intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số công trình mỹ thuật kiến trúc dân gian thời Lê - Trịnh ở Việt Nam và Hải Phòng

Chia sẻ: Dong Thi Hoan | Ngày: | Loại File: PPT | Số trang:28

164
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tìm hiểu tài liệu "Một số công trình mỹ thuật kiến trúc dân gian thời Lê - Trịnh ở Việt Nam và Hải Phòng" để có thể hiểu hơn về kiến trúc mỹ thuật dân gian cũng như hiểu hơn về nền văn hóa Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số công trình mỹ thuật kiến trúc dân gian thời Lê - Trịnh ở Việt Nam và Hải Phòng

  1. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH MỸ THUẬT KIẾN TRÚC DÂN GIAN THỜI LÊ - TRỊNH Ở VIỆT NAM VÀ HẢI PHÒNG Đồng Thị Hồng Hoàn
  2. NHÀ TRỊNH  Tập đoàn phong kiến Chúa Trịnh (1545 – 1787) đã kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê, với khẩu hiệu “phù Lê diệt Mạc”, đến 1592, con cháu triều Mạc chạy lên Cao Bằng. Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, cai trị toàn cõi Đàng Ngoài, đặt phủ chúa với hệ thống quan lại riêng, định chế độ cha truyền con nối, thu tóm mọi quyền hành bên cạnh triều đình vua Lê bù nhìn.  Chúa Trịnh vừa phải chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong, lại đánh dẹp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đàng ngoài, nhưng họ vẫn ra sức ổn định tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa và ngoại giao, biến Thăng Long thành một kinh đô giàu có và văn hiến. Có thể khẳng định thời Lê - Trịnh đã chứng kiến hai thế kỷ phát triển rực rỡ của kinh tế, văn hóa, chính trí, giúp họ Trịnh giữ gìn xã hội Đại Việt ổn định và thăng tiến trong gần 2 thế kỷ.       Hải Phòng xưa tự hào vì có đến 3 vị trạng nguyên thời Hậu Lê  là: Lê Ích Mộc- Thủy Nguyên;Trần Tất Văn, An Lão và trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vĩnh Bảo. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đã đưa ra lời tiên đoán, khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê phân vùng ổn định, tránh được những cuộc tàn sát và cùng tồn tại phát triển trong một thời gian dài.
  3.   TR ẠNG TRÌNH NGUY ỄN B ỈNH KHI ÊM,  H ẢI PHÒNG V ỚI NHÀ LÊ ­ TR ỊNH  Nhà Lê suy yếu. Năm 1556, vua Lê      Trung Tông mất sớm không có con nối dõi), Trịnh Kiểm định đoạt nhà Lê nhưng ngại dư luận, đã cho người đến hỏi Nguyễn Bỉnh khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với chú tiểu (thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh): "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản“.  Trịnh Kiểm hiểu ý Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho người tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông.  Họ Trịnh tôn nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh vẫn có hư danh, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại hơn 200 năm, củng cố và xây dựng đất nước phồn vinh. Điều này còn thể hiện ở các công trình kiến trúc, mỹ thuật còn sót lại thời Lê Trịnh cho đến ngày nay.
  4. CÁC CÔNG TRÌNH KI ẾN TRÚC M Ỹ THU ẬT  THỜI  LÊ ­ TRỊNH Các  công  trình  kiến  trúc  mỹ  thuật  cung  đình  của  nhà  Lê  Trịnh đã bị các triều đại sau phá hủy. Nhưng thật may, có một  số  công  trình  kiến  trúc dân gian phục vụ  tín  ngưỡng tôn giáo,  được xây dựng hoặc trùng tu thời Lê Trịnh xưa vẫn được bảo  tồn  đến  ngay  nay,  tiêu  biểu  như:  chùa  Keo­  Thái  Bình;  chùa  Thầy,  đình  Chu  Quyến­Hà  Tây;  chùa  Bút Tháp,  đình  Phụ  Lão,  đình Diềm, đình Bảng ­ Bắc Ninh; đình Thổ Tang, đền Phú Đa­ Vĩnh  Phúc;  chùa  Chuông,  đền  chúa  Mụa  ­  Hưng  Yên;  đình  Hàng Kênh, đình Kiền Bái, đình Trấn Dương ­ Hải Phòng…
  5. CHÙA KEO  Chùa Keo được xây dựng lớn từ năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632 theo phong cách kiến ­ THÁI BÌNH trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ. Chùa được trùng tu nhiều lần, vào các năm 1689 , 1707, 1941... Lần trùng tu năm 1941 có sự giúp đỡ của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp
  6. Chùa Chuông được xây dựng từ thế kỷ 15, Nhưng phải tới năm 1707, chùa mới được trùng tu lớn với quy mô hoàn chỉnh như hiện nay. Trong cuốn “Hưng Yên tỉnh nhất thống chí” của Trịnh Như Tấu, thời Nguyễn có ghi rằng: “Chùa Chuông - Phố Hiến đệ nhất danh lam”. CHÙA CHUÔNG – HƯNG YÊN
  7. ĐỀN BÀ CHÚA MỤA ­ HƯNG YÊN Đền thờ Bà chúa Mụa thờ bà Trần Thị Ngọc Am, là Vương phi đệ nhị cung tần của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, tên hiệu là Pháp Tiên, có nhiều công đức xây dựng chùa tháp nên được các tín đồ tôn làm "Thánh Quang Bồ Tát". Cửa đền có bia “Trần Thị Tiên phả bi” ghi khái quát về lý lịch của bà. Trên mặt trước bia “Chiêu Ân tháp bi” và mặt sau “Tào Lục xã bi” năm 1650.
  8. CHÙA NINH PHÚC (BÚT THÁP) BẮC NINH Chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) được đại trùng tu khi Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) rời bỏ cung thất đến đây tu hành. Bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để xây dựng chùa lớn như ngày nay. Đến năm 1647, chùa xây dựng và sửa chữa xong.  Kiến trúc chùa theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc“, để trở thành một quần thể hoàn chỉnh trên một trục dài hơn 100 mét. Phía bên phải chùa có tháp Bút (Báo Nghiêm) bằng đá xanh năm tầng, cao trên 13 mét; Kiệt tác điêu khắc gỗ dân gian tô điểm cho chùa là pho tượng gỗ “Phật Bà Quan Âm ngàn mắt ngàn tay”- (Quan âm thiên thủ thiên nhãn), cao tới 3,70 mét (1656) và tập hợp 91 bức chạm đá trên lan can bao quanh tòa thượng điện với những đề tài đa dạng (động vật, cỏ cây, mây nước...).  Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ Lê – Trịnh.
  9. CHÙA NÀNH – BẮC NINH Chùa Nành còn có tên là chùa Pháp Vân, thuộc xã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đây là một trong bốn chùa lớn ở nước ta thời Hậu Lê: chùa Dâu, chùa Keo, Chùa Đậu, chùa Nành. Chùa Nành được xây theo lối chữ “Công” gồm 100 gian, trước mặt có sân rộng trải dài tới sát tam quan rất bề thế. Đối diện có tòa thủy đình để diễn rối nước trên một hồ nước nhỏ. Chùa Nành được xây dựng từ thời Lý. Trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa thời Lê Trung hưng. Hiện, chùa còn lưu giữ được nhiều di vật quý triều Lê Trịnh như: Tượng, bia đá, chuông đồng (1653), khánh đồng (1733). Chùa Nành đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là Di tích cấp quốc gia.
  10. ĐÌNH BẢNG  BẮC NINH Đình Bảng do Nguyễn Thạc Lượng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên hiến gỗ, đứng ra tạo dựng, nhân dân và thợ trong vùng thi công góp sức. Đình được khởi công vào năm 1700, và phải ba mươi sáu năm, tức năm 1736, mới hoàn thành.
  11. ĐÌNH DIỀM – BẮC NINH   Đình Diềm xưa khá bề thế, gồm 3 gian hai chái khép kín thành một chỉnh thể thống nhất và hài hòa. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 để thờ Đức thánh Tam Giang, Dân làng lấy năm Nhâm Thân 1692 (năm dựng mái) làm năm xây đình. Sau này do chiến tranh, nhiều kiến trúc độc đáo đã bị phá huỷ, hiện đình chỉ còn 1 gian 2 chái. Ngay từ năm 1964, đình Diềm đã được Nhà nước ta công nhận danh hiệu di tích cấp Quốc gia.  Nét độc đáo của đình Diềm chủ yếu ở chiếc cửa võng và chiếc nhang án thờ nơi gian giữa. Chiếc nhang án nằm phía trong cửa cấm, theo các nhà nghiên cứu thuộc Cục bảo vệ di sản (Bộ Văn hóa-Thông tin), giá trị của nó về một số mặt “có thể đưa vào danh sách các bảo vật Quốc gia”.  Cửa võng đình được trang trí thành các tầng diềm có nhiều hình rồng, vân mây, hoa bốn cánh với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm thủng. Hai bên là ván chạm thủng hình “Song nghê triều dương” (hai con nghê chầu mặt trời), và 4 con rồng chầu vào vòng sáng nhọn đầu của chữ “Phúc”. Bên cạnh các hình chạm khắc này, nhang án còn có những hình chạm rất đặc sắc, trong đó có cả hình tượng các cô thôn nữ xinh đẹp, yểu điệu. Điều đó chứng tỏ người dân làng Diềm xưa không hề bó buộc, câu nệ mà đưa cả những cảnh sinh hoạt đời thường vào trang trí tại một nơi thâm nghiêm như đình, chùa
  12. ĐỀN GIÓNG – PHÙ ĐỔNG, BẮC NINH Đền thờ Thánh Gióng đã có từ thời Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Phía trước đến là thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII). Phía trước đền có đôi rồng đá, phía sau có đôi sư tử đá tạo vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, 1705 triều Vua Lê Dụ Tông. Nhà Thiêu hương do Điền Quận công Nguyễn Huy (1610-1675), Nhà bên trong do Đặng Công Chất, đỗ Trạng nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến. Đầu bẩy chạm vào thời Hậu Lê. Đền còn lưu được 12 đạo sắc phong, đời Lê; đền còn lưu được chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII)
  13. CHÙA MÍA ­ SƠN TÂY  Chùa tọa lạc ở làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, trên một ngọn đồi đá ong. Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm tự, được đại trùng tu, xây dựng lại vào năm Đức Long thứ 4 (1632) thời Lê Thần Tông.  Chùa Mía có tới 287 pho tượng lớn nhỏ, trong đó một nữa bằng gỗ, một nữa bằng đất luyện. Tất cả được sơn son thếp vàng rất đẹp. Tiêu biểu nhất là 8 bộ Kim Cang ở tòa thượng điện, bằng đất luyện. Pho tượng "Quan Âm Tống Tử" với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động, độc đáo là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác. Chùa còn lưu giữ nhiều cổ vật như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng (1846), bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632.
  14. Theo văn bia dựng năm Dương Hoà 5, Chùa Đậu được trùng tu lớn vào năm 1635 CHÙA ĐẬU ­ HÀ TÂY đời vua Lê Thần Tông; Kiến trúc chùa được xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc“ như phần lớn các chùa khác thời Lê - Trịnh. Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá. Ở chùa Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Đặc biệt ở đây có hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh Cương (1709- 1729).
  15. CHÙA THẦY ­ HÀ TÂY Chùa Thầy còn lưu giữ 7 tấm bia đá niên đại vào thế kỷ 17, có bia "Hưng tạo sự công" dựng năm Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc xây dựng nơi thờ Thánh và tên người cúng ruộng công đức cho thấy trùng tu lớn nhất vào thế kỷ 17, chùa mới có dạng "nội công ngoại quốc" như ngày nay. Cũng vào dịp trùng tu thời Lê - Trịnh, hai cụm kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh đã được tách thành hai công trình riêng biệt, đánh dấu sự ra đời chính thức của kiểu thức chùa tiền Phật - hậu Thánh, là đặc điểm kiến trúc thời Lê - Trịnh.
  16. CHÙA TRẦM - HÀ TÂY Chùa Trầm được xây dựng năm Ất Hợi (1515) do Trần Văn Tăng, một tướng quân xuất gia đi giảng đạo, khởi xướng. Hiên ở núi Trầm còn một bia đá khắc bài thơ của ông bằng chữ Nôm. Xưa kia toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê, chúa Trịnh đặt hành cung. Núi Tử Trầm có chùa Hang được xây dựng trong động Long Tiên dưới chân Tử Trầm Sơn với những pho tượng đá, văn bia khắc trên vách động, trống đá, khánh đá... ; có hang Long Tiên Động rất lớn và bàn thờ Phật bên trong.
  17. CHÙA HƯƠNG – HÀ TÂY Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17. Đường xuống hang chùa là một dốc gồm 120 bậc lát đá. Trên vách trước cửa động còn lưu giữ bút tích của Tĩnh Đô Vương - Trịnh Sâm (1770) đến vãn cảnh chùa, đã tự tay đề 5 chữ Hán 南南南南南 (Nam thiên đệ nhất động - Động đẹp nhất trời nam).
  18. Đình Chu Quyến được xây dựng ĐÌNH CHU QUYẾN – NGÔI ĐÌNH LỚN  vào khoảng thế kỷ NHẤT XỨ  ĐOÀI – SƠN TÂY 17. Đình có mặt bằng hình chữ nhất, dài 30m, cột cái đình có chu vi đến 2 m, trang trí xà, cốn, cửa võng, nhiều tượng tròn đẹp với các hoạ tiết rồng hoa lá và con người. Đình làm dạng nhà sàn không tường bao, có hàng lan can xung quanh và hệ thống sàn hoàn chỉnh, là một trong những di tích lớn, đẹp và nổi tiếng ở Bắc Bộ hiện nay và xứ Đoài xưa.
  19. ĐÌNH THỔ TANG, VĨNH PHÚC  Đình Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được xây dựng vào thế kỷ 17. Vào năm 1964 đình đã được Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam xếp hạng A trong danh mục Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu của đất nước, đến năm 1990 được cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hoá.  Đình hiện còn 21 bức chạm bằng gỗ nổi tiếng như: cảnh đi cày, chăn trâu, đánh ghen, vũ nữ cưỡi rồng, vợ chồng lười, cảnh con mọn, cảnh nghỉ ngơi sau giờ lao động, cảnh đá cầu, đấu vật, múa, bắn hổ, đánh cờ uống rượu… thể hiện nghệ thuật chạm trổ tinh vi.  Toàn bộ kiến trúc và các bức chạm trổ điêu khắc của đình Thổ Tang đã được đưa vào lịch sử văn hóa nước nhà như là những điển hình của nghệ thuật kiến trúc chạm trổ của dân tộc Việt Nam thế kỷ 17 thời Lê Trịnh.
  20. ĐỀN PHÚ ĐA – VĨNH PHÚC Đền Phú Đa (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) được xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786), là công trình nổi tiếng của Vĩnh Phúc thờ Nguyễn Thai. Mặt bằng kiểu chữ Tam, với hai trụ đá xanh và nhiều tượng đá chạm khắc hình người và linh vật bằng đá rất đẹp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2