
405
MỘT SỐ GỢI Ý SỬ DỤNG KỸ THUẬT DR-TA
TRONG DẠY ĐỌC VĂN BẢN TRUYỆN Ở LỚP 10
Trần Huỳnh Tâm Anh, Nguyễn Thị Ngọc Thuý
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Bài viết này khảo sát tính khả thi của việc vận dụng kỹ thuật DR-TA trong
việc hướng dẫn đọc truyện cho học sinh lớp 10 nhằm đáp ứng các yêu cầu cần
đạt của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018. Bối cảnh dạy
học Ngữ văn ở Việt Nam được phân tích để cho thấy sự cần thiết của việc dạy
đọc bằng kĩ thuật DR-TA, đồng thời dẫn chứng một số công trình khoa học vận
dụng kỹ thuật này trong dạy học thực tế. Từ đó hệ thống hoá các vấn đề liên quan
đến khái niệm, ưu điểm, hạn chế và nguyên tắc sử dụng kỹ thuật DR-TA kèm
minh hoạ quy trình sử dụng. Cuối cùng, một số gợi ý sư phạm được đề xuất để
dạy đọc truyện bằng kỹ thuật DR-TA trên cơ sở hoạt động đọc của người học.
Từ khóa: DR-TA; dạy học Ngữ văn; Chương trình Giáo dục phổ thông
môn Ngữ văn năm 2018; Lớp 10
1. Giới thiệu
Chương trình GDPT môn Ngữ văn năm 2018 đã đặt ra một thách thức lớn
đối với bối cảnh dạy học Ngữ văn trong nước: từ dạy học “cái” theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng của Chương trình GDPT 2006 chuyển sang dạy học “cách” theo
yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực. Sự thay đổi này không chỉ đòi hỏi giáo
viên phải bồi dưỡng kiến thức chuyên môn mà còn phải đầu tư vào việc lựa chọn,
sử dụng phương pháp và kỹ thuật dạy học phù hợp. Với Chương trình GDPT
môn Ngữ văn 2018, việc tổ chức dạy học cần đáp ứng được các yêu cầu cần đạt,
cụ thể là những yêu cầu liên quan đến phẩm chất, năng lực chung và năng lực
đặc thù của học sinh. Đứng trước viễn cảnh đó, chúng tôi nhận thấy không thể
dạy học bình giảng như trước đây mà phải vận dụng những phương pháp và kỹ
thuật dạy học nhằm hướng dẫn học sinh tự hình thành phẩm chất và năng lực.
Trong đó, Directed Reading and Thinking Activity - Hoạt động Đọc-Tư duy có
định hướng (DR-TA) là một trong những kỹ thuật dạy học phù hợp.
Ở các nước trên thế giới, kỹ thuật này đã được vận dụng rộng rãi trong
dạy học đọc hiểu văn bản. Minh chứng cho điều ấy có thể được tìm thấy trong
những công trình nghiên cứu như Stauffer (1969)
1
, Ruddell (1997)
2
, Blachowicz
1
R. G. Stauffer (1969), Teaching reading as a thinking process, New York: Harper & Row.
2
M. Ruddell (1997), Teaching content reading and writing, New York: John Wiley & Sons

406
& Ogle (2008)
1
… Các công trình trên chủ yếu trình bày khái niệm, định hướng
sử dụng, khái quát thao tác… và cách vận dụng DA-TA vào việc dạy đọc hiểu
văn bản. Tuy nhiên, những tài liệu này chưa đề cập cụ thể việc vận dụng DR-TA
trong dạy đọc hiểu văn bản văn học và việc vận dụng chúng ở bối cảnh giáo dục
Việt Nam. Trong khi đó, ở Việt Nam, Giáo trình phương pháp dạy đọc văn bản
của Nguyễn Thị Hồng Nam và Dương Thị Hồng Hiếu (2022) là tài liệu duy nhất
giới thiệu về kỹ thuật này. Tuy nhiên, nội dung giới thiệu vẫn chỉ tạm dừng ở
mức độ khái quát và chưa đề cập đến những cách thức ứng dụng cụ thể vào thực
tiễn dạy học đọc hiểu. Trước thực trạng ấy, chúng tôi nhận thấy có một số vấn
đề còn bỏ ngỏ trong việc tìm hiểu về cách thức vận dụng DR-TA trong dạy học
đọc hiểu như chưa xác lập các nguyên tắc, giới thiệu quy trình cụ thể sử dụng
DR-TA.
Về mặt thực tiễn dạy học, có nhiều công trình đã công bố cho thấy tính
khả thi của việc vận dụng DR-TA trong dạy đọc hiểu văn bản văn học. Trong số
đó, Chaemsai & Rattanavich (2016)
2
đã thực hiện đối chiếu giữa cách dạy truyền
thống với việc vận dụng DR-TA trong dạy đọc văn bản truyện và giáo dục đạo
đức; Wahyuni (2016)
3
không chỉ tổng hợp lý thuyết mà còn kết hợp chứng minh
hiệu quả của kỹ thuật bằng kết quả thực nghiệm sư phạm. Hoặc gần đây hơn,
Nuntanoi & Pengpoom (2020)
4
đã đã vận dụng DR-TA kết hợp các trò chơi từ
vựng để phát triển khả năng học tập môn Ngữ văn của học sinh lớp 7. Tác giả
cũng triển khai thực nghiệm sư phạm và chỉ ra sự hiệu quả nhất định của việc
kết hợp này. Nhận thấy đã có nhiều công trình và quốc gia vận dụng DR-TA,
chúng tôi cho rằng việc sử dụng DR-TA trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học
ở Việt Nam là khả thi và cần thiết phải đề xuất một số cách vận dụng kỹ thuật
này sao cho phù hợp với bối cảnh dạy học thực tiễn. Vì vậy, bài viết này sẽ đưa
ra một số gợi ý cho việc vận dụng kỹ thuật này để dạy đọc hiểu văn bản truyện
ở lớp 10 trong Chương trình GDPT Ngữ văn 2018.
1
C. Blachowicz, D. Ogle (2008), Reading comprehension - Strategies for independent learners, New
York: The Guilford Press.
2
R. Chaemsai, S. Rattanavich (2016), “The directed reading-thinking activity (DR-TA) and the
traditional approach using tales of virtue based on his majesty the king’s teaching concepts in seventh
grade students’ reading comprehension”, English Language Teaching, 9 (9), pp. 18-27, DOI:
10.5539/elt.v9n9p18
3
A. D. Wahyuni (2016), The effectiveness of using DR-TA strategy in teaching reading recount text at
the tenth grade students of sma negeri 1 petanahan in the academic year of 2015/2016, [Bachelor thesis,
Purworejo Muhammadiyah University], Purworejo Muhammadiyah University Repository.
4
C. Nuntanoi, B. Pengpoom (2020) Using vocabulary games with directed reading thinking activity (dr-
ta) to develop the literature learning achievement in “khlong lokaniti” for 7th grade students.
ratchaphruek journal, 18 (3), pp. 47-55.

407
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp...
được sử dụng để xử lý các nguồn tài liệu đáng tin cậy liên quan đến nội dung đề
tài như: các quan niệm khác nhau về khái niệm và sử dụng DR-TA, vấn đề sử
dụng DR-TA trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học và quá trình tiếp nhận loại
văn bản này, đồng thời tiến hành phân tích để khái quát hóa vấn đề và xây dựng
cơ sở lý thuyết cho nghiên cứu.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kỹ thuật DR-TA: khái niệm, ưu điểm, hạn chế và nguyên tắc sử dụng
3.1.1. Khái niệm kỹ thuật DR-TA
Trước tiên, DR-TA là kỹ thuật dạy đọc được đề xuất bởi Stauffer (1969).
Theo đó, DR-TA là “một mô hình hướng dẫn mà ở đó hoạt động đọc được xem
là quá trình giải quyết vấn đề trong ngữ cảnh xã hội”. Tiếp theo, Ruddell (1997)
đã giải thích về kỹ thuật này như sau: “DR-TA hướng dẫn học sinh đọc văn bản
bằng việc giáo viên yêu cầu học sinh đưa ra dự đoán và củng cố dự đoán đó trước
khi đọc; rồi sau đó kiểm tra những dự đoán, kết luận và logic của văn bản khi
hoạt động đọc diễn ra”. Cuối cùng, DR-TA còn được đề cập đến trong
Blachowicz & Ogle (2008). Nhóm tác giả quan niệm về kỹ thuật này như sau:
“giáo viên làm việc với một nhóm nhỏ (6-12 học sinh) khi học sinh đọc truyện
ngắn hoặc trích đoạn, và yêu cầu học sinh dừng lại ở những điểm do giáo viên
lựa chọn để suy nghĩ và dự đoán”. Còn theo Nguyễn Thị Hồng Nam và Dương
Thị Hồng Hiếu (2022)
1
, DR-TA được hiểu là “kỹ thuật hướng dẫn học sinh nêu
câu hỏi về văn bản, dự đoán nội dung văn bản, sau đó đọc để xác nhận hoặc bác
bỏ những dự đoán của mình, từ đó điều chỉnh cách hiểu”.
Nhìn chung, cách hiểu của các tác giả có một số điểm chung như sau: (1)
DR-TA được sử dụng trong dạy học đọc hiểu để hình thành kỹ năng đọc cho học
sinh. (2) DR-TA được hầu hết các tác giả nhìn nhận là cách thức, hoạt động của
giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ với thời gian ngắn. (3)
DR-TA bao gồm việc giáo viên hướng dẫn quá trình đọc - tư duy cho học sinh.
Các tác giả đều đề cập đến việc giáo viên chọn văn bản, thiết kế câu hỏi, xác lập
điểm dừng và yêu cầu học sinh củng cố cách hiểu của mình trong quá trình đọc
bằng cách truy xuất thông tin, dữ kiện từ văn bản. Riêng Stauffer (1969) còn giới
thiệu về một giai đoạn mà ở đó vai trò hướng dẫn của giáo viên giảm đến mức
thấp nhất; đó là lúc học sinh đã trở thành một người đọc khá thành thạo. (4) DR-
1
H. N. Nguyen, H.H. Duong (2022), Method of teaching reading text (In Vietnamese), Can Tho
University, Can Tho.

408
TA được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn trong khi đọc. Bên cạnh việc xác lập mục
đích đọc, dự đoán nội dung văn bản qua nhan đề, kỹ thuật DR-TA chủ yếu được
dùng để hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, qua đó hình thành các kỹ năng đọc.
Trên cơ sở đó, chúng tôi xác lập cách hiểu như sau: DR-TA là một kỹ thuật
được sử dụng để dạy học đọc hiểu, ở đó giáo viên với sự định hướng của mình
(thể hiện qua việc chọn văn bản, xác định điểm dừng, thiết kế câu hỏi) sẽ hướng
dẫn học sinh chủ động thực hiện đồng thời thao tác đọc và tư duy ở giai đoạn
trong khi đọc bằng việc học sinh đưa ra cách hiểu tại các điểm dừng do giáo
viên định hướng, tự kiểm chứng và điều chỉnh cách hiểu của bản thân, tiến đến
việc giải mã và tạo nghĩa cho văn bản.
Vì vậy có thể hiểu nội dung ứng với từng ký tự trong cụm từ viết tắt DR-
TA như sau: D-directed (có định hướng): giáo viên định hướng hoat động đọc và
tư duy của học sinh bằng cách đặt ra các câu hỏi tại các điểm dừng để học sinh
đưa ra cách hiểu của mình tại phần/đoạn đó. R-reading (đọc): học sinh đọc văn
bản và dừng lại ở các điểm dừng do giáo viên xác lập để đưa ra cách hiểu của
mình theo các câu hỏi gợi ý. Thông qua những câu hỏi này, kỹ năng đọc của học
sinh được hình thành và củng cố. T-thinking (tư duy): Sau khi đọc xong và trình
bày cách hiểu của mình tại các phần/đoạn nhất định, học sinh suy nghĩ về cách
hiểu đó và tìm những bằng chứng, cơ sở trong văn bản để củng cố, làm rõ cho
cách hiểu của bản thân. A-activity (hoạt động): giáo viên và học sinh đều tham
gia hoạt động khi sử dụng kỹ thuật này. Học sinh là chủ thể đọc văn bản và đưa
ra cách hiểu của bản thân dựa vào những cơ sở trong văn bản, giáo viên là người
nhắc nhở học sinh chỉ ra những bằng chứng cho nhận định của học sinh và hướng
dẫn học sinh hình thành kỹ năng đọc.
3.1.2. Ưu điểm và hạn chế
- Ưu điểm: Trước tiên, DR-TA có khả năng tích cực hóa vai trò của học
sinh. Trong quá trình thực hiện DR-TA, học sinh chủ động đưa ra và kiểm chứng
cách hiểu văn bản, giáo viên chỉ đóng vai trò khơi mở, gợi ý và nhắc nhở học
sinh đưa ra các căn cứ làm cơ sở cho việc hình thành cách hiểu. Học sinh trực
tiếp thao tác trên văn bản và qua đó củng cố kỹ năng đọc. Vì vậy, tích cực hóa
vai trò chủ động của người đọc - học sinh trong quá trình đọc là ưu thế nổi bật
của kỹ thuật DR-TA. Đó cũng là tiêu chí quan trọng để DR-TA có thể được xem
là kỹ thuật dạy học phù hợp với định hướng chọn lựa phương pháp và kỹ thuật
dạy học đáp ứng Chương trình GDPT 2018.
Tiếp theo, DR-TA rất tiện lợi để sử dụng dạy học đọc hiểu văn bản trong
môi trường lớp học. Khi trình bày quy trình sử dụng DR-TA, Ruddell (1997) và

409
Blachowicz & Ogle (2008) không đặt nặng yêu cầu về cơ sở vật chất hay thiết
bị công nghệ. Vì khi sử dụng DR-TA trong thực tế dạy học, chỉ cần một văn bản
(có thể là văn bản in trong sách giáo khoa hoặc được giáo viên in riêng để dạy)
và giấy nháp dùng để ghi chép cách hiểu của bản thân, hỗ trợ học sinh thực hiện
theo yêu cầu của giáo viên tại các điểm dừng được xác định trên văn bản. Bên
cạnh đó, quy trình thực hiện DR-TA cũng khá đơn giản và dễ hiểu, chủ yếu tập
trung vào việc giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện ba hoạt động dự đoán,
đọc và chứng minh lập luận của mình khi đọc đến từng phần/đoạn của văn bản
(Ruddell, 1997). Nhờ vậy, DR-TA được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong dạy
đọc văn bản.
Bên cạnh đó, DR-TA có thể hình thành ở học sinh đa dạng các kỹ năng
đọc. Nếu ở giai đoạn (1), học sinh chủ yếu luyện tập kỹ năng dự đoán và chứng
minh dự đoán thì ở giai đoạn (2), học sinh có thể thực hành các kỹ năng như đọc
lướt, đọc tìm ý chính, tìm từ khóa, làm rõ khái niệm và có thể thực hiện các bài
tập hình thành kỹ năng đọc trong sách giáo khoa hoặc do giáo viên thiết kế
(Tierney, 2005)
1
.
Cuối cùng, việc sử dụng DR-TA giúp quá trình đọc văn bản trong lớp học
tiệm cận với hoạt động đọc văn bản ngoài đời thực. Quá trình đưa ra cách hiểu -
đọc tiếp - xác nhận/ điều chỉnh cách hiểu - tiếp tục đọc là quá trình đọc hiểu thật
sự diễn ra trong đầu người đọc khi họ đọc văn bản (Ruddell, 1997). Kỹ thuật
DR-TA chẳng qua chỉ hữu hình hóa những giai đoạn này qua hoạt động của giáo
viên và học sinh. Đồng thời, học sinh rèn luyện thói quen xác lập cơ sở cho cách
hiểu của mình, từ đó có thể theo dõi quá trình đọc của bản thân qua các bước như
dự đoán, đọc và kiểm chứng. Như vậy, từ những giờ luyện tập và củng cố trong
lớp qua nhiều bài học, học sinh sẽ dần có thói quen đọc văn bản tiệm cận với quá
trình thực đọc sau này. Đây là ưu điểm quan trọng mà DR-TA mang lại cho hoạt
động dạy học đọc hiểu văn bản trong nhà trường.
- Hạn chế: Hạn chế đầu tiên chính là sự lặp lại các câu hỏi yêu cầu học
sinh nêu dự đoán. Khi đến các điểm dừng, giáo viên sẽ đặt các câu hỏi để học
sinh trả lời, qua đó hình thành kỹ năng đọc. Tuy nhiên, việc lặp đi lặp lại những
câu hỏi như thế rất dễ gây nhàm chán. Do đó, khi sử dụng DR-TA, giáo viên có
thể kết hợp đa dạng các hình thức dạy học.
1
R. J. Tierney (2005), Reading strategies and practices: A compendium, (6th Edition), Boston: Allyn &
Bacon.

