
507
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 11
Đỗ Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hà Phương
Khoa Địa lý, Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Trong dạy học Địa lý, bản đồ là phương tiện dạy học có khả năng phản
ánh sự phân bố, mối quan hệ của các đối tượng địa lý một cách cụ thể, sinh động
và trực quan. Việc sử dụng bản đồ theo hướng phát triển năng lực sẽ giúp học
sinh huy động những hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có để tìm tòi và khám phá tri
thức, từ đó vận dụng được kiến thức, kỹ năng địa lý để giải quyết một số vấn đề
thực tiễn. Bài viết này trình bày về quy trình sử dụng bản đồ và biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả trong dạy học Địa lý lớp 11 theo hướng phát triển năng lực.
Qua thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính khả thi của quy trình sử dụng
bản đồ, bài viết đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ
trong dạy học Địa lý lớp 11 tại trường phổ thông theo hướng phát triển năng lực
người học.
Từ khóa: Bản đồ; địa lý; lớp 11; phát triển năng lực
1. Giới thiệu
Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 nêu rõ: “Chương trình giáo
dục trung học phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng
lực cần thiết đối với người lao động...”
1
. Trong các môn học, người học được
cung cấp không chỉ nội dung bài học mà còn hướng người học tới việc phát triển
năng lực, phẩm chất, đáp ứng được những thay đổi của xã hội, nhu cầu hội nhập
của đất nước. Đối với môn địa lý, có rất nhiều phương tiện trực quan khác nhau,
nhưng gần gũi với học sinh nhất phải kể đến là bản đồ. Quá trình nghiên cứu việc
sử dụng bản đồ trong dạy học địa lý đã cho thấy bản đồ là nguồn tri thức giúp
học sinh nâng cao hiểu biết về các khía cạnh không gian văn hóa, môi trường và
kinh tế của quốc gia và lãnh thổ trên thế giới
2
. Sử dụng hiệu quả bản đồ trong
giảng dạy không chỉ giúp học sinh hình thành các biểu tượng địa lý mà còn giúp
phát triển tư duy không gian, năng lực địa lý
3
. Việc sử dụng bản đồ trong dạy
học đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà giáo dục trên thế giới.
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông 2018 - Chương trình tổng thể.
2
W. Taylor, B. Plewe (2006), The effectiveness of interactive maps in secondary historical geography
education, Cartographic Perspectives, 55, pp. 16-33.
3
S. Bednarz, G. Acheson, R. Bednarz (2006). Maps and map learning in social studies. Social education,
70(7), pp. 398-404

508
Nghiên cứu của nhóm tác giả Acheson và Bednarz (2003)
1
đã làm nổi bật vai trò
của bản đồ trong dạy học địa lý, đồng thời nhấn mạnh việc giảng dạy bản đồ
chính là cung cấp cho học sinh những kỹ năng để có thể đọc và giải thích các đối
tượng địa lý trên bản đồ. Taylor và Plewe (2006) đã đưa ra ý tưởng tích hợp việc
sử dụng bản đồ với công nghệ thông tin, chuyển thể bản đồ dưới dạng giấy sang
bản đồ tương tác, kết quả cho thấy việc áp dụng bản đồ tương tác khiến tiết học
lịch sử và địa lý trở lên thú vị và hấp dẫn hơn, học sinh tích cực và hứng thú hơn
trong các hoạt động học tập. Bednarz và cộng sự (2006) đã đưa ra những đánh giá
về khả năng sử dụng bản đồ của giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy
và học tập, từ đó đề xuất cách thức sử dụng bản đồ hiệu quả trong giảng dạy. Ngoài
ra, Khafid
2
cũng đã đề cập đến việc tổ chức các hoạt động học tập giúp học sinh
thao tác trực tiếp trên bản đồ, đã chỉ ra rằng việc tổ chức các hoạt động học tập
tích cực kết hợp với bản đồ không chỉ giúp nâng cao thành tích và sự hứng thú,
mà còn góp phần phát triển năng lực tư duy lãnh thổ khu vực của học sinh.
Ở Việt Nam cũng đã có không ít các công trình nghiên cứu về bản đồ.
Nghiên cứu của tác giả Lâm Quang Dốc (2008)
3
đã làm nổi bật những vấn đề
chung về việc xây dựng và sử dụng hệ thống bản đồ giáo khoa theo tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học địa lý tại trường phổ thông. Tác giả Nguyễn Văn
Luyện (2015)
4
đã đề xuất biện pháp và quy trình sử dụng bản đồ nhằm phát huy
tính tích cực và chủ động để giúp học sinh vận dụng các kỹ năng sử dụng bản đồ
nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tác giả Kiều Văn Hoan và cộng sự (2022)
5
cũng đã đưa ra được quy trình rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ cho học sinh
và cho rằng để phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn địa lý,
bản đồ cần sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực.
Kế thừa những nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả thực hiện nghiên
cứu về việc sử dụng bản đồ trong dạy học địa lý nhằm nâng cao hiệu quả, rèn
luyện cho học sinh năng lực tư duy, khả năng phân tích, chủ động, sáng tạo trong
học tập trên những khía cạnh như sau: Thứ nhất, thiết kế quy trình sử dụng; Thứ
hai, đề xuất các biện pháp sử dụng bản đồ.
1
G. Acheson, S. Bednarz (2003), Maps. Social studies review, 42(2), pp. 77-84.
2
S. Khafid (2016), Membaca dan melengkapi peta dasar untuk meningkatkan kemampuan siswa dalam
memahami materi geografi regional, 15.
3
Lâm Quang Dốc (2008). Những vấn đề chung về xây dựng và sử dụng hệ thống bản đồ giáo khoa theo
tinh thần đổi mới phương pháp dạy học địa lý ở các trường phổ thông. Tạp chí khoa học Đại học Sư
phạm Hà Nội, 53(8), tr. 73-78.
4
Nguyễn Văn Luyện (2015). Utilizing maps in teaching geography to improve student’s activeness. Ho
Chi Minh City University Of Education, 11(77), pp. 59-68.
5
V. H. Kiều, T. T. Hoàng (2022), Using map in teaching geography 6 in secondary towards capacity
development student, HNUE journal of science, 67(4), pp. 29-43

509
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hồi cứu tài liệu được sử dụng để thu thập, nghiên cứu sách,
báo, các tài liệu lý luận và công trình nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước
nhằm tìm hiểu đầy đủ, toàn diện cơ sở lý luận của việc sử dụng bản đồ trong dạy
học địa lý, từ đó, xây dựng quy trình sử dụng bản đồ theo hướng phát triển năng
lực người học. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu thực nghiệm được tiến
hành trên một lớp thực nghiệm và một lớp đối chứng, sử dụng phương pháp khảo
nghiệm nhằm đánh giá năng lực sử dụng bản đồ của học sinh trước và sau thực
nghiệm. Phương pháp thống kê toán học (phần mềm SPSS) được sử dụng để xử
lý và phân tích kết quả.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Quan niệm về bản đồ
Theo Acheson & Bednarz (2003), bản đồ là sự thể hiện bề mặt Trái đất,
các đặc điểm địa lý và con người, là cách thức trung tâm mà các nhà địa lý tổ
chức và phân tích thông tin. Bản đồ cũng là một phương tiện mạnh mẽ để hiển
thị và truyền đạt thông tin địa lý. Theo Xalisev (2005)
1
, bản đồ là mô hình kí
hiệu hình tượng không gian của các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và xã hội,
được thu nhỏ, được tổng hợp hóa, theo một cơ sở toán học nhất định nhằm phản
ánh vị trí, sự phân bố và mối tương quan của các đối tượng, hiện tượng và cả
những biến đổi của chúng theo thời gian để thỏa mãn mục đích, yêu cầu đã định
trước.
Có nhiều cách phân loại bản đồ khác nhau tùy theo mục đích sử dụng, nội
dung và phạm vi bản đồ. Trong giáo dục, tất cả các bản đồ địa lý tự nhiên, kinh
tế - xã hội dùng trong nhà trường nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được
gọi chung là bản đồ giáo khoa. Đây là bộ phận không thể tách rời trong giáo dục
địa lý ở tất cả các cấp, lớp. Bởi vì trong nhà trường, những tri thức địa lý được
chọn lọc và trình bày bằng ngôn ngữ tự nhiên, được phản ánh bởi bản đồ giáo
khoa bằng ngôn ngữ bản đồ. Sự phối hợp giữa ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ
bản đồ làm cho việc phản ánh thực tế địa lý sinh động và đầy đủ hơn, giúp cho
việc nhận thức thực tế địa lý dễ dàng hơn.
Theo Lâm Quang Dốc (2004)
2
: “Bản đồ giáo khoa là biểu hiện thu nhỏ bề
mặt Trái Đất lên mặt phẳng dựa trên cơ sở toán học. Bằng ngôn ngữ bản đồ,
phương tiện (đồ họa) phản ánh sự phân bố, trạng thái, mối liên hệ tương hỗ của
khách thể - tương ứng với mục đích, nội dung và phương pháp của môn học trên
1
K. A. Xalisev (2005), Bản đồ học, sách dịch của Hoàng Phương Nga, Nhữ Thị Xuân, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội
2
Lâm Quang Dốc (2004), Bản đồ giáo khoa, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

510
những nguyên tắc chặt chẽ của tổng quát hóa bản đồ; phù hợp với trình độ phát
triển trí óc của lứa tuổi học sinh, có xét đến cả yêu cầu giáo dục thẩm mĩ và vệ
sinh học đường”. Hệ thống bản đồ giáo khoa dùng ở trường phổ thông được gọi
là đầy đủ bao gồm năm loại hình (không kể atlat dùng riêng cho giáo viên), bao
gồm:
+ Bản đồ địa lý trong sách giáo khoa: là loại bản đồ hoặc lược đồ in trong
sách giáo khoa địa lý. Tuy nhiên do những hạn chế nhất định về khuôn khổ của
sách giáo khoa nên các bản đồ này thường có tỉ lệ nhỏ, nội dung đơn giản, phục
vụ một số yêu cầu cần đạt của bài học. Tuy nhiên, đây là loại bản đồ có tính chất
phân tích, giúp học sinh dễ đọc, dễ tiếp thu, tư duy địa lý gắn liền với lãnh thổ.
+ Bản đồ địa lý giáo khoa treo tường: Giáo viên sử dụng bản đồ này để
giảng dạy, học sinh lắng nghe, quan sát trên bản đồ và ghi chép các kiến thức
được giảng giải, đây là phương pháp dạy học trực quan. Loại bản đồ này có ưu
điểm ở lượng thông tin khoa học tương đối đầy đủ, các đối tượng địa lý trên bản
đồ được khái quát cao. Từ đó, học sinh thấy được những đặc điểm chính, chủ
yếu của lãnh thổ. Nội dung của bản đồ phải phù hợp với chương trình từng lớp
và tâm lý lứa tuổi học sinh.
+ Atlat địa lý giáo khoa: là một tập hợp các bản đồ được sắp xếp theo một
logic chặt chẽ, có tính thống nhất cao về cơ sở toán học, nội dung nhằm mục
đích phục vụ dạy học. Việc sử dụng atlat không chỉ giúp học sinh tự cập nhật
kiến thức mà còn giúp phân tích các mối quan hệ địa lý, từ đó tiếp thu kiến thức
mới và lý giải những quy luật trong địa lý.
+ Mô hình địa lý giáo khoa: Bao gồm quả địa cầu, mô hình địa lý địa
phương, bản đồ nổi. Quả địa cầu là mô hình Trái Đất thu nhỏ, biểu hiện đúng các
đối tượng quan trọng trên bề mặt Trái Đất và giữ được tính chất địa lý của chúng.
Mô hình này đóng vai trò chính trong việc hình thành biểu tượng và khái niệm
rất cơ bản cho học sinh các lớp đầu cấp.
+ Bản đồ trống dùng cho giáo viên (treo tường) và học sinh (để bàn): là
những bản đồ chưa có nội dung, thường chỉ có các lưới bản đồ, đường ranh giới
của các lãnh thổ, mạng lưới thủy văn, hệ thống đường giao thông và các điểm
dân cư quan trọng. Việc tổ chức hoạt động học với bản đồ trống không chỉ giúp
học sinh hình thành biểu tượng và khái niệm địa lý mà còn giúp ghi nhớ kiến
thức một cách sâu sắc và vững vàng hơn.
3.2. Sử dụng bản đồ theo hướng phát triển năng lực người học
Quá trình dạy và học môn địa lý đã tối ưu hóa việc tổ chức dạy học theo
quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả.

511
Đối với chương trình địa lý lớp 11, nội dung chủ yếu về các vấn đề địa lý kinh
tế - xã hội thế giới và địa lý một số khu vực, quốc gia. Nhiệm vụ của giáo viên
là giúp học sinh nâng cao hiểu biết cá nhân về thế giới, vận dụng những kiến
thức khoa học địa lý đã học để giải thích các vấn đề về tự nhiên, kinh tế - xã hội
của một số khu vực và quốc gia trên thế giới. Để làm được điều đó, giáo viên
cần tổ chức, hướng dẫn và tạo điều kiện để học sinh tìm tòi, khám phá, khai thác
và chiếm lĩnh kiến thức từ bản đồ.
3.3. Quy trình sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí lớp 11
Để nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ trong dạy học, trong quá trình chuẩn
bị và thực hiện kế hoạch bài dạy, giáo viên cần chú trọng giúp học sinh khai thác
được tối đa kiến thức từ bản đồ, các bước thực hiện có thể tham khảo ở Hình 1.
Hình 1. Sử dụng bản đồ theo hướng phát triển năng lực người học
Ở giai đoạn chuẩn bị, giáo viên cần thực hiện những nội dung
như sau:
Bước 1: Chuẩn bị kế hoạch bài học
- Xác định mục tiêu của bài học: Xác định rõ các yêu cầu cần đạt của bài
học, năng lực và phẩm chất cần phát triển cho học sinh, từ đó lựa chọn bản đồ
phù hợp.
- Xác định mục tiêu của việc sử dụng bản đồ: Xác định việc khai thác bản
đồ như một nguồn tri thức, thông qua bản đồ, học sinh hình thành được biểu
tượng địa lý và giải quyết các vấn đề mà mục tiêu bài học đặt ra, tự bản thân học
sinh chiếm lĩnh tri thức. Học sinh được tạo điều kiện tìm kiếm thông tin từ bản
đồ, sử dụng phối hợp các loại bản đồ với nhau để so sánh, đối chiếu, từ đó nắm
vững tri thức, phát triển năng lực sử dụng bản đồ.
Bước 2: Chuẩn bị phương tiện, thiết bị dạy học, lựa chọn bản đồ phù hợp
- Tìm kiếm, chọn lọc và phân tích, đánh giá bản đồ: Trước tiên, giáo viên
cần khai thác tối đa hệ thống bản đồ được trang bị theo danh mục thiết bị dạy

