intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ KINH TẾ NGA - VIỆT - ANH

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:69

104
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tình hình chính trị, kinh tế nước Nga thời kỳ hậu xô viết có nhiều biến động to lớn. Những biến đổi đó có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và LB Nga. Hai nền kinh tế mang tính tập trung, bao cấp cao bắt đàu đổi mới - chuyển sang nền kinh tế thị trường. Cùng với nền kinh tế, nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng biển đổi theo. Những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế được phản ánh rõ nét trong tiếng Nga hiện...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ KINH TẾ NGA - VIỆT - ANH

  1. LUẬN VĂN: TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ KINH TẾ NGA - VIỆT - ANH
  2. 2. Tính cấp thiết của đề tài: Tình hình chính trị, kinh tế nước Nga thời kỳ hậu xô viết có nhiều biến động to lớn. Những biến đổi đó có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và LB Nga. Hai nền kinh tế mang tính tập trung, bao cấp cao bắt đàu đổi mới - chuyển sang nền kinh tế thị trường. Cùng với nền kinh tế, nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng biển đổi theo. Những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế được phản ánh rõ nét trong tiếng Nga hiện đại, trước hết là trong lĩnh vực tù vựng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Từ vựng biến đổi nhanh chóng: trong đó xuất hiện một khối lượng lớn thuật ngữ kinh tế, biểu thị những khái niệm mới không những đối với người học tiếng Nga, mà đối với cả người bản ngữ. Do đó gần đây LB Nga đã cho xuất bản cuốn từ điển “Nhừng từ mới xuất hiện trong tiếng Nga cuối thể kỷ 19 - đầu thể kỷ 20”. Cuốn từ điển này giúp cho người đọc hiểu được những văn bản kinh tế mới. Cuốn “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh” là ý tưởng đầu tiên của tập thể tác giả tham gia đề tài muốn phản ánh tính chất đa dạng, phong phú của thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế. Việc làm này hết sức cần thiết, bởi lẽ xu hướng hội nhập và hợp tác trong đời sống kinh tế- xã hội và chính trị đang là xu hướng chủ đạo trên phạm vi toàn cầu. Hơn nữa, những cuốn từ điển kinh tế song ngữ hoặc đa ngữ được xuất bản trước đây ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam chủ yếu chứa đựng những thuật ngữ phản ánh những phạm trù và khái niệm kinh tế XHCN mà hiên nay it sử dụng. Tư thập niên 90 trở lại đây LB Nga và Việt Nam đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Cơ chế kinh tế thị trường là sản phẩm và thành quả của nền văn minh nhân loại. Trong tiếng Nga xuất hiện nhiều thuật ngữ kinh tế mới do cơ cấu kinh tế-chính trị-xã hội đ ã thay đổi trong những năm qua. Hơn nữa nội hàm ngữ nghiã của những từ đang s ử dụng bị thay đổi do ảnh hưởng của những biến động chính trị-xã hội và kinh tế ở nước Nga. Qua thống kê của các nhà ngôn ngữ, tiếng Nga đã vay mượn nhiều thuật ngữ tiếng Anh, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều thuật ngữ chưa được cập nhật trong những từ điển truyền thống, do vậy việc cung cầp cho người học và bạn đọc Việt Nam một hệ thống thuật ngữ
  3. trong lĩnh vực kinh tế chung và nhiều lĩnh vực liên quan, dù còn hạn chế, là việc làm cấp thiết nhằm giúp họ dễ dàng tiếp cận được với các phương tiện thông tin bằng tiếng Nga, đồng thời đối chiếu với tiếng Anh hiện đại trong điều kiện nuớc ta ngày càng hội nhập sâu sắc hơn vào đời sống kinh tế- chính trị- xã hội và văn hoá ở khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Tính cấp thiết của cuốn “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh” không những chỉ ở chỗ cần thiết thống kê những thuật ngữ kinh tế được sử dụng với tần số cao cho người Việt, giải thích và đưa ra những thuật ngữ tiếng Việt tương đương, mà còn nhiệm vụ phục vụ cho việc nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và LB Nga ngày càng mở rộng sau hàng loạt hội nghị cấp cao của chính phủ hai nước. 3. Mục đích và yêu cầu của công trình nghiên cứu. Là kết quả và sản phẩm của công trình nghiên cứu tiến hành trong hai năm, cuốn “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh” nhằm phục vụ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng viên, học viên các hệ cử nhân chính trị, hệ cao học và hệ nghiên cứu sinh của Học viện chính trị- hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong việc học tiếng Nga, trong việc tham khảo, đọc sách, báo, tài liệu tiếng Nga để sưu tầm tài liệu cho luận án, luận văn, tiểu luận và nghiên cứu khoa học. Khác với danh pháp, thuật ngữ trong cuốn“Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh” này là b ộ phận từ ngữ đặc biệt của các ngôn ngữ Nga, Việt, Anh. Nó phải bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi (định danh) chính xác của các loại khái niệm và đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn kinh tế như: kinh tế chính trị học, quản lý kinh tế. kinh tế phát triển, kinh doanh, tài chính, tiếp thị, luật kinh tế v.v. Những thuật ngữ trong cuốn từ điển này phải phản ánh được những đặc điểm cơ bản của thuật ngữ như: a/ Tính chính xác. Nói chung, mọi từ trong ngôn ngữ đều liên hệ với khái niệm, nhưng các khái niệm được biểu hiện trong các từ thông thường khác với các khái niệm biểu hiện trong thuật ngữ.
  4. Theo giáo sư A.A. Reformatsky, “Hệ thuật ngữ là một đặc điểm của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là của những lĩnh vực hoạt động xã hội đã được tổ chức một cách trí tuệ (dù cho đối tượng là tự nhiên đi nữa). Chính vì thế, các khái niệm được biểu hiện trong thuật ngữ là các khái niệm chính xác của một môn khoa học nào đó. Trong nhiều công trình nghiên cứu người ta không sử dụng khái niệm “ý nghĩa từ vựng” cho các thuật ngữ, mà chỉ nói “nội dung của thuật ngữ” mà thôi. Trong ngữ cảnh khác nhau, cũng như khi đứng một mình, thuật ngữ không thay đổi về nội dung. Nội hàm nghĩa của thuật ngữ không phụ thuộc vào sự phát triển của bản thân khoa học. b/Tính hệ thống. Mỗi thuật ngữ đều bị qui định bởi hai trường: trường từ vựng và trường khái niệm. Trường từ vựng là những liên kết của thuật ngữ với các từ khác trong ngôn ngữ nói chung. Tất cả các từ không phải thuật ngữ cũng nằm trong các trường như vậy. Nhưng đối với thuật ngữ, trường khái niệm có tính chất tất yếu hơn và cũng chỉ thuật ngữ mới bị qui định bởi cái trường này. Mỗi lĩnh vực khoa học đều có một hệ thống các khái niệm chặt chẽ, hữu hạn, được thể hiện bằng hệ thống các thuật ngữ của mình. Như vậy, mỗi thuật ngữ đều chiếm một vị trí trong hệ thống khái niệm. đều nằm trong một hệ thống thuật ngữ nhất định. Giá trị của mỗi thuật ngữ được xác định bởi mối quan hệ của nó với những thuật ngữ khác cùng trong hệ thống. Nếu tách một thuật ngữ ra khỏi hệ thống, thì nội dung thuật ngữ của nó không còn nữa. Tóm lại, các thuật ngữ không thể đứng biệt lập một mình, mà bao giờ cũng là yếu tố của một hệ thống thuật ngữ nhất định. c/ Tính quốc tế. Thuật ngữ là bộ phận từ vựng đặc biệt biểu hiện những khái niệm khoa học chung cho những người nói các thứ tiếng khác nhau. Vì vậy, sự thống nhất thuật ngữ giữa các ngôn ngữ là cần thiết và bổ ích. Chính điều này đã tạo nên tính quốc tế của thuật ngữ. Dựa trên ba đặc điểm cơ bản vừa nêu của thuật ngữ, , nhóm tác giả đã có diều kiện tuyển lựa thuật ngữ chính xác và đưa vào bảng từ của cuốn “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh”.
  5. 4. Cấu trúc của cuốn “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh”. Bảng từ xếp sắp theo vần chữ cái tiếng Nga. Ngoài nh ững thuật ngữ đơn và ghép (khoảng 10 000), trong từ điển còn đưa vào những từ tổ điển hình cho văn phong kinh tế, nhằm giúp người sử dụng hiểu thấu đáo hơn các thuật ngữ và sử dụng chúng trong những ngữ cảnh phù hợp. 5. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: 1/ Vấn đề thuật ngữ. Vấn đề thuật ngữ chúng ta nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Chúng ta đã học tập nhiều kinh nghiệm của chuyên gia n ước bạn để ứng dụng vào việc phát triển lý luận về thuật ngữ, thuật ngữ học, về từ điển học, trong đó có từ điển thuật ngữ. Để phục vụ cho cải cách giáo dục những năm 80 thế ký XX Bộ Giáo dục đã ban hành “Qui định về chính tả tiếng Việt” và “Qui định về thuật ngữ tiếng Việt” (5 - 3 - 1984). Trong đó nêu ra những yêu cầu chuẩn đối với hai lĩnh vực kể trên. Để thực hiện những yêu cầu chuẩn đó đã thành lập ra hai Hội động cấp nhà nước: Hội đồng chuẩn hoá chính tả tiếng Việt và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ. Về thuật ngữ các nhà khoa học đã đưa ra những qui định cụ thể, như cấu tạo và sử dụng thuật ngữ tiếng Việt, việc chuẩn hoá, hệ thống hoá . . . trong việc biên soạn sách giáo khoa, từ điển và giảng dạy. “Từ điển kinh tế Nga-Việt-Anh” được biên soạn sẽ được biên soạn theo tinh thấn chỉ đạo, cũng như những nguyên tắc của Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ kể trên. Đồng thời các tác giả cố gắng vận dụng nh ững thành quả nghiên cứu của những năm gần đây của các học giả nước ngoài và trong nước để nâng cao chất lượng công trình về lý luận cũng như thực tiễn, để theo kịp sự phát triển của ngành thuật ngữ học và từ điển học nhằm đáp ứng được yêu cầu học tập, nghiên cứu của thời đại. 2/ Vấn đề từ điển. Người Nga hiện nay đã xuất bản một số từ điển kinh tế mới, trong đó đã loại trừ những từ không phù hợp với nền kinh tế thị tr ường hiện nay, dặc biệt là bổ sung rất nhiều thuật ngữ mới phản ánh những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội nước Nga. Trên các
  6. phương tiện thông tin đại chúng chúng ta gặp rất nhiều thuật ngữ kinh tế mới, đê hiểu chúng không thể thiếu từ điển thuật ngữ chuyên ngành. Ở Việt Nam hiện chưa có cuốn từ điển song ngữ Nga - Việt nào đáp ứng được nhu cầu người học và độc giả báo chí và tư liệu tiếng Nga. 6. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp th ống kê để lựa chọn mục từ có tần số xuất hiện cao. Phương pháp phân tích ngữ nghiã để tường giải nội dung các thuật ngữ. Phương pháp đối chiếu để chọn thuật ngữ tương dương. 7. Nội dung nghiên cứu: A. Một số vần đề lý luân về thuật ngữ tiếng Nga. I. Từ vựng tiếng Việt xét về phương diẹn phạm vi sử dụng. Cũng như các ngôn ngữ khác (tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung quốc) từ vựng tiếng Việt bao gồm nhiều lớp hạng khác nhau. Khi xét về phạm vi sử dụng của các từ trong hoạt động giao tiếp, ta có thể chia ra từ vựng toàn dân và từ vựng hạn chế về mặt xã hội và lãnh thổ. 1. Từ vựng toàn dân là những từ toàn dân hiểu và sử dụng. Nó là vốn từ chung cho tất cả những người nói tiếng Việt, thuộc các địa phương khác nhau và tầng lớp xã hội khác nhau. Đây chính là lớp từ vựng cơ bản, lớp từ vựng quan trọng nhất trong một ngôn ngữ. Nhiều nhà khoa học đều nhất trí quan điểm cho rằng, từ vựng toàn dân là hạt nhân vốn từ vựng của một dân tộc, không có nó ngôn ngữ không thể tồn tại và vì thế cũng không thể có sự trao đổi giữa mọi người. Từ vựng toàn dân còn là cơ sở cho sự thống nhất ngôn ngữ. Về mặt ý nghĩa, từ vựng toàn dân biểu thị những sự vật, hiện tượng khách quan hay khái niệm quan trọng và cần thiết trong đời sống Số lượng từ vựng toàn dân thông dụng bao gồm:
  7. - danh từ: cuộc sống, ánh sáng, ngày, đêm, báo, tạp chí ... - tính từ: thân yêu, trẻ, già, đỏ, xanh ... - động từ: ăn, ở, xem, đọc ... - đại từ: tôi, chúng ta, họ ... - từ tình thái: tất nhiên, hiển nhiên, đáng tiếc, may thay ... Trong thành phần vốn từ toàn đan có hàng chục nghĩa từ. Thuộc tính của từ vựng toàn dân là tính chất phổ cập và hiểu được. Từ vựng toàn dân là bộ phân nòng cốt, hạt nhân của từ vựng văn học. Nó là vốn từ cần thiết nhất để diễn đạt tư tưởng , tình cảm, miêu tả hiện tượng, sự vật trong mỗi ngôn ngữ. Từ vựng toàn đân cũng là cơ sở để cấu tạo các từ mới, làm giầu kho từ vựng của ngôn ngữ mỗi dân tộc nói chung. Xét về đại thể, tuyệt đại đa số các từ thuộc lớp từ vựng toàn dân là những từ mang tính chất trung hoà về phong cách, tức là chúng có thể được sử dụng ở mọi phong cách chức năng khác nhau. Đối lập với lớp từ vựng toàn dân là những lớp từ vựng dùng hạn chế ở mỗi phong cách nhất định. Những lớp từ vựng bao gồm từ địa phương, từ nghề nghiệp, từ lóng, thuật ngữ. 2, Từ địa phương. Từ địa phương là những từ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương Nhìn chung, từ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói (khẩu ngữ) hàng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc, chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào sách báo văn nghệ, các từ địa phương thường mang sắc thái tu từ như diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật v.v. Chẳng hạn, bà (toàn dân) mận (Thanh Hoá) mụ (Nghệ Tĩnh), lợn (toàn dân) ỉn (Hải Hưng)` heo (Nam Bộ). kia (toàn dân) tê (Thanh Hoá rừng (toàn dân) ngàn (Nam Bô). Từ vựng địa phương chủ yếu là từ vựng khẩu ngữ. Để đảm bảo sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc, khi dùng từ địa phương trong sách báo văn học, nghệ thuật, cần phải hết sức thận trọng và có mức độ. Nói chung, chỉ nên dùng các từ địa phương vào sách báo văn
  8. nghệ trong những trường hợp hữu hạn: các sự vật nào đó lúc đầu chỉ được biết trong một khu vực nhất định, sau đó được phổ biến rộng rãi, có tính chất toàn dân. Những từ địa phương có sắc thái biểu cảm mạnh mẽ hơn so với các từ nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Nguyến Du là một bậc thầy trong việc sử dụng từ địa phương vào tác phẩm văn học. Đầu lòng hai ả Tố Nga. Cậy em em có chịu lời. Nhà văn Nguyễn Du là người miền Trung, song truyện Kiều dùng rất ít từ địa phương. Chính vì vậy Truyện Kiều đã đi vào quần chúng khắp Trung, Nam, Bắc. Đáng tiếc một số tác phẩm văn học của ta đã dùng thái quá từ địa phương gây ấn tượng nặng nề đối với bạn đọc. Văn hào Gooc-ki đã kịch liệt lên án hiện tượng dùng từ địa phương một cách lạm dụng Ông viết: “Dùng từ mà chỉ nhân dân một vùng hiểu là một sai lầm nghiêm trọng, là phản nghệ thuật”. 3. Tiếng lóng. Tiếng lóng là những từ ngữ được dùng hạn chế về mặt xã hội, tức là những từ ngữ không phải toàn dân hiểu và sử dụng, mà chỉ bó hẹp sử dụng trong một tầng lớp xã hội nào đó. Có tiếng lóng của giới trẻ, có tiếng lóng của bọn lưu manh, phe phẩy v.v. . ví như: đột vòm (ăn trôm), choai (thiếu nữ dậy thì), bắt mối (tìm hàng) ... Mặc dù tiếng lóng chỉ là từ có tính chất thông tục, chủ yếu được dùng trong ngôn ngữ nói của một tầng lớp xã hội nhất định, nhưng những tiếng lóng không thô tục, mà chỉ là tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tượng nào đó có thể được dùng phổ biến, dần dần thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Trong các tác phẩm văn học nghệ thuật tiếng lóng được dùng làm một phương tiện tu từ để khắc hoạ tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân dân. 4. Từ ngữ nghề nghiệp. Từ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một ngành nghề nào đó trong xã hội. Những từ ngữ này thường được những người trong cùng ngành nghề đó
  9. biết và sử dụng. Do đó, từ ngữ nghề nghệp cũng là lớp từ vựng được sử dụng hạn chế về mặt xã hội. Ví dụ: cầy, bừa, bón lót, gieo thẳng (nghề nông); guồng cửi, đáng ống, sợi mộc (nghề dệt); lá, móc vanh, chằng nón (nghề làm nón); đào, kép, kép đỏ, kép xanh (nghệ thuật tuồng) v.v. Nhìn chung, tuy là lớp từ vựng khác với tiếng lóng, từ ngữ nghề nghiệp là những tên gọi duy nhất của hiện tượng thực tế. Chúng không có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ toàn dân. Tuy nhiên từ nghề nghiệp dễ dàng trở thành từ vựng toàn dân, khi những khái niệm riêng của nghề nào đó trở thành phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. Khác với tiếng lóng, từ vựng nghề nghiệp nằm trong từ vựng của ngôn ngữ văn học. Chúng có thể dùng trong sách báo chính luận và văn học nghệ thuật. Đất Bưởi có cây bồ đề, Có giếng tắm mát, có ngườii seo, cau. 5. Thuật ngữ và danh pháp. Thuật ngữ là bộ phận từ vựng đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người. Thí dụ: tư bản, tích luỹ, giá trị thặng dư (kinh tế học); âm vị, âm tiết, hình vị (ngôn ngữ học). Chúng ta cần phân biệt thuật ngữ với danh pháp khoa học. Hệ thuật ngữ trước hết gắn liền với hệ thống các khái niệm của một bộ môn khoa học nhất định. Các danh pháp là toàn bộ những tên gọi được dùng trong một ngành chuyên môn nào đó, nó không gắn trực tiếp với các khái niệm của khoa học này, mà chỉ gọi tên các sự vật trong khoa học đó mà thôi. Thí dụ trong môn địa lý, các từ: núi, sông, biển, xa mạc ... là các thuật ngữ, còn tên núi, sông, biển, sa mạc cụ thể như Tam Đảo, sông Lô, biển Đen, sa mạc Xa-ha-ra là danh pháp; tên các loại vi-ta-min A, B, C, E cũng chỉ là danh pháp. Như vậy, về mặt chức năng giống với các tên riêng. Về bản chất, danh pháp là tên riêng của các đối tượng. Nếu như ở
  10. thuật ngữ người ta nhấn mạnh chức năng định nghĩa của nó, thì đối với danh pháp chức năng định danh (gọi tên) mới là quan trọng. Thuật ngữ có thể được cấu tạo trên cơ sở các từ hoặc các hình vị có ý nghĩa sự vật vụ thể. Nội dung của thuật ngữ ít nhiều t ương ứng với ý nghĩa của các từ tạo nên chúng. Còn danh pháp có thể được quan niệm là một chuỗi kế tiếp nhau của các chữ cái (vi-a-min A, vi-a-min B ... ), là một chuỗi các con số (TU 104, SU 26) hay bất kỳ cách gọi tên võ đoán nào. Nhà ngôn ngữ học Vinovic định nghĩa danh pháp như sau: “... danh pháp khác h ệ thuật ngữ, nó chỉ là một hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta các phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lý luận hoạt động với những sự vật này”. Để so sánh thuật ngữ và danh pháp với từ bình thường và tín hiệu, ta có thể sử dụng sơ đồ sau: Tín hiêu – danh pháp - thuật ngữ - từ. Từ và tín hiệu ở vào thế đối lập, danh pháp gần với tín hiiệu, còn thuật ngữ gần với từ. II. Những tiêu chí xác định thuật ngữ trong một ngôn ngữ nhất định. Dựa vào những đặc điểm cơ bản của thuất ngữ, chúng ta có thể rút ra những tiêu chí xác định thuật ngữ trong vốn từ vựng mỗi dân tộc. Nói chung, mọi từ trong ngôn ngữ đều liên hệ với khái niệm, thế nhưng các khái niệm được biểu hiện trong các từ thông thường khác với các khái niệm được biểu hiện trong thuật ngữ. Theo quan điểm cua A.A.Re-foc- mat-xki “hệ thuật ngữ là một đặc điểm của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là của những lĩnh vực hoạt động xã hội đã được tổ chức một cách trí tuệ (A.A.Re-foc-mat-xki. Thuật ngữ và hệ thống thuật ngữ là gì?” Những vấn đề về thuật ngữ, M. 1961, tr. 45-51). Chính vì thế, các khái niệm được biểu hiện trong thuật ngữ là các khái niệm chính xác của một bộ môn khoa học nào đó. Trong nhiều công trình nghiên cứu người ta không dùng khái niệm “ý nghĩa từ vựng” cho các thuật ngữ, mà chỉ nói “nội dung của thuật ngữ”. Do sự tác động lẫn
  11. nhau, ý nghĩa của các từ thông thường có thể thay đổi trong những trường hợp khác nhau, còn nội dung của thuật ngữ là thuộc vào lĩnh vực thuần tuý về trí tuệ, chúng không bị thay đổi như thế. Số phận của thuật ngữ không phụ thuộc vào sự phát triên của bản thân khoa học. Nó chỉ thay đổi khi nào xuất hiện biểu tương mới, những quan niệm mới, chỉ thay đổi khi các khái niệm mà nó diễn đạt được xác lập lại. Trong các từ điển thuật ngữ không được giải thích nh ư các từ thông thường, mà thực chất là được định nghĩa. Sự giải thích phụ thuộc vào mẫn cảm chủ quan của con người. Còn muốn định nghĩa một thuật ngữ thì phải biết tường tận về môn khoa học thuật ngữ này. Ngày nay, tất cả các thuật ngữ đếu là các thành tố của một lý thuyết nhất định và để hiểu thuật ngữ nào đó, cần phải hiểu tất cả lý thuyết. Công việc này đôi khi vượt quá khả năng của nhà ngôn ngữ học , đ òi hỏi phải có sự hợp tác với những nhà chuyên môn khác. Như vậy, đặc điểm cũng như tiêu chí số một của thuật ngữ là tính chính xác. Mỗi thuật ngữ đều bị qui định bởi hai trường: trường từ vựng và trường khái niệm. Trường từ vựng là những liên hệ của thuật ngữ với các từ khác trong ngôn ngữ nói chung. Tất cả các từ không phải thuật ngữ cũng nằm trong cái trường nh ư vậy. Nhưng đối với thuật ngữ trường khái niệm có tính chất tất yếu hơn. Mỗi lĩnh vực khoa học đếu có một hệ thống các khái niệm chặt chẽ, hữu hạn, được thể hiện bằng hệ thống các thuật ngữ của mình. Nh ư vậy, mỗi thuật ngữ đều chiếm một vị trí trong hệ thống khái niệm, đều nằm trong một hệ thống thuật ngữ nhất định. Như vậy, muốn “thuật ngữ không cản trở đối với cách hiểu, lại thể hiện được vị trí của nó trong hệ thống thuật ngữ thì qua hình thức của thuật ngữ cần phải khu biệt nó về chất với các thuật ngữ khác loạt, đồng thời có thể khu biệt nó về quan hệ so với những khái niệm cùng loại. Thí dụ, âm vị, âm tố, âm tiết, âm đoạn, âm hưởng, âm điệu, trong đó âm c ó giá trị phân biệt về chất loại thuật ngữ này với các thuật ngữ khác. Những từ còn lại: vị, tô, tiết, đoạn, hưởng, điệu có giá trị khu biệt lẫn nhau trong loạt thuật ngữ này. Tương tự nh ư vậy, vị với tư cách yếu tố nhỏ nhất có giá trị khu biệt về một mặt nào đó, có thể cấu tạo thành loại thuật ngữ: hình vị, từ vị, nghĩa vị, thanh vị ... Tính quốc tế.
  12. Thuật ngữ là lớp từ vựng đặc biệt biểu thị những khái niệm khoa học chung cho những người nói các thứ tiếng khác nhau. Vì vậy, sự thống nhất giữa các ngôn ngữ là cần thiết và bổ ích. Chính điều này đã tạo nên tính quốc tế của thuật ngữ. Thông thường khi đề cập đến tính quốc tế của thuật ngữ, người ta chỉ chú ý tới biểu hiện hình thức cấu tạo của nó: các ngôn ngữ dùng các thuật ngữ giống hoặc tương tự nhau, cùng xuất phát một gốc chung. Ví dụ: các thuật ngữ rađiô, tiếp thị. rađiô, marketing Tiếng Việt radio, marketing Tiếng Pháp radio, marketing Tiếng Anh радио, маркетинг Tiếng Nga Thực ra, về hình thức cấu tạo, tính quốc tế của thuật ngữ có tính chất tương đối. Dường như không có thuật ngữ nào có sự thống nhất ở tất cả các ngôn ngữ trên thế giới. Mức độ thống nhất của các thuật ngữ là khác nhau, có thuật ngữ thống nhất trên một phạm vi rộng, có thuật ngữ thống nhất trên một phạm vi hẹp hơn do lịch sử truyền thống hình thành các khu vực văn hoá khác nhau. Tính thống nhất. Tính thống nhất Tính thống nhất của thuật ngữ thể hiện trước hết ở sự thống nhất trong phạm vi các khu vực văn hoá. Các ngôn ngữ Ấn Âu chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Hy lạp, cho nên thuật ngữ của chúng thường bắt nguồn từ các tiếng La tinh và Hy lạp. Tiếng Việt và một số thứ tiếng khác ở Đông Nam Á, như tiếng Triều Tiên, Nhật Bản v.v. xây dựng thuật ngữ phần lớn dựa trên cơ sơ các từ tố gốc Hán cũng là vì các dân tộc này có bang giao văn hoá lâu đời với Trung Quốc. Có lé do sự thống nhất tương đối về hình thức cấu tạo của thuật ngữ giữa các ngôn ngữ mà nhiều người đã xem nhẹ tính quốc tế của thuật ngữ. Trong hội nghị về chủẩn hoá thuật ngữ khoa học tổ chức năm 1978 mọi người tham dự chỉ nhất trí được với nhau ở tính chính xác và tính hệ thống của thuật ngữ, còn về những điểm khác của thuật ngữ thì mỗi người quan niệm một khác: người thì đưa thêm tính dân tộc, người thì đưa thêm tính đơn nghĩa, người thì đưa thêm tính ngắn gọn v.v. Theo quan điểm của chúng tôi, tính dân tộc, tính dễ hiểu, tính ngắn gọn ... không chỉ là đặc trưng riêng
  13. của thuật ngữ, mà những từ thông thường cũng phải có, càng phải có những tính ấy. Khi xây dựng thuật ngữ chẳng những phải bảo đảm những tính chất riêng của thuật ngữ, mà còn phải bảo đảm cả những tính chất chung của thuật ngữ với những lớp từ vựng khác. III. Thuật ngữ và từ ngữ thông thường. Thuật ngữ không cách biệt hoàn toàn đối với từ toàn dân và các lớp từ vụng khác. Thuật ngữ dẫu sao vẫn là một bộ phận của hệ thống từ vựng nói chung, có quan hệ với từ khác trong hệ thống ngôn ngữ. Cả các tù thông thường lẫn thuật ngữ đều chịu sự chi phối của các qui luật ngữ âm, cấu tạo từ và ngữ pháp của ngôn ngữ nói chung. Màu sắc chuyên môn cũng nh ư phạm vi sử dụng hạn chế của thuật ngữ sẽ không còn là cái gì hoàn toàn đối lập với ngôn ngữ toàn dân khi mà trình độ khoa học của quảng đại quần chúng được nâng lên. Khi đó các thuật ngữ, trừ các thuật ngữ chuyên môn quá hẹp, không còn là lĩnh vực riêng của các nhà chuyên môn thuộc ngành khoa học nào đó. Giữa từ toàn dân và thuật ngữ có quan hệ xâm nhập lẫn nhau. Từ toàn dân có thể trở thành thuật ngữ và ngược lại. Một khi từ toàn dân trở thành thuật ngữ, thì ý nghĩa của nó được hạn chế lại, có tính chất chuyên môn hoá: tính chất hình tượng và giá trị gợi cảm mất đi, những mối liên hệ mới xuất hiện. Ví dụ: Thuộc lớp từ toàn dân “n ước” có nghĩa là “chất lỏng” nói chung, vì vậy nó có thể kết hợp với các từ khác nh ư: nước biển, nước sông, nước hồ, nước đổ lá khoai ... Khi chuyển thành thuật ngữ hoá học “nước” chỉ còn biểu thị chất lỏng do sự kết hợp của ô-xy và hy-drô mà thành. Nó cũng không còn gợi lên một hình tượng đẹp “đáy nước in trời” như trước đây. Các thuật ngữ trong một số trường hợp nhất định cũng có thể trở thành từ vựng toàn dân. Tuy nhiên không phải toàn bộ thuật ngữ với cả khái niệm khoa học mà nó diễn đạt đều có thể chuyển hoá vào ngôn ngữ toàn dân, mà chỉ là cái vỏ ngữ âm của nó mà thôi. Ví dụ: thuật ngữ “dứt điểm” vốn là thuật ngữ của ngành thể dục thể thao đã được dùng rộng rãi để chỉ hiện tượng làm việc gì đó có tính toán, có chương tính sắp xếp trước sau, như: “Chúng ta cần phải giải quyết dứt điểm xoá nghèo trong quí I” v.v.
  14. Chính do sự chuyển hoá lẫn nhau giữa thuật ngữ và từ ngữ toàn dân mà chúng ta thấy ngoài những thuật ngữ chỉ nằm trong hệ thống thuật ngữ nào đó (âm vị, cụm từ, ngữ pháp ... ) còn có những thuật ngữ đồng thời là những từ thông thường của ngôn ngữ toàn dân (âm, tiếng, nước, lợi v.v. ). Mặt khác, hiện tượng các từ thông thường có thể trở thành thuật ngữ mở ra cho chúng ta khả năng cấu tạo hàng loạt thuật ngữ trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân. Nói tóm lại, tính chính xác, tính hệ thống, tính quốc tế, tính thống nhất là những đặc trưng cơ bản của thuật ngữ, đồng thời cũng là những tiêu chí quan trọng giúp chúng ta phân biệt thuật ngữ với các lớp từ vựng khác. IV. Con đường hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy thuật ngữ trong tiếng Việt hình thành nhỡ ba con đường cơ bản là: thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường, cấu tạo những thuật ngữ t ương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức mô phỏng và mượn nguyên những thuật ngữ nước ngoài. Hệ quả của những quá trình này là hình thành ba lớp thuật ngữ với những đặc trưng khác nhau về hình thái và ngữ nghĩa trong vốn thuật ngữ tiếng Việt. Đó là lớp thuật ngữ thuần Việt, lớp thuật ngữ mô phỏng thuật ngữ quốc tế. 1/ Con đường thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường thực chất là con đường dùng phép chuyển di ngữ nghĩa của từ để tạo thuật ngữ. Sự chuyển di ngữ nghĩa nay tuy khá tinh tế và phức tạp, nhưng vẫn có thể qui về hai dạng: hình thái chuyển di không dẫn đến chuyển nghĩa và hình thái chuyển di dẫn đến chuyển nghĩa. Hình thái thứ nhất có thể gặp ở số khá lớn các từ thường là những từ thuộc vốn c ơ bản như: người, cây, cỏ, vàng, đỏ, vuông, tròn ... Ở những từ này, trong ý thức người bản ngữ, ranh giới giữa nghĩa thường dùng và nghĩa thuật ngữ không phải bao giờ cũng rõ nét. Dường như nghĩa thường dùng (nghĩa gốc) và nghĩa thuật ngữ (cũng là nghĩa gốc) về căn bản là đồng nhất. Vì thế, các nhà từ điển học thường gặp phải vấn đề nan giải là: nên giải thích nghĩa của những từ này theo lối “ngữ văn” hay theo lối “hàn lâm” (I.V.Sec-ba, 1958, tr. 68). “Đường thẳng” giải thích theo lối “hàn lâm” là “đường” hay “khoảng cách” ngắn
  15. nhất giữa hai điểm”, nhưng trong cách hiểu thông thường thì đó là “đường không lệch về bên phải hay bên trái. Thí dụ này cho thấy giữa cách hiểu nghĩa có tính ngữ văn và cách hiểu nghĩa có tính chất hàn lâm có độ chênh nhất định. Độ chênh ấy có thể lớn hay nhỏ tuỳ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của khoa học, trình độ hiểu biết của con người về thế giới xung quanh. Do nhận thức khác nhau về giá trị của các thuộc tính của sự vật mà sự lựa chọn các tiêu chí để phân loại sự vật cũng khác nhau. Chẳng hạn, trong cách hiểu thông th ường, “cá voi” dược liệt vào loài cá, song cách hiểu khoa học, cá voi không thuộc loài cá, mà thuộc loài động vật có vú. Vì vậy, có thể nói rằng, nghĩa thuật ngữ là nghĩa có tính chất xác định trong một hệ thống xác định. Khi vượt ra ngoài hệ thống, hoặc khi chuyển hệ thống thuật ngữ ắt phải lập lại một tính xác định mới về nghĩa. Thí dụ: “than” - nghĩa thường dùng trong cụm từ than trong bếp lò; “than” - nghĩa thuật ngữ trong cụm từ mỏ than hay trong hội hoạ - vẽ than. Trong việc xác định nội dung khái niệm do thuật ngữ biểu thị có thể thấy sự khác nhau không chỉ giữa các trường phái, mà thậm chí giữa các nhà khoa học trong cùng trường phái với nhau. Điều đó là tự nhiên, là lẽ thường trong đời sống khoa học. Và nhiều khi sự khác nhau ấy lại là chất men kích thích những cuộc tranh luận sôi nổi để làm sáng tỏ chân lý, thúc đẩy khoa học phát triển. Tóm lại, hình thái chuyển di ngữ nghĩa vừa xét thực chất là sự chuyển di phạm vi ứng dụng của một nghĩa thường là nghĩa gốc, nghĩa căn bản của từ từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, với những cách nhìn nhận từ những góc độ khác nhau. Do đó ở hình thái chuyển di ngữ n ghĩa này, tính qui tắc của quá trình thuật ngữ hoá th ương rất mờ nhạt. Và nghĩa thường dùng là nghĩa thuật ngữ chưa có sự tách biệt rành rọt. Tính qui tắc. Tính qui tắc chỉ thể hiện rõ rệt ở hình thái thư hai của sự chuyển di ngữ nghĩa của thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường. Thí dụ: “no” trong ăn no khác với nghĩa “no” trong hoá học. Trong trường hợp này, nghĩa thuật ngữ là một mắt khâu của quá trình phát triển nghĩa từ. Nếu hiểu cấu trúc nghĩa
  16. của từ là toàn bộ các nghĩa của từ ấy nằm trong những mối quan hệ hữu cơ với nhau lập thành một hệ thống, thì nghĩa thuật ngữ là một bộ phận, một thành tố trong hệ thống ấy. Cơ sở để chuyển di từ nghĩa thương dùng, nghĩa gốc sang nghĩa thuật ngữ, nghĩa phái sinh trong các trường hợp đang xét là mối quan hệ tương đồng hay mối quan hệ tương ứng những thuộc tính của sự vật, quá trình ... được phản ánh trong khái niệm do từ ngữ biểu thị. Nếu sự chuyển di ngữ nghĩa ấy dựa vào quan hệ tương đồng, thì cúng ta sẽ có nghĩa thuật ngữ hình thành theo phép ẩn dụ hoá. Thí dụ: Nghĩa của “cánh” trong cánh chim khác với nghĩa của “cánh” trong cánh tả, cánh hữu ... Nghĩa của hai từ sau là nghĩa của thuật ngữ hình thành theo phép ẩn dụ. Nếu sự chuyển di ngữ nghĩa dựa vào quan hệ tương cận, thì chúng ta sẽ có nghĩa thuật ngữ hình thành theo phép hoán dụ hoá. Đó là nghĩa đầu người trong binh quân thu nhập theo đầu người v.v. Phép ẩn dụ và phép hoán dụ là hai hình thức chuyển di nghĩa có tính nguyên tắc. Đó là những hình thái rất cơ bản trong sự phát triển nghĩa của từ, bao gồm cả nghĩa của thuật ngữ. Quả trình chuyển di ngữ nghĩa dưới hai hình thái này diễn ra đều đặn. Khi sự chuyển di ngữ nghĩa đã xảy ra ở một từ trong nhóm hoặc trường từ vựng nào đó, thì thường kéo theo sự chuyển di ngữ nghĩa đã xảy ra ở một từ trong nhóm hay trường từ vựng nào đó, thì thường kéo theo sự chuyển di ngữ nghĩa ở nhiều từ khác trong cùng trường từ vựng ấy theo một hường nhất định. Thí dụ: “Trắng” và “đen” đã kéo theo nhau cùng một hướng khi chuyển di sang nghĩa thuật ngữ trong sách trắng, sách đen. Cũng như vậy, khi “đỏ”, “xanh” và “vàng” được dùng với nghĩa thuật ngữ trong nhạc đỏ, nhạc xanh, nhạc vàng hay trong công hội đỏ, công đoàn vàng v.v. Nhìn chung, hình thái của các thuật ngữ thuần Việt không có gì đặc biệt so với hình thái của các từ ngữ thông thường. Dấu hiệu duy nhất giúp chúng ta có thể nhận diên được thuật ngữ là đặc điểm của chu cảnh xuất hiện của nó, tức là đặc điểm về khả năng tổ hợp của nó với những từ ngữ nhất định. Tất nhiên, đặc điểm này cũng chỉ có thể bộc lộ ra khi
  17. chúng ta đối lập chu cảnh của từ với tư cách thuật ngữ với chu cảnh của từ dùng với ý nghĩa thông thường. Hãy so sánh: “”đứng” trong tổ hợp men đứng khác với kẻ đứng, người ngồi, dựng đứng. Ở đây mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và ngữ pháp trong những trường hợp đang xét là rất đáng chú ý. 2/ Cấu tạo thuật ngữ theo phương pháp mô phỏng thực chất là sử dụng những yếu tố và mô hình cấu tạo từ tiếng Việt để dịch nghĩa những thuật ngữ tương ứng trong tiếng nước ngoài. Thí dụ: “cánh cứng” trong sâu bọ. Thuật ngữ này là sự mô phỏng của coléo plère, trong đó “cánh” tương ứng với với “plère”, cứng tương ứng với “coléo”. Theo Nguyễn Như Ý, neeusa chỉ xét về hình thái, thì có thể coi thuật ngữ cấu tạo trong tiếng Việt là thuật ngữ Việt. Tuy nhiên, nếu xét về ngữ nghĩa, tức là mặt khái niệm do nó biểu thị, thì có thể coi nó là thuật ngữ quốc tế. Do thói quen trong cách diễn đạt của ngôn ngữ học, chúng ta gọi thuật ngữ được tạo ra theo phương thức như thế là thuật ngữ mô phỏng. Khái niệm khoa học do các thuật ngữ này biểu thị là thành tựu chung của trí tuệ loài người. Nói “dịch nghĩa” hay “mượn nghĩa” là nói theo thói quen với cách hiểu ít nhiều có tính ước lệ. Tất nhiên, khi biểu thị những khái niệm khoa học chung này, mối dân tộc đều làm theo cách riêng của mình. Cách riêng này thể hiện ở việc sử dụng những yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong mỗi ngôn ngữ. Vì thế, muốn nhận diện đặc trưng của các thuật ngữ mô phỏng, phải phân tích tỉ mỉ đặc trưng của các yếu tố và mô hình cấu tạo nên những thuật ngữ ấy. Trong tiếng Việt các yếu tố tham gia cấu tạo những thuật ngữ đang xét là những yếu tố có nghĩa, tức là những yếu tố có tư cách làm hình vị: tính, thể, nửa (bán), hoá v.v. Về nguồn gốc những yếu tố này có thể thuần Việt, như: hai, cặp, đôi, kép, có thể là gốc Hán như: nhị, lưỡng, song ... Về mặt hình thái các yếu tố này có những dặc trưng sau đây: a/ Có khả năng hoạt động với tư cách những đơn vị độc lập hay không độc lập ở mức độ khác nhau. Thí dụ: máy, sự, sức ... Một số đơn vị khác không có khả năng hành
  18. chức độc lập, kiẻu như: “hoá” trong hiện đại hoá, công nông hoá, “kế” trong nhiệt kế, “đẳng” trong đẳng cấp, bình đẳng ... Số đơn vị thứ ba là những đơn vị trung gian giữa hai loại vừa nêu, tức là những đơn vị mà ở trong hoàn cảnh này thì được dùng độc lập, song ở trong hoàn cảnh khác thì lại được dùng hạn chế.. So sánh: “học” trong người có học và “học” trong học thuyết và sinh vật học. b/ Có sự phân bố về vị trí và có vai trò khác nhau trong cấu trúc của thuật ngữ. Những yếu tố trung tâm chính là những yếu tố có khả năng hành chức độc lập , như: “lực: trong lực kéo, nội lực, ngoại lực. những yếu tố ngoại biên là những yếu tố không độc lập, trong đó: - có những yếu tố chuyên đứng trước, như: “tự” trong tự trị, tự phê phán. - có những yếu tố chuyên đứng sau, như: “tử” trong lượng tử, phần tử. - có những yếu tố vừa có thể đứng trước, vừa có thể đứng sau, như: “tính” trong tính đảng, tính giai cấp, lưỡng tính, nam tính, nữ tính ... c/ Sức sản sinh của các yếu tố đang xét không đều nhau, và có một số đáng kể các yếu tố có sức sản sinh khá lớn. Thí dụ: yếu tố “chủ nghĩa” - chủ nghĩa xã hôi, xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản, tư bản chủ nghĩa. Về mặt ngữ nghĩa các đơn vị đang xét có những đặc trưng sau đây: a/ Nghĩa của số lớn những đơn vị đang xét là nghĩa từ vựng-ngữ pháp, và nó biểu thị các khái niệm thuộc những phạm trù rất khái quát. Thí dụ: sự, tính, vị, tố, hoá ... Do đặc trưng này mà các đơn vị đang xét có giá trị chuyên biệt trong việc phạm trù hoá thuật ngữ. Thật vậy, có những yếu tố chuyên động ngữ hoá thuật ngữ, như “hoá” trong mã hoá, ô-xy hoá. Có những yếu tố chuyên tính ngữ hoá thuật ngữ, như: “phi” trong phi vô sản, phi chính nghĩa, phi giai cấp. Có những yếu tố chuyên danh ngữ hoá, như “sự” trong sự tồn tại, sự vật. “phép” trong phép biện chứng, phép nhân, phép tổng hợp.
  19. b/ Do các yếu tố đang xét biẻu thị những khái niệm khái quát, có tính chất phạm trù, đồng thời lại có nguồn gốc khác nhau, nên giữa chúng thường diễn ra sự “xung đột đồng nghĩa”. Hiện tượng này là hệ quả tất yếu của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, khi có các yếu tố thuộc ngôn ngữ này xâm nhập vào ngôn ngữ khác (hiện tượng giao thoa).Thí dụ: yếu tố gốc Hán “đại” xâm nhập vào tiếng Việt, trong khi đó tiếng Việt đã có từ “to”, “lớn”. Và giữa “đại” và “to”, “lớn” tất yếu sẽ xảy ra sự xung đột đồng nghĩa. Yếu tố ngoại lai có thể thay thế yếu tố thuần Việt trong những tr ường hợp nhất định: đại gia, vĩ đại ... Yếu tố ngoại lai và yếu tố thuần Việt có thể song song tồn tại và có sự phân bổ về nghĩa và phạm vi sử dụng Thí dụ: hàn // lạnh, hoả // lửa. Một bên là thuật ngữ của ngành y, một bên là từ thường dùng trong đời sống hàng ngày. Khi cấu tạo các thuật ngữ mô phỏng thì việc tuyển chọn yếu tố thuần Việt hay yếu tố gốc Hán trở thành một vấn đề quan trọng. Trong việc này các nhà thuật ngữ học phải cùng một lúc vận dụng làm sao cho nhuần nhuyễn những nguyên tắc khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau, để tạo nên những thuật ngữ vừa chính xác, vừa có tính hệ thống, mà lại ngắn gọn. 3/ Thật vậy, con đường thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường và con đường cấu tạo thuật ngữ bằng phương thức dịch nghĩa, hay mô phỏng là hai con đương xây dựng vôn thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt. Khi nào không hoặc chưa tìm được khả năng thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường và cấu tạo thuật ngữ mô phỏng, thì các nhà khoa học tìm đến con đường thứ ba - con đường tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài. Trong một thời gian dài, do những điều kiện lịch sử của sự giao lưu văn hoá qui định, nên việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt thường thông qua tiếng Hán. Điều đó hầu như là tự nhiên, và cũng có những thuận tiện nhất định, bởi lẽ tiếng Việt và tiếng Hán cùng thuộc một loại hình, có quan hệ tiếp xúc từ lâu đời. Và trong thực tế có nhiều thuật ngữ gộc Hán được đọc theo âm Hán-Việt. Đặc biệt là những thuật ngữ chính trị, triết học đã đi vào vốn từ vựng của tiếng Việt với tư cách như những yếu tố ổn định và được đồng hoá ở những mức đ ộ khác nhau. Thí dụ: độc lập, tự do, hạnh phúc, cách mạng, dân tộc, dân chủ ... Trong mấy thập kỷ gần đây, khi mà tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ phát triển, đã phát huy đầy đủ các chức năng xã hội của mình và được sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
  20. hội, khi mà hợp tác kinh tế, giao lưu văn hoá diễn ra trên phạm vi toàn cấu, thì thấy nổi lên hai xu hường đáng chú ý trong việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài. Đó là: a/ Xu hướng dùng thuật ngữ được cấu tạo bằng các yếu tố Việt thay cho các thuật ngữ gốc Hán trong những trường hợp cho phép: máy bay thay cho phi cơ, sân bay thay cho phi trường tên lửa thay cho hoả tiễn ... b/ Xu hướng tiếp nhận trực tiếp nhiều thuật ngữ gốc tiếng nước ngoài (Ấn-Âu) không thông qua trung gian là tiếng Hán: acid thay cho cường toan, vitamin thay cho sinh tố ... Từ những phần trình bày trên đây có thể rút ra kết luận: Vốn thuật ngữ của tiếng Việt, cũng như của bất kỳ ngôn ngữ nào khác, bao giờ cũng bao gồm một bộ phận thuộc bản ngữ và một bộ phận ngoại lai. Trong tiến tình hình thành và phát triển thuật ngữ, luôn luôn thấy có hai xu hướng, mới xem thì có vẻ trái ngược nhau, song trong thực tế lại có quan hệ rất biện chứn g. DDps là xu hướng bản ngữ hoá và xu hướng quốc tế hoá. Nếu nhận thức phiến diện và không sâu sắc những thực tế này, thi khó tránh khỏi những sai lầm về chủ trương và quan điểm trong khoa học. B. Từ điển học - từ điển thuật ngữ chuyên ngành. Vấn đề thuật ngữ trong từ điển. 1. Lịch sử vấn đề. Chuyên ngành từ điển học Việt Nam về mặt lý luận so với các nước còn rất non trẻ và chưa có mấy thành tựu lý luận làm cơ sở cho các nhà làm từ đ iển dựa vào đó để biên soạn cụ thể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2