Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 105 – 110<br />
<br />
Part B: Political Sciences, Economics and Law<br />
<br />
MÔ HÌNH CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN GIẢI NỢ XẤU TẠI CÁC NƯỚC<br />
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM<br />
Trần Thị Thanh Nga1<br />
1<br />
ThS. Trường Đại học Tài chính Marketing Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 18/03/14<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
27/05/14<br />
Ngày chấp nhận đăng: 06/15<br />
Title:<br />
Asset management company<br />
model in solving bad debt in<br />
some foreign countries and<br />
experiences for Vietnam<br />
Từ khóa:<br />
Công ty quản lý tài sản, nợ<br />
xấu, ngân hàng, tái cấu trúc<br />
Keywords:<br />
Asset management company,<br />
bad debt, banking,<br />
restructuring<br />
<br />
ABSTRACT<br />
In the process of restructuring the system of Vietnam commercial banks, Asset<br />
Management Company (AMC) established to handle bad debt is necessary to<br />
ensure objective of economy restructuring; thereby, to contribute to stabilizing<br />
the macroeconomy, economic development orientation with reasonable structure,<br />
enhance competitiveness. From analyzing the models of asset management<br />
company in the world, the article proposes experience about selecting asset<br />
management company model in Vietnam.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Việc thành lập Công ty quản lý tài sản (AMC) để xử lý nợ xấu trong quá trình tái<br />
cấu trúc hệ thống các Ngân hàng Thương mại Việt Nam (NHTM) là cần thiết<br />
nhằm đảm bảo mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế mang tính hệ thống, an toàn và<br />
bền vững từ đó góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế<br />
với cơ cấu hợp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên cơ sở phân tích các mô<br />
hình công ty quản lý tài sản (AMC) tại một số quốc gia trên thế giới, bài viết rút<br />
ra bài học kinh nghiệm về việc chọn lựa mô hình công ty quản lý tài sản cho Việt<br />
Nam.<br />
<br />
giá trị phục hồi của các khoản nợ xấu với chi phí<br />
thấp nhất. Một AMC được thành lập với mục tiêu,<br />
nhiệm vụ rõ ràng kèm theo cấu trúc chặt chẽ sẽ là<br />
tiền đề cho hy vọng mang lại hiệu quả hoạt động<br />
cần thiết trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu. Dựa<br />
vào các nhiệm vụ ưu tiên đã được hoạch định sẵn,<br />
định chế AMC có thể hoạt động với chức năng là<br />
một công cụ thanh lý nhanh các khoản nợ xấu và<br />
các tài sản khác kèm theo hoặc gián tiếp tham gia<br />
vào hoạt động tái cấu trúc nền kinh tế.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại<br />
(NHTM) Việt Nam đang trải qua thời kỳ khó<br />
khăn và nhiều thách thức. Một trong những vấn đề<br />
có tính trọng tâm hiện nay là xử lý nợ xấu của hệ<br />
thống ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, tính đến<br />
tháng 6/2012, theo các thông tin chính thống, nợ<br />
xấu ở mức 8,6 - 10%, tức là khoảng 10 - 11%<br />
GDP của Việt Nam. Đây là con số chưa ở mức<br />
báo động nhưng tương đối đáng quan ngại. Do đó,<br />
việc tìm các giải pháp phù hợp để xử lý lượng nợ<br />
xấu trên là rất cần thiết nhằm lành mạnh hóa hoạt<br />
động của hệ thống NHTM.<br />
<br />
Bài viết tập trung phân tích cơ chế hoạt động và<br />
giải pháp xử lý của các Công ty quản lý tài sản<br />
(AMC) của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đề<br />
xuất mô hình hoạt động phù hợp cho Việt Nam.<br />
<br />
Một trong những giải pháp cụ thể để đạt được<br />
hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu của các ngân<br />
hàng chính là chuyển giao nợ xấu từ các ngân<br />
hàng sang một công ty quản lý tài sản (AMC).<br />
AMC được lập ra dưới kỳ vọng có thể tối đa hoá<br />
<br />
2. MÔ HÌNH CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN<br />
TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA<br />
<br />
105<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 105 – 110<br />
<br />
Part B: Political Sciences, Economics and Law<br />
<br />
tài trợ này là tiền mặt, còn lại tồn tại dưới dạng<br />
nhà xưởng, vật dụng và các tài sản khác sở hữu<br />
bởi các ngân hàng trước đó. Các AMC có 4<br />
phương thức để huy động vốn bao gồm: Vốn từ<br />
Bộ Tài chính, khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng<br />
Trung ương Trung Quốc, phát hành trái phiếu có<br />
bảo lãnh của Bộ Tài chính, và vay thương mại từ<br />
các định chế tài chính khác. Trên thực tế, để thực<br />
hiện mua lại khoản nợ xấu khổng lồ kể trên, các<br />
AMC đã phải vay tới 40% từ NHTW Trung Quốc,<br />
60% còn lại được tài trợ bằng trái phiếu của AMC<br />
phát hành cho 4 NHTM Nhà nước.<br />
<br />
2.1 Mô hình công ty quản lý tài sản tại Trung<br />
Quốc<br />
Nguyên nhân gây ra nợ xấu là do cơ chế kinh tế<br />
kế hoạch hóa tập trung, khi hoạt động của các<br />
NHTM Nhà nước chỉ như những cơ quan hành<br />
chính, có nhiệm vụ cho vay theo chỉ định cho các<br />
công ty và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém hiệu<br />
quả, thậm chí thua lỗ. Những khoản vay này cũng<br />
không qua quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ<br />
nên rủi ro tín dụng là điều không tránh khỏi. Để<br />
giải quyết nợ xấu, Trung Quốc thành lập các công<br />
ty quản lý tài sản được nhà nước tài trợ (AMC).<br />
<br />
Chất lượng nợ xấu được chuyển giao có vai trò<br />
chủ đạo trong việc quyết định biện pháp và hiệu<br />
quả xử lý của AMC. Tại Trung Quốc, phần lớn nợ<br />
xấu được thu mua bởi AMC là các khoản nợ được<br />
đảm bảo chiếm khoảng hơn 22% trong đó tỷ lệ<br />
được bảo đảm bằng bất động sản chỉ chiếm 7%<br />
tổng giá trị khoản nợ xấu (Xu, 2005), thấp hơn<br />
nhiều hơn nhiều so với tỷ lệ này tại Indonesia,<br />
Malaysia, Hàn Quốc (60%), nên khả năng thanh<br />
lý tài sản để thu hồi nợ thấp.<br />
<br />
Cơ chế hoạt động: Trong giai đoạn 1999 – 2003<br />
có 4 Công ty AMC gồm Huarong, Cinda, Orient<br />
và Great Wall đã được thành lập để giải quyết các<br />
khoản nợ xấu của 4 BOE là Ngân hàng Công<br />
thương Trung Quốc (ICBC), Ngân hàng Xây<br />
dựng Trung Quốc (CCB), Bank of China (BOC)<br />
và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (ABC).<br />
Các khoản nợ xấu được chuyển giao tại mức giá<br />
trị sổ sách trực tiếp từ 4 NHTM cho 4 AMC tương<br />
ứng và nhiệm vụ hàng đầu của 4 AMC này là phải<br />
xử lý hết các khoản nợ xấu, thông qua việc kinh<br />
doanh và quản lý nhằm tối đa hóa giá trị tài sản<br />
mua lại. Cấu trúc hoạt động của mô hình AMC tại<br />
Trung Quốc là phi tập trung để giải quyết vấn đề<br />
nợ xấu tại ngân hàng quốc doanh có quy mô lớn<br />
nhất (chiếm gần 70% thị phần nước). Một AMC<br />
tập trung với đặc điểm cho phép hợp nhất các<br />
nguồn lực sẵn có là phù hợp cho mô hình với mục<br />
tiêu chính là bán, thanh lý nợ xấu trong khi mô<br />
hình AMC phi tập trung sẽ mang lại hiệu quả hơn<br />
cho cả các nhiệm vụ tái cấu trúc doanh nghiệp<br />
(Phan Đức Huy, 2013).<br />
<br />
Định giá nợ chuyển giao: Phương pháp định giá<br />
của AMC trong việc mua nợ xấu từ ngân hàng<br />
đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với tiến độ<br />
chuyển giao nợ xấu. Nhìn chung, có hai phương<br />
pháp định giá đã được các AMC trên thế giới sử<br />
dụng: định giá theo giá trị sổ sách và định giá theo<br />
giá trị phù hợp. Tại Trung Quốc, quy định mua lại<br />
các khoản nợ xấu theo giá trị sổ sách trong khi giá<br />
trị thị trường tại thời điểm đó được ước tính chỉ<br />
khoảng 20% giá trị sổ sách đã giúp các NHTM<br />
Nhà nước lớn loại những khoản nợ xấu lớn khỏi<br />
bảng tổng kết tài sản của mình, nhưng đã gây ra<br />
những khoản thua lỗ không thể tránh khỏi đối với<br />
các AMC, và khiến các AMC mất động lực để tối<br />
đa hóa mức giá thu hồi. Vì tính không hợp lý của<br />
quy định này nên năm 2004, các AMC đã được<br />
phép mua lại nợ xấu với giá thị trường. Vào tháng<br />
7/2004, Cinda AMC đã mua lại 278,7 tỷ USD nợ<br />
xấu với mức 50 cent cho 1 USD và cho biết khả<br />
năng thu hồi là 33 - 34 cent cho 1 USD vào cuối<br />
năm 2005. Mặc dù mức giá mua lại vẫn còn cao<br />
hơn so với khả năng thu hồi, nhưng việc này cũng<br />
phần nào là bước đi phù hợp tạo động lực gia tăng<br />
tỷ lệ thu hồi cho các AMC.<br />
<br />
Hành lang pháp lý tại quốc gia là một trong những<br />
yếu tố quan trọng có tính chất quyết định đến<br />
thành công hay thất bại của một AMC trong việc<br />
đạt được mục tiêu giải quyết nợ xấu. Nếu không<br />
có được một hệ thống văn bản pháp lý làm cơ sở<br />
cho các hoạt động của AMC thì bản thân AMC<br />
cũng phải đối diện với những khó khăn mà các<br />
ngân hàng đã gặp phải khi tiến hành thu hồi nợ<br />
xấu. Để có thể giải quyết triệt để nợ xấu, các<br />
AMC tại Trung Quốc được trao một số quyền đặc<br />
biệt để có thể xử lý, mua lại nợ xấu, cơ cấu lại các<br />
khoản nợ vay (có thể chia nhỏ hay gộp lại) để đầu<br />
tư sinh lợi.<br />
<br />
Bán và thanh lý nợ xấu: Sau khi xác nhận mua và<br />
nhận chuyển giao nợ xấu từ các ngân hàng, nhiệm<br />
vụ còn lại của AMC là tổ chức bán các khoản nợ<br />
xấu này theo các phương pháp khác nhau. Tuỳ<br />
theo đặc điểm của từng danh mục nợ xấu, mục<br />
<br />
Nguồn vốn cho các AMC được cung cấp bởi<br />
Chính phủ nhưng chỉ chiếm khoảng 3% giá trị nợ<br />
xấu được chuyển giao; chỉ một phần trong nguồn<br />
<br />
106<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 105 – 110<br />
<br />
Part B: Political Sciences, Economics and Law<br />
<br />
tiêu và nhiệm vụ của AMC trong từng thời kỳ hay<br />
các nhân tố khác mà kỹ thuật xử lý các khoản nợ<br />
xấu này được các AMC chọn lựa.<br />
<br />
Won (18% tổng dư nợ), chiếm tới 27% GDP;<br />
trong đó, 50 nghìn tỷ Won là các khoản nợ quá<br />
hạn từ 3 đến 6 tháng, chiếm 42% tổng nợ xấu, 68<br />
nghìn tỷ Won còn lại là các khoản nợ quá hạn trên<br />
6 tháng và có nguy cơ vỡ nợ cao.<br />
<br />
Các AMC xử lý các khoản nợ bằng cách phát<br />
hành trái phiếu (khoảng 55% giá trị nợ xấu).<br />
Phương pháp chính của mà các AMC giải quyết<br />
nợ là tập trung các khoản nợ lại, sau đó chuyển<br />
thành danh mục đầu tư, bán đấu giá, chuyển đổi<br />
thành cổ phiếu hoặc đưa chúng ra khỏi Trung<br />
Quốc bằng cách liên kết, liên doanh với nước<br />
ngoài hay các công ty chứng khoán trong nước.<br />
Trong năm 1999, Chính phủ đã chuyển tổng cộng<br />
173 tỷ USD (chiếm khoảng 20% tổng dư nợ của<br />
các ngân hàng lớn) nợ xấu của 4 NHTM nhà nước<br />
cho 4 công ty quản lý tài sản (AMC). Cuối năm<br />
2004, 4 AMC này chỉ thu hồi được 675 tỷ NDT,<br />
chưa đến 40% giá trị nợ xấu được chuyển giao từ<br />
năm 1999. Tỷ lệ thu hồi tiền mặt tại các AMC<br />
tính đến tháng 12/2004 đạt khoảng 20%, thấp hơn<br />
nhiều so với mức 49% của Thái Lan và mức 20 30% ước tính của Nhật Bản. Tỷ lệ thu hồi và tốc<br />
độ thu hồi của Trung Quốc thấp hơn chủ yếu là do<br />
chất lượng tài sản thấp, quy định mua lại nợ xấu<br />
theo giá trị sổ sách, và tính thiếu minh bạch tại<br />
các AMC. Các AMC được miễn kiểm toán, tham<br />
nhũng và kiểm soát nội bộ yếu kém đã gây ra<br />
nhiều hệ lụy trong quá trình mua bán tài sản.<br />
<br />
Cơ chế hoạt động: Mục tiêu chủ yếu của Công ty<br />
quản lý tài sản Hàn Quốc – Korean Asset<br />
Management Corporation (KAMCO) là giải quyết<br />
nợ xấu càng sớm càng tốt. Cấu trúc hoạt động của<br />
mô hình KAMCO là tập trung toàn bộ. Chủ sở<br />
hữu của Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc là Bộ<br />
Tài chính và Kinh tế, Ngân hàng Phát triển Hàn<br />
Quốc, và các TCTC khác, được quản lý bởi ban<br />
điều hành là các đại diện đến từ các chủ sở hữu<br />
cộng thêm đại diện từ Ủy ban Giám sát Tài chính,<br />
Công ty Bảo hiểm Tiền gửi, Hiệp hội các ngân<br />
hàng, và ba chuyên gia độc lập, hoạt động dưới sự<br />
giám sát của Ủy ban Giám sát Tài chính.<br />
Hành lang pháp lý: Hệ thống tư pháp của Hàn<br />
Quốc tương đối hiệu quả, bằng cách trao cho chủ<br />
nợ các quyền lợi rõ ràng khi tiến hành các thủ tục<br />
thu hồi nợ xấu.<br />
Nguồn vốn hoạt động của KAMCO được tài trợ<br />
trực tiếp từ Chính phủ. Trái phiếu KAMCO chiếm<br />
hơn 90% tổng nguồn tài trợ cho AMC, con số này<br />
vào khoảng 60% tại Trung Quốc và Malaysia.<br />
Trái phiếu KAMCO thông thường được phát hành<br />
trực tiếp cho các ngân hàng để đổi lấy các khoản<br />
nợ xấu phát sinh tại các ngân hàng đó. Ngoài ra,<br />
KAMCO vay được khoảng 5% - 13% tổng số vốn<br />
cần thiết, chủ yếu là tổ chức thuộc sở hữu của<br />
Chính phủ.<br />
<br />
Với một loạt các công cụ được sử dụng một cách<br />
triệt để, bốn công ty quản lý tài sản (AMC) của<br />
Trung Quốc đã góp phần đáng kể giúp hệ thống<br />
ngân hàng thoát khỏi giai đoạn khó khăn và tăng<br />
cường sức mạnh. Tuy nhiên, những khoản nợ xấu<br />
này không hề biến mất khỏi hệ thống tài chính<br />
Trung Quốc, chúng chỉ được chuyển giao từ tổ<br />
chức này sang tổ chức khác, nguy cơ tiềm ẩn gây<br />
ra cho hệ thống tài chính Trung Quốc không có<br />
nghĩa là được chấm dứt.<br />
<br />
Chất lượng nợ xấu được chuyển giao: KAMCO<br />
ưu tiên mua các khoản nợ mà có thể dễ dàng<br />
chuyển giao quyền thu nợ, các khoản nợ có thể<br />
giúp các TCTC khôi phục lại hoạt động và hình<br />
ảnh trước công chúng chiếm khoảng hơn 60%,<br />
cao hơn nhiều so với tỷ lệ này tại Indonesia,<br />
Malaysia. KAMCO không đặt ra tiêu chí lựa chọn<br />
tài sản để thu hồi nhưng tổ chức này chỉ thu mua<br />
những khoản nợ xấu với chiết khấu lớn. Tỷ lệ<br />
chiết khấu trung bình trên nợ xấu được thu mua<br />
của KAMCO khoảng 50 - 64% tùy từng thời<br />
điểm.<br />
<br />
2.2 Mô hình công ty quản lý tài sản tại Hàn<br />
Quốc<br />
Nguyên nhân gây ra nợ xấu: trong giai đoạn từ<br />
1980 –1998, nền kinh tế tăng trưởng quá nóng<br />
trong khi các doanh nghiệp tiến hành đầu tư dàn<br />
trải nhưng thiếu sự phân tích kỹ lưỡng giữa lợi ích<br />
và rủi ro. Tình trạng các ngân hàng ở Hàn Quốc<br />
vay ngắn hạn bằng ngoại tệ để tài trợ cho các<br />
khoản vay dài hạn bằng nội tệ, hay tài trợ cho các<br />
khoản vay mới. Chính sự bất cân xứng về thời hạn<br />
và loại tiền tệ đã làm suy yếu hệ thống ngân hàng.<br />
Tháng 3/1998, tổng nợ xấu của các tổ chức tài<br />
chính (TCTC) của Hàn Quốc lên tới 118 nghìn tỷ<br />
<br />
Định giá nợ chuyển giao: Quy trình đánh giá các<br />
khoản vay được tiến hành kỹ lưỡng nhằm bảo<br />
đảm các khoản nợ mua về vừa hỗ trợ được các<br />
TCTC vừa bảo đảm được hiệu quả hoạt động của<br />
Công ty. Các khoản nợ do KAMCO mua lại được<br />
chia thành 6 nhóm: Nợ thông thường có bảo đảm<br />
107<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 105 – 110<br />
<br />
Part B: Political Sciences, Economics and Law<br />
<br />
(chiếm 17,9% tổng tiền), nợ thông thường không<br />
có bảo đảm (5,8%), nợ đặc biệt có bảo đảm<br />
(32,2%), nợ đặc biệt không có bảo đảm (10,6%),<br />
nợ của tập đoàn Daewoo (32%) và nợ được gia<br />
hạn lại (1,5%) với mức giá so với giá trị khoản<br />
vay tương ứng là 67%, 11,4%, 47,4%, 29%,<br />
35,9% và 23,1%. Khoản nợ xấu được định giá<br />
dựa trên khả năng thu hồi nợ, tài sản bảo đảm và<br />
phương pháp định giá sổ sách. Đa phần các khoản<br />
tiền được sử dụng để mua nợ từ các ngân hàng<br />
(chiếm 62,1%), công ty ủy thác đầu tư (21,1%) và<br />
công ty bảo hiểm (4,5%). Tổng cộng, KAMCO đã<br />
bỏ ra 39,7 nghìn tỷ Won, chiếm tới 36% giá trị<br />
các khoản vay, 110,1 nghìn tỷ Won để mua các<br />
khoản nợ xấu trong vòng 5 năm từ năm 1997 đến<br />
2002.<br />
<br />
dùng suy giảm trầm trọng. Đối mặt với khủng<br />
hoảng kinh tế, Chính phủ Malaysia buộc phải lập<br />
ra 3 tổ chức để giảm nợ xấu, lành mạnh hệ thống<br />
tài chính và khôi phục lại đà tăng trưởng:<br />
Danaharta để xử lý nợ xấu, CDRC để thỏa thuận<br />
với các ngân hàng có nợ xấu, SPV để bơm vốn<br />
cho hệ thống tài chính. Trong đó Danahara là<br />
trung tâm của kế hoạch.<br />
Cơ chế hoạt động của mô hình Danaharta trong<br />
việc xử lý nợ xấu là mua đứt nợ xấu và xử lý<br />
nhanh hoặc mua lại nợ xấu và để chúng tự hồi<br />
phục.<br />
Hành lang pháp lý: Một yếu tố đóng vai trò rất<br />
quan trọng giúp cho Danaharta thành công đó là<br />
nó được sự hậu thuẫn đặc biệt từ chính phủ<br />
Malaysia. Vào tháng 8/1998, Luật Danaharta ra<br />
đời đem lại bộ khung pháp lý rất đặc biệt cho tổ<br />
chức này. Đạo luật này cho phép Danaharta<br />
những đặc quyền mà không một tổ chức tài chính<br />
nào có thể có được trong lịch sử ngành tài chính<br />
quốc gia, đó là được quyền mua lại tài sản của các<br />
tổ chức tài chính, bổ nhiệm lãnh đạo ở các tổ chức<br />
đang nợ xấu cao, có quyền tịch biên những tài sản<br />
thế chấp,… Với những ưu tiên này, Danaharta có<br />
thể vừa thực hiện cách tiếp cận mềm mỏng cũng<br />
như cứng rắn trong việc xử lý nợ xấu. Thông<br />
thường, cách tiếp cận mềm mỏng như cơ cấu lại<br />
nợ, thỏa thuận dàn xếp lại nợ được ưa thích hơn<br />
và cũng đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên<br />
trong một số trường hợp do người vay không thể<br />
duy trì khả năng trả nợ, Danaharta được phép sử<br />
dụng những đặc quyền mà Luật Danaharta đã đề<br />
ra.<br />
<br />
Bán và thanh lý nợ xấu: Sau khi mua lại,<br />
KAMCO tiến hành nhóm các khoản nợ xấu này<br />
lại để phát hành các chứng khoán có đảm bảo<br />
bằng tài sản dựa trên các khoản nợ xấu đã mua<br />
hoặc bán cho các nhà đầu tư thông qua đấu giá<br />
quốc tế cạnh tranh (chứng khoán hóa), cùng với<br />
việc ban hành Luật Chứng khoán có bảo đảm<br />
bằng tài sản để thúc đẩy việc bán các khoản nợ<br />
cho các công ty có chức năng chứng khoán hóa<br />
các khoản xấu và bán lại cho các nhà đầu tư.<br />
Phương pháp này có lợi thế là thu hút được nhiều<br />
nhà đầu tư hơn và giảm được chi phí quản lý của<br />
các AMC tại các doanh nghiệp. KAMCO nắm giữ<br />
các khoản nợ xấu và cố gắng tái cơ cấu nợ, tái tài<br />
trợ hay chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu hoặc<br />
tịch thu tài sản thế chấp của các khoản nợ có đảm<br />
bảo để bán thu hồi lại tiền… Ngoài ra, còn có các<br />
biện pháp khác như truy đòi lại chủ nợ ban đầu<br />
của khoản nợ xấu, bán khoản nợ cho các công ty<br />
quản lý tài sản, công ty tái cơ cấu doanh nghiệp để<br />
mua lại cổ phiếu của các công ty này và tiến hành<br />
tái cơ cấu lại hoạt động của công ty. Lượng nợ<br />
xấu được KAMCO mua lại tăng lên qua từng<br />
năm. Tỷ lệ nợ xấu còn lại/ tổng nợ xấu ngày càng<br />
giảm, từ 88,6% năm 1997 xuống còn 24% năm<br />
2001, đã cho thấy vai trò rất tích cực của<br />
KAMCO trong việc mua và xử lý nợ xấu. Đến<br />
năm 2001, quá trình xử lý nợ xấu ở Hàn Quốc đã<br />
gần như được hoàn thành.<br />
<br />
Nguồn vốn hoạt động của Danaharta: Khi mới đi<br />
vào hoạt động, Chính phủ Malaysia cấp cho<br />
Danaharta 3 tỷ Ringgit làm vốn, phần còn lại sẽ<br />
phải tự đi huy động. Theo ước tính ban đầu,<br />
Danaharta cần đến 25 tỷ Ringgit để xử lý nợ xấu<br />
và chủ yếu phải dựa vào phát hành trái phiếu.<br />
Danaharta còn tiến hành phát hành trái phiếu trực<br />
tiếp cho các ngân hàng để đổi lấy các khoản nợ<br />
xấu. Loại trái phiếu được phát hành là Zerocoupon, không phải trả lãi định kỳ nhưng vẫn có<br />
thể phải trả lãi khi đáo hạn. Với các ngân hàng<br />
việc hoán đổi nợ xấu không tạo ra thu nhập với<br />
trái phiếu được Chính phủ bảo đảm sẽ làm bảng<br />
cân đối kế toán lành mạnh hơn, bên cạnh đó các<br />
chỉ số an toàn tài chính được cải thiện.<br />
<br />
2.3 Mô hình công ty quản lý tài sản tại<br />
Malaysia<br />
Nguyên nhân gây ra nợ xấu: Khủng hoảng kinh tế<br />
Châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng trầm trọng đến<br />
nền kinh tế các quốc gia Đông Nam Á. Khi đó,<br />
đồng Ringgit mất đến 50% giá trị, niềm tin tiêu<br />
<br />
Chất lượng nợ xấu được chuyển giao: Với tỷ lệ nợ<br />
xấu lên 11,4% vào tháng 8/1998, nhiệm vụ của<br />
<br />
108<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 6 (2), 105 – 110<br />
<br />
Part B: Political Sciences, Economics and Law<br />
<br />
Danaharta là đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 10%. Tuy<br />
nhiên AMC này không thể xử lý tất cả nợ xấu<br />
đang tồn đọng, vì vậy Danaharta đặt ra mục tiêu<br />
chỉ mua những khoản nợ xấu trên 5 triệu Ringgit<br />
mới được xử lý. Điều này tương đương với<br />
khoảng từ 2.000 đến 3.000 khoản nợ xấu, một con<br />
số khả thi với năng lực xử lý của Danaharta trong<br />
thời gian 5 năm.<br />
<br />
Với những đặc điểm trên, Danaharta đã góp phần<br />
vào thành công của Chính phủ Malaysia trong<br />
việc xử lý nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu về ngưỡng an<br />
toàn. Sau khi Danaharta kết thúc hoạt động, nền<br />
kinh tế Malaysia đã tăng trưởng trở lại và ngay cả<br />
trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua,<br />
Malaysia vẫn tỏ ra vững vàng và là một điểm sáng<br />
trong bức tranh kinh tế ảm đạm.<br />
<br />
Định giá nợ chuyển giao: Về hình thức, Danaharta<br />
mua bán nợ với các tổ chức tài chính theo cơ chế<br />
thị trường. Tuy nhiên, Danaharta đã đặt ra một cơ<br />
chế xác định giá các khoản nợ một cách rõ ràng<br />
và minh bạch. Nợ có đảm bảo, giá mua được xác<br />
định dựa vào giá trị hợp lý (FV) của tài sản thế<br />
chấp. Danaharta chỉ chấp nhận các tài sản tài<br />
chính là cổ phiếu và bất động sản. Đối với nợ xấu<br />
có tài sản thế chấp là bất động sản (BĐS), FV<br />
được tính là 95% giá trị thị trường của BĐS và<br />
được xác định bởi tổ chức định giá độc lập và<br />
được cấp phép. Với cổ phiếu niêm yết, giá trị hợp<br />
lý phụ thuộc vào khối lượng nắm giữ. Khi FV cao<br />
hơn hoặc bằng với dư nợ gốc cộng nợ lãi,<br />
Danaharta mua theo giá của nợ gốc cộng nợ lãi.<br />
Còn giá trị hợp lý thấp hơn giá trị của tổng nợ gốc<br />
và lãi nhưng cao hơn hoặc bằng giá trị nợ gốc, giá<br />
mua là giá trị hợp lý. Nhưng nếu giá trị hợp lý<br />
thấp hơn giá trị nợ gốc, giá mua sẽ là giá trị nợ<br />
gốc nhưng Danaharta chỉ trả trước một khoản<br />
bằng với FV.<br />
<br />
3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT<br />
NAM VỀ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH<br />
CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN<br />
<br />
Kịch bản<br />
<br />
FV<br />
<br />
FV < Nợ gốc<br />
<br />
Xác định nguồn vốn hoạt động của các AMC. Để<br />
hoạt động của AMC mang lại ngay được thành<br />
công nhất định, Chính phủ cần cam kết cung cấp<br />
nguồn vốn trực tiếp cho AMC thông qua ngân<br />
sách hoạt động của mình. Trong trường hợp một<br />
AMC tự phải phát hành một khoản nợ, sự bảo<br />
lãnh của Chính phủ cho khoản nợ là thật sự cần<br />
thiết để góp phần củng cố cho vị thế tài chính của<br />
AMC.<br />
<br />
Nợ gốc + Nợ lãi<br />
<br />
Nợ gốc =< FV < Nợ gốc + Nợ lãi<br />
<br />
Mục tiêu hoạt động rõ ràng. Một AMC thành lập<br />
chỉ nên tập trung vào việc thu hồi và bán nợ xấu,<br />
tránh việc sa đà vào gánh nặng tái cấu trúc các<br />
doanh nghiệp đang gặp khó khăn.<br />
<br />
Giá mua lại<br />
<br />
FV >= Nợ gốc + Nợ lãi<br />
<br />
Quyết tâm của Chính phủ trong việc xây dựng<br />
Công ty quản lý tài sản độc lập, tự chủ. Quyết tâm<br />
của Chính phủ là điều không thể thiếu trong suốt<br />
quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Sự kiên định<br />
của Chính phủ trong việc xác định thực trạng nợ<br />
xấu trong hệ thống tài chính, tái cấu trúc và giải<br />
quyết nợ xấu chính là điểm khởi đầu mấu chốt<br />
cho thành công của bất cứ một công ty quản lý<br />
Tài sản (AMC) nào. Để hoạt động của AMC<br />
mang lại được hiệu quả, các AMC luôn cần có<br />
được sự độc lập, tự chủ cần thiết, không bị ràng<br />
buộc và đảm bảo những nội dung sau:<br />
<br />
Nợ gốc nhưng chỉ<br />
trả trước FV<br />
<br />
Đối với Nợ không có đảm bảo, giá mua được xác<br />
định bằng 10% giá trị dư nợ gốc. Các khoản siêu<br />
nợ hầu như không có khoản nợ nào được<br />
Danaharta mua lại.<br />
<br />
Xây dựng hành lang pháp lý kiên định. Sự hậu<br />
thuẫn của hệ thống pháp lý, giám sát và quản lý<br />
chặt chẽ và có tính minh bạch. Các quy định pháp<br />
lý được xây dựng theo định hướng đem lại hiệu<br />
quả cho các hoạt động của AMC, đặc biệt là các<br />
văn bản huớng dẫn cho luật phá sản và trao cho<br />
AMC các quyền lực đặc biệt trong quá trình thu<br />
hồi nợ xấu sẽ góp phần không nhỏ trong việc hậu<br />
thuẫn cho AMC thu hồi được nợ xấu nhanh chóng<br />
và đạt tỷ lệ thu hồi cao. AMC phải hoạt động dưới<br />
sự giám sát, quản lý chặt chẽ bởi hệ thống kiểm<br />
soát nội bộ và được kiểm toán bởi các đơn vị<br />
kiểm toán độc lập.<br />
<br />
Bán và thanh lý nợ xấu: Danaharta ưu tiên mua<br />
bán nợ xấu dựa trên mức độ nghiêm trọng của tổ<br />
chức tài chính trên cơ sở xếp hạng các tổ chức tài<br />
chính, hạng 1 là tổ chức tài chính với tỷ lệ nợ xấu<br />
cao và nhiều khả năng phải bán nợ và hạng 4 là tổ<br />
chức có ít khả năng bán nợ xấu nhất. Thông<br />
thường, Danaharta sẽ xác định giá và gửi đề nghị<br />
đến các ngân hàng hay công ty tài chính. Sau đó,<br />
các khoản nợ xấu này được mua và nằm dưới<br />
danh mục “Nợ mua lại”. Để xử lý các khoản nợ,<br />
Danaharta sẽ mua đứt và thanh lý nhanh hoặc mua<br />
nợ xấu rồi tiền hành quản lý nợ.<br />
109<br />
<br />