
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch tại Trường Đại Học Thủ Dầu Một
lượt xem 1
download

Bài viết "Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch tại Trường Đại Học Thủ Dầu Một" chỉ ra nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của cả nước, thực trạng chất lượng đào tạo ngành Du lịch của Trường Đại học Thủ Dầu Một, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm n
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch tại Trường Đại Học Thủ Dầu Một
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGÀNH DU LỊCH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT Hà Văn Kiên1 1. Khoa Công nghiệp Văn hóa - Trường Đại Học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, nhu cầu đi du lịch của du khách càng tăng cao, buộc các nhà cung cấp phải nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều này đặt ra cho ngành Du lịch phải có sự đổi mới về nhiều mặt, trong đó nguồn nhân lực có chất lượng là yếu tố không thể thiếu. Bình Dương định hướng xây dựng thành phố thông minh sáng tạo. Để làm được điều đó, tất cả các ngành, trong đó có ngành du lịch đều phải có mức độ đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong hiện thực hóa định hướng. Thông qua việc thu thập thông tin, dữ liệu và phân tích. Bài viết chỉ ra nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của cả nước, thực trạng chất lượng đào tạo ngành Du lịch của Trường Đại học Thủ Dầu Một, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch tại Khoa Công nghiệp Văn hóa, Trường Đại học Thủ Dầu Một. Từ khóa: Đào tạo du lịch; Nhân lực du lịch; Nhu cầu xã hội 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đứng trước xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai, xung đột chính trị… Việt Nam nổi lên như một điểm sáng trong phát triển kinh tế. Thành công trong phát triển kinh tế của Việt Nam được đóng góp bởi nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, mà trong đó ngành Du lịch có đóng góp không nhỏ vào thành công chung. Nhưng du lịch Việt Nam được đánh giá là chưa phát triển đúng với tiềm năng hiện có, có nhiều yếu điểm trong khai thác và phát triển du lịch. Nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho quá trình phát triển của ngành. Vì vậy, để đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo là bài toán cần có lời giải đặt ra cho các trường đại học có đào tạo ngành Du lịch. Là một trong số các trường có đào tạo ngành Du lịch, việc nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Đại học Thủ Dầu Một cũng là định hướng đặt ra cho nhà trường. Qua 4 năm đào tạo, năm 2024 đánh dấu một cột mốc quan trọng của hoạt động đào tạo khi lứa sinh viên đầu tiên ra trường, có những tín hiệu khả quan về chất lượng đào tạo khi có một số ít sinh viên đang làm việc bán thời gian hoặc thời vụ cho các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn nhưng số lượng này là không nhiều. Điều đó chưa thể khẳng định được chất lượng đào tạo của ngành Du lịch khi chương trình chưa được kiểm định, nhưng cũng cần phải nhìn nhận thêm rằng, việc nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo là điều hết sức cần thiết cho việc phát triển ngành một cách bền vững. Bài viết này tập trung vào việc phân tích nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của đất nước, đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch và đưa ra một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch tại trường Đại học Thủ Dầu Một. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp tổng hợp: tác giả sẽ thu thập các thông tin, nguồn dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu khoa học, bài viết trên các tạp chí, hội thảo, sách, báo…thành một chỉnh thể để tạo ra cơ sở lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc cho nghiên cứu. Phương pháp thống kê và phân tích: Phương pháp này làm để làm rõ thông tin, số liệu có liên quan đến nghiên cứu, các số liệu về đào tạo du lịch của chương trình làm cơ sở cho việc xử lý, phân 29
- tích và đánh giá của nghiên cứu nhằm làm rõ nhu cầu nguồn nhân lực, thực trạng chất lượng đào tạo và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Du lịch của trường. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Khái niệm Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật. Là cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia” (Rỹ, 2021). Theo đó, chất lượng được hiểu là các thuộc tính tồn tại khách quan trong sự vật. Chất lượng đồng nghĩa với chất lượng cao nhất, tuyệt hảo. Đồng thời, chất lượng không chỉ là những thuộc tính của sản phẩm hay dịch vụ mà còn là mức độ của các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và sử dụng dịch vụ trong những điều kiện cụ thể. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, “Nhân lực” được hiểu là sức lực của con người bao gồm sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi con người (trí lực) và những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). “Nhân lực” với ý nghĩa đầy đủ bao gồm ba yếu tố: Thể lực, trí lực và tâm lực. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, trí lực giữ vai trò quyết định, nhưng thể lực và tâm lực là điều kiện cần thiết không thể thiếu đối với sự phát triển của nguồn nhân lực. Tổ chức Liên Hợp quốc (2014) đã đưa ra khái niệm: “Nguồn nhân lực là tất cả kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao có thể được hiểu “Là một bộ phận của nguồn nhân lực trong xã hội, được thể hiện vai trò nòng cốt, tiêu biểu đáp ứng những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn”. Theo TS. Nguyễn Văn Lưu (2016), Khái niệm nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được hiểu là một bộ phận đặc biệt của nguồn nhân lực du lịch, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đảm nhiệm các chức danh quản lý nhà nước về du lịch, hoạt động sự nghiệp du lịch (nghiên cứu và đào tạo du lịch), quản trị doanh nghiệp du lịch, các lao động lành nghề là những nghệ nhân, những nhân lực du lịch trực tiếp được xếp từ bậc 3 trở lên, đang làm việc trong các lĩnh vực của ngành du lịch, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững, có trách nhiệm của ngành du lịch (Lưu, 2016, trích dẫn bởi Lan, 2020). Như vậy, có thể hiểu, muốn có đội ngũ nguồn nhân lực du lịch chất lượng, đáp ứng cho phát triển du lịch thì việc nâng cao chất lượng đào tạo là hết sức cần thiết. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch là quá trình hoàn thiện liên tục chương trình đào tạo nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có thể lực, trí lực và tâm lực thể hiện vai trò nòng cốt, tiêu biểu, đáp ứng những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. 3.2. Nhu cầu đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong du lịch Việt Nam là quốc gia đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Ngành Du lịch cũng là một trong những ngành đóng vài trò then chốt cho việc phát triển kinh tế đất nước, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Đối với ngành Du lịch, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết giúp ngành phát triển nhanh và bền vững. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch, chúng ta cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực ở tất cả các cấp bậc học, nhưng phải đảm bảo được chất lượng đội ngũ được đào tạo. Nếu chất lượng đào tạo cao, đội ngũ sinh viên ra trường sẽ đóng góp rất thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững của ngành. Ngành Du lịch luôn là một trong những ngành học được nhiều sinh viên lựa chọn theo học bởi nhiều lý do khác nhau, trong đó nhu cầu đi du lịch của du khách ngày một tăng cao giúp ngành ngày càng phát triển, tạo ra giá trị kinh tế cho xã hội, công ăn việc làm cho người lao động là lý do chính yếu của người học. Theo “Quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt, là đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ, hiện 30
- đại; Sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành Du lịch phát triển. Mục tiêu cụ thể về việc làm cho ngành Du lịch đến năm 2025 là 3,5 triệu (trong đó 1,05 triệu lao động trực tiếp), năm 2030 là 4,7 triệu (trong đó 1,4 triệu lao động trực tiếp) (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, 2014). Về đào tạo nguồn nhân lực du lịch, cả nước hiện có gần 200 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có 62 trường đại học có khoa du lịch, 55 trường cao đẳng, 71 trường trung cấp, 4 trung tâm về dạy nghề. Công tác đào tạo nhân lực du lịch dù đạt tới kiến thức, kỹ năng theo các tiêu chuẩn đã được thỏa thuận trong khu vực và mở rộng ra phạm vi toàn cầu nhưng chưa đạt kỳ vọng. Cơ sở du lịch ngày càng tăng, nhưng năng lực đào tạo còn hạn chế (Mẫn, 2022). Thực tế nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam toàn ngành có khoảng 4 triệu lao động, trong đó có 1,5 triệu lao động trực tiếp, với 42% được đào tạo chuyên ngành Du lịch, 35% được đào tạo chuyên ngành khác, 20% chưa qua đào tạo. Trong tổng số 42% lao động được đào tạo về du lịch, chỉ có 10% lao động có trình độ đại học và sau đại học (chiếm 3,5%). Khoảng 50% lao động có trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng (chiếm 20%) và 40% còn lại là lao động được bồi dưỡng qua các lớp ngắn hạn. Khoảng 60% lao động trong lĩnh vực biết và sử dụng các ngoại ngữ khác nhau. Trong đó, tiếng Anh chiếm tỷ lệ cao nhất với hơn 50% nhân lực toàn ngành (Tuấn & Quang, 2020). Theo báo cáo của Tổng cục Du lịch, nguồn cung nhân lực du lịch vẫn đang đặt ra rất nhiều vấn đề khi chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi, đặc biệt đối với nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Việc thiếu hụt lao động trong ngành Du lịch rất đáng lo ngại khi có đến 72%-82% lực lượng lao động bị mất việc làm hoặc chuyển nghề khác do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Việc tuyển dụng nhân lực khá khó khăn, vì nhân lực du lịch đã chuyển đổi sang ngành nghề mới. Đánh giá về nhu cầu nhân lực sau đại dịch, theo Hiệp hội Du lịch Việt Nam, ngành Du lịch cần khoảng 485.000 lao động trong cơ sở lưu trú du lịch cho công suất trên 70%, trong đó nhân sự quản trị cần khoảng 45.000 người. Dự báo tăng trưởng du lịch Việt Nam, đến năm 2025 cả nước cần có 950.000-1.050.000 buồng lưu trú và đến năm 2030 cần 1.300.000-1.450.000 buồng. Như vậy, năm 2025, cầu về lao động khối cơ sở lưu trú du lịch khoảng hơn 800.000 và năm 2030 là hơn 1 triệu, giai đoạn 2022-2030, trung bình cần bổ sung mỗi năm trên 60.000 lao động (Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 2023). Ông Vũ Thế Bình, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam thừa nhận. Nhân lực cũng là điểm yếu của du lịch Việt Nam kể cả trước khi có dịch COVID-19. Ngay trong lúc thịnh vượng nhất, nhân lực du lịch cũng bộc lộ rất nhiều bất cập như: Phát triển một cách ồ ạt, không có định hướng rõ ràng, không được quản lý chặt chẽ, các tiêu chuẩn nghề nghiệp không được tuân thủ… Những điều đó phần nào làm 'méo mó' hình ảnh du lịch Việt Nam" (Hà, 2022). Không chỉ thiếu, nhân lực ngành Du lịch còn bị đánh giá yếu về chuyên môn. Theo thông tin từ Tổng cục Du lịch, năng suất lao động ngành Du lịch Việt Nam thuộc hạng thấp nhất trong khu vực, đạt 3.477 USD/năm/người, chưa bằng 1/2 lần so với Thái Lan và chỉ bằng 1/15 so với Singapore. (Nam. N, 2019). Thực tế cho thấy, nguồn cung lao động du lịch chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi kinh tế, đặc biệt là các lao động có trình độ chuyên môn cao. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, hằng năm với định hướng phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn, cần đến 40.000 lao động có trình độ, thì các trường đào tạo nghề, trường cao đẳng hiện nay cũng chỉ đáp ứng được khoảng 15.000 (Tuấn & Quang, 2020). Như vậy, sự thiếu hụt rất lớn. Mặc dù được đào tạo chính quy tại các trường nhưng trong thực tế công việc tại các doanh nghiệp cho thấy, nhiều lao động không đáp ứng được chuyên môn, đa số sinh viên khi ra trường đều phải được doanh nghiệp đào tạo lại cho phù hợp với nhu cầu thực tế. Ngoài ra, hơn một nửa lao động làm việc trong du lịch lại rất yếu về ngoại ngữ, đây là một hạn chế rất lớn, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ cho hoạt động du lịch, đặc biệt doanh thu phần lớn đến từ du khách nước ngoài. Vì vậy, tại nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, các vị trí lao động quản lý cấp cao đều là do người nước ngoài đảm nhiệm. Điều đó chỉ ra rằng, lao động du lịch 31
- Việt Nam còn yếu về chuyên môn, kỹ năng và ngoại ngữ, đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt về vị trí việc làm với người nước ngoài trên chính sân chơi của mình. 3.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại trường Đại học Thủ Dầu Một 3.3.1 Thực trạng về chất lượng nguồn tuyển sinh đầu vào Để đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó chất lượng sinh viên đầu vào có ảnh hưởng không nhỏ. Nếu chất lượng sinh viên đầu vào tốt, cùng với chương trình đào tạo chất lượng, với chuẩn đầu ra khắt khe sẽ cho ra đội ngũ người lao động có trình độ chuyên môn cao. Vì lẽ đó, nếu nền tảng kiến thức phổ thông vững chắc sẽ là tiền đề cho việc tiếp thu nhanh chóng lý thuyết bậc đại học, dành nhiều thời gian cho hoạt động thực hành, ứng dụng thực tế tại nhà trường và doanh nghiệp. Đa phần sinh viên được tuyển sinh đầu vào tại trường hầu hết đến từ các huyện, thành phố thuộc tỉnh Bình Dương, một số ít đến từ các tỉnh thành lân cận ở khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Miền Trung. Nhìn chung, chất lượng tuyển sinh đầu vào của ngành phụ thuộc vào mức điểm xét tuyển và hình thức xét tuyển. Những năm gần đây, sinh viên trúng tuyển chủ yếu thông qua hình thức xét tuyển học bạ chiếm phần đông, mức điểm trúng tuyển không cao so với mặt bằng chung các trường đại học, nếu không muốn nói là thấp. Ngoài ra, đa phần các em còn chưa được định hướng nghề nghiệp một cách đúng đắn, các em đăng ký ngành học theo cảm tính, theo số đông, theo nhu cầu xã hội, nguyện vọng của người thân. Trong những năm qua, chương trình Du lịch thuộc Khoa Công nghiệp Văn hóa luôn đạt được mức tuyển sinh đầu vào ở mức ổn định, đủ và vượt chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường và bộ phê duyệt. Bảng 1. Số lượng sinh viên của chương trình qua các năm Đơn vị tính: người Năm học 2020-2021 2021-2022 2022-2023 2023-2024 Số lượng 79 81 88 78 (Nguồn: Chương trình du lịch cung cấp, 2024) Sinh viên theo học tại chương trình Du lịch được đào tạo và cấp bằng cử nhân du lịch với các học phần chuyên nghành chính về lữ hành và lưu trú, học tập chung theo quy chế đào tạo tín chỉ. Hiện nay, chương trình đang có 326 sinh viên theo học. Nhìn chung, sinh viên đa số đến từ khu vực có nền kinh tế phát triển, hoạt động học tập và kỹ năng xã hội được trang bị tương đối tốt. Sinh viên có tính năng động, sáng tạo và khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng nhanh chóng. Tuy nhiên, việc xét tuyển bằng hình thức học bạ, với điểm xét tuyển đầu vào thấp chỉ bằng hoặc cao hơn điểm sàn là một lý do khiến cho chất lượng sinh viên không cao. Du lịch là một ngành dịch vụ, đòi hỏi kiến thức sâu rộng, niềm đam mê, khả năng giao tiếp, vốn ngoại ngữ…Vì vậy việc xét tuyển dựa trên học bạ chưa thể sàng lọc, đánh giá đúng được chất lượng sinh viên tuyển sinh cho hoạt động đào tạo. Thực tế khi giảng dạy cho thấy có nhiều sinh viên phát âm sai, nói ngọng, giọng nói khó nghe. Khả năng giao tiếp cũng là một vấn đề không nhỏ ở sinh viên, mặc dù môi trường học tập hiện nay tại các cấp học phổ thông đều trang bị cho các em kỹ năng giao tiếp và hợp tác; ngoại ngữ; trải nghiệm. Một vấn đề nữa trong thực tế giảng dạy cho thấy, trình độ kiến thức về ngoại ngữ và công nghệ thông tin là một vấn đề lớn. Trong thời đại số hóa và hội nhập, kỹ năng về ngoại ngữ và công nghệ thông tin là điều tiên quyết, không đòi hỏi quá cao với sinh viên đầu vào nhưng ít nhất sinh viên cũng phải có nền tảng cơ bản, khi thực tế chứng minh đa số sinh viên đầu vào không đăng ký thi vượt xét lớp ngoại ngữ với khung năng lực ngoại ngữ không chuyên 6 bậc. Kỹ năng sử dụng máy tính để hoàn thành các bài tập, báo cáo, tiểu luận còn rất hạn chế. Điều đó cho thấy nếu không có sự kế thừa kỹ năng cơ bản này qua các cấp học thì rất khó đảm bảo tốt cho hoạt động đào tạo. Ngoài ra, sinh viên đầu vào cho đào tạo cần phải thể hiện sự hiểu biết tốt các kiến thức nền tảng các môn khoa học xã hội như địa lý, lịch sử, văn học, nghệ thuật, âm nhạc…sẽ giúp cho hoạt động đào tạo thực sự hữu ích. Sinh viên nhanh chóng tiếp thu lý thuyết, giảng viên dành nhiều thời gian cho các hoạt động thực hành, mô phỏng. Nhưng thực tế đào tạo những năm qua cho thấy, sinh 32
- viên tuyển sinh mới còn rất yếu về vốn kiến thức xã hội, giảng viên cần nhiều thời gian để chỉ dạy cho sinh viên, vì vậy khó có thể truyền đạt sâu những kiến thức chuyên ngành, liên hệ thực tiễn cần thiết cho sinh viên khi mà thời lượng học tập có giới hạn. 3.3.2. Thực trạng về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất và liên kết đào tạo Một sản phẩm tốt được quyết định bởi nhiều yếu tố như chi phí, chất lượng đầu vào, mức độ ứng dụng công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Để nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng viên đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra nguồn nhân lực du lịch có chất lượng. Từ năm 2020, Trường Đại học Thủ Dầu Một bắt đầu đào tạo và cấp bằng Cử nhân du lịch với các kiến thức chuyên ngành lữ hành, lưu trú và sự kiện. Khi đó, đội ngũ giảng viên gồm có 10 người, trong đó có 7 giảng viên được chuyển từ ngành gần là địa lý học sang giảng dạy du lịch và 3 giảng viên tuyển mới. Tất cả các thầy cô đều có trình độ thạc sĩ chuyên ngành hoặc ngành gần tham gia giảng dạy như địa lý học, dân tộc học, văn hóa học. Theo định hướng phát triển của nhà trường, năm 2021 Khoa Công nghiệp Văn hóa được thành lập, định hướng phát triển các ngành Công nghiệp Văn hóa, trong đó ngành Du lịch được xem là trọng tâm. Đội ngũ giảng viên được tăng cường tới 7 giảng viên, trong đó có 4 giảng viên đang hoàn thành đào tạo thạc sĩ chuyên ngành tại nước ngoài. Trong thời gian từ 2022 đến nay, chương trình Du lịch đã ổn định và ngày càng phát triển, số lượng sinh viên tăng, chất lượng đội ngũ giảng viên được nâng lên. Hiện nay số cán bộ giảng viên trong chương trình là 14: trong đó trình độ Tiến sỹ: 03; Thạc sỹ: 11. Giảng viên trong Khoa, chương trình nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc, say mê trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, luôn quan tâm, gần gũi sinh viên. Mặc dù trình độ giảng viên của chương trình đã được nâng lên đáng kể về chất lượng và số lượng, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Số giảng viên nữ đông (10/14 cán bộ giảng viên là nữ), nhiều giảng viên có tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp chưa có nhiều, mức thu nhập còn chưa đủ trang trải cuộc sống… Do vậy công tác đưa sinh viên đi thực tế, thực tập ngoài trường gặp không ít khó khăn. Để khắc phục được những hạn chế này cần phải có thời gian và điều kiện nhất định. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo trong những năm gần đây đã được nhà trường quan tâm trang bị. Nhiều thiết bị giảng dạy như máy chiếu, bảng, máy lạnh, bàn ghế, thiết bị âm thanh đều đảm bảo cho dạy các học phần lý thuyết. Đối với các học phần thực hành, cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ như phòng thực hành, mô phỏng với giường, nệm, dụng cụ pha chế… cho đào tạo các học phần nghiệp vụ chuyên ngành như pha chế, buồng phòng, bàn, bar hay nghiệp vụ hướng dẫn. Tuy nhiên, một số hoạt động thực hành, thực tế theo từng học phần vẫn cần liên kết với các doanh nghiệp để gửi sinh viên. Điều đó cho thấy, cơ sở vật chất cần được trang bị tốt và đầy đủ hơn nữa để nâng cao chất lượng thực hành ngay tại trường. Để khắc phục tình trạng thiếu về trang thiết bị, Khoa và chương trình đã có những hoạt động liên kết đào tạo với các doanh nghiệp du lịch tại địa phương như hệ thống khách sạn từ 3-5 sao như Fairfiel by Marriot, Hive by Fusion, Bcons Bình Dương, …trong việc đưa sinh viên đi thực hành, thực tập các học phần nghiệp vụ buồng phòng, lễ tân, pha chế…; Liên kết với các cơ quan quản lý về du lịch tại địa phương như Trung tâm Xúc tiến Du lịch, Hiệp hội Du lịch tỉnh Bình Dương để đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch của tỉnh; Phối hợp với cơ quan quản lý về du lịch tại địa phương tổ chức các cuộc thi về du lịch như viết bài, thuyết minh giới thiệu về du lịch tỉnh; Liên kết các doanh nghiệp lữ hành cho sinh viên thực tập, thực tế các học phần nghiệp vụ điều hành, thiết kế và bán sản phẩm du lịch, hướng dẫn; Mời các chuyên gia giỏi trong từng chuyên ngành đến tham gia các talkshow về thực tế nghề nghiệp, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của nghề cho sinh viên; Một số học phần nghiệp vụ đã mời các anh, chị có kinh nghiệm trong nghề đến tham gia vào các buổi hướng dẫn sinh viên thực hành tại trường, truyền đạt các kiến thức thực tế. Bên cạnh đó, đã có nhiều hoạt động bổ trợ kỹ năng nghề nghiệp: Phối hợp với một số công ty tổ chức sự kiện tổ chức tập huấn Teambuilding, hoạt náo, pha chế… Công tác thực tế, thực tập của sinh viên được chú trọng, khi sinh viên đến thực tập tại doanh nghiệp đều có sự hướng dẫn trực tiếp từ các nhân viên có kinh nghiệm hoặc các trưởng bộ phận, điều đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Chương trình Du lịch. Để đảm bảo chất lượng đào tạo, khắc phục về tình trạng giảng viên chưa đúng chuyên ngành, nhà trường đã khuyến khích các giảng viên học nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ bám sát với thực tế 33
- đào tạo. Đa phần giảng viên đã tự chủ động, sắp xếp thời gian vừa giảng dạy, vừa học thêm các nghiệp vụ để nâng cao trình độ, đáp ứng tốt chất lượng cho đào tạo. 3.4. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại trường Đại học Thủ Dầu Một Qua phân nhu cầu nguồn nhân lực du lịch trong nước và kết quả nghiên cứu về thực trạng chất lượng đào tạo đã chỉ ra: nhu cầu nhân lực cho ngành Du lịch là rất lớn, đặc biệt là trong bối cảnh ngành Du lịch đang phục hồi và tăng trưởng tốt, trong khi nguồn đào tạo trong nước còn hạn chế về chất lượng và số lượng; Thực trạng chất lượng đào tào du lịch của trường Đại học Thủ Dầu Một còn nhiều hạn chế như chất lượng nguồn tuyển sinh đầu vào; Chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và liên kết hợp tác. Vì vậy, tác giả đề xuất một giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch như sau: Thứ nhất, cần điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với thực tế công việc tại doanh nghiệp, hướng các học phần chú trọng vào thực hành, có tính thực tiễn nghề nghiệp cho sinh viên. Các chương trình đào đạo cần được thường xuyên điều chỉnh hàng năm cho phù hợp với những thay đổi của nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó chương trình cần tham khảo thêm bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp du lịch Việt Nam (VTOS), các chương trình đào tạo thực tế tại các tập đoàn khách sạn, công ty lữ hành lớn để đảm bảo tính cập nhật mới cho hoạt động dạy và học. Thứ hai, trang bị tốt các kiến thức và kỹ năng các học phần về ngoại ngữ và tin học. Đây là hai nhóm kiến thức rất cần thiết cho sinh viên khi ra trường, ngoài năng lực chuyên môn. Ngoại ngữ và tin học sẽ giúp cơ hội việc làm của sinh viên rộng mở hơn, khi du lịch quốc tế ngày càng mở rộng, khách quốc tế đến Việt Nam ngày một tăng nhanh. Vì vậy cần sớm có lộ trình dạy một số học phần nghiệp vụ bằng tiếng Anh cho sinh viên, quốc tế hóa ngôn ngữ là điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, cần khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên vừa giảng dạy, vừa tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học như các hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế. Điều này giúp cho chuyên môn của giảng viên được nâng lên, các kiến thức thực tiễn thông qua các công trình nghiên cứu được làm mới liên tục, phục vụ hữu ích cho hoạt động giảng dạy. Thứ ba, nhà trường cần quan tâm hơn nữa trong việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Mặc dù, trường Đại học Thủ Dầu Một có trang bị phòng thực hành mô phỏng các nghiệp vụ về lữ hành, nhà hàng, khách sạn, sự kiện cho sinh viên theo học nhưng vẫn chưa đạt chuẩn, còn nhiều hạn chế. Chỉ khi có cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng đủ và đúng tiêu chuẩn thì chất lượng đào tạo hoạt động du lịch sẽ được nâng lên, uy tín đào tạo cũng được xã hội công nhận, hoạt động tuyển sinh sẽ tốt hơn. Ngoài ra, các phòng thực hành cần phải được trang bị các phần mềm hữu ích cho công việc được sử dụng tại các doanh nghiệp du lịch như phần mềm về hệ thống giữ chỗ khách sạn trong hệ thống phân phối toàn cầu (GDS), phần mềm hệ thống đăng ký thông tin (CRS), phần mềm quản trị doanh nghiệp du lịch (booking, điều hành tour, quản trị nhân sự), phần mềm quản lý quan hệ khách hàng (CRM), phần mềm quản lý bán hàng (POS) để cho sinh viên có thể tiếp cận học tập. Việc mở thêm các công ty con trong lĩnh vực du lịch trực thuộc nhà trường làm nơi cho sinh viên thực hành, thực tế cũng là điều cần nghĩ đến. Nó vừa tạo điều kiện cho sinh viên học tập thực tế, vừa có các hoạt động kinh doanh. Thứ tư, đẩy mạnh việc đào tạo các kỹ năng mềm cho sinh viên. Kỹ năng mềm là nhóm kỹ năng rất quan trọng cho công việc. Các kỹ năng cần thiết như kỹ năng về giao tiếp, thuyết trình, soạn thảo văn bản, lưu trữ và bảo mật thông tin, lập bảng tính, điều hành quản lý …Để làm được điều này, ngoài các trung tâm đào tạo trực thuộc trường hiện đang đào tạo các kỹ năng về xã hội, thì cần phải đẩy mạnh các hoạt động của các hội nhóm như đoàn khoa, trường, các câu lạc bộ… để cho sinh viên có thể trao đổi học hỏi kinh nghiệm. Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp du lịch tại địa phương trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các trung tâm hội nghị, tổ chức sự kiện và đặc biệt quan tâm hơn nữa đến việc liên kết với các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương. Việc liên kết sẽ giúp định hướng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nắm bắt được xu thế phát triển của ngành, 34
- tăng cường tính thực hành cho sinh viên, tăng cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên du lịch. Hơn nữa, nhà trường cần đa dạng hóa các loại hình liên kết trong việc đào tạo nguồn nhân lực như đẩy mạnh liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước, giúp đưa sinh viên giao lưu, học hỏi và tích lũy những kiến thức cần thiết cho nghề nghiệp. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng cần phải được khuyến khích và đẩy mạnh. Nghiên cứu khoa học ở sinh viên sẽ giúp nâng cao được trình độ kiến thức, rèn luyện được kỹ năng phân tích, phát huy tính sáng tạo. 4. KẾT LUẬN Bình Dương là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, với nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn đa dạng và phong phú. Đó là điều kiện cần cho hoạt động phát triển du lịch, nhưng chưa đủ. Để phát triển du lịch, Bình Dương cần phải làm tốt nhiều yếu tố khác như nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, chính sách cơ chế…Trường Đại học Thủ Dầu Một là một trong số ít các trường hiện đang đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho tỉnh và Đông Nam Bộ. Nghiên cứu đã chỉ ra, nhà trường cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo thông qua việc: Tăng cường liên kết doanh nghiệp, cơ quan quản lý du lịch địa phương; Tăng cường cơ sở vật chất cho thực hành; Đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên; Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học đối với sinh viên và giảng viên; Tăng cường trình độ về ngoại ngữ và tin học đối với giảng viên và sinh viên; Xây dựng chương trình đào tạo gắn với thực tế nghề nghiệp; Trang bị các kỹ năng mềm cho sinh viên. Nếu làm tốt những điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Trường Đại học Thủ Dầu Một. Uy tín và thương hiệu của nhà trường trong lĩnh vực du lịch sẽ được xã hội và doanh nghiệp biết đến. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Biên, Đ. T. K. (2023). Khắc phục sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành du lịch Việt Nam hiện nay. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 19. https://kinhtevadubao.vn/khac-phuc-su-thieu-hut-nguon- nhan-luc-chat-luong-cao-trong-nganh-du-lich-viet-nam-hien-nay-28077.html 2. Cúc, N. S. (2014). Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Tạp chí điện tử Lý luận Chính Trị, 2. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/788-nguon-nhan-luc-va-phat-trien-nguon-nhan- luc.html 3. Chính Phủ (2014). Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Số 201/QĐ-TTg). https://bvhttdl.gov.vn/quy-hoach-tong-the-phat-trien-du-lich-viet-nam-den-nam-2020- tam-nhin-den-nam-2030-9765.htm 4. Hà, N. (2022). Nhận đặt hàng nhân lực quốc tế, Việt Nam chỉ cung cấp được người quét dọn. https://vietnamnet.vn/nhan-yeu-cau-cung-cap-nhan-luc-tam-827502.html 5. Lan, L. T. N. (2020). Phát triển du lịch chất lượng cao của tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Quản lý và Kinh tế Quốc tế - Đại học Ngoại Thương, 114. https://bom.so/XstXy9 6. Mẫn, H. (2022). Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch. https://dangcongsan.vn/kinh- te/dao-tao-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-cho-nganh-du-lich-616993.html 7. Nam, N. (2019). Nhân lực ngành du lịch: Cầu tăng, cung chưa đáp ứng. https://vietnamtourism.gov.vn/post/29687 8. Rỹ, V. T. (2021). Quan niệm về chất lượng và hiệu quả giáo dục. https://hoitamlygiaoduc.org/quan-niem- ve-chat-luong-va-hieu-qua-giao-duc/ 9. Tuấn, N. A. & Đăng, L. Q. (2020). Phát triển nhân lực du lịch trong bối cảnh cách mạng công nghệ số, Tạp chí điện tử Du lịch, Địa chỉ: https://vtr.org.vn/phat-trien-nhan-luc-du-lich-trong-boi-canh-cach-mang- cong-nghe-so.html 35

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phát triển du lịch bền vững tỉnh Bình Thuận – ThS. La Nữ Ánh Vân
18 p |
342 |
88
-
Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến du lịch tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2015-2020
8 p |
128 |
11
-
Những thay đổi của ngành dịch vụ du lịch trong nền kinh tế số hóa
11 p |
5 |
2
-
Nâng cao chất lượng dạy học môn Khiêu vũ thể thao cho sinh viên trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
8 p |
3 |
2
-
Ứng dụng Chat GPT trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại các cơ sở giáo dục đào tạo - Case Study Trường Cao đẳng Quảng Nam
17 p |
3 |
2
-
Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái tại khu du lịch Tràng An, tỉnh Ninh Bình
8 p |
15 |
2
-
Phát triển du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu - Thực trạng và giải pháp
6 p |
8 |
2
-
Thực trạng quảng bá du lịch Quảng Ninh trên báo điện tử và một số hàm ý chính sách (Khảo sát báo điện tử Quảng Ninh, Tiền Phong, Lao Động, Thanh Niên)
10 p |
6 |
2
-
Tổng quan về phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng chiến khu Việt Bắc
12 p |
3 |
2
-
Phát triển nguồn nhân lực dẫn chương trình sự kiện du lịch chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay
10 p |
4 |
1
-
Thực trạng và giải pháp tổ chức cuộc thi thuyết minh du lịch ở một số trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
9 p |
4 |
1
-
Phát triển du lịch ẩm thực tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
8 p |
4 |
1
-
Cơ hội và thách thức trong phát triển nguồn nhân lực du lịch tỉnh Đắk Nông
9 p |
2 |
1
-
Một số giải pháp nâng cao nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh Đắk Nông trong bối cảnh hội nhập
6 p |
1 |
1
-
Nâng cao chất lượng dạy học môn Khiêu vũ thể thao cho sinh viên trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
8 p |
5 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
