intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới

Chia sẻ: Nguyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

101
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cũng giống như thể chế chính trị, hệ thống bầu cử của các nước trên thế giới rất phong phú và đa dạng[1]. Căn cứ vào cách thức (phương thức) “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử[2], có thể tạm chia hệ thống bầu cử của các nước thành ba hệ thống lớn: hệ thống theo đa số (plurality/majority systems); hệ thống tỷ lệ (proportional systems) và hệ thống hỗn hợp (mixed systems). ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới

  1. Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới Cũng giống như thể chế chính trị, hệ thống bầu cử của các nước trên thế giới rất phong phú và đa dạng[1]. Căn cứ vào cách thức (phương thức) “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử[2], có thể tạm chia hệ thống bầu cử của các nước thành ba hệ thống lớn: hệ thống theo đa số (plurality/majority systems); hệ thống tỷ lệ (proportional systems) và hệ thống hỗn hợp (mixed systems). * 1. Một số hệ thống bầu cử phổ biến Cũng giống như thể chế chính trị, hệ thống bầu cử của các nước trên thế giới rất phong phú và đa dạng[1]. Căn cứ vào cách thức (phương thức) “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử[2], có thể tạm chia hệ thống bầu cử của các nước thành ba hệ thống lớn: hệ thống theo đa số (plurality/majority systems); hệ thống tỷ lệ (proportional systems) và hệ thống hỗn hợp (mixed systems). 1.1. Hệ thống theo đa số
  2. Nguyên lý của hệ thống này rất đơn giản, ứng cử viên (hoặc đảng phái chính trị) nào thu được nhiều phiếu hơn sẽ trúng cử (ở mỗi “biến cách”, có thể có thêm những quy định bổ sung). Hệ thống này có năm “biến cách” sau:* 1.1.1. Phương pháp ai về trước là người thắng cuộc (First Past The Post -FPTP) Đây là phương pháp có nguyên lý đơn giản nhất trong các phương pháp theo hệ thống đa số. Theo đó, ai nhận được nhiều phiếu nhất là trúng cử, kể cả số phiếu họ nhận được chưa quá nửa số phiếu hợp lệ. Về lý thuyết, có thể xảy ra tình trạng có ứng cử viên nhận được rất ít phiếu nhưng vẫn trúng cử. Để hạn chế tình trạng này, pháp luật bầu cử một số n ước đưa ra những quy định bổ sung khác nhau, chẳng hạn quy định tỉ lệ tối thiểu phải đạt được. Phương pháp này thường áp dụng đối với đơn vị bầu cử một thành viên (single - member districts) và thường áp dụng để lựa chọn ứng cử viên hơn là các đảng phái chính trị. Phương pháp bầu cử này, nếu mang tính nguyên thủy, được áp dụng ở Anh quốc và một số nước trước đây là thuộc địa hoặc bị ảnh hưởng của Anh như Canada, ấn Độ, Mỹ. Nó cũng đ ược áp dụng ở một số nước châu á, như Bangladesh, Burma, Malaysia, Nepan và nhiều quốc gia đảo ở nam Thái Bình Dương. Ngoài ra, phương pháp này còn được áp dụng tại một số nước vùng Caribê ở châu Mỹ La tinh và 15 nước ở châu Phi. 1.1.2. Phương pháp lá phiếu khối (Block Vote -BV)
  3. Đây là một hình thức của hệ thống bầu cử đa số được áp dụng theo đơn vị bầu cử nhiều đại diện (multi - member districts). Cử tri bỏ phiếu để bầu một số lượng đại biểu được phân bổ cho đơn vị bầu cử đó (hoặc ít hơn, nếu họ muốn). ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao hơn thì trúng cử. Phương pháp bầu cử này thường được áp dụng để bầu các đại biểu hơn là bầu các đảng phái chính trị. Ph ương pháp này được áp dụng tại nhiều nước như Bermuda, Laos, Thailand, Mandives, Kuwait, Philippines. Nó cũng đã từng được áp dụng tại Jordan vào 1992, Mongolia vào 1992. Tuy nhiên, sau đó hai nước này đã thay đổi bằng việc áp dụng phương pháp hỗn hợp.* 1.1.3. Phương pháp bầu cử lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote -PBV) Cũng giống như hệ thống lá phiếu khối, đây là một hình thức của hệ thống bầu cử đa số được áp dụng cho các cuộc bầu cử quốc hội. Theo đó, mỗi đơn vị bầu cử không bầu một đại biểu mà bầu một số lượng đại biểu nhất định, thường là cử tri chọn đảng phái chính trị và đảng nào chiến thắng thì đảng đó chiếm toàn bộ số ghế trong đơn vị bầu cử đó. Cũng giống nh ư trong phương pháp FPTP ở trên, không có quy định người thắng cuộc phải nhận được đa số tuyệt đối phiếu bầu, chỉ cần ai nhiều phiếu hơn thì người đó thắng cử. Phương pháp này hiện nay được áp dụng ở Djibouti, Lebanon. Ngoài ra, nó còn được thực hiện trong hầu hết các cuộc bầu cử ở Singapore, Tunisia và Senegal.
  4. 1.1.4. Lá phiếu thay thế (Alternative Vote -AV) Phương pháp này thông thường áp dụng đối với đơn vị bầu cử đơn danh (single - member districts). Cử tri có nhiều sự lựa chọn. Họ đánh dấu các ứng cử viên mà họ lựa chọn theo thứ tự ưu tiên. Chẳng hạn, họ đánh dấu “1” cho ứng cử viên mà họ thích nhất, số “2” cho ứng cử viên họ thích thứ nhì, số “3” cho ứng cử viên tín nhiệm thứ ba (hệ thống này còn gọi là bầu cử theo ý thích). Khi tổng kết, nếu số phiếu dành cho các ứng cử viên có ưu tiên một không đưa đến kết quả là có một ứng cử viên nào đạt đươc đa số phiếu bầu thì ứng cử viên thứ nhất sẽ bị loại và số phiếu dành cho ứng cử viên này sẽ đem chia cho các ứng cử viên xếp thứ hai trên phiếu bầu. Cách thức này được áp dụng cho đến khi tìm ra được ứng cử viên đạt được đa số phiếu. Hệ thống này đang được áp dụng tại Australia, Papua New Guinea và được áp dụng biến thể tại một số nước ở châu Đại Dương. Phương pháp này cũng được áp dụng bầu cử tổng thống ở Cộng hoà Ireland. 1.1.5. Phương pháp hai vòng (Two-Round System -TRS) Như tên gọi của nó, phương pháp này thường không tổ chức một lần, mà là hai vòng, lần hai thường được tổ chức cách lần một khoảng thời gian từ một đến hai tuần. Vòng một được áp dụng theo nguyên lý của phương pháp đa số. Nếu có ứng cử viên nào nhận được đa số tuyệt đối số phiếu bầu, thì ứng cử viên đó thắng cuộc mà không cần tổ chức bầu cử vòng hai. Nếu không có ứng cử viên nhận được số phiếu đa số tuyệt đối, thì một cuộc bầu cử thứ hai đ ược tổ chức. Tuy nhiên, việc
  5. quy định cụ thể như thế nào ở vòng hai thì ở mỗi nước là khác nhau. Thông thường, vòng hai, cử tri lựa chọn trong số hai ứng cử viên nhận được số phiếu cao nhất trong vòng một, và ứng cử viên nào nhận được nhiều phiếu hơn thì thắng cử, như ở Ukraine. ở Pháp, trong các cuộc bầu cử quốc hội, chỉ những ứng cử vi ên nào nhận được trên 12,5% số phiếu bầu trên tổng số danh sách cử tri tại cuộc bầu cử vòng một mới được vào vòng hai. Tại vòng hai, ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao nhất thì thắng cử, không kể số phiếu mà họ nhận được là đa số tuyệt đối hay không. Hệ thống hai vòng hiện nay được áp dụng trên 22 quốc gia trong việc bầu cử quốc hội và phổ biến hơn trong việc bầu cử tổng thống. Ngoài Pháp là quốc gia điển hình, nhiều nước như Mali, Togo, Gabon, Egypt, Cuba, Haiti, Iran… và một số nước thời kỳ hậu Xô viết (Belarus, Kyrgyzstan, Turkmenistan and Uzbekistan) cũng áp dụng. 1.2. Hệ thống đại diện tỉ lệ Hệ thống này đương nhiên được áp dụng để bầu cơ quan lập pháp. Nguyên lý của hệ thống này là cơ quan lập pháp được bầu trên cơ sở các đảng phái chính trị. Các đảng phái chính trị nhận đươc số ghế theo tỉ lệ số phiếu bầu mà đảng phái mình nhận được. Thực ra, nguyên lý cơ bản của hệ thống này là cơ quan lập pháp được thành lập trên cơ cở phải bảo đảm tính cân đối - hợp lý số lượng các đại biểu đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, địa phương, tôn giáo, lứa tuổi… Tuy
  6. nhiên, hiện nay tiêu chí để phân chia đại biểu (ghế) của hệ thống này thường là theo đảng phái chính trị, khối cử tri mà ít theo các tiêu chí khác như địa phương, dân tộc, lứa tuổi… Cơ quan được bầu được tính toán theo tỉ lệ phiếu bầu mà các đảng phái chính trị nhận được như đã nói ở trên. Hệ thống đại diện tỉ lệ đòi hỏi mỗi đơn vị bầu cử phải bầu ít nhất là hai đại biểu và nếu số lượng đại biểu được bầu càng nhiều thì tính cân đối, hợp lý càng cao. Về nguyên lý, nếu cả quốc gia là một đơn vị bầu cử thì tính dân chủ, tính hợp lý về đại diện được bảo đảm nhất. Phương pháp này có hai biến cách là: 1.2.1. Phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh sách (List Proportional Representation - List* PR) Các đảng phái chính trị đ ưa ra một danh sách các ứng cử viên, cử tri bỏ phiếu cho các đảng phái chính trị. Các đảng phái chính trị nhận được số ghế tỉ lệ với tổng số phiếu nhận được theo đơn vị bầu cử. Tuy nhiên, có ba cách thức khác nhau giữa các nước trong việc lựa chọn các ứng cử viên cụ thể: danh sách “đóng” (closed lists), danh sách “mở” (open lists) và danh sách “tự do” (free list). Phổ biến nhất ở các n ước khi áp dụng phương pháp List PR là theo cách thức “đóng”. Cử tri không bỏ phiếu cho các ứng cử viên cụ thể mà bỏ phiếu cho các đảng phái chính trị. Các đảng phái trình một danh sách các ứng cử viên của đảng phái mình. Trong lá phiếu ghi tên đảng phái chính trị, nhưng không có tên của các
  7. ứng cử viên. Các ứng cử viên do các đảng phái chính trị lựa chọn. Mặc dù vậy, các đảng phái chính trị cũng có thể có danh sách các ứng cử viên nhất định. Nhiều nước ở Tây Âu sử dụng phương thức danh sách mở. Theo đóN, cử tri không những lựa chọn các đảng phái chính trị mà còn lựa chọn các ứng cử viên trong đảng phái đó. ở một số nước, như Brazil và Phần Lan, cử tri bắt buộc phải bầu cho các ứng cử viên. Số lượng các ghế mà các đảng phái chính trị nhận đ ược phụ thuộc vào các ứng cử viên của họ có được tín nhiệm hay không. 1.2.2. Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (Single Transferable Vote -STV) Theo phương pháp này, cử tri bỏ phiếu theo một thứ tự ưu tiên giống như cách thức của hệ thống lá phiếu có thể thay thế (AV) trong một đơn vị bầu cử có nhiều ghế đại biểu. Cử tri có thể đánh dấu theo thứ tự những ứng cử vi ên mà mình tín nhiệm hoặc có thể chỉ đánh dấu (bầu) một ứng cử viên theo sự lựa chọn của họ. Có thể xuất phát từ mục đích của những người phát kiến ra nó[3] cử được tính theo công thức Q = [số phiếu / (số ghế +1) +1)]. Những ứng cử viên nào không trúng cử qua phiếu bầu có số ưu tiên một, thì số phiếu vượt mức sẽ được chuyển đến cho ứng cử viên có hệ số tiếp theo theo một công thức tái phân phối phiếu ưu tiên. Hệ thống này được áp dụng bầu cơ quan lập pháp Cộng hòa Ai Len từ năm 1921, Malta từ năm 1947. Phương pháp này cũng được áp dụng để bầu thượng nghị viện
  8. úc và một vài bang của nước này. Nó cũng được áp dụng để bầu các cơ quan địa phương tại Bắc Ailen. 1.3. Hệ thống hỗn hợp Hệ thống bầu cử hỗn hợp thông th ường là sự kết hợp giữa hệ thống đa số với hệ thống đại diện tỉ lệ. Hệ thống hỗn hợp có hai biến cách l à đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member Proportional - MMP) và phương pháp song song (parallel systems - PR). - Dưới phương pháp đại diện tỉ lệ hỗn hợp (MMP), do có sự kết hợp giữa hai hệ thống đa số và tỉ lệ, nên thông thường, có hai loại đơn vị bầu cử được thiết kế cùng được áp dụng: một loại đơn vị bầu cử được thiết kế theo phương pháp bầu cử đa số - tức là theo tiêu chí địa lý (cả nước được chia thành nhiều đơn vị bầu cử), và một loại đơn vị bầu cử được thành lập theo hệ thống bầu cử tỉ lệ (cả nước là một đơn vị bầu cử). Theo phương pháp này, kết quả bầu cử của hai hệ thống có sự liên hệ với nhau: số ghế của các đảng phái chính trị trong hệ thống List PR đ ược được bổ sung bằng tỉ lệ mà các đảng phái đó nhận được trong hệ thống đa số nhưng không được phân bổ số ghế (số phiếu “l ãng phí” - wasted votes)[4]. Chẳng hạn, một đảng phái chính trị nhận được một lượng phiếu “lãng phí” trong cuộc bầu cử theo đa số, thì tỉ lệ này sẽ được cộng vào (đền bù) trong hệ thống PR lists. MMP hiện nay được áp dụng tại Albania, Bolivia, Đức, Hungary, ý, Lesotho, Mexico, New Zealand and Venezuela.
  9. - Phương pháp song song (PR) c ũng áp dụng đồng thời hai hệ thống đại diện tỉ lệ và đa số. Tuy nhiên, khác với phương pháp đại diện tỉ lệ hỗn hợp, số phiếu “lãng phí” trong hệ thống đa số không được “đền bù” trong hệ thống đại diện tỉ lệ, có nghĩa là hai hệ thống đa số và đại diện tỉ lệ được tiến hành độc lập với nhau. Trong cả hai biến thể đại diện tỉ lệ hỗn hợp và hệ thống song song, cử tri có thể nhận được một phiếu bầu để đồng thời bầu cả ứng cử viên và đảng phái chính trị (tức là một phiếu bầu cho cả hai hệ thống bầu cử), hoặc có thể nhận đ ược hai phiếu bầu riêng biệt, một phiếu bầu cho hệ thống đa số, một phiếu bầu cho hệ thống đại diện tỉ lệ. 1.4. Các hệ thống bầu cử khác Ngoài ra, trên thế giới còn có nhưng phương pháp bầu cử không thuộc các hệ thống bầu cử đã đề cập ở trên. Đó là: *- Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng được (Single Non-Transferable Vote - SNTV). Mỗi cử tri chỉ bỏ một phiếu cho một ứng cử viên (thường là ứng cử viên cụ thể, song cũng có thể là đảng phái chính trị), nhưng lại được áp dụng đối với đơn vị bầu cử bầu nhiều đại biểu, đây là điểm khác với phương pháp FPTP. Những ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất thì trúng cử. Phương pháp này hiện nay được áp dụng bầu cơ quan lập pháp ở Afghanistan, Jordan, quốc gia đảo Pitcairn, Vanuatu và được áp dụng trong bầu thượng viện ở Indonesia, Thái Lan. Nó còn được áp dụng cho 176 ghế trong tổng số 225 ghế
  10. trong hệ thống song song (cơ quan lập pháp Đài Loan). Ngoài ra, phương pháp này còn được biết đến khi được áp dụng ở Nhật Bản để bầu Hạ viện từ 1947 đến 1993. - Phương pháp lá phiếu hạn chế (Limited Vote), giống SNTV là áp dụng phương pháp đa số cho những đơn vị bầu cử bầu nhiều đại biểu, nhưng khác SNTV ở chỗ, cử tri có nhiều sự lựa chọn, nhưng ít hơn số ứng cử viên được ấn định cho đơn vị bầu cử đó. Những ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất là người thắng cử. Phương pháp này hiện được áp dụng rộng rãi trong các cuộc bầu cử ở cấp địa phương của một số nước. Nó cũng được áp dụng ở cấp quốc gia bầu cả th ượng và hạ nghị viện Tây Ban Nha từ năm 1977. - Phương pháp Borda Count hiện nay được áp dụng duy nhất ở quốc gia đảo nhỏ bé Nauru ở Thái Bình Dương. Theo phương pháp này, cử tri bầu theo sự lựa chọn theo thứ tự ưu tiên như trong hệ thống AV. Nó được áp dụng cho cả đơn vị bầu cử một đại diện và đơn vị bầu cử nhiều đại diện. Khác với phương pháp AV, Borda Count chỉ một lần đếm, không có sự loại trừ các ứng cử viên. ở Nauru, lựa chọn thứ nhất có giá trị 1, lựa chọn thứ hai có giá trị 1/2, lựa chọn thứ ba có giá trị 1/3… Kết quả, ứng cử viên nào được tổng cộng nhiều phiếu nhất thì thắng cử. 2. Ưu, khuyết điểm của một số hệ thống bầu cử điển hình và xu hướng đổi mới hệ thống bầu cử của các nước 2.1. Ưu, khuyết điểm của một số hệ thống bầu cử điển hình
  11. Như trên đã phân tích, khó có thể kết luận trong một nhận định ngắn gọn là hệ thống bầu cử của quốc gia này tiến bộ (hoặc tốt) hơn hệ thống bầu cử của quốc gia kia. Mỗi hệ thống bầu cử đều phải gắn với một quốc gia nhất định, vì bầu cử là hoạt động chính trị, do đó phải đặt trong một chế độ chính trị - xã hội cụ thể… như tiêu chí 6, phần 2 đã phân tích. Tuy nhiên, nếu xét theo những tiêu chí nhất định (như mức độ đơn giản, dễ hiểu của hệ thống bầu cử, tính đại diện, xét dưới góc độ kinh tế, hiệu quả của nghị viện được tạo ra…), chúng ta vẫn có thể đánh giá về ưu, khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Từ đó, đối chiếu với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mổi nước để có thể xem xét và vận dụng cho phù hợp. Để có cái nhìn tổng thể và đơn giản hóa vấn đề, dễ dàng đối chiếu giữa các hệ thống bầu cử, chúng tôi trình bày vấn đề dưới hình thức biểu bảng theo hướng đưa ra nhận định mà không phân tích cặn kẽ từng vấn đề. Hệ thống bầu cử (phương pháp bầu cử) Ưu điểm Hạn chế Phương pháp ai về trước là người thắng cuộc (FPTP)
  12. * - Nguyên lý đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, nhất là đối với cử tri; - “Mạnh” về đại diện theo địa lý; - Chính phủ đa số (chính phủ mạnh); - Tạo“sự chống đối thống nhất” trong nghị viện[5]; - Tạo ra một “chính phủ trong bóng tối thống nhất”. - Có xu hướng loại trừ hoặc hạn chế các đảng phái nhỏ, các nhóm thiểu số và phụ nữ; - Kết quả bầu cử có rất nhiều phiếu “lãng phí”;- Phải phân vạch đơn vị bầu cử; - Tạo khả năng gian lận trong bầu cử[6]. Phương pháp hai vòng (TRS) * - Tạo cơ hội cho cử tri lựa chọn lần thứ hai (có cơ hội “sửa sai”); - Rất dễ hiểu đối với cử tri; - “Mạnh” về đại diện theo địa lý.
  13. - Phải phân vạch đơn vị bầu cử; - Xét về kinh tế là tốn kém; - Thời gian tuyên bố kết quả bầu cử chậm; - Tính đại diện có thể bất hợp lý; - Có thể dẫn đến tình trạng xã hội bị phân hóa sâu sắc; - Thường áp dụng bầu cử tổng thống hơn là nghị viện. Phương pháp lá phiếu khối (BV) * - Đơn giản, rõ ràng; - Khuyến khích các đảng phái chính trị mạnh; - Cho phép các đảng phái có những biện pháp tạo điều kiện cho những nhóm thiểu số vẫn có thể có đại diện trong cơ quan lập pháp. - Tổng thể là tạo xu hướng bất hợp lý về tính đại diện; - Có thể dẫn đến tình trạng siêu đa số (super - majoritarian)[7]. Phương pháp đại diện tỷ lệ theo danh sách (List* PR)
  14. -Tính đại diện được bảo đảm cân bằng - hợp lý; -Tạo cơ hội cho phụ nữ, những nhóm thiểu số có đại diện trong nghị viện; -Rất ít phiếu “lãng phí”; -Tạo thuận lợi cho những người vắng mặt (đi xa) bỏ phiếu; -Tạo điều kiện thận lợi cho việc bỏ phiếu, nên tỉ lệ cử tri bỏ phiếu thường cao; -Hạn chế tình trạng phát triển quá mạnh của một đảng. -Tính đại diện theo địa lý “yếu”; -Chế độ trách nhiệm của nghị viện, nhất là của chính phủ thường có vấn đề; -Chính phủ thường thành lập trên cơ sở liên hiệp của nhiều đảng phái chính trị và các phe phái; -Có thể dẫn đến hậu quả là có đại diện của các đảng cực hữu hoặc quá tả trong nghị viện; - Có thể tạo sự bất lực về quyền lực của các đảng. Phương pháp song song - Kết hợp hợp lý giữa hai loại đại diện: địa lý và các đảng phái chính trị;
  15. - Đảm bảo đại diện của phụ nữ và những phe, nhóm thiểu số; - Hạn chế sự phân chia các đảng phái chính trị hơn hệ thống đại diện tỉ lệ theo danh sách đảng ( List* PR); - Chế độ trách nhiệm của đại biểu với cử tri rõ ràng; -Tạo ra ít phiếu “lãng phí”. - Phức hợp vì có hai loại đơn vị bầu cử và có hai loại phiếu; - Phải phân vạch đơn vị bầu cử; - Tạo ra hai loại đại diện; - Không thuận lợi cho người bỏ phiếu vắng mặt như List* PR; - Về tổng thể, vẫn chưa giải quyết triệt để về tính đại diện . Phương pháp đại diện tỉ lệ hỗn hợp (MMP) - Đây là hệ thống bảo đảm hợp lý và cân bằng nhất về tính đại diện; - Đảm bảo tính kết hợp hợp lý giữa hai loại đại diện: địa lý và các đảng phái chính trị; - Phiếu “lãng phí” là ít nhất trong các hệ thống bầu cử;
  16. - Chế độ trách nhiệm của đại biểu với cử tri rõ ràng. - Cũng giống hệ thống hệ thống song song (PR) là phức hợp vì có hai loại đơn vị bầu cử và có hai loại phiếu; - Phải phân vạch đơn vị bầu cử; - Tạo ra hai loại đại diện; - Không thuận lợi cho người bỏ phiếu vắng mặt như List* PR. 2.2. Xu hướng đổi mới hệ thống bầu cử của các nước trên thế giới Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nhất là thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nghị viện dân chủ đ ược lựa chọn (bầu cử) bằng nhiều ph ương pháp như: đại diện tỉ lệ theo danh sách (List PR) (hầu hết các n ước Scandinavia), hệ thống hai vòng (TRS) được áp dụng ở Pháp và Đức, hoặc phương pháp ai về trước là người thắng cuộc (FPTP) được áp dụng Anh, Mỹ, Canada và New Zealand. Australia là quốc gia duy nhất thay thế hệ thống FPTP vốn được kế thừa từ chế độ thuộc địa, bằng phương pháp lá phiếu thay thế (AV) vào năm 1918. Tất cả các nước nói trên, dù phương pháp này hay phương pháp khác, nhưng đều áp dụng nguyên tắc bầu cử cạnh tranh với sự tham gia của nhiều đảng phái chính trị. Đến 1945, khoảng 80% các quốc gia thực hiện việc bầu cử nghị viện theo ph ương pháp đại diện tỉ lệ (PR), chủ yếu áp dụng đại diện tỉ lệ theo danh sách (List* PR),
  17. chỉ Cộng hòa Ai Len và Malta là áp dụng phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV) và các nước Anh, Mỹ, Canada và New Zealand áp dụng phương pháp (FPTP) để bầu cử nghị viện. Đến năm 1950, ấn Độ và hai nước nhỏ vùng Caribe áp dụng phương pháp đa số (FPTP). Tuy nhiên, vẫn còn có tới 3/4 tổng số các nước áp dụng đại diện tỉ lệ (PR). Cũng vào 1950, Nhật Bản áp dụng phương pháp lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng được (SNTV). Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, Đức thông qua hệ thống đại diện tỉ lệ hỗn hợp (MMP). Phong trào độc lập tiếp tục diễn ra vào những năm của thập kỷ 1960 dẫn tới nhiều quốc gia châu Phi thử nghiệm đa đảng trong bầu cử, hầu hết những nước châu Phi nói tiếng Anh sử dụng phương pháp đa số (FPTP). Đến 1970, khoảng 1/3 các nước áp dụng phương pháp FPTP với đơn vị bầu cử một đại diện và gần một nửa các nước áp dụng List PR. Khoảng từ 1980 đến 1995, hai ph ương pháp được áp dụng là phương pháp song song và phương pháp hai vòng. Đến 1995, hai hệ thống này chiếm gần 1/4 hệ thống bầu cử của hơn 150 nước[8]. Nếu tính theo quốc gia thì đến 2005, trên thế giới có 70 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng hệ thống đại diện tỉ lệ theo danh sách (List PR) để bầu c ơ quan lập pháp. Đây là hệ thống phổ biến nhất trên thế giới. Đứng thứ hai là hệ thống đa số (FPTP), được áp dụng ở 47 nước[9].
  18. Sự phân bố các hệ thống bầu cử qua các châu lục là đan xen nhau. Dường như, hệ thống FPTP chiếm khoảng từ 30 - 40% số các nước châu Á, châu Phi, Trung Đông, các nước châu Mỹ (các nước Bắc Mỹ và vùng Caribe). Tuy nhiên, hệ thống FPTP lại ít phổ biến ở các nước cộng hoà hậu Xô viết và các nước châu Âu. Hệ thống bầu cử List PR mang tính phổ biến ở các nước Tây Âu (61%). Các số liệu thống kê nêu trên chủ yếu mang tính chất liệt kê hơn là rút ra thành quy luật thay đổi. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nó cũng có ý nghĩa nhất định sau khi nhà làm luật đã xem xét, cân nhắc những tiêu chí được nêu và phân tích trong Phần 2. Điều cuối cùng chúng tôi muốn nói trong bài này là, nhà làm luật phải đặt ra câu hỏi: Việc sửa đổi, bổ sung (hoặc xây dựng mới) hệ thống pháp luật bầu cử nhằm mục đích chính gì? Bởi nếu không đặt ra câu hỏi n ày, việc làm đó sẽ mang tính tản mạn và không có hướng đi xác định. ----- * Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh * * * *
  19. * * * * * * * * * [1] Vì tính phức tạp của vấn đề, cũng như một số thuật ngữ được sử dụng ở các nước mà trong tiếng Việt khó tìm từ, và do khả năng có hạn, chúng tôi chỉ tạm dịch, nếu chưa thật chính xác, hoặc trong nhiều trường hợp, nếu chỉ dịch ra tiếng Việt thuần túy, có thể rất khó hiểu, vì những vấn đề đó ở n ước ta chưa có - trong những trường hợp như vậy, chúng tôi vẫn kèm theo tiếng Anh, với mục đích để tìm hiểu vấn đề một cách tốt nhất. Mong bạn đọc thông cảm. [2] Đây là cách hiểu theo nghĩa “hẹp”. Vì tiêu chí theo cách này là phương pháp “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong cơ quan dân
  20. cử, nên hệ thống bầu cử theo nghĩa hẹp này cũng có thể gọi là phương pháp bầu cử. Ngoài ra, thuật ngữ hệ thống bầu cử còn được hiểu theo nghĩa rộng, là tổng hợp các qui định của pháp luật bầu cử và những nguyên lý vận hành của hệ thống chính trị có tác động, ảnh hưởng đến quá trình bầu cử của mỗi quốc gia. [3] Hệ thống này do hai nhà khoa học Thomas Hare người Anh và Carl Andre người Đan Mạch phát kiến vào thế kỷ XIX. [4] Phiếu không chuyển thành “ghế” gọi là phiếu “lãng phí”. Chẳng hạn, trong một đơn vị bầu cử một đại diện, ứng cử viên của Đảng A nhận đ ược 60% phiếu bầu, ứng cử viên của Đảng B nhận được 30% phiếu bầu, ứng cử viên của Đảng C nhận được 10% phiếu bầu. Như vậy, ứng cử viên của Đảng A trúng cử (đại diện cho tất cả cử tri trong đơn vị bầu cử đó -trong khi đó chỉ nhận được 60% phiếu bầu), 40% phiếu bầu còn lại của cử tri (bầu cho các ứng cử viên của Đảng B,C) không đem lại một kết quả gì (không chuyển thành “ghế”) - gọi là wasted votes (tạm dịch là phiếu lãng phít, hoặc vô ích) - Chú ý: đây là phiếu hợp lệ (valid ballots)* chứ không phải là phiếu không hợp lệ (invalid ballots). * [5] Theo chúng tôi, sâu xa của của việc giải thích tại sao hệ thống chính trị của Mỹ trong hầu hết lịch sử lập quốc của quốc gia này (từ 1869 đến nay), cũng như chính trường nước Anh trong lịch sử hiện đại luôn ổn định hai đảng phái chính trị lớn thay nhau cầm quyền, liên quan đến hệ thống bầu cử nghị viện của các nước
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2