intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

105
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày thực trạng phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An và đề xuất các biện pháp nâng cao năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên của Trường nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 76-80<br /> <br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN<br /> Nguyễn Thị Kim Chung - Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An<br /> Ngày nhận bài: 05/06/2018; ngày sửa chữa: 07/06/2018; ngày duyệt đăng: 10/06/2018.<br /> Abstract: : The paper presents the situation of developing competence of solving problem for<br /> students at Nghe An College of Education. Also, the article proposes measures to improve the<br /> problem solving ability of students with aim to meet the requirements of education reform in<br /> current period.<br /> Keywords: Competence, problem solving ability, education reform.<br /> 1. Mở đầu<br /> <br /> Thực tế hiện nay cho thấy, có nhiều sinh viên (SV),<br /> trong đó có SV Trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP)<br /> Nghệ An không có kĩ năng GQVĐ; khi gặp vướng mắc,<br /> các em không có hứng thú hoặc không chủ động giải<br /> quyết mà ỷ lại cho người khác. Vì vậy, trong học tập, SV<br /> chưa được rèn luyện nhiều và kết quả chưa cao.<br /> Bài viết trình bày thực trạng phát triển năng lực giải<br /> quyết vấn đề trong học tập cho SV Trường CĐSP Nghệ<br /> An và đề xuất các biện pháp nâng cao NLGQVĐ cho SV<br /> của Trường nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình<br /> giáo dục phổ thông hiện nay.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Thực trạng phát triển năng lực giải quyết vấn đề<br /> trong học tập cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm<br /> Nghệ An hiện nay<br /> Để tìm hiểu vấn đề này, tháng 12/2017, chúng tôi đã<br /> tiến hành khảo sát 230 SV (năm thứ nhất, thứ hai và thứ<br /> ba) và 116 giảng viên (GV) Trường CĐSP Nghệ An.<br /> <br /> Trong xu thế hội nhập và phát triển, hiện nay, nâng<br /> cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua GD-ĐT là<br /> giải pháp bền vững để phát triển đất nước. Trước bối<br /> cảnh đó, Quốc hội đã ban hành Quyết định số<br /> 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình giáo dục phổ<br /> thông góp phần đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT. Nét<br /> mới của chương trình giáo dục phổ thông là không chỉ<br /> dừng lại ở hình thành tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà hướng<br /> tới phát triển phẩm chất và năng lực (NL) cần thiết cho<br /> học sinh. Theo đó, những phẩm chất cần hình thành và<br /> phát triển cho học sinh là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ,<br /> trung thực, trách nhiệm. Những NL mà chương trình<br /> giáo dục hướng tới hình thành và phát triển cho học sinh<br /> là: NL chung (gồm: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp<br /> tác, giải quyết vấn đề (GQVĐ) và sáng tạo; NL chuyên<br /> môn (gồm: ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã<br /> hội, công nghệ, tin học, thẩm mĩ và thể chất).<br /> <br /> Có 81,2% SV thấy cần thiết phải nâng cao NLGQVĐ<br /> song SV chưa có nhận thức đầy đủ cũng như là chưa có<br /> thái độ tích cực để rèn luyện, nên các em chưa tích cực<br /> GQVĐ trong học tập. Nhiều SV chưa có kiến thức đầy đủ<br /> về NL này (96,5%). Khi được hỏi “ Em có thích các giờ<br /> học ở trên lớp không?”, có đến 52,6 % SV chọn “bình<br /> thường”, 11,3% chọn “thích” và 37,1% “không thích”.<br /> Khi GV đặt câu hỏi, có đến 78,4% SV chờ câu trả lời. Khi<br /> làm việc nhóm, chỉ có 21,1% SV tích cực làm việc, còn lại<br /> chờ kết quả từ bạn, thậm chí còn làm việc riêng. Gặp bài<br /> tập có vấn đề, nhiều SV chưa có động cơ, hứng thú để tìm<br /> hiểu và GQVĐ đặt ra (76,4%). Mặt khác, còn nhiều SV<br /> không thường xuyên liên hệ kiến thức đã học với thực tiễn<br /> cuộc sống (54,3% SV chọn “thỉnh thoảng”; 21,6% SV<br /> “không liên hệ”). Kết quả biểu hiện NLGQVĐ trong học<br /> tập của SV chưa cao (chỉ có 17,3% tốt, 50% khá và có tới<br /> 34,7% chưa tốt) được thể hiện ở bảng 1:<br /> <br /> Để thực hiện được việc đổi mới chương trình, nhiệm<br /> vụ quan trọng của ngành giáo dục là đào tạo, bồi dưỡng<br /> đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và NL gánh vác trọng<br /> trách này. Nhân cách của giáo viên chính là công cụ hữu<br /> ích để giáo dục nhân cách cho học sinh. Vì vậy, giáo viên<br /> trong tương lai phải có và hiểu biết rõ về những phẩm<br /> chất, NL mình cần phát triển ở học sinh. Theo định<br /> hướng đổi mới, một trong những NL chủ chốt mà giáo<br /> viên cần hình thành và phát triển cho học sinh là năng lực<br /> giải quyết vấn đề (NLGQVĐ), bởi trong quá trình học<br /> tập cũng như trong cuộc sống có nhiều tình huống thực<br /> tiễn đòi hỏi các em phải có phương án GQVĐ một cách<br /> hiệu quả nhất. Hơn nữa, trong bối cảnh nền kinh tế tri<br /> thức và hội nhập quốc tế hiện nay, người lao động không<br /> đơn thuần chỉ có kiến thức mà phải có các kĩ năng thực<br /> tiễn, linh hoạt và sáng tạo.<br /> <br /> 76<br /> <br /> Email: nguyenkimchung1980@gmail.com<br /> <br /> VJE<br /> <br /> TT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 76-80<br /> <br /> Bảng 1. NLGQVĐ trong học tập của SV Trường CĐSP Nghệ An<br /> Mức độ (%)<br /> Nội dung<br /> Tốt<br /> Khá<br /> (thường xuyên) (thỉnh thoảng)<br /> Biết phát hiện vấn đề và nêu vấn đề trong học tập<br /> 20,9<br /> 46,2<br /> Biết đề xuất các ý tưởng của giả thuyết<br /> 15,7<br /> 42,8<br /> Biết xác định các kiến thức cần cho việc GQVĐ<br /> 16,3<br /> 48,5<br /> Biết tìm hiểu kiến thức mới có liên quan<br /> 14,5<br /> 48,3<br /> Biết lựa chọn giải pháp tốt<br /> 17,6<br /> 45,5<br /> Biết kiểm nghiệm giải pháp<br /> 16,2<br /> 42,1<br /> Biết trình bày kết quả<br /> 19,8<br /> 62,4<br /> Trung bình<br /> 17,3<br /> 50<br /> <br /> Chưa tốt<br /> (không làm được)<br /> 32,9<br /> 41,5<br /> 35,2<br /> 37,2<br /> 36,9<br /> 41,7<br /> 17,8<br /> 34,7<br /> <br /> nâng cao nhận thức về NLGQVĐ nói riêng. Ban Giám<br /> hiệu Trường CĐSP Nghệ An cần có những chỉ đạo GV<br /> biên soạn nội dung, chương trình đào tạo giáo viên phù<br /> hợp yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay và tạo điều kiện<br /> về thời gian, cơ sở vật chất để GV thực hiện tốt việc nâng<br /> cao nhận thức về NLGQVĐ cho SV.<br /> 2.2.2. Hình thành thái độ tích cực nâng cao năng lực giải<br /> quyết vấn đề cho sinh viên<br /> Để nâng cao được NLGQVĐ trong học tập cho SV<br /> thì các GV Trường CĐSP Nghệ An phải khơi dậy được<br /> ở SV hứng thú, tích cực, chủ động tìm hiểu và phát triển<br /> NL này cho bản thân. Cách thức tạo hứng thú, thái độ<br /> tích cực cho SV trước hết phải hình thành, giáo dục<br /> động cơ, nhu cầu phát triển NLGQVĐ đúng đắn ở họ.<br /> Nhu cầu, động cơ là nơi khơi nguồn của tính tự giác,<br /> tính tích cực, chủ động và thúc đẩy SV có thái độ tích<br /> cực rèn luyện NLGQVĐ trong học tập. Động cơ nâng<br /> cao NLGQVĐ trong học tập không tự nhiên có mà cần<br /> phải được xây dựng, hình thành trong quá trình SV đi<br /> sâu chiếm lĩnh tri thức với sự hướng dẫn của thầy, cô<br /> giáo. GV phải giúp SV hiểu được vai trò, ý nghĩa của<br /> NL giải quyết đối với học tập, cuộc sống và nghề nghiệp<br /> của bản thân trong tương lai. Khi dạy nội dung lí thuyết<br /> về NLGQVĐ GV cần có những bài giảng nêu vấn đề,<br /> những giờ thảo luận trên lớp, những giờ thực hành, vận<br /> dụng lí thuyết vào thực tiễn 1 cách hấp dẫn để kích thích<br /> hứng thú học tập cho các em. Quá trình kích thích hứng<br /> thú không chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác<br /> mà cần phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học. Do đó,<br /> trong quá trình giảng dạy, người GV cần tạo ra các hoàn<br /> cảnh nhằm kích thích hứng thú học tập của SV, tăng<br /> tính tích cực của trí tuệ. GV cần đề ra những hình thức<br /> khen thưởng đối với những SV có kết quả học tập tốt<br /> và hình thức trách phạt đối với SV không hoàn thành<br /> nhiệm vụ học tập.<br /> <br /> Tất cả GV đều thấy được tầm quan trọng của việc<br /> phát triển NLGQVĐ cho SV (rất quan trọng 26,7%;<br /> quan trọng 73,3%) và cũng có nhiều GV biết sử dụng<br /> phương pháp dạy học (PPDH) phù hợp để rèn luyện<br /> NL này cho SV (92,8%). Tuy nhiên, do thời gian ít,<br /> lượng kiến thức cần truyền tải trong một tiết học lại<br /> lớn; trong khi đó, nhiều SV thụ động, lười suy nghĩ<br /> nên GV cũng không thường xuyên rèn luyện được<br /> NLGQVĐ cho SV (71,6%).<br /> Thực trạng trên cho thấy NLGQVĐ trong học tập của<br /> SV Trường CĐSP Nghệ An chưa cao, SV chưa tích cực<br /> GQVĐ trong học tập và việc rèn luyện NL này chưa<br /> được thường xuyên. Vì vậy, cần có những biện pháp<br /> thích hợp để nâng cao NL này cho SV góp phần đào tạo<br /> giáo viên phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.<br /> 2.2. Các biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn<br /> đề trong học tập cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư<br /> phạm Nghệ An<br /> 2.2.1. Nâng cao nhận thức về năng lực giải quyết vấn đề<br /> cho sinh viên<br /> Mục đích của biện pháp này là giúp SV nắm chắc<br /> những tri thức về NLGQVĐ, bao gồm: khái niệm, vai<br /> trò, các biểu hiện, mức độ và phương pháp hình thành<br /> NLGQVĐ. Để thực hiện được điều này, các GV dạy<br /> nhóm ngành kiến thức cơ sở của Ngành sư phạm (Tâm lí<br /> học - Giáo dục học) cần rà soát và bổ sung vào chương<br /> trình nội dung tri thức về NLGQVĐ một cách đầy đủ.<br /> Các GV dạy môn Tâm lí học - Giáo dục học cần lựa chọn<br /> và sử dụng PPDH hợp lí để phát huy được tính tích cực<br /> học tập nói chung và hình thành, phát triển NLGQVĐ<br /> nói riêng cho SV. GV cũng phải lựa chọn phương pháp<br /> đánh giá hợp lí và thường xuyên đánh giá mức độ nhận<br /> thức về NLGQVĐ của SV. GV nên động viên, khích lệ<br /> những SV có NL, sáng tạo, linh hoạt, chủ động, có ý thức<br /> tự tìm tòi học hỏi, tự phấn đấu để học tập nói chung và<br /> <br /> 77<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 76-80<br /> <br /> 2.2.3. Đổi mới, lựa chọn phương pháp dạy học nhằm<br /> nâng cao năng lực giải quyết vấn đề trong học tập cho<br /> sinh viên<br /> Trong quá trình dạy học, GV cần lựa chọn, phối hợp<br /> nhiều PPDH khác nhau: phương pháp dùng lời (thuyết<br /> trình, vấn đáp), phương pháp trực quan (dùng hình ảnh,<br /> vi deo…), phương pháp thực hành… Việc lựa chọn<br /> phương pháp cần phù hợp với nội dung và mục tiêu của<br /> bài học. Để nâng cao NLGQVĐ trong học tập cho SV,<br /> bên cạnh phối hợp với các PPDH khác, GV cần chú trọng<br /> sử dụng phương pháp phát hiện và GQVĐ, phương pháp<br /> đàm thoại phát hiện và vận dụng bài tập hợp lí.<br /> 2.2.3.1. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề<br /> Đây là một quan điểm dạy học nhằm phát triển NL tư<br /> duy sáng tạo, NLGQVĐ của người học. Người học được<br /> đặt trong một tình huống có vấn đề, thông qua GQVĐ<br /> giúp người học lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp<br /> nhận thức. PPDH phát hiện và GQVĐ có những bản chất<br /> cơ bản sau đây: - Giáo viên đặt trước người học một loạt<br /> các bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái<br /> đã biết và cái phải tìm (vấn đề khoa học). Đây không phải<br /> là những vấn đề rời rạc mà là một hệ thống có quan hệ<br /> logic với nhau và được cấu trúc lại một cách sư phạm<br /> (gọi là “bài toán nêu vấn đề”); - Người học tiếp nhận mâu<br /> thuẫn của “bài toán nêu vấn đề” như mâu thuẫn của nội<br /> tâm mình và được đặt vào tình huống có vấn đề, tức là<br /> trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết<br /> bằng được bài toán đó; - Trong quá trình giải và bằng quá<br /> trình giải bài toán nhận thức (GQVĐ) mà người học được<br /> lĩnh hội một cách tự giác và tích cực cả kiến thức, cả cách<br /> giải; do đó có được niềm vui sướng của sự phát minh<br /> sáng tạo.<br /> Dạy học bằng phương pháp phát hiện và GQVĐ tác<br /> động rất hiệu quả đối với người học. Theo các nhà Tâm<br /> lí học, con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi bắt đầu<br /> nảy sinh nhu cầu tư duy khi đứng trước một khó khăn về<br /> nhận thức cần khắc phục, một tình huống có vấn đề. Dạy<br /> học phát hiện và GQVĐ đặt SV vào vị trí “nhà nghiên<br /> cứu”. Chính sự lôi cuốn của vấn đề học tập, nghiên cứu<br /> đã làm hoạt động hóa nhận thức của SV, rèn luyện ý chí<br /> và khả năng hoạt động cho SV. Như vậy, PPDH phát<br /> hiện và GQVĐ đã đáp ứng được nguyên tắc tự giác và<br /> tích cực trong dạy học, đồng thời cũng thể hiện sự thống<br /> nhất giữa giáo dục và giáo dưỡng, nghĩa là kết hợp giữa<br /> truyền thụ kiến thức và rèn luyện phẩm chất, NL cho SV.<br /> Tiến trình thực hiện PPDH phát hiện và GQVĐ như sau:<br /> - Giai đoạn 1: Nêu vấn đề<br /> + Xây dựng tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn<br /> đề là những tình huống lí thuyết hay thực tiễn có chứa<br /> đựng mâu thuẫn biện chứng giữa các kiến thức, kĩ năng,<br /> <br /> 78<br /> <br /> kĩ xảo đã biết với cái chưa biết và mâu thuẫn này đòi hỏi<br /> được giải quyết. Có nhiều cách tạo ra (xây dựng) các tình<br /> huống có vấn đề trong dạy học nhưng cần đảm bảo<br /> nguyên tắc sau: Dựa vào sự không phù hợp giữa kiến<br /> thức đã có của SV với yêu cầu đặt ra cho họ khi<br /> giải quyết nhiệm vụ mới. Theo nguyên tắc chung này, có<br /> thể nêu ra ba cách tạo ra tình huống có vấn đề là: Tình<br /> huống nghịch lí - bế tắc; tình huống lựa chọn; tình huống<br /> “tại sao” - hay tình huống nhân quả.<br /> + Phát biểu vấn đề học tập. Vấn đề học tập thường<br /> được phát biểu dưới dạng câu hỏi, là kết quả của chủ thể<br /> biến mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.<br /> Hiệu quả của bước này phụ thuộc vào khả năng phát hiện<br /> ra các mâu thuẫn khách quan ở đối tượng SV và thể hiện<br /> ở các mức độ. Tình huống có vấn đề chỉ tạo được với<br /> những nội dung thích hợp và nó tồn tại ngay trong kết<br /> cấu logic của tài liệu sách giáo khoa. Vì vậy, GV cần có<br /> kĩ thuật để truyền tải các tình huống đó đến với SV. Sự<br /> thành công của bước này là quan trọng nhất trong dạy<br /> học bằng phương pháp phát hiện và GQVĐ.<br /> - Giai đoạn 2: Giải quyết vấn đề<br /> Sau khi nắm bắt vấn đề, tiếp nhận nhiệm vụ nhận thức<br /> thì người học dựa trên những cái đã biết có liên quan đến<br /> vấn đề mới sẽ đưa ra các cách GQVĐ sau đó lựa chọn<br /> cách giải quyết và lên kế hoạch thực hiện nó. Giai đoạn<br /> này có thể thực hiện theo các bước: Bước 1: Đề xuất các<br /> ý tưởng giả thuyết; Bước 2: Xác định các kiến thức cần<br /> cho việc GQVĐ; Bước 3: Tìm hiểu các kiến thức mới có<br /> liên quan; Bước 4: Lựa chọn, kiểm nghiệm, đánh giá ý<br /> tưởng, giả thuyết.<br /> - Giai đoạn 3: Kiểm tra cách giải quyết vấn đề, kết<br /> luận vấn đề, trình bày kết quả<br /> Kết quả của việc GQVĐ được thể hiện thông qua<br /> việc hiểu vấn đề và sự lí giải hợp lí cho vấn đề. Sự hiểu<br /> biết vấn đề có thể được người học thể hiện thông qua việc<br /> viết báo cáo về vấn đề, tạo ra sản phẩm, nêu các giải pháp<br /> về vấn đề. Cũng có khi trong một thời gian học tập nhất<br /> định, người học không thể GQVĐ, thay vì trình bày kết<br /> quả thu được sau khi GQVĐ, người học có thể trao đổi,<br /> thảo luận về những gì đã thu được, cái gì còn tồn đọng<br /> chưa giải quyết được, nảy sinh những vấn đề mới nào và<br /> lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục GQVĐ cũ cũng như<br /> GQVĐ mới phát sinh. Như vậy, thông qua việc phân tích<br /> tiến trình thực hiện PPDH phát hiện và GQVĐ đặt ra<br /> ngay ở đầu buổi học, người học có thể gặp phải rất nhiều<br /> vấn đề khác nhau. Vì thế, chu trình thực hiện các bước<br /> trên được thực hiện nhiều lần, các bước có thể được thực<br /> hiện cùng lúc.<br /> 2.2.3.2. Phương pháp dạy học đàm thoại phát hiện<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 76-80<br /> <br /> Đây là phương pháp quan trọng giúp người học phát<br /> triển NLGQVĐ. Phương pháp đàm thoại phát hiện là<br /> phương pháp trao đổi giữa GV với SV, trong đó GV<br /> nêu ra hệ thống câu hỏi “dẫn dắt” gắn bó logic với nhau<br /> để SV suy lí, phán đoán, quan sát, tự đi đến kết luận và<br /> qua đó lĩnh hội kiến thức. Trong phương pháp này, hệ<br /> thống câu hỏi do GV đặt ra có vai trò chủ đạo, có ý<br /> nghĩa quyết định đến chất lượng giờ học, từng bước,<br /> từng bước dẫn dắt SV đi tới chân lí, phát hiện ra bản<br /> chất của sự vật hiện tượng. Hệ thống câu hỏi do GV đặt<br /> ra có vai trò quyết định đến chất lượng lĩnh hội kiến<br /> thức của SV, định hướng tư duy của người học. Vì vậy,<br /> GV cần hướng dẫn quá trình phát triển tư duy của SV<br /> theo hướng hợp lí, kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo,<br /> ham muốn tìm ra cái mới.<br /> Đặc điểm của phương pháp đàm thoại phát hiện: GV<br /> tổ chức sự trao đổi giữa GV và cả lớp, có khi giữa trò với<br /> nhau, qua đó người học tự khám phá, lĩnh hội kiến thức.<br /> Trong phương pháp đàm thoại phát hiện, yếu tố tìm tòi,<br /> nghiên cứu của người học được đặt lên mục đích cao<br /> nhất. GV đóng vai trò là người tổ chức, còn người học là<br /> người phát hiện vấn đề. Khi kết thúc đàm thoại, SV có<br /> vẻ như người tự lực tìm ra chân lí. Hệ thống câu hỏi - lời<br /> đáp mang tính chất nêu vấn đề để tạo nên nội dung trí<br /> dục chủ yếu của bài học là nguồn kiến thức và là mẫu<br /> mực của cách giải quyết một vấn đề nhận thức. Thông<br /> qua phương pháp này, SV không những lĩnh hội được<br /> nội dung trí dục mà còn học được cả phương pháp nhận<br /> thức và diễn đạt tư tưởng bằng lời.<br /> Các loại câu hỏi sử dụng trong phương pháp đàm<br /> thoại phát hiện được đặt ra dựa trên quá trình nhận thức<br /> của SV (Bảng phân loại thang Bloom) như sau: biết,<br /> hiểu, vận dụng, đánh giá, sáng tạo. Để phương pháp đàm<br /> thoại phát hiện phát huy tốt được các ưu điểm trên, trong<br /> quá trình dạy học, cần đảm bảo những yêu cầu sư phạm<br /> sau: - SV phải có ý thức về mục đích của toàn bộ hay một<br /> phần lớn cuộc đối thoại; - Hệ thống câu hỏi của GV có<br /> tính chất quyết định đến chất lượng lĩnh hội của cả lớp.<br /> Do đó, phải hướng tư duy của SV đi theo một logic hợp<br /> lí, kích thích hướng tích cực tìm tòi, trí tò mò khoa học<br /> và cả sự ham muốn giải đáp; - Các vấn đề, câu hỏi phải<br /> được sắp xếp hợp lí; - Số lượng, tính phức tạp và mức độ<br /> phân chia của câu hỏi cần dựa vào tính phức tạp của đối<br /> tượng nghiên cứu, trình độ SV (nền kiến thức, kĩ năng,<br /> kĩ xảo…); - Tổng kết vấn đề, GV cần khéo léo kết luận<br /> dựa vào ý kiến, ngôn ngữ của SV, thêm kiến thức cho<br /> chính xác và kết cấu lại kết luận cho chặt chẽ, súc tích;<br /> - Quản lí lớp không trao đổi với từng SV riêng rẽ mà với<br /> cả lớp.<br /> Nguyên tắc áp dụng phương pháp đàm thoại phát<br /> hiện trong dạy học là: Nguyên tắc 1, căn cứ vào mục tiêu<br /> <br /> của bài học, GV cần xác định mục tiêu trọng tâm kiến<br /> thức - kĩ năng cần hình thành trong chương, trong bài đó<br /> là gì để lựa chọn PPDH cho phù hợp. Nguyên tắc 2, căn<br /> cứ vào nội dung, kiến thức - kĩ năng được trình bày trong<br /> tài liệu, sách giáo khoa để xác định xem những nội dung,<br /> kiến thức đã học có liên quan là những kiến thức - kĩ năng<br /> nào? Trên cơ sở những kiến thức - kĩ năng trọng tâm cần<br /> hình thành (kiến thức - kĩ năng mới) là gì? Nguyên tắc 3,<br /> căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất như phương tiện dạy<br /> học, đối tượng SV, kinh nghiệm sư phạm của GV... để<br /> áp dụng PPDH phù hợp; Nguyên tắc 4, phối hợp hài hòa<br /> giữa các PPDH khác nhau. Không có một PPDH nào là<br /> tối ưu cho một bài lên lớp; vì vậy, bên cạnh phương pháp<br /> đàm thoại phát hiện cần có sự phối hợp hợp lí với các<br /> PPDH khác như phương pháp thảo luận nhóm, phương<br /> pháp trực quan, phương pháp thực hành.<br /> Quy trình sử dụng PPDH đàm thoại phát hiện:<br /> Bước 1: GV nêu vấn đề, đặt ra mục đích, nhiệm vụ<br /> của vấn đề cần nghiên cứu (câu hỏi định hướng) để SV<br /> hiểu được nội dung nghiên cứu, GQVĐ gì?<br /> Bước 2: GV lần lượt đưa ra hệ thống câu hỏi - SV trả<br /> lời: Câu hỏi gợi mở vấn đề; câu hỏi tái hiện kiến thức cũ<br /> có liên quan đến vấn đề nghiên cứu; GV gợi mở vấn đề<br /> cần tìm kiếm, những mối liên hệ nảy sinh ra từ câu hỏi<br /> trước; GV hướng dẫn SV suy lí, phán đoán, giải quyết.<br /> Bước 3: GV tiếp tục gợi mở cho SV bằng các kiến<br /> thức có liên quan để có thể giải thích được các vấn đề đã<br /> nêu ở trên.<br /> Bước 4: GV hướng dẫn SV rút ra những nhận xét, kết<br /> luận từ những vấn đề đã nêu ở trên.<br /> Bước 5: Vận dụng những kiến thức đã nghiên cứu để<br /> giải quyết những bài tập cụ thể có liên quan và vấn đề<br /> thực tiễn (bước này có thể có, có thể không tùy thuộc vào<br /> kiến thức nội dung nghiên cứu.<br /> 2.2.4. Vận dụng bài tập trong dạy học để nâng cao năng<br /> lực giải quyết vấn đề cho sinh viên<br /> Bài tập là một nhiệm vụ (gồm câu hỏi và bài toán)<br /> liên quan đến môn học mà người học phải sử dụng các<br /> kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm của bản thân để hoàn<br /> thành. Bài tập góp phần quan trọng trong việc dạy học<br /> tích cực, nâng cao NLGQVĐ cho SV, là nguồn kiến<br /> thức, phương tiện điều khiển SV tìm tòi, phát hiện kiến<br /> thức mới, các kĩ năng cần rèn luyện hoặc mô phỏng một<br /> số tình huống thực của đời sống, đòi hỏi SV phải tìm<br /> được phương hướng giải quyết, khắc phục những hạn<br /> chế và phát huy tính tích cực của nó, qua đó phát triển<br /> NL nhận thức, GQVĐ. Mặt khác, bài tập còn giúp giáo<br /> dục đạo đức, tác phong, thái độ làm việc khoa học của<br /> SV. Bài tập được nêu ra như một tình huống có vấn đề,<br /> tạo ra mâu thuẫn, chướng ngại nhận thức, kích thích tư<br /> <br /> 79<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 76-80<br /> <br /> duy giúp SV năng động sáng tạo, hình thành phương<br /> pháp học; đồng thời là công cụ để kiểm tra, đánh giá kiến<br /> thức, kĩ năng, thái độ và NL của SV.<br /> Bài tập được phân loại dựa trên các cơ sở khác nhau,<br /> hiện nay có một số cách phân loại cơ bản sau: Dựa vào<br /> mức độ kiến thức có bài tập cơ bản và nâng cao; Dựa vào<br /> nội dung chương trình có bài tập theo tên chương mục;<br /> Dựa vào tính chất bài tập có bài tập định tính và bài tập<br /> định lượng; Dựa vào mục đích dạy học có bài tập hình<br /> thành kĩ năng, bài tập củng cố, bài tập nâng cao; Dựa vào<br /> dạng câu trả lời có bài tập trắc nghiệm khách quan, bài<br /> tập tự luận, bài tập đóng, bài tập mở; Dựa vào mức độ<br /> nhận thức của người học có bài tập biết, hiểu, vận dụng.<br /> Để nâng cao NLGQVĐ cho SV, GV cần xây dựng,<br /> sử dụng bài tập đạt được các yêu cầu sau: - Ra bài tập<br /> theo trình tự từ dễ đến khó; - Loại bỏ dần những bài tập<br /> có nội dung nghèo nàn nhưng đòi hỏi phải dùng những<br /> thuật ngữ phức tạp để giải, những bài tập có nội dung<br /> xa rời hoặc không đúng với thực tiễn, với các giả thuyết<br /> rắc rối phức tạp; - Tăng cường xây dựng và sử dụng bài<br /> tập trắc nghiệm khách quan; - Chú trọng các bài tập rèn<br /> luyện NLGQVĐ; - Đa dạng hóa các loại hình bài tập như<br /> bài tập kiểm tra nhận thức, kĩ năng, khả năng vận<br /> dụng…; - Chú trọng xây dựng những bài tập có nội dung<br /> phong phú, sâu sắc, thể hiện đặc thù của môn học và sự<br /> phát triển của khoa học đó.<br /> 2.2.5. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá năng lực<br /> giải quyết vấn để của sinh viên<br /> Đánh giá là một khâu quan trọng trong quá trình dạy<br /> học nói chung và quá trình đánh giá NLGQVĐ cho SV<br /> nói riêng. Vì vậy, thực hiện đổi mới cách đánh giá<br /> NLGQVĐ hợp lí sẽ có được những kết luận chính xác về<br /> trình độ NL của người học, từ đó có thể phân loại SV,<br /> giúp điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy và<br /> học tập nhằm giúp đỡ người học thành công hơn trong<br /> học tập. Để kiểm tra, đánh giá NLGQVĐ của SV, cần:<br /> - Giao nhiệm vụ học tập cho SV và đánh giá NLGQVĐ<br /> trong học tập của họ dựa trên các tiêu chí, mức độ biểu<br /> hiện của NL này; - Xây dựng công cụ đánh giá phù hợp<br /> với nội dung kiểm tra. Các phiếu đánh giá phải được thiết<br /> kế trình bày đơn giản và khoa học, phải đánh giá được<br /> mức độ NL của mỗi người sau khi học xong. Các tiêu<br /> chuẩn, tiêu chí đánh giá phải được công bố trước khi thực<br /> hiện để người học định hướng cùng với mục tiêu bài học;<br /> - Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức<br /> độ đạt được về các yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số;<br /> - Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu<br /> cầu đặt ra rồi đánh giá, xem xét kết quả học tập của SV,<br /> xem xét mức độ thành công của phương pháp giảng dạy<br /> của giáo viên để từ đó cải tiến, khắc phục những nhược<br /> <br /> điểm; - Cần tiến hành kiểm tra, đánh giá NLGQVĐ trong<br /> học tập một cách thường xuyên; - Lựa chọn phối hợp<br /> nhiều hình thức đánh giá: trắc nghiệm, tự luận, vấn đáp,<br /> thực hành; - Trong quá trình đánh giá NLGQVĐ trong<br /> học tập cho SV, cần tuân thủ các nguyên tắc của đánh giá<br /> là đảm bảo tính khách quan, công bằng, toàn diện, hệ<br /> thống, công khai, giáo dục và phát triển; - GV cần tạo<br /> điều kiện cho SV tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau trong<br /> nhóm cùng tập luyện, cùng thực hành (dưới hình thức<br /> nhận xét, xếp loại sau đó mới quy điểm thì tính khách<br /> quan sẽ cao hơn).<br /> 3. Kết luận<br /> Để đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay,<br /> một trong những khâu quan trọng là phải đào tạo, bồi<br /> dưỡng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và NL thực<br /> hiện chương trình. Vì vậy, phát triển NLGQVĐ cho SV<br /> sư phạm là công việc cần thiết góp phần đào tạo đội ngũ<br /> giáo viên có chất lượng. Các biện pháp nâng cao<br /> NLGQVĐ cho SV muốn được thực hiện có hiệu quả cần<br /> sự tham gia của nhiều người: thứ nhất, tất cả các GV từ<br /> GV dạy kiến thức giáo dục đại cương, kiến thức cơ sở<br /> ngành, kiến thức ngành đều tích cực quán triệt, vận dụng<br /> các biện pháp nâng cao NLGQVĐ trong các môn dạy<br /> của bản thân; thứ hai, nhà trường cần tạo mọi điều kiện<br /> về thời gian, cơ sở vật chất để GV có thể vận dụng các<br /> biện pháp; thứ ba, SV phải tích cực, hứng thú, chủ động<br /> thực hiện các nhiệm vụ học tập dưới sự chỉ đạo, tổ chức,<br /> hướng dẫn của GV.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Cancalic.V.A. (1996). Hoạt động sư phạm là hoạt<br /> động sáng tạo. Tài liệu dịch, Viện Nghiên cứu đại<br /> học và trung học, Hà Nội.<br /> [2] Nguyễn Ngọc Bảo (2007). Lí luận dạy học ở trường<br /> trung học cơ sở. NXB Đại học Sư phạm.<br /> [3] Vũ Dũng (2000). Từ điển Tâm lí học. NXB Khoa<br /> học xã hội.<br /> [4] Nguyễn Đức Minh - Phạm Cốc - Đỗ Thị Xuân<br /> (1962). Tâm lí học. NXB Giáo dục.<br /> [5] Nguyễn Thạc (1990). Tâm lí học đại học. NXB Đại<br /> học Sư phạm.<br /> [6] Phạm Trung Thành - Nguyễn Thị Lý (2004). Rèn<br /> luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. NXB Đại<br /> học Sư phạm.<br /> [7] Trần Trọng Thuỷ - Nguyễn Quang Uẩn (1998). Tâm<br /> lí học đại cương. NXB Giáo dục<br /> [8] Phạm Viết Vượng (2008). Lí luận giáo dục. NXB<br /> Đại học Sư phạm.<br /> [9] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ<br /> thông - Chương trình tổng thể.<br /> <br /> 80<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2