173
CÁC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ NỀN KINH TẾ SỐ
Tôn Thất Viên1
1. Trường Đại học Lao động-Xã hội TP.HCM; email: vientonthat@gmail.com
TÓM TẮT
Bài viết đánh giá kết quả nghiên cứu ktừ sau đại dịch Covid-19, đồng thời chỉ ra những
khó khăn của nền kinh tế số với hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam, trên sở lý thuyết
đến phương pháp nghiên cứu. Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực phù hợp hơn để
hoàn thiện kinh tế số các ngân hàng trong thời gian tới.
Từ khoá: kinh tế số, ngân hàng, tác động từ Covid-19.
Abstract
BANKS IN VIETNAM IN THE VIEW OF THE DIGITAL ECONOMY
The article evaluates research results since the Covid-19 pandemic and points out the
difficulties of the digital economy with the operations of banks in Vietnam, based on theory to
research methods. From there, propose some practical and more appropriate solutions to
improve the digital economy of banks in the coming time.
Keywords: digital economy, banking, impact from Covid-19.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự pt triển của ch mạng ng nghiệp 4.0 đã m tăng vai trò của thông tin, công nghệ
thông tin với tư ch các nhân tố của đời sống hội y ra sự chuyển đổi sang hội thông tin.
Sự hình thành của nền kinh tế số như một xu hướng tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội toàn
cầu. Các kỹ thuật và công nghệ mới, môi tờng thông tin hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, trách
nhiệm hội của doanh nghiệp… ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng tại Việt Nam như một
phương tiện thu thập, xử lý cung cấp thông tin kinh tế về hoạt động của các ch thkinh doanh.
Theo đó, các vấn đề vnhận thức rủi ro, thực tại và xu hướng phát triển của ngành y trong bối
cảnh hiện nay để có những thay đổi, thích ứng cho phợp vấn đề cần được quan tâm.
Kinh tế số đã giúp cho ngân hàng thay đổi nhanh hình hoạt động, kinh doanh theo
hướng hiện đại với độ bao phủ rộng hơn, tiết giảm được chi phí trong hoạt động, giúp người
dùng tiếp cận d dàng hơn trong các giao dịch ngân hàng. Nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
mới giúp cho khách hàng không cần phải đến điểm giao dịch ngân hàng mà có thể truy cập dữ
liệu thông qua các thiết bị di động, chuyển tiền điện tử trong ngoài nước, mua sắm trực
tuyến... Tuy vậy, muốn có được kinh tế số đòi hỏi phải sự đầu tư lớn về nguồn lực, cũng như
sự thay đổi về môi trường pháp công nghsố trong lĩnh vực ngân hàng bảo mật dữ liệu,vấn
đề an ninh mạng. Như vậy rõ ràng là shóa nền kinh tế, sự phát triển vượt bậc của công nghệ
có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động ngân hàng.
Xuất phát từ Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 23/11/2022 về Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của BChính trị về phát triển kinh tế - xã hội
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bđến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
đã đặt ra các yêu cầu cấp bách đối với tỉnh Bình Dương trong định hướng phát triển kinh tế -
hội dựa trên nền tảng Công nghiệp 4.0. Từ đó, bài viết tập trung vào lĩnh vực ngân hàng hiện
174
nay, đang phải đối mặt với những thách thức nào, những xu hướng nào làm ảnh ởng đến
tương lai của chúng và để đáp ứng với yêu cầu thực tin nền kinh tế số thì những kỹ năng ngân
hàng cần phải có là gì, đây là những vấn đề cần được bàn luận và quan tâm để hoạt động ngân
hàng không chỉ tồn tại còn phát triển mạnh mtrong lĩnh vực nghnghiệp của mình. Bài
viết sẽ làm sáng tỏ các ngân hàng tại Việt Nam dưới góc độ nền kinh tế số.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Xu hướng phát triển kinh tế số
Theo D.Tapscott khái niệm “kinh tế số” được khởi nguồn o tháng 11 năm 1994 với sự
kiện chíp Pentium sản phm chiến ợc của Intel – bị công bố có lỗi vào ngày 30/10/1994
i tới ngày 20/12/1994, Intel mới thừa nhận lỗi được phát hiện. Sự chậm hiểu về thị trường số
hạ thấp vấn đề đã đưa Intel tới một hậu quả đau đớn là phải thu hồi toàn bộ chíp Pentium của
ng. D. Tapscott nhận định rằng câu chuyện về chíp Pentium đánh dấu một bước ngoặt kinh tế
mới, theo đó thị trường số (digital markets) khác biệt lớn so với thị trường truyền thống
(physical markets) ở một số khía cạnh: mua sắm so sánh không có giới hạn, các công ty có sản
phẩm thực sự khác biệt hoặc hiệu năng giá cả tốt hơn sẽ nhanh chóng nổi lên trên còn những công
ty không có sthất bại. Trong các thị trường số, mọi công ty đều đứng ở cùng một ngã tư đưng.
Sự phát triển nhanh chóng ứng dụng rộng rãi của Intenet vạn vật vào kinh doanh kéo
theo việc hình thành và phát triển tốc độ cao của các hoạt động kinh tế liên quan đã dẫn tới sự
đa dạng phong phú các định nghĩa vkinh tế số. R. Bukht R. Heeks tổng hợp 21 định
nghĩa điển hình về kinh tế số, cho biết định nghĩa đầu tiên về kinh tế số xuất hiện từ năm 1999
và ngày càng có thêm các định nghĩa mới.
c nhà nghiên cứu đồng thuận một nhận định chưa có một định nghĩa được đồng thuận
về kinh tế số. Trên cơ s nhìn nhận mối quan hệ giữa sự xuất hiện của công nghệ đột phá với sự
phát triển lý thuyết kinh tế học quản trong suốt quá trình tiến hóa công nghcủa loài người,
X. Zhu cho rằng cộng đồng nghiên cứu về kinh tế số nên cố gắng tạo ra các đột phá nền tảng mới
trong nghiên cứu lý thuyết về kinh tế học và quản lý để nắm bắt và phát triển kinh tế số.
R. Bukht R. Heeks nhận thấy các định nghĩa kinh tế số đều bao gồm kinh tế Công nghệ
thông tin truyền thông (khu vực CNTT-TT) cùng một danh mục tiêu dùng/ứng dụng CNTT-
TT; chính danh mục này là điểm khác biệt giữa các định nghĩa. Từ đó, hai tác giả trên đề xuất
khung khái niệm kinh tế số ba phạm vi là:
+ Kinh tế số lõi (Core Digital Economy)
+ Kinh tế số phạm vi hẹp (Digital Economy)
+ Kinh tế số phạm vi rộng (Digitalised Economy, hay là kinh tế số hóa).
Hình 1. Khái niệm kinh tế số theo phạm vi của 2 tác giả R. Bukht và R.Heeks
175
Như vậy, kinh tế số một phần của nền kinh tế, phát triển kinh tế số sử dụng công
nghệ số dữ liệu để tạo ra những hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc
hỗ trcung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp, với sự hội tụ công nghệ mới (điện toán đám mây,
trí tuệ nhân tạo...) trong bối cảnh CMCN 4.0. Kinh tế số có vai trò ngày càng quan trọng trong
cấu của mỗi quốc gia Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Những năm qua, các
hoạt động kinh tế số tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Chính phủ quan
tâm, ưu tiên phát triển. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số
chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh
tế schiếm tỷ l20% GDP ngày 03/6/2020, Thớng Chính phủ đã Quyết định số
749/QĐ - TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến
2030”. Điều này cho thấy quyết tâm của lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã xác
định nhiệm vụ sớm xây dựng chiến lược tiếp cận chủ động tham gia cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 và hướng đến nền kinh tế số. Trong đó, xác định rõ quan điểm tận dụng
tối đa lợi thế một nước còn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu
của cuộc CMCN 4.0. Đối với Việt Nam, cuộc CMCN 4.0 hội rất qgiá để Việt Nam
nhanh chóng đón bắt, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các thành tựu khoa
học - công nghtiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Thực tin trong thời gian qua, phát triển kinh tế số nhận được sự quan tâm đặc biệt của
Chính phủ, cộng đồng hàn lâm – công nghiệp Việt Nam, nhiều hội thảo đã được tổ chức, nhiều
kết quả nghiên cứu đã được công bố, đáng kể Báo cáo “Tương lai kinh tế số Việt Nam: hướng
đến năm 2030, 2045” trong Chương trình Aus4Innovation của Chính phủ Australia nhằm tăng
ờng các mối liên kết giữa hệ thống đổi mối sáng tạo của Australia và Việt Nam.
Kinh tế số đã trở thành xu thế phát triển tất yếu của thế giới và Việt Nam. Tuy Việt Nam
hạn chế trình độ nền kinh tế thấp, song cũng một số lợi thế đó là: ổn định chính trị;
tiềm năng nguồn nhân lực phù hợp với việc tiếp thu phát triển các công nghệ số; có khả năng
thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn công nghệ đa quốc gia hàng đầu thế giới vì
vậy hiện được coi có năng lực sản xuất rất phát triển trong một số ngành công nghiệp; Việt
Nam một lợi thế khách quan lân cận một khu vực phát triển kinh tế số thuộc diện nhanh
nhất thế giới; Việt Nam tiềm năng chuyển đổi các lợi thế trên đây thành động lực tăng tốc
phát triển kinh tế số. Xây dựng và thực hiện một chiến lược quốc gia kinh tế số phù hợp nhất
với Việt Nam theo từng giai đoạn là sự thể hiện rõ ràng nhất cho sự chuyển đổi đó. (6)
2.2. Kinh tế số tác động đến hoạt động ngân hàng
2.2.1. Khái niệm Ngân hàng số
Theo Gaurav Sarma (2017), Ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức ngân hàng
số hoá tất cả những hoạt động và dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Nói cách khác, tất cả những
gì khách hàng có thể thc hiện ở các chi nhánh ngân hàng bình thường được số hóa và tích hợp
vào một ứng dụng ngân hàng số duy nhất, thông qua ứng dụng này khách hàng không cần
phải đến chi nhánh ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được tất cả các giao dịch, đồng thời các
hoạt động của ngân hàng như quản lý rủi ro, nguồn vốn, phát triển sản phẩm, marketing, quản
lý bán hàng…cũng được số hóa.
Digital Banking là loại hình ngân hàng kỹ thuật số đòi hỏi cao về công nghệ bao gồm s
đổi mới trong dịch vtài chính cho khách hàng khách hàng thương mại xung quanh các
chiến lược di động, kỹ thuật số, AI, thanh toán, RegTech, dliệu, blockchain, API, kênh phân
phối và công nghệ (American Banker, 2018).
Trong khi Online Banking/E-banking hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử (bao gồm các
dịch vụ con như Internet Banking, SMS Banking, Mobile Banking) được tạo ra để bổ sung cho
176
các dịch vụ trên nền tảng ngân hàng truyền thống thì Digital Banking một loại hình ngân
hàng có ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc hệ thống của một ngân hàng, từ cơ cấu tổ chức đến quy
trình làm việc, sản phẩm dịch vụ, vấn đề pháp lý, chứng từ phương thức giao dịch với khách
hàng. Tuy hình thức hoạt động đều dựa trên Internet nhưng E-Banking một dịch vụ phát triển
thêm vào của ngân hàng, tập trung vào những tính năng chính nhờ chuyển tiền, thanh toán
tra cứu số dư tài khoản. Càn đối với Digital Banking sẽ có tất cả chức năng của một ngân hàng
đích thực như đã kể trên, mỗi giao dịch đều tiến hành online và khách hàng có thể gửi yêu cầu,
thắc mắc chỉ bằng thiết bị di động.
2.2.2. Ngân hàng số tác động đến hoạt động ngân hàng
a. Đối với các ngân hàng
- Tiết kim chi phí: Theo Olanrewaju (2014), các ngân hàng thng lợi nhuận
EBITDA lên tới 40% bằng cách chuyển sang ngân hàng số. Kết quả tiết kiệm chi phí đến từ tự
động hóa các chức năng, loại bỏ các thao tác thừa, sử dụng AI thay thế con người trong việc
xử lý dữ liệu…Qua đó, các Ngân hàng thậm chí còn có những lợi ích lớn hơn, như có thể truy
cập vào cơ sở Dữ liu lớn hơn và thời gian phản hồi nhanh hơn, chính xác hơn đối với các thay
đổi thị trường. Olanrewaju (2014) cũng ước tính rằng chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tăng 30% doanh
thu của một ngân hàng châu Âu điển hình, đặc biệt là trong các sản phẩm có doanh thu cao nhờ
cho vay và thanh toán cá nhân.
- Tăng khả năng cạnh tranh: Phát triển ngân hàng số, đặc biệt sử dụng AI thể giúp
cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng ban lẻ, tăng cường trải nghiệm khách hàng. AI dựa trên
phân tích dữ liệu để tìm hiểu hành vi khách hàng, từ đó đưa ra vấn đầu cũng như các sản
phẩm chuyên biệt được nhân hóa theo nhu cầu. AI cũng giúp kết nối khách ng tốt hơn từ các
thông số nhu dữ liệu hội, vị trí người dùng... Phát triển ngân hàng số giúp cho Ngânng nắm
lợi thế cạnh tranh hơn các ngân hàng truyền thống nhờ tận dụng sở khách ng lớn, kho dữ
liệu người dùng khổng lồ, nền tảngng nghệ hiện đại và nhanh chóng (Citigroup, 2018).
- Nâng cao hiệu quả hoạt động/khả năng sinh lời của ngân hàng: Theo một số
nghiên cứu thực nghiệm châu Âu (được trích dẫn bởi Rega, 2017), Campanella và các cọng
sự (2015), Scott các cọng sự (2017) Rega (2017) bằng phương pháp nghiên cứu định
ợng phân tích tác động của ngân hàng số, ngân hàng di động, các công ty khởi nghiệp Fintech
đến hiệu quả tài chính của ngân hàng. Các nghiên cứu này tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa
đổi mới công nghkhả năng sinh lời của ngân hàng. Bên cạnh đó, Tunay các cọng sự
(2015) điều tra sự tương tác giữa ngân hàng trực tuyến khả năng sinh lời (được đo bằng ROE
và ROA), sử dụng nghiên cứu định lượng trên 30 quốc gia châu Âu, cho giai đoạn 2005 - 2013
có bổ sung thêm rằng đối với những nước kém phát triển, mối quan hệ này không thể xác định
được, nguyên nhân do thiếu cơ sở hạ tầng và thói quen của khách hàng được coi yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả.
b. Đối với khách hàng
- Khách hàng nhiều lựa chọn hơn: Mỗi một ngân hàng sẽ phân khúc khách
hàng cũng như chính sách khách hàng riêng, và khách hàng sẽ được lợi nhiều hơn khi sử dụng
đồng thời nhiều dịch vụ của một ngân hàng, tuy nhiên khi các ngân hàng chuyển đổi sang Ngân
hàng số, chính sẽ d dàng trong việc tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng số đã giúp cho khách
hàng có thể nhanh chóng so sánh chất lượng dịch vụ của từng ngân hàng vàsự lựa chọn phù
hợp với nhu cầu của mình và d chuyển đổi ngân hàng.
- Thun tiện v không gian và nhanh chóng v thời gian: Đối với phần lớn
khách hàng đặc biệt là trong thời đại nhiều phương tiện hiện đại và công nghệ phát triển nhanh
hiện nay thì các sản phẩm kỹ thuật số ràng thuận tiện hơn. Không cần phải mất cả buổi
177
đến một chi nhánh ngân hàng và nộp hồ sơ/tài liệu, điền thủ công một loạt các mẫu biểu, Khách
hàng thể chcần ngồi nhà, mất vài phút chọn trên smart phone, sử dụng chữ ký điện tử trên
các mẫu đơn và gửi chúng đến ngân hàng qua Internet.
- Lợi thế về chi phí: Vì việc chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tiết kiệm cho các ngân hàng một
ợng tiền đáng kể (từ cắt giảm chi phí vận hành, in ấn, lưu trữ...) và từ đó có cơ sở để chia sẻ
chi phí cho khách hàng (giảm lãi suất cho vay/phí dịch vụ) hoặc gia tăng lợi ích cho khách hàng
(tăng lãi suất huy động).(3)
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân ch tổng hợp các thông tin trên trang điện tử của
các ngân hàng, các tạp chí chuyên ngành đtìm hiểu về ngân hàng số trong lĩnh vực ngân hàng.
Trên sở đó, những kết quả ban đầu được sử dụng vào hoạt động ngân hàng được đánh giá
bằng các phương pháp phân tích chi tiết, so sánh và din dịch để có cơ sở, làm căn cứ đề xuất
một số giải pháp kinh tế số trong lĩnh vực ngân hàng.
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sau đại dịch Covid, ngành ngân hàng tại Việt Nam đã một bước tiến phát triển sản
phẩm, dịch vụ số, được biểu hiện như sau:
- Theo Nguyễn Thị Mỹ Điểm (2021), có nhận xét sau:
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh mtrong năm 2021 đã làm thay đổi
nhận thức hành vi của khách hàng, các ngân hàng thương mại thế đã thúc đẩy mạnh mẽ
các giải pháp phát triển ngân hàng số, nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tuy nhiên
vẫn chưa ngân hàng sthuần túy hoạt động. Có 95% các ngân hàng đã và đang hướng đến
xây dựng chiến lược chuyển đổi số, có 88% các ngân hàng lựa chọn chuyển đổi số ckênh giao
tiếp khách hàng và nghiệp vụ nội bộ hoặc số hóa toàn bộ; số ít ngân hàng (6%) dự kiến chỉ s
hóa kênh giao tiếp khách hàng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đã ứng dụng các giải pháp kỹ
thuật, công nghệ mới, như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu, dữ liệu lớn, tự động hóa quy
trình bằng robot, trí tunhân tạo, Blockchain, eKYC, trong các hoạt động nghiệp vụ cung
ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động tăng trải nghiệm khách hàng. Các
ngân hàng thành lập các bộ phận nghiên cứu phát triển chuyển đổi số, hoàn thiện quy trình
chuyển đổi số, cũng như giao tiếp trên ngân hàng số, như: Ngân hàng Tiên Phong (TPBank)
cho ra đời ngân hàng livebank; Ngân hàng số Vietcombank, NHTM Cổ phần Nam Á (Nam A
Bank) đã cho ra đời không gian giao dịch số tích hợp hệ sinh thái thiết bị hiện đại, ứng dụng trí
tuệ nhân tạo với sự xuất hiện của Robot OPBA và chi nhánh số VTM OPBA; NHTM Cổ phần
Phương Đông (OCB) đã xây dựng kênh OCB OMNI. Đây có thể nói, sau đại dịch Covid-19 đã
tác động mạng đến ngành ngân hàng Việt Nam.
Ngoài ra, mô hình hợp tác giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp công nghệ trong lĩnh
vực tài chính hay công ty công nghệ Fintech… giúp cho khách hàng trải nghiệm được nhiều
dịch vụ tiện ích, thích thú và tiếp cận đa dạng hóa dịch vụ, tiết kiệm thời gian giao dịch và chi
phí dịch vụ. Điển hình sự hợp tác giữa VietinBank với Opportunity Network trong cung cấp
nền tảng số cho doanh nghiệp; Vietcombank M-Service hợp tác trong thanh toán chuyển tiền;
hợp tác giữa VPBank và Moca trong cung cấp dịch vụ thanh toán số, hay sự kết hợp giữa VIB
và Công ty Fintech Weezi cung cấp ứng dụng MyVIB Keyboard giúp khách hàng có khả năng
chuyển tiền qua mạng hội; Techcombank hợp tác cùng Fastcash đưa ra tính tăng F@st mobile
giúp chuyển tiền qua Facebook và Google+, …