CHIẾN THẮNG<br />
<br />
<br />
<br />
CHI LĂNG – XƯƠNG GIANG<br />
<br />
<br />
NGÀY 8 THÁNG 10<br />
ĐẾN NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1427<br />
<br />
Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc,<br />
Đánh trận nữa, tan tác chim muôn.<br />
Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung,<br />
Gió thổi mạnh, lá khô trút sạch.<br />
NGUYỄN TRÃI<br />
Bình Ngô đại cáo<br />
Đó là khí thế xung trận vang dậy của quân dân ta và thắng lợi oanh liệt, triệt để của trận<br />
Chi Lăng – Xương Giang mà Nguyễn Trãi đã ghi lại trong Bình Ngô đại cáo. Đó cũng là<br />
chiến thắng có ý nghĩa quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng do Lê<br />
Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV.<br />
<br />
<br />
*<br />
**<br />
Sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, quân địch phải chuyển hẳn sang thế phòng ngự bị<br />
động còn quân dân ta thì hoàn toàn giành quyền chủ động thế tiến công trên các chiến<br />
trường toàn quốc.<br />
<br />
Trước tình hình đó, Vương Thông một mặt âm mưu giảng hòa lập kế hoãn binh; mặt khác<br />
vội vã phái người về nước cầu cứu. Ngày 31-1-1427 (tức ngày 26 tháng chạp năm Bính<br />
Ngọ), nhà Minh lại lần nữa quyết định điều quân tiếp viện cho Vương Thông.<br />
Lúc lượng viễn chinh này chia làm hai đạo quân cùng kéo sang nước ta:<br />
Đạo thứ nhất do thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm tổng binh, Bảo Định bá<br />
Vương Minh làm tá phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ làm hữu tham tướng, tiến theo đường<br />
Quảng Tây.<br />
Đạo thứ hai do thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm tổng binh, Hưng An bá Từ<br />
Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá Đàm Trung làm hữu phó tổng binh, tiến theo<br />
đường Vân Nam.<br />
<br />
Đạo viện binh của Liễu Thăng điều động quân các vệ Bắc Kinh, Nam Kinh, ty lưu thủ<br />
Trung Đô, hộ vệ Vũ Xương, các đô ty Hồ Quảng, Phúc Kiến, Triết Giang và các vệ nam<br />
Trực Lệ. Cùng đi theo với đạo quân này, nhà Minh còn phái những quan lại cao cấp rất am<br />
hiểu tình hình nước ta như công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thái tứ thái bảo binh bộ<br />
thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Chúng còn điều thêm tên Việt gian hữu bố<br />
chính sứ Nguyễn Đức Huân giúp việc.<br />
Đạo viện binh do Mộc Thạnh chỉ huy điều động quân từ các vệ Thành Đô, các đô ty Tứ<br />
Xuyên, Vân Nam.<br />
Cả hai đạo viện binh đó lúc đầu gồm 7 vạn quân. Tháng 4 năm 1427, nhà Minh điều động<br />
thêm 1.000 quân ở các hộ vệ Vũ Xương, 1.200 quân ở hộ vệ Thành Đô, 1 vạn quân tinh<br />
nhuệ ở vệ Nam Kinh, 33.000 quân từ ty lưu thủ Trung Đô, các đô ty Phúc Kiến, Quảng<br />
Đông, Hồ Quảng, Triết Giang, Hà Nam, Sơn Đông. Tất cả trên 45.200 quân tăng cường<br />
thêm cho hai đạo viện binh Liễu Thăng, Mộc Thạnh (Những con số trên đây lấy trong<br />
Hoàng Minh thực lục được trích dẫn trong An Nam sử nghiên cứu của Yamamoto Tatsuro<br />
Tokyo 1950, q.l, tr. 721-722).<br />
Như vậy, tổng số quân chính quy bao gồm bộ binh và kỵ binh tinh nhuệ điều động hầu<br />
khắp các tỉnh từ Sơn Đông xuống Quảng Tây, từ Quảng Đông sang Tứ Xuyên của nhà<br />
Minh tăng viện cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần này tối thiểu cũng đến 115.000<br />
tên. Đó là quân chủ lực được chọn lọc, chưa kể số dân phu chuyển vận lương thực, vũ khí<br />
và số thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Minh sai hình bộ thượng thư Phàn Kính<br />
đến Quảng Tây và phó đô ngự sử Hồ Dị đến Quảng Đông đôn đốc việc vận chuyển quân<br />
lương.<br />
Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn quân và 2 vạn ngựa; đạo quân<br />
của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạn ngựa (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn,<br />
t. III, tr. 43). Tổng số hai đạo quân lên đến 15 vạn. Có lẽ đó là số quân chiến đấu bao gồm<br />
quân chính quy và thổ binh mà chưa tính hết số dân phu. Theo Lam Sơn thực lục thì tồng<br />
số quân địch là 20 vạn quân. Con số này có lẽ bao gồm cả quân chiến đấu và dân phu.<br />
Những tướng cầm đầu hai đạo quân địch đều đã tham gia cuộc chiến tranh xâm lược nước<br />
ta trước đây, hoặc là quan chức lâu năm trong chính quyền đô hộ.<br />
Liễu Thăng vốn là tùy tướng của Trương Phụ - kẻ cầm đầu dạo quân xâm lược nước ta<br />
năm 1406. Bấy giờ, Liễu Thăng đã đóng quân ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) và<br />
đem quân đuổi theo Hồ Quý Ly đến cửa biển Kỳ La (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh).<br />
Mộc Thạnh, từ năm 1406 đã giữ chức tả phó tổng binh trong đạo quân Trương Phụ. Mộc<br />
Thạnh đã chỉ huy trận đánh chiếm thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Tây) và đã từng bị nghĩa<br />
quân Trần Ngỗi đánh bại ở trận Bô Cô (trên bờ sông Đáy, Ý Yên, Nam Hà) năm 1408.<br />
<br />
Hoàng Phúc, năm 1406 cũng theo Trương Phụ làm đốc biện quân lương. Khi nhà Minh<br />
đặt ách thống trị lên nước ta, Hoàng Phúc kiêm giữ hai chức bố chánh và án sát, tổ chức<br />
trấn áp phong trào yêu nước của nhân dân ta, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải<br />
và đồng hóa ráo riết. Hắn nắm vững địa hình, hiểu biết tường tận tình hình nước ta. Hai<br />
mươi năm nhà Minh thống trị đất nước ta thì Hoàng Phúc đã ở đây đến 18 năm (Minh sử,<br />
liệt truyện, truyện Hoàng Phúc).<br />
Việc điều động viện binh lần này với số quân chiến đấu 15 vạn và những tướng dày kinh<br />
nghiệm, am hiểu tình hình và quen thuộc chiến trường nước ta, chứng tỏ nhà Minh vẫn giữ<br />
quyết tâm xâm lược, dùng bạo lực hòng tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, lập<br />
lại nền thống trị của chúng. Để thực hiện âm mưu đó, chúng phải vượt qua nhiều khó<br />
khăn.<br />
Minh Tuyên Tông (1426 - 1436) khi lên ngôi đã phải gánh những hậu quả tàn hại sau<br />
cuộc chiến tranh to lớn với phong kiến Mông Cổ mấy năm trước. Mâu thuẫn giữa các dân<br />
tộc thiểu số với triều đình vẫn còn gay gắt. Biên thùy phía Bắc và phía Tây của nhà Minh<br />
vẫn thường bị uy hiếp. Phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu số, nhất là nghĩa quân<br />
“áo đỏ” ở vùng Vân Nam đã bùng lên khá mạnh. Nông dân khởi nghĩa do Đường Trại Nhi<br />
lãnh đạo khởi phát từ năm 1420 cũng gây nhiều khó khăn cho triều đình. Tình hình trên<br />
được Nguyễn Trãi vạch rõ trong thư gửi Vương Thông: “Huống chi ở nước các ngươi,<br />
quốc chúa liền năm tử táng, cốt nhục tàn hại lẫn nhau, Bắc khấu xâm lăng, đại thần lấn át;<br />
gia dĩ lúa má mất luôn, thổ mộc làm mãi, chính lệnh hà khắc, giặc cướp như ong. Từ niên<br />
hiệu Hồng Vũ đến nay, cùng binh độc rũ, trong nước tổn hao, nhân dân mệt nhọc. Trời<br />
làm táng vọng, chính ở lúc này” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr. 123). Do đó, đầu<br />
năm 1427 nhà Minh ra lệnh điều động viện binh mà đến chín tháng sau, quân tiếp viện<br />
mới đến biên giới. Những khó khăn về đối nội, đối ngoại, nhất là phong trào đấu tranh của<br />
nhân dân Trung Quốc đã có tác dụng cản trở việc diều quân, bắt phu, cung cấp lương thực<br />
để tiếp tục chiến tranh của nhà Minh và về khách quan, có lợi cho cuộc đấu tranh cứu<br />
nước của dân tộc ta.<br />
Tuy nhiên nhìn chung, đầu thế kỷ XV vẫn là thời thịnh đạt của triều Minh. Đó là một đế<br />
chế lớn mạnh nhất phương Đông hồi ấy. Vì vậy, dù có một số khó khăn, nhà Minh vẫn<br />
quyết tâm điều động viện binh, tiếp tục những cố gắng chiến tranh lớn nhất. Khi các đạo<br />
quân viễn chinh của Liễu Thăng - Mộc Thạnh chưa sang, nhà Minh đã sai tổng binh<br />
Quảng Tây là Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ đem quân sang ứng viện cho Vương Thông<br />
trước.<br />
Đại quân Liễu Thăng - Mộc Thạnh sang tiếp viện lần này có thể làm cho so sánh lực<br />
lượng ta, địch thay đổi. Trên 15 vạn quân hợp với số quân hơn 10 vạn ở Đông Quan và<br />
các thành khác khiến cho số lượng quân địch tăng lên gấp bội. Nhiệm vụ của viện binh là<br />
trước hết giải vây cho thành Đông Quan, rồi sau đó phối hợp với Vương Thông tổ chức<br />
phản công mong xoay chuyền lại cục diện chiến tranh.<br />
Về lực lượng nghĩa quân, không có tài liệu nào ghi chép số quân cụ thề. Trong các bức thư<br />
của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông, số nghĩa binh tổng cộng đến 45 vạn (Nguyễn Trãi,<br />
<br />
Toàn tập, phần Quân trung từ mệnh tập, thư số 37, tr. 122). Đó là con số mà Nguyễn Trãi<br />
tuyên bố trong bức thư dụ hàng nhằm uy hiếp tinh thần địch. Thực tế lực lượng nghĩa<br />
quân không nhiều đến thế. Việt sử thông giám cương mục ghi chép số nghĩa quân có<br />
khoảng 35 vạn. Con số đó có lẽ bao gồm cả nghĩa quân và những đội dân binh, lực lượng<br />
vũ trang của nhân dân các làng xã.<br />
Điều chắc chắn là lực lượng nghĩa quân bấy giờ đã trưởng thành đến mức độ giành được<br />
quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường, ghìm chặt quân Vương Thông, giam chân<br />
chúng trong các thành, nhưng sức ta vẫn chưa đủ đề tiêu diệt nhanh chóng bọn bại quân<br />
này được. Giữa lúc đó viện binh giặc lại sang. Cùng một lúc, nghĩa quân Lam Sơn phải<br />
đối phó với ba khối quân địch:<br />
- Đạo quân Vương Thông ở Đông Quan.<br />
- Đạo viện binh chủ lực lớn nhất từ Quảng Tây tiến xuống.<br />
- Đạo viện binh chủ lực từ Vân Nam tiến vào.<br />
Một cục diện mới sẽ diễn ra trong phạm vi rộng lớn từ rừng núi biên giới phía Bắc đến<br />
đồng bằng sông Hồng. Mỗi khối quân địch là một mục tiêu tác chiến to lớn có tính chất<br />
chiến lược. Tình thế đó đòi hỏi bộ chỉ huy nghĩa quân phải có kế hoạch đối phó chính xác,<br />
chủ động, phối hợp chặt chẽ với nhau trên toàn bộ chiến trường.<br />
<br />