intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học ở các trường Đại học Sư phạm - Yếu tố căn bản đổi mới giáo dục đại học Việt Nam

Chia sẻ: Y Y | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

55
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm lao động sư phạm của giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học có những nét đặc trưng riêng so với các giảng viên khác, nội dung bài báo đưa ra một số giải pháp then chốt nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học ở các trường Đại học Sư phạm hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học ở các trường Đại học Sư phạm - Yếu tố căn bản đổi mới giáo dục đại học Việt Nam

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0027 Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 3, pp. 56-63 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn NÂNG CAO NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - YẾU TỐ CĂN BẢN ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Nguyễn Thu Tuấn Khoa Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Trong các trường đại học sư phạm, đội ngũ giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đào tạo của nhà trường. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, chất lượng đào tạo nghiệp vụ sư phạm nói riêng ở các trường sư phạm, cần phát huy tốt vai trò của đội ngũ giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học. Trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm lao động sư phạm của giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học có những nét đặc trưng riêng so với các giảng viên khác, nội dung bài báo đưa ra một số giải pháp then chốt nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học ở các trường Đại học Sư phạm hiện nay. Từ khóa: Bộ môn Phương pháp dạy học; Năng lực nghề nghiệp; Giảng viên Đại học sư phạm; Đào tạo giáo viên. 1. Mở đầu Trong nền giáo dục (GD) quốc dân, đối với bất cứ một cơ sở giáo dục - đào tạo (GD - ĐT) nào, đội ngũ giảng viên (GV) luôn là nhân tố quyết định đến chất lượng GD, vì năng lực và trình độ của họ có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực và trình độ của người học được họ đào tạo (ĐT). Trong số các năng lực cấu thành năng lực chung của người GV thì năng lực sư phạm (SP) là một thành tố đặc biệt quan trọng góp phần vào sự thành công trong phát triển nghề nghiệp của họ, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng chung của cả quá trình ĐT. Riêng đối với các trường SP thì năng lực này của đội ngũ GV còn có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn nữa - vì ngoài chức năng giảng dạy, trang bị cho sinh viên (SV) những kiến thức chuyên ngành thì chính mỗi GV cũng là một tấm gương, một hình mẫu về phương pháp dạy học (PPDH) và nghiệp vụ sư phạm (NVSP) để SV noi theo; qua đó tạo nên những định hướng quan trọng về mô hình người GV, về phong cách giảng dạy. . . cho đội ngũ giáo viên tương lai. Trong các trường Đại học Sư phạm (ĐHSP), GV bộ môn PPDH đóng vai trò quan trọng: trực tiếp ĐT NVSP cho SV; hình mẫu về phương pháp và kĩ thuật giảng dạy; tư vấn chuyển giao công nghệ DH; tiên phong trong đổi mới PPDH và phổ biến rộng rãi cho các GV khác; phát triển chương trình ĐT, bồi dưỡng giáo viên và chương trình GD phổ thông (PT); đảm nhận đồng thời hai vai trò: GV ở trường/khoa ĐHSP, giáo viên ở trường PT. Vì vậy, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GV bộ môn PPDH ở các trường/khoa ĐHSP đang là một đòi hỏi cấp thiết để đáp ứng Ngày nhận bài: 8/1/2016. Ngày nhận đăng: 21/4/2016. Liên hệ: Nguyễn Thu Tuấn, e-mail: thutuan.dhsphn@gmail.com 56
  2. Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học... yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện GD Đại học (ĐH) Việt Nam. Với vai trò đó, đòi hỏi người GV SP ngoài năng lực chuyên môn sâu cần phải có năng lực NVSP, phải có một số phương pháp và kĩ thuật tổ chức quá trình tương tác trong lớp học [6]. Có nhiều bài báo đề cập tới các khía cạnh khác nhau về năng lực SP của người giáo viên nói chung và GV ĐH nói riêng, đó là các tác giả: Thái Huy Bảo [4], Vũ Quốc Chung [5], Lê Thị Phương Hoa [6], Nguyễn Thị Yến Phương, Nguyễn Mạnh Hưởng, Trần Khánh Ngọc [11]. . . Các nghiên cứu về vai trò quan trọng và đặc trưng lao động SP của đội ngũ GV bộ môn PPDH của tác giả Thái Huy Bảo với “Đặc trưng lao động SP của GV bộ môn PPDH trong các trường/khoa ĐHSP” [2]; định hướng “Phát triển đội ngũ GV bộ môn PPDH trong các trường/khoa ĐHSP” [3]; trên cơ sở đó “Xây dựng bộ tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp và xác định các chuẩn phấn đấu của GV bộ môn PPDH ở trường ĐHSP” [4]. Ở một góc nhìn khác, có đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học (DH) bộ môn PPDH của tác giả Nguyễn Thế Hưng [7]. Chú trọng đến mảng công tác rèn luyện NVSP cho SV có nghiên cứu của tác giả Trần Quốc Thành với “Rèn luyện NVSP thường xuyên để nâng cao tay nghề cho SV các trường SP” [13]; tác giả Nguyễn Thu Tuấn với “Định hướng công tác ĐT NVSP cho SV khoa Nghệ thuật Trường ĐHSP Hà Nội theo hướng tiếp cận phát triển năng lực” [14] v.v. . . Thực tế cho thấy, đội ngũ GV bộ môn PPDH ở các trường ĐHSP hiện đang có những hạn chế, bất cập nhất định về năng lực nghề nghiệp mà nguyên nhân chính là họ chưa được định hướng phấn đấu và đánh giá, xếp loại theo các tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp. Những hạn chế, bất cập này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sự phát triển của đội ngũ GV bộ môn PPDH. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng Chuẩn năng lực nghề nghiệp để định hướng cho sự phấn đấu của đội ngũ GV bộ môn PPDH và làm cơ sở để đánh giá đội ngũ này. Tuy nhiên, để xây dựng được hệ thống những giải pháp cốt yếu nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GV bộ môn PPDH ở các trường ĐHSP chưa có nhiều tác giả nghiên cứu một cách sâu sắc vấn đề này. Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn của GD - ĐT ĐH trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, vấn đề phát triển, nâng cao năng lực DH nói chung và năng lực NVSP nói riêng cho GV bộ môn PPDH của các trường ĐHSP có ý nghĩa quan trọng đối với việc đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền GD ĐH nước nhà, đặc biệt là từ thực trạng còn nhiều hạn chế về năng lực SP của đội ngũ GV bộ môn PPDH hiện nay ở nhiều trường SP đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải có chiến lược và được tiến hành thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp nhằm nâng cao năng lực SP cho đội ngũ GV này. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm - Năng lực: Khái niệm năng lực có nguồn gốc tiếng La tinh “competentia”, có nghĩa là gặp gỡ. Theo tiếng Anh, “competency”, có ngĩa là năng lực hay khả năng, hoặc còn có nghĩa là thẩm quyền. Có nhiều phát biểu khác nhau về bản chất của khái niệm năng lực, vì vậy khái niệm năng lực cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau (do chủ thể; do mục đích, góc độ tiếp cận nghiên cứu khác nhau), nhưng đa số ý kiến đều thống nhất về nguồn gốc sinh lí, tâm lí, xã hội làm nảy sinh năng lực, đó là: Năng lực là một hiện tượng có nguồn gốc phức tạp, do các tố chất và hoạt động của con người tương tác với nhau mà tạo thành [8; tr.58]. Hiểu một cách khái quát về năng lực, tác giả Nguyễn Trọng Khanh cho rằng: Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí của con người đảm bảo thực hiện được một hoạt động nào đó [10]. Trong bài viết này, chúng tôi xây dựng khái niệm năng lực dưới góc độ tâm lí học, GD học, 57
  3. Nguyễn Thu Tuấn đó là: Năng lực là một thuộc tính nhân cách phức hợp, nó bao gồm kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, được định hình trên cơ sở kiến thức, được gắn bó đa dạng với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho con người có thể thực hiện thành công một công việc nào đó. - Năng lực sư phạm: Theo tác giả Robert J.Marzano [12]: “Năng lực SP là tổng hòa kiến thức, kĩ năng và thái độ của người giáo viên đáp ứng yêu cầu của hoạt động SP, đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả”. Theo quan điểm của Jean - Marc Denomme & Madeleine Roy [9]: “Năng lực SP là tổ hợp những đặc điểm tâm lí của nhân cách nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động SP và quyết định sự thành công của hoạt động ấy”. Năng lực SP là một năng lực chuyên biệt đặc trưng của nghề DH nói chung. Năng lực SP được hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt động SP. Hoạt động SP của giáo viên - với tư cách là nhà GD, gồm hai dạng hoạt động cơ bản: DH và GD. Do vậy, khi nghiên cứu năng lực SP của giáo viên, cần nghiên cứu hệ thống các kĩ năng tương ứng với hai dạng hoạt động này. * Đối với GV trường ĐHSP, các năng lực SP được biểu hiện cụ thể ở những năng lực sau: Phát triển chương trình môn học; Lập kế hoạch bài học; Tổ chức quản lí lớp học; Sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức DH; Sử dụng các trang thiết bị DH và ứng dụng công nghệ thông tin trong DH; Kiểm tra, đánh giá trong DH; GD giá trị nghề nghiệp cho SV; Tìm hiểu và hiểu đặc điểm tâm - sinh lí người học; Tự phát triển nghề nghiệp bằng tự học, tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu; Phát hiện và giải quyết vấn đề GD bằng nghiên cứu khoa học (NCKH); Hướng dẫn thực hành, thực tập sư phạm (TTSP); Giao tiếp SP [6]. Đó chính là những lĩnh vực cấu thành phẩm chất và năng lực nghề nghiệp của người GV ĐHSP. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Vị trí, vai trò của giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học Trong các trường ĐHSP, đội ngũ GV bộ môn PPDH giữ một vai trò đặc biệt quan trọng - yếu tố quyết định làm nên tay nghề của người giáo viên [3]. - GV bộ môn PPDH là người trực tiếp ĐT NVSP cho SV: Trong trường SP, GV bộ môn PPDH là người vừa chịu trách nhiệm cung cấp cho SV một hệ thống tri thức SP, vừa là người chịu trách nhiệm hình thành ở họ những kĩ năng SP cần thiết. Nếu vai trò này của người GV bộ môn PPDH không được chú ý và phát huy đầy đủ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc ĐT NVSP cho SV. - GV bộ môn PPDH là hình mẫu về phương pháp và kĩ thuật DH: Để gánh vác sứ mệnh cao cả này, bản thân họ phải là người nắm rất vững lí luận DH ĐH (từ mục tiêu, nội dung, chương trình DH cho đến phương pháp, hình thức tổ chức DH và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV. . . ). Với việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn đó, đội ngũ GV bộ môn PPDH có thể phát huy được vai trò là hình mẫu về phương pháp và kĩ thuật DH trong các trường ĐT giáo viên. - GV bộ môn PPDH là người tiên phong trong đổi mới PPDH và phổ biến rộng rãi các PPDH tiên tiến, hiện đại cho các GV khác: Quá trình DH hiện đại đặt ra những yêu cầu đối với các trường ĐH là phải đẩy mạnh đổi mới PPDH - trong đó, đi đầu phải là GV các bộ môn PPDH, Tâm lí học và GD học. Như vậy, GV bộ môn PPDH phải xác định vai trò của những người đi tiên phong trong đổi mới PPDH. Đối với họ, đổi mới PPDH phải trở thành công việc thường xuyên của mình. Đi đôi với đổi mới PPDH, đội ngũ GV bộ môn PPDH còn phải nâng cao hiệu quả sử dụng các phương tiện DH - đặc biệt là ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin và truyền thông trong DH; tạo điều kiện cho SV được tiếp cận với các nguồn học liệu đa dạng, khai thác các thông tin phong phú qua mạng Internet. . . Bên cạnh đó, GV bộ môn PPDH cũng là người đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học (NCKH); tăng cường hợp tác nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về 58
  4. Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học... NCKH và đổi mới PPDH với các cơ quan, tổ chức có liên quan. - GV bộ môn PPDH là người phát triển chương trình ĐT, bồi dưỡng giáo viên và chương trình GD PT: Không những chỉ đi đầu trong đổi mới PPDH, GV bộ môn PPDH còn tích cực tham gia đổi mới PPDH và học tập ở trường PT, họ đóng vai trò quan trọng trong phát triển chương trình ĐT, bồi dưỡng giáo viên và chương trình GD PT. Và chính họ cũng là những người giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng, biên soạn các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên về đổi mới PPDH và là người trực tiếp trình bày các tài liệu đó cho đội ngũ giáo viên của các cơ sở GD. - GV bộ môn PPDH đảm nhận đồng thời hai vai trò: một là GV ở trường ĐHSP, một là giáo viên ở trường PT: Lực lượng nòng cốt để triển khai các hoạt động phối hợp từ phía các trường ĐHSP là đội ngũ GV bộ môn PPDH. Khi ở trường ĐHSP, họ là GV; còn khi xuống trường PT, họ phải là những giáo viên thực thụ, họ có thể dạy tốt môn học tương ứng với ngành học mà họ đang tham gia ĐT ở trường ĐHSP. Một khi GV bộ môn PPDH đảm nhận tốt hai vai trò này thì không chỉ tăng cường sự liên kết giữa trường ĐHSP với nhà trường PT mà còn nâng cao được chất lượng ĐT NVSP và chất lượng DH của cả hai phía là trường ĐHSP và trường PT. Tóm lại: Muốn nâng cao chất lượng ĐT nói chung, chất lượng ĐT NVSP ở các trường ĐHSP nói riêng, cần phát huy tốt vai trò của đội ngũ GV bộ môn PPDH. 2.2.2. Đặc trưng lao động sư phạm của giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học Theo tác giả Thái Duy Bảo [2]: So với các GV khác, lao động SP của GV bộ môn PPDH có những nét đặc trưng riêng, đó là: - Lao động SP là loại lao động có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật: Cùng với tính khoa học, lao động SP của giáo viên nói chung và GV ĐHSP nói riêng, ở bất cứ bậc học nào cũng cần tính nghệ thuật. Tuy nhiên, đối với lao động của GV bộ môn PPDH thì tính nghệ thuật thấm đậm hơn. Những GV có nghệ thuật ứng xử hấp dẫn sẽ không bao giờ chỉ hướng vào bản thân mình mà hướng vào tất cả SV và từng SV, bao giờ họ cũng nghĩ ra một điều gì đó tinh tế hơn, hấp dẫn hơn để làm cho một nội dung hay một chủ đề trở nên hứng thú, cuốn hút đối với người học. Hơn bất cứ GV nào khác, GV bộ môn PPDH không chỉ làm cho lao động của mình thấm đậm tính nghệ thuật mà còn có sứ mệnh cao cả hơn là thổi hồn vào lao động học tập của SV sự sáng tạo, sự tinh tế cùng với sự khéo léo trong quá trình lên lớp của GV cũng như khi xử lí các tình huống giả định với tất cả sự nhạy cảm, tinh tế của mình. - GV bộ môn PPDH là người kết nối giữa khoa học cơ bản (KHCB) với khoa học giáo dục (KHGD): Nội dung ĐT giáo viên của các trường SP thường có hai mảng lớn là KHCB và KHGD. Hai mảng này hỗ trợ cho nhau để hình thành ở người học vừa có trình độ chuyên môn vững vàng, vừa có trình độ NVSP tốt. Nhưng thực tiễn DH ở ĐH nhiều năm qua cho thấy: ĐT về KHCB chỉ mới nhằm mục đích của riêng nó chứ chưa chỉ ra cho SV thấy rõ những kiến thức KHCB mà họ được trang bị sẽ sử dụng như thế nào sau này ra trường. Trong khi đó, việc ĐT về KHGD có khi lại tách rời khỏi nội dung các môn học mà SV phải dạy ở trường PT sau này. Vì vậy, hơn ai hết, GV bộ môn PPDH phải là người giữ nhiệm vụ trọng trách trở thành “chất keo” kết nối KHCB (ĐT chuyên môn) và KHGD (ĐT NVSP), làm cho hai mảng ĐT này trở thành một thể thống nhất - đó là: ĐT chuyên môn phải đảm bảo tính nghiệp vụ, còn ĐT NVSP phải đồng thời và trên nền của ĐT chuyên môn. Được như vậy thì hiệu quả DH bộ môn và hiệu quả dạy nghề sẽ cao hơn. - GV bộ môn PPDH còn là người kết nối giữa việc DH ở trường SP với việc DH ở trường PT: DH ở trường SP là để chuẩn bị cho SV DH ở trường PT sau này. Vì thế, những yêu cầu đối với hoạt động DH ở trường PT cần được phản ánh và được đáp ứng trong nội dung DH, chương trình DH của trường SP. Ngược lại, những nghiên cứu về đổi mới PPDH và phương pháp đánh giá của trường SP liên quan đến GD PT cần được thử nghiệm, tham khảo ý kiến từ trường PT. - GV bộ môn PPDH luôn là người “làm mẫu” trong lao động SP của mình trước SV: Ở một 59
  5. Nguyễn Thu Tuấn chừng mực nào đó, có thể nói rằng: hoạt động DH trong các trường SP là một dạng kiến tập giảng dạy thường xuyên, một hình thức dự giờ hằng ngày đối với SV. Chính những gương sáng của người thầy SP sẽ lắng dần vào tiềm thức của SV. Người SV đó sau này trở thành giáo viên sẽ không thể không mang dấu ấn của người thầy SP cả ở trong nội dung, PPDH cũng như trong hành động, cử chỉ, lời ăn, tiếng nói. . . Người thầy SP – đặc biệt là GV bộ môn PPDH có ảnh hưởng rất lớn đến bản lĩnh và phong cách nghề nghiệp sau này của SV. Vì vậy, GV bộ môn PPDH phải luôn luôn có ý thức trong việc “làm mẫu” của mình trước SV (trước hết là làm mẫu trong tác phong, thái độ lên lớp; làm mẫu trong lựa chọn, sử dụng phương pháp và hình thức DH cũng như kiểm tra, đánh giá kiến thức của HS v.v. . . ). Tuy nhiên, khi làm mẫu trong lao động SP của mình, GV bộ môn PPDH không được làm mất đi sự sáng tạo của SV. Mặt khác, việc dạy của GV bộ môn PPDH không phải là “một bài độc tấu, độc thoại, mà nó phải là một vở kịch có người học cùng tham gia trên con đường hài hòa đi tới tri thức mới; người dạy gần giống như thuyền trưởng trao tay lái cho người học” [9]. - Lao động SP của GV bộ môn PPDH còn thể hiện ở việc GD đạo đức và tình cảm nghề nghiệp cho SV. Với đặc trưng và thế mạnh của mình, đội ngũ GV bộ môn PPDH sẽ là những người cùng với GV các bộ môn Tâm lí - GD chịu trách nhiệm chính trong GD đạo đức nghề nghiệp cho SV; bồi dưỡng cho SV lí tưởng nghề nghiệp; hun đúc lòng yêu nghề, yêu trẻ cho SV; giúp SV thấy rõ vinh dự và trách nhiệm to lớn của họ trong sự nghiệp trồng người. - GV bộ môn PPDH là người dạy cách dạy và dạy cách học cho SV. Dạy cách dạy là nét đặc trưng nhất trong lao động SP của GV bộ môn PPDH. Chính nét đặc trưng này đòi hỏi GV bộ môn PPDH phải thường xuyên ý thức được mục tiêu DH của mình là dạy cách dạy cho người học. Để làm tốt việc này, GV bộ môn PPDH phải nắm vững lí luận DH ĐH, công nghệ hóa hoạt động DH của mình để khi cần thiết có thể chuyển giao cho SV. Tóm lại: Chỉ có nắm vững các đặc trưng này, GV bộ môn PPDH mới thực hiện tốt vai trò của mình trong các trường/khoa ĐHSP. 2.2.3. Một số giải pháp nâng cao năng lực sư phạm cho giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học a. Phát triển, nâng cao năng lực NVSP cho GV bộ môn PPDH Có thể nói, trong số các năng lực cấu thành năng lực chung của người GV thì năng lực NVSP là một thành tố đặc biệt quan trọng góp phần vào sự thành công của mỗi bài giảng và ảnh hưởng đến chất lượng chung của cả quá trình ĐT. Riêng đối với các trường ĐHSP thì năng lực này của đội ngũ GV còn có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn nữa - bởi lẽ, ngoài chức năng giảng dạy, trang bị cho SV những kiến thức chuyên ngành thì chính mỗi GV cũng là một tấm gương, một mẫu hình về PPDH và NVSP để SV noi theo, qua đó tạo nên những định hướng quan trọng về mẫu hình người giáo viên, về phong cách giảng dạy. . . cho đội ngũ giáo viên tương lai [11]. Một trong những định hướng quan trọng để nâng cao chất lượng ĐT giáo viên chính là việc phát triển, nâng cao năng lực DH nói chung và năng lực NVSP nói riêng cho GV bộ môn PPDH của các trường ĐHSP. Đây là một vấn đề lớn, cần phải có chiến lược và được tiến hành đồng bộ, toàn diện. Để tạo được môi trường này, không chỉ có sự nhận thức đúng đắn của GV mà còn cần đến sự chung tay, góp sức của các cấp lãnh đạo (từ Bộ GD - ĐT đến các trường/ khoa và các tổ bộ môn khác nhau) [5]. - Thường xuyên tổ chức các buổi seminar để chia sẻ về PPDH; các kĩ thuật tổ chức hoạt động DH; cách đánh giá kết quả học tập của SV v.v... - GV bộ môn PPDH cần trực tiếp giảng dạy một số giờ ở trường PT để thể nghiệm những đổi mới trong PPDH. Chính những trải nghiệm đó có ý nghĩa quan trọng không chỉ với bản thân GV bộ môn PPDH mà còn giúp họ có những chỉ dẫn cụ thể thích hợp, bổ ích cho SV về mặt PPDH. 60
  6. Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học... - Hằng năm, mỗi GV của bộ môn PPDH phải có ít nhất 1-2 giờ dạy để các GV trong tổ bộ môn, trong khoa dự giờ (nhằm chia sẻ các PPDH mới và đánh giá năng lực NVSP của GV). - Cần có quy định cụ thể đối với GV môn PPDH mỗi năm phải công bố ít nhất 1 bài báo khoa học hoặc tham gia Hội thảo khoa học cấp quốc gia liên quan đến đổi mới PPDH và NVSP. . . - Trong chương trình GD và ĐT của các trường SP, cùng với việc trang bị hệ thống tri thức các môn học KHCB thì vấn đề rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho SV giữ vai trò rất quan trọng, nó là một hoạt động đặc thù cơ bản phản ánh tính chất khác biệt của nghề DH so với các nghề khác [13]. Vì vậy, các GV nói chung và GV bộ môn PPDH nói riêng phải không ngừng nâng cao năng lực SP cho các giáo viên tương lai để đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với nhà giáo theo Chuẩn nghề nghiệp ở từng cấp học. Lí luận DH đã chỉ ra rằng: Một trong những năng lực thành phần để tạo nên năng lực SP chính là năng lực khéo léo ứng xử SP. Biết giải quyết tốt các tình huống SP sẽ giúp SV củng cố vững chắc tri thức lí thuyết, hiểu sâu và hiểu rộng hơn tri thức đó để vận dụng chúng trong các nhiệm vụ mà thực tiễn GD ở trường PT đặt ra. Thực tế cho thấy, nếu SV không được rèn luyện và chuẩn bị chu đáo cách giải quyết các tình huống SP thì khi đi thực tập sư phạm (TTSP) các em sẽ rất lúng túng, thậm chí có những trường hợp xử lí không khéo léo khiến cho HS PT phản ứng mãnh liệt, từ đó chất lượng và hiệu quả GD sẽ bị hạn chế. Vì vậy, ngay khi còn ngồi trên ghế của nhà trường SP, SV cần phải được chuẩn bị và rèn luyện các kĩ năng thực hành cũng như khả năng giải quyết các tình huống SP. Đó là một việc làm quan trọng và cần thiết. b. Xây dựng bộ tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp và xác định các chuẩn phấn đấu của GV bộ môn PPDH ở trường/khoa ĐHSP. Một trong những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng đội ngũ GV bộ môn PPDH là xây dựng bộ tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp và xác định các chuẩn phấn đấu của GV bộ môn này. Theo tác giả Thái Huy Bảo [4]: GV bộ môn PPDH hiện đóng vai trò quan trọng trong các trường ĐHSP. Lao động SP của họ có những nét đặc trưng về nội dung và tính chất so với các GV khác. Để đội ngũ GV bộ môn PPDH đáp ứng được vai trò và đặc trưng lao động SP của mình, họ cần phải phấn đấu và được đánh giá, xếp loại theo các tiêu chuẩn nghề nghiệp. Theo chúng tôi, năng lực nghề nghiệp của GV bộ môn PPDH thể hiện tập trung nhất ở hệ thống kĩ năng nghề nghiệp. Cụ thể là: Năng lực giảng dạy; năng lực NCKH GD; năng lực phát triển đơn vị, phục vụ xã hội; năng lực hội nhập quốc tế. Từ đó có thể xác định bộ tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp của GV bộ môn PPDH. c. Lãnh đạo nhà trường cần có định hướng chiến lược phát triển theo chiều sâu bộ môn Lí luận và PPDH Muốn có được đội ngũ cán bộ giảng dạy bộ môn PPDH chất lượng cao không chỉ giỏi về lí thuyết mà giỏi cả về thực hành dạy nghề, ngoài yếu tố nội lực của chính bản thân các GV thì rất cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao, có hiệu quả của lãnh đạo các cấp (từ trường, khoa đến tổ bộ môn). Vì vậy, lãnh đạo các cơ sở ĐT cần hết sức coi trọng đến bộ môn Lí luận và PPDH. Cụ thể là: - Trong sự nghiệp ĐT và bồi dưỡng giáo viên, việc gắn kết chặt chẽ giữa trường SP với trường PT là vô cùng cần thiết - bởi quá trình ĐT không thể thoát li thực tế trường PT [1]. Việc tự học, tự bồi dưỡng để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy của người GV ĐHSP là công việc luôn song hành cùng họ trong suốt cuộc đời DH. Vì vậy, lãnh đạo trường SP cần có quy định cụ thể đối với GV bộ môn PPDH định kì phải xuống cơ sở GD để tham gia vào các hoạt động thực tiễn đổi mới GD ở trường PT; dự giờ dạy của giáo viên PT và có thể trực tiếp dạy một số tiết/bài trong sách giáo khoa ngay tại trường PT. Việc làm này không chỉ phục vụ cho GD PT mà quan trọng hơn là bồi dưỡng cho đội ngũ GV bộ môn PPDH tự đổi mới mình về nhận thức, về phương thức ĐT gắn kết với môi trường GD PT. - Cần có định hướng chiến lược phát triển theo chiều sâu, xây dựng được một đội ngũ GV chuyên sâu về từng mảng nghiên cứu bám sát với thực tiễn PT (Ví dụ: Có hướng nghiên cứu về 61
  7. Nguyễn Thu Tuấn nâng cao năng lực phát triển chương trình và tài liệu, sách giáo khoa; có hướng nghiên cứu về nâng cao năng lực vận dụng các kĩ thuật và PPDH, phương tiện và hình thức tổ chức DH bộ môn; có hướng nghiên cứu về nâng cao năng lực diễn đạt ngôn ngữ và tư thế, tác phong đứng lớp của giáo viên; có hướng nghiên cứu về nâng cao năng lực DH phân hóa, DH tích hợp v.v. . . ) [3]. - Cần khai thác triệt để, hiệu quả thế mạnh của trường thực hành SP. Hằng năm, tổ bộ môn PPDH cần lên kế hoạch chi tiết, cụ thể để phối kết hợp với trường thực hành đưa SV xuống trường tham gia vào các hoạt động thực hành SP thường xuyên. - Tạo môi trường thuận lợi cho các GV bộ môn PPDH tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về PPDH, nâng cao năng lực NVSP. - Nhà trường cần đầu tư trang thiết bị DH hiện đại, đồng bộ phục vụ cho các hoạt động hướng dẫn NVSP và rèn luyện NVSP cho SV (ngoài các thiết bị máy móc, cần có hệ thống băng/đĩa hình các tiết dạy) [7]. Để công tác ĐT NVSP thực sự có hiệu quả và đạt tới trình độ chuyên nghiệp của việc dạy nghề, rất cần thiết phải đầu tư những phòng học chuyên dụng với các trang thiết bị tối thiểu cho ĐT NVSP, thậm chí cần phải thiết kế một phòng học môi trường giả định để SV được rèn luyện các kĩ năng SP trên những “đối tượng giả định” (như kiểu ĐT phi công tập lái trong phòng ảo trước khi lái thật trên không trung); cần có phòng tư liệu NVSP để trưng bày các loại đồ dùng trực quan, các tư liệu, hồ sơ giảng dạy (như giáo án, sổ sách chuyên môn, sổ sách chủ nhiệm. . . ). Việc cần thiết phải có các phòng học như vậy là để tạo môi trường thuận lợi cho SV được rèn luyện kĩ lưỡng một cách bài bản theo một quy trình khoa học những kĩ năng NVSP trước khi các em đi TTSP tập trung ở trường PT; giúp cho thầy và trò có chỗ để thực hành nghề; giúp cho GV có điều kiện hướng dẫn, uốn nắn, chỉnh sửa các thao tác nghề nghiệp chưa chuẩn cho SV; đồng thời SV được xem và phân tích các giờ giảng mẫu của giáo viên PT qua băng/đĩa hình để học tập, đúc rút kinh nghiệm. . . Thiết nghĩ, nếu giải quyết tốt được vấn đề này sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng rèn luyện NVSP mang tính chuyên nghiệp của một trường SP ĐT các giáo viên tương lai trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay [14]. 3. Kết luận Nâng cao năng lực SP cho GV là một vấn đề quan trọng mà các trường ĐHSP đang tiến hành. Chất lượng đội ngũ giáo viên của trường PT có vững về chuyên môn và giỏi về các năng lực SP hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ GV trường SP. Để hoàn thành sứ mệnh ấy, các trường SP phải thường xuyên đổi mới về nội dung chương trình, về hình thức và phương thức ĐT - trong đó cần đặc biệt chú trọng công tác rèn luyện, nâng cao năng lực SP cho các GV nói chung và cho đội ngũ GV bộ môn PPDH nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Thị Kim Anh, 2009. Phương hướng cải tiến chương trình đào tạo NVSP trong các trường ĐHSP hiện nay. Tạp chí Dạy và học ngày nay, tháng 2/2009, tr 37-39. [2] Thái Huy Bảo, 2012. Đặc trưng lao động sư phạm của giảng viên bộ môn Phương pháp giảng dạy trong các trường/khoa đại học sư phạm. Tạp chí Giáo dục, Số 278, tháng 1/2012, tr.25-27. [3] Thái Huy Bảo, 2013. Phát triển đội ngũ giảng viên bộ môn Phương pháp giảng dạy trong các trường/khoa đại học sư phạm. Tạp chí Giáo dục, Số 315, tháng 8/2013, tr.1-3. [4] Thái Huy Bảo, 2015. Xây dựng bộ tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp và xác định các chuẩn phấn đấu của giảng viên bộ môn Phương pháp giảng dạy ở trường/khoa đại học sư phạm. Tạp chí Khoa học giáo dục, Số 121, tháng 10/2015, tr.11-13 và 19. 62
  8. Nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp dạy học... [5] Vũ Quốc Chung và các tác giả khác, 2012. Tài liệu hướng dẫn tăng cường năng lực sư phạm cho giảng viên các trường đào tạo giáo viên Trung học phổ thông và Trung cấp chuyên nghiệp. Nxb Giáo dục Việt Nam. [6] Lê Thị Phương Hoa, 2015. Năng lực nghiệp vụ sư phạm của giảng viên sư phạm. Tạp chí Tâm lí học xã hội, Số 3, tháng 3/2015, tr.49-55. [7] Nguyễn Thế Hưng, 2008. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Phương pháp dạy học Sinh học ở khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tạp chí Khoa học giáo dục, Số 37, tháng 10/2008, tr.8-12. [8] Mai Văn Hưng, Lê Thái Hưng, Đỗ Hoàng Nam, 2015. Đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của học sinh qua môn Sinh học 10. Tạp chí Giáo dục, Số 365, tháng 9/2015, tr.58-60S. [9] Jean – Marc Denomme & Madeleine Roy, 2000. Tiến tới một sư phạm tương tác. Nxb Thanh niên, tr.28. [10] Nguyễn Trọng Khanh, 2011. Phát triển năng lực và tư duy kĩ thuật. Nxb Đại học Sư phạm. [11] Nguyễn Thị Yến Phương, Nguyễn Mạnh Hưởng, Trần Khánh Ngọc, 2015. Nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên của các trường/khoa sư phạm. Bản tin Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 51, tháng 1/2015, tr.66-71. [12] Robert J. Marzano, 2011. Nghệ thuật và khoa học dạy học. Nxb Giáo dục Việt Nam. [13] Trần Quốc Thành, 2006. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên để nâng cao tay nghề cho sinh viên các trường sư phạm. Kỉ yếu Hội thảo khoa học “60 năm ngành Sư phạm Việt Nam”, Bộ GD và ĐT - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.212-217. [14] Nguyễn Thu Tuấn, 2015. Định hướng công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên khoa Nghệ thuật Trường Đại học Sư phạm Hà Nội theo hướng tiếp cận phát triển năng lực. Tạp chí Khoa học giáo dục, Số 119, tháng 8/2015, tr.52-54. ABSTRACT Improving the pedagogical competencies for the faculty of teaching methodology in teacher training institutions - the basic element in the innovation of tertiary education in Vietnam In teacher training institutions, the faculty in teaching methodology departments play a significant role in the training process. Therefore, in order to improve the quality of education in general, and the quality of teacher training in particular, we need to promote the role of these educators. The findings from the study of particular characteristics of teacher educators’ work have suggested some key solutions to enhance pedagogical competencies for the faculty in teaching methodology departments in teacher training institutions. Keywords: Teaching methods course; Professional capacity; Lecturer in Education University; Training lecturer. 63
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
87=>0