N. C. Thắng, K. P. Chi, L. T. N. Thúy / Một số ý kiến về đào tạo sinh viên ngành sư phạm toán học…<br />
<br />
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐÀO TẠO SINH VIÊN<br />
NGÀNH SƢ PHẠM TOÁN HỌC ĐÁP ỨNG<br />
CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỔNG THỂ<br />
Nguyễn Chiến Thắng (1), Kiều Phƣơng Chi (1), Lê Thị Ngọc Thúy (2)<br />
1<br />
Trường Đại học Vinh<br />
2<br />
Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An<br />
Ngày nhận bài 23/10/2017, ngày nhận đăng 05/01/2018<br />
Tóm tắt. Trong bài báo này, chúng tôi tìm hiểu nội dung cốt lõi của giáo dục toán<br />
học được đặt ra trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, đặc điểm nghề nghiệp<br />
của sinh viên ngành Sư phạm Toán học, từ đó rút ra một số ý kiến về đào tạo sinh viên<br />
ngành Sư phạm Toán học nhằm đáp ứng Chương trình.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Ngày 27/7/2017, Bộ Giáo dục và Đào<br />
tạo đã công bố Chương trình phổ thông<br />
tổng thể. Trong Chương trình này, giáo<br />
dục toán học có vai trò hình thành và phát<br />
triển cho học sinh những phẩm chất chủ<br />
yếu, năng lực chung và năng lực toán học<br />
với các thành tố cốt lõi là: năng lực tư duy<br />
và lập luận toán học, năng lực mô hình<br />
hóa toán học, năng lực giải quyết vấn đề<br />
toán học, năng lực giao tiếp toán học,<br />
năng lực sử dụng các công cụ và phương<br />
tiện học toán; phát triển kiến thức, kỹ<br />
năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh<br />
trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời<br />
sống thực tiễn [3]. Như vậy, giáo dục toán<br />
học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng<br />
toán học, giữa toán học với các môn học<br />
khác và giữa toán học với đời sống thực<br />
tiễn. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải<br />
có những thay đổi quan trọng về thiết kế<br />
chương trình và tổ chức dạy học trong đào<br />
tạo sinh viên ngành Sư phạm Toán học,<br />
trong đó cần xem tạo dựng các kết nối<br />
vừa là một năng lực cần trang bị và phát<br />
triển cho sinh viên, vừa là kim chỉ nam<br />
cho các hoạt động mà giảng viên lựa<br />
chọn tổ chức cho sinh viên khi dạy học<br />
môn học do mình đảm nhận. Hiện nay, đã<br />
có nhiều công trình nghiên cứu về năng<br />
.<br />
<br />
Email: thangnc@vinhuni.edu.vn (N. C. Thắng)<br />
<br />
46<br />
<br />
lực nghề nghiệp, các phương pháp và hình<br />
thức tổ chức dạy học tích cực cho sinh<br />
viên nói chung, sinh viên ngành Sư phạm<br />
Toán học nói riêng [4-7, 10, 11, 13]…<br />
cũng như nghiên cứu về ứng dụng toán<br />
học vào thực tiễn hay mô hình hóa toán<br />
học [2, 4, 12, 14, 15]... Tuy nhiên, chưa<br />
có công trình nào nghiên cứu về vấn đề<br />
trang bị và phát triển cho sinh viên năng<br />
lực tạo dựng các kết nối như là một thành<br />
phần quan trọng của năng lực nghề<br />
nghiệp dạy học toán một cách chính thức.<br />
Vì vậy, nghiên cứu đề xuất một số định<br />
hướng về việc rèn luyện cho sinh viên<br />
ngành Sư phạm Toán học năng lực tạo<br />
được các kết nối nêu trên là cần thiết và<br />
có ý nghĩa.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Vai trò kép trong học tập của<br />
sinh viên ngành Sư phạm Toán học<br />
Theo [1], để đáp ứng yêu cầu đổi mới<br />
giáo dục phổ thông, giáo viên phải có<br />
những vai trò chủ yếu là: nhà giáo dục<br />
(theo nghĩa rộng), người học suốt đời,<br />
một người nghiên cứu và nhà văn hóa - xã<br />
hội. Từ đó, việc đào tạo giáo viên cần<br />
hướng đến hình thành 5 nhóm năng lực<br />
thành phần thể hiện qua sơ đồ sau:<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 4B (2017), tr. 46-53<br />
<br />
Năng lực nghề nghiệp<br />
<br />
Năng lực khoa học<br />
chuyên ngành<br />
<br />
Năng lực sư phạm<br />
<br />
Năng<br />
lực<br />
dạy<br />
<br />
Năng<br />
lực<br />
giáo<br />
<br />
học<br />
<br />
dục<br />
<br />
Định<br />
hướng<br />
sự phát<br />
triển của<br />
học sinh<br />
<br />
Phát<br />
triển<br />
cộng<br />
<br />
Phát<br />
triển<br />
cá<br />
<br />
đồng<br />
<br />
nhân<br />
<br />
Sơ đồ 1: Năng lực nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp đại học sư<br />
phạm<br />
Đối với sinh viên ngành Sư phạm<br />
Toán học, năng lực khoa học chuyên<br />
ngành là năng lực toán học. Như vậy, có<br />
thể thấy rằng, việc học tập ở bậc đại học<br />
của sinh viên ngành Sư phạm Toán học có<br />
vai trò kép, thể hiện ở chỗ:<br />
Thứ nhất, kiến thức toán mà sinh viên<br />
học được từ các môn học thuộc khoa học<br />
toán học như Giải tích, Đại số, Hình học,<br />
Xác suất và Thống kê vừa giúp họ hình<br />
thành năng lực toán học nhưng cũng là<br />
phương tiện để họ phát triển các năng lực<br />
nghề nghiệp khác. Sinh viên ngành sư<br />
phạm Toán học là thầy giáo tương lai dạy<br />
học môn Toán ở trường phổ thông, đó là<br />
môn học có những đặc thù sau:<br />
- Tính trừu tượng cao độ và tính thực<br />
<br />
tiễn phổ dụng: Tính chất trừu tượng<br />
không phải chỉ có trong Toán học mà là<br />
đặc điểm của mọi khoa học nhưng trong<br />
Toán học cái trừu tượng tách ra khỏi mọi<br />
chất liệu của đối tượng, chỉ giữ lại những<br />
quan hệ số lượng dưới dạng cấu trúc mà<br />
thôi. Tuy nhiên, tính trừu tượng cao độ<br />
chỉ che lấp chứ không hề làm mất tính<br />
thực tiễn của Toán học, hơn nữa nó còn<br />
làm cho Toán học có thể ứng dụng được<br />
trong nhiều lĩnh vực rất khác nhau của<br />
cuộc sống;<br />
- Tính lôgic và tính thực nghiệm:<br />
Toán học có thể xét theo hai phương diện.<br />
Nếu chỉ trình bày lại những kết quả toán<br />
học đã đạt được thì nó là một khoa học<br />
suy diễn và tính lôgic nổi bật. Nhưng nếu<br />
<br />
47<br />
<br />
N. C. Thắng, K. P. Chi, L. T. N. Thúy / Một số ý kiến về đào tạo sinh viên ngành sư phạm toán học…<br />
<br />
nhìn Toán học trong quá trình hình thành<br />
và phát triển, trong quá trình tìm tòi phát<br />
minh, thì trong phương pháp của nó vẫn<br />
có tìm tòi dự đoán, vẫn có “thực nghiệm”<br />
và “quy nạp” [4].<br />
Các kiến thức thuộc khoa học toán<br />
học và toán sơ cấp trong chương trình đào<br />
tạo sinh viên ngành Sư phạm Toán học<br />
tạo ra đặc thù về nghề nghiệp của họ<br />
trong tương lai, đó là: sản phẩm mà họ<br />
đào tạo là nhân cách con người, trong đó<br />
bao hàm phải có được trình độ về văn hóa<br />
toán học, tức là phải có những tri thức, kĩ<br />
năng toán học, những thói quen mang đặc<br />
trưng toán học để giải quyết các tình<br />
huống trong cuộc sống. Trong văn hóa<br />
toán học có các thành phần cơ bản như:<br />
Khả năng lập luận có tiền đề đúng<br />
đắn;<br />
Khả năng vận dụng tư duy lôgic,<br />
suy luận có lí vào thực tiễn cuộc sống;<br />
Khả năng phán đoán bằng con<br />
đường lí thuyết;<br />
Khả năng kết hợp tư duy biện<br />
chứng và tư duy lôgic vào giải quyết các<br />
vấn đề trong cuộc sống… [7].<br />
Thứ hai, phương pháp và hình thức<br />
tổ chức dạy học mà giảng viên sử dụng<br />
trong tổ chức dạy học cho sinh viên vừa<br />
giúp họ chiếm lĩnh kiến thức của toán học<br />
và khoa học giáo dục, vừa tạo cơ hội cho<br />
sinh viên trải nghiệm các hoạt động mà họ<br />
sẽ thực hiện khi dạy học toán ở trường<br />
phổ thông sau này.<br />
Chính vì vậy, để hình thành và phát<br />
triển thông qua giáo dục toán học cho học<br />
sinh phổ thông các năng lực thành tố cốt<br />
lõi xác định ở trên, bản thân sinh viên<br />
ngành Sư phạm Toán học cũng phải là<br />
những người được hình thành và phát<br />
triển các năng lực tương ứng và được trải<br />
nghiệm các hoạt động cũng như học cách<br />
dạy và tổ chức các hoạt động mà họ sẽ<br />
thực hiện khi trở thành giáo viên toán<br />
trong tương lai gần. Đây là cơ sở để<br />
chúng tôi đề xuất một số định hướng cơ<br />
48<br />
<br />
bản về đào tạo sinh viên đáp ứng Chương<br />
trình Giáo dục phổ thông tổng thể.<br />
2.2. Một số định hướng về đào tạo<br />
sinh viên đáp ứng Chương trình Giáo<br />
dục phổ thông tổng thể<br />
Từ phân tích trên, trong đào tạo sinh<br />
viên ngành Sư phạm Toán học đáp ứng<br />
Chương trình Giáo dục phổ thông tổng<br />
thể mới, ngoài những nội dung truyền<br />
thống đào tạo sinh viên ngành Sư phạm<br />
Toán học, cần chú trọng vào ba định<br />
hướng chính: Tăng cường vận dụng các<br />
phương pháp dạy học tích cực giúp sinh<br />
viên phát triển năng lực giao tiếp và hợp<br />
tác, tự học và giải quyết vấn đề trong dạy<br />
học các nội dung toán học, chú trọng phát<br />
triển năng lực ứng dụng toán học vào thực<br />
tiễn khi dạy học kiến thức thuộc khoa học<br />
toán học, quan tâm bồi dưỡng năng lực<br />
nghiên cứu khoa học nói chung, năng lực<br />
nghiên cứu khoa học trong toán học và<br />
giáo dục toán học nói riêng.<br />
2.2.1. Tăng cường vận dụng các<br />
phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp<br />
sinh viên phát triển các năng lực cốt lõi<br />
Ngoài việc sử dụng phương pháp<br />
thuyết trình trong trình bày tài liệu học tập<br />
toán học, giảng viên cần tăng cường vận<br />
dụng các phương pháp dạy học tích cực<br />
giúp sinh viên hình thành và phát triển các<br />
năng lực tự học, năng lực giao tiếp và hợp<br />
tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng<br />
tạo.<br />
Trong [10], các tác giả đã chỉ ra ý<br />
nghĩa của tự học trong đào tạo theo hệ<br />
thống tín chỉ như sau: Đặc điểm của đào<br />
tạo theo tín chỉ là sự lựa chọn “mở” nên<br />
tự học theo đào tạo tín chỉ là điều kiện<br />
cho sinh viên phát huy được khả năng trí<br />
tuệ, năng lực cá nhân, để chiếm lĩnh tri<br />
thức và rèn luyện “tay nghề” dạy học của<br />
mình một cách tự do, sáng tạo. Từ đó, các<br />
tác giả đã xây dựng một quy trình tổ chức<br />
hoạt động tự học cho sinh viên các trường<br />
đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực<br />
thực hiện gồm 3 bước: Chuẩn bị dạy học<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
(nghiên cứu hệ thống chuẩn đầu ra của<br />
sinh viên trường đại học sư phạm, phân<br />
tích chương trình dạy học, phân tích đặc<br />
điểm và đánh giá năng lực tự học của sinh<br />
viên, lập kế hoạch tổ chức tự học cho sinh<br />
viên, chuẩn bị các tài liệu và phương tiện<br />
hướng dẫn tự học), Tổ chức tự học (tổ<br />
chức tự học trên lớp và tổ chức hoạt động<br />
tự học ngoài giờ lên lớp), Đánh giá kết<br />
quả tự học nhằm thu thập thông tin ngược<br />
về kết quả học tập của sinh viên.<br />
Về phát triển kỹ năng học tập hợp tác<br />
cho sinh viên đại học sư phạm, tác giả<br />
trong [6] đã xây dựng một quy trình theo<br />
hướng này như sau:<br />
* Thiết kế các điều kiện chuẩn bị học<br />
tập hợp tác<br />
- Hoạt động của giáo viên gồm 6<br />
bước: Tìm hiểu đối tượng; Phân tích<br />
chương trình, nội dung, xác định mục tiêu<br />
bài học; Thiết kế nhiệm vụ hoạt động hợp<br />
tác cho từng nội dung bài học; Lựa chọn<br />
phương pháp, kỹ thuật dạy học và dự kiến<br />
thành lập nhóm; Dự kiến thành lập nhóm<br />
học tập (quyết định về số lượng sinh viên<br />
trong một nhóm, quyết định thành phần<br />
sinh viên trong một nhóm, phân công các<br />
nhiệm vụ trong nhóm học tập, xác định<br />
thời gian duy trì nhóm); Dự kiến thiết kế<br />
môi trương hợp tác (bố trí không gian lớp<br />
học, tạo sự phụ thuộc lẫn nhau một cách<br />
tích cực).<br />
- Hoạt động của sinh viên: Thông qua<br />
đề cương chi tiết môn học, nghiên cứu tài<br />
liệu, chuẩn bị đồ dùng.<br />
* Tổ chức thực hiện bài học gồm 6<br />
bước: Ổn định tổ chức, giới thiệu mục<br />
tiêu, yêu cầu bài học; Hướng dẫn nguyên<br />
tắc, các hành vi, thao tác, tinh thần, thái<br />
độ học tập hợp tác; Thành lập nhóm học<br />
tập hợp tác; Giao nhiệm vụ cho nhóm;<br />
Quan sát, phát hiện, điều chỉnh các hành<br />
vi hợp tác của sinh viên; Tổ chức tổng<br />
kết, đánh giá, điều chỉnh.<br />
Những phương pháp mới này rất phù<br />
hợp trong dạy học nội dung toán cao cấp<br />
gắn với toán phổ thông, giúp sinh viên<br />
hoạt động độc lập hoặc giao tiếp và hợp<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 4B (2017), tr. 46-53<br />
<br />
tác với nhau để tìm ra ý tưởng mới, đó có<br />
thể là kết quả mới, cũng có thể là một<br />
phương pháp giải quyết vấn đề toán học<br />
do giảng viên đặt ra. Qua đó phát triển<br />
cho sinh viên năng lực lập luận toán học<br />
trong dạy toán cao cấp, hiểu rõ về phương<br />
pháp tiên đề - phương pháp đặc thù để<br />
xây dựng toán học. Các kiến thức toán<br />
cao cấp nói chung và các khái niệm trong<br />
chúng thường được hình thành dựa trên<br />
các thao tác khái quát hóa (generalization)<br />
và trừu tượng hóa (abstraction), vốn chưa<br />
thành thạo đối với hầu hết sinh viên<br />
những năm đầu bậc đại học. Vì vậy, họ<br />
thường nắm các khái niệm đó một cách<br />
hình thức, dễ quên và khó áp dụng. Mặt<br />
khác, tính hệ thống của các kiến thức đó<br />
hoặc sẽ không được xác lập hoặc dễ bị<br />
phá vỡ nếu các khái niệm cơ bản trong<br />
chúng không được gắn kết bởi các quá<br />
trình khái quát hóa và trừu tượng hóa (dẫn<br />
theo [9]). Do đó, trong quá trình dạy học<br />
kiến thức này, giảng viên nên tổ chức dạy<br />
học hợp tác theo nhóm cho sinh viên<br />
nhằm giúp họ nắm chắc kiến thức và rèn<br />
luyện hai thao tác khái quát hóa, trừu<br />
tượng hóa.<br />
Chẳng hạn, từ các không gian vectơ<br />
hai chiều R2 và ba chiều R3 quen thuộc,<br />
giảng viên tổ chức hoạt động nhóm cho<br />
sinh viên khái quát hoá thành không gian<br />
vectơ n chiều Rn và trừu tượng hóa thành<br />
khái niệm không gian vectơ. Khi làm như<br />
vậy, hai đối tượng tinh thần khác nhau<br />
được sinh ra: Cái khái quát hóa Rn và cái<br />
trừu tượng hóa V, một không gian vectơ<br />
trên trường F tùy ý.<br />
Ở đây cần lưu ý rằng, các nhà toán<br />
học thường xem không gian vectơ V trên<br />
trường F tùy ý vừa là cái trừu tượng hóa<br />
vừa là cái khái quát hóa của không gian<br />
vectơ hai chiều R2, và do đó việc sử dụng<br />
các thuật ngữ này sao cho phù hợp việc sử<br />
dụng chúng trong toán học là điều quan<br />
trọng. Trong khi đó, các nhà giáo dục toán<br />
học lại chú trọng xem xét các quá trình<br />
nhận thức liên quan. Ở đây ta thấy sự<br />
khác biệt tinh tế giữa hai ví dụ trên. Khái<br />
49<br />
<br />
N. C. Thắng, K. P. Chi, L. T. N. Thúy / Một số ý kiến về đào tạo sinh viên ngành sư phạm toán học…<br />
<br />
quát hóa thành khái niệm Rn từ việc mở<br />
rộng R1 đến R2, đến R3… có thể được mô<br />
tả bằng cách áp dụng các quy trình số học<br />
thông thường đối với mỗi tọa độ. Trừu<br />
tượng hóa thành không gian vectơ V trên<br />
trường F tùy ý là một đối tượng tinh thần<br />
(mental) khác hẳn, nó được xác định bởi<br />
một hệ tiên đề. Trong khi ở trường hợp<br />
thứ nhất, công việc khá đơn giản chỉ gồm<br />
một sự mở rộng của các quá trình quen<br />
thuộc, thì ở trường hợp sau yêu cầu phải<br />
có một sự tổ chức lại khá lớn về mặt tinh<br />
thần. Như vậy, quá trình khái quát hóa<br />
mang đặc tính tiệm tiến còn quá trình trừu<br />
tượng hóa mang đặc tính nhảy vọt trong<br />
quá trình phát triển nhận thức của người<br />
học.<br />
2.2.2. Chú trọng cho sinh viên trải<br />
nghiệm hoạt động ứng dụng toán học vào<br />
thực tiễn và các khoa học khác<br />
Theo [14], việc phân tích các hệ<br />
.<br />
<br />
Lời giải thực tế<br />
<br />
5<br />
<br />
thống khoa học ứng dụng như công nghệ,<br />
kinh tế, sinh học… cần sử dụng các<br />
phương pháp của toán học và khoa học<br />
máy tính. Thực tế thì khi quan sát một hệ<br />
vật chất và phân tích hiện tượng xảy ra,<br />
việc sử dụng các mô hình toán học thích<br />
hợp để mô tả sự tiến triển của nó theo thời<br />
gian và không gian là rất cần thiết. Người<br />
ta lập luận được rằng có một sự kết nối<br />
mạnh mẽ giữa các khoa học ứng dụng và<br />
toán học biểu thị bởi các mô hình toán<br />
học được thiết kế và ứng dụng dưới sự hỗ<br />
trợ của khoa học máy tính để mô phỏng<br />
các hệ thống trong thế giới thực tế.<br />
Việc thiết kế tình huống để sinh viên<br />
trải nghiệm hoạt động ứng dụng toán học<br />
và thực tiễn và các khoa học khác có thể<br />
dựa theo quy trình mô hình hóa toán học<br />
của PISA/OECD như sau (dẫn theo [12]):<br />
<br />
Lời giải toán học<br />
<br />
5<br />
<br />
4<br />
<br />
Vấn đề thực tế<br />
<br />
Thế giới thực tế<br />
<br />
1, 2, 3<br />
<br />
Vấn đề toán học<br />
<br />
Thế giới toán học<br />
<br />
Sơ đồ 2: Quy trình toán học hóa của PISA/OECD (2009)<br />
Trong đó:<br />
(1) Bắt đầu từ một vấn đề được đặt ra trong thực tế,<br />
(2) Tổ chức vấn đề đó theo các khái niệm toán học,<br />
(3) Không ngừng cắt tỉa thực tế,<br />
(4) Giải quyết bài toán toán học,<br />
(5) Làm cho lời giải bài toán có ý nghĩa theo bối cảnh thực tế.<br />
50<br />
<br />