intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mô hình quản trị đại học hiện đại ở Nhật Bản và một số kinh nghiệm cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xây dựng cơ chế tự chủ cho các trường đại học là một nhu cầu cần thiết trong cải cách và đổi mới hệ thống giáo dục đại học ở nước ta. Việc áp dụng chế độ tự chủ trong giáo dục đại học cần có những giải pháp cụ thể, mỗi trường đại học cần thực hiện theo một lộ trình và xây dựng một mô hình quản trị hiện đại và hiệu quả. Mỗi trường đại học sẽ có những chính sách, chiến lược phát triển riêng để có thể xây dựng được “thương hiệu”, có chương trình đào tạo tiên tiến, chất lượng, có tiêu chí đánh giá cụ thể. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ đổi mới chính sách trong quản lý giáo dục đại học, có những biện pháp kiểm tra đánh giá chất lượng đào tạo của các trường một cách hiệu quả. Tham khảo bài viết để biết thêm chi tiết!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mô hình quản trị đại học hiện đại ở Nhật Bản và một số kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. MÔ HÌNH QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC HIỆN ĐẠI Ở NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TS. Phan Thị Lan Hương 1. Giới thiệu chung Nhật Bản là một trong các quốc gia có nền giáo dục hiện đại và phát triển so với các nước khu vực và trên thế giới. Năm 1949, lần đầu tiên công dân Nhật nhận được giải Nobel vật lý, và chỉ trong vòng 15 năm, 2000 – 2014, đã có 13 người Nhật được nhận giải Nobel trong các lĩnh vực, chỉ đứng xếp hạng sau Mỹ và Anh. 1 Và năm 2018, Giáo sư Tatsuku Honjo đã đạt giải Nobel y học.2 Có thể thấy rằng, kết quả đó là do những chính sách phát triển hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng của Nhật Bản. Trong thời kỳ của nền giáo dục tri thức và toàn cầu hóa đang diễn ra, giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng. Định hướng giáo dục tiên tiến, đa dạng và các hoạt động nghiên cứu đã được thúc đẩy cùng với sự phối hợp cân bằng của hệ thống kiểm định, đảm bảo và công nhận chất lượng ngày càng được hoàn thiện. Quyền tự do giáo dục (giáo dục khai phóng) cần được tôn trọng. Hiến Pháp Nhật bản đã quy định mọi công dân đều có cơ hội công bằng trong học tập theo quy định của pháp luật và phù hợp với khả năng của họ. Luật Giáo dục cơ bản quy định rằng sự độc lập, tự chủ và giá trị của giáo dục và nghiên cứu của các tổ chức giáo dục đại học sẽ được tôn trọng. Nguyên tắc tự chủ/tự trị này đã được đảm bảo bởi quyết định của Tòa án Tối cao Nhật Bản.3 Nhật Bản đã bắt đầu đổi mới hệ thống giáo dục đại học từ năm 2004. Hệ thống giáo dục đại học của Nhật bản được xây dựng và quản lý dựa trên các nguyên tắc cơ bản đó là độc 1 Vì sao người Nhật giành nhiều giải Nobel khoa học? http://nghiencuuquocte.org/2017/02/20/vi-sao-nguoi-nhat- gianh-nhieu-giai-nobel-khoa-hoc/ 2 Chân dung những nhà khoa học đạt giải Nobel năm 2018, http://plo.vn/video-photo-hi-hoa/infographic/chan- dung-cac-nha-khoa-hoc-dat-giai-nobel-nam-2018-796418.html 3 Vụ giáo dục đại học, Bộ Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và công nghệ Nhật bản http://www.mext.go.jp/en/policy/education/highered/title03/detail03/__icsFiles/afieldfile/2012/06/19/1302653_ 1.pdf 1
  2. lập, tự chủ và tự do sáng tạo. Đây chính là một trong những lý do để lý giải thành công của các nhà khoa học Nhật bản trong việc đạt các giải Nobel khoa học, đó chính là kết quả của nền giáo dục đại học khai phóng. Tương tự như các quốc gia khác, giáo dục đại học của Nhật bản cũng bao gồm ba cấp độ cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ, ngoài ra còn có hệ thống các trường cao đẳng dạy nghề. Thời gian đào tạo đối với mỗi cấp bậc là khác nhau: đối với bậc cử nhân, thời gian đào tạo là 4 năm, thạc sỹ là 2 năm, tiến sỹ là 5 năm và đào tạo nghề là 2 năm. Các trường đại học của Nhật về cơ bản được chia thành ba loại: đại học quốc gia (national universities); đại học công lập (public universities), và đại học tư. + Các trường đại học quốc gia, được thành lập ở tất cả các địa phương để nhằm mục đích cải tiến và phát triển cân bằng của giáo dục đại học và nghiên cứu học thuật Nhật Bản, đã đóng vai trò quan trọng như các trung tâm nghiên cứu địa phương. Từ năm 2004, các trường này đã được công nhận như các công ty/tập đoàn nhằm nâng cao tính độc lập và tự chủ của mỗi trường để tăng cường các hoạt động đào tạo và nghiên cứu. + Các trường đại học công lập, được thành lập và quản lý bởi chính quyền địa phương, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cơ hội giáo dục đại học cho người dân địa phương và các trung tâm trí thức và văn hóa trong cộng đồng địa phương. + Các trường đại học tư thục chiếm khoảng 80% số lượng các trường đại học trên toàn nước Nhật và có khoảng 80% sinh viên đại học theo học. Mỗi trường đại học tư nhân quảng bá cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu một cách riêng biệt, độc đáo dựa trên các giá trị cốt lõi tinh thần riêng của nó. Các trường này đã đóng vai trò quan trọng cả về số lượng và chất lượng trong sự phát triển giáo dục đại học của Nhật Bản. Tuy nhiên, bài viết này chỉ nghiên cứu về kinh nghiệm quản trị đại học trong các trường đại học quốc gia của nhật bản (đại học công lập), thông qua đó đề xuất một số khuyến nghị cho quản trị đại học đối với các trường công lập trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt nam. Nhật bản đã có chính sách phát triển và cải cách hệ thống giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hóa từ những năm 2004. Từ năm 2004, tất cả các trường đại học quốc gia, trước đây là một bộ phận của Bộ giao dục đã được tổ chức lại thành các tập đoàn. Việc 2
  3. cải cách các trường đại học quốc gia này nhằm mục đích đẩy mạnh sự độc lập và tự chủ, cải thiện hoạt động giáo dục và nghiên cứu. Việc cải cách về tổ chức đã cho phép mỗi trường đại học quốc gia trở nên độc lập, có quyền quyết định về các vấn đề nhân sự, ngân sách, và tự quản lý theo trách nhiệm của riêng mình và có quyền tự định đoạt dưới sự lãnh đạo của chủ tịch trường. 2. Áp dụng mô hình tập đoàn trong quản trị đại học ở Nhật Bản Tổng công ty/tập đoàn đại học quốc gia được điều hành thông qua hệ thống Hội đồng quản trị, bao gồm chủ tịch và người được ủy thác, và thành lập các bộ phận quản lý, giáo dục và các ban điều hành cần thiết khác. Tập đoàn đại học quốc gia sẽ mời những người bên ngoài trưởng là thành viên của Hội đồng trường và để họ trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý. 2.1 Về bộ máy tổ chức Hội đồng quản lý: cơ quan hoạt động theo chế độ thảo luận tập thể về các vấn đề liên quan đến quản lý tập đoàn. Mỗi tập đoàn đại học quốc gia phải xây dựng một kế hoạch hoạt động trung hạn dựa trên các mục tiêu trung hạn cho giai đoạn 6 năm đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (MEXT) đề ra và tự thúc đẩy hoạt động giáo dục và nghiên cứu của trường theo kế hoạch đó. Như vậy, những nỗ lực trong việc thành lập mô hình tập đoàn nhằm thúc đẩy độc lập, tự chủ của các trường đại học của Nhật Bản. Mỗi trường đại học quốc gia có Chủ tịch trường và bộ máy điều hành. Khác với mô hình trước kia (1 hội đồng) thì mô hình hiện nay được thành lập 03 bộ phận trong mỗi trường: (1) Hội đồng quản trị là bộ phận cao nhất có quyền quyết định về tài chính và do Chủ tịch trường đứng đầu; (2) Hội đồng quản lý/điều hành có trách nhiệm quyết định các vấn đề về hành chính, điều hành hoạt động của trường; (3) Hội đồng giáo dục và nghiên cứu thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến đào tạo và nghiên cứu. Như vậy, đã có sự phân công trách nhiệm giữa ba hệ thống cơ quan này nhưng Chủ tịch là người có quyền ra quyết định cuối cùng dựa trên sự hỗ trợ của Hội đồng quản trị.4 4 Jun OBA (RIHE, Hiroshima University), Incorporation of National Universities in Japan and its Impact upon Institutional Governance, accessed https://home.hiroshima-u.ac.jp/oba/docs/incorporation2006.pdf 3
  4. Chủ tịch trường thường được lựa chọn bởi Ủy ban lựa chọn chủ tịch bao gồm các thành viên trong và ngoài trường. Ở một số trường đại học vẫn áp dụng chế độ bầu chủ tịch thông qua bỏ phiếu. Tuy nhiện, mục tiêu chính của đổi mới quản trị đại học là tăng quyền cho Chủ tịch – người đứng đầu để có thể thực hiện quyền lãnh đạo hiệu quả. Ngoài ra, để tập trung quyền lực cho Chủ tịch và Hội đồng quản trị trường, các trường đại học quốc gia đã giảm các cuộc họp mang tính chất ra quyết định tập thể, ví dụ như trước khi áp dụng chế độ tự chủ, các trường thường thành lập các tiểu ban để tham gia quyết dịnh các nội dung có liên quan, sau khi cải cách, có một số trường ví dụ như Đại học giáo dục Aichi đã giảm số lượng các cuộc họp từ 19 xuống còn 7 cuộc họp/năm; hay giảm số lượng các ủy ban từ 36 xuống 24, số lượng thành viên các ủy ban từ 400 xuống còn 100. Sơ đồ tổ chức tập đoàn đại học quốc gia5 Các khoa/trường chuyên Hội đồng đào tạo và nghiên cứu môn (đào tạo cử nhân) Các khoa/trường đào tạo sau đại học Hội đồng quản trị (bao Chủ tịch gồm chủ tịch và các giám đốc) Viện nghiên cứu Ban thư ký Hội đồng quản lý Thanh tra 5 Tham khảo mô hình trong tài liệu của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ của Nhật Bản, trang 10, truy cập ngày 8/10/2018 http://www.mext.go.jp/en/policy/education/highered/title03/detail03/__icsFiles/afieldfile/2012/06/19/1302653_ 1.pdf 4
  5. Có thể thấy rằng, một trong những chế định quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ trong các trường đại học quốc gia là tăng quyền quyết định cho cá nhân đứng đầu – Chủ tịch trường, và giảm các quyết định mang tính chất tập thể. Điều này thể hiện rõ tầm quan trọng của chế độ lãnh đạo cá nhân, đảm bảo mọi vấn đề được quyết định nhanh chông và Chủ tịch là người đứng đầu chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Tuy nhiên, các trường đại học quốc gia của Nhật Bản cũng phải đối mặt với thách thức trong việc lựa chọn được Chủ tịch trường là người có năng lực điều hành, quản lý bởi vì hầu hết họ là những người làm công tác chuyên môn, giảng dạy nên có thể thiếu những kinh nghiệm, kỹ năng trong lãnh đạo điều hành. Đây cũng là một trong các thách thức lớn của các trường đại học hoạt động theo mô hình này. Hội đồng quản lý/Hội đồng hành chính: là hội đồng có cả các chuyên gia bên ngoài trường tham gia vào điều hành quản lý ở nhiều nội dung khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi trường. Có một số trường tham khảo Hội đồng quản lý những hoạt động quản lý cụ thể, bao gồm cả việc phân bổ ngân sách. Một số trường thì chỉ tham khảo ý kiến về những vấn đề mang tính chất định hướng chung, ví dụ như Chủ tích trường đại học Kyoto cho biết là chỉ thảo luận một số vấn đề chung với Hội đồng quản lý. 2.2 Về ngân sách: Tự chủ về tài chính là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo quyền độc lập, tự chủ của các tập đoàn đại học quốc gia ở Nhật bản. Hiện nay, về các nguồn kinh phí cho các trường đại học ở Nhật Bản chủ yếu được chia thành ba loại: nguồn kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên; nguồn kinh phí cạnh tranh để cho các hoạt động của nghiên cứu khoa học của mỗi cá nhân; và nguồn trợ cấp cho sinh viên. Nhà nước sẽ cấp các khoản kinh phí này cho các trường đại học quốc gia, ví dụ như nguồn kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên: chi phí quản lý tập đoàn; cơ sở vật chất. Bên cạnh đó, Nhật bản áp dụng chính sách phân bổ ngân sách cạnh tranh dựa trên sự cạnh tranh giữa các trường đại học quốc gia, đại học công lập, và đại học tư nhân thông qua các nguồn kinh phí tài trợ (các dự án). Các trường đại học cần phải đẩy mạnh cải cách, xây dựng các dự án để xin các nguồn tài trợ từ Chính phủ Nhật Bản. 5
  6. Ngân sách phân bổ cho mỗi trường đại học sẽ được thực hiện dưới dạng trợ cấp hoạt động một lần trong đó bao gồm cả tiền lương của nhân viên. MEXT sẽ phân bổ ngân sách dựa trên kế hoạch trung hạn mà mỗi trường đã xây dựng dựa trên mục tiêu trung hạn mà MEXT đã đề ra. Sau khi được Bộ trưởng chấp thuận, các trường đại học quốc gia sẽ nhận được ngân sách (trợ cấp hoạt động) tương ứng với kế hoạch trung hạn. Mỗi kế hoạch trung hạn có thời gian là 6 năm.6 Có thể thấy rằng, việc phân bổ ngân sách cho các trường đại học quốc lập của Nhật bản đã dựa trên đề án thực hiện kế hoạch trung hạn và thực hiện theo hình thức trợ cấp hoạt động, nghĩa là các trường có quyền chủ động trong việc sử dụng nguồn trợ cấp hoạt động (bao gồm cả tiền lương của nhân viên) theo kế hoạch đã được phê duyệt. Như vậy, mức kinh phí hỗ trợ cho mỗi trường là khác nhau, tùy thuộc vào việc xây dựng kế hoạch thực hiện có đáp ứng được mục tiêu trung hạn mà MEXT đã đề ra hay không. Tăng nguồn thu là một trong những điều kiện để đảm bảo tự chủ cho các trường đại học quốc gia. Học phí và lệ phí tuyển sinh hiện nay là nguồn thu nhập riêng cho các tập đoàn đại học quốc gia. Mỗi trường được phép tăng học phí và lệ phí tuyển sinh lên tới 10% so với tiêu chuẩn do MEXT quy định. Tất cả các trường đại học quốc gia áp dụng mức phí tương đương với tiêu chuẩn (520.800 yên cho học phí và 282.000 yên cho phí tuyển sinh) cho năm tài khóa 2004. Trên cơ sở mức học phí sàn và lệ phí tuyển sinh do MEXT quy định, các trường có thể chủ động quyết định mức thu để đảm bảo có đủ nguồn ngân sách, bên cạnh các khoản trợ cấp của Chính phủ. Ngoài ra, một số trường đại học còn tăng nguồn thu thông qua hoạt động hợp tác ba bên giữa chính phủ - trường học – doanh nghiệp và đã có rất nhiều các hoạt động kinh doanh khác nhau được thực hiện dựa trên ý tưởng đề xuất của các trường đại học. Hầu hết các trường đại học đều đẩy mạnh hoặc tăng số lượng các văn phòng cấp phép có liên quan đến công nghệ và các hoạt động hợp tác khác. 6 Jun OBA (RIHE, Hiroshima University), Incorporation of National Universities in Japan and its Impact upon Institutional Governance, accessed https://home.hiroshima-u.ac.jp/oba/docs/incorporation2006.pdf 6
  7. Như vậy. có thể thấy nguồn kinh phí cho hoạt động của các trường đại học quốc gia chủ yếu từ 02 nguồn: nguồn ngân sách do chính phủ cấp và nguồn thu từ sinh viên. Tuy nhiên, nguồn ngân sách do Chính phủ cấp hoàn toàn dựa vào đề xuất kế hoạch hoạt động của mỗi trường. Do đó, các trường phải chủ động trong việc lập kế hoạch, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển trung hạn của Bộ thì mới được cấp ngân sách. Chính sách này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường đại học quốc gia với nhau. Nguồn thu thử hai là từ học phí của sinh viên, tuy nhiên trên thực tế các trường đại học quốc gia thường duy trì mức học phí ổn định và có mức thấp hơn các trường đại học tư ở Nhật bản, ví dụ học phí ở Đại học Nagoya chỉ bằng ½ mức học phí của các trường đại học tư nổi tiếng như Đại học Keio hay đại học Waseda. 2.3 Về nhân sự: Các giáo viên và nhân viên của trường đại học quốc gia không phải là công chức. Quy định không áp dụng chế độ công chức nhằm cho phép các trường đại học quốc gia mới có thể áp dụng chế độ tuyển dụng, hệ thống thang bảng lương và các điều kiện khác có liên quan đến nhân sự một cách linh hoạt hơn. Tất cả các nhân viên không thuộc biên chế của các trường/khoa thì được bổ nhiệm bởi Chủ tịch trường, còn những nhân viên chuyên cao cấp như tổng thư ký hay giám đốc thì trước kia do Bộ trưởng quyết định. Hiện nay, các giảng viên, nhân viên sẽ do Chủ tịch trường ra quyết định bổ nhiệm. Các trường đều áp dụng cách thức tuyển dụng là dựa vào quyết định tuyển dụng giáo viên của các Khoa (các trường chuyên ngành) và Chủ tịch trường sẽ ra quyết định bổ nhiệm. Quyền tự chủ trong quyết định số lượng người lao động (biên chế) cũng là một trong những nội dung cải cách của Bộ giáo dục Nhật bản. Trước cải cách, số lượng nhân viên được quy định cụ thể về số lượng và từng vị trí việc làm, do đó các trường không có quyền chủ động trong việc quyết định số lượng nhân viên, hay đổi mới tổ chức nhân sự nếu không có sự cho phép. Tuy nhiên, sau khi đổi mới mô hình hoạt động, các trường có quyền chủ động trong việc quyết định nhân sự phù hợp với nguồn ngân sách dưới sự điều hành, chỉ đạo của Chủ tịch trường để có thể khai thác tối đa nguồn nhân lực, ví dụ như trường Đại học Gifu đã cho phép các trưởng khoa sử dụng linh hoạt nguồn nhân lực trong khoa theo phân cấp quản lý. Một số trường đại học xóa bỏ chế độ biên chế nhân sự cho từng khoa mà áp dụng 7
  8. chế độ quản lý chung cho toàn trường để có thể luân chuyển, bổ sung nhân sự giữa các khoa. 3. Quản lý chất lượng đào tạo đại học ở Nhật Bản7 Quản lý chất lượng đào tạo đại học là một trong những yêu cầu quan trọng trong quản trị đại học hiện đại ở Nhật bản. Hoạt động quản lý chất lượng của các trường được thực hiện thông qua các hoạt động cụ thể như sau: Kiểm toán: Để quản lý chất lượng, mỗi trường đại học quốc gia cần có bộ phận kiểm toan (kiểm toán nội bộ). Mỗi bộ phận kiểm toán cần có ít nhất 02 kiểm toán viên có vị trí như giám đốc để kiểm toán toàn bộ các hoạt động. Mặc dù hệ thống kiểm toán nội bộ không hoạt động hiệu quả ở tất cả các trường đại học của Nhật bản nhưng một số trường đã sử dụng kết quả kiểm toán một cách tích cực để nâng cao chất lượng quản lý của mình. Từ năm 2004, đã có 41 trên 93 trường thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, ví dụ như trường đại học Yokohama đã thành lập bộ phận kiểm toán gồm có 8 nhân viên dưới sự điều hành của Chủ tịch trường thực hiện hoạt động kiểm toán nội bộ và cả kiểm toán bên ngoài. Đánh giá các hoạt động: + Đánh giá nhân viên (đánh giá cá nhân): sau khi cải cách, các trường đại học quốc gia đều xây dựng hệ thống đánh giá nhân viên. Bên cạnh cách đánh giá truyền thống là đánh giá dựa trên các đồng nghiệp, thì các trường đại học áp dụng cách đánh giá dựa trên bằng chứng (evidence-based evaluation) để đánh giá các giảng viện như số lượng các công trình nghiên cứu để thông qua đó nâng cao chất lượng các hoạt động nghiên cứu, giảng dậy v.v. + Đánh giá ở cấp độ đơn vị: Một số trường đại học áp dụng cách đánh giá ở cấp độ đơn vị thay cho đánh giá cá nhân. Tuy nhiên, việc đánh giá này cũng thông qua thông tin của mỗi cá nhân được cập nhật trên hệ thống dữ liệu để đánh giá hoạt động của đơn vị đó. 7 Tham khảo thông tin và dịch từ tài liệu của Jun OBA (RIHE, Hiroshima University), Incorporation of National Universities in Japan and its Impact upon Institutional Governance, accessed https://home.hiroshima- u.ac.jp/oba/docs/incorporation2006.pdf 8
  9. Ủy ban đánh giá tập đoàn đại học quốc gia (trực thuộc MEXT): Ủy ban sẽ đánh giá kết quả hoạt động của mỗi tập đoàn dựa vào kết quả của mỗi năm học và việc hoàn thành các kế hoạc trung hạn do tập đoàn đề ra. Ủy ban thực hiện hoạt động đánh giá thông qua hoạt động tự đánh giá và tự giám sát của mỗi trường đại học. Hoạt động đánh giá hàng năm của Ủy ban được dựa trên 5 cấp độ/tiêu chí:1): Mức độ cải tiến và tối ưu hóa doanh nghiệp; 2) cải thiện các hạng mục tài chính; 3) tự giám sát và tự đánh giá và công bố thông tin (công khai, minh bạch thông tin); 4) các vấn đề kinh doanh khác; và 5) nâng cao chất lượng nghiên cứu giáo dục và các dịch vụ liên quan khác. Kết quả đánh giá của Ủy ban có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các trường đại học quốc gia vì là điều kiện để các trường được xem xét cấp kinh phí cho các hoạt động cụ thể theo kế hoạch trung hạn đã đề ra. 4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam Cải cách giáo dục đại học, xây dựng mô hình quản trị hiện đại là một thách thức lớn không chỉ riêng đối với Nhật Bản mà còn là vấn đề chung của các nước khác trên thế giới. Đặc biệt là trong thời kỳ phát triển của nền công nghiệp 4.0, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, yêu cầu của hội nhập và toàn cầu hóa, các trường đại học ở Việt Nam phải thực hiên cải cách để đáp ứng các mục tiêu đó là nâng cao năng lực thông qua việc xây dựng một đội ngũ giảng viên có đủ năng lực và trình độ chuyên môn, cải tiến các chương trình đào tạo; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học đáp ứng các yêu cầu của hội nhập và toan cầu hóa. Một trong những giải pháp trọng tâm của việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học đó là áp dụng cơ chế tự chủ cho các trường đại học. Trao quyền tự chủ là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của các trường đại học. “Mục đích chủ yếu của việc giao quyền làm chủ cho hệ thống giáo dục đại học có thể hoạt động một cách có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của xã hội. Thể chế tự chủ cao hơn là yếu tố then chốt tạo ra sự thành công của các cuộc cải cách đại học, đặc biệt là những cuộc cải cách nhằm đa dạng hoá và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả.”8 Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản 8 Phan Đăng Sơn, Một số giải pháp tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học ở Việt Nam, http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/989/language/vi-VN/M-t-s-gi-i-phap-tang-quy-n-t-ch-t-ch-u- trach-nhi-m-trong-cac-tr-ng-d-i-h-c-Vi-t-Nam.aspx, truy cập ngày 10/10/2018 9
  10. trong việc áp dụng chế độ tự chủ đối với các trường đại học quốc gia ở Nhật bản, việc cải cách giáo dục đại học và xây dựng mô hình quản trị đại học hiện đại ở Việt Nam cần thực hiện một số nội dung sau: - Thứ nhất, cần phải trao quyền tự chủ cho các trường trong việc xây dựng các kế hoạch hoạt động theo nhu cầu phát triển của xã hội: Đào tạo đại học cần gắn liền với nhu cầu của thị trường, các trường đại học cần chủ động xây dựng kế hoạch phát triển cho các giai đoạn trung hạn và dài hạn, đảm bảo chuẩn đầu ra đáp ứng các yêu cầu của nhà tuyển dụng trong và ngoài nước. Các chương trình đào tạo cần được cải tiến cho phù hợp với các chương trình đào tạo tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, dần dần xóa bỏ khoảng cách trong các chương trình đào tạo (chương trình đào tạo hội nhập). - Thứ hai, các trường cần được đối mới mô hình quản trị theo dạng tập đoàn hay doanh nghiệp, trong đó đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy các trường đại học được vận hành theo bộ máy của một tập đoàn/công ty có Chủ tịch và Hội đồng quản trị, bên cạnh đó có hệ thống các Hội đồng quản lý và Hội đồng giáo dục và nghiên cứu, cùng bộ phận giúp việc, có sự phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn. Chủ tịch tập đoàn là người có quyền đưa ra các quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Cơ chế này đảm bảo việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu, giảm các quyết định mang tính chất tập thể (giảm số lượng các cuộc họp quyết định các vấn đề theo đa số). - Thứ ba, cần áp dụng cơ chế cạnh tranh trong việc phân bổ ngân sách nhà nước cho các trường. Thực tiễn hiện nay cho thấy xu hướng tự chủ ở các trường đại học lớn ở Việt Nam là các trường phấn đấu tự chủ 100% về nguồn tài chính, nghĩa là không dùng nguồn kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nếu áp dụng tự chủ 100% (xóa bỏ ngân sách nhà nước cấp) cũng có thể dẫn đến tình trạng một số trường không thể đáp ứng được yêu cầu do không có khả năng thu hút được sinh viên, dẫn đến không thể có đủ nguồn thu. Hoặc các trường phải tăng mức học phí tối đa để đảm bảo nguồn thu. Hai khả năng này có thể có những ảnh hưởng tiêu cực đến người học cũng như không đảm bảo cho một số ngành đào tạo đặc thù, ví dụ như giáo dục, 10
  11. y tế có thể áp dụng chế độ tự chủ. Kinh nghiệm của Nhật bản cho thấy là không xóa bỏ hoàn toàn phần ngân sách nhà nước cấp, mà việc cấp ngân sách sẽ được thực hiện trên cơ sở kế hoạch hoạt động của mỗi trường cũng như mục tiêu mà Bộ giáo dục đã đề ra để đảm bảo việc phân bổ và sử dụng ngân sách hiệu quả. Việc áp dụng chế độ tự chủ không nên đồng nhất với việc xóa bỏ hoàn toàn nguồn ngân sách nhà nước cấp. - Thứ tư, cơ chế tự chủ cần đảm bảo cho các trường đại học có quyền chủ động quyết định về biên chế (số lượng người lao động); có chính sách thu hút nhân tài (không chỉ theo hình thức tuyển dụng viên chức như hiện nay), có cơ chế trả lương theo vị trí việc làm và không áp dụng hệ thống thang bảng lương theo thâm niên. Chủ động trong việc tuyển dụng và sử dụng nhân sự là điều kiện để các trường có thể thu hút được những người đang làm việc ở các công ty tư nhân, ở nước ngoài trờ thành các giảng viên, chuyên gia trong các trường đại học. - Thứ năm, cần đảm bảo quyền tự chủ về tài chính: “Các trường đại học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài sản tương lai; và cân đối các nguồn tài chính thu và chi nhằm đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật, và không vụ lợi.”9 Các trường có quyền tự chủ trong quyết định các nguồn thu và mức chi theo quy chế chi tiêu nội bộ của trường. Thực tiễn hiện nay có những mức chi áp dụng theo quy định của Bộ Tài chính dẫn đến khó có chính sách đột phá trong chi trả tiền lương, thưởng cho đội ngũ giảng viên, nhân viên. Do đó, tự chủ về tài chính là điều kiện cần thiết để các trường có thể xây dựng các chiến lược phát triển, tăng nguồn thu, tiết kiệm chi phí, để sử dụng nguồn tài chính một cách hiệu quả nhất. - Thứ sáu, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra và đánh giá chất lượng đào tạo của các trường đại học. Tự chủ tạo điều kiện cho các trường đại học tự do chủ động trong học thuật, trong đào tạo và trong nghiên cứu. Tuy nhiên, nhà nước vẫn cần giữ vai 9 GS.TSKH Đỗ Trung Tá, Một số trao đổi về tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam, http://vienphuongdong- ordi.vn/mot-so-trao-doi-ve-tu-chu-giao-duc-dai-hoc-o-viet-nam/ truy cập ngày 10/10/2018. 11
  12. trò quản lý chất lượng đào tạo của các trường. Bên cạnh việc quy định các trường đại học tự kiểm soát và tự đánh giá thì việc thành lập một cơ quan kiểm tra, đánh giá chất lượng các trường dựa trên bộ tiêu chí cụ thể là hết sức cần thiết. Các tiêu chí đánh giá cũng cần phải được xây dựng theo chuẩn của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và đảm bảo được yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa. Nhà nước cần phải thay đổi phương thức quản lý các trường đại học bằng cách tập trung vào đánh giá kết quả hoạt động và không can thiệp quá sâu vào các công việc nội bộ của trường. Nâng cao quyền chủ động của mỗi trường nhưng đồng thời cũng cần quy định rõ trách nhiệm, bảo đảm xử lý nghiêm minh các vi phạm. Tóm lại, xây dựng cơ chế tự chủ cho các trường đại học là một nhu cầu cần thiết trong cải cách và đổi mới hệ thống giáo dục đại học ở nước ta. Việc áp dụng chế độ tự chủ trong giáo dục đại học cần có những giải pháp cụ thể, mỗi trường đại học cần thực hiện theo một lộ trình và xây dựng một mô hình quản trị hiện đại và hiệu quả. Mỗi trường đại học sẽ có những chính sách, chiến lược phát triển riêng để có thể xây dựng được “thương hiệu”, có chương trình đào tạo tiên tiến, chất lượng, có tiêu chí đánh giá cụ thể. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ đổi mới chính sách trong quản lý giáo dục đại học, có những biện pháp kiểm tra đánh giá chất lượng đào tạo của các trường một cách hiệu quả./. 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2