TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Mối quan hệ giữa kiểu văn học<br />
và kiểu tính cách văn hóa<br />
Relations between literature type and cultural personality type<br />
<br />
ThS. Trần Duy Khương<br />
Trường Đại học Thủ Dầu Một<br />
<br />
M.A. Tran Duy Khuong<br />
Thu Dau Mot University<br />
<br />
Tóm Tắt<br />
Văn hoá và văn học có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong quá trình định hình và phát triển của mỗi<br />
dân tộc. Trong đó, văn học là một trong những kênh để truyền tải đặc trưng của văn hoá, do vậy, ở một<br />
mức độ nào đó, những đặc trưng về tính cách văn hoá của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện qua các tác<br />
phẩm văn học của dân tộc ấy. Có thể nói rằng, kiểu văn học nào cũng đều là kết quả của quá trình xây<br />
dựng một kiểu tính cách văn hoá cụ thể nào đó; ngược lại, kiểu tính cách văn hoá nào cũng được bộc lộ<br />
qua một kiểu văn học nào đó (nếu có).<br />
Từ khoá: kiểu văn học, kiểu tính cách, văn hoá…<br />
Abstract<br />
Culture and literature have the mutual ties in the shaping and developing process of every nation.<br />
Among them, literature is one of the channels to transmit cultural characteristic, therefore, to some<br />
extent, the characteristics of the culture of each people will be shown in their literary works. We can say<br />
that any literature type is also a result of the process of building a specific cultural personality type; on<br />
the contrary, any cultural personality type is also shown through a certain literature type (if any).<br />
Keywords: literature type, personality type, culture…<br />
<br />
<br />
1. Khái quát về kiểu văn học và kiểu văn học trên thế giới, chúng ta cũng đều có<br />
tính cách văn hoá thể phân loại chúng. Kết quả của sự phân<br />
1.1. Kiểu văn hoá và kiểu văn học loại ấy chính là sự hiện tồn của các loại<br />
Các sự vật hiện tượng trong thế giới hình văn hoá và các loại hình văn học. Ví<br />
đều rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, mỗi dụ như, chúng ta có loại hình văn hoá<br />
sự vật, hiện tượng đơn lẻ ấy đều có thể tìm phương Đông và phương Tây (theo<br />
thấy những điểm tương đồng từ những sự phương vị), văn hoá truyền thống và văn<br />
vật, hiện tượng khác. Từ những sự tương hoá hiện đại (theo thời gian), văn hoá trọng<br />
đồng này, chúng ta có thể quy ra các loại, động hay trọng dương và văn hoá trọng<br />
các ngành, các họ, các nhóm hay các kiểu. tĩnh hay trọng âm (theo tính chất của hoạt<br />
Đối với các nền văn hoá cũng như các nền động). Tương tự, chúng ta cũng có loại<br />
<br />
125<br />
hình văn học phương Đông và văn học trừ những cá nhân có những nét tính cách<br />
phương Tây (theo phương vị), loại hình khác cộng đồng, tuy nhiên, trường hợp này<br />
văn học cổ điển và loại hình văn học hiện được xem là lập dị và rất dễ bị cộng đồng<br />
đại/ đương đại (theo thời gian)… cô lập).<br />
Tuy nhiên, trong cùng một loại hình, Theo cách nói của Trần Ngọc Thêm,<br />
chúng ta lại có thể tiếp tục phân chia để tính cách của cộng đồng ở đây chính là<br />
hình thành nên các tiểu loại, ở đây, chúng “tính cách tập thể”. Trong quyển Những<br />
tôi tạm gọi là các “kiểu”. Ví dụ như, cùng vấn đề Văn hoá học lý luận và ứng dụng,<br />
là những đất nước thuộc châu Á (phương Trần Ngọc Thêm viết: “Tính cách tập thể là<br />
Đông), nhưng các nền văn hoá điển hình hệ thống các đặc điểm tương đối bền vững<br />
ở nơi đây lại mang sắc thái riêng, có thể của một cộng đồng người (chủ thể) trong<br />
được định dạng thành các kiểu khác nhau: điều kiện không gian và thời gian sinh tồn<br />
văn hoá sa mạc (vùng Trung Đông, Tây cụ thể của họ” [6: 207]. Và vì tính cách tập<br />
Á), văn hoá tâm linh (Ấn Độ), văn hoá thần thể ấy là sản phẩm của một cộng đồng<br />
quyền (Nhật Bản), văn hoá vương quyền – người cụ thể, cho nên nó mang những giá<br />
thế tục (Trung Quốc), văn hoá trọng tình trị văn hoá nhất định, tức là, tính cách cộng<br />
(Việt Nam)… Tương tự, chúng ta có các đồng cũng chính là tính cách văn hoá.<br />
kiểu văn học tương ứng như sau: văn học Xét về tính cách văn hoá, vì mỗi nền<br />
ẩn ức sa mạc (đại diện là văn học Arap, Ba văn hoá đều được xây dựng bởi một cộng<br />
Tư), văn học tâm linh (đại diện là văn học đồng người trong một không gian và một<br />
Ấn Độ), văn học thần quyền - ngôn linh chuỗi thời gian cụ thể (bối cảnh đặc hữu),<br />
(đại diện là Nhật Bản), văn học thế tục (đại nên những phương thức nhận thức, tổ chức<br />
diện là Trung Quốc), văn học trọng tình và ứng xử (thông qua hành động) của họ sẽ<br />
(Việt Nam và những nền văn học Đông mang đặc trưng riêng. Chính vì điều này<br />
Nam Á). mà tính cách văn hoá cũng được phân loại<br />
1.2. Kiểu tính cách văn hoá thành những loại hình, những nhóm tính<br />
Tính cách1 là khái niệm dùng để chỉ cách khác nhau, ví dụ loại hình tính cách<br />
những đặc trưng trong cách nhận thức, tổ dương ở phương Tây và loại hình tính cách<br />
chức, ứng xử (thể hiện qua bằng hành âm ở phương Đông. Cùng một loại hình<br />
động) của một đối tượng người cụ thể. Đối văn hoá, với những sự khác biệt về mặt<br />
tượng người này có thể là một người điều kiện tự nhiên, con người và lịch sử<br />
(mang tư cách là thành viên chính thức của phát triển mà mỗi cộng đồng dân tộc lại có<br />
xã hội) và cũng có thể là nhiều người những kiểu tính cách văn hoá khác nhau, ví<br />
(nhóm người, cộng đồng). Thế nhưng, do dụ như trong khi người Trung Quốc có<br />
mang tính cộng đồng xã hội nên tính cách kiểu tính cách văn hoá là bành trướng thì<br />
của một người cá nhân nào đó cũng chính người Ấn Độ lại có kiểu tính cách văn hoá<br />
là sản phẩm được hình thành từ tính cách là chuộng hoà bình, trọng đời sống tâm<br />
của cộng đồng đó, cho nên khi nói đến tính linh, còn người Nhật lại có kiểu tính cách<br />
cách, người ta thường nghĩ đến tính cách là lập khuôn hoá tất cả những chuẩn tắc<br />
chung của một cộng đồng mà không phải của cuộc sống thành các đạo (hình thành<br />
là tính cách riêng của từng cá nhân (ngoại nên ý thức thu nhỏ của người Nhật Bản)2…<br />
<br />
126<br />
1.3. Vị trí của kiểu văn học và kiểu con người trong một nền văn hoá. Tức là,<br />
tính cách văn hoá trong văn hoá kiểu tính cách văn hoá là một siêu thành tố,<br />
Tuy đều là những thành tố của văn nó bao trùm lên tất cả các thành tố văn hoá<br />
hoá, nhưng kiểu văn học và kiểu tính cách khác, từ văn hoá nhận thức, văn hoá tổ<br />
văn hoá lại không cùng hàng với nhau. chức cho đến văn hoá ứng xử của những<br />
Kiểu văn học là một chùm đặc trưng về thành viên trong cộng đồng văn hoá ấy.<br />
nghệ thuật ngôn từ trong văn hoá tổ chức Tuy không ngang hàng nhau, nhưng cả<br />
đời sống cá nhân của con người, nó ngang hai đều quan hệ rất chặt chẽ với nhau, đặc<br />
hàng với các thành tố nội bộ khác (tín biệt do văn học chính là hình thức truyền<br />
ngưỡng, phong tục, các loại hình nghệ tải nhận thức một cách chi tiết nhất và rõ<br />
thuật…) hoặc ngang hàng với các thành tố ràng nhất, nên có thể thông qua kiểu văn<br />
ngoại bộ của nó (như ăn uống, mặc, đi lại, học mà thấy được kiểu tính cách văn hoá<br />
cư trú…). Trong khi đó, kiểu tính cách văn và ngược lại. Vị trí của hai thành tố này có<br />
hoá lại là một chùm đặc trưng về tính cách thể được thể hiện qua sơ đồ như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2. Sự cộng tồn của kiểu văn học và ấy tương tác với nhau. Ngược lại, những<br />
kiểu tính cách văn hoá hành động mang tính thống nhất giữa các<br />
Con người nhận thức như thế nào thì thành viên trong cộng đồng được lặp đi<br />
sẽ hành động như thế đó. Tiếp theo, những lặp lại trong quá trình họ cùng sinh tồn sẽ<br />
hành động của một người được lặp đi lặp hình thành nên những đặc trưng về tính<br />
lại trong quá trình sinh tồn sẽ hình thành cách văn hoá. Có nghĩa là, kiểu nhận thức<br />
nên những đặc trưng trong tính cách. nào cũng sẽ có kiểu tính cách văn hoá<br />
Tương tự, nhiều người trong cộng đồng ấy tương ứng.<br />
sẽ bị ảnh hưởng lẫn nhau trong cách quan Trong quá trình cùng tồn tại, kiểu nhận<br />
niệm về thế giới xung quanh, và do vậy, thức của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện<br />
những cách suy nghĩ này sẽ tạo ra hàng ra bằng các dạng lăng kính khác nhau: qua<br />
loạt những hành động mang tính thống cách tổ chức làng xã, cách tổ chức gia<br />
nhất với nhau trong quá trình các cá nhân đình, cách thực hiện các lễ nghi, cách sáng<br />
<br />
<br />
127<br />
tạo nghệ thuật, cách ứng xử với tự nhiên, Thanh lâu oán (Vương Xương Linh); Đăng<br />
cách ứng xử với người ngoại lai… Ví dụ, Quán Tước lâu (Vương Chi Hoán)… đều<br />
do sống trong môi trường cạnh tranh khốc phảng phất nét tính cách này.<br />
liệt nên người Hán luôn lấy tiêu chí tự Nói tóm lại, giữa văn học và văn hoá<br />
cường, bành trướng làm tiêu chí hàng đầu (cụ thể là tính cách văn hoá) có mối quan<br />
(thể hiện rõ nét qua tiêu chí tu dưỡng của hệ rất mật thiết với nhau. Một khi kiểu văn<br />
một người quân tử: tu thân, tề gia, trị quốc, hoá (cụ thể là kiểu tính cách văn hoá) bị<br />
bình thiên hạ). Nét tính cách này thể hiện thay đổi thì kiểu văn học cũng sẽ bị thay<br />
một cách nhất quán qua các lĩnh vực như đổi theo. Sự thay đổi từ kiểu văn học Bắc<br />
sau: trong nhận thức về vũ trụ thì luôn có Bộ sang kiểu văn học Nam Bộ và sự thay<br />
tư tưởng bao thâu vũ trụ (nắm lấy thiên cơ đổi từ kiểu văn học “văn dĩ tải đạo” thời<br />
qua các thuật chiêm bốc); trong nhận thức trung - cận đại sang kiểu văn học Tây hoá<br />
về bản thân con người thì luôn muốn nắm thời cận - hiện đại ở Việt Nam chính là hệ<br />
lấy tinh hoa của trời và đất (nhấn mạnh vị quả của sự chuyển đổi tính cách văn hoá từ<br />
trí của con người trong bộ ba thiên - địa - tính cách tiểu nông sang tính cách tiểu<br />
nhân; nhấn mạnh hành thổ trong bộ năm thương và sự chuyển đổi từ kiểu tính cách<br />
kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ); trong tổ chức văn hoá thiên về hình thức sang kiểu tính<br />
vĩ mô thì xem người Hán là tinh hoa cách thiên về nội dung. Trong quyển Mối<br />
(Trung Quốc/ Trung Nguyên), còn tứ quan hệ giữa văn hoá và văn học, Đỗ Thị<br />
phương đều là man (ở phía Nam), rợ (tức Minh Thuý đã chỉ ra hai lần thay đổi kiểu<br />
Địch, ở phía Bắc), di (ở phía Đông), mọi văn hoá (Hán hoá và Tây hoá) đã dẫn đến<br />
(tức Nhung, ở phía Tây); trong tổ chức vi sự hình thành của hai kiểu văn học: văn học<br />
mô thì thường giữ gìn lễ tiết, phép tắc được cổ điển và văn học hiện đại [8:128-238].<br />
đề cao; trong ứng xử với môi trường tự 3. Kiểu văn học nhìn từ kiểu<br />
nhiên thì thường xây dựng những cung tính cách văn hoá qua một số đối tượng<br />
điện, thành quách vô cùng diễm lệ, hoành văn học cụ thể<br />
tráng; trong ứng xử với người ngoài thì Trong khuôn khổ bài viết này, chúng<br />
luôn có khát vọng thôn tính, bành trướng tôi chỉ trình bày một số nét khái quát về<br />
và đồng hoá. Một trong những lăng kính mối quan hệ chặt chẽ giữa kiểu văn học và<br />
soi chiếu một cách sâu sắc về nét tính cách kiểu tính cách văn hoá qua tác phẩm văn<br />
bành trướng này chính là nghệ thuật văn học Việt Nam Chiếc lược ngà (Nguyễn<br />
chương Trung Hoa. Ngay cả trong thể thơ Quang Sáng) và đặc trưng trong thơ Haiku<br />
súc tích vào thời kỳ cổ đại của Trung Quốc của Nhật Bản.<br />
- thơ Đường, nét tính cách văn hoá này 3.1. Kiểu tính cách Nam Bộ qua tác<br />
cũng thể hiện rất rõ qua thi pháp không phẩm Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)<br />
gian: nhìn từ gần ra xa, nhìn từ thấp lên Để làm rõ những đặc trưng tính cách<br />
trên cao, nhìn từ một điểm đến hàng vạn người Nam Bộ qua tác phẩm Chiếc lược<br />
điểm… Các bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố, ngà, trước hết, chúng ta cần làm rõ những<br />
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi điều kiện hình thành nên kiểu tính cách<br />
Quảng Lăng, Hành lộ nan (Lý Bạch); Điểu Nam Bộ:<br />
minh giản, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Xét về điều kiện tự nhiên, Nam Bộ là<br />
Đông bằng hữu (Vương Duy); Khuê oán, vùng đất khá rộng, bao gồm hai phân vùng<br />
<br />
128<br />
là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đây là năm 1884 của Nguyễn Phan Quang và Võ<br />
nơi có kiểu khí hậu nóng ẩm, sông ngòi Xuân Đàn, việc khai khẩn vùng đất Nam<br />
chằng chịt (đặc biệt là Tây Nam Bộ với hệ Bộ có lẽ được bắt đầu từ sự phân liệt Nam<br />
thống chi nhánh của hạ lưu sông Mê - Bắc triều và phân liệt Trịnh - Nguyễn. Để<br />
Kông), vì thế mà mưa nhiều, đủ sức tưới tránh bị sát hại và cũng là để xây dựng lực<br />
cho cây. Hơn nữa, Nam Bộ là nơi có địa lượng riêng cho dòng họ Nguyễn, vào năm<br />
hình thấp, ít núi (chỉ có các dãy núi nhỏ 1558, người con thứ của Nguyễn Kim là<br />
như núi Bà Đen ở Tây Ninh, núi Chứa Nguyễn Hoàng đã xin vào trấn thủ đất<br />
Chan ở Đồng Nai, núi Bao Quan ở Vũng Thuận Hoá; năm 1614, Nguyễn Phúc<br />
Tàu, núi Thất Sơn ở An Giang…), do vậy, Nguyên nối ngôi cha và tiếp tục sự nghiệp<br />
chất đất ở đây phần nhiều là phù sa màu khai khẩn đất phương Nam; năm 1692,<br />
mỡ, thứ đến là phù sa cổ và đất đỏ bazan. Nguyễn Phúc Chu lên ngôi và quyết tâm<br />
Những điều kiện này rất thích hợp cho việc tách Đàng Trong thành một xứ độc lập<br />
trồng trọt các loại cây lương thực, hoa [4]… Có thể nói, trong suốt các đời chúa<br />
màu, cây ăn trái cũng như đánh bắt và nuôi Nguyễn (tính đến 1802), những nhóm<br />
thuỷ hải sản. Vì vậy, câu nói “làm chơi ăn người Việt khác nhau (nhóm tá điền không<br />
thiệt” phản ánh rất rõ về điều kiện tự nhiên có ruộng đất, nhóm quân sĩ của nhà<br />
thuận lợi ở nơi đây. Hơn nữa, Nam Bộ hầu Nguyễn, nhóm tù binh trong các trận giao<br />
như không bị bão, do vậy mà nhìn chung, tranh bị các chúa Nguyễn bắt đày, nhóm<br />
đời sống vật chất của cư dân là khá thừa anh hùng và thành phần trí thức bất mãn<br />
mứa (từ lúa gạo đến hoa quả, tôm cá), với thời thế…) đã cùng nhau vượt qua<br />
không lo nghĩ nhiều đến sự cạnh tranh, vùng đất xưa vốn là vương quốc Champa<br />
ganh đua; mà ngược lại, sự khoan dung, để vào khai phá đất hoang ở phương Nam.<br />
phóng khoáng và đối đãi nhiệt thành trở Họ cộng cư với người Khmer (từ Lục Chân<br />
thành một trong những tiêu chuẩn sống. Lạp sang), người Hoa (từ miền Nam Trung<br />
Ngoài ra, do đất rộng người thưa nên Quốc đến tị nạn), người Chăm (từ các lân<br />
làng xã thường được tổ chức theo nguyên bang trở về miền Trung rồi quay trở xuống<br />
tắc mở, các thành viên không quá lệ thuộc các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ) và trải qua<br />
vào nhau, kể cả giữa các thành viên trong quá trình Tây hoá mạnh mẽ từ giữa thế kỷ<br />
tổ chức gia đình. Hơn nữa, dân Nam Bộ XIX, từ đó, họ đã tạo dựng nên một diện<br />
đều là những kẻ tha hương, những khách mạo văn hoá riêng ở vùng đất Nam Bộ:<br />
giang hồ tứ chiếng, mà những con người từ văn hoá của những con người lưu tán, tức<br />
tứ phương đến đây sinh cơ lập nghiệp đều là văn hoá của nhóm người giang hồ tứ<br />
thường có chung một kiểu mặc cảm: ở nhờ chiếng. Chất giang hồ này sẽ quy định nên<br />
nơi đất khách3. Do vậy, để có thể chung nét tính cách cương trực, chất phác,<br />
sống được với nhau, quan hệ giữa người năng động.<br />
với người ở nơi đây thường mang tính dân Như vậy, trong khoảng ba trăm năm<br />
chủ, bình đẳng; nguyên tắc trọng tình được khai khẩn và phát triển, người Việt ở Nam<br />
thay bằng nguyên tắc trọng nghĩa khí, Bộ đã kịp định hình cho mình những nét<br />
trọng uy tín. tính cách đặc thù, theo Trần Ngọc Thêm,<br />
Về điều kiện lịch sử - xã hội, theo đó chính là tính thích ứng cao độ với môi<br />
quyển Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến trường sông nước (gọi tắt là tính sông<br />
<br />
129<br />
nước), tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính nhão → hất cái trứng cá mà ông Sáu gắp<br />
bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng cho → cúi gằm mặt không khóc khi bị<br />
[5: 637-832]. Những sản phẩm tính cách mắng và bị đánh → gắp trứng cá cho lại<br />
này được hình thành dựa trên các tiền đề vào chén nhưng không ăn → nhảy xuống<br />
sau đây: 1). Điều kiện tự nhiên đặc hữu ở xuồng bơi qua nhà bà ngoại. Nếu nhìn từ<br />
Nam Bộ; 2). Cơ tầng văn hoá Việt Nam; bên ngoài, những hành động này có thể bị<br />
3). Hoàn cảnh lịch sử xứ Đàng Trong cùng xem là hỗn láo, vô lễ, thế nhưng, nếu dựa<br />
với sự đặc thù của nhóm người lưu tán; 4). vào hệ giá trị của văn hoá Nam Bộ thì<br />
Sự ảnh hưởng từ văn hoá phương Tây. những hành động này hoàn toàn là hợp lẽ<br />
Những nét đặc thù từ điều kiện tự và mang tính tất yếu. Đó là bởi vì Thu dựa<br />
nhiên và điều kiện xã hội, cũng như những vào lý mà không dựa vào tình (dù đã được<br />
nét đặc trưng trong tính cách con người ông Sáu dùng mọi cách làm hoà).<br />
phương Nam được nêu ra ở trên (thể hiện Ngoài ra, việc bé Thu gọi tiếng “ba”<br />
trong lối nhận thức, tổ chức và ứng xử) đã và ôm chặt ông Sáu lúc đoàn người chuẩn<br />
được thể hiện rất rõ trong tác phẩm văn học bị lên đường cũng xuất phát từ cái nghĩa<br />
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. (nghĩa đồng loại), từ chữ tín (ba vẫn là ba<br />
Sự tương đồng giữa “kiểu tính cách văn mà không phải là người khác nên bé Thu<br />
hoá” và “kiểu văn học” được diễn ra ở thấy có lỗi đối với cách cư xử của mình<br />
những khía cạnh như sau: trước đó, lúc này, chân lý đã được làm<br />
3.1.1. Ý thức cá nhân của nhân vật Thu sáng tỏ nên nó ý thức được là phải thể hiện<br />
Xuất phát từ nhóm người lưu tán, sự nhận thức đó ra bằng hành động) chứ<br />
những con người Nam Bộ thường ít bị lệ không phải là vì vị nể bà ngoại hay mềm<br />
thuộc vào tập thể, lại càng không bị áp đặt lòng trước sự chân thành của ông Sáu…<br />
bởi những ràng buộc của tôn ty trật tự. Ở Nói tóm lại, những điều này đều xuất<br />
đây, yếu tố cá nhân có cơ hội được bộc phát từ ý thức cá nhân, tính trọng lẽ phải,<br />
phát và trở thành động lực để phát triển. trọng uy tín trong quá trình xây dựng làng<br />
Do vậy, tuy phận là con nhưng bé Thu xóm của người Nam Bộ.<br />
không vì lời nói của mẹ mà chịu nhận ba. 3.1.2. Quan hệ gia đình và quan hệ<br />
Nguyên nhân là người trong hình không hề xã hội<br />
giống với người đang đối diện với bé, đặc Từ sự yêu thương của ông Sáu dành<br />
biệt là vào lúc ấy, ông Sáu quá xúc động cho gia đình, đặc biệt là cho bé Thu, chúng<br />
nên gương mặt ửng đó, vết sẹo giần giật ta có thể thấy được cách tổ chức gia đình<br />
lên, trông rất đáng sợ. Lập trường này thể rất điển hình của cư dân Nam Bộ. Vào<br />
hiện rất rõ qua hàng loạt những hành động ngày trở về thăm nhà, tuy được cả nhà thừa<br />
“cứng đầu”: không cho mẹ ngủ với ba bằng nhận nhưng ông Sáu lại không vin vào cái<br />
cách kéo ông Sáu ra và cắn vào người ông chứng cứ đó để ép buộc bé Thu nhận mình<br />
Sáu → khi ông Sáu tìm cách vỗ về thì nó là ba, mà ngược lại vẫn xuống nước (tìm<br />
càng tìm cách đẩy ra → phản kháng lại yêu mọi cách để tiếp cận, làm hoà) trước Thu –<br />
cầu của mẹ khi buộc phải gọi “ba” vào ăn con gái ruột của ông. Đây là biểu hiện của<br />
cơm → kêu trỏng khi mời ông Sáu ăn cơm tính dân chủ, bình đẳng và bao dung trong<br />
→ gọi trỏng khi nhờ chắt nước cơm → tự quan hệ giữa người với người trong xã hội<br />
lấy vá múc nước cơm để cơm không bị và trong gia đình. Ở đây, tính tôn ty trật tự<br />
<br />
130<br />
dường như bị làm mờ đi để nhường lại cho và chiến đấu.<br />
mối quan hệ xã hội sòng phẳng – mối quan Mối quan hệ bình đẳng này không chỉ<br />
hệ vốn được xác lập ngay từ khi người Việt được thể hiện trong gia đình mà còn thể<br />
rời quê hương miền Trung vào phương hiện ngay khi ứng xử ở ngoài xã hội. Trong<br />
Nam mở cõi và bắt đầu cộng cư với các tộc lần dẫn đoàn khách đi bằng xuồng, cô giao<br />
người khác. Chính vì thế, tuy bé Thu là con liên rất trẻ ấy tự xưng là “tôi” với các anh<br />
gái và vẫn còn bé nhưng vẫn được xem là giao liên khác, trong khi các anh giao liên<br />
một thành viên độc lập, có tiếng nói trong gọi cô bằng cách nói rất kính trọng là “chị<br />
gia đình. Hai”, “chị Út”. Điều này đã thể hiện khá rõ<br />
Ngoài ra, mối quan hệ gia đình kiểu vị thế bình đẳng của người con gái trong xã<br />
mở này còn được thể hiện rõ nét ở thái độ hội. Mối quan hệ xã hội bình đẳng và<br />
không phân biệt con trai và con gái, không phóng khoáng này còn thể hiện qua tình<br />
phân biệt vai trò dòng nội và dòng ngoại. tiết nhân vật “tôi” xưng “ba” và gọi “con”<br />
Nếu ở Bắc Bộ và Trung Bộ, yếu tố Nho với Thu ở cuối đoạn trích: Nhân vật “tôi”<br />
giáo tác động tương đối mạnh (con trai học đã tự xem mình là người có trách nhiệm<br />
hành, làm quan trong khi con gái chỉ có thể làm chỗ dựa tinh thần cho Thu và xem Thu<br />
sinh con đẻ cái và quán xuyến việc nhà) là con của bản thân mình, đó là biểu hiện<br />
nên dù ít hay nhiều thì cư dân nơi đây vẫn của xu hướng liên kết cộng đồng bằng<br />
có tâm lý “con gái là con người ngoài”, nghĩa khí, không phân biệt người thân và<br />
“cháu ngoại thương dại thương dột”. Trong người ngoài (so sánh với tính tự trị trong<br />
khi đó, ngay từ khi vào Nam khai khẩn thì quan hệ xã hội của người Bắc Bộ). Chính<br />
người con gái có công lao rất lớn trong vì thế, Trần Ngọc Thêm trong quyển Văn<br />
việc ổn định gia đình, họ cùng lao động hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ có viết:<br />
cực nhọc với đàn ông, còn người đàn ông “Lối ứng xử dung hoà các cấp bậc trong hệ<br />
chỉ có công việc chính là phát quang, cày thống tôn ty, kéo khoảng cách giữa các cấp<br />
cuốc, làm nhà mà không có được cái “chữ” bậc lại gần nhau hơn này không chỉ thể<br />
như các Nho sĩ Bắc và Trung Bộ. Do vậy, hiện tinh thần dân chủ bình đẳng, mà đằng<br />
người Nam Bộ có xu hướng xem con gái sau đó là ‘sự chân tình’ và ‘tấm lòng rộng<br />
làm trọng, đặc biệt là con gái út (do phải mở’; coi trọng cái nghĩa, cái tình, coi trọng<br />
chăm sóc cha mẹ lúc về già). Mặt khác, do công việc hơn mọi thứ cấp bậc tôn ty” [6].<br />
việc tổ chức làng xã không quá xem trọng 3.2. Kiểu tính cách Nhật Bản qua<br />
tính ổn định nên con cái có thể không cùng thơ Haiku<br />
sống với gia đình, con dâu có thể không Tương tự với việc phân tích một tác<br />
sống với gia đình chồng nên khi sinh nở thì phẩm văn học Việt Nam từ góc nhìn tính<br />
thường có tâm lý về nhà mẹ ruột. Vai trò cách cộng đồng, việc phân tích nội dung và<br />
của bà ngoại vì thế mà được khẳng định. nghệ thuật thơ Haiku cũng sẽ góp phần làm<br />
Trong câu chuyện, bà ngoại chính là người rõ những đặc trưng trong tính cách văn hoá<br />
hoá giải hiểu lầm mà không phải cứ là bà người Nhật Bản. Tuy nhiên, để có thể lý<br />
nội. Và cũng vì giữ chữ tín với con gái, giải được những nét đặc trưng này, trước<br />
ông Sáu tỉ mẩn cưa, khắc chiếc ngà để làm hết, chúng ta cần sơ lược những điều kiện<br />
thành chiếc lược tặng cho con gái, đồng tiên quyết như sau: điều kiện đặc hữu về tự<br />
thời coi con gái là nguồn động lực để sống nhiên của quần đảo Nhật Bản cùng với sự<br />
<br />
131<br />
đặc thù về con người và tiến trình lịch sử Mongoloid, có cùng nguồn gốc với các cư<br />
của người Nhật. dân cổ ở đại lục Đông Bắc Á, Nam Trung<br />
Về điều kiện tự nhiên, Nhật Bản là Hoa và Đông Nam Á. Tuy nhiên, trong<br />
một quần đảo ở về phía Tây Thái Bình những giai đoạn khác nhau, Nhật Bản còn<br />
Dương, phía đông lục địa Á - Âu, bao gồm là nơi hội tụ của nhiều nhóm di dân khác<br />
bốn đảo lớn là Hokkaido, Honshu, Shikoku nhau: ngoài nhóm Mongoloid đến từ phía<br />
và Kyushu và khoảng 3900 đảo nhỏ. Nhìn Tây Nam qua con đường Trung Hoa và<br />
từ bản đồ thế giới, Nhật Bản là một quốc Korea, còn có nhóm người Đa Đảo đến từ<br />
đảo bị cô lập hoàn toàn với mảng lục địa phía Nam và nhóm người Kavkaz đến từ<br />
châu Á bởi biển cả. Đặc điểm quan trọng phía Tây. Trong quá trình phát triển,<br />
về điều kiện tự nhiên của quần đảo Nhật Nhật Bản đã hấp thụ tinh hoa của Trung<br />
Bản chính là sự bất ổn địa chất, núi lửa Quốc (chủ yếu là đời Đường), văn hoá<br />
thường xuyên hoạt động và thường xuyên Đông Nam Á (thời kỳ trước và sau công<br />
động đất, cộng vào đó là những cơn sóng nguyên), văn hoá phương Tây (thời kỳ cận<br />
thần. Nhật Bản cũng là nơi được cấu thành đại đến nay). Có thể nói rằng, “người Nhật<br />
từ rất nhiều dãy núi có độ dốc cao, trong đã để ùa vào mình nắng gió bốn phương”<br />
khi bình nguyên thì rất ít, do vậy, nơi đây [7: 83]. Chính quá trình dung hợp văn hoá<br />
trồng trọt tương đối khó, cây lương thực này đã khiến cho người Nhật Bản trải qua<br />
chỉ có thể được canh tác ở các vùng đồng hai thời kỳ mang hai đặc trưng tính cách<br />
bằng nhỏ hẹp [1]. Chính vì điều kiện tự văn hoá khác nhau: thời kỳ làm thợ (bắt<br />
nhiên không thuận lợi, cuộc sống luôn bị chước những điều hay của các cường quốc)<br />
đe doạ nên người Nhật thường xây dựng và thời kỳ làm thầy (cải tiến cho óng chuốt<br />
những công trình kiến trúc vừa phải, đặc hơn, tinh diệu hơn). Chính thời kỳ làm thầy<br />
biệt là kiến trúc dạng dễ tháo ráp; các vật này đã khiến cho người Nhật Bản có ý thức<br />
dụng hàng ngày và đồ công nghệ cũng nhỏ thu nhỏ và tăng cường nội lực cho những<br />
nhắn xinh xắn (hộp đựng cơm, đồ điện sản phẩm đã học được bằng cách lập khuôn<br />
tử…). Về nghệ thuật, các tác phẩm văn học hoá. Nét tính cách này thể hiện rất rõ qua<br />
thường ở dạng ngắn gọn nhưng những triết các nghệ thuật uống trà, múa kiếm, thưởng<br />
lý được hàm chứa bên trong thì vô cùng đa hoa và đặc biệt là trong nghệ thuật sáng tác<br />
dạng và phức tạp (thơ Haiku, tiểu thuyết thơ Haiku.<br />
cực ngắn). Về đời sống tâm linh, điều kiện Sự tương đồng giữa “kiểu tính cách<br />
sống bất ổn này cũng khiến cho người Nhật văn hoá” và “kiểu văn học” xét qua nghệ<br />
có tâm lý quý trọng cái hiện tồn, đề cao sự thuật thơ Haiku được diễn ra ở những khía<br />
hy sinh, nhìn nhận sâu sắc về cõi vô cạnh như sau:<br />
thường, đặc biệt là nêu cao lối sống hài hoà Thứ nhất, về thể thơ: Khi so sánh giữa<br />
giữa con người và thiên nhiên… Có thể nói thơ Đường của Trung Quốc, thơ Sijo của<br />
rằng, điều kiện tự nhiên trên đây cùng với Hàn Quốc với thơ Haiku của Nhật Bản, thì<br />
điều kiện lịch sử xã hội dưới đây đã hình Haiku chính là thể thơ có hình thức ngắn<br />
thành nên một ý thức đặc trưng của người gọn, cô đọng nhất (thể thơ Đường ngắn<br />
Nhật Bản, đó chính là ý thức thu nhỏ. nhất là dạng tứ tuyệt ngũ ngôn cũng phải<br />
Về mặt nhân chủng, trên cơ bản, đó đến 20 âm tiết; bài thơ Sijo có đến 45 âm<br />
là những người thuộc đại chủng tiết). Cả một bài thơ chỉ vỏn vẹn có 17 âm<br />
<br />
132<br />
tiết, phân thành 3 vế (5-7-5), và trên thực của các cô gái làm nghề mại dâm đang say<br />
tế, mỗi bài thơ cũng chính là một câu thơ. ngủ dưới ánh trăng và hoa đinh hương…<br />
Tuy nhiên, sự ngắn gọn này không đồng Ví dụ, trong bài thơ Haiku của Chiyo<br />
nghĩa với sự nông cạn, mà ngược lại, tính sau đây, chúng ta sẽ bắt gặp những hình<br />
triết lý lại được thể hiện một cách bất ngờ ảnh vô cùng tầm thường, nhưng lại mang<br />
và sâu sắc. Những bài thơ Haiku của tính triết lý sâu sắc về cuộc đời: “Hoa triêu<br />
Basho, Chiyo, Issa, Gakoku… luôn chứa nhan/ Dây gàu vương hoa bên giếng/ Đành<br />
đựng những triết lý về vũ trụ, về con xin nước nhà bên” (Nhật Chiêu dịch).<br />
người, về ý nghĩa của cuộc sống: “Ao cũ/ Chính điều kiện sống không thuận lợi, cuộc<br />
Con ếch nhảy vào/ Vang tiếng nước xao” sống luôn có nguy cơ gặp nhiều bất trắc<br />
(Basho). Nét đặc sắc này không có gì khó nên người Nhật rất trân trọng cuộc sống<br />
hiểu nếu đặt nó trong sự so sánh với những hiện tồn, nói rộng ra là trân trọng tất thảy<br />
sản phẩm mà người Nhật học (tức làm thợ) mọi mầm sống (theo thuyết Khai sáng của<br />
từ những người khác (chiếc quạt hợp hoan người Nhật được ghi chép trong Kojiki,<br />
và dù tán rộng của Trung Quốc; súng kíp mầm sống đầu tiên của vũ trụ được hiện<br />
của Đức; cassette, tivi, máy chụp hình, điện thân ở dạng mầm lau sậy [3: 4]). Tính cách<br />
thoại cũng như xe hơi, xe gắn máy… của văn hoá này in đậm trong tâm thức của dân<br />
các nước Âu Mỹ) để thu nhỏ, tăng cường tộc Nhật đến mức, họ không dám dùng đến<br />
chức năng thành những sản phẩm tương tự những từ ngữ bất kính để nguyền rủa đối<br />
nhưng lại tiện dụng hơn, sau đó lại phát tán phương (họ tin vào sức mạnh của kotodama<br />
ngược trở lại nguồn phát (quạt xếp, dù xếp; - ngôn linh). Do vậy, không có gì là khó<br />
súng thần công; các đồ điện tử chế tạo hiểu khi tác giả lại không nỡ múc nước ở<br />
bằng kỹ thuật mạch điện tích hợp IC…). giếng nhà mình mà đành phải sang nhà bên<br />
Thứ hai, về nội dung: Một bài thơ để xin nước: vào tối qua, hoa triêu nhan đã<br />
Haiku chỉ vỏn vẹn có 17 âm tiết, nhưng mọc quanh chiếc dây gàu bên giếng nước,<br />
triết lý bên trong lại là một thế giới vô cùng và ở ngay trong bản thân của bông hoa tối<br />
huyền ảo và rộng lớn. Trong đó, do chịu sự nở sớm tàn ấy, sự sống đang hiện tồn. Con<br />
ảnh hưởng của môi trường sống mà triết lý người yêu quý sinh mệnh của mình, thì hoa<br />
về sinh và tử, triết lý giữa thực và hư, triết cũng biết yêu quý sinh mệnh của hoa, đó là<br />
lý vạn vật ngang hàng nhau (xuất phát từ chân lý hiển nhiên vậy.<br />
thuyết Tề vật luận của Trang tử), triết lý về 4. Kết luận<br />
sát na (khoảnh khắc), triết lý về tịch và Tóm lại, một tác phẩm văn học luôn<br />
giác ngộ (trong Thiền tông)… luôn là cảm chứa đựng một hệ thống những mật mã văn<br />
hứng chủ đạo. Nếu không hiểu về những hoá. Do vậy, việc phân tích một tác phẩm<br />
nét tính cách văn hoá đậm chất Nhật Bản văn học thuần tuý dựa vào văn bản là một<br />
này, chúng ta sẽ rất khó cảm nhận được ý việc chưa đủ. Xung quanh văn bản ấy còn<br />
tứ mà các tác giả gửi gắm trong thơ qua là bản thân của tác giả, bối cảnh tự nhiên<br />
hình ảnh của cánh hoa anh đào rơi, của chú và lịch sử xã hội và đặc biệt là đặc trưng<br />
chuột đang uống nước, của con sâu đang tính cách văn hoá.<br />
bình yên ăn mòn hạt dẻ trong đêm trăng Có thể nói rằng, định hướng phân tích<br />
huyền, của một con quạ đang đậu trên giá trị của tác phẩm văn học theo hướng<br />
nhành cây khô, hay thậm chí là hình ảnh tiếp cận liên ngành, đặt nó trong mối tương<br />
<br />
133<br />
2<br />
liên với đặc trưng của tính cách văn hoá Small is beautiful [2: 224].<br />
3<br />
cộng đồng trên cơ bản là hoàn toàn phù Lâu dần, kiểu vô thức tập thể này đã hoàn toàn<br />
hoà quyện vào trong các hình thức nghệ thuật<br />
hợp với định hướng đổi mới phương pháp của cư dân nơi đây, từ hình thức lý, hò, ru trong<br />
dạy và học văn trong thời gian hiện nay. dân gian cho đến đờn ca tài tử và sân khấu cải<br />
Thực hiện được hướng tiếp cận này, giá trị lương, cũng như dòng nhạc vàng – dòng nhạc<br />
trong tác phẩm văn học được truyền thụ đặc trưng ở miền Nam, khiến cho những hình<br />
cho người học sẽ không còn ở dạng những thức nghệ thuật thanh sắc này đa phần đều mang<br />
hơi oán.<br />
bài học chính trị, những triết lý chung<br />
chung, mà chúng sẽ trở thành những bài TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
học làm người sâu sắc trong cuộc sống khi<br />
mà những mật mã văn hoá được bóc tách 1. Eiichi Aoki (2006), Nhật Bản đất nước &<br />
ra dần từ những văn bản văn học. con người (Nguyễn Kiên Trường dịch),<br />
Chú thích Nxb Văn học.<br />
1<br />
Trong quyển Hán Việt tự điển, Thiều Chửu giải 2. 李御宁 (2003), 日本人的缩小意识。山东人民出版社.<br />
thích từ “tính cách” (性格) là “cách thức, hình 3. 叶渭渠(2005), 日本文化史。广西师范大学出版社.<br />
dạng của cái lẽ chân chính trời phú cho con<br />
4. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2011),<br />
người”. Từ này thường được dịch sang thành<br />
“trait” (đặc điểm, nét đặc trưng, ví dụ như the Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm<br />
Vietnamese traits: đặc trưng Việt) trong tiếng 1884, Nxb Tổng hợp, TP.HCM.<br />
Anh. Tuy nhiên, “trait” có nét nghĩa chung 5. Trần Ngọc Thêm (2013a), Văn hoá người<br />
chung về đặc điểm, mà không chỉ cụ thể về cá Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb Văn nghệ.<br />
tính của con người. Do vậy, có lẽ từ này nên<br />
6. Trần Ngọc Thêm (2013b), Những vấn đề<br />
dịch thành “personality” (nhân cách, cá tính) thì<br />
sát hơn. Dù vậy, với truyền thống văn hoá trọng văn hoá lý luận và ứng dụng, Nxb Văn<br />
cá nhân như ở phương Tây, “personality” (vốn nghệ.<br />
chỉ tính cách của nhân vật, của cá nhân cụ thể) 7. Đỗ Lai Thuý (1999), Từ cái nhìn văn hoá,<br />
vẫn không thể trùng khít với khái niệm “tính Nxb Văn hoá dân tộc.<br />
cách” ở người Việt (vốn lấy cá nhân hoà vào<br />
cộng đồng, và thực tế thì tính cách cộng đồng 8. Đỗ Thị Minh Thuý (1997), Mối quan hệ<br />
mạnh hơn tính cách cá nhân và có khả năng uốn giữa văn hoá và văn học, Nxb Văn hóa –<br />
nắn, điều chỉnh tính cách cá nhân). Thông tin, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 04/01/2016 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
134<br />