tiễn trong tình hình hiện nay. Tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm là một quá trình đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp tổng hợp, các biện pháp tổ chức kinh doanh, các cách thức tác động và giải quyết của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để nhằm vào mục tiêu đã định của doanh nghiệp đã đề ra. Tổ chức - quản lý tốt lao động, vật tư tiền vốn, giảm tối đa các chi phí kinh doanh, sắp xếp bộ máy tổ chức của doanh nghiệp để không ngừng nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp và cho xã hội. Do đó tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm trong nền kinh tế thị trường đã gắn liền với hoạt động kinh doanh, giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt với công tác phát hành Sách giáo khoa và các thiết bị giảng dạy và học tập ở Hà Nội trong điều kiện hiện nay. Thực hiện tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm lại càng có ý nghĩa quan trọng. Thông qua các kết quả mà tổ chức - quản lý và kinh doanh các xuất bản phẩm có được giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ thực trạng hoạt
  3. động của mình, những điểm mạnh cũng như hạn chế để căn cứ vào đó xây dựng kế hoạch nhập và tiêu thụ các xuất bản phẩm hợp lý phù hợp với nhu cầu, phát huy được tối đa hiệu quả từ những cách thức tổ chức, quản lý, đảm bảo được sự kết hợp hài hòa giữa kinh doanh và phục vụ đồng thời giữ vững được vai trò chủ đạo của mình trên thị trường. Với tinh thần đó, qua quá trình tìm hiểu thực tế tại Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này với đề tài: "Tìm hiểu về công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998". Tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội được xem xét dưới góc độ là đối tượng quản lý Nhà nước về kinh tế. Luận văn này nhằm vào các mục đích chính sau đây: a- Phân tích để làm rõ tổ chức quản lý và ý nghĩa của nó đối với Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội. b- Đánh giá thực trạng tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998 từ đó rút ra những vấn đề đang đặt ra trong công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội. c- Bước đầu đề xuất một số phương hướng đổi mới hoạt động tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội những năm tới. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung vào giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể dưới đây: Một là: Khái quát những vấn đề chung về tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm nhằm làm nổi bật quá trình hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Hai là: Phân tích thực trạng tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998. Ba là: Đề xuất một số phương hướng cơ bản và những biện pháp cụ thể trước mắt nhằm đổi mới công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong những năm tới.
  4. Đây là đề tài nghiên cứu về kinh tế, nội dung đề cập đến nhiều vấn đề rất khó và hết sức phức tạp trong hoạt động kinh doanh hiện nay. Vì vậy, có thể có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau. Trong luận văn này, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm được coi là một đối tượng của quản lý Nhà nước về kinh tế. Do vậy, những vấn đề về tổ chức - quản lý hoạt động nghiệp vụ, quản lý công tác tư tưởng văn hóa, không phải là trọng tâm nghiên cứu của luận văn mà chỉ được đề cập đến ở những mức độ nhất định. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, sản phẩm mà nó kinh doanh rất đa dạng và phong phú. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề tổ chức - quản lý kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm (ở đây là Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội) là chủ yếu, còn các doanh nghiệp In và xuất bản chỉ đề cập ở một mức độ nhất định. Sản phẩm của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm được phân tích, đánh giá trong luận văn là Sách giáo khoa và các Thiết bị, ấn phẩm giảng dạy và học tập trong Trường học. Vấn đề quản lý được nghiên cứu, giải quyết trong luận văn là trên góc độ quản lý vi mô ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội, tuy nhiên góc độ quản lý vĩ mô sẽ là các dẫn chứng minh họa trong luận văn để việc luận giải có tính thuyết phục hơn. Trong quá trình nghiên cứu của luận văn, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm luôn được đặt vừa trong tổng thể của các phương tiện thông tin đại chúng, vừa trong tổng thể kinh tế quốc dân và đặc biệt luôn xem xét nó trong mối quan hệ khăng khít với ngành In và xuất bản. Ngoài phần mở đầu, và kết luận, luận văn được trình bày theo ba chương: Chương 1: Tổ chức quản lý và ý nghĩa của nó đối với Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội. Chương 2: Thực trạng tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998. Chương 3: Nhận xét chung và một số ý kiến đề xuất qua nghiên cứu công tác tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội trong hai năm 1997-1998.
  5. Ngoài việc vận dụng cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu cơ bản, truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả của đề tài này còn sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, thống kê ... Trong đó đã cố gắng nhất quán thực hiện sự gắn bó giữa quan điểm đường lối chính sách, kinh nghiệm thực tiễn với một số kiến thức khoa học hiện đại.
  6. Chương 1 tổ chức quản lý và ý nghĩa của nó đối với Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà nội I. Những yêu cầu đặt ra trong quá trình tổ chức, quản lý, kinh doanh xuất bản phẩm 1. Đặc điểm của việc tổ chức hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm Như chúng ta đã biết, thực chất của kinh doanh xuất bản phẩm là quá trình đầu tư vốn và công sức để tổ chức các hoạt động mua bán hàng hóa xuất bản phẩm, nhằm đạt lợi nhuận. Lợi nhuận trong kinh doanh xuất bản phẩm không chỉ là tiền lãi thu được sau một quá trình kinh doanh mà còn là cái “lãi” của quá trình sử dụng xuất bản phẩm trong xã hội. Bởi vì kinh doanh xuất bản phẩm vừa là hoạt động kinh tế, vừa là lĩnh vực tư tưởng văn hóa, có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện mục tiêu chung của xã hội. Trên thực tế xuất bản phẩm là sản phẩm của quá trình lao động sáng tạo và công nghệ chế bản, nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục, phổ biến trí thức thông qua việc mua bán trên thị trường, nên xuất bản phẩm trở thành đối tượng của kinh doanh. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp xuất bản phẩm nhằm: Thỏa mãn nhu cầu xuất bản phẩm của xã hội và mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Do đó trong quá trình tổ chức kinh doanh cho doanh nghiệp hoạt động phải xoay xung quanh mục tiêu này. Mọi hoạt động nhằm cản trở hay có tác động cản trở doanh nghiệp thực hiện mục tiêu cần được loại bỏ nhanh chóng trong chương trình và biện pháp hoạt động của doanh nghiệp. Xuất bản phẩm là loại hàng hóa đặc thù do đó tất yếu cũng hình thành những người chuyên nghiệp làm lưu thông nó trên thị trường và tổ chức hoạt động của họ là các doanh nghiệp xuất bản phẩm. Doanh nghiệp xuất bản phẩm ở Việt Nam được thành lập trên cơ sở nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 và những luật định về doanh nghiệp, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất bản phẩm nói riêng được thành lập phải có những điều kiện tiên quyết như: Vốn (vốn lưu động tối thiểu quy định và vốn cố định là cơ sở vật chất, kỹ thuật, các phương tiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh). Các doanh nghiệp xuất bản phẩm thực hiện những nhiệm vụ như:
  7. - Tập trung các hành vi mua và bán vào tay mình để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và thúc đẩy sản xuất xuất bản phẩm phát triển, mở rộng. Thông qua đó doanh nghiệp thỏa mãn được nhu cầu xuất bản phẩm của khách hàng trong xã hội. - Góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ của sản xuất - lưu thông xuất bản phẩm do yêu cầu của lưu thông trong tình hình mới. Doanh nghiệp thực hiện bằng hai cách: + Doanh nghiệp đưa đến cho khách hàng những xuất bản phẩm có chất lượng tốt, có giá trị sử dụng cao theo định hướng của Nhà nước. + Phản ánh chính xác những nhu cầu thị trường về xuất bản phẩm. Định hướng cho người sản xuất những chủ đề, tư tưởng, những nội dung xuất bản phẩm vừa hợp nhu cầu thị trường vừa có ý nghĩa giáo dục xã hội cao. - Phát triển các hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm theo đa dạng hoá các mặt hàng xuất bản phẩm và đa phương hoá các mối quan hệ giao dịch buôn bán (với trong nước và ra nước ngoài). - Quản lý tốt lao động, vật tư tiền vốn, giảm tối đa các chi phí kinh doanh để không ngừng nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp và cho xã hội. - Tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường, pháp luật kinh tế và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam.Thực hiện các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của xã hội. Đảm bảo tốt những nhiệm vụ trên đây, doanh nghiệp thực sự là một tổ chức kinh tế hợp pháp để thực hiện quá trình tổ chức kinh doanh với mục đích có lợi. 2. Đặc điểm của quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm Cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, hệ thống quản lý trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm bao gồm hai phân hệ: Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Mỗi phân hệ là một hệ thống phức tạp có mối quan hệ qua lại với nhau. Đối tượng quản lý là toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm bao gồm cả hoạt động phát hành xuất bản phẩm chuyên nghiệp và hoạt động phát hành xuất bản phẩm nhất thời. Đối tượng này có cơ cấu tổ chức phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
  8. nhau. Điểm đặc biệt của đối tượng này là: Đây là một hoạt động xã hội rộng lớn thuộc nhiều lĩnh vực ở nhiều cấp nhiều ngành khác nhau. Ngành xuất bản ra đời và phát triển chỉ với tư cách là ngành chuyên môn nghiệp vụ, các đơn vị cơ sở của ngành là một đơn vị độc lập, trực thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Mỗi hoạt động cụ thể đều do một tổ chức, một cơ quan...khác nhau đứng ra xin phép hoạt động. Về mặt pháp lý mà xét, ai xin phép hoạt động, người đó chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình. Vì vậy các quan hệ quản lý ở đây xuất phát từ hai bộ phận chủ thể khác nhau. Hoạt động quản lý cũng được phân ra thành hai dạng: Quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước và quản lý của cơ quan chủ quản với các đơn vị trực thuộc. Cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm là: - Cấp Trung Ương là Bộ Văn hóa thông tin có nhiệm vụ thống nhất quản lý Nhà nước trong toàn quốc đối với hoạt động xuất bản (kinh doanh xuất bản phẩm là một bộ phận của hoạt động xuất bản)(1). - ở địa phương, Sở văn hóa thông tin là cơ quan chuyên môn giúp chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất bản cũng như phát hành xuất bản phẩm ở Tỉnh, thành phố. Chức năng , nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ Văn hóa thông tin được Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ) quy định theo Nghị định 196/ HĐBT, Chức năng quản lý Nhà nước của Bộ Văn hóa thông tin đối với hoạt động xuất bản phẩm thể hiện cụ thể trên ba nội dung sau: a) Định hướng cho hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm toàn quốc theo đúng tính chất, chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định Các văn bản pháp luật và dưới luật là những căn cứ pháp lý và là cơ sở cho việc định hướng hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Xuất phát từ quan điểm của Đảng với hoạt động xuất bản phẩm nói chung và hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng, Bộ Văn hóa thông tin xây dựng các chính sách quốc gia về phát triển sự nghiệp xuất bản (trong đó có kinh doanh xuất bản phẩm). Từng giai đoạn cụ thể, Bộ Văn hóa thông tin phải vach ra (1) Nghị định 196 HĐBT về quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm quản lý Nhà nước của các
  9. được chương trình kế hoạch phát triển toàn ngành, đề ra các mục tiêu và cân đối lớn cho toàn bộ hoạt động xuất bản trong cả nước. b) Điều tiết hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm toàn quốc trên cơ sở sử dụng hệ thống công cụ quản lý, trong đó hết sức chú ý đến sự kết hợp giữa tác động kinh tế, tác động hành chính luật pháp và tác động tâm lý giáo dục. Chức năng điều tiết của Bộ Văn hóa thông tin thể hiện trước hết ở điều tiết kế hoạch đề tài của các Nhà xuất bản và quy định thẩm quyền cấp giấy phép xuất bản nhất thời cho các Sở Văn hóa thông tin. Để tránh trùng lặp và “lấn sân” lẫn nhau, Bộ Văn hóa Thông tin trực tiếp xem xét, duyệt kế hoạch đề tài của từng Nhà xuất bản. Những đề tài trùng nhau, những đề tài không thuộc chức năng, nhiệm vụ hoặc thẩm quyền quyết định của Sở là đối tượng điều tiết của Bộ. Bộ Văn hóa thông tin phối hợp với các Bộ có liên quan đề xuất và xây dựng những chế độ, chính sách đối với ngành xuất bản như: chế độ nhuận bút, chế độ lương, các tiêu chuẩn chức danh ngành. chính sách giá, thuế... để chính phủ ban hành. Những chế độ, chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản nói chung và hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng được ban hành chính là cơ sở pháp lý để tiến hành điều chỉnh hoạt động xuất bản hay phát hành xuất bản phẩm phát sinh trong tương lai. c) Kiểm tra toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nhằm duy trì trật tự, kỷ cương theo luật định Chức năng kiểm tra của Bộ Văn hóa Thông tin thể hiện ở những nội dung chính sau: - Kiểm tra, giám sát việc thực hiện tôn chỉ mục đích của các cơ sở phát hành xuất bản phẩm theo quy định của giấy phép hoạt động. - Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các thủ tục, thể lệ chế độ, chính sách trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. - Kiểm tra việc thực hiện quy trình hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. - Kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của các cơ sở phát hành xuất bản phẩm. Bộ 11/12/1989.
  10. Chức năng quản lý Nhà nước của các Sở Văn hóa Thông tin đã được Bộ phân cấp. Trách nhiệm và quyền hạn của Sở chỉ trong giới hạn của những thẩm quyền được giao. Theo sự phân cấp quản lý, Bộ Văn hóa Thông tin quy định: Toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm chuyên nghiệp và kinh doanh xuất bản phẩm nhất thời của các cơ quan, đoàn thể Trung Ương đều do Bộ trực tiếp quản lý, Sở Văn hóa Thông tin chỉ quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nhất thời của địa phương. Theo quy định số 330/BBT năm 1987 (của Bộ Thông tin cũ) Sở Văn hóa Thông tin được phép cấp giấy phép xuất bản và kinh doanh nhất thời những loại xuất bản phẩm sau đây: - Các tài liệu dùng vào mục đích tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng Bộ địa phương và những loại sách người tốt, việc tốt của địa phương. - Các tác phẩm văn nghệ do phong trào vận động sáng tác của địa phương tổ chức. - Các công trình nghiên cứu, sưu tầm về lịch sử, văn hóa của địa phương. - Các ấn phẩm: Tranh, ảnh,... giới thiệu cảnh đẹp địa phương. Các loại ấn phẩm sau, Sở không được cấp giấy phép: - Các loại báo, tạp chí, phụ trương, đặc san. - Các loại sách dịch: Trường hợp địa phương thực sự có nhu cầu thì phải xin phép Bộ, chỉ khi Bộ cho phép mới được tổ chức xuất bản và kinh doanh sách dịch. - Việc in lại sách của các Nhà xuất bản chuyên nghiệp phải được các Nhà xuất bản và tác giả của cuốn sách đó đồng ý và phải đưa vào kế hoạch xuất bản của địa phương. - Không được in các loại Bản đồ quốc gia, các loại lịch nếu không được sự đồng ý c ủa B ộ( 2 ) . Những quy định trên cho thấy mức độ, phạm vi và thẩm quyền của Sở Văn hóa Thông tin đối với hoạt động xuất bản và kinh doanh các xuất bản phẩm. Sở không trực tiếp quản lý và cấp giấy phép cho Nhà xuất bản hay các cơ sở phát hành của chính địa phương mình. (2) Thông tư 330/BBT năm 1987 của Bộ thông tin.
  11. Cơ quan chủ quản của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm là cơ quan đứng tên xin giấy phép tiến hành hoạt động xuất bản. Dù là kinh doanh xuất bản phẩm chuyên nghiệp hay kinh doanh xuất bản phẩm nhất thời đều phải do một tổ chức, một cơ quan hay một cá nhân nhất định đứng ra xin giấy phép hoạt động. Đối với kinh doanh xuất bản phẩm chuyên nghiệp chỉ có các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội ở Trung ương và các Tỉnh, ủy, ủy ban nhân dân tỉnh mới có đủ tư cách đứng ra xin giấy phép thành lập Nhà xuất bản hay các công ty phát hành xuất bản phẩm. Đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nhất thời, tất cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân có nhu cầu kinh doanh xuất bản phẩm đều được quyền xin giấy phép xuất bản. Cơ quan chủ quản có trách nhiệm sau đây: - Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của mình. - Chịu trách nhiệm về phương hướng kinh doanh xuất bản phẩm. - Bảo đảm lực lượng cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cho hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của mình. - Chịu trách nhiệm về mọi hoạt động tài chính trong quá trình kinh doanh xuất bản phẩm. - Phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm mà mình đứng tên xin phép. Sự phân định trách nhiệm trên xuất phát từ quan điểm là phải làm rõ: Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của ai, ai đứng ra xin phép hoạt động, ai chịu trách nhiệm về hoạt động đó? Từ đó có thể xác định được ranh giới giữa quản lý Nhà nước với quản lý của cơ quan chủ quản. Trên thực tế, nền kinh tế thị trường không chấp nhận bộ máy tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh cồng kềnh của ngành phát hành sách thời bao cấp. Vì vậy để thích nghi với nền kinh tế thị trường thì vấn đề đầu tiên là sắp xếp lại bộ máy tổ chức quản lý phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Trong toàn ngành kinh doanh xuất bản phẩm, mỗi Công ty phát hành sách đều là mỗi cơ sở tự hạch toán kinh doanh độc lập. Quá trình tổ chức lại ngành: thu hồi
  12. cấp quận, huyện, tinh giảm bộ máy tổ chức quản lý ngành, chuyên môn hoá, trẻ hoá đội ngũ cán bộ. Bộ máy tổ chức ngành phát hành sách tính đến tháng 8 năm 1997 đã giảm 45% từ 4250 cán bộ còn 2310 cán bộ trong cả nước. Cùng tác động vào hoạt động quản lý kinh doanh xuất bản phẩm còn có các ngành, các tổ chức liên quan khác như: Cơ quan kế hoạch, tài chính, ngân hàng, vật giá, Cục xuất bản, Cục bản quyền, cơ quan bảo vệ văn hóa của Bộ Công an... Sự tác động của các cơ quan này nhằm mục đích duy trì trật tự, kỷ cương và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phát triển. Toàn bộ tác động quản lý trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm được mô hình hóa như sau: Mô hình tác động quản lý trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm CQ Đảng KDXBP ở TW chuyên nghiệp của Tổng công CQ NN ty PHS ở TW BộVăn Trung ương hoá Thôngtin Cục xuất bản Tổchức KDXBP của chính trị các Nhà XH xuất bản ở TW TW
  13. KDXBP chuyên Tỉnh ủy nghiệp ở địa phương ủy ban UBND Tỉnh nhân dân Sở Văn hóa Tỉnh thông tin KDXBP nhất thời ở Tổ chức Địa phương chính trị xã hội địa phương Các cơ quan Bảo v ệ văn kế hoạch, tài hóa chính, ngân hàng Qua mô hình trên, chúng ta thấy tác động quản lý trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm rất đa dạng, phức tạp. Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm trong cả nước, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành tạo nên sự tác động đồng chiều theo một định hướng thống nhất. 3. Mục tiêu kinh tế và phục vụ nhiệm vụ chính trị Kinh doanh xuất bản phẩm là một ngành thương nghiệp đặc biệt, nó có nhiệm vụ kinh doanh các loại hàng hóa đặc thù đảm bảo được hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nếu coi nhẹ cái này, đề cao cái kia hoặc ngược lại là thiếu sót lớn. Thời kỳ bao cấp, nhìn chung, chúng ta chỉ chú ý đến chức năng xã hội, không chấp nhận chức năng kinh tế; Bản thân chức năng xã hội của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng và hoạt động xuất bản nói chung trong thời kỳ này cũng được nhìn nhận một cách khô cứng, máy móc thậm chí có cả “méo mó”. Chúng ta chỉ chú trọng đến tuyên truyền, Giáo dục và tổ chức theo những khuôn mẫu đã định trước. Chính vì vậy mà sách xuất bản thì nhiều nhưng tác dụng và hiệu quả đối với xã hội rất thấp. Nhu cầu thông tin,
  14. giải trí của quần chúng không được đáp ứng đầy đủ. Nội dung của các xuất bản phẩm chỉ đem lại cho người đọc thông tin một chiều, thậm chí có lúc có nơi còn sai lệch. Những loại sách phục vụ nhu cầu giải trí, thư giãn trong đời sống không được chú ý xuất bản, nhiều khi lại coi đó là nhu cầu “xa xỉ” không lành mạnh. Thực tế hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm bao cấp cho thấy: chúng ta đã tuyệt đối hoá chức năng xã hội theo nhưng quan điểm giáo điều, cứng nhắc. Vì vậy, hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm cũng bị hạn chế rất nhiều. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm không còn được bao cấp, bù lỗ. Vấn đề hạch toán kinh doanh đã trở thành nhiệm vụ cần thiết đối với mỗi Nhà xuất bản và các cơ sở phát hành xuất bản phẩm. Chức năng kinh tế được xác định là một đòi hỏi tất yếu. Vấn đề đặt ra là hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm trong cơ chế mới có những chức năng gì, quan hệ giữa các chức năng đó ra sao? Nhìn chung, dù trong điều kiện cơ chế mới, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm tuyệt nhiên không phải chỉ là để kiếm lời. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm không phải chỉ là lợi nhuận mà còn có cả những mục đích xã hội cao quí khác. Mục tiêu xã hội bao giờ cũng là bản chất của một nền xuất bản tiên tiến. Điều này đòi hỏi trong có chế mới chức năng xã hội và chức năng kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phải được gắn bó chặt chẽ với nhau, không được xem nhẹ một chức năng nào. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm là đem những sản phẩm văn hóa tinh thần được vật hoá thành xuất bản phẩm đến những khách hàng để nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của họ. Bất kỳ trong điều kiện hoàn cảnh nào, đó vẫn luôn là mục đích xã hội cao cả của mọi nền kinh doanh xuất bản phẩm tiên tiến. Nhu cầu văn hóa tinh thần của xã hội, không và không bao giờ có thể đo được bằng thước đo giá trị. Đây là nhu cầu mà không phải lúc nào cũng “có tiền là mua được”. Trong thực tế có những nhu cầu văn hóa tinh thần phải tốn bao giá trị mới có thể đạt được. Ngược lại, muốn xóa đi một thành quả trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa mà phải nhiều thế hệ mới vun đắp, xây dựng lên được, cũng chẳng tốn bao nhiêu. Một cuốn sách tốt, có tác dụng hết sức to lớn và sâu rộng đối với cuộc sóng tinh thần của xã hội, trong khi đó chi phí bằng tiền mà xã hội bỏ ra để sản xuất và phổ biến nó chỉ trong một giới hạn và mức độ nhất định. Ngược lại, một cuốn sách có tác hại vô
  15. cùng to lớn, nhiều khi chi phí cho việc kinh doanh xuất bản nó rất ít. Điều này cho thấy, vì sao trên thực tế, bằng con đường tư tưởng văn hóa để tha hóa con người lại là cách làm dễ nhất, nhanh nhất và rẻ nhất. Những mục tiêu xã hội cao đẹp có tác dụng to lớn và ý nghĩa lâu dài không phải dễ dàng đạt được. Mục tiêu kinh tế, tuy rất quan trọng, nhưng ý nghĩa, tác dụng của nó chỉ trong một giới hạn và phạm vi nhất định, khả năng đạt được không phải là quá khó khăn. Để thực hiện những mục tiêu xã hội cao quý của mình, hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phải thông qua quá trình sản xuất và phổ biến (kinh doanh) các xuất bản phẩm của mình đến toàn xã hội. Về phương diện kinh tế, quá trình đó không thể không tính đến hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm cho việc duy trì và tiến hành hoạt động bình thường trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Không có hiệu quả kinh tế thì trong điều kiện cơ chế thị trường không thể tiến hành hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm bình thường được. Các Nhà xuất bản và các cơ sở phát hành xuất bản phẩm quan tâm đến hiệu quả kinh tế là một yêu cầu tất yếu hiện nay. Dưới góc độ tiêu dùng xã hội, cái mà xã hội quan tâm trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm chính là ở giá trị nội dung của các xuất bản phẩm. Nói một cách khác, xã hội đòi hỏi ở những người sản xuất và phát hành xuất bản phẩm không phải là khối lượng giá trị mà họ tạo ra mà là ở chất lượng các sản phẩm văn hóa tinh thần của họ cung cấp cho xã hội. Vì vậy việc tính toán hiệu quả kinh tế là tất yếu đối với người tiêu dùng xã hội. Mục đích của tiêu dùng xã hội trong lĩnh vực này là những giá trị văn hóa tinh thần tiềm ẩn bên trong vỏ vật chất mà mỗi xuất bản phẩm thể hiện. Do vậy trên phạm vị toàn xã hội và dưới góc độ của toàn ngành, hiệu quả kinh tế không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đạt được hiệu quả xã hội. Đối với từng doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm, với tư cách là một đơn vị kinh doanh hàng hóa phục vụ xã hội, mục tiêu kinh tế là một tất yếu. Vì vậy, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm phải được xem xét trên hai góc độ khác nhau là trên góc độ xã hội và góc độ người kinh doanh (các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm). Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn và một cơ chế chính sách phù hợp để hoạt
  16. động kinh doanh xuất bản phẩm có thể cùng một lúc vừa đạt được hiệu quả xã hội vừa đạt được hiệu quả kinh tế. Trong điều kiện đó, hoạt động sản xuất kinh doanh xuất bản phẩm ở nước ta hiện nay không chỉ thiên về hiệu quả kinh doanh và ngược lại cũng không thể chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Mà phải biết kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố tưởng như đối lập đó để đạt được mục tiêu cuối cùng là dân giàu, nước mạnh xã hội văn minh. Thứ nhất: Phải coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội tức là tạo điều kiện để mọi người dân ở mọi vùng lãnh thổ đều có quyền hưởng thụ các tri thức thông qua xuất bản phẩm. Mặt khác, coi trọng hiệu quả xã hội là trong sản xuất kinh doanh phải coi trọng sự lựa chọn đề tài, những chủ đề tư tưởng đáp ứng nhu cầu, thị hiếu, song phải dựa trên cơ sở định hướng của Nhà nước. Đảm bảo sự tinh lọc, lành mạnh trong hưởng thụ tri thức văn hóa tinh thần trí tuệ thông qua xuất bản phẩm. Thứ hai: Đồng thời cũng phải coi trọng hiệu quả kinh tế, để giải phóng lao động, giải phóng sức sản xuất lưu thông xuất bản phẩm, góp phần tạo ra sự phong phú về hàng hóa xuất bản phẩm, kích thích các cá nhân, các doanh nghiệp, năng động, sáng tạo, tìm kiếm mẫu mã, cải tiến sản xuất và có được nhiều các biện pháp kinh doanh. Đây là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển mà điều đó dang rất cần đối với nước ta hiện nay. Đứng trên bình diện xã hội và toàn ngành thì dứt khoát hiệu quả kinh tế không phải là mục tiêu cao nhất. Song đối với các doanh nghiệp với tư cách là một đơn vị kinh tế thì mục tiêu kinh tế (như đã nói ở trên) là tất yếu. Do đó việc giải quyết hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội phải đứng trên góc độ khác nhau, đặc biệt Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng để không vì văn hóa mà không có kinh tế, ngược lại không vì kinh tế mà mất đi bản sắc văn hóa, làm tổn thương văn hóa. II- ý nghĩa và nội dung của Tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm đối với Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà nội 1. ý nghĩa của tổ chức - quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết bị trường học Hà Nội
  17. Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa ra là để bán, hàng hóa muốn bán được nhanh, được nhiều thì người ta phải quảng cáo chất lượng khen đẹp, khen tốt. Kinh doanh theo đúng nghĩa của là hoạt động kiếm lời, là hoạt động nhằm sinh lợi của con người, nó còn là quá trình đầu tư công sức và tiền của nhằm thu được lợi nhuận. Nhưng trong điều kiện hiện nay hoạt động kinh doanh không dễ dàng bởi nó vấp phải sự cạnh tranh từ nhiều phía, nhiều người bán, ít người mua, hay nói cách khác là cung lớn hơn cầu cùng với sự biến động thường xuyên của thị trường khiến cho kinh doanh trở nên vô cùng khó khăn và phức tạp. Để kinh doanh đạt được hiệu quả cao nhất trên cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn, lao động cần phải xác định các phương hướng, các sách lược, các biện pháp kinh doanh, đầu tư sử dụng tối đa những điều kiện sẵn có. Do đó cần phải nắm bắt được các nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ và xu hướng ảnh hưởng của từng nguyên nhân đến kết quả công việc của mình, thường xuyên điều tra, tính toán cân nhắc, soạn thảo và lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu sao cho chi phí ít nhất mà đem lại được kết quả cao nhất. Tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm dựa trên cơ sở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm kết quả toàn bộ của quá trình kinh doanh (từ nhập hàng đến tiêu thụ, kết quả tài chính cũng như kết quả của từng khâu, từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng hoạt động kinh doanh phát sinh tạo thành). Kết quả này được biểu hiện bởi cách thức tổ chức cũng như phương thức quản lý kinh doanh tạo thành. Do kết quả kinh doanh có nội dung và phạm vi khác nhau mà hệ thống tổ chức - quản lý kinh doanh cũng sẽ rất khác nhau, có thể là phương pháp tổ chức kinh doanh theo thời kì hoặc cũng có thể là cách áp đặt mối quan hệ quản lý giữa cấp trên và cấp dưới, có thể quan hệ quản lý giữa từng khâu trong hoạt động kinh doanh. Tất cả những điều này nói lên sự cần thiết phải tổ chức - quản lý kinh doanh một cách cụ thể, phân định thành hệ thống rõ ràng và mỗi khâu trong mối quan hệ quản lý phải có được những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể để dễ bề truy cứu trách nhiệm khi có phát sinh xảy ra. Qua phân tích đối tượng của tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh cho thấy trong cơ chế thị trường hiện nay tổ chức - quản lý kinh doanh có ý nghĩa quyết định đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tổ chức - quản lý tốt hoạt động kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp có cái nhìn tổng quát và đầy đủ nhất những gì đã đạt được và những gì chưa làm
  18. được, cần phải hạn chế tối thiểu trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh thì vấn đề quan trọng nhất là phải hoạt động có hiệu quả để duy trì sự tồn tại và phát triển của chính bản thân mình. Đối với Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội, là doanh nghiệp Nhà nước tự hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi đảm bảo hiệu quả kinh tế đồng thời có nhiệm vụ đáp ứng đầy đủ nhu cầu về Sách giáo khoa và các thiết bị giảng dạy cũng như học tập cho Hà Nội. Để đạt được 2 mục tiêu ấy thì tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi vì cùng một lúc nó phải giải quyết tốt hai vấn đề hết sức khó khăn và đầy mâu thuẫn là kinh doanh và phục vụ. Những kết quả mà tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh có được giúp cho Công ty hiểu rõ về thực trạng quá trình tổ chức - quản lý kinh doanh cũng như tiềm năng của mình. Cơ chế thị trường với sự tồn tại của quy luật kinh tế khắc nghiệt khiến cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hết sức khó khăn và vất vả. Nhưng không vì thế mà Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội nản lòng và có thể khẳng định bước đầu rằng một phần có được sự thành công như hiện nay là nhờ vào Công ty đã biết sử dụng được các biện pháp kinh doanh và các nghiệp vụ kinh doanh, trong đó tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh có một vai trò và đóng góp nhất định. Tổ chức - Quản lý cơ sở vật chất, tổ chức sắp xết bộ máy lao động, phân bổ lao động hợp lý đúng người, đúng việc để mỗi người có thể phát huy được khả năng của mình vào hoạt động chung của Công ty, tăng năng suất lao động tiết kiệm tối thiểu thời gian nhàn rỗi. Bên cạnh nhân tố con người để hoạt động kinh doanh có hiệu quả cũng cần phải tiết kiệm các yếu tố vật chất khác như: sử dụng hợp lý các nguồn vốn đưa vào kinh doanh, biết cách huy động vốn để đầu tư vào hoạt động kinh doanh, phát huy tối đa hiệu quả của đồng vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm tối thiểu được những mất mát thiếu hụt, lãi vay ngân hàng... Thì tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh là cần thiết. Trong quá trình tổ chức quản lý tiêu thụ Sách giáo khoa và các thiết bị giảng dạy và học tập phải xác định đúng đắn, chính xác nhu cầu thị trường để xây dựng kênh tiêu thụ hợp lý có hiệu quả đưa Sách giáo khoa và các thiết bị đến tay người sử dụng nhanh nhất, kịp thời nhất, đầy đủ nhất tiết kiệm thời gian và chi phí lưu thông đảm bảo tốt chức năng phục vụ của Công ty.
  19. Trên cơ sở của những kết quả của quá trình tổ chức - quản lý kinh doanh hàng năm Công ty có thể nắm bắt được nhu cầu về Sách giáo khoa và các thiết bị trên thị trường và dự đoán được sự phát triển trong thời gian tới từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh mặt hàng một cách khoa học trước mắt cũng như lâu dài. Qua tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm Công ty sẽ đánh giá được mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cả về mặt số lượng cũng như chất lượng, rút ra được những thiếu sót trong quá trình kinh doanh, phát hiện ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan, đề xuất những biện pháp khắc phục xử lý kịp thời những thiếu sót. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm đã trở thành nhiệm vụ không thể thiếu của Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội. Chỉ có thực hiện Công tác này một cách nghiêm túc, chính xác và thường xuyên, tức là tổ chức quản lý kinh doanh xuất bản phẩm trong và sau khi thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch mới tạo ra sự nhạy bén trong kinh doanh, đẩy lùi được những khó khăn, yếu kém bảo đảm cho quá trình kinh doanh và phục vụ đem lại hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất. 2. Những nội dung cơ bản khi tiến hành Tổ chức - Quản lý kinh doanh xuất bản phẩm ở Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội a) Tổ chức - Quản lý hoạt động kinh doanh trong công tác phát hành sách giáo khoa: Hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa là cả một quá trình từ dự báo nhu cầu, xây dựng kế hoạch đến khi hoàn thành kế hoạch. Trong quá trình thực hiện thì việc tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nó theo dõi, giám sát từng giai đoạn hay toàn bộ chu kỳ kinh doanh bằng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế đạt được. Nội dung mà tổ chức - quản lý hoạt động kinh doanh phản ánh đầy đủ toàn diện và chính xác những kết quả đã đạt được để từ đó đề ra được phương hướng tổ chức - quản lý kinh doanh nhằm phát huy được những điểm mạnh cũng như hạn chế được những khiếm khuyết. Trên cơ sở những nét khái quát chung thì nội dung chủ yếu của tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh Sách giáo khoa là:
  20. - Đánh giá chung tình hình kinh doanh và phục vụ Sách giáo khoa để thấy được kết quả cuối cùng có được từ quá trình quản lý kinh doanh, biết được khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường Sách giáo khoa. - Phân tích tình hình tài chính qua tổ chức hoạt động của bộ máy kế toán trong Công ty. - Phân tích tình hình tổ chức lao động và sử dụng lao động trong quản lý kinh doanh Sách giáo khoa. - Phân tích tình hình thực hiện áp dụng các phương thức tổ chức quản lý kinh doanh. - Phân tích tình hình tổ chức tiêu thụ Sách giáo khoa để thấy được mối quan hệ giữa quản lý và kinh doanh, giữa kinh doanh và phục vụ. Với những nội dung trên có thể nói tổ chức quản lý kinh doanh trong hoạt động phát hành Sách giáo khoa là vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhưng chỉ tiến hành phân tích một cách nghiêm túc thì doanh nghiệp kinh doanh Sách giáo khoa (ở đây là Công ty Sách và Thiết Bị trường học Hà Nội) mới đề xuất được những kế hoạch tối ưu, sát với nhu cầu thực tế của thị trường để phục vụ tốt nhất đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay ngày càng nhiều và phức tạp, quản lý chặt chẽ các quy trình kinh doanh, cụ thể là phát huy tối đa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và nguồn lực lao động, hạn chế được tối thiểu những chi phí bất hợp lý, lãng phí để nâng cao hiệu quả kinh doanh. b) Tổ chức - Quản lý hoạt động kinh doanh trong công tác phát hành thiết bị trường học: Đối với hoạt động kinh doanh các thiết bị giảng dạy và học tập phục vụ trong nhà trường có những nội dung sau: - Tổ chức xây dựng kế hoạch liên doanh, liên kết và thiết lập danh mục thiết bị của các cấp học. - Quản lý chặt chẽ quá trình nhập thiết bị từ cơ sở sản xuất, theo dõi biến động của thị trường và có kế hoạch nhập thiết bị cho cần thiết.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2