intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Năng lượng tái tạo - bài toán giải quyết vấn đề môi trường và khả năng tiếp cận của người nghèo

Chia sẻ: ViTunis2711 ViTunis2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

55
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năng lượng tái tạo (NLTT) là dạng năng lượng có trong các nguồn mà về bản chất là vô tận, không giống một số nguồn năng lượng khác như nhiên liệu hóa thạch, là dạng năng lượng cung cấp có giới hạn. Các nguồn NLTT bao gồm năng lượng sinh khối (gỗ, chất thải sinh học), địa nhiệt, năng lượng gió, năng lượng mặt trời và thủy năng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Năng lượng tái tạo - bài toán giải quyết vấn đề môi trường và khả năng tiếp cận của người nghèo

NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO - BÀI TOÁN GIẢI QUYẾT<br /> VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VÀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN<br /> CỦA NGƯỜI NGHÈO<br /> TS. Chu Xuân Đức (1)<br /> ThS. Bùi Phương Thảo<br /> <br /> <br /> <br /> Năng lượng tái tạo (NLTT) là dạng năng lượng có trong các nguồn mà về bản chất là vô tận, không giống<br /> một số nguồn năng lượng khác như nhiên liệu hóa thạch, là dạng năng lượng cung cấp có giới hạn. Các nguồn<br /> NLTT bao gồm năng lượng sinh khối (gỗ, chất thải sinh học), địa nhiệt, năng lượng gió, năng lượng mặt trời<br /> và thủy năng.<br /> “Công nghệ NLTT” là các công nghệ trực tiếp hoặc có khả năng được triển khai với mục đích chuyển đổi<br /> một cách bền vững các nguồn NLTT thành các nguồn năng lượng thương mại hóa hoặc dạng năng lượng sử<br /> dụng cuối cùng như điện, nhiệt, hơi nước, nhiên liệu sinh học… Công nghệ NLTT rất đa dạng. Một số công<br /> nghệ đã hoàn thiện và có khả năng cạnh tranh về mặt kinh tế (địa nhiệt, năng lượng gió, thủy điện), ngoài ra<br /> còn các công nghệ khác cần được phát triển hơn nữa để trở nên cạnh tranh hơn.<br /> NLTT và người nghèo là khái niệm trái ngược nhau. NLTT là sản phẩm đắt tiền trong khi người nghèo<br /> không có nhiều tiền. NLTT cho người nghèo, bản thân đã mang nhiều thách thức và trở ngại cần vượt qua để<br /> sử dụng thành công NLTT vì lợi ích người nghèo. Câu hỏi đặt ra là người nghèo có thể đầu tư vào công nghệ<br /> NLTT như thế nào vì sức mua của người nghèo là hạn chế. Rõ ràng là sử dụng nhiều NLTT phục vụ người<br /> nghèo nằm ngoài tầm với của người nghèo bởi những thách thức và rào cản.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Chính sách về NLTT 133) và chương trình cho các xã nghèo đặc biệt khó<br /> Về chính sách và khuôn khổ pháp lý: Mặc dù, có khăn ở miền núi và vùng sâu vùng xa (Chương trình<br /> thể tìm thấy một số quan điểm liên quan đến việc 135) không thấy có sự lồng ghép các quy hoạch sử<br /> phát triển NLTT được nêu trong một số văn bản quy dụng NLTT phục vụ người nghèo. Khi xem xét các<br /> phạm pháp luật của Chính phủ, tuy nhiên Việt Nam nghiên cứu điển hình cho một số tỉnh lựa chọn triển<br /> chưa có chính sách riêng về NLTT. Việc thiếu một khai các chương trình và dự án liên quan đến năng<br /> chiến lược hoặc quy hoạch toàn diện cấp quốc gia về lượng nông thôn ở Việt Nam cho thấy sự thiếu năng<br /> sử dụng NLTT để thỏa mãn nhu cầu về năng lượng lực chuẩn bị các quy hoạch dự án NLTT nông thôn.<br /> được xem là rào cản chính đối với việc thúc đẩy sử Ngoài ra, chính từ quá trình quản lý thiếu số liệu về<br /> dụng NLTT. Những rào cản liên quan đến chính sách các nguồn NLTT và nhu cầu năng lượng ở các khu<br /> và khuôn khổ pháp lý để phát triển NLTT như sự vực nông thôn cũng là một khó khăn nữa trong quá<br /> phân chia không rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan trình xây dựng quy hoạch và dự án về NLTT.<br /> Nhà nước về NLTT, trợ cấp cho người nghèo còn Tiếp cận các nguồn tài chính và mô hình kinh<br /> hạn chế, không miễn các loại thuế và thuế nhập khẩu. doanh: Các dự án về NLTT là các dự án thường<br /> Lập quy hoạch NLTT và phát triển dự án: Trong không bền vững về tài chính do công suất lắp đặt<br /> các chương trình xóa đói giảm nghèo hiện tại như nhỏ, nằm ở vùng sâu, vùng xa và doanh thu thấp<br /> chương trình xóa đói giảm nghèo (Chương trình chủ yếu từ nguồn bán điện phục vụ nhu cầu chiếu<br /> <br /> 1<br /> Khoa Cảnh sát môi trường - Học viện Cảnh sát Nhân dân<br /> <br /> <br /> 12 Chuyên đề II, tháng 8 năm 2017<br /> TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN<br /> <br /> <br /> <br /> sáng từ nông thôn. Thực tế cho thấy, doanh thu từ Các ứng dụng thực tiễn đã thành công<br /> việc bán điện của các dự án NLTT ở những lưới điện Việc sử dụng NLTT ở dạng nguyên thủy là rất<br /> nhỏ, độc lập sẽ không đủ bù đắp chi phí vận hành, ít. Để NLTT có ích hơn cần phải đầu tư công nghệ<br /> bảo dưỡng hệ thống, không trang trải được chi phí NLTT thích hợp để chuyển sang dạng năng lượng<br /> đầu tư hoặc hoàn vốn đầu tư. Trong những năm qua, hữu ích để sử dụng cuối cùng. Rõ ràng là sử dụng<br /> ngân sách nhà nước vẫn là nguồn tài chính chủ yếu nhiều NLTT phục vụ người nghèo nằm ngoài tầm<br /> của các dự án NLTT. Tuy nhiên, ngân sách Trung với của người nghèo. Điều này cần có sự tham gia<br /> ương cũng như của tỉnh rất hạn chế và còn phải chi của chính phủ, kể cả khu vực nhà nước hoặc tư nhân<br /> vào nhiều nhu cầu khác nhau nhằm phát triển kinh trong việc đầu tư vào hệ thống NLTT ở những vùng<br /> tế - xã hội. Do đó, nguồn tài chính từ ngân sách nhà nghèo.<br /> nước cho các dự án NLTT trong tương lai sẽ rất khó Đáng chú ý trong đánh giá có sự tham gia của<br /> khăn. cộng đồng làm cải thiện chất lượng cuộc sống nói<br /> Cả khu vực tư nhân cũng không tham gia tích chung có xu hướng ưu ái những khía cạnh cuộc sống<br /> cực vào điện khí hóa nông thôn vì các dự án NLTT thuộc trách nhiệm của phụ nữ như giảm công sức<br /> thường không khả thi về mặt tài chính do quy mô và thời gian thu nhặt củi, tiết kiệm thời gian và công<br /> nhỏ. Vì vậy, nếu không có những khuyến khích từ sức đun nấu, giảm tác động tiêu cực của việc đun<br /> chính quyền như viện trợ không hoàn lại, trợ cấp, nấu bằng sinh khối trong nhà đối với sức khỏe phụ<br /> miễn thuế và thuế nhập khẩu thì những dự án này nữ, cải thiện an ninh và khả năng tham gia vào cộng<br /> không thể thu hút sự chú ý của khu vực tư nhân. đồng của phụ nữ, làm cho công việc nhà của phụ nữ<br /> Ngân hàng và các tổ chức tín dụng địa phương dễ dàng hơn tăng năng suất lao động của phụ nữ...<br /> chỉ cho vay ngắn hạn vì cho rằng đầu tư vào dự án Số lượng các tổ chức trong nước nghiên cứu và<br /> NLTT nông thôn có rủi ro cao, quản lý phức tạp, chi phát triển NLTT không nhiều. Một số tổ chức trong<br /> phí quản lý cao và lợi nhuận thấp. nước (IOE, IWRR, HUT, HCMUT, SOLARLAB...)<br /> đã nghiên cứu và chế tạo các hệ thống thủy điện nhỏ,<br /> Chi phí đầu tư của các công nghệ NLTT: Chi phí<br /> hệ thống năng lượng gió quy mô nhỏ và hệ thống<br /> đầu tư cho loại hình công nghệ này vẫn còn cao,<br /> pin mặt trời. IOE (trực thuộc EVN/MOIT) và IWRR<br /> làm cho người nghèo không còn khả năng chi trả.<br /> (trực thuộc MARD) là những cơ quan dẫn đầu trong<br /> Trên thực tế, công nghệ NLTT vẫn chưa phát triển<br /> nghiên cứu và phát triển công nghệ thủy điện tại<br /> ở Việt Nam. Nguyên nhân chính xuất phát từ năng<br /> Việt Nam. Viện Cơ điện Nông nghiệp và Viện Công<br /> lực tài chính của các tổ chức nghiên cứu và phát triển nghệ sau trực thuộc MARD là những đơn vị hàng<br /> trong nước hạn chế, trong khi đó về phía Nhà nước đầu trong nghiên cứu và phát triển công nghệ năng<br /> vẫn chưa có những cơ chế khuyến khích hỗ trợ hoạt lượng sinh khối. Một số tổ chức nghiên cứu khác<br /> động nghiên cứu và phát triển NLTT. Thị trường về như Trung tâm nghiên cứu NLTT (Đại học Bách<br /> công nghệ NLTT không lớn cũng là nguyên nhân Khoa Hà Nội), SOLARLAB (Phòng Phát triển công<br /> của việc các tổ chức nghiên cứu trong nước không nghệ điện mặt trời, trực thuộc Viện Vật lý TP. Hồ<br /> tích cực. Chí Minh), VACVINA... đã nghiên cứu, phát triển<br /> Cơ sở nhận thức và kiến thức: Nhận thức và kiến và ứng dụng những thiết kế công nghệ NLTT của họ,<br /> thức về NLTT của cán bộ chính quyền địa phương chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng mặt trời, gió, khí<br /> ở cấp huyện và cấp xã còn thấp. Họ thụ động trong sinh học, bếp đun cải tiến.<br /> việc phổ biến các công nghệ NLTT ở địa phương. Qua đánh giá một số dự án NLTT đã hoàn thành,<br /> Trong những năm gần đây, dù hoạt động phổ biến một vài công nghệ NLTT đã được xác định là có hiệu<br /> thông tin và tuyên truyền lợi ích của việc sử dụng quả, đã được thử nghiệm và xác định phù hợp để áp<br /> NLTT đã tiến bộ hơn, nhiều hội thảo, khóa đào tạo dụng rộng rãi cho người nghèo ở các khu vực nông<br /> đã được tổ chức, một số chương trình được giới thôn như các hệ thống thủy điện nhỏ ngoài lưới điện<br /> thiệu trên truyền hình, nhiều bài báo được xuất bản. quy mô cộng đồng (phục vụ một nhóm nhỏ vài hộ<br /> Nhưng những biện pháp tuyên truyền này người gia đình cá biệt); hầm khí sinh học quy mô gia đình;<br /> nghèo không thể tiếp cận được. Cần có những biện các loại bếp lò dùng củi tạo ít khói, hiệu quả cao; các<br /> pháp tuyên truyền khác để phổ biến thông tin về loại bếp lò sản xuất ra than củi sạch từ các nguồn<br /> công nghệ NLTT riêng cho người nghèo và người sinh khối của địa phương; các hệ thống thủy điện<br /> dân nông thôn. nhỏ và pin mặt trời quy mô hộ gia đình...<br /> <br /> <br /> Chuyên đề II, tháng 8 năm 2017 13<br /> Một số mô hình tài chính phù hợp đã được áp dụng Hai là, đơn giản về mô hình. Các mô hình năng<br /> thành công ở các dự án và chương trình NLTT đã hoàn lượng triển khai cho người nghèo phải đơn giản để<br /> thành và đang thực hiện. người dân đã tham gia các khóa đào tạo có thể xây<br /> Các mô hình đồng tài trợ: Những mô hình này được dựng và vận hành các mô hình này.<br /> áp dụng để thực hiện một số dự án thủy điện nhỏ ở Võ Ba là, mang lại lợi nhuận. Các mô hình được<br /> Nhai - Thái Nguyên thuộc dự án EASE và các dự án thí triển khai và nhân rộng phải mang lại lợi nhuận<br /> điểm tại Hà Giang, Quảng Nam thuộc chương trình để các hộ gia đình với năng lực tối thiểu có thể huy<br /> VSRE. Nguyên tắc chính của các mô hình này là vốn<br /> động các nguồn lực có sẵn (lực lượng lao động,<br /> đầu tư đến từ các nguồn khác nhau như viện trợ không<br /> vật liệu đơn giản) để triển khai các hoạt động với<br /> hoàn lại, trợ cấp từ ngân sách Chính phủ, đóng góp của<br /> các hộ gia đình, các khoản vay của ngân hàng và các tổ sự hỗ trợ tối thiểu từ các chuyên gia của chương<br /> chức tín dụng. trình.<br /> Mô hình kinh doanh theo định hướng thị trường: Bốn là, mô hình tự đầu tư đã được ứng dụng<br /> Những mô hình thuộc loại này đã được áp dụng để thành công cần được nhân rộng để phổ biến rộng<br /> triển khai hệ thống khí sinh học thuộc “Dự án hỗ trợ rãi, ví dụ mô hình bếp lò làm than củi và bếp hiệu<br /> dự án cho chương trình khí sinh học cho ngành chăn suất cao trong dự án PACODE. Vì các hệ thống<br /> nuôi gia súc ở Việt Nam” để phổ biến rộng rãi loại bếp này rẻ, mang lại lợi nhuận và có thể sử dụng những<br /> đun bằng khí sinh học VACVINA và các bếp lò sinh vật liệu đơn giản do người nghèo xây dựng nên.<br /> khối đã được cải tiến thuộc dự án EASE. Nguyên tắc<br /> chính của mô hình là giai đoạn đầu, nguồn vốn của Năm là, sự hiện hữu của các hướng dẫn kỹ<br /> dự án sẽ viện trợ không hoàn lại với một tỉ lệ phần thuật ở địa phương với hướng dẫn đã được huấn<br /> trăm hợp lý của cả tổng chi phí hệ thống, các hộ gia luyện kỹ, những khó khăn về kỹ thuật đã được giải<br /> đình tham gia chi trả phần còn lại bằng ngân quỹ gia quyết ngay từ đầu.<br /> đình hoặc các khoản vay từ quỹ tín dụng và ngân hàng Sáu là, chú trọng vào xây dựng năng lực thiết<br /> địa phương. Song song với việc xây dựng hệ thống, các yếu. Nhóm hướng dẫn kỹ thuật tại địa phương đã<br /> hoạt động khác (mở cửa hàng, tiếp thị, quảng cáo, đào được tham quan học tập ở nước ngoài để tiếp thu<br /> tạo cán bộ kỹ thuật) được thực hiện để xây dựng thị<br /> những kỹ thuật và kinh nghiệm thực hiện thành<br /> trường cho công nghiệp khí sinh học. Đây được coi<br /> là mô hình phù hợp cho hệ thống NLTT giá rẻ hoặc công. Sau các mô hình thí điểm, phương pháp của<br /> trung bình. mỗi mô hình nên được ghi lại thành các hướng<br /> dẫn để nhân rộng ở những nơi khác.<br /> Mô hình tự đầu tư: Mô hình đã được áp dụng để<br /> phổ biến bếp lò làm than củi và bếp hiệu suất cao trong Bảy là, tổ chức dự án tốt với cấu trúc tổ chức từ<br /> dự án PACODE. Vì hệ thống công nghệ này rẻ và có cấp tỉnh đến cấp xã. Đồng thời, với sự tư vấn thì<br /> thể do nguời nghèo xây dựng nên với nguyên vật liệu việc hỗ trợ cho từng địa điểm dự án được đưa ra<br /> đơn giản và sẵn có quanh nhà, do đó dự án cần chuyển kịp thời bất cứ khi nào có vấn đề xảy ra và cần giải<br /> giao công nghệ cho người nghèo để tự xây dựng những quyết ngay.<br /> hệ thống NLTT.<br /> Tám là, các dự án năng lượng cho người nghèo<br /> Sự tham gia của các tổ chức cộng đồng địa phương<br /> nên được lồng ghép và dự án cộng đồng toàn diện.<br /> như Hội Phụ nữ xã, Hội Nông dân là những nhân tố<br /> Cách tiếp cận này có thể sử dụng để thiết kế các dự<br /> chính để thực hiện thành công các dự án về NLTT ở<br /> khu vực nông thôn. Các tổ chức cộng đồng này sẽ đóng án NLTT trong tương lai.<br /> vai trò các tư vấn kỹ thuật địa phương, cơ quan tiếp thị, NLTT là một chìa khóa để giải quyết một số<br /> nhà cung cấp thiết bị và dịch vụ. vấn đề về môi trường, tạo ra lợi nhuận, thu hút<br /> Một số giải pháp khả thi nhằm đưa dự án NLTT và gắn kết người nghèo vào các hoạt động BVMT,<br /> tạo tiếp cận vào khu vực nông thôn, người nghèo cải thiện sinh kế. Về tương lai, công nghệ sử dụng<br /> Một là, bắt đầu từ nhu cầu, các hệ thống năng lượng NLTT sẽ là “chìa khóa” để mở cánh cửa cho nền<br /> mới nên bắt nguồn từ tình hình thực tế và các nhu cầu kinh tế chuyển đổi theo hướng mô hình kinh tế<br /> của các hộ gia đình. Nếu không, các mô hình đề xuất xanh. Chính vì vậy, ngày từ bây giờ, cần có những<br /> sẽ không nhận được sự hỗ trợ lớn từ phía đối tượng hoạch định, chính sách áp dụng và nhân rộng các<br /> người nghèo. mô hình công nghệ NLTT vào thực tiễn■<br /> <br /> <br /> 14 Chuyên đề II, tháng 8 năm 2017<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2