intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay" tập trung đánh giá thực trạng của công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

  1. Trường Đại học Mỏ - Địa chất NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Mai Diệu Anh Tóm tắt: Xuất phát từ khái niệm đói nghèo, xóa đói giảm nghèo, những nhận thức chung của Đảng và Nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo, bài viết tập trung đánh giá thực trạng của công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: Xóa đói; Giảm nghèo; Phát triển; Bền vững; Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu tất yếu để phát triển bền vững. Quá trình đổi mới nhất là về kinh tế và chính trị trong hơn 30 năm qua đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo thành một nước có nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Chính sách và các giải pháp xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã đem lại kết quả khá tích cực cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít thách thức, trở ngại. Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp rõ rệt, gây nên áp lực lớn cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. 2. NỘI DUNG 2.1. Nhận thức chung về xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững Đói nghèo là tình trạng thiếu thốn về vật chất, tình trạng những cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng thiếu nguồn lực để tạo ra nguồn thu nhập đủ duy trì mức tiêu dùng đáp ứng được nhu cầu cho cuộc sống đầy đủ, sung túc. Xóa đói giảm nghèo là quá trình cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho bộ phận dân cư nghèo đói, từ đó hình thành cách thức làm giảm số lượng và tỷ lệ người nghèo đói trong xã hội. Đây là sự chuyển đổi từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang có nhiều điều kiện lựa chọn hơn, là sự thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, khu vực, giữa các nhóm dân cư, giữa các dân tộc, từng bước đưa một bộ phận thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Từ đó, xóa đói giảm nghèo góp phần thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng xã hội. Khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên được đưa ra trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) năm 1987: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”. Sự hài hòa trong phát triển bền vững thể hiện thông qua sự ổn định ba mặt kinh tế (tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường); xã hội (công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc  TS. Học viện An ninh Nhân dân. 142
  2. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững làm, ổn định chính trị, ) và môi trường (nâng cấp cuộc sống, bảo vệ môi trường đô thị, xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi, cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, cân bằng sinh thái). Nhận thức sâu sắc về vấn đề xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững, trong những năm qua, Việt Nam vẫn luôn coi xóa đói giảm nghèo là một nội dung quan trọng trong các chính sách an sinh xã hội. Công cuộc xóa đói giảm nghèo được chính thức phát động cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước và đẩy mạnh vào đầu những năm 90 thế kỷ 20. Vào những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam đã đặt vấn đề giải quyết đói nghèo trong chiến lược phát triển bền vững, chính sách xóa đói giảm nghèo được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương. Hàng loạt chương trình xóa đói giảm nghèo đã và đang được triển khai ở Việt Nam. Xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội là một nội dung cơ bản, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng, được cụ thể bằng chính sách, pháp luật và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước qua các thời kỳ. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước xác định là chủ trương lớn, một chương trình của quốc gia, giàu tính nhân văn, thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là mục tiêu, yêu cầu của quá trình phát triển bền vững. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000”, đề ra nhiều mục tiêu và giải pháp cụ thể cho vấn đề xóa đói, giảm nghèo. Tiếp đó, Thủ tướng ký Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”. Xóa đói, giảm nghèo còn là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ, phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết. Từ đó, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo”, hiện thực hóa quyết tâm của Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định nhiệm vụ của Đảng là phải luôn “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta đã ký kết”1. Tại Đại hội, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền đã nhận định: “bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh”2. Với cam kết thực hiện Chương trình Nghị sự 2030, ngày 10-5-2017 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg “Về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững” khẳng định quyết tâm xây dựng và thực hiện lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030. Bản Kế hoạch hành động của Việt Nam xác định 17 mục tiêu chung của phát triển bền vững trong đó có mục tiêu: Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.167. 2 Xem: Nguyễn Văn Tuân (2016), An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 7 (104). 143
  3. Trường Đại học Mỏ - Địa chất đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; cơ bản giải quyết được trình trạng đói, đến năm 2025 không còn nạn đói. Trên cơ sở các quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, hàng loạt chương trình thực hiện xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh, công bằng xã hội gắn liền phát triển kinh tế được thực hiện trên cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số và vùng biên giới, hải đảo. Sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước tạo nên những thành quả lớn trong xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Thực trạng xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay Yêu cầu về xóa đói giảm nghèo là một nội dung của quan điểm phát triển bền vững, với việc phát huy tối đa nhân tố con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hợp quốc tổ chức tại New York, Hoa Kỳ từ ngày 25 đến 27-9- 2015 đã thông qua Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững. Từ đó, Việt Nam tiến hành đẩy mạnh hoạt động truyền thông, giáo dục, tuyên truyền về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030, trong đó có yêu cầu phải xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững. Ngoài ra, Việt Nam triển khai hàng loạt chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh, công bằng xã hội trên cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo. Có thể nhắc tới một số chương trình giảm nghèo dài hạn như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn I và giai đoạn II; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo trong giai đoạn 2009 - 2020... Trong số đó, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất với cộng đồng quốc tế là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (còn gọi là Chương trình 135). Trọng tâm của các chương trình xóa đói giảm nghèo là tập trung phát triển hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu nhập cho các huyện nghèo, hộ nghèo và người nghèo. Ở các huyện, xã thoát nghèo, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh như: Đường giao thông đến trung tâm xã, thôn bản, trường học, trạm y tế, điện, nước sinh hoạt, hệ thống thủy lợi, chợ nông thôn đã được tăng cường đầu tư, đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân trên địa bàn, tỷ lệ huy động trẻ em đến trường theo độ tuổi ngày càng tăng, tỷ lệ trẻ em bỏ học ở các cấp học giảm, người nghèo được tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe thuận tiện hơn; nhiều mô hình hỗ trợ sinh kế cho tổ nhóm người nghèo theo hướng tự quản từng bước được hình thành để khai thác các tiềm năng, thế mạnh, phù hợp với đặc điểm, tập quán dân cư, từng bước chuyển đổi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hóa, tiếp cận thị trường. Việt Nam đã thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, đoàn thể và cộng đồng về vấn đề xóa đói, giảm nghèo, về chất lượng nguồn nhân lực, về thực hiện các chính sách của nhà nước đối với hộ nghèo và cận nghèo. Bên cạnh đó, Việt Nam còn nâng cao năng lực đối với các cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tốt nhiệm vụ, kịp thời kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, kịp thời điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các địa phương đã tập trung vào việc nâng cao nhận thức cho người nghèo về tính cấp thiết phải xóa đói, giảm nghèo, phát huy ý chí tự lực thoát nghèo, vượt lên mọi hoàn cảnh, dần xóa bỏ tư tưởng ỷ lại và sự giúp đỡ từ bên ngoài của người nghèo. 144
  4. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Trong những năm gần đây, mỗi năm ngân sách nhà nước đã dành hàng chục nghìn tỷ đồng đầu tư, hỗ trợ trực tiếp cũng như lồng ghép, thông qua các chương trình, dự án, chính sách cho giảm nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các quốc gia, tổ chức quốc tế cũng dành sự ủng hộ rất to lớn đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Việt Nam ban hành nhiều nghị định, thông tư quy định đối với chế độ thu, quản lý học phí cho các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, nhiều chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021 được ban hành, đặc biệt là các quy định, chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở những xã, thôn đặc biệt khó khăn. Phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp được Việt Nam quan tâm nhằm đảm bảo chính sách an sinh xã hội được thực hiện hiệu quả. Vấn đề này thể hiện bằng việc thông qua Luật Nhà ở 2014, Nghị định 99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, Nghị định 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lý nhà ở xã hội; Nghị định 101/2015/NĐ-CP về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư; Quyết định 48/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà ở, phòng chống bão lụt; Quyết định 33/2015/QĐ-TTg về chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo. Về thành tựu của công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay Phải khẳng định rằng, với những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, nghèo đói của người dân trong cả nước được đẩy lùi đáng kể. Việt Nam đã đạt được mục tiêu giảm nghèo quốc gia đề ra, được thế giới đánh giá là một trong sáu quốc gia hoàn thành mục tiêu trước thời hạn và là điểm sáng về thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Liên Hợp Quốc khẳng định Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất thế giới trong xóa đói giảm nghèo. Việc làm tăng lên đã góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội cũng được cải thiện. Tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm nhanh, giảm nghèo đạt được ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng tới công tác xoá đói, giảm nghèo và coi đây là chủ trương xuyên suốt trong các thời kỳ. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính là 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 20171. Có nghĩa chúng ta đã về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Chính phủ đã tập trung thúc đẩy các chính sách về phát triển bền vững, đặc biệt lồng ghép nội dung phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020. Các chính sách xóa đói giảm nghèo đã có tác động không nhỏ vào việc đẩy lùi nghèo đói, ổn định đời sống xã hội tại các vùng dân cư trong cả nước. Bộ mặt đô thị và nông thôn đã có nhiều thay đổi, hơn nữa còn thay đổi rất mạnh mẽ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa giúp cho trình độ sản xuất nông nghiệp được thay đổi một cách rõ rệt do được trang bị những kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại. Các sản phẩm lúa gạo, thực phẩm, hoa quả, hàng hóa công nghiệp… ngày một phong phú, giúp người dân có nhiều hơn nữa các cơ hội lựa chọn, đời sống ngày một nâng cao. 1 Xem: Tổng cục Thống kê (2019), Tạp chí Con số và Sự kiện, số 12, http: www.gso.gov.vn. 145
  5. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Các dịch vụ văn hóa, thông tin, truyền thông, xuất bản, in ấn ứng dụng nhiều kỹ thuật hiện đại tăng cả số lượng và chất lượng trong các sản phẩm. Dân cư vùng núi cao, vùng sâu vùng xa cũng đã có đường giao thông tương đối thuận tiện, có ô tô, xe máy, điện thoại (cố định và di động), tivi, tủ lạnh… Từ đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa góp phần quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, giúp giảm nghèo bền vững, trong giảm nghèo về nhân văn và tri thức. Người dân được nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, trình độ dân trí. Thu nhập bình quân của hộ nghèo cũng có xu hướng tăng lên. Chỉ số khoảng cách nghèo, thể hiện mức chênh lệch của chi tiêu bình quân của số hộ nghèo so với chuẩn nghèo chung, đạt mức rất thấp. Công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tăng trưởng kinh tế tác động mạnh mẽ đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,62 lần năm 1995, xuống 1,99 lần năm 2010. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm, tuổi thọ bình quân tăng. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao. Năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 20151. Việt Nam đã xóa đói giảm nghèo cho hàng chục triệu người, đẩy lùi, xóa bỏ tình trạng thiếu đói trên cả nước. Người dân Việt Nam không chỉ được thỏa mãn nhu cầu đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành, mà còn ăn no, ăn ngon, đủ chất dinh dưỡng, mặc ấm, mặc đẹp; hạ tầng thiết yếu chăm lo cho con người ngày càng tốt hơn. Nhóm yếu thế được quan tâm bằng một hệ thống chính sách và giải pháp đồng bộ. Sự vào cuộc của các cấp các ngành trong đó có sự góp sức của hệ thống Mặt trận các cấp và của chính người dân đã giúp công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành công, sức mạnh tổng hợp của cộng đồng, của toàn xã hội được nhân lên, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, hộ nghèo, tiếp tục vun đắp, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam. Thông qua sự vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể xã hội, nhiều chương trình trợ giúp từ các doanh nghiệp, cá nhân, các nhà hảo tâm đối với người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn được thực hiện, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội cùng quan tâm hướng tới người nghèo. Từ khi thực hiện ngày 17/10/2000 đến hết tháng 8/2018, thông qua sự vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, các tổ chức quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài đã ủng hộ hơn 50.000 tỷ đồng thông qua Quỹ “Vì người nghèo” Trung ương và quỹ 3 cấp ở địa phương; ủng hộ trực tiếp chương trình an sinh xã hội ở các địa phương... Cả nước có 8 huyện 30a thoát nghèo theo Quyết định số 275/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; 17 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, 21 xã thuộc Chương trình 135 thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 6%, giảm 1 Xem: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp Lý luận Chính trị - Kinh tế phát triển, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, tr.77. 146
  6. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững khoảng 1-1,3% so với đầu năm 2018, trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm trên 4%, đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XII đề ra. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có sự hướng dẫn cụ thể cho các địa phương triển khai Đề án Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020; khảo sát thực hiện mô hình cá nhân, gia đình nhận nuôi có thời hạn đối với những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; phối hợp một số tỉnh, thành phố khảo sát việc thực hiện theo mô hình dạy nghề gắn với tạo việc làm cho trẻ em đặc biệt khó khăn. Đây là những thành tựu rất đáng khích lệ, góp phần quan trọng cho Việt Nam phát triển bền vững. Hạn chế trong xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Tình trạng đói nghèo dù có giảm nhưng lại chưa thực sự bền vững. Tỷ lệ tái nghèo vẫn cao do có người cận nghèo hoặc những người gặp rủi ro rất dễ rơi vào đói nghèo. Theo báo cáo của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trình bày: Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 6,7% (giảm 1,53% so với cuối năm 2016); ước đến cuối năm 2018 còn dưới 6% (giảm khoảng 1,0 - 1,3% so với năm 2017); tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm bình quân 5,43%/năm; tại các xã thuộc Chương trình 135 giảm khoảng 3 - 4%/năm, đạt mục tiêu về giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm theo Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội. Tuy nhiên, báo cáo của Chính phủ cũng nêu: Kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60 - 70%. Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm trên 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước (cuối năm 2017), thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 2/5 mức thu nhập bình quân của cả nước; chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư cả nước tăng từ 9,7 lần năm 2014 lên 9,8 lần năm 2016. Ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hiện tượng các lao động nông thôn đổ xô ra thành thị tìm kiếm cơ hội việc làm, do thu nhập từ nghề làm nông còn quá thấp và do tính thời vụ của công việc nên sau khi hết thời kỳ cấy hái, người nông dân không có các hoạt động phi nông nghiệp để bổ sung và tạo thêm thu nhập tại chỗ. Dù vậy, công việc chủ yếu họ xin làm được lại là lao động tự do trong các lĩnh vực phụ, vì thế lương nhận được rất thấp. Dù cho hiện tượng này phần nào giúp người lao động có việc làm, cải thiện thu nhập nhưng nó vẫn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đáng kể như lao động nông nghiệp giảm sút, trẻ em nông thôn bỏ học ra thành phố kiếm việc lại trở thành nạn nhân hoặc tham gia thực hiện hành vi phạm pháp hoặc các tệ nạn xã hội do thiếu sự quản lý của gia đình, trường học. Chính sách còn chồng chéo, quá nhiều văn bản, phân tán; sự chỉ đạo, phối hợp các nguồn lực chưa tốt. Một số chính sách chưa khơi dậy tiềm năng, thế mạnh và sự tham gia tích cực của người dân và cộng đồng để cùng nhau vươn lên. Còn diễn ra tình trạng xác định hộ nghèo không chính xác; xác nhận nghèo luân phiên trong một số địa phương. Có cán bộ có thu nhập nhưng lại kê khai là hộ nghèo. Một số cán bộ ở địa phương còn lạm dụng nhất định chính sách giảm nghèo, gây ảnh hưởng uy tín lãnh đạo địa phương và ảnh hưởng tới công cuộc xoá đói giảm nghèo. Nhiều chủ trương về chính sách giảm nghèo một số nơi triển khai chưa tốt, chưa sáng tạo, vận dụng chưa hiệu quả. Hạ tầng, dân trí vùng sâu vùng xa nhiều nơi còn khó khăn. Nhiều tập tục lạc hậu ở một số vùng đã làm cho tỷ lệ nghèo chưa được giải quyết… 147
  7. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Diện bao phủ của nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo còn hẹp. Còn một bộ phận người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, chẳng hạn giáo dục, y tế, dinh dưỡng… Diện trợ cấp đột xuất lại khá rộng, vì thế chính sách cứu trợ đột xuất dù đã triển khai thực hiện nhưng thực tế khả năng bao quát còn chưa tới. Một số nhóm đối tượng yếu thế vẫn chưa được cứu trợ, trong khi đó, các nhóm đối tượng khác do những biến cố kinh tế - xã hội mới nảy sinh cũng rất cần phải được xem xét để đưa vào trong danh sách thụ hưởng. Trong khi đó, nguồn tài chính trợ giúp xã hội vẫn eo hẹp. Nguồn lực tài chính cho xóa đói giảm nghèo chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước. Mức hỗ trợ từ các nguồn vẫn còn khá thấp, không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Chẳng hạn: hỗ trợ dịp lễ, tết: 69,4% người dân nhận được gói hỗ trợ dưới 1.000.000 đồng; 26,2% nhận mức 300.000 đồng. Người nghèo chờ đợi nhiều ở những khoản hỗ trợ khác từ phía Nhà nước và cộng đồng nhưng yêu cầu này lại ít được đáp ứng, như: hỗ trợ học nghề (chỉ 1,2% số học sinh người dân tộc thiểu số được hỗ trợ), hỗ trợ tín dụng để phát triển sản xuất (19,7% được đáp ứng), hỗ trợ di cư lao động (1,9% được đáp ứng)1. Thực tế hiện nay vẫn tồn tại tình trạng tham nhũng trong tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Quỹ xóa đói giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2013 đạt mức 120 nghìn tỷ đồng/năm (tương đương khoảng 5,5 tỷ USD). Như vậy, nếu tính chia đều cho 500 nghìn hộ nghèo, mỗi hộ có bốn thành viên thì thu nhập bình quân của hộ nghèo được nhận hỗ trợ là 5 triệu đồng/người/tháng, cơ bản là nước ta xóa nghèo vĩnh viễn. Tuy nhiên hiện nay số tiền hỗ trợ đến tay người nghèo chỉ khoảng 10 - 15 triệu đồng/hộ/năm, chỉ bằng khoảng 4 - 6% tổng số tiền Quỹ trích ra để chăm lo cho hộ nghèo. Còn lại thì ở một số địa phương chưa làm rõ, công khai, minh bạch được số tiền dùng vào việc gì, chưa phân định được việc đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn hay đầu tư xóa đói, giảm nghèo. Điều đó dẫn đến nguy cơ thất thoát nghiêm trọng, hoặc sử dụng chưa đúng mục đích nguồn lực trong xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở nước ta, rất dễ tạo lỗ hổng cho một số người làm giàu trên đồng tiền mà Nhà nước dành cho người nghèo2. Sự chủ động của người dân và cộng đồng trong xóa đói giảm nghèo chưa tốt. Trong giai đoạn này, Quốc hội, Chính phủ có chủ trương giảm dần các chính sách hỗ trợ "cho không", khuyến khích sự chủ động của người nghèo, tăng hoạt động cho vay gắn với hoàn trả đối với từng đối tượng trên địa bàn. Đây là chủ trương lớn khơi dậy sự chủ động của người dân và cộng đồng. Tuy nhiên, giai đoạn vừa qua, các chính sách "cho không" đã được duy trì quá lâu, dẫn đến ở nhiều nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc miền núi, người dân chưa thực sự vào cuộc, vẫn trông chờ Nhà nước hỗ trợ. 2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay Qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có xóa đói giảm nghèo. Từ thực tiễn tình trạng đói nghèo hiện nay vẫn tồn tại ở một số vùng, địa phương, vẫn có những thách thức không nhỏ đặt ra trong quá trình phát triển bền vững 1 Xem: Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.479. 2 Xem: https://tcnn.vn ngày 06/06/2018. 148
  8. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững đất nước. Để nâng cao hiệu quả tác động của xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như sau: Thứ nhất, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư về xóa đói giảm nghèo là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng. Phát động phong trào thi đua "Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau". Đẩy mạnh tuyên truyền mục tiêu giảm nghèo sâu rộng đến các cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư và người nghèo, để mọi ngành, mọi cấp và mọi người hiểu được xóa đói giảm nghèo là một nội dung cơ bản, trọng yếu của an sinh xã hội, có tác động to lớn và tích cực góp phần phát triển bền vững, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an ninh và an toàn xã hội của đất nước. Đây đồng thời là một nét đặc trưng thể hiện năng lực lãnh đạo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, biểu dương sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cần thực hiện có chất lượng, hiệu quả việc tuyên truyền giáo dục cho mọi người nhận thức rõ lợi ích của xóa đói giảm nghèo đối với những người thuộc diện đói, nghèo và những lợi ích phát sinh do xóa đói giảm nghèo đem lại trong phát triển bền vững kinh tế, về xã hội, về môi trường mà tất cả mọi người đều thụ hưởng, từ đó nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động xóa đói giảm nghèo. Cần tuyên truyền nâng cao ý thức tự vươn lên thoát nghèo của người nghèo, để đồng bào nghèo quyết tâm vượt khó thoát nghèo, không ỷ lại vào trợ cấp của Nhà nước. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo theo hướng tăng cường các chính sách hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ có sự tham gia của hộ nghèo như tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sản xuất... gắn với đối tượng, địa bàn và thời hạn thụ hưởng, góp phần tạo động lực, khuyến khích để người dân tự vươn lên thoát nghèo. Các chính sách cho không, hỗ trợ vô điều kiện được chuyển sang trợ giúp xã hội. Cần phân biệt, tách bạch chính sách hỗ trợ việc làm, giảm nghèo với chính sách trợ giúp xã hội, giữa đối tượng có thể giảm nghèo và đối tượng nhận trợ cấp xã hội. Phân loại hộ nghèo thành 2 nhóm: nhóm có khả năng thoát nghèo, có sức lao động và nhóm không có khả năng thoát nghèo do điều kiện sức khỏe, tuổi tác,… Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật hỗ trợ nhóm đối tượng lao động nghèo, người khuyết tật, người thất nghiệp, dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn để tạo việc làm, giúp nâng cao thu nhập và thoát nghèo. Tiếp tục hoàn thiện chính sách cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên… Thứ ba, củng cố và nâng cao hiệu quả các chương trình, kế hoạch, chính sách xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững một cách hiệu quả. Tiếp tục rà soát các chính sách xóa đói giảm nghèo hiện hành, tích hợp các chính sách theo hướng tinh gọn, tập trung, tránh dàn trải, giảm thiểu số văn bản, hạn chế chính sách chồng chéo, phân tán; bãi bỏ những chính sách không hiệu quả trong thời gian dài (như chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo). Đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước cần gần dân, sát dân, nắm bắt sâu sắc khó khăn trong đời sống của Nhân dân để xây dựng chương trình, chính sách, kế hoạch phù hợp với từng địa phương, từng hoàn cảnh người nghèo, giúp họ phát huy mọi nguồn lực để vươn lên thoát nghèo. 149
  9. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Thứ tư, gắn liền công tác xóa đói giảm nghèo với việc nghiên cứu đề xuất các chương trình, dự án việc làm công, hỗ trợ tạo việc làm cho các nhóm lao động yếu thế; giải quyết việc làm thông qua các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng việc làm, cải thiện môi trường cạnh tranh và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, nhằm tạo nhiều việc làm ổn định. Thứ năm, thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động, tăng cường huy động nguồn lực của toàn xã hội thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững. Do nước ta còn nghèo, nguồn lực Nhà nước còn hạn chế nên cần huy động nguồn từ ngân sách địa phương và các nguồn huy động đóng góp hợp pháp của doanh nghiệp và vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn đối ứng, tham gia đóng góp của người dân, đối tượng thụ hưởng. Tôn vinh các doanh nghiệp, tập thể cá nhân có nhiều đóng góp về nguồn lực, cách làm hiệu quả trong công tác xóa đói giảm nghèo. Thứ sáu, trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách, chủ trương về xóa đói giảm nghèo hướng tới phát triển bền vững, cần kiên quyết chống tham nhũng. Không có gì đáng lên án hơn những cán bộ tham ô, lãng phí những đồng tiền mà Nhà nước dành cho việc hỗ trợ người nghèo, là tội lớn với Nhân dân, với Tổ quốc. Những cán bộ này sẽ làm mất niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với bản chất tốt đẹp của chế độ mà chúng ta đang xây dựng, mất đi ý nghĩa và vai trò của công tác xóa đói giảm nghèo trong phát triển bền vững mà còn trái với truyền thống, đạo lý của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm lịch sử. Vì thế cần nghiêm trị và trừng phạt thích đáng với những sai phạm trong tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo để ngăn ngừa, phòng chống hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 3. KẾT LUẬN Trong giai đoạn hiện nay, với bối cảnh thời đại số, khoa học, công nghệ và trí tuệ nhân tạo đang dự báo sẽ tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam, cần có nhiều đổi mới sáng tạo trong xóa đói giảm nghèo, xây dựng cộng đồng hài hòa, bền vững, lấy Nhân dân làm trung tâm với mục tiêu “không bỏ lại ai phía sau”, nhất là với nhóm yếu thế để nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo góp phần phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp Lý luận Chính trị - Kinh tế phát triển, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 4. Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Tuân (2016), An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (104). 6. Tổng cục Thống kê (2019), Tạp chí Con số và Sự kiện số 12, http: www.gso.gov.vn. 150
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2