intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

179
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc đáng phấn khởi. Kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); đời sống của người lao động từng bước được cải thiện... nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Các doanh nghiệp (DN) nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình

  1. LUẬN VĂN: Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc đáng phấn khởi. Kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); đời sống của người lao động từng bước được cải thiện... nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Các doanh nghiệp (DN) nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào những thành quả đó. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới và phát triển, các DN cũng đang vấp phải nhiều vấn đề khó khăn, lúng túng đòi hỏi phải có sự lý giải, hướng dẫn của lý luận để tháo gỡ những khó khăn đó trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động (HHSLĐ) của C.Mác như thế nào để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cổ điển về lý luận lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận HHSLĐ. Qua phân tích lý luận HHSLĐ, C.Mác đã vạch rõ bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN). Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB. Như vậy, ở đây sẽ nảy sinh vấn đề là, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong nền kinh tế thị trường TBCN, trong lúc đó chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với nền kinh tế thị trường TBCN. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng lý luận HHSLĐ vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN... Và cũng vì thế, việc vận dụng lý luận HHSLĐ để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay. Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm gần đây, mặc dù các DN đã có đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhưng năng lực cạnh tranh của các DN ở Quảng Bình hiện còn rất thấp kém. Nhiều DN, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kinh doanh thua lỗ triền miên, đời sống của
  3. người lao động còn nhiều khó khăn, vất vả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, nhưng nguyên nhân quan trọng hàng đầu vẫn thuộc về nguồn nhân lực của các DN. Bởi do: "Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, nhiều ngành kinh tế quan trọng còn thiếu công nhân kỹ thuật, thiếu lao động có tay nghề cao, lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật được đào tạo giữa các ngành chưa cân đối, tình trạng sử dụng lao động chưa đúng ngành nghề đào tạo còn phổ biến " [43]. Vì vậy, việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần đưa Quảng Bình "đến năm 2010 thoát nghèo, cùng cả nước ra khỏi tình trạng kém phát triển " [43] đang trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: " Vận dụng lý luận hàng hoỏ sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bỡnh " làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đến nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường đã được nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn. Kinh tế thị trường, trong đó HH SLĐ là sản phẩm của lịch sử, tồn tại một cách khách quan trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, mà ngày nay chúng ta thường gọi là nền kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN. Liên quan đến nội dung này đã có nhiều bài viết, như: - Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường sức lao động - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. - Lê Minh Vụ (1993), "Suy nghĩ về hàng hoá sức lao động trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9), tr.29-32. - Đỗ Hoàng (1990), "Trong thành phần kinh tế XHCN sức lao động có là hàng hoá không?", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-37. - GS,TS Đỗ Thế Tùng, Một số điểm cơ bản trong lý luận của C.Mác về tiền công và việc vận dụng vào cải cách tiền lương ở nước ta hiện nay, (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
  4. - Tống Văn Đường (1993), "Tiền công trong thị trường sức lao động hiện nay", Tạp chí Lao động và xã hội, (số 2), tr.13-14. - Phạm Văn Chiến (1990), "Bàn về điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-34. GS,TS Đỗ Thế Tùng, Bàn về cái gọi là "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm kinh tế tư nhân", (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) Bên cạnh đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện về yếu tố con người và vai trò của nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhưng các bài viết vận dụng lý luận hàng hoá SLĐ vào việc đảm bảo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho các DN nói riêng thì rất hạn hữu. ở tỉnh Quảng Bình, một số ngành, đơn vị đã có các đề án liên quan đến phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác chuyên ngành, như: Đề án đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên; Đề án thành lập trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật; Đề án giáo dục miền núi; Đề án phổ cập THCS của Sở Giáo dục- Đào tạo; Quy hoạch mạng lưới đào tạo và thành lập trường dạy nghề của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội; Đề án khảo sát thực trạng và các giải pháp xây dựng đội ngũ công chức tỉnh Quảng Bình của Sở Nội vụ... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đề cập đến nội dung Vận dụng lý luận HH SLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình. Do vậy, tác giả muốn nghiên cứu vấn đề này như một đề tài có tính chất khám phá, chuyên sâu và có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản về hàng hoá SLĐ có liên quan của C.Mác và thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, phát triển nền kinh tế tri thức. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
  5. - Phân tích những nội dung cơ bản có liên quan và ý nghĩa của lý luận HHSLĐ của C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị tr ường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua (từ 2001- 2005 năm) cũng như vai trò của nó và những vấn đề cấp bách đặt ra. - Đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng ý luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 4. Đối tượng và và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu lý luận HHSLĐ của C.Mác có liên quan đến việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung và vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN của tỉnh Quảng Bình nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về lý luận: Luận văn tập trung tìm hiểu những nội dung có liên quan cần vận dụng trong lý luận HHSLĐ của C.Mác phù hợp với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở Quảng Bình kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao. Về thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực ở 10 DNNN (trong tổng số 27 DNNN), 20 công ty cổ phần(trong tổng số 87 công ty cổ phần) và 20 DN tư nhân (trong tổng số 786 DN tư nhân) ở thành phố Đồng Hới và các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian từ 2001-2005. Từ đó, làm rõ những vấn đề còn hạn chế của nguồn nhân lực ở các DN này, qua đó xác định những quan điểm, giải pháp cơ bản để tháo gỡ dựa trên cơ sở vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện Đại hội, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV... Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí. - Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic kết hợp lịch sử, phương pháp phân
  6. tích, tổng hợp, phương pháp phân tích đối chiếu...để từ đó làm rõ thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình, qua đó xác định sự cần thiết cũng như giải pháp vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 6. Đóng góp của luận văn Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nội dung cần vận dụng trong lý luận HHLĐ của C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN. Cũng qua đó góp phần lý giải một số vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Về thực tiễn: Luận văn đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp bách về việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình hiện nay nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN ở địa phương trong tình hình mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết: Chương 1 Những nội dung cơ bản cần vận dụng trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và những vấn đề đặt ra 1.1. Những nội dung cơ bản cần vận dụng trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Trước C.Mác chưa có một nhà kinh tế học nào có sự phân rõ ranh giới giữa hai phạm trù " lao động và sức lao động". Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao động và SLĐ, C.Mác đã trở thành người đầu tiên trình bày một cách khoa học lý luận về HHSLĐ. Ông đã từng bước hoàn thiện lý luận này qua nhiều tác phẩm khác nhau và lý luận này đạt đến đỉnh cao trong bộ Tư bản. Trong tác phẩm này, C.Mác đã thể hiện quan điểm của mình: "người công nhân bán sức lao động" Ông viết: "Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán
  7. sức lao động của mình ở trên thị trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường tận hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là sức lao động" [23, tr.255]. Lý luận HHSLĐ là cơ sở giúp C.Mác xây dựng và phát triển học thuyết giá trị thặng dư, một học thuyết vạch rõ nguồn gốc và bản chất bóc lột của CNTB và chứng minh sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn tuân theo những quy luật chung của nền kinh tế thị trường, do đó một bộ phận SLĐ trở thành hàng hoá, SLĐ trở thành HHSLĐ. Từ góc độ thực tiễn nguồn nhân lực của các DN ở Quảng Bình, với khả năng nhất định của mình, tác giả luận văn sẽ tập trung tìm hiểu một số nội dung có liên quan của lý luận HHSLĐ nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở địa phương trong tình hình mới. 1.1.1. Điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động Theo C.Mác: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể của một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy, SLĐ bao gồm cả lao động cơ bắp và lao động trí óc, cả thể lực và trí lực chứ không chỉ có lao động thể lực. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống... và có thể phân biệt con người với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sản xuất của mình... như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình" [26, tr.29]. Như vậy SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động, là nhân tố cơ bản và đầu tiên trong mọi hoạt động xã hội. Tuy nhiên, do bản chất kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi chế độ xã hội khác nhau nên việc đánh giá, quan tâm đến nhân tố con người cũng rất khác nhau. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ khi có giai cấp, việc quan tâm đến nhân tố con người từ đời sống vật chất, tinh thần, đến giáo dục, đào tạo, luôn gắn chặt với quá trình "sử dụng sức lao động của người khác theo một quan hệ người bóc lột người để tiến hành sản xuất". Nhưng xuất phát từ tiền đề lịch sử nào để chủ sở hữu TLSX có thể sử dụng SLĐ của người khác? Theo C.Mác "Nếu công nhân dùng toàn bộ thời gian của mình
  8. để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và cho nòi giống của mình, thì anh ta không còn thời gian nào để lao động không công cho người khác. Nếu không có một năng suất nào đó của lao động thì sẽ không có một thời gian rỗi như thế cho người lao động; nếu không có một thời gian dôi ra như thế, thì cũng không có nhà tư bản, vả lại không có nhà chủ nô, nam tước phong kiến, nói tóm lại không có giai cấp đại sở hữu" [22, tr.722]. Trong quá trình sản xuất vật chất, năng suất lao động tăng lên do sự phát triển của phân công lao động và lực lượng sản xuất (LLSX). Và phân công lao động càng phát triển thì năng suất lao động càng tăng. Mối quan hệ biện chứng này đã tạo cơ sở cho yêu cầu khách quan và tạo điều kiện vật chất cho phép sử dụng thêm nhiều SLĐ của người khác. Tuy nhiên, quan hệ người bóc lột người xuất hiện trong quá trình sử dụng SLĐ cần phải có sự xuất hiện của chế độ tư hữu về TLSX. Bởi vì theo C.Mác "Người nào không có sở hữu nào khác ngoài sức lao động của mình ra trong mọi trạng thái xã hội và văn hoá, đều sẽ nhất định làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện vật chất của lao động" [27, tr.27]. Với con người "trần như nhộng", chỉ có SLĐ và không có TLSX ở trong tay thì chỉ có thể lao động và do đó chỉ sinh sống khi được những kẻ đại chủ sở hữu TLSX bóc lột lao động thặng dư. Quyền sở hữu SLĐ và quyền sử dụng SLĐ có sự khác nhau cả về hai mặt định tính và định lượng. Quyền sở hữu SLĐ cho phép người lao động tự mình quyết định cuộc đời mình qua việc xác định phương hướng, cách thức sử dụng SLĐ của mình như thế nào. Còn quyền sử dụng SLĐ cho phép người lao động tìm ra cách thức kết hợp SLĐ với TLSX để vận dụng SLĐ bản thân trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị sử dụng. Theo C.Mác, SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động và chỉ trở thành hàng hoá khi chính bản thân người có SLĐ đem bán trên thị trường. Thì người đó phải có khả năng chi phối được SLĐ đó, do đó "người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình [21, tr.251]. Và như vậy, về mặt hình thức pháp lý người sở hữu SLĐ mới được bình đẳng với người sở hữu tư bản" thuận mua vừa bán". "Như vậy, người ta có thể nói đến một cơ sở tự nhiên của giá trị thặng dư nhưng với một ý nghĩa hết sức chung là: Trong tự nhiên không hề có một trở ngại tuyệt đối nào người này đem số lao động cần thiết cho sự sinh tồn của bản thân mình trút bỏ khỏi vai mình và đặt lên vai người khác. Cũng giống như trong tự nhiên không có một trở ngại tuyệt đối nào ngăn cản thịt của người này trở thành thức ăn của người khác..." [28, tr.1]. Trong mọi xã
  9. hội, lao động đều là yếu tố cơ bản của sản xuất, nhưng SLĐ chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: Một là: Người chủ SLĐ "phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau..."; "Muốn duy trì quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì... anh ta trở thành người nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá anh ta sẽ trở thành một hàng hoá" [29, tr.252]. Như vậy, người công nhân làm thuê chỉ bán quyền sử dụng SLĐ trong một thời hạn nhất định, chứ không bán quyền sở hữu SLĐ của mình, SLĐ của người công nhân là hàng hoá chứ không phải bản thân người công nhân là hàng hoá. Trước sau, người công nhân vẫn là chủ sở hữu hàng hoá - SLĐ của mình, do đó "khi bán sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy" [30, tr.254]. Hai là: "Người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư cách hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong cơ thể sống của anh thôi" [29, tr.252]. Người công nhân muốn bán những hàng hoá khác với SLĐ của mình thì người chủ SLĐ phải có TLSX, tư liệu sinh hoạt để tự kết hợp với SLĐ của mình nhằm làm ra những hàng hoá khác ấy. Nếu họ hoàn toàn không có những vật cần thiết ấy để thực hiện SLĐ của mình, nói cách khác là trần như nhộng, thì phải bán chính SLĐ ấy. Tuy nhiên, nếu chỉ có TLSX và tư liệu sinh hoạt nhưng chỉ đủ để thực hiện SLĐ của mình trong một ngày hay trong một năm chẳng hạn, thì trong những ngày còn lại nếu muốn có thu nhập, tất yếu phải đi làm thuê, tức là phải đi bán SLĐ, mặc dù "không trần như nhộng"... Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, hai điều kiện cho sự ra đời của HHSLĐ vẫn còn nguyên giá trị của nó. Tuy nhiên ở điều kiện thứ hai là người có SLĐ nhưng không có TLSX, tư liệu tiêu dùng buộc phải bán SLĐ kiếm sống đã có sự biểu hiện mới. Đó là khi đời sống của công nhân lên cao, họ có tích luỹ và mua được cổ phiếu của Công ty cổ phần (CP) và như vậy họ trở thành người chủ một phần vốn của công ty, chủ một phần TLSX và lao động thặng dư của họ được bồi hoàn lại, những người lao động này không phải không có những TLSX, do vậy SLĐ của họ có tính chất hàng hoá,
  10. chứ không phải HHSLĐ theo đúng nguyên nghĩa mà C.Mác đã định nghĩa. Trường hợp này hiện hữu trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong các thành phần này, người lao động đều là người làm chủ tập thể TLSX, vì vậy SLĐ của họ không phải là HHSLĐ. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị HHSLĐ. Do vậy, SLĐ của người lao động trong kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải được coi là HHSLĐ để tính toán tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của toàn xã hội. Bởi vì, đã là tiền lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị HHSLĐ. Nhưng có điểm khác biệt đó là trong khu vực kinh tế nhà nước phần bồi hoàn cho lao động thặng dư được coi trọng và có xu hướng tăng lên còn trong khu vực kinh tế tư nhân, do quan hệ người bóc lột người lao động vẫn còn tồn tại nên phần lao động thặng dư của người lao động vẫn bị người sử dụng lao động bóc lột trong khuôn khổ pháp luật. 1.1.2. Các thuộc tính của hàng hoá sức lao động Là một hàng hoá, SLĐ cũng có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của của HHSLĐ là công dụng của nó, cần thiết cho nhu cầu của người mua và sử dụng nó mà trước hết là khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư và là chìa khoá để giải đáp mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Quá trình sử dụng SLĐ làm thuê cũng là quá trình làm tăng giá trị. Giá trị sử dụng của SLĐ của người công nhân là tính có ích cho chủ sở hữu tư bản. Nhà tư bản cần có SLĐ của người công nhân kết hợp với TLSX của mình để tạo ra các giá trị sử dụng, tạo ra hàng hoá. Người lao động bán SLĐ bằng cách lao động theo yêu cầu của người mua. Nhà tư bản tiêu dùng SLĐ là nhằm sử dụng tính có ích của SLĐ. Tính có ích của SLĐ không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà còn: "Cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó" [29]. Người công nhân bán SLĐ thực hiện giá trị trao đổi của SLĐ và nhượng lại giá trị sử dụng của SLĐ đó. Họ sẽ không thể nhận được giá trị trao đổi mà không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ ấy trong một ngày là thuộc quyền của người chủ tiền và nhượng lại giá trị trao đổi của SLĐ. Theo C.Mác: Chi phí hàng ngày để duy trì SLĐ và sự tiêu phí SLĐ ấy trong một ngày đó là hai đại lượng
  11. hoàn toàn khác nhau; Đại lượng thứ nhất quyết định giá trị trao đổi của nó, đại lượng thứ hai tạo thành giá trị sử dụng của nó. Điều này cũng có nghĩa là giá trị của SLĐ là giá trị được tạo ra trong quá trình sử dụng lao động là hai đại lượng khác nhau. Và chính nhà tư bản đã nhằm vào sự chênh lệch về giá trị đó khi mua SLĐ, đây cũng là tính có ích thật sự của SLĐ đối với các nhà tư bản. Tăng năng suất lao động là nguyên nhân của sự chênh lệch giữa hai đại lượng này. Khi năng suất lao động xã hội đạt đến một mức nhất định nào đó thì chỉ cần một phần ngày lao động, người công nhân có thể sản xuất ra những giá trị mới tương đương với giá trị kết tinh trong hàng hoá tư liệu tiêu dùng nuôi sống bản thân anh ta và gia đình anh ta. Người chủ sở hữu TLSX trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ trong ngày lao động là thuộc quyền của nhà tư bản và như thế, đương nhiên giá trị mới do việc tiêu dùng SLĐ ấy tạo ra cũng thuộc về nhà tư bản. Nhà tư bản chỉ dùng một phần giá trị mới trả cho giá trị SLĐ và phần giá trị mới dư ra ngoài giá trị SLĐ ấy bị nhà tư bản chiếm không được gọi là giá trị thặng dư. Tuy nhiên, tính có ích của SLĐ được thực hiện tức sẽ tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi SLĐ phải hoạt động trong những "điều kiện bình thường". Đó là: Bảo đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao động như tư liệu lao động, nguyên, nhiên, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường. Bản thân SLĐ cũng phải là một SLĐ bình thường, nghĩa là trong ngành chuyên môn mà SLĐ ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung bình về mặt kỹ năng, sự nhanh nhẹn. Hay nói cách khác, muốn nâng cao giá trị sử dụng của SLĐ thì phải đầu tư cho người công nhân, họ phải được đào tạo, huấn luyện những kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ. Mặt khác, để đảm bảo tính có ích của SLĐ, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý, nếu bị tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm. HHSLĐ là một loại hàng hoá đặc biệt vì giá trị sử dụng của nó là một giá trị sử dụng độc đáo, trong quá trình sử dụng nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Là một loại hàng hoá đặc biệt trong nền sản xuất hàng hoá TBCN nên nó được mua bán theo một giá cả nhất định, đó là tiền công. 1.1.3. Sự chuyển hoá giá trị sức lao động thành tiền công Trong nền sản xuất TBCN, giá trị SLĐ được thể hiện ra thành tiền công và điều này đã đưa đến sự ngộ nhận lượng tiền đó được trả cho một lượng lao động nhất định. Nhưng thật ra người công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Lao động là " quá trình tiêu dùng
  12. sức lao động... là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên [29, tr.265-266]. SLĐ là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy SLĐ và lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, SLĐ là khả năng lao động, lao động là sự thực hiện SLĐ trong hiện thực; nó là sự kết hợp SLĐ với TLSX để tạo ra sản phẩm. Lao động không phải là hàng hoá và công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Sức lao động của công nhân là hàng hoá và giá trị của HHSLĐ được thể hiện ra trên bề mặt xã hội dưới hình thức tiền công. Tuy nhiên, chính sự chuyển hoá của giá trị thành hình thức tiền công đã đưa đến sự ngộ nhận về quan hệ tự do bình đẳng trong quan hệ mua bán SLĐ giữa chủ sở hữu tiền và người công nhân. Thực tế, đó là một quan hệ bất bình đẳng giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê; vì người công nhân tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân SLĐ của mình khi được nhà tư bản sử dụng trong quá trình sản xuất; ngoài ra người công nhân làm thuê luôn phải ứng trước SLĐ cho nhà tư bản khi nhận được tiền công. Tiền công có hai hình thức cơ bản: đó là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm. Tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền giá trị hàng ngày, hàng tuần... của SLĐ. Theo C.Mác: "nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần... đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với sự chênh lệch của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả sức lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động hàng ngày hay tuần" [29, tr.769]. Khi tiền công ngày hay tuần tăng thì giá cả SLĐ có thể không thay đổi về danh nghĩa, nhưng nó có thể tụt xuống dưới mức bình thường của nó. Điều này xảy ra khi giá cả của giờ lao động không thay đổi nhưng ngày lao động kéo dài quá mức bình thường của nó. Giá cả SLĐ thấp trong thời gian gọi là bình thường đã bắt buộc người công nhân nếu kiếm được một số tiền công nói chung tương đối đầy đủ thì phải làm thêm ngoài giờ để được trả công cao hơn. Nhưng sự hạn chế bằng pháp luật quy định thời gian làm việc trong ngày đã giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động.
  13. Còn tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao động không phải do phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao động với một số giờ nhất định mà là do năng lực công tác của người sản xuất quyết định" [29, tr.777]. Trong thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một quan hệ giá trị nào cả; với hình thức này người ta không đo giá trị của một đơn vị hàng hoá bằng thời gian lao động nhập vào hàng hoá đó, mà trái lại hoạt động do người công nhân tiêu phí lại được đo bằng số lượng hàng hoá do anh ta sản xuất ra... Tiền công tính theo sản phẩm làm cho chất lượng của lao động được kiểm tra bởi chính ngay sản phẩm của lao động. Người công nhân làm thuê muốn cho giá cả SLĐ được tính theo sản phẩm được trả đầy đủ thì phải làm cho sản phẩm có một chất lượng trung bình. Với hình thức này nhà tư bản tiết kiệm được chi phí quản lý vì chất lượng và cường độ lao động đã được hình thức tiền công theo sản phẩm kiểm soát. Tiền công tính theo sản phẩm có tính chất ưu việt là thước đo chính xác để đo cường độ lao động và năng suất lao động. Về cường độ lao động, hình thức tiền công này kích thích người công nhân muốn có được nhiều tiền công thì phải có nhiều sản phẩm với chất lượng đúng quy định. Về năng suất lao động, nếu năng suất lao động tăng lên và các điều kiện khác không đổi thì tiền công tính theo sản phẩm sẽ giảm, hay: "Tiền công tính theo sản phẩm giảm xuống theo cùng tỷ lệ tăng lên của số sản phẩm đã sản xuất ra trong cùng một thời gian" [29, tr.787]. Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa những người lao động với nhau do có sự khác nhau về sức khoẻ; trí tuệ, chuyên môn... Nhờ đó mà góp phần phát triển cá tính, tính độc lập tự chủ, cũng như thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công nhân với nhau... Điều này làm cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả SLĐ, cho nên dù tiền công trả theo thời gian hay theo sản phẩm thì người lao động cũng chỉ nhận được sự trả công cho lao động cần thiết, còn phần lao động thặng dư thì bị nhà tư bản chiếm đoạn. 1.1.4. Thị trường sức lao động trong nền kinh tế hàng hoá Người lao động bán SLĐ cho nhà tư bản nhưng không từ bỏ quyền sở hữu SLĐ của mình, chính vì vậy thực chất của quan hệ mua bán HHSLĐ giữa nhà tư bản và công nhân là mua bán quyền sử dụng SLĐ trong một thời gian nhất định. Nơi diễn ra quan hệ mua bán
  14. SLĐ này gọi là thị trường sức lao động (TTSLĐ), thị trường lao động hay thị trường việc làm. Như đã định nghĩa, SLĐ là toàn bộ thể lực, trí lực, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tồn tại, phát triển trong một cơ thể sống và được thể hiện ra trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Như vậy, SLĐ theo nghĩa trên là một yếu tố vừa có tính tự nhiên, vừa có tính xã hội, điều này có nghĩa là SLĐ vừa mang yếu tố di truyền, vừa chịu ảnh hưởng của quá trình đào tạo, giáo dục và tự đào tạo. Vì thế, nếu người sử dụng lao động càng chú trọng đến yếu tố xã hội của SLĐ, tức bồi dưỡng nguồn nhân lực thì càng nhanh chóng thu hút được quá trình lao động với hiệu quả ngày càng cao. SLĐ khi đã hội tụ những điều kiện cần thiết (đạt đến một giá trị nhất định) thì sẽ trở thành HHSLĐ. Hàng hoá SLĐ chính là SLĐ của người lao động phục vụ những nhu cầu SXKD của người chủ lao động theo một hợp đồng thoả thuận và có thời hạn. SLĐ tồn tại trong cơ thể sống và chỉ thể hiện ra trong quá trình lao động sản xuất, trong quá trình kết hợp với TLSX để tạo ra một lượng sản phẩm nhất định, hoặc trong hoạt động dịch vụ để tạo ra những giá trị sử dụng nhất định. Người lao động muốn thể hiện SLĐ của mình, tức muốn thể hiện thể lực, trí lực, năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của mình thì phải thông qua hoạt động lao động nghĩa là phải có việc làm. Việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm. Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm: Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật; công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó. Sức lao động, lao động và việc làm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. SLĐ là một trong những yếu tố của lao động; lao động là sự tiêu dùng SLĐ, nhưng SLĐ phải được thể hiện qua lao động. Vì thế, muốn đánh giá SLĐ của một người phải dựa vào hoạt động lao động và kết quả lao động của người đó. Ngược lại, để có một người lao động làm việc có hiệu quả, trước tiên anh phải có một SLĐ theo yêu cầu của người chủ sử dụng lao động. Hay nói cách khác muốn hoạt động lao động, người lao động phải có khả năng lao động, phải có năng lực lao động, năng lực chuyên môn; tất cả đều được thể hiện qua lao động cụ thể của người lao động. Mà lao động cụ thể là lao động có ích với những sản phẩm nhất định của ngành nghề chuyên môn nhất định. Nếu không được đào tạo với những ngành nghề
  15. chuyên môn nhất định thì người lao động khó lòng thực hiện tốt công việc của mình theo khả năng. Hơn nữa họ cũng khó lòng tìm được việc làm. Việc làm là hình thức sản xuất xã hội của SLĐ. Không có việc làm thì SLĐ không thể tồn tại về mặt xã hội, mà chỉ tồn tại về mặt sinh học. Khi có một nghề chuyên môn, SLĐ có điều kiện tồn tại cả về mặt sinh học và cả mặt xã hội. Khi người lao động có việc làm, họ vừa nâng cao tay nghề, lại vừa hoàn thiện được SLĐ của mình và nhờ đó công việc sẽ đạt kết quả cao hơn. Khi người lao động và người sử dụng lao động ký kết với nhau về việc làm, cả hai đều căn cứ vào yêu cầu của hoạt động lao động. Thực ra, hoạt động lao động là biểu hiện bề mặt xã hội của SLĐ. Chính SLĐ đóng vai trò quyết định đối với hiệu quả của hoạt động lao động của việc làm. Vì công việc làm hay yêu cầu của người sử dụng lao động chỉ thực hiện được khi người lao động có SLĐ phù hợp (có sức khoẻ, kỹ năng, kỹ xảo, ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức...) Nhưng kết quả của lao động cũng tác động trở lại đối với sự tồn tại và phát triển của SLĐ. Ví dụ, nếu anh có kỹ năng thành thạo sửa chữa máy móc đưa đến hiệu quả thì anh sẽ được thưởng và có cơ hội được đi đào tạo nâng cao tay nghề, và vị trí công việc của anh sẽ bền vững hơn. Như vậy, thực chất việc mua bán giữa người lao động và người sử dụng lao động là mua bán quyền sử dụng SLĐ phù hợp với yêu cầu của việc làm, không mua bán bản thân SLĐ vì đó là cơ thể sống của người lao động và đương nhiên cũng không mua bán được lao động. Như chúng ta biết, hoạt động lao động SXHH của người lao động có tính chất hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng, cả hai cùng thể hiện trong việc làm chứ không phải chỉ có lao động cụ thể mới biểu hiện trong việc làm. Như vậy, nói mua bán trên thị trường không phải là lao động trừu tượng mà là lao động cụ thể, là lao động thể hiện thành việc làm thì đã nhìn nhận sự việc một cách phiến diện không thừa nhận lý luận tính chất hai mặt của LĐSX của C.Mác. Từ mối quan hệ của các khái niệm SLĐ, lao động và việc làm ta thấy rằng các yếu tố này thể hiện trên thị trường chỉ cùng một mối quan hệ: mua bán quyền sử dụng SLĐ giữa người lao động và người chủ lao động. Những ai bán quyền sử dụng SLĐ của mình cho người khác thì đó là người lao động(người làm thuê). Nhưng nếu SLĐ của người làm thuê được sử dụng trong quá trình lao động sản xuất để đem lại một giá trị lớn hơn giá trị bản thân SLĐ, và cá nhân người lao động không có quyền chi phối phần chênh lệch thì những người làm thuê này thuộc về giai cấp công nhân. Còn những ai mua quyền sử dụng SLĐ của người khác thì đó là người sử
  16. dụng lao động. Những người này chiếm đoạn không bồi hoàn phần chênh lệch giữa giá trị mới và giá trị SLĐ thì thuộc về giai cấp tư sản. Còn người sử dụng nào mà sử dụng phần giá trị chênh lệch (C.Mác gọi là giá trị thặng dư) vào những công việc chung của xã hội thì đó chính là các tổ chức kinh tế tập thể hoặc các doanh nghiệp nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, do điều kiện thực tế, mọi thành viên đều trở thành người lao động cùng làm chủ tập thể, tuy vậy bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận thành viên trong xã hội phải bán SLĐ cho một bộ phận thành viên khác... Quan hệ mua bán SLĐ giữa người lao động và người sử dụng SLĐ diễn ra trên TTSLĐ. TTSLĐ là nơi diễn ra mua bán HHSLĐ giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về HHSLĐ. Sự biến động cung cầu về HHSLĐ luôn gắn bó chặt chẽ với chu kỳ phát triển của nền kinh tế. Trên thị trường SLĐ, quan hệ lao động giữa nhà tư bản và công nhân được thực hiện theo một hợp đồng, trong đó người bán phải ứng trước việc sử dụng SLĐ cho người mua trước khi nhận tiền lương "người lao động đều ứng trước giá trị sử dụng của sức lao động của mình cho nhà tư bản, anh ta để cho người mua tiêu dùng sức lao động của mình trước khi nhận được giá cả của nó" [29, tr.260-261]. Điều này phù hợp với quy luật: "Sản xuất hàng hoá càng phát triển thành nền sản xuất TBCN theo đúng những quy luật bên trong của bản thân nó, thì các quy luật sở hữu của bản thân nền sản xuất hàng hoá lại càng biến thành những quy luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa [29, tr.828]. Về hình thức hợp đồng lao động giữa công nhân và nhà tư bản, nhìn bề ngoài có vẻ thuận mua vừa bán nhưng bên trong chứa đựng quan hệ bóc lột. Bởi vì, khi còn là tư cách "chủ hàng đối diện với chủ hàng" thì "cái giao kèo theo đó anh ta bán sức lao động của mình cho nhà tư bản đã chứng minh bằng giấy trắng mực đen rằng anh ta tự do định đoạn bản thân mình" [29, tr.439]. Nhưng khi mua bán xong rồi anh ta sẽ không còn tự do nữa. Bởi, thời gian đó anh ta tự do bán SLĐ của mình là thời gian anh ta buộc phải bán SLĐ đó, và trong thực tế "khi nó còn có thể bóp nặn được một mớ thịt, một đường gân, một giọt máu". Vì thế, để chống lại sự bóc lột, công nhân phải hợp nhất lại "với tư cách là một giai cấp, họ buộc nhà nước phải ban hành một đạo luật, để làm một chướng ngại mạnh mẽ ngăn cản ngay chính bản thân họ, thông qua một hợp đồng tự nguyện với tư bản, tự bán mình và bán nòi giống mình vào chỗ chết chóc và nô lệ" [29, tr.439-440]. Tuy nhiên, trong thời kỳ phát sinh có tính chất lịch sử của nền sản xuất TBCN
  17. thì giai cấp tư sản đang cần đến quyền lực nhà nước, và đã dùng quyền lực nhà nước để "điều hoà" tiền công, nghĩa là bắt buộc tiền công ở trong những giới hạn thích hợp cho việc bòn rút giá tị thặng dư của người công nhân. Trên thị trường SLĐ, chứa đựng quan hệ cạnh tranh giữa người bán SLĐ và người thuê lao động. Điều này được thể hiện ở mức độ cung cầu giữa SLĐ trên thị trường. Lao động quá mức của bộ phận có việc làm trong giai cấp công nhân làm tăng thêm hàng ngũ đội quân trù bị của giai cấp công nhân. Vì vậy, áp lực của đội quân trù bị càng tăng lên mạnh mẽ đối với công nhân có việc làm buộc họ lao động quá mức và phục tùng mọi mệnh lệnh của chủ sở hữu. Do đó, tạo ra một cuộc cạnh tranh buộc bộ phận này của giai cấp công nhân thất nghiệp, một bộ phận khác giữa lao động quá mức và ngược lại đã trở thành một thủ đoạn làm giàu của các nhà tư bản cá biệt và đồng thời thúc đẩy nhanh việc sản xuất ra "đội quân công nghiệp trù bị" theo một quy mô tương ứng với sự tiến triển của tích luỹ xã hội. Sự cạnh tranh giành công việc giữa công nhân với nhau "khiến cho nhà tư bản có thể giảm giá cả sức lao động xuống, điều này giúp cho nhà tư bản có thể kéo dài thời gian lao động hơn nữa" [29, tr.774]. Nhưng với thời gian, khả năng sử dụng số lượng lao động không công bất bình thường, tức vượt quá mức trung bình xã hội trở thành công cụ cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau. Và chính sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, giữa công nhân với nhà tư bản đi dần vào tình trạng tha hoá lao động. 1.1.5. Sự tha hoá lao động trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa Trong chế độ TBCN các phương pháp bóc lột giá trị thặng dư đều dựa vào SLĐ của người công nhân. Điều này làm cho người lao động trở nên què quặt, biến họ thành con người bộ phận, hạ thấp nhân cách, bắt công nhân phụ thuộc vào máy móc, làm cho lao động của họ mất hết nội dung bằng cách biến nó thành một cực hình... "Người lao động trong quá trình lao động phải phục tùng một sự chuyên chế nhỏ nhen, đáng ghét nhất, biến toàn bộ cuộc đời của người lao động thành thời gian lao động" [29, tr.394]. Và đương nhiên các nhà tư bản cũng không bao giờ quan tâm đến sức khoẻ và tuổi thọ của người công nhân, nếu xã hội không cưỡng bách nó phải quan tâm đến. Quan hệ sản xuất TBCN đã đặt công nhân vào tình trạng bị động, tách rời các điều kiện thực tế của bản thân họ và cả các TLSX. Theo C.Mác: giá trị TLSX tăng lên hay giảm xuống cũng chẳng liên quan gì mấy đến mối quan
  18. hệ của công nhân với nhà tư bản, bởi vì những TLSX ấy cũng đồng thời là phương tiện bóc lột lao động. Sự tha hoá của lao động trong nền sản xuất hàng hoá TBCN xuất phát từ chế độ tư hữu về TLSX. Chính chế độ tư hữu về TLSX đã làm cho lao động vật hoá mà người công nhân đem SLĐ sống của mình đổi lấy đã trở thành một lực lượng không những đối lập với chính bản thân anh ta, mà còn thậm chí thống trị anh ta, thống trị anh ta chính nhờ hoạt động của anh ta. Sự tha hoá lao động ở đây xảy ra trong các mối quan hệ: Một là, quan hệ của công nhân với sản phẩm lao động như một vật xa lạ và thống trị anh ta, bởi vì sản phẩm anh ta làm ra không phải do chính anh ta định đoạt... Hai là, quan hệ của công nhân đối với hoạt động xa lạ không thuộc về anh ta, vì anh ta không tự nguyện thể hiện sự năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh. Tha hoá lao động làm cho người công nhân, chức năng hoạt động lao động của họ trở thành xa lạ ngay chính với họ. Như vậy, muốn giải phóng SLĐ, xoá bỏ tình trạng tha hoá lao động, làm cho người lao động quan tâm đến bản thân mình, đến hoạt động sáng tạo và kết quả lao động của chính mình thì phải xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN về TLSX. Hình thức công ty cổ phần (CP) sẽ góp phần giải quyết việc đó. Trong các công ty CP sẽ xuất hiện sự tập trung xã hội về TLSX và SLĐ, điều này làm cho tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân, do đó những xí nghiệp tập thể sẽ đối lập với xí nghiệp tư nhân. Theo C.Mác: "sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [29, tr.667]. Với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN đã biến nhà tư bản từ chỗ là người điều khiển sản xuất trở thành chủ sở hữu thuần tuý, thành những nhà tư bản tiền tệ thuần tuý. Và do đó, lợi tức mà họ có được chỉ giản đơn với tư cách là một số tiền thù lao trả cho quyền sở hữu tư bản. Như vậy, quyền sở hữu tư bản bây giờ đã hoàn toàn tách rời với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Hay nói cách khác, lợi nhuận chỉ biểu hiện ra là sự chiếm hữu lao động thặng dư của người khác, là kết quả của sự chuyển hoá TLSX thành t ư bản, nghĩa là tình trạng TLSX tách rời những người thật sự sản xuất với tư cách là sở hữu của người khác, đó là các chủ sở hữu tư bản. Trong trường hợp này giám đốc cũng chỉ là người làm thuê cho chủ sở hữu... Trong các công ty CP, chức năng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản, vì thế tư bản cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu về TLSX và về
  19. lao động thặng dư. Theo C.Mác đó là sự phát triển cao nhất của nền sản xuất TBCN, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản chuyển thành sở hữu của những người sản xuất với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp. Những nhà máy có tính chất liên hiệp với tính chất hợp tác đó sẽ phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó sẽ có một sự thay đổi tương thích... Công nhân trong các loại nhà máy đó "thành nhà tư bản đối với chính bản thân mình"... nghĩa là họ có thể dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của chính họ. Những nhà máy hợp tác đó là tiền đề cho một phương thức sản xuất mới thay thế phương thức sản xuất cũ. Qua những nội dung cơ bản trong lý luận HHSLĐ của C.Mác, thấy rằng đây là lý luận nền tảng cho học thuyết bóc lột của ông. Theo quan điểm của C.Mác, thì lao động là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải vật chất. Khi đến một giai đoạn phát triển nhất định nào đó của xã hội loài người, nhờ phân công lao động, tăng năng suất lao động, lao động của con người vượt khỏi giới hạn tất yếu sản xuất ra những sản phẩm cần thiết tái sản xuất SLĐ của mình để hình thành lao động thặng dư tạo ra sản phẩm thặng dư. Trong lý luận HHLĐ của mình, C.Mác đã trình bày nguồn gốc, điều kiện xuất hiện HHSLĐ; làm rõ hai thuộc tính của HHSLĐ, đặc biệt làm rõ giá trị sử dụng độc đáo của HHSLĐ; đó là khả năng tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó khi được sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Do bản chất của sản xuất hàng hoá TBCN là bóc lột lao động nên đã làm cho người công nhân rơi vào tình trạng tha hoá lao động. Và để xoá bỏ tình trạng tha hoá người lao động, giải phóng sức lao động, xoá bỏ dần quan hệ người bóc lột người, theo C.Mác có con đường trung gian vừa giúp người lao động gắn bó với quá trình sản xuất, có ý thức làm chủ, năng động sản xuất... đó chính là xây dựng và phát triển các công ty CP và thực hiện chế độ tín dụng. 1.2. Thực tiễn vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động đảm bảo nguồn nhân lực ở nước ta trong thời gian qua Mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo là " đưa con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do", là xây dựng mọt xã hội mới tiến bộ, công bằng, văn minh - xã hội XHCN, một xã hội trong đó người lao động phải được giải phóng khỏi nạn người bóc lột người và họ thực sự trở thành người làm chủ đất nước. Và cũng do vậy, khi chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta xác định đây là một quá trình khó khăn, lâu dài.
  20. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá (KTHH) nhiều thành phần, Đảng ta xác định người lao động là vốn quý nhất. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, các nhóm nguồn lực cơ bản cho sự phát triển, đó là nguồn lực vốn; nguồn lực lao động; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực khoa học -công nghệ thì nguồn lực lao động vẫn được xác định là yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển. "Sử dụng một cách chủ động, thích đáng thị trường, giá cả tiền lương, tín dụng để nâng cao chất lượng của kế hoạch, làm cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch được tốt hơn và trong một chừng mực nhất định bổ sung cho kế hoạch" [7]. Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào xây dựng CNXH, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của nền SXHH, đã nhận ra sự tương quan giữa kế hoạch và thị trường, tuy nhiên vẫn chú trọng nhiều hơn đến yếu tố kế hoạch, yếu tố năng suất lao động mà chưa chú ý nhiều đến yếu tố thị trường. Thực tế từ những năm 1980 trở đi, với sự phát triển SXHH đã cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường, nhất là giá cả đến việc tính toán tiền lương, nên chúng ta vẫn tiếp tục cải tiến tiền lương. Nhưng vì chưa xác định được vai trò của thị trường trong nền SXHH nên vấn đề tiền lương cũng chưa thoát khỏi tính chất bao cấp. Do vậy, người lao động chưa nhận được tiền lương phản ánh đúng với giá trị SLĐ. Như vậy, với việc cải cách tiền lương, là yếu tố khởi điểm cho một cách nhìn đúng đắn về hàng hoá sức lao động. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 - 1986, quan điểm về SLĐ đã được nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. Trong thời kỳ lịch sử này, Đảng ta đã thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa SLĐ và việc làm: " Trong xã hội ta, còn nhiều người có sức lao động chưa có việc làm và chưa sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu hút lao động của khu vực nhà nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng không thể đưa tất cả những người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế tập thể trong một thời gian ngắn" [8]. Từ nhận định như vậy, Đảng ta chỉ ra phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa SLĐ và việc làm, đó là nhà nước đã có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế khác ngoài thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Điều đó cũng có nghĩa, Đảng ta đã thừa nhận nền SXHH nhiều thành phần và tất yếu là thừa nhận sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế dựa trên sự biến động của giá cả thị trường. Sự đổi mới tư duy về kinh tế thể hiện ở chỗ xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng một cơ chế quản lý kinh tế mới mà tính kế hoạch được coi trọng nhưng sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, tiền tệ... Thực chất của cơ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2