intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

279
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đói nghèo là một vấn đề xã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá nói riêng. Trên thế giới hiện nay có tới 1/4 dân số đang sống trong tình trạng đói nghèo. Đói nghèo không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng những thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội đối với sự phát triển, tàn phá môi trường sinh thái....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá

  1. 1 Luận văn Xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá
  2. 2 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo là một vấn đề x ã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá nói riêng. Trên thế giới hiện nay có tới 1/4 dân số đ ang sống trong tình trạng đói nghèo. Đói nghèo không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội đ ược hưởng những thành quả văn minh tiến bộ của lo ài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội đối với sự phát triển, tàn phá môi trường sinh thái. Vì vậy nếu đói nghèo không được giải quyết, thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực hiện. Cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt con người là vị trí trung tâm của sự phát triển, coi XĐGN là một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. XĐGN từ chỗ là phong trào (giai đoạn 1990-1997) đến năm 1998 đã trở thành một chương trình mục tiêu quốc gia. Qua 7 năm thực hiện phong trào và 10 năm thực hiện chương trình XĐGN, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm đáng kể, bình quân mỗi năm giảm 2%. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa... vẫn đang chịu cảnh đói nghèo, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, có hơn 3,7 triệu người với 27 huyện, thị x ã, thành phố, 634 xã, phường thị trấn; có 11 huyện với 197 xã miền núi và hơn 1 triệu dân. Trong những năm qua, thực hiện chương trình XĐGN, với sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của các ngành, các cấp và nhân dân trong
  3. 3 tỉnh, Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định trong xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể, từ gần 21,94% năm 2001 đến năm 2005 còn 10,6% (theo chuẩn cũ). Tuy nhiên hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái đói nghèo còn cao, số lượng hộ nghèo còn lớn. Cuối năm 2005, theo chuẩn mực hộ nghèo mới, Thanh Hoá có gần 275.140 hộ ngh èo, chiếm gần 34,71% so với tổng số hộ, đặc biệt 11 huyện miền núi với 197 x ã thì có tới 153 x ã nghèo thiếu những kết cấu hạ tầ ng thiết yếu, với 95.050 hộ nghèo chiếm 53,38% trong đó có 89 x ã đặc biệt khó khăn, chưa kể một bộ p h ận lớn dân số ở khu vực kinh tế nông nghiệp tuy không thuộc diện hộ nghèo, nhưng do thu nh ập không ổn định, nằm giáp ranh chuẩn ngh èo c ũng c ó nguy cơ đói nghèo. V ấn đề XĐGN bền vững để đạt đ ược mục tiêu c ủa tỉnh đề ra (b ình quân toàn tỉnh mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo 4,3% trở lên, đ ến 2010 còn dưới 12% hộ nghèo, 100% xã nghèo, xã đ ặc biệt khó khăn có đ ủ c ơ sở hạ tầng thiết yếu, 100% hộ ngh èo được tiếp cận đầy đ ủ với các d ịch vụ x ã hội cơ bản) là cực kỳ khó khăn. V ì vậy việc phân tích, đánh giá đồng thời nghiên cứu đưa ra nh ững giải pháp đồng bộ nhằm XĐGN có hiệu q u ả trên đ ịa b àn 11 Huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá trong những năm tới là hết sức cần thiết. X uất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của vấn đề XĐGN của cả nước, tỉnh Thanh Hoá nói chung v à miền núi Thanh Hoá nói riêng trong quá trình h ội nhập v à phát triển, tác giả chọn vấn đề “Xoá đói g iảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá ” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghèo đói là một hiện trạng rất phổ biến trong phạm vi cả thế giới, cho nên vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau.
  4. 4 Cho đ ến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn tốt nghiệp đ ã đề cập đến vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN), trong đó có các công trình như: Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm chủ biên có: - Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993); - Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993); - Xoá đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996); - Xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997). V ề luận văn, luận án có các công trình sau: - Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, 1999; - Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; - Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xoá đói giảm ngh èo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Liên quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Thanh Hoá cũng đã có 2 đề tài: Luận văn thạc sĩ kinh tế của Đỗ Thế Hạnh: "Thực trạng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm xoá đói giảm nghèo ở vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá" Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; Luận văn thạc sĩ kinh tế của Tào Bằng Huy: "Những giải pháp cơ bản nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2010" Đ ại học kinh tế Quốc dân, năm 1999. Các công trình nghiên cứu trên đ ề cập đến vấn đề đói nghèo dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến đói nghèo ở miền núi Thanh Hóa dưới góc độ kinh tế chính trị. V ì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trình nghiên cứu đã công bố.
  5. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích: Luận văn tập trung phân tích thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của miền núi Thanh Hoá hiện nay, từ đó đ ề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo trên địa bàn miền núi tỉnh Thanh Hoá. Nhiệm vụ: - Hệ thống hoá các quan niệm, tiêu chí về đói nghèo của quốc tế và trong nước. - Nghiên cứu kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo ở một số nước và một số tỉnh, rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công tác xoá đối giảm nghèo ở Thanh ho à nói chung và ở khu vực miền núi Thanh Hoá nói riêng. - Tập trung phân tích thực trạng đói nghèo của 11 huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản gây nên đói nghèo. - Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước xoá đói giảm nghềo ở khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá. 4. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xã nghèo, hộ nghèo đói thuộc 11 huyện Miền núi tỉnh Thanh Hoá thông qua việc điều tra khảo sát tình hình thực tiễn và các số liệu hiện có trong các báo cáo tổng kết về xoá đói giảm nghèo và số liệu thống kê của địa phương. Luận văn nghiên cứu vấn đề xoá đói giảm nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị và tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình đói nghèo của khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá giai đoạn từ 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước để nghiên cứu.
  6. 6 - Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và khoa học kinh tế chính trị Mác-Lênin và kết hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp, khái quát, hệ thống và nghiên cứu báo cáo tổng kết xoá đói giảm nghèo của tỉnh Thanh Hoá. 6. Những đóng góp của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo ở miền núi Thanh Hoá, tìm ra những nguyên nhân, các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề đói nghèo của miền núi tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn công tác xoá đói giảm nghèo ở các địa bàn có đặc thù tương tự như miền núi Thanh Hoá; làm tư liệu giảng dạy và nghiên cứu môn kinh tế chính trị. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  7. 7 Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở miền núi 1.1. đặc điểm, vai trò của đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở miền núi 1.1.1. Bản chất và tiêu chí xác định đói nghèo 1.1.1.1. Quan niệm về đói nghèo Đói nghèo là một hiện tượng xã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, không những có thể gây ra thảm hoạ về nhân đạo, mà còn có nguy cơ gây bất ổn x ã hội. Nghèo đói thể hiện ở tình trạng kiệt quệ của một bộ phận dân cư bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập kém tới tình trạng dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với những tai ương bất ngờ, ho ặc ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định của cộng đồng. Nghèo đói là một phạm trù lịch sử và có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, hoàn cảnh chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá của vùng, miền, quốc gia, khu vực trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, đói nghèo có nguyên nhân chủ yếu và trước hết là do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, sản phẩm thặng dư trong xã hội không nhiều, thêm vào đó là tình trạng áp bức giai cấp nặng nề trong các xã hội có giai cấp, nên quyền phân phối sản phẩm lao động làm ra thuộc về một ít người - về giai cấp thống trị. Xã hội phân chia thành hai cực đối lập, trong đó “ Kẻ ăn chẳng hết, người lần không ra”: Chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất lớn và nền đại công nghiệp, đ ã tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn các xã hội trước và với một lực lượng sản xuất khổng lồ “bằng tất cả các thế hệ trước cộng lại”, đ ã mở ra khả năng to
  8. 8 lớn để con người có thể đáp ứng được các nhu cầu phát triển của mình. Tuy nhiên, do sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất, sự phân hoá và áp bức giai cấp, sự khác biệt về năng lực và cơ hội của các cá nhân…, trong xã hội này nghèo đói vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển kinh tế - x ã hội. Khi nghiên cứu, phân tích x ã hội tư b ản để chỉ ra những quy luật vận động và phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đ ã đề cập một cách to àn diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của giai cấp vô sản và những người lao động làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Tiêu biểu là các tác phẩm “ Bản thảo kinh tế - triết học” (1844), “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” và sau này là trong bộ “Tư bản”. ở đ ây, hai ông đã mô tả cặn kẽ, tỷ mỹ tình cảnh của những người nông dân bị mất hết tư liệu sản xuất, bị xua ra thành phố, những người phụ nữ và trẻ em bị vắt sức lao động trong các xưởng thợ... Họ góp phần trở thành đội quân những người vô sản, là nạn nhân của sự bóc lột giá trị thặng d ư tương đối và tuyệt đối của các ông chủ tư b ản. Những người công nhân đó bản thân không có chút tài sản gì đáng kể và chỉ sống bằng tiền lương và hầu hết là luôn luôn chỉ vừa đủ ăn, cái xã hội gồm những nguyên tử rời rạc ấy ho àn toàn không quan tâm đến họ, để mặc cho họ tự lo lấy việc nuôi mình và nuôi gia đình nhưng lại không cấp cho họ phương tiện để có thể thường xuyên và thật sự giải quyết nhưng nhu cầu ấy, cho nên mỗi người công nhân, thậm chí là công nhân giỏi nhất cũng luôn luôn có thể bị mất việc và do đó cũng sẽ không có ăn,... [18, tr.418-419]. Sự bóc lột tàn bạo đó đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập: tích luỹ sự giàu có đến tột độ về phía giai cấp tư sản và tích tích luỹ sự nghèo khổ về phía giai cấp công nhân. C.Mác viết: “Như vậy, tích luỹ của cải
  9. 9 ở một cực này đồng thời cũng có nghĩa là tích luỹ sự đau khổ của lao động, sự nô lệ, sự dốt nát, sự cục cằn và sự truỵ lạc tinh thần ở cực đối lập, tức là ở phía giai cấp sản xuất ra bản thân sản phẩm của mình với tư cách là tư bản” [19, tr.909]. Sự phân hoá giàu nghèo ấy ngày càng sâu sắc và đã trở thành sự phân hoá giai cấp không thể điều hoà được. Để làm rõ nguyên nhân của hiện tượng nghèo đói và sự bần cùng của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi vào lý giải vấn đề tiền công trong xã hội tư bản. Theo Mác, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, tiền công gồm có tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công đ ược sử dụng để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, do đó tiền công danh nghĩa phải được chuyển thành tiền công thực tế. Tiền công thực tế là tiền được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hoá sức lao động, nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên. Mác còn chỉ rõ, tính quy luật của sự vận động của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng của giai cấp vô sản.
  10. 10 Như vậy, theo Mác và Ăngghen, nghèo đói của giai cấp vô sản trong xã hội tư bản có nguyên nhân trực tiếp từ sự phân phối thu nhập của sản xuất xã hội qua tiền công và phân phối giá trị thặng dư trên thị trường. Trong các chế độ tư hữu và bóc lột thống trị, nghèo khổ, đối kháng giai cấp và phân cực xã hội là những hiện tượng luôn đi liền nhau trong một tất yếu nhân quả hữu cơ không thể tách rời. Nó thuộc về bản chất kinh tế chính trị - xã hội của phương thức sản xuất đó. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay nhờ lợi dụng được những thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ, sớm áp dụng những biện pháp điều chỉnh và cải cách trong quản lý nên đã đạt được những bước tiến lớn trong sản xuất, tăng trưởng kinh tế, trở nên giàu có phồn vinh. Song một bộ phận nhỏ bé thuộc các thế lực tư sản nắm quyền lực đã chiếm đoạt hầu hết mọi của cải xã hội, và một bộ phận dân cư không nhỏ sống trong thất nghiệp và nghèo đói. ... Trong sáu người trên thế giới thì có một người sống nghèo khổ, tức là cả hành tinh có một tỷ người nghèo đói, 800 triệu trẻ em bị đói; riêng EU có 18 triệu người thất nghiệp và 50 - 70 triệu người sống bấp bênh. Những tình trạng được coi như đã bị loại trừ hay ít nhiều bị hạn chế cách đây 20 năm ở châu Âu hiện nay lại trở nên phổ biến. Đầu tiên là mất việc làm, rồi không có tiền để lo cho cuộc sống, bị mất chỗ ở hoặc phải sống chung trong những nơi chật chội v.v... [11]. Các chính sách mà nhà nước tư sản đưa ra chỉ có thể làm dịu bớt mức độ gay gắt của những xung đột, đối kháng, nghèo khổ chứ không thể xoá bỏ tận gốc đ ược. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của nó không thể tự giải quyết được nghèo đói. Phân cực xã hội ngày càng gay gắt là nghịch lý của phát triển với hệ thống các quan hệ tư b ản chủ nghĩa.
  11. 11 Trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với quan niệm cho rằng: nghèo khó là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết nghèo đói, chúng ta đã quá thiên về chủ nghĩa bình quân trong phân phối, chia đều sự nghèo khổ cho tất cả mọi người mà không tính đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó đã dẫn đến việc xem nhẹ lợi ích kinh tế của cá nhân, hạn chế cá nhân làm giàu và triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh quan điểm trên, lại có quan niệm cho rằng chỉ cần xác lập quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động thì nghèo đói sẽ tự động biến mất, xã hội sẽ ngay lập tức đạt tới sự phồn thịnh, mọi người ai cũng giàu có. Song thực tế lại không phải như vậy, mặc dù trong chủ nghĩa x ã hội, không còn đ ối kháng giai cấp, nhưng những sự khác biệt của người lao động vẫn luôn tồn tại. Sự khác biệt về phẩm chất, năng lực, trí tuệ, thể lực, cơ hội của những người lao động đã dẫn đến sự khác nhau về kết quả lao động có ích mà họ cống hiến cho xã hội, và do đó khác nhau về thu nhập do kết quả lao động đó mang lại. Trong chủ nghĩa xã hội, giàu, nghèo vẫn còn tồn tại, nhất là trong cơ chế thị trường, b ình đẳng và công b ằng xã hội là tương đối chứ không phải là tuyệt đối, là hướng tới ngày một thụ hưởng đầy đủ hơn những giá trị ấy, chứ không phải lập tức đã có ngay những giá trị ấy, nhất là khi chủ nghĩa xã hội mới ra đời chứ chưa ở trình đ ộ thành thục, phát triển. Như vậy, nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, các thước đo để đánh giá ai nghèo, ai giàu lại chủ yếu và trước hết dựa trên thước đo về kinh tế. Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực châu á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9-1993 đã đưa ra khái niệm và định nghĩa nghèo đói như sau:
  12. 12 "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa phương". Có thể xem đây là một quan niệm, một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, tuy nhiên, những tiêu chí về nghèo đói còn để ngỏ về mặt lượng vì ở đ ây còn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến trình độ phát triển kinh tế, phong tục tập quán của mỗi địa phương. Song có thể nói, định nghĩa đã đề cập được đến nội dung cơ bản của vấn đề nghèo đói đó là nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì sự tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, đói là tình trạng nghèo khổ cùng cực, là trạng thái con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy trì sự sống bình thường và không đủ để lao động, tái sản xuất sức lao động. Đói là sự nghèo nàn hiển nhiên và nghèo là một sự đói tiềm tàng và luôn đứng trước khả năng bị đói, trong thực tế nhất là khi lâm vào tình trạng thiên tai, rủi ro, hoạn nạn thì trạng thái nghèo khổ sẽ trở thành đói. Nghèo có hai dạng, là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thường trực không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực tế một bộ phận lớn dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu đói. Nghèo tương đ ối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Như thế, sự thiếu thốn "của cải" trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu của con người được xem là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức sống và vị trí (về kinh tế - xã hội) các nhóm hoặc các cá nhân khác ở p hương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ, cơ hội tiếp cận các nguồn lực... sẽ cho ta quan niệm về nghèo tương đối.
  13. 13 Ngoài ra, Liên Hợp Quốc cũng đưa ra chỉ tiêu để đánh giá mức sống của con người bao gồm cả thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người, thành tựu y tế - xã hội và trình độ văn hoá giáo dục, tổng hợp lại là chỉ số phát triển con người - Human Development Index (gọi tắt là HDI). HDI bao gồm ba yếu tố cơ bản của sự phát triển con người: tuổi thọ, trình độ và mức sống. Tuổi thọ được phản ánh bằng số năm sống trung bình của người dân. Trình độ được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (với trọng số là 2/3 của chỉ số trình độ) với số năm đi học trung bình của mỗi người (với trọng số tương ứng là 1/3). Mức sống được đo lường theo mức GDP thực tế bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP) của mỗi quốc gia. Theo số liệu của UNDP, HDI của nước ta năm 1998 là 0,671 đứng thứ 108; các nước có chỉ số phát triển con người cao là từ 0,801 trở lên, còn mức trung bình là từ 0,505 đến 0,797; dưới 0,506 là các nước có chỉ số phát triển con người thấp. Chỉ số này cao nhất là 1. Năm 1989 nước có chỉ số cao nhất là Canađa đạt 0,935. Sự kết hợp giữa chỉ tiêu HDI và chỉ tiêu GDP/ người như đã nêu ở trên cho phép chúng ta đánh giá, nhận diện đói nghèo một cách khách quan và chính xác hơn. Đói nghèo còn được nhận diện ở bốn khía cạnh là thời gian, không gian, môi trường và giới. Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống d ưới mức được xác định như một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời gian dài(tuy nhiên cũng cần phải bổ sung vào số người này những người nghèo tình thế do thất nghiệp, do thiên tai, rủi ro hay do con người gây ra). Về giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù trong gia đình, nam giới là chủ gia đình, nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu nhiều hơn gánh nặng của nghèo đói.
  14. 14 Về không gian: nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi,vùng sâu, vùng xa... dù nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa dân cư ở các vùng kể trên vẫn dễ bị rơi vào nghèo đói. Về môi trường: hầu hết những người nghèo đói đều phải sống trong môi trường khắc nghiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người nghèo đói không đủ khả năng và điều kiện để gìn giữ, đảm bảo và cải thiện môi trường sống. Tóm lại: Những quan niệm về nghèo đói do cách tiếp cận khác nhau nên có những kiến giải khác nhau, sự nghèo đói là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi. Các chỉ số xác định giới hạn nghèo đói không phải là cứng nhắc và bất biến. Nó biến đổi tuỳ theo sự chênh lệch, sự khác biệt giữa các vùng, miền, quốc gia. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ chức quốc tế, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ, cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 2001 - 2010 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm. Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng nghèo.... và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. V ề khái niệm nghèo của Việt Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói của ESCAP. Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần tuý là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hoá, thuộc phạm trù văn hoá tinh thần. Khái niệm đói cũng có hai dạng: đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).
  15. 15 - Đói kinh niên: là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. - Đói cấp tính: là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét. - Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không đ ược học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát.... - Hộ nghèo: là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. - Xã nghèo: là xã có tỷ lệ nghèo cao, (Có tỷ lệ nghèo từ 25% trở lên) không có ho ặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: Điện, đường, trường, trạm y tế, nước sạch vv...trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. - Vùng nghèo: là địa b àn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao. 1.1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây: Tiêu chí có nghĩa là: Tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [30, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính. Chuẩn có nghĩa là: cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường, cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [30, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ đó ta có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn là công cụ để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỉ lệ hộ nghèo có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại
  16. 16 a. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới Đ ể đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu nhập theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần nhóm nghèo nhất [32, tr.11]. Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu, nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua tương đương và cũng tính bằng USD. Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các nước trên toàn thế giới làm 6 loại. + Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu. + Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu. + Từ 10.000 đến dưới 20.000 USD/người/năm là khá giàu. + Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD/người/năm là nước trung bình. + Từ 500 đến 2.500 USD/người/năm là nước nghèo. + Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo. Theo phương pháp thứ hai: WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung cho toàn thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả
  17. 17 hàng hoá, thực hiện phương pháp tính “rỗ hàng hoá” sức mua tương đương để tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.100 calo/ngày. Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1 USD/người/ngày. Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm. Với mức trên WB ước tính có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo đói. Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền kinh tế - xã hội và sức mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD) cũng khác nhau ở từng quốc gia. ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia là 28USD/người/tháng. Srilanca là 17USD/người/tháng. Bangladet là 11USD/người/tháng. ở Việt Nam, GDP bình quân đầu người hiện nay (năm 2006) khoảng 720 USD/người/năm, nên trên bình diện chung của thế giới nước ta là nước nghèo khó, do đó không thể lấy chuẩn nghèo đói của WB để xác định nghèo đói của Việt Nam. Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Nhưng cũng cần thấy rằng nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn hoá, chính trị, xã hội. Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân theo đ ầu người cao nhưng vẫn chưa đạt được sự phát triển toàn diện. Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường và những bất công khác vẫn còn phổ biến, khoảng cách nghèo ngày càng tăng lên, xu hướng này không chỉ xảy ra ở những nước nghèo mà còn xảy ra ở những nước khá và giàu. Qua đó có thể thấy rằng: Nghèo khổ trong
  18. 18 xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập thấp hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu; tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo tương đối chính xác và khách quan. b. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và xã hội công bố. Chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên giác độ vĩ mô. * Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới Tổng Cục thống kê với vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu cấp quốc gia và có thể so sánh quốc tế đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của Ngân hàng thế giới được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (các năm 1992 – 1993 và 1997 – 1998) để xây dựng đường đói nghèo. Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, đ ược xác định bởi chi phí cần thiết để mua rỗ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân 1 người/ngày (2.100 calo). Đường đói nghèo ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm các mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lượng thực, thực phẩm). Trên cơ sở
  19. 19 xây dựng đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và WB đưa ra chuẩn nghèo đói của Việt Nam như sau: - Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn đồng/ngày/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92 USD. - Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm 1998 là 1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD. Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau: Phương pháp này sử dụng rổ hàng hoá từ năm 1993 đến nay hơn 15 năm nên không thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam. Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị, nông thôn và chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập danh sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương (xã, huyện, tỉnh). * Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia Bộ Lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan thường trực của chương trình XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang mức thu nhập, kết quả là đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau (Biểu 1.1). Biểu 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói quốc gia Chuẩn nghèo đói Mức thu nhập Phân loại người nghèo đói qua các giai đoạn BQ/người/tháng Đói (KV nông thôn) Dưới 8Kg Đói (KV thành thị) Dưới 13 kg 1993 – 1995 (Mức thu nhập qui ra gạo) Dưới 15 kg Nghèo (KV nông thôn) Nghèo (KV thành thị) Dưới 20 kg
  20. 20 Đói (Tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000 đồng) Nghèo (KV nông thôn miền Dưới 15kg(55.000đồng) 1996 – 2000 (Mức thu núi, hải đảo) nhập qui ra gạo tương Nghèo (KV nông thôn, đồng đương với số tiền) Dưới 20kg (70.000đồng) bằng trung du) Nghèo (KV thành thị) Dưới 25kg (90.000 đồng) Nghèo (KV nông thôn miền Dưới 80.000đồng núi, hải đảo) 2001 – 2005 (Mức thu Nghèo (KV nông thôn đ ồng nhập tính bằng tiền) Dưới 100.000 đồng bằng trung du) Nghèo (KV thành thị) Dưới 150.000 đồng Dưới 200.000 đồng 2006 – 2010 (Mức thu Nghèo (KV nông thôn) nhập tính bằng tiền) Nghèo (KV thành thị) Dưới 260.000 đồng Nguồn: Bộ LĐ - TB và XH, chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998 - 2000 và Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg. Đ ầu năm 1998, cả nước có 2,65 triệu hộ (khoảng 14 triệu dân) nghèo đói, chiếm 17,7% dân số (theo chuẩn chung của quốc tế là 37%). Trong đó có 300.000 hộ thường xuyên nghèo đói. Có 1.498 xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên và 1.168 xã thiếu hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường, trường, trại xá, chợ, nước sạch), 2/3 số x ã nghèo là các xã miền núi, khoảng 1,2 triệu người ở 978 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ phát triển. Đến cuối năm 2000, tỉ lệ hộ nghèo ở thành thị còn 6% và nông thôn là 11,2%. Đầu năm 2001 khi thay đổi chuẩn nghèo đói, nước ta còn khoảng 2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 17,2%), đến cuối năm 2005 còn khoảng 1,1 triệu hộ nghèo, chiếm 7,0%. Ưu điểm của phương pháp này là: Đảm bảo từng b ước thoả mãn nhu cầu của con người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hoá....). Chuẩn nghèo đói được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập của người dân. Mặt khác theo phương pháp này, tạo điều kiện cho cơ sở có thể triển khai được việc lập danh sách hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2