Lý thuyết phát triển - Bối cảnh lịch sử
lượt xem 57
download
Sự đổ vỡ của chương trình phát triển kinh tế các nước châu Mỹ Latinh – ECLA của liên hợp quốc đã kéo theo khủng hoảng về kinh tế, chính trị - xã hội ở các nước này trong những năm đầu của những năm 1960. Điều này dẫn tới sự mất niềm tin vào các lý thuyết của trường phái hiện đại hóa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lý thuyết phát triển - Bối cảnh lịch sử
- I. Bối cảnh lịch sử Sự đổ vỡ của chương trình phát triển kinh tế các nước châu Mỹ Latinh – ECLA của liên hợp quốc đã kéo theo khủng hoảng về kinh tế, chính trị - xã hội ở các nước này trong nh ững năm đ ầu của những năm 1960. Điều này dẫn tới sự mất ni ềm tin vào các lý thuyết của trường phái hiện đại hóa. Trước những năm 1960, họ đã dặt ra kế hoạch bảo vệ sự phát triển của chương trình ECLA ở các nước châu Mỹ Latinh và mở rộng thông qua sự thay thế nhập khẩu vào năm 1950 mà rất nhiều người nghiên cứu châu Mỹ Latinh có hy vọng lớn về hướng kinh tế thịnh vượng phát và công bằng xã hội. Tuy nhiên, sự mở rộng kinh tế vào những năm 1950 nhanh chóng trở nên trì trệ và trước năm 1960 Châu Mỹ Latinh bị kh ủng hoảng bởi th ất nghiệp , lạm phát, sự giảm giá của đồng tiền và các vấn đề kinh t ế khác. Tuy nhiên vấn đề nghiêm trọng nhất là sự khủng hoảng về chính trị và pháp luật hà khắc( do việc thiết lập ch ế độ độc tài quân đ ội). Rất nhiều nhà nghiên cứu châu Mỹ Latinh đã vô cùng th ất vọng v ề s ự đổ vỡ không thể giải thích được sự đi xuống của nền kinh tế sự yếu kém về chính trị và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước. Điều này đòi hỏi cần có một lý thuyết mới ra đời để thay th ế lý thuy ết cũ (quan điểm của trường phái hiện đại hóa) để chỉ đạo hướng dẫn các nước châu Mỹ Latinh thoát khỏi khủng hoảng. => trường phái sự phụ thuộc ra đời Trường phái sự phụ thuộc đầu tiên được ra đời ở Mỹ Lating nh ư giải pháp cho các nước vỡ nợ từ chương trình vay vốn cho các nước Mỹ Lating của ủy ban quốc tế các nước Mỹ Lating(ECLA) vào nh ững năm 1960. • Chịu ảnh hưởng từ mô hình phát triển ở Trung Quốc và Cuba: Tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN. Trường phái sự phụ thuộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác( chính thống) đã đưa ra lời giải thích cho sự khủng hoảng ở các nước Latinh vào những năm 1960 và đã được các nước này đón nh ận. chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng các nước Mỹ Lainh đang bước vào giai đoạn
- cách mạng tư sản, là tiên đề để tiến tới cách mạng vô sản. Tuy nhiên sự thành công của cách mạng Trung Quốc(1949) và Cuba(1950) đã chỉ ra rằng các nước thế giới thứ 3 có thể bỏ qua giai đo ạn cách m ạng t ư sản. Bị hấp dẫn bởi sự hiện đại hóa, phát triển của Cuba và Trung Quốc nhiều nhà nghiên cứu ở Mỹ Latinh cho rằng họ cũng có th ể ti ến thẳng lên chế độ xã hội cộng sản. Trường phái sự phụ thuộc ở Mỹ Latinh (bản địa) nhanh chóng truyền từ các nước Mỹ Latinh đến Bắc Mỹ. Theo Andre Gunder Frank, một nhà nghiên cứu Mỹ Latinh vào những năm đầu 1960, góp phần truyền bá những học thuyết của trường phái sự phụ thuộc đến các nước phương Tây thông qua cộng tác với một tạp chí ở Mỹ mang tên Monthy Review. Trường phái sự phụ thuộc đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt tại Mỹ cuối năm 1960 gây ra được tiếng vang lớn đối với các nhà nghiên cứu trẻ tuổi cấp tiến, những người tham gia vào các cuộc nổi dậy, biểu tình chống chiến tranh, các hoạt động giải phóng phụ nữ và cuộc nổi loạn khu ổ chuột vào thời gian đó. Theo cách nói của Chỉot: Sự thất bại của Mỹ tại Việt Nam và những mâu thuẫn sắc tộc, bất bình đẳng giới, lạm phát kéo dài vào những năm 1960 gây ra sự mất giá đồng Đôla Mỹ, suy giảm niềm tin của nhân dân Mỹ vào đầu năm 1970 và làm lung lay những giá trị nền tảng làm xây dựng nên trường phái hiện đại hóa. Một lý thuyết mới trở nên phổ biến trong các nhà xã hội học trẻ, một trong số đó đ ảo ngược tất cả lại với tiên đề cũ. Mỹ đã trở thành một hình m ẫu c ủa cái ác và chủ nghĩa tư bản vốn được xem là tiến bộ xã hội này trở thành một khai phá nham hiểm và tập trung hầu hết đói nghèo trên thế giới. Chủ nghĩa đế quốc hiện đại trở thành kẻ thù mới. Nổi lên trong bối cảnh lịch sử năm 1960, trường phái s ự ph ụ thu ộc đã trở thành câu trả lời cho tương lai của ch ương trình ECLA, cu ộc khủng hoảng của chủ nghĩa Mác chính thống, và sự suy giảm của trường phái hiện đại hóa ở Mỹ. Phần sau đây cung cấp một đánh giá ngắn gọn vè chương trình ECLA và lý thuy ết Mác-xít nh ư là n ền t ảng cho các cuộc thảo luận về quan điểm sự phụ thuộc.
- II. Thừa kế lý thuyết. • Phê phán chính sách chuyên môn hóa lệch lạc của ECLA. Việc xây dựng trường phái sự phụ thuộc phát triển tại châu Mỹ Latinh liên quan mật thiết tới chương trình ECLA,Prebisch (1950)- người đứng đầu ECLA, đã chỉ trích lược đồ phân công lao động quốc tế đã lỗi thời. Dưới mô hình này, Mỹ Latinh đã xuất khẩu l ương th ực thực phẩm và nguyên liệu thô cho các trung tâm công nghiệp th ế giới, và Mỹ Latinh sẽ nhập khẩu lại những sản phẩm công nghiệp khác từ các trung tâm này. Theo Prebisch, kế hoạch này là gốc rễ của các vấn đề phát triển của Châu Mỹ latinh. Việc xuất khẩu lương th ực th ực phẩm và nguyên liệu thô chắc chắn sẽ dẫn tới giảm mậu dịch quốc t ế của Mỹ Latinh, mà hơn nữa sẽ ảnh hưởng đến tích lũy vốn trong nước. Chiến lược phát triển Châu Mỹ Latinh mà Prebisch cho sự phát triển của châu Mỹ Latinh là yêu cầu bộ phận quốc tế lao động dừng lại cho Mỹ Latinh trải qua sự công nghiệp hóa. Quá trình công nghiệp hòa tộc độ cao dần thay đổi ph ần lớn việc sản xuất trong nước. Ban đầu, sản xuất trong nước sẽ được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài bởi hàng rào thuế quan và các bi ện pháp hỗ trợ khác, đến một thời điểm nào đó khi khả năng cạnh tranh của họ đã được cải thiện, các công ty trong nước phải tự quản lý và duy trì bằng chính sức mình. Sản xuất nguyên liệu thô tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh t ế Mỹ Latinh. Thu nhập kiếm được từ sản xuất nguyên liệu dùng để chi trả cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất nhằm giúp đỡ cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính phủ phải tích cực tham gia phối hợp trong sự nghiệp công nghiệp hóa bằng việc chính ph ủ cần chủ động điều tiết quá trình công nghiệp hóa. Sự tham gia của chính phủ là cần thiết để phá vỡ tình trạng kém phát triển. Ban đầu, chiến lược của ECLA nhận được phản ứng khá l ạnh lùng t ừ phía chính phủ Mỹ Latinh vào những năm 1950. Sự phản đối này giải thích tại sao ECLA không thể thực hiện các biện pháp căn bản trước mắt như cải cách ruộng đất. Tuy nhiên trong thực tế, thay đổi cơ cấu kinh tế quá nhanh không phải là phương án tốt và trong một phạm vi nhất định chiến lược ECLA được xem xét là quá lạc quan. Nó giả thuyết những vấn đề của một xã hội các nước chưa phát triển sẽ tự
- động biến mất trong quá trình công nghiệp hóa. Có nghĩa rằng công nghiệp hóa đặt dấu chấm hết cho mọi khó khăn. Tuy nhiên chương trình ECLA đã không thành công. Kinh tế trì trệ và các vấn đề chính trị nảy sinh vào những năm 1960. Nh ư Blomstrom và Hannet giải thích rất rõ ràng những chính sách thay thế nhập khẩu: Sức mua là nhân tố quan trọng chỉ ra nhu cầu xã hội và sức mua của các tầng lớp xã hội chắc chằn bị hạn chế, thị trường trong nước cho thấy rõ sẽ có xu hướng mở rộng thêm. Phụ thuộc vào nh ập kh ẩu, s ản xuất hàng hóa bị xem nhẹ trong sự phát triển chung của quá trình công nghiệp hóa, kết quả là cán cân thương mại của các quốc gia bị mất cân bằng nghiêm trọng, nền kinh tế rơi vào đình đốn. Tức là không có xu hướng để mở rộng thêm thị trường. Để khắc phục thất bại của chương trình ECLA, trường phái sự phụ thuộc đã nhanh chóng đưa ra những chiến lược căn bản và được xem như bước phát triển kế tiếp. Một trong những học thuyết góp phần vào xây dựng nên quan đi ểm về sự phụ thuộc là học thuyết Mác cấp tiến(hay Tân chủ nghĩa Mác). • Tư tưởng chủ nghĩa Tân Mác: Dựa vào thắng lợi của cách mạng Trung Quốc và Cuba Sự thành công của cách mạng Trung Quốc và Cuba đã góp phần truyền bá học thuyết Mác tới các trường đại học ở Mỹ Latinh, tạo ra một thế hệ cấp tiến, những người tự gọi là “tân chủ nghĩa Mác”. Theo Foster-Carter(1973, Tân Mác khác với chủ nghĩa cổ điển Mác ở các thía cạnh sau đây: (1) Trong chủ nghĩa Mác cổ điển coi chủ nghĩa đế quốc là phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản độc quyền tại tây âu thì Tân Mác thì nhìn nhận chủ nghĩa đế quốc theo quan điểm (ngoại vi), tập trung vào sự liên quan của chủ nghĩa đế quốc với vấn đề phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ 3. (2) Chủ nghĩa Mác cổ điển theo quan điểm 2 “bước tiến hành cách mạng”. Họ tin tưởng rằng một cuộc cách mạng tư sản s ẽ làm ti ền đề cho cuộc cách mạng XHCN diễn ra. Cho tới tận khi các nước thế giới thứ 3 đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác cổ điển vẫn tin tưởng vào khả năng tiến hành cách mạng tư sản trước khi tiến hành cách mạng XHCN. Tân Mác lại theo một hướng khác. Họ tin rằng tình hình hiện tại ở các nước thế giới thứ 3 đã chín muồi để tiến hành cách mạng XHCN. Họ muốn tiến hành cách mạng ngay, họ nhận thức cách mạng tư sản như một bước tạo thành chủ nghĩa đế quốc.
- (3) Cuộc cách mạng xã hội diễn ra, chủ nghĩa Mác cổ điển vẫn muốn nó được lãnh đạo bởi giai cấp vô sản. Trong khi chủ nghĩa Mác cấp tiến được đánh giá cao qua việc lãnh đạo thành công cách mạng Cuba và Trung Quốc, chủ nghĩa Mác cấp tiến là niềm hi vọng tốt hơn cho cuộc cách mạng XHCN mà tiền đề là giai cấp công nhân, nông dân, những người du kích… Chủ nghĩa tân Mác đã cung cấp những cơ sở lý luận được coi như là chiếc chìa khóa cho quan điểm của trường phái sự phụ thuộc chọn để nghiên cứu về chương trình ECLA và quan điểm trường phái hiện đại hóa vào những năm 1960. III. Một số nghiên cứu điển hình Frank: Sự phát triển của sự kém phát triển. • Phê phán lý thuyết của trường phái hiện đại hóa. Trước tiên đưa ra khái niệm về sự phát triển của sự kém phát tri ển và sự bóc lột của các cường quốc với các nước kém hơn, Frank(1967,1969) bắt đầu với việc phê phán các quan điểm của trường phái hiện đại hóa. Theo Frank, hầu hết các phạm trù lý thuyết và những chính sách phát triển của trường phái hi ện đ ại hóa đều được tích lũy từ những kinh nghiệm lâu năm của người Châu Âu và người Bắc Mỹ các quốc gia tư bản tiến bộ. Tuy nhiên nh ững lí thuyết của người phương tây không thể giải thích được các vấn đề mà các nước thế giới thứ 3 phải đối mặt. Trường phái hiện đại hóa giả định rằng sự lạc hậu của các nước thế giới thứ 3 là do yếu tố nội tại của các nước này. Đầu tiên, trường phái HĐH đưa ra khái niệm “nội tại” để giải thích cho các vấn đè phát triển của các nước thế giới th ứ 3. Trường phái HĐH giả định có một số sai lầm trong nội bộ các nước thế giới th ứ 3 (VD: Như văn hóa truyền thống, sự bùng nổ dân số, thi ếu đ ầu t ư, thiếu động lực thành tích…) đó là lí do tại sao các nước th ứ 3 l ạc hậu và trì trệ. Trường phái HĐH bỏ qua lịch sử của các nước th ế
- giới thứ 3 và giả định rằng những nước này sẽ sớm phát triển theo kinh nghiệm được truyền lại từ các nước phương tây, do đó h ọ cần nhìn theo các nước phương tây để học hỏi và đi theo con đ ường phát triển của các nước phương tây để có thể bước vào thời kỳ HĐH. Bác bỏ các giả định trên của trường phái HĐH Frank cho rằng các nước thế giới thứ 3 sẽ không bao giờ đi theo con đường của các nước phương tây bởi vì họ trải qua những giai đoạn lịch s ử mà các nước phương Tây chưa trải qua vì rõ ràng là các nước phương Tây chưa trải qua tình trạng bị xâm chiếm trong khi hầu hết các nước thế giới thứ 3 đã từng là thuộc địa của các nước phương tây. Điều thật lạ là trường phái HĐH hiếm khi nói đến quá trình xâm chiếm và biến mất của nhiều nước thế giới thứ 3 trở thành thuộc địa trong hơn 1 thế kỉ. quá trình thuộc địa đã giải thích cho các v ấn đ ề v ề tái cơ cấu và thay đổi đáng kể quá trình phát triển của họ. • Giải thích sự kém phát triển của các nước thế giới thứ 3 là do cá nước thế giới thứ 3 đã trải một quá trình lịch sử lâu dài b ị thực dân xâm lược. Phản ứng với khái niệm “nội tại” của trường phái HĐH, Frank đưa ra những giải thích “bên ngoài” về những vấn đề phát triển của các nước thế giới thứ 3. Theo Frank, sự lạc hậu của các nước thế giới thứ 3 không thể giải thích bằng các lý thuyết truy ền th ống. Th ực t ế quá sai lầm khi nói rằng nguyên nhân thất bại là do đặc điểm của các nước thế giới thứ 3 như “phong kiến”, “lạc hậu” bởi vì rất nhiều nước như Trung Quốc hay Ấn Độ đã khá ổn định trước khi họ bị chủ nghĩa thực dân xâm chiếm vào thế kỉ 18. Thay vào đó, chủ nghĩa thực dân và sự thông trị nước ngoài đã chi phối sự phát triển của nhiều nước thế giới thứ 3, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nghèo nàn và lạc hậu vủa nền kinh tế cũng như nỗ lực thoát khỏi suy thoái của những nước này. Frank xây dựng khái niệm “ vấn đề phát tri ển ở các nước kém phát triển” để biểu thị rằng sự kém phát triển không phải do tự nhiên mà được tạo từ quá trình xâm chiếm kéo dài tại các nước thế giới thứ 3. • Sử dụng mô “quốc mẫu – chư hầu” để giải thích cơ chế tạo nên sự kém phát triển : Sự bóc lột của các nước phát triển chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển của các nước thế giới thứ 3. Dựa theo quan điểm này Frank đã đề xuất nột số giả thuy ết có liên quan dến sự phát triển của các nước thế giới thứ 3.
- Giả thuyết 1: Nói lên sự tương phản giữa các thành phố lớn trên thế giới và những thành phố thuộc địa, giữa sự phát triển của các quốc gia phương tây và sự lạc hậu ở các nước thuộc địa. VD: Mặc dù Sao Paulo (Brazin) đã bắt đầu quá trình công nghi ệp hóa nhưng Frank vẫn không tin có thể thoát khỏi tình trạng kém phát triển bởi nước này vẫn con nhiều đặc điẻm như: lạc hậu, kém hiện đại, không thỏa mãn nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa. Giả thuyết 2: Các nước Mỹ Latinh hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế của các nước khác và khả năng tự phát triển là vô cùng yếu . Frank quan sát thấy rằng các nước Mỹ Latinh và quá trình công nghiệp hóa và phát triển tạm thời trong nhưng năm 1950 chẳng qua là do đình đốn của các trung tâm công nghi ệp trên th ế giới, do chiến tranh thế giới II gây ra. Giả thuyết 3: Khi các trung tâm công nghiệp lấy lại vị th ế của mình sau khủng hoảng, khôi phục nền kinh tế và sát nhập lại hệ thống thuộc địa, quá trình công nghiệp hóa của các nước thế giới thứ 3 bắt đầu trùng xuống. Frank chỉ ra răng quá trình công nghiệp hóa ở Brazin đã gặp phải nhưng hệ quả nghiêm trọng từ việc khôi phục của nền kinh tế Mỹ sau chiến tranh th ế giới I mà kh ởi đ ấu là vấn đề khủng hoảng về tiền tệ, chính trị…. Giả thuyết 4: Những khu vực càng lạc hậu và kém phát tri ển thì trong quá khứ càng là nước chịu lệ thuộc nặng nề vào các n ước chính quốc phương tây. VD: Frank chỉ ra rằng khi giá mía đường ở tây Ấn xuống d ốc và các mỏ khoáng sản ở Brazin cạn kiệt thì các nước chính quốc nhanh chóng ruồng bỏ các quốc gia này bởi giữ lại các quốc gia này làm thuộc địa không còn có lợi mà còn tr ở thành gánh nặng kinh tế cho các nước chính quốc. Việc đó đã đẩy các quốc gia này đến tận cùng của sự suy thoái lúc bấy giờ. Frank cũng lí lẽ: sự bòn rút thuộc địa đã tạo ra sự phát triển cho các trung tâm thương mại Châu Âu. Kết luận: Từ những lập luận và các giả thuyết trên Frank đã đưa ra một quan điểm hoàn toàn khác so với quan điểm của trường phái HĐH đưa ra về nguyên nhân sự kém phát triển của các nước thế giới thứ 3, nó có phần hợp lí và sát thực hơn với các giả định mà trường phái HĐH đưa ra. Theo Frank nguyên nhân của sự kém phát triển ở các nước thế giới thứ 3 là do sự bóc lột của các nước phát triển dẫn đến.
- Dos Santos: Cấu trúc của sự thuộc • Định nghĩa về sự phụ thuộc. Khi nào mối quan hệ giữa 2 hay nhiều quốc gia được coi là ở dạng phụ thuộc? Lý thuyết của chủ nghĩa đế quốc tập trung vào việc mở rộng và s ự thống trị của đế quốc độc quyền, các khái niệm cơ bản về sự phụ thuộc đã làm nổi bật các vấn đề cơ bản của một quốc gia. Trong định nghĩa cổ điển về sự phụ thuộc, Dos Santos nói rằng: “Mối quan hệ giữa 2 hay nhiều quốc gia “giả định phụ thuộc khi một số quốc gia ( các nước tự chủ) có thể bắt đầu, trong khi các nước khác (các nước phụ thuộc) chỉ làm điều này như một sự mở rộng”. Ông lập luận rằng mối quan hệ giữa các nước tự ch ủ và các n ước phụ thuộc là khác nhau. VD: thông qua kiểm soát đọc quyền các quan hệ thương mại, thông qua các khoản vay và xuất khẩu các nguồn vốn trong quan hệ tài chính, có chuyển giao thặng dư được tạo ra trong các nước phụ thuộc vào các quốc gia tự chủ. Với các nước phụ thuộc thì sự chuyển giao khoa học kỹ thuật, văn hóa cũng như đạo đức, sứ khoe và thể chất của người dân của họ bị phụ thuộc vào rất nhiều các nước khác. Dos Santos đã phân biệt 3 hình thức lịch sử của sự phụ thuộc: + Đầu tiên 2 trong số này là phụ thuộc dạng thuộc địa và sự ph ụ thuộc tài chính công nghiệp: - Đến cuối thế kỉ thứ 19: Sự phụ thuộc dạng thuộc địa: Các trung tâm thương mại và tài chính của các nước thuộc địa giữ độc quyền kiểm soát đất đai, hầm mỏ và nguồn nhân lực (nông dân và nô lệ), xuất khẩu vàng, bạc và các sản phẩm nhiệt đới từ các quốc gia thuộc địa. - Từ cuối thế kỷ 19: Sự phụ thuộc tài chính – công nghiệp: Sự phụ thuộc về tài chính công xuất hiện. Mặc dù vẫn còn chịu sự chi phối của các trung tâm lớn ở Châu Âu nhưng sau đó nền kinh tế của các nước của sự phụ thuộc đã có sự thay đổi. Các nước này có thể xuất khẩu nguyên liệu thô và các sản phẩm nông nghiệp tới tiêu thụ ở các nước Châu Âu.
- Không giống như ở các thời đại trước đó, cơ cấu sản xuất ở giai đoạn này được đặc trưng bởi việc chuyên môn hóa xuất khẩu trong toàn khu vực(VD: Caribe và phái đông bắc Brazin). Cùng với hoạt động xuất khẩu, đã có th ể bổ xung thêm các hoạt động kinh tế ( như chăn nuôi bò và sản xuất một sô sản phẩm liên quan). + Đây có thể nói là đóng góp lớn nhất của Dos Santos đó là v ề l ịch sử nguyên nhân hình thành thứ 3 của sự phụ thuộc “ Sự phụ thuộc công nghệ - công nghiệp” - Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 : Sự phụ thuộc công ngh ệ - công nghiệp: Khi sự phát triển công nghiệp bắt đầu diễn ra ở các nước kém phát triển. Theo Dos Santos, có những hạn chế cơ bản về cấu trúc phát triển công nghiệp của nền kinh tế ở các nước kém phát triển. * Các khó khăn cơ bản. Phụ thuộc vào xuất khẩu: Điều này nổi lên trong thời kì chiến tranh thế giới th ứ 2 khi các quốc gia kém phát triển bắt đầu quá trình công nghiệp và gặp phải những khó khăn cơ bản. Họ cho rằng công nghiệp phát triển hiện tại phụ thuộc vào sự tồn tại của xuất khẩuchỉ có xuất khẩu mới mang lại ngoại tệ cần thiết để mua các trang thiết bị máy móc tiên tiến dùng cho phát triển công nghiệp. Để giữ lại nghành xuất kh ẩu truyền thống, một số quốc gia kém phát triển cần phải duy trì mối quan hệ giữa sản xuất hiện đại và truyền thống . Ngoài ra các khu vực kinh tế xuất khẩu( đặc biệt là mạng lưới tiếp th ị) th ường bị kiểm soát bởi vốn đầu tư nước ngoài, phụ thuộc vào lợi ích kinh t ế của các quốc gia phát triển. Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán : Phát triển công nghiệp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những biến động của cán thanh toán dẫn đến thâm hụt. Các nguyên nhân gây thiệt là ba nguyên nhân: (1) Một thị trường quốc tế độc quyền có xu hướng giảm giá nguyên liệu và nâng cao giá sản phẩm công nghiệp. Đó xu hướng mà các sản phẩm chính được thay thế bằng các sản phẩm với vật liệu tổng hợp. Như vậy, các nước phụ thuộc
- phải chịu thâm hụt thương mại do sự phụ thuộc của họ vào việc xuất khẩu nguyên liệu. (2) Nguồn vốn nước ngoài giữ quyền kiểm soát nền kinh tế của các nước thuộc địa, nó mang lại một khối lượng lớn lợi nhuận (từ cước vận chuyển, thanh toán tiền bản quyền, trợ giúp kĩ thuật,…v.v). Vì thế Dos santos chỉ ra rằng số tiền mà các nước phụ thuộc được nhận lạo từ các nước phát triển ít hơn nhiều so với số tiền họ đáng được nhận lại. Ví dụ: trong giai đoạn 1946 – 1967 cứ mỗi một đồng đôla được nhận về các nước phụ thuộc thì sẽ có 2.73$ rời đi. Quá trình này tạo ra một mức thâm hụt trong tài khoản vốn và hạn chế nhập khẩu đàu vạo của các nước ngoài cho công nghiệp. (3) Kết quả là “tài trợ nước ngoài” theo hình thức vốn nước ngoài và viện trọ nước ngoài, là cần thiết để trang trại thâm hụt tài chính hiện hành và để phát triển h ơn nữa. Tuy v ậy, Dos santos cũng lập luận rằng mục đích của nguồn tài trợ nước ngoài này là để đàu tư tài chính, trợ cấp cho việc nhập khẩu, giới thiệu công nghệ không thích hợp với nhu cầu tới các nước phát triển và ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực không c ần thiết. Sự độc quyền công nghệ của các nước đi trước. Nền công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh mẽ về công nghệ độc quyền được thực hiện bởi các trung tâm đế quốc. Các t ập đoàn xuyên quốc gia không bán máy míc và xử lý nguyên li ệu là các hàng hóa đơn giản. Thay vào đó họ yêu cầu bản quyền cho hình thức đầu tue của riêng mình. Mặt khác các nước thuộc địa bị thiếu ngoại tệ
- để trả cho việc sử dụng máy móc và nguyên liệu được cấp bằng sáng chế. Các yếu tố này phụ buộc chính phủ của các nước thuộc địa tạo điều kiện cho sự xâm nhập của vốn nước ngoài vào th ị trường trong nước để có được công nghệ cần thiết và nguyên liệu cấp bằng sáng chế. Trong điều kiện như vậy, Dos santos nói rằng “vốn nước ngoài đem lại nhiều lợi thế: trong nhiều trường hợp, việc miễn kiểm soát ngoại hối đối với nhập khẩu các ngành công nghiệp được cung cấp; cơ quan chính phủ dùng tài trợ sẵn có để tạo điều kiện cho công nghiệp; nhiều khách hàng lựa ch ọn các khoản vay từ ngân hàng nước ngoài được sử dụng để tăng cường công nghiệp hóa.” =>Hệ quả của việc này là dẫn tới sự phụ thuộc về công ngh ệ - công nghiệp ở các nước kém phát triển. Sự phụ thuộc công nghệ - công nghiệp: * Sự phụ thuộc công nghệ - công nghiệp có ảnh hưởng gì đến cấu trúc nề kinh tế của các nước kém phát triển? Đầu tiên, sự phát triển ở các nước thế giới thứ 3 là một hình thức sao chép cấp tính và xung đột giữa một bên là cơ cấu sản xuất truyền thống trong lĩnh vực xuất khẩu nông nghiệp với một bên là ngành xuất khẩu hiện đại trong lĩnh vực tài chính, công nghệ và kinh tế tập trung. Thứ hai, với việc sử dụng vốn để phát triển các ngành công nghiệp chuyên sâu và đã khai thác triệt để nguồn lao động. Tạo nên sự phận hóa giàu nghèo sâu sắc. Thứ hai, trong bối cảnh của một thị trường lao động địa phương giá rẻ thì việc sử dụng triệt để nguồn lao động sẵn có kết hợp với sử
- dụng một công nghệ nghiều vốn dẫn đến việc phân chia các mức lương khác nhau. Tao nên sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc. Từ quan điểm Mác-xít, Dos Santos nhãn hiệu này tập trung cao thu nhập một “ tỷ lệ khai thác cao” (hoặc siêu khai thác) của lao động điện. Thứ ba, cơ cấu sản xuất bình đẳng này đã áp đặt những giới hạn về sự tăng trưởng của thị trường trong quá trình phát triển. Khả năng tiêu thụ hàng hóa của thị trường bị giới hạn bởi sức mua của người tiêu dùng mà ở đây chủ yếu là người lao động – những người bị giới hạn về khả năng thanh toán. Ngoài ra, sự tăng trưởng của thị trường hàng hóa còn bị giới hạn bởi do một phần lớn lợi nhuận và thặng dư của nền kinh tế bị chảy ra nước ngoài. Dos Santos kết luận rằng sự lạc hậu kinh tế của các nước kém phát triển không phải do thiếu tích hợp đầu tư nghiên cứu, mà là do sự kiểm soát độc quyền của vốn nước ngoài, và công nghệ nước ngoài. Tài chính – công nghệ nước ngoài đã tác động mạnh mẽ dến cấu trúc sản xuất. Cụ thể các tác động đến cấu trúc sản xuất là: * Sự mất cân đối trong cấu trúc sản xuất( nhị nguyên ): Khu vực sản xuất nông nghiệp xuất khẩu lạc hậu>< Khu vực tập trung công nghệ, kinh tế - tài chính hiện đại. * Tạo ra sự phân hóa sâu sắc về tiền lương, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc. * Sự mất cân đối trong cấu trúc sản xuất dẫn đến sự hạn chế phát triển thị trường trong nước. Amin: Tiến đến CNTB của các nước
- Ngoại vi. Nghiên cứu của Amin(1976) là lý thuyết về sự chuyển đổi từ các nước ngoại vi sang tư bản trung tâm. Nó gồm những khẳng định chính sau: • Tiến lên CNTB của các nước ngoại vi có sự khác biệt cơ bản với việc tiến đến CNTB của các nước trung tâm. Quá trình chuyển sang tư bản từ các nước ngoại vi khác nhiều so với việc tiến đến chủ nghĩa tư bản ở cá nước trung tâm. Do sự hình thành các nhà tiền tư bản của Chủ nghĩa tư bản trung tâm chủ yếu là gây ra những thụt lùi. Ví dụ như: Loại bỏ những hàng hóa thủ công địa phương nhưng lại không có sự thay thế bởi các sản phẩm công nghiệp nội địa. Amin cũng lưu ý rằng sự khủng hoảng về đất nông nghiệp trong chiến tranh thế giới tạm thời lần thứ ba là kết quả rõ rang của những sự thoái trào này. • CNTB ở ngoại vi đặc trưng bởi sự méo mó của các hoạt động xuất khẩu. Tư bản ngoại vi được đặc trưng bởi sự bóp méo các hoạt động xuất khẩu. Amin cũng chỉ ra rằng: “sự bóp méo đó xảy ra không ph ải là k ết quả của thị trường trong nước thiếu hụt mà là do khả năng sản xuất các sản phẩm cao cấp của trung tâm trong mọi lĩnh vực”, điều này đã buộc các ngoại vi trở thành nhà cung cấp các sản phẩm bổ sung cho việc s ản xuất, đặc biệt là các sản phẩm có lợi thế từ tự nhiên nh ư sản ph ẩm nông nghiệp giàu chất xơ hay khoáng sản. Cùng với sự bóp méo này, mức lương ở các khu vực ngoại vi thường thấp hơn so với trung tâm.
- • Sự bành trướng của các hoạt động không tạo ra của cải: th ất nghiệp, di cư nông thôn - thành thị mù quang, … Một hình thức khác là sự bùng nổ của các khu vực kinh tế tại các ngoại vi. Tại trung tâm, sự bùng nổ của khu vực kinh tế đem tới những khó khăn trong duy trì giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản độc quy ền, do đó phải tiêu tốn nhiều tiên cho việc tiếp th ị hàng hóa. Tuy nhiên, ở ngo ại vi, sự bùng nổ của các khu vực kinh tế chủ yếu là hệ quả của quá trình tư bản hóa và kết quả là nạn thất nghiệp, di cư từ nông thôn lên thành th ị, ….Theo Amin, sự bùng nổ này không phát sinh ra vốn tích lũy trong nội bộ các nước ngoại vi. • Nền kinh tế không có hệ số nhân do lợi nhu ận bị ch ảy vào các nước phát triển. Nền kinh tế tại các nước ngoại vi không tạo ra số dư cho bản thân nền kinh tế trong nước. Tại trung tâm nền kinh tế không bị chi ph ối bởi tư bản độc quyền. Nhưng ở ngoại vi này, xuất khẩu bị chi phối bởi các nước xuất khẩu đặt ra hiệu lực thầu. Thay vì thu lợi xu ất kh ẩu thì l ợi nhuận của các nước ngoại biên lại chuyển đến các nước trung tâm đ ể phục vụ để đẩy nhanh sự phát triển của nước trung tâm. • Sự khác biệt giữa các nước ngoại vi và các n ước trung tâm khi bắt đầu quá trình phát triển. Amin cảnh báo rằng các nhà nghiên cứu không nên nhầm l ẫn giữa các quốc gia phát triển vì họ đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Điều này là do các nước kém phát triển có sự phân biệt tính năng kết cấu sau đây:
- (1) Sự không đồng đều mà điển hình là sự phân phối sản lượng ở các nước ngoại vi. (2) Điều chỉnh sản lượng sản xuất theo hướng phù hợp với nhu c ầu các trung tâm (3) Kinh tế đặt dưới sự thống trị của các nước trung tâm thể hiện d ưới hình thức thương mại và sự phụ thuộc về tài chính. • CNTB ở các nước ngoại vi không thể đạt được sự phát triển kinh tế nếu không thách thức sự chi phối của các n ước trung tâm. Sự chi phối của các nước phát triển đã gây trở ngại cho các nước ngoại vi. Nói cách khác, các nước ngoại vi không th ể đạt được tăng trưởng n ếu không thách thức sự chi phối và thống trị của độc quyền nước ngoài và trung tâm. => Cuối cùng, các nguyên nhân giả định gây ra tình trạng kém phát tri ển ở các nước ngoại vi được đưa ra tùy thuộc vào: (1) Bản chất của việc hình thành tư bản dựa trên việc hình thành các nước tiền tư bản trước đó (2) Giai đoạn mà các nước ngoại vi ra đời. Tuy nhiên, Amin đã không bỏ qua sự khác biệt giữa các nước ngoại vi, ông khẳng định rằng tất cả chúng đều có xu hướng phát triển theo một mô hình điển hình, đặc trưng bởi sự thống trị vốn nông nghi ệp, v ốn thương mại và vốn trung ương. Sự thống trị của các quốc gia trung tâm với toàn bộ các nguồn vốn trên đã tạo ra giới hạn cho sự phát triển của quốc gia tư bản ngoại vi.
- IV. Các giả định cơ bản của trường phái sự phụ thuộc. Giống như trường phái hiện đại hóa, trường phái sự phụ thuộc cũng có khá nhiều điểm bất đồng. Các thành viên đến từ nhiều ngành khoa học xã hội, tập trung vào nghiên cứu các quốc gia khác nhau t ại M ỹ, và có những định hướng tư tưởng, giả thuyết nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, các thành viên của trường phái sự phụ thuộc có chung một số giả định sau: Sự phụ thuộc là một quá trình phổ biến, đúng v ới t ất c ả các nước thế giới thứ 3. Sự phụ thuộc là xem như một quá trình rất chung chung, áp dụng cho tất cả các nước thế giới thứ 3. Mục tiêu của các trường ph ụ thu ộc là để phác thảo một khuôn mẫu chung về sự phụ thuộc cho t ất c ả các n ước
- thế giới thứ ba trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản từ th ế kỷ th ứ XVI đ ến nay. Do đó, sự khác nhau và lịch sử phức tạp của quốc gia ít được quan tâm. Sự phụ thuộc là do các điều kiện từ bên ngoài mang lại. Phụ thuộc được hiểu là một điều kiện bên ngoài, có nghĩa là áp đ ặt từ bên ngoài. Những trở ngại quan trọng nhất để phát triển quốc gia, không phải là thiếu thốn, kỹ năng kinh doanh, hoặc các tổ chức dân chủ, mà là từ bên ngoài của nền kinh tế quốc gia. Lịch sử bị phụ thuộc và s ự bất bình đẳng trong phân chia lao động quốc tế là những vật cản l ớn nh ất đối với sự phát triển quốc gia của các nước Thế giới thứ ba. Sự phụ thuộc được phân tích chủ yếu dựa trên các điều kiện kinh tế. Phụ thuộc chủ yếu được phân tích như là một điều kiện kinh tế. Nó được xem như là kết quả của dòng chảy thặng dư kinh tế từ các nước thế giới thứ ba sang các nước tư bản phương Tây. Do đó các nước thế giới thứ ba thường bị từ chối điều khoản của thương mại với các nước phía Tây. Sự phụ thuộc được xem như một bộ phận của quá trình phân cực của nền kinh tế toàn cầu. Phụ thuộc được coi như là một thành phần của sự phân chia khu vực cảu nền kinh tế toàn cầu. Trên một mặt, dòng chảy thặng dư từ các nước thế giới thứ ba sang cac nước phát triển trung tâm dẫn đến hai hệ quả song song. Đó là tình trạng kém phát triển của các nước th ế gi ới th ứ ba và sự phát triển của các nước phương Tây. Do đó kém phát tri ển ở ngoại vi và phát triển ở trung tâm là hai khía cạnh ch ủ y ếu của một quá
- trình đơn tích lũy vốn, dẫn tới phân chia khu vực trong nền kinh t ế toàn cầu. Sự phụ thuộc được xem như là đối lập với sự phát triển. Cuối cùng, phụ thuộc được xem như không tương ứng với sự phát triển. Liệu phát triển có thể xảy ra với các nước ngoại vi trong đi ều ki ện vẫn phụ thuộc hay không? Câu trả lời thường không có. Mặc dù phát triển nhỏ có thể xảy ra trong quá trình chiến tranh th ế giới, nhưng s ự phát triển thực sự ở ngoài vi thường không ổn định và kéo dài lâu. V. Hàm ý chính sách của trường phái Sự phụ thuộc. • Định nghĩa lại thuật ngữ “Phát triển”: Phát triển là gì? Triết học đã cho rằng: Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém đến hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, … Nhưng nếu hiểu sự vận động phát triển một cách biện chứng toàn diện, sâu sắc thì trong tự bản thân sự vận động phát
- triển đã bao hàm sự vận động thụt lùi, đi xuống với nghĩa là tiền đề, điều kiện cho sự vận động đi lên, hoàn thiện. Liệu có thể hiểu một cách đơn giản hơn phát triển phải chăng chỉ là tăng trưởng Công nghiệp, tăng tổng sản lượng nền kinh tế, tăng năng suất? Hay, phát triển là cải thiện điều kiện sống của mọi người dân ở các nước ngoại vi(các nước Thế giới thứ ba)? Vậy, các chương trình phát triển nên nhắm vào đối tượng nào? Những người ủng hộ chính sách của trường phụ thuộc cảm thấy rằng có một cần phải định nghĩa sự phát triển lâu dài. Nó nên có ý nghĩa nhiều hơn, phát triển các ngành công nghiệp, tăng sản lượng, và năng suất. Thêm vào đó, phát triển phải đi liền với việc cải thiện đời sống cho tất cả mọi người ở ngoại vi. Vì vậy, không nên phát triển các chương trình phụ thuộc vào tầng lớp và cư dân đô thị, cần cố gắng để đáp ứng nhu cầu nhân lực nông dân nông thôn, những người thất nghiệp, và người nghèo. Bất cứ chương trình phát triển có lợi cho chỉ một khu vực nhỏ tại đa số các vùng khổ cực đều là không tốt. • Càng có nhiều quan hệ với các nước trung tâm (các nước phát triển Phương Tây) thì các nước ngoại vi (các nước TGT3) càng không có lợi cho sự phát triển của mình. Có vẻ như trường phái sự phụ thuộc xuất hiên được coi là đối lập với trường phái hiện đại hóa. Trường hiện đại hóa đã đề xuất rằng các ngoại vi sẽ nhận được nhiều hỗ trợ hơn( thêm viện trợ, công nghệ nhiều hơn, hiện đại hơn giá trị) từ các nước phương Tây, trường phái sự phụ thuộc lập luộn rằng nó là có hại cho một số nước ngoại vi có lien hệ nhiều hơn với các nước cốt lõi. Trong thực tế, trường phái sự phụ thuộc khẳng định rằng ngoại vi càng có nhiều liên hệ với các nước phát triển lại càng có hại. Kể từ kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dân, nên kinh tế chính trị của
- ngoại vi đã được hoàn toàn cơ cấu lại cho phù hợp với nhu cầu của các nước đế quốc, từ đó dẫn đến sự kém phát triển. • Các nước TGT3 cần tự lực phát triển: Dựa vào tài nguyên của mình, tự tìm ra con đường phát triển phù hợp, hướng tới sự độc lập và tụ chủ tring phát triển đất nước. Trường phái sự phụ thuộc cho rằng các nước ngoại vi nên cắt đứt quan hệ với các nước trung tâm. Thay vì dựa vào viện trợ và công nghệ nước ngoài, các nước ngoại vi nên áp dụng một mô hình tự chủ - dựa vào nguồn lực của riêng mình và lập ra đường đi riêng của họ phát triển để đạt được độc lập và phát triển quốc gia tự trị. => Liệu như vậy cắt bỏ mọi quan hệ với các nước khác trong quá trình phát triển đất nước hay không? Tự chủ tất nhiên không có nghĩa là cô lập hoàn toàn với các nước khác, tiểu bang khác. Nó chỉ có nghĩa rằng một số nước ngoại vi nên không bị chi phối bởi các nước trung tâm. Họ nên có quan hệ thương mại với các nước ngoại vi khác một cách bình đẳng và cùng có lợi. Từ quan điểm trường phụ thuộc, các tầng lớp cũ trong mỗi quốc gia rất có thể không chịu chấp nhận như vậy. Lợi ích của các tầng lớp cũ quá chặt chẽ, rang buộc với các nước ngoài nên họ sẽ không dễ dàng chấp nhận như vậy. Kết quả là, các nhà nghiên cứu phụ thuộc có rất nhiều ý kiến rằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể cần thiết cho một quốc gia để thoát khỏi những tầng lớp cầm quyền cũ. Từ quan điểm của trường phái phụ thuộc các tầng lớp cũ của một số nước ngoại vi có nhiều khả năng sẽ không chấp nhận như vậy. Lợi ích của các tầng lớp cũ quã chặt chẽ, rang buộc với nước ngoài nên họ sẽ không dễ dàng chấp nhận như một lựa chọn. Kết quả là, các nhà nghiên cứu của trường phái sự phụ thuộc đề xuất rất nhiều rằng một cuộc cách
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Lý thuyế phát triển: Quan điểm, cách tiếp cận của trường phái sự phụ thuộc
22 p | 167 | 40
-
Lý thuyết phát triển - Nghiên cứu các nghiên cứu của trường phái hiện đại hóa cổ điển
22 p | 191 | 33
-
Lý thuyết phát triển
26 p | 184 | 27
-
Sự hình thành, phát triển của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại và ý nghĩa đối với công tác lý luận hôm nay
8 p | 166 | 22
-
Tìm hiểu về Lý thuyết phát triển
27 p | 165 | 20
-
Lý thuyết phát triển kinh tế
29 p | 122 | 19
-
TÌM HIỂU LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN
21 p | 143 | 18
-
Giáo trình Các lí thuyết phát triển tâm lí người: Phần 1
229 p | 77 | 15
-
Bài giảng Tập huấn giảng viên nòng cốt: Các kỹ năng tư vấn cá nhân về nghề nghiệp
98 p | 127 | 15
-
Giáo trình Các lí thuyết phát triển tâm lí người: Phần 2
174 p | 45 | 12
-
Phản tư về khái niệm phát triển
14 p | 84 | 6
-
Các lý thuyết về phát triển
0 p | 68 | 4
-
Thử nhận diện một số triết lý cản trở sự phát triển
7 p | 43 | 3
-
Kinh nghiệm tự chủ về quản lý và phát triển cán bộ tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội
14 p | 27 | 3
-
Sử dụng các lý thuyết trong hoạt động tư vấn hướng nghiệp
3 p | 5 | 3
-
Văn hóa và các lý thuyết phát triển
6 p | 27 | 2
-
Vấn đề giáo dục trong nội dung chủ thuyết phát triển Việt Nam
11 p | 32 | 2
-
Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới (Nghiên cứu trường hợp ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào)
7 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn