Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
MỘT TRƯỜNG HỢP TIỀN SẢN GIẬT VỚI HỘI CHỨNG RỐI LOẠN <br />
TUẦN HOÀN NÃO SAU CÓ KHẢ NĂNG HỒI PHỤC <br />
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Nguyễn Thị Minh Trí** <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mở đầu: Hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có khả năng hồi phục (Posterior reversible encephalopathy <br />
syndrome PRES) là một hội chứng lâm sàng và cận lâm sàng với biểu hiện là đau đầu, co giật, thay đổi tâm thần <br />
và mất thị lực đi kèm với tổn thương chất trắng trên hình ảnh học. <br />
Ca lâm sàng: Trong bài báo này, chúng tôi mô tả một bệnh nhân nữ, 30 tuổi hậu sản mổ lấy thai 1 ngày <br />
kèm với biểu hiện lâm sàng của PRES. Bệnh nhân đã được chẩn đoán sớm và điều trị thành công với thuốc hạ <br />
áp, lâm sàng cải thiện tốt. <br />
Bàn luận: Tiền sản giật sau sinh là hiếm gặp và được ghi nhận khoảng 5,7% trong tất cả các trường hợp <br />
tăng huyết áp thai kỳ. PRES lại càng hiếm gặp nên dễ bỏ sót chẩn đoán gây chậm trễ trong điều trị. Sự chậm trễ <br />
này có thể gây tổn thương thần kinh vĩnh viễn. <br />
Kết luận: Từ ca lâm sàng này gợi ý chúng ta một ghi nhớ quan trọng là cần chẩn đoán sớm và điều trị kịp <br />
thời để ngăn ngừa bệnh tật và tử vong trong cả thời kỳ mang thai và sau sinh. <br />
Từ khóa: Hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có khả năng hồi phục, tiền sản giật. <br />
<br />
ABSTRACT <br />
A CASE REPORT OF PREECLAMPSIA WITH POSTERIOR REVERSIBLE ENCEPHALOPATHY <br />
SYNDROME. <br />
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Nguyen Thi Minh Tri <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 301 ‐ 304 <br />
Background: Posterior reversible encephalopathy syndrome (PRES) is a clinical radiologic syndrome of <br />
heterogenic etiologies. It is a reversible syndrome characterized by headache, seizures, altered mentation, and loss <br />
of vision associated with white matter changes on imaging. <br />
Case presentation: We report here a 30 year‐old lady one day postpartum, presenting with posterior <br />
reversible encephalopathy syndrome. She was diagnosed and treated successfully with antihypertensive and <br />
showed dramatic improvement. <br />
Discussion: Postpartum preeclampsia is a rare and under‐recognized condition occurring in 5.7% of all <br />
cases of pregnancy‐induced hypertension. PRES is a very rare condition and so is usually not suspected. This <br />
causes delay in diagnosis and treatment, which can lead to permanent neurological damage. <br />
Conclusion: This case suggests that this condition is important to recognize and needs to be treated <br />
promptly to prevent morbidity and mortality in pregnancy and postpartum. <br />
Keywords: Posterior reversible encephalopathy syndrome, preeclampsia. <br />
năng hồi phục (Posterior reversible <br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
leukoencephalopathy syndrome), lần đầu tiên <br />
Hội chứng não rối loạn tuần hoàn sau có <br />
được Hinchey mô tả vào năm 1966(3). Đây là <br />
khả năng hồi phục (PRES) còn gọi lại hội <br />
một hội chứng có thể hồi phục với biểu hiện <br />
chứng tổn thương não chất trắng sau có khả <br />
* Bộ môn lão khoa ĐHYD TPHCM **Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh <br />
Tác giả liên lạc: BSCKI. Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên, ĐT: 0979982642, Email: dr.mytien@gmail.com <br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 <br />
<br />
301<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br />
<br />
đau đầu, thay đổi tâm thần, mất thị lực có liên <br />
quan đến tổn thương chất trắng, chủ yếu là <br />
phù não ở vùng sau của bán cầu não. Ngoài ra <br />
cũng có tổn thương ở thân não, tiểu não và các <br />
vùng não khác. Tiền sản giật sau sinh là hiếm <br />
gặp và được ghi nhận khoảng 5,7% trong tất cả <br />
các trường hợp tăng huyết áp thai kỳ. PRES lại <br />
càng hiếm gặp nên dễ bỏ sót chẩn đoán gây <br />
chậm trễ trong điều trị(4). Sự chậm trễ này có <br />
thể gây tổn thương thần kinh vĩnh viễn. <br />
Chúng tôi xin trình bày dưới đây một <br />
trường hợp tiền sản giật sau sinh kèm với PRES. <br />
Điều tối quan trọng là phải chẩn đoán chính xác <br />
sớm và điều trị sớm để ngăn ngừa biến chứng <br />
thần kinh vĩnh viễn. <br />
<br />
TRÌNH BÀY CA LÂM SÀNG <br />
Bệnh nhân nữ, 30 tuổi, mang thai con so, <br />
khám thai mỗi 3 tháng. Bệnh nhân không ghi <br />
nhận tăng huyết áp, đạm niệu âm tính, cũng <br />
như chức năng thận bình thường trong quá <br />
trình mang thai. Bệnh nhân đã có biểu hiện phù <br />
hai chi dưới ở tuần mang thai thứ 24 nhưng <br />
không tái khám, đến tuần mang thai thứ 36 mới <br />
khám thai theo lịch hẹn và ghi nhận HA 160/80 <br />
mmHg, protein niệu (++). Bệnh nhân được đề <br />
nghị nhập viện mổ lấy thai ở tuần thứ 36 do tiền <br />
sản giật và truyền Magnesulfate, ổn định huyết <br />
áp, lợi tiểu. Bệnh nhân đã được nhập viện, xử trí <br />
nội khoa tích cực và được mổ lấy thai. Ca phẫu <br />
thuật thành công, bệnh nhân sinh được một bé <br />
trai đầu lòng, khỏe mạnh, nặng 3100g. Tuy đã <br />
tích cực xử trí, bệnh nhân không có cơn co giật <br />
nhưng một ngày sau mổ lấy thai 1 ngày, bệnh <br />
nhân đột ngột sảng, trả lời lúc đúng lúc sai, mù <br />
hai mắt hoàn toàn, đau đầu nhiều, buồn nôn, sốt <br />
cao 380C, HA lúc này 150/100 mmHg. Bệnh nhân <br />
được hội chẩn và chuyển sang điều trị tại khoa <br />
nội thần kinh bệnh viện Thống Nhất. Khám lâm <br />
sàng ghi nhận bệnh nhân tỉnh, rối loạn nhận <br />
thức, tinh thần lo lắng, mù vỏ não hai mắt, đau <br />
đầu nhiều, buồn nôn, babinski (+) hai bên, cổ <br />
mềm, tê yếu tứ chi, sức cơ 4/5, đồng tử hai bên <br />
dãn nhẹ # 3 mm, phản xạ ánh sáng (+), soi đáy <br />
mắt có phù gai thị ít, xuất tiết đáy mắt, phù hai <br />
<br />
302<br />
<br />
chi dưới. Khám lâm sàng tim, phổi chưa ghi <br />
nhận bất thường. Vết mổ lấy thai khô, không <br />
sưng, nóng đỏ, chảy dịch. Sản dịch nâu, lượng ít. <br />
Sinh hiệu: sốt dao động 38‐390C, HA dao động <br />
140/90 – 150/100 mmHg. Về cận lâm sàng, công <br />
thức máu có công thức bạch cầu chuyển trái (BC <br />
15,9 K/ul, Neu 90%), CRP 155,58 mg/dl, <br />
procalcitonin 0,26 ng/ml. Các xét nghiệm về <br />
đông máu, chức năng gan, chức năng thận, <br />
glucose, ion đồ trong giới hạn bình thường, <br />
protein niệu (++). Xét nghiệm về điện tâm đồ, <br />
siêu âm tim, siêu âm bụng, Xquang ngực thẳng <br />
không ghi nhận bất thường. Bệnh nhân được <br />
tiến hành chụp MRI sọ não cấp cứu các chuỗi <br />
xung T1, T2, FLAIR (fluid attenuated inversion <br />
recovery) với kết quả: chuỗi xung T1 bình <br />
thường. Ở chuỗi xung T2, FLAIR có tăng tín <br />
hiệu rải rác khắp hai bên thùy đỉnh chẩm cả hai <br />
bán cầu và nhân bèo hai bên (Hình 1A, 2A). Các <br />
chuỗi DWI và ADC map ghi nhận có phù não <br />
do phù mạch máu (Hình 1B, 2B). Đứng trước <br />
trường hợp lâm sàng này, chẩn đoán phân biệt <br />
với thuyên tắc tĩnh mạch sâu cần đặt ra. Vì vậy, <br />
bệnh nhân đã được chụp MRV và kết quả không <br />
ghi nhận có thuyên tắc tĩnh mạch sâu (Hình 1C, <br />
2C). Chẩn đoán xác định là hội chứng PRES – <br />
TD nhiễm trùng hậu phẫu ‐ tiền sản giật/ mổ lấy <br />
thai ngày một. Bệnh nhân đã được chẩn đoán <br />
sớm và điều trị ổn định huyết áp với Amlodipin, <br />
kháng sinh, an định, bù nước điện giải, chống <br />
táo bón và chăm sóc hậu sản toàn diện. <br />
Kết quả, bệnh nhân đã cải thiện thị lực dần <br />
sau 1 ngày, hồi phục thị lực hoàn toàn sau 2 <br />
ngày, hồi phục vận động sau 4 ngày, hồi phục <br />
cảm giác hoàn toàn sau 6 ngày. Kết quả MRI sau <br />
6 ngày nằm viện hồi phục thật ngoạn mục, các <br />
tổn thương tăng tín hiệu rải rác khắp hai bán cầu <br />
biến mất gần như hoàn toàn (Hình 3). Bệnh <br />
nhân xuất viện sau 6 ngày với kết quả phục hồi <br />
tốt cả lâm sàng và hình ảnh thần kinh học. Em <br />
bé vẫn được tiếp tục bú mẹ sau đó. <br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
thiếu máu, cuối cùng sẽ gây phù não do mạch <br />
máu(2). <br />
<br />
<br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Tiền sản giật là một trong những biến chứng <br />
của sản khoa với đặc điểm HA > 140/90 mmHg <br />
và hiện diện protein niệu. Trong những trường <br />
hợp nặng có thể kèm với co giật trở thành sản <br />
giật(4). Trong ca lâm sàng này, bệnh nhân tuy <br />
không khám thai ngay khi có biểu hiện phù hai <br />
chi dưới, nhưng đã được chẩn đoán tiền sản giật <br />
ở tuần thứ 36 và được xử trí mổ lấy thai song <br />
song với nội khoa tích cực. Tuy ca phẫu thuật <br />
thành công, bệnh nhân đã sinh được một bé trai <br />
khỏe mạnh, nhưng sau mổ lấy thai một ngày, <br />
bệnh nhân xuất hiện các biểu hiện lâm sàng của <br />
tổn thương hệ thần kinh trung ương. Từ đó cho <br />
thấy, bác sỹ cần tư vấn bệnh nhân theo dõi thai <br />
kỳ thật kỹ và hướng dẫn bệnh nhân những biểu <br />
hiện bất thường cần tái khám ngay. <br />
Hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có khả <br />
năng hồi phục (PRES) là hội chứng lâm sàng và <br />
hình ảnh thần kinh học với nhiều nguyên nhân: <br />
bệnh não do tăng huyết áp cấp, sản giật, thuốc <br />
độc tế bào, thuốc ức chế miễn dịch, tăng canxi <br />
máu(3,6). Cơ chế bệnh sinh của PRES là do sự phá <br />
hủy cơ chế tự điều hòa của hàng rào máu não <br />
gây phù mạch tế bào não. Hình ảnh phù mạch <br />
này thể hiện trên hình ảnh thần kinh học. Sinh lý <br />
bệnh của PRES dựa trên hai thuyết: 1) Tăng <br />
huyết áp gây suy yếu cơ chế tự điều hòa của <br />
não, gây tổn thương mạng lưới mao mạch dẫn <br />
đến phù não do mạch máu (vasogenic edema). <br />
Đặc biệt, tuần hoàn não sau rất nhạy cảm với <br />
tăng huyết áp. 2) Rối loạn chức năng tế bào nội <br />
mô gây co mạch, dẫn đến giảm tưới máu và gây <br />
<br />
Trong ca lâm sàng này, chẩn đoán phân biệt <br />
ban đầu rất quan trọng để quyết định điều trị. <br />
Trước các biểu hiện lâm sàng mù đột ngột, <br />
chúng ta cần chẩn đoán phân biệt giữa nhồi máu <br />
não, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, xuất huyết <br />
khoang dưới nhện, nhiễm trùng hệ thần kinh <br />
trung ương và hội chứng co thắt mạch não có <br />
khả năng hồi phục với hội chứng PRES. Đặc biệt <br />
trên một bệnh nhân tiền sản giật, thuyên tắc tĩnh <br />
mạch sâu cần được loại trừ đầu tiên để xét chỉ <br />
định của thuốc kháng đông? Mặt khác, bệnh <br />
nhân vừa mổ lấy thai được một ngày, nếu phải <br />
chỉ định dùng thuốc kháng đông để điều trị <br />
thuyên tắc tĩnh mạch sâu thì nguy cơ chảy máu <br />
tử cung rất cao và nguy cơ phải cắt bỏ tử cung <br />
cũng rất cao. Như vậy, bệnh nhân sẽ vô sinh <br />
vĩnh viễn. Vì vậy, bệnh nhân đã được chụp MRI <br />
sọ não cấp cứu và MRV hệ não. Kết quả MRV <br />
cho phép loại trừ chẩn đoán thuyên tắc tĩnh <br />
mạch sâu. MRI sọ não cấp cứu các chuỗi xung <br />
T1, T2, FLAIR với kết quả: chuỗi xung T1 bình <br />
thường. Ở chuỗi xung T2, FLAIR có tăng tín <br />
hiệu rải rác khắp hai bên thùy đỉnh chẩm cả hai <br />
bán cầu và nhân bèo hai bên. Các chuỗi xung <br />
DWI (diffusion weighted imaging) và ADC map <br />
(apparent diffusion coefficient) giúp phân biệt <br />
giữa phù não do nguyên nhân mạch máu <br />
(vasogenic edema) hay do phù độc tế bào <br />
(cytotoxic edema), từ đó giúp phân biệt giữa hội <br />
chứng PRES và nhồi máu não(1). Ngoài ra, bệnh <br />
nhân cần được chụp MRA để loại trừ hội chứng <br />
co thắt mạch não có khả năng hồi phục <br />
(reversible <br />
cerebral <br />
vasoconstriction <br />
syndrome)(5). <br />
Tuy nhiên, trong ca lâm sàng này, chẩn đoán <br />
phân biệt với hội chứng co thắt mạch não có khả <br />
năng hồi phục không được đặt ra, nên protocol <br />
của MRI không có MRA. Bệnh nhân đã được <br />
chẩn đoán sớm là hội chứng PRES và xử trí tích <br />
cực theo hướng này. <br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 <br />
<br />
303<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br />
<br />
KẾT LUẬN <br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO <br />
<br />
Từ ca lâm sàng này gợi ý, đối với bệnh nhân <br />
hậu sản tiền sản giật có biểu hiện tổn thương <br />
thần kinh trung ương cấp, cần chụp MRI sọ não <br />
cấp cứu với đủ các chuỗi xung T1, T2, FLAIR, <br />
DWI, ADC map, MRV, MRA để xác chẩn sớm <br />
và điểu trị tích cực thích hợp, tránh các biến <br />
chứng thần kinh vĩnh viễn không thể hồi phục. <br />
<br />
1.<br />
<br />
2.<br />
<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
<br />
5.<br />
<br />
6.<br />
<br />
<br />
Hình 3. MRI sọ não sau 6 ngày điều trị. <br />
<br />
Bartynski WS, Boardman JF. (2007). Distinct imaging patterns <br />
and lesion distribution in posterior reversible encephalopathy <br />
syndrome. AJNR Am J Neuroradiol;28:1320‐1327. <br />
Bartynski WS. (2008). Posterior reversible encephalopathy <br />
syndrome, part 2: Controversies surrounding pathophysiology <br />
of vasogenic edema. AJNR Am J Neuroradiol; 29: 1043‐1049. <br />
Hinchey J, Chaves C, et al. (1996) A reversible posterior <br />
leukoencephalopathy syndrome. N Engl J Med 1996;334:494‐<br />
500. <br />
Matthys LA, Coppage KH, et al. (2004). Delayed postpartum <br />
preeclampsia: An experience of 151 cases. Am J Obstet <br />
Gynecol;190:1464‐1466. <br />
Singhal AB, Kimberly WT. (2009). Case records of <br />
Massachusetts General Hospital: Case 8‐2009: A 36‐year‐old <br />
woman with headache, hypertension, and seizure 2 weeks <br />
post partum. N Engl J Med;360:1126‐1137. <br />
Ugurel MS, Hayakawa M (2005). Implications of post‐<br />
gadolinium MRI results in 13 cases with posterior reversible <br />
encephalopathy syndrome. Eur J Radiol;53:441‐449. <br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài báo <br />
<br />
<br />
Ngày phản biện nhận xét bài báo: <br />
Ngày bài báo được đăng: <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
01‐7‐2013 <br />
19‐7‐2013 <br />
01‐8‐2013 <br />
<br />
<br />
<br />
304<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 <br />
<br />