intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lược sử ngoại giao VN các thời trước Chương ba NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN (thế kỷ XIII)

Chia sẻ: Linh Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

324
lượt xem
78
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nói đến lịch sử ngoại giao thời đại tiếp theo thời Lý, tức thời nhà Trần thì chủ yếu là nói đến những hoạt động ngoại giao của triều đình nhà Trần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Nguyên xâm lược kể từ ngày chúng mới đe dọa ngoại giao tới sau khi chiến tranh kết thúc, không phải tiến hành ngoại giao hòa bình để xin lại tù binh. Về quân sự, dân tộc ta ba lần đánh thắng quân Nguyên. Về ngoại giao, dân tộc ta cũng kiên trì dũng cảm đấu tranh với địch...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lược sử ngoại giao VN các thời trước Chương ba NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN (thế kỷ XIII)

  1. Lược sử ngoại giao VN các thời trước Chương ba NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN (thế kỷ XIII) Nói đến lịch sử ngoại giao thời đại tiếp theo thời Lý, tức thời nhà Trần thì chủ yếu là nói đến những hoạt động ngoại giao của triều đình nhà Trần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Nguyên xâm lược kể từ ngày chúng mới đe dọa ngoại giao tới sau khi chiến tranh kết thúc, không phải tiến hành ngoại giao hòa bình để xin lại tù binh. Về quân sự, dân tộc ta ba lần đánh thắng quân Nguyên. Về ngoại giao, dân tộc ta cũng kiên trì dũng cảm đấu tranh với địch và đã giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần không nhỏ vào những chiến thắng chống xâm lược vô cùng
  2. vĩ đại của dân tộc ta vào thời Trần. I. ĐE DỌA NGOẠI GIAO VÀ TRẤN ÁP NGOẠI GIAO Ở nước ta, đầu thế kỷ XIII, nhà Trần lên cầm quyền thay thế nhà Lý, quan hệ đối ngoại với nhà Tống vẫn tiếp tục bình thường, mặc dầu có dấu hiệu trục trặc lúc ban đầu. Nhà Trần được thiết lập đầu năm 1226. Nhà Tống (Trung Quốc) không chấp nhận quan hệ ngoại giao với nhà Trần, ý muốn kiếm chuyện với ta, nhưng còn do dự, vì sự thất bại của nhà Tống thời Lý Thường Kiệt còn ám ảnh vua tôi nhà Tống, chưa quên được. Năm 1229, Trần Thái Tông cho sứ sang Tống cầu phong. Nhà Tống không đáp lại. Nhà Trần không cần và cũng không có quan hệ gì thêm. Nhưng Tống cũng không yên ổn để có thái độ trịch thượng lâu dài đối
  3. với ta. Đến năm 1232, người Mông Thát đã bắt đầu xâm lược Trung Quốc, sau đó thống trị Trung Quốc, lập nên triều đại nhà Nguyên. Trước hết họ đánh phá nước Kim, lúc ấy là một nửa lãnh thổ Trung Quốc về phía bắc. Năm 1234, Mông Thát chiếm đóng cả nước Kim và bắt đầu đe dọa nước Tống, lúc ấy là nửa phía nam Trung Quốc. Năm 1234, Mông Thát cho hai đạo quân tiến đánh Tống, một đạo đánh xuống Tương Dương, Phàn Thành; một đạo tiến xuống Thành Đô (Tứ Xuyên). Đầu năm 1236, Mông Thát đánh Thành Đô. Cuối năm 1236, nhà Tống phải đặt quan hệ giao hảo với nhà Trần, họ cho sứ mang các thư phong vương cho vua Trần. Sự giao hảo vội vàng của nhà Tống với ta cho thấy những lo ngại của họ trước cuộc chiến tranh xâm lược ồ ạt của Mông Thát vào đất Tống và chung quanh đất Tống. Cho sứ sang gấp nước ta, nhà Tống muốn tranh thủ quan hệ hữu hảo với ta, phòng trước
  4. sự tiếp xúc của Mông Thát với ta, có thể bất lợi cho Tống. Hành động thân thiện của nhà Tống là một bảo đảm cho ta không có gì phải lo đối phó với Tống, mà cái chính phải lo tính lúc ấy là cuộc xâm lược của Mông Thát đang ngày càng mở rộng và tiến sâu xuống phía nam. Những biến động trên đất Tống, do sự thâm nhập của quân Mông Thát, có thể ảnh hưởng tới nền an ninh biên giới nước ta. Và cũng rất có thể Mông Thát đưa chiến tranh xâm lược của chúng vào nước ta. Cho nên về đối ngoại lúc này, ta phải lo đối phó với Mông Thát là chủ yếu. Từ năm 1236, sau khi đánh Thành Đô, quân Mông Thát tiến dần xuống phía nam, thường cho du binh đột nhập vùng Quảng Đông, Quảng Tây cướp phá rồi rút đi, gây tình hình rối ren cao độ ở miền nam nước Tống. Giặc cướp nổi lên khắp nơi, quan, tướng nhà
  5. Tống ở đây không sao trấn trị được. Cuối năm 1240, giặc cướp trên đất Tống tràn qua biên giới vào vùng Lạng Giang (tức Lạng Sơn) giết người cướp của. Viên quan trấn thủ Lạng Giang đưa tin cáo cấp triều đình. Đây chưa phải là giặc Mông Thát mà là người nước Tống, một nước còn quan hệ thân thiện với ta. Triều đình nhà Trần có thái độ và phương hướng xử trí thích đáng, cương quyết không dung thứ mọi hành động xâm lấn từ bên ngoài, bất luận kẻ xâm lấn là ai. Sử cũ ghi: "Nhà vua sai thị thần là Bùi Khâm đi trù liệu sắp xếp việc này", "đi chỉnh lý công việc biên thùy ở mặt bắc". Thực chất của sự việc là Bùi Khâm được lệnh cầm quân lên Lạng Giang dẹp giặc và củng cố biên phòng. Một năm sau (1241), giặc cướp bên Tống lại tràn sang cướp phá miền biên giới nước ta. Triều đình nhà Trần cho đốc tướng Phạm Kính An đem quân lên
  6. biên giới đánh giặc. Chính vua Trần lúc ấy là Trần Thái Tông cũng tự cầm đầu một đạo quân, theo đường thủy tiến ra vùng biển Quảng Ninh. Vua Trần đưa quân vượt biên thùy, sang hẳn đất Tống để đánh giặc cướp trên suốt một dải ven biển, từ trại Vĩnh Bình lên Khâm Châu, Liêm Châu rồi mới trở về. Hành động quân sự này của vua Trần vừa giúp Tống đánh dẹp giặc cướp, bảo đảm an ninh miền biên giới nước ta vừa tạo điều kiện cho vua Trần và các tướng lĩnh đi cùng hiểu sâu hơn tình hình quân dân Tống, thấy được tận mắt khả năng tiến triển của cuộc chiến tranh Mông - Tống, từ đó định ra sách lược của ta để đối phó với cả hai bên Mông và Tống, khi chiến tranh lan tới biên giới nước ta. __________________ Tình hình an ninh ở miền nam nước Tống ngày càng xấu. Quan lại nhà Tống vùng này bất lực. Quân ta rút về thì giặc cướp lại hoành hành, lại xâm phạm biên
  7. giới nước ta. Nhà Trần thấy cần phải hành động mạnh mẽ, kiên quyết hơn. Năm 1242, vua Trần cho tướng đưa quân lên đóng tại lộ Bằng Tường thuộc đất Tống, cách biên giới nước ta chừng vài chục ki-lô- mét. Khi quân của triều đình nhà Tống xuống đảm nhiệm được việc giữ gìn trật tự miền biên giới thì quân ta rút về. Do đấy miền biên giới nước ta và Tống tạm yên. Nhưng miền biên giới nước ta giáp Vân Nam thì dần dần biến động nghiêm trọng. Vân Nam thời đó chưa phải là đất Trung Quốc, mà là lãnh thổ của một số dân tộc độc lập, trong đó có nước Đại Lý ở liền sát biên giới nước ta. Giữa ta và Đại Lý trải mấy trăm năm, quan hệ biên giới được duy trì tốt. Nếu Mông Thát đánh chiếm Đại Lý thì miền biên giới nước ta giáp Đại Lý sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Mà Đại Lý mất nước là điều không tránh được. Quân
  8. Mông Thát đánh Vân Nam từ năm 1253. Tới năm 1257, vùng Vân Nam về cơ bản đã nằm dưới quyền thống trị của quân xâm lược và nước ta bắt đầu chung đường biên giới với Mông Thát ở mạn tây bắc. Ngay năm đó (1257), vừa chiếm đóng được Vân Nam, tướng Mông Thát là Ngột Lương Hợp Thai vội cho sứ sang triều đình nhà Trần, lấy biện pháp đe dọa ngoại giao để mở đường xâm lược nước ta. Tình hình an ninh ở miền nam nước Tống ngày càng xấu. Quan lại nhà Tống vùng này bất lực. Quân ta rút về thì giặc cướp lại hoành hành, lại xâm phạm biên giới nước ta. Nhà Trần thấy cần phải hành động mạnh mẽ, kiên quyết hơn. Năm 1242, vua Trần cho tướng đưa quân lên đóng tại lộ Bằng Tường thuộc đất Tống, cách biên giới nước ta chừng vài chục ki-lô- mét. Khi quân của triều đình nhà Tống xuống đảm nhiệm được việc giữ gìn trật tự miền biên giới thì quân ta rút về.
  9. Do đấy miền biên giới nước ta và Tống tạm yên. Nhưng miền biên giới nước ta giáp Vân Nam thì dần dần biến động nghiêm trọng. Vân Nam thời đó chưa phải là đất Trung Quốc, mà là lãnh thổ của một số dân tộc độc lập, trong đó có nước Đại Lý ở liền sát biên giới nước ta. Giữa ta và Đại Lý trải mấy trăm năm, quan hệ biên giới được duy trì tốt. Nếu Mông Thát đánh chiếm Đại Lý thì miền biên giới nước ta giáp Đại Lý sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Mà Đại Lý mất nước là điều không tránh được. Quân Mông Thát đánh Vân Nam từ năm 1253. Tới năm 1257, vùng Vân Nam về cơ bản đã nằm dưới quyền thống trị của quân xâm lược và nước ta bắt đầu chung đường biên giới với Mông Thát ở mạn tây bắc. Ngay năm đó (1257), vừa chiếm đóng được Vân Nam, tướng Mông Thát là Ngột Lương Hợp Thai vội cho sứ sang triều đình nhà Trần, lấy biện pháp đe dọa
  10. ngoại giao để mở đường xâm lược nước ta. Tháng 9 năm 1257, sứ của Ngột Lương Hợp Thai tới trước cửa ải nước ta. Sử cũ ghi "Tháng tám năm Đinh Tỵ (khoảng tháng 9 năm 1257), chủ trại ở Quy Hóa là Hà Khuất cho chạy trạm về triều tâu là có sứ Nguyên tới". Được tin báo, triều đình nhà Trần lệnh cho sứ nhập cảnh và đưa sứ vào triều. Sử cũ không ghi chi tiết gì về việc sứ Nguyên, tức sứ Mông Thát tới Thăng Long. Nhưng quân giặc vốn ỷ vào sức mạnh áp đảo của chúng, thường dùng đe dọa ngoại giao kết hợp với tiến công quân sự để lấy thành, cướp nước của người. Trải mấy chục năm đánh đông cướp tây mỗi khi quân Mông Thát cho sứ đi tới đâu thì nơi đấy thường khiếp sợ, cúi đầu dâng đất xin hàng hoặc xưng thần nộp cống. Nhưng sứ Mông Thát tới Đại Việt tình hình lại không thế. Mông Thát dùng đe đọa
  11. ngoại giao để vào Đại Việt thì Đại Việt lấy trấn áp ngoại giao đáp lại. Triều đình nhà Trần đã tống giam bọn sứ Mông Thát. Thấy sứ đi không về, Ngột Lương Hợp Thai không khỏi chột dạ và bực tức, nhưng cũng không dám vội vã ra quân. Viên tướng này cho sứ sang ta lần thứ hai, hy vọng có thể đe dọa dụ hàng được ta, để chúng đỡ hao binh tổn tướng. Nhưng sứ đi lần thứ hai, tới được Thăng Long, cũng bị tống giam như bọn sứ lần thứ nhất. Thấy thất bại về ngoại giao, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tiến công quân sự Đại Việt. Nhưng, khi đưa quân tới biên giới, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang ta. Lần này tập trung quân ở biên giới làm áp lực cho đe dọa ngoại giao, Ngột Lương Hợp Thai tưởng rằng dân tộc ta sẽ phải khiếp sợ, khuất phục, đầu hàng. Nhưng không, sứ giả của nhà Mông Cổ
  12. sang ta lần thứ ba cũng không gì may mắn hơn, cũng bị đưa vào giam trong ngục như những sứ giả của hai lần trước. Đe dọa ngoại giao thất bại, không có kết quả gì mà lại mất người, mất cả uy danh, Ngột Lương Hợp Thai đưa quân vượt biên giới Vân Nam đánh sang ta. Nhà trần chủ trương để cho giặc vào thẳng Thăng Long. Nhưng tuy vào được Thăng Long mà giặc lại khiếp sợ. Chúng không ngờ Thăng Long là Quốc đô mà lại bỏ ngỏ, không một bóng người. Lùng sục khắp - nơi, chúng chỉ thấy mấy tên sứ giả của chúng bị trói nằm trơ trong nhà ngục. Hăm hở tiến đánh Thăng Long để cướp giết, nhưng vào được Thăng Long thì lương không, người vắng. Đưa quân vào đóng trong một kinh thành trống rỗng, không người, không lương ăn, là họa lớn của các đạo quân viễn chinh xâm lược. Chúng phải đưa quân ra đóng ở ngoài thành Thăng Long. Nhưng dù ở trong thành hay ngoài
  13. thành, giặc cũng đã sa vào cái thế cô quân trong một vùng thành không, nhà trống. Lương ăn năm bảy ngày đã cạn. Lương cạn thì quân đói. Quân đói thì không còn làm gì được nữa. Ngột Lương Hợp Thai phải từ bỏ mọi mưu đồ quân sự, phải vận dụng ngoại giao cầu hòa, để được đem quân an toàn trở về nước. Triều đình nhà Trần không chấp nhận lời cầu hòa của giặc, cho trói sứ đuổi về trại giặc. Quân ta tổ chức một trận tập kích lớn, đánh vào toàn bộ quân giặc. Giặc không chống đỡ nổi, thiệt hại nặng, phải dồn toàn lực đem tàn quân chạy về nước. Nhưng không phải vì thua trận như thế mà quân Mông Cổ từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Với bản chất hung hãn, hiếu chiến, đối với các nước ngoài, quân Mông Cổ chỉ có đánh phá, xâm lược; xâm lược một lần không được thì xâm lược lần thứ hai, thứ ba; không giao hảo, hữu nghị với một nước nào, một dân
  14. tộc nào. Đối với nước ta, quân Mông Cổ tất nhiên không đi ra ngoài đường lối đối ngoại bạo ngược đó. Mục tiêu xâm lược của chúng lúc ấy là chiếm đóng toàn bộ Trung Quốc. Vân Nam hay Đại Việt chỉ là tiện đường đánh thì đánh. Đánh chưa được thì hãy để đấy nhưng không bỏ hẳn. Chúng sẽ thường xuyên tiếp xúc với ta. Tiếp xúc để dò xét tình hình, để đe dọa, uy hiếp, ép buộc ta quy phục, làm nhụt tinh thần, nhuệ khí của ta, tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc chiến tranh xâm lược sau. Vì vậy địch chủ động hòa hoãn và đặt quan hệ ngoại giao chặt chẽ với ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0