intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài

Chia sẻ: Vu Xuan Huyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

349
lượt xem
142
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên phương diện nền kinh tế: Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài

  1. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1. Khái niệm, bản chất 1.1. Vốn đầu tư phát triển Trên phương diện nền kinh tế: Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác. 1.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. 1.3. Bản chất nguồn vốn đầu tư phát triển Xét về bản chất , nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy của nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội . 2. Phân loại 2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội. 2.1.1.Nguồn vốn nhà nước Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. a. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó chính là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn. b. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển tư phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả Tiểu luận Kinh tế đầu tư 1
  2. vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo hướng chiến lược của mình. c. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế,các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ một khối lượng vốn khá lớn.Mặc dù vẫn còn một số hạn chế,nhưng khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần,hiệu quả của khu vực này ngày càng được khẳng định, tích lũy của khu vực này ngày càng tăng. Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước,thong thường chiếm 14- 15% tổng vốn đầu tư xã hội. 2.1.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề,phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.... Các loại hình doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, phần tích lũy của các doanh nghiệp này sẽ góp phần đáng kể vào tổng quy mô nguồn vốn của toàn xã hội, nó được coi như những tế bào có khả năng tái tạo các nguồn tài chính. 2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Theo tính chất của dòng luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau: - Nguồn viện trợ phát triển chính thức( ODA) Tiểu luận Kinh tế đầu tư 2
  3. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). - Nguồn tín dụng từ các ngân hang thương mại quốc tế. 2.2.1. Nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các nguồn tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ,các tổ chức liên hợp quốc...Vốn ODA được các chính phủ tài trợ là để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển như xây dựng cơ sở hạ tầng,đầu tư nghiên cứu... các yếu tố không hoàn lại của vốn vay ODA ít nhất 25%, thời gian cho vay dài, khối lượng cho vay lớn, thời gian ân hạn dài. Bên cạnh đó, ODA còn mang tính chất ràng buộc với nước tiếp nhận vốn và là nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước phải quản lý nguồn vốn vay để sử dụng có hiệu quả. 2.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với nước nghèo mà cả đối với các nước công nghệ phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có đặc điểm khác với các nguồn vốn khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem theo toàn bộ tì nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế, nguồn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư. 2.2.3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế Điều kiện ưu đãi dành cho loại nguồn vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại có ưu điểm rõ rang là không gắn với các rang buộc chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này là tương đối khắt khe, thời gian trả nnghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với những nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hang, nguồn vốn tín dụng của các ngân hang thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất Tiểu luận Kinh tế đầu tư 3
  4. nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận nguồn vốn này có thể dùng để đầu tư phát triển. 2.2.4. Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu , mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập trung cho phát triển kinh tế. 3. Vai trò với tăng trưởng và phát triển kinh tế Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia. Điều này càng được khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển của mọi đất nước. 3.1. Vai trò của vốn trong nước Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước. * Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mội thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội . Với vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định điều tiết vĩ mô, vốn tư NSNN đã được nhận thức và vận dụng khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi quốc gia. Trong thực tế điều hành chính sách tài khoá, Nhà nước có thể quyết định tăng, giảm thuế, quy mô thu chi ngân sách nhắm tác động vào nền kinh tế. Tất cả những điều đó thể hiện vai trò quan trọng của NSNN với tư cách là công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất hữu hiệu nhất, là công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái … * Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh tế có sự chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu Tiểu luận Kinh tế đầu tư 4
  5. trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ trợ cho sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. * Vốn đầu tư của nhân dân Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn này mà đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp, nó cũng giải quyết được một phần lớn công ăn việc làm cho lao dộng nhàn rỗi trong khu vực nông thôn từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và lâu bền. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng. 3.2. Vai trò của vốn nước ngoài. Nếu như vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai trò chủ yếu thì vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong những bước đi ban đầu tạo ra “cú hích” cho sự phát triển. 3.2.1 Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) Đây là nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy không quan trọng như nguồn FDI song cũng đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề .Chủ yếu là cùng với FDI bổ sung cho vốn đầu tư phát triển. Ngoài ra ODA còn có vai trò quan trọng trong việc giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học,công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Và cuối cùng ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát triển. 3.2.2 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số các nguồn huy động từ nước ngoài. Không chỉ có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội, mà biểu hiện cụ thể thông qua ba tiêu chí: - Kích thích công ty khác tham gia đầu tư - Góp phần thu hút viện trợ phát triển chính thức - Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước. Tiểu luận Kinh tế đầu tư 5
  6. Ngoài ra FDI còn góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. FDI còn có vai trò tích cực trong việc góp phần giải quyết việc làm và quan trọng hơn cả là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động có việc làm và chuyên môn cao ở trong nước ngày càng tăng, và điều cơ bản mà FDI đã làm được đó là không chỉ nâng cao tay nghề mà còn thay đổi tư duy và phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại, là lực lượng tiếp thu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ . Từ đó mà hiệu quả làm việc và năng suất lao động cũng tăng nên thể hiện qua thị trường quốc tế đẫ chấp nhận sản phẩm của các nước kém phát triển này. Chính vì vậy mà FDI còn có vai trò mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Cuối cùng, vai trò của FDI thể hiện qua việc lành mạnh hoá các thể chế kinh tế - tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Để có thể thu hút FDI, chúng ta phải đứng trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Có như thế chúng ta mới lọt vào tầm ngắm của các nhà đầu tư nước ngoài. Tiểu luận Kinh tế đầu tư 6
  7. CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Trong sự nghiệp phát triển của đất nước, Việt Nam không thể chỉ dựa vào nội lực, bởi trong thời điểm hiện tại, nội lực của chúng ta còn yếu, không đủ để tạo sức bật đưa nước ta nhanh ra khỏi tình trạng nghèo và lạc hậu. Ngoại lực – nguồn vốn đầu tư nước ngoài – là chất xúc tác quan trọng, giúp tạo lực đẩy cho nền kinh tế và giúp nội lực phát huy hiệu quả. Giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài tồn tại một mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ. Chúng tác động qua lại lẫn nhau, kích thích lẫn nhau tạo ra sức mạnh to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm hiểu kỹ về mối quan hệ này, từ đó tạo điều kiện cho nó phát huy mau chóng tác dụng và hạn chế những khiếm khuyết nếu có. 1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong cơ cấu nguồn vốn của các quốc gia đang phát triển 1.1 Đặc trưng các nước đang phát triển (1) Mức sống thấp: Ở các nước đang phát triển, mức sống nói chung đều rất thấp đối với đại đa số dân chúng. Cơ hội được học hành ở các nước đang phát triển cũng hạn chế. (2) Tỷ lệ tích luỹ thấp: Đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, đã gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng cho tích lũy là rất khó khăn. Ở những nước phát triển thường để dành từ 20% đến hơn 30% thu nhập để tích luỹ. Trong khi đó, ở các nước nông nghiệpc chỉ có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập; nhưng phần lớn số tiết kiệm này lại dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy, càng hạn chế quy mô tiết kiệm cho tích luỹ phát triển kinh tế. 3) Trình độ kĩ thuật của sản xuất thấp: Hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Các nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trải qua các giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển tuy đã có ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kĩ thuật thấp, sản xuất sản phẩm thường ở dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất lượng thấp. (4). Năng suất lao động thấp: Các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa trong quá trình phát triển đó là áp lực về dân Tiểu luận Kinh tế đầu tư 7
  8. số và việc làm. Dân số ở các nước đang phát triển vốn dĩ đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này đã tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến làm giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối giữa tích luỹ và đầu tư đã làm kìm hãm sản xuất, trong khi dân số vẫn tiếp tục gia tăng, tạo áp lực về việc làm, làm cho năng suất lao động không tăng lên. 1.2 Thời đại ngày nay không có một dân tộc nào, không một nền kinh tế nào có thể phát triển trong sự tồn tại riêng lẻ. Sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều,tuỳ thuộc lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi đã trở thành xu thế tất yếu đối với mọi nước, mọi nền kinh tế. Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ yếu tố khách quan. Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đồng đều tài nguyên thiên nhiên, không có 1 quốc gia nào có khả năng tự đảm bảo các sản phẩm cơ bản nói trên. Lịch sử thế giới đã chứng minh không có 1 quốc gia nào có thể phát triển nếu không có quan hệ đối ngoại với bất kì nước nào. Chính những quan hệ ấy đã tạo ra nhiều hình thức hợp tác trong phát triển, trong đó, đầu tư quốc tế là một trong những mảng chính của quan hệ kinh tế quốc tế. 1.3 Tăng cường thu hút vốn và công nghệ nước ngoài tạo cơ hội "cất cánh" cho nền kinh tế dựa trên việc tận dụng những nguồn lực trong nước chưa có. 2. Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có tác động qua lại với nhau 2.1. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định Chúng ta phải xem xét vị trí của nguồn vốn trong nước trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trước tiên, cần phải khẳng định mọi nền kinh tế muốn phát triển bền vững và lâu dài thì phải dựa vào nội lực khả năng sẵn có của nền kinh tế bởi các nguồn vốn từ bên ngoài mặc dù có vai trò quan trọng là “cú kích” để đẩy nền kinh tế đi lên nhưng không phải là nhân tố quyết định nếu nền kinh tế đó không có nội lực sẵn có của mình thì mọi sự tác động sẽ trở thành vô nghĩa. 2.1.1 Vốn trong nước giữ vai trò quyết định phát triển kinh tế, và trong cơ cấu nguồn vốn luôn chiếm tỷ lệ lớn Vốn trong nước được coi là nhân tố nội lực của mỗi quốc gia vì nó mang tính ổn định và bền vững. Nội lực có tốt thì mới phát huy được hết vai trò của ngoại lực (vốn nước ngoài). Vốn trong nước mang tính Tiểu luận Kinh tế đầu tư 8
  9. ổn định và bền vững vì lẽ nó do yếu tố trong nước quyết định chứ không chịu ảnh hưởng của nhân tố bên ngoài (như tình hình kinh tế-xã hội, an ninh của nước ngoài, mối quan hệ giữa hai Nhà nước...). Ở một số nước, khu vực kinh tế Nhà nước được coi là khu vực quan trọng nhất, giữ vai trò chủ đạo và nó thường chi phối trong những ngành, lĩnh vực quan trọng. Những ngành cần Nhà nước đứng ra đảm nhiệm như lĩnh vực cần thiết nhưng khả năng thu hồi vốn lâu, lợi nhuận lại thấp (xây dựng cơ sở hạ tầng) nên không nhiều nhà đầu tư nào có mong muốn đầu tư vào, những lĩnh vực mà Nhà nước phải đứng ra độc quyền (phân phối điện, nước), những lĩnh vực mới còn tiểm ẩn những rủi ro cao, hay lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ..... Nhà nước cũng đầu tư vào hoạt động kinh tế như một doanh nghiêp thông thường, lợi nhuận của doanh nghiệp Nhà nước lại trở thành nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Vai trò quan trọng của Ngân sách Nhà nước là công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất, hữu hiệu nhất, là công ục bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Các doanh nghiệp nhà nước luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng khoa học-công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Như vậy, đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đi đến sự phồn vinh một cách chắc chắn, lâu bền, là nguồn vốn cơ bản có vai trò quyết định, chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước. Trong lịch sử phát triển của các nước trên phương diện lý luận chung, bất kì nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện, bổ sung bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng đề ra của quốc gia. Để phát triển kinh tế có nhiều con đuờng khác nhau. Nhiều nước đã chọn con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã cho thấy các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay, bởi họ không thấy được cũng như không phát huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế ( > 50%) trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 2.1.2. Sự lớn mạnh về quy mô và ổn định nguồn lực vốn trong nước có thể giúp nền kinh tế chống đỡ lại những cú sốc từ bên ngoài. Tiểu luận Kinh tế đầu tư 9
  10. Một nguyên nhân quan trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 đó là sự lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc gia. Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát triển đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế, nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế. Nếu tỉ trọng vốn đầu tư trong nước quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn đến giảm khả năng thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước và sản xuất trong nước không phát triển. Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỉ trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế. Như vậy chúng ta có thể chủ động ứng phó kịp thời với các biến động của nền kinh tế, cũng như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp VN cạnh tranh trên thị trường, nhất là trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO. 2.1.3. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải có một tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn đầu tư nước ngoài thì trong nước cũng cần chuẩn bị sẵn một số cơ sở nhất định tạo điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay yêu cầu nước đi vay phải có vốn đối ứng để chủ động cho việc lập dự án. Nước đi vay phải bỏ trước có thể để chi trả cho đội ngũ thực hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt động của phía Việt Nam. Sẽ có hai nhóm nhận tiền, một nhóm là do dự án trả, một nhóm khác do Nhà nước trả ( lấy từ nguồn vốn đối ứng). Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/1.5 nghĩa là 1 đòng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này thường tăng lên 2.1.4. Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải Tiểu luận Kinh tế đầu tư 10
  11. qua những giai đoạn khác nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp.Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí..Việc đầu tư vốn trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông...vào ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Vốn Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 2.1.5. Trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo cơ sở hạ tầng căn bản chủ động cho việc tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài Bất cứ một nhà đầu tư nước ngoài nào khi quyết định đầu tư ra nước ngoài đều quan tâm đến khả năng sinh lợi của số vốn mình bỏ ra. Môi trường đầu tư bao gồm cả hệ thống cơ sở hạ tầng và hệ thống luật pháp. Nhà đầu tư sẽ thường kựa chọn nơi có môi trường kinh doanh tốt hơn vì nhờ đó họ có thể giảm bớt tổn thất cho kinh doanh. Vì vậy, một hệ thống cơ sở hạ tầng không tốt luôn là một trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi vốn nước ngoài còn đang e ngại vào thị trường trong nước thì vốn trong nước (hầu hết là vốn từ ngân sách Nhà nước) phải đứng ra đầu tư vào lĩnh vực này, để tạo cơ hội trước nhất là cho sự phát triển kinh tế địa phương, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt cho nhà đầu tư trong nước, sau là để tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Mặt khác nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng ta phải Tiểu luận Kinh tế đầu tư 11
  12. xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có chuyên môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vồn nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước. Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được. => Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng Muốn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng thì cần một tỷ lệ đầu tư toàn xã hội rất cao. Nguồn vốn trong nước chỉ đáp ứng được một phần nên vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng. Đặc biệt ở các nước đang phát triển và kém phát triển thì một trong những đặc trưng và nguyên nhân của nghèo đói là thiếu vốn. Vậy ở những nước này thì nguồn vốn nước ngoài càng giữ vị trí quan trọng, là động lực giúp cho các nước này bắt đầu quá trình “cất cánh”. Không những chỉ là nguồn bổ sung đơn thuần, các nguồn vốn nước ngoài còn có các tác động ảnh hưởng ngược trở lại đến nguồn vốn trong nước. 2.2.1. Nguồn vốn nước ngoài có tác động tích cực tới nguồn vốn trong nước a. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi mà nguồn vốn trong nước còn rất hạn chế. Những nghiên cứu về các nước đang phát triển cho thấy rằng, nhóm nước này có mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ cũng là rất hạn chế. Nhưng ở giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm hoản chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư và tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này do nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu có đa phần là hàng nông sản sơ chế và các nguyên liệu thô...có giá trị gia tăng thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ...có giá trị gia tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn Tiểu luận Kinh tế đầu tư 12
  13. nằm trong tình trạng thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài để tài trợ cho những thiếu hụt đó. Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước cho các nước này. b. Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Để tạo ra sự "cất cánh cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức thu nhập ngày càng ra tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kỹ thuật tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm bảo một cách khó khăn cho sự sinh tồn của mình, không thể hoàn toàn trông đợi vào con đường "thắt lưng buộc bụng" tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển nhanh thì nước đó luôn rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Mặt khác, kỹ thuật trong nước lại quá lạc hậu, thậm chí đi sau vài chục năm so với các nước phát triển, việc nhập khẩu công nghệ bên ngoài là một tất yếu. Trong mỗi công nghệ, bên nhận Nhưng chuyển giao công nghệ lại cần một nguồn ngoại tệ lớn trong khi cán cân thương mại của chúng ta lại liên tục thâm hụt do phải nhập khẩu hàng hoá cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ... có giá trị gia tăng cao trong khi cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản sơ chế, nguyên liệu thô... có giá trị gia tăng thấp. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài lúc này chính là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ bên ngoài. Trong quá trình chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức kỹ thuật mà không phải chi phí tốn kém và mất thời gian cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên nhận công nghệ là tạo ra được sự tiến bộ kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công nghệ. Sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của bên nhận trong lĩnh vực cụ thể của khoa học ứng dụng và do đó làm tăng khả năng sản xuất của các sản phẩm công nghiệp của bên nhận hoặc áp dụng các quy trình công nghệ để sản xuất một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho bên nhận. Khi công nghệ đựơc chuyển giao, năng suất lao động sẽ tăng do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hàng hoá bên nhận sẽ có chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu Tiểu luận Kinh tế đầu tư 13
  14. c. Làm gia tăng nguồn vốn trong nước thông qua. Tạo công ăn việc làm cho nguồn lao động dư thừa, giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập cho công nhân, từ đó tăng tiêu dùng, tăng tích luỹ, tăng nguồn vốn trong nước Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp nhận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc làm cho người lao động hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp này và khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội.. Ngoài ra điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức khoẻ, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương.Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Thu nhập cao hơn, người lao động sẽ tiêu dùng nhiều hơn, làm gia tăng cầu của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Điều đó cũng thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng cộng vơi sự vơi bớt đi nỗi lo về đầu ra cho sản phẩm. Từ đó doanh nghiệp trong nước sẽ tích cực sản xuất, nghiên cứu để cải tiến công nghệ nhằm gia tăng năng suất lao động và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Từ do doanh thu từ bán hàng và cung ứng dịch vụ của các công ty sẽ tăng, lợi nhuận tăng, làm gia tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi thu nhập của người lao động tăng, họ cũng tăng tích luỹ, tạo thành nguồn vốn lớn trong nước Tạo thu cho ngân sách nhà nước, góp phần tăng tích lũy nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn nước ngoài khi vào lãnh thổ Việt Nam, sẽ hoạt động theo luật pháp của Việt Nam, và cũng như doanh nghiệp trong nước phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Một thực tế mà chúng ta đều thấy, doanh nghiệp nước ngoài thường hoạt động có hiệu quả hơn so với doanh nghiệp trong nước vì vậy, số thuế thu được từ những doanh nghiệp này sẽ nhiều hơn, bao gồm nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển nhượng, thu nhập từ mua bán tài sản.... Đó cũng là nguồn bù đắp lớn cho Ngân sách Nhà nước, mà đây cũng chính là nguồn cung ứng vốn lớn ở trong nước Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước hình thành những hình thức hợp tác như công ty liên doanh, công ty cổ phần.... Việc liên doanh liên kết này sẽ giảm bớt gánh nặng về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ do được san sẻ giữa các bên. Bên cạnh đó tạo Tiểu luận Kinh tế đầu tư 14
  15. điều kiện tốt cho phía trong nước có cơ hội học hỏi kỹ năng quản lý chuyên nghiệp từ bên ngoài, tác phong làm việc công nghiệp, nâng cao tay nghề cho công nhân. Cộng vào đó sản phẩm đầu ra sẽ có thương hiệu tốt hơn, từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn, lợi nhuận cao hơn so với việc không liên doanh liên kết và như thế, nó đã góp phần gia tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước. d. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Một nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ cấu kinh tế hợp lí. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước thì cần rất nhiều các yếu tố nguồn lực.Trong đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định.Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể đáp ứng được, có thêm nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu tư: chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ; thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang sản xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng lao động ít; Thay đổi cơ cấu bên trong của một lĩnh vực sản xuất từ lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Khi cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng ngày càng tiến gần hơn so với thế giới thì sẽ tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển do đã có đựơc những điều kiện sản xuất phát triển ở một mức độ hợp lý. Từ đó cũng góp phần gia tăng tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế e. Vốn nước ngoài thúc đây quá trình sử dụng vốn ở nội địa linh hoạt và hiệu quả hơn. Thông qua kênh cạnh tranh: Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ biến • thị trường trong nước trở thành một nơi có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Thông thường khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại, họ thường chọn những nơi có cơ sở hạ tầng tốt, sử dụng tối đa công suất của chúng, kích thích nguồn vốn trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp trong nước trước sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài sẻ phải tự đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Tiểu luận Kinh tế đầu tư 15
  16. Thông qua kênh sao chép và học hỏi: Các doanh nghiệp nước • ngoài khi sang sẽ mang theo các công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiên tiến. Thông qua các quá trình tương tác trong hoạt động, các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi và sao chép những kinh nghiệm của nước ngoài để tự mình hoạt động có hiệu quả hơn. Đó có thể là các kinh nghiệm về quản lý, tổ chức sản xuất hay cải thiện trình độ công nghệ. Khi công nghệ của nước ngoài đã cũ, họ có thể chuyển giao sang cho nước sở tại, cũng làm tăng tiềm lực công nghệ của nước sở tại. Thông qua kênh liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp nước • ngoài có thể thiết lập nên các liên doanh với doanh nghiệp trong nước, cải thiện khả sử dụng vốn của các đối tác trong nước. Các doanh nghiệp trong nước muốn làm ăn với nước ngoài thì cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn về độ tin cậy, chất lượng và tốc độ giao hàng. Ngoài ra thì sự năng động của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kéo theo các ngành sản xuất trong nước và vận tải nội địa hoạt động mạnh hơn nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường thế giới, giúp nước nhận mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu nối trung gian giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thịt trường bên ngoài. Thông qua kênh di chuyển lao động (nhân lực): Các nhà đầu tư • tiến hành tuyển dụng lao động ở nước sở tại và đào tạo họ để đáp ứng các yêu cầu công việc. Họ đào tạo từ công nhân cho tới cán bộ quản lý. Khi có sự luân chuyển lao động thì những kỹ năng lao động hữu ích này sẽ lan ra toàn bộ nền kinh tế và làm tăng năng lực của người lao động ở nước sở tại. => Tất cả các kênh trên sẽ tác động đồng thời làm tăng năng suất lao động của nước sở tại. Các nguồn vốn sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. f. Vốn nước ngoài cũng làm hoàn thiện thị trường tài chính trong nư ớc và tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả của thị trường tài chính. Trong đó tác động mạnh mẽ nhất là lên TTCK. Vốn đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước giúp giảm chi phí vốn ở nước sở tại và đa dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài còn tạo áp lực cải thiện thể chế và chính sách trong nước. Các nhà đầu tư đi kèm là các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm sẽ cải thiện chất lượng thông tin và nhờ đó tăng tính hiệu quả của TTCK. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và Tiểu luận Kinh tế đầu tư 16
  17. giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, dịch vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài cũng giúp thị trường vốn nước sở tại từng bước hội nhập với thị trường vốn toàn cầu. Những tác động tiêu cực nếu như việc sử dụng 2.2.2. và quản lý nguồn vốn nước ngoài không tốt Đúng như trên chúng ta đã phân tích, những tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài mang lại cho chúng ta là rất lớn, song không phải lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng mang lại hiệu quả như mong muốn mà nó cũng luôn tiềm ẩn những nguy cơ cho nước tiếp nhận và tác động tới nguồn vốn trong nước đặc biệt là về khả năng trong tương lai của nguồn vốn này a. Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung đều không quên đựơc lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài, các nhà viện trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo phát triển. Viện trợ các nước không chỉ đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi những nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phất triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là do xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với Tiểu luận Kinh tế đầu tư 17
  18. ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa phải trả nợ ngay nên ODA hay được sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Khi đến kì trả nợ thì người phải trả lại là thế hệ sau, vì vậy, nó còn kìm hãm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA cần phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. b. Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn vốn trong nước. Về thực chất đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong nước cho vốn nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng "bài ngoại" của vốn trong nước và hiện tượng xung đột ngấm ngầm, hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài c. Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên, dẫn đến làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước. Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và sự phân bố không đòng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển thường có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở những nước tiếp nhận. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại nước sở tại. Có một hình thức khai thác khác là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn hoặc ở dạng tiềm năng của chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có hạn, nếu cứ khai thác như vậy thì không biết trong bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên, nhiêu liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu hoặc tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ làm giảm khả năng phát triển về lâu dài của nguồn vốn trong nước d. Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh tranh không cân sức giữa doanh nghiệp trong nước với và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất nghiệp. Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy, đó là doanh nghiệp nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp trong nước đó là bởi các lý do sau • Thứ nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát triển thường rất hạn chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Cộng thêm vào đó là đa số các chủ doanh nghiệp Tiểu luận Kinh tế đầu tư 18
  19. và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp... và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp... • Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện đại chiếm tuỷ lệ thấp. Bên cạnh đó đầu tư để dổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 0.2 dên 0.5 % doanh thu • Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp • Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. e. Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và những trợ cấp. Thông thường do được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số những người có trình độ tay nghề thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này đã làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, góp phần làm giảm khả năng phát triển của khu vực này.  Giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước tồn tại mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mỗi nguồn đều có những tác động tích cựu và những điểm hạn chế tới việc huy động, hiệu quả sử dụng và mức đóng góp cho sự phát triển chung của nguồn vốn còn lại. Biểu hiện đó có thể là những tác động trực tiếp, và những tác động gián tiếp là chủ yếu qua một số kênh trong nền kinh tế như: Kênh lao động, kênh chuyển giao công nghê, kênh cạnh tranh và ổn định môi trường vĩ mô chung cho sự vận động của cả hai nguồn vốn. Một điều luôn cần phải xem xét là những tác động tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định nền kinh tế của các dòng vốn từ ngoài nước (đầu tư gián tiếp nước ngoài, viện trợ chính phủ…).Những bất ổn này có thể là nguyên nhân của nhiều cuộc khủng hoảng và có thể đánh đổ những thành quả mà nguồn vốn trong nước đã xây dựng trên con đường phát triển. Tiểu luận Kinh tế đầu tư 19
  20. Tóm lại, nhìn nhận mối quan hệ hữu cơ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong sự đóng góp của chúng trong phát triển kinh tế là cần thiết.Quan trọng là chúng ta phải có được chiến lược kết hợp ,phân bổ, sử dụng hai nguồn vốn này thế nào cho hợp lý nhât để đạt được hiệu quả toàn diện. Muốn làm được điều này,chúng ta cần nghiên cứu những diễn biến của từng nguồn vốn và mối quan hệ giữa chúng trên thực tê như thế nào? Tiểu luận Kinh tế đầu tư 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2