BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------********--------------
Lê Long Vĩnh
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN MỘT SỐ CÔNG TRÌNH
KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU TẠI SÀI GÒN
TỪ NĂM 1954 ĐẾN 1975
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Tp. Hồ Chí Minh, 2023
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Nguyễn Xuân Tiên
Phản biện 1:……………………………………
Phản biện 2:……………………………………
Phản biện 3:……………………………….
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp…………tại
Trường Đại học Mỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh
vào lúc…….giờ……ngày……tháng…..năm 2023.
NCS CÓ THỂ TÌM HIỂU LUẬN ÁN TẠI:
Thư viện Trường ĐH Mỹ Thuật Tp. HCM
Thư viện Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật trang trí (NTTT) trên kiến trúc Việt Nam hình thành
và phát triển từ Bắc vào Nam. NTTT đã tạo dấu ấn mỗi giai đoạn đi
qua, khẳng định được giá trị đặc trưng từng thời kỳ tiêu biểu như phong
cách truyền thống, phong cách Đông Dương, và phong cách hiện đại
1954 - 1975… Nét đặc trưng NTTT được thể hiện thông qua giá trị
truyền thống được kế thừa trong nội dung, hình thức của hoa văn, họa
tiết trang trí trên kiến trúc.
NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ
năm 1954 đến 1975 được hình thành trong thời kỳ hậu phong cách Đông
Dương, giữa bối cảnh trào lưu chủ nghĩa hiện đại phát triển mạnh, ảnh
hưởng toàn thế giới. Sự kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại trong
các nhóm mô típ trang trí tứ linh, hoa văn hình học, chiết tự, lam mặt
đứng kiến trúc đã tạo nên giá trị đặc trưng. Những giá trị đó còn được
lưu giữ trên công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn là Dinh Độc Lập,
Thư viện Quốc gia Sài Gòn, Trường ĐH Y khoa Sài Gòn đến ngày nay
do chính bàn tay người Việt làm nên.
Vì vậy, NCS chọn nghiên cứu đề tài Nghệ thuật trang trí trên một
số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ năm 1954 đến 1975,
nhằm bổ sung vào khoảng trống giai đoạn lịch sử kiến trúc phong cách
hiện đại và NTTT trên kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975
trong nền mỹ thuật Việt Nam. Đồng thời góp phần vào bảo tồn và phát
huy giá trị truyền thống trong giai đoạn hội nhập và phát triển hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhóm Nghệ thuật trang trí gồm khoảng 20 tài liệu, tiêu biểu là:
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại của Nguyễn Lương Tiển Bạch (chủ biên)
2
[3]; Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt của Trần Lâm
Biền [8]; L’art à Hué của Léopold Michel Cadière, Edmond Gras [13];
Nghệ thuật thị giác và những vấn đề cơ bản của Huỳnh Văn Mười [76];
Mỹ Thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí của
Nguyễn Hữu Thông [113]; Hoa văn cung đình Huế của Ưng Tiếu [122];
Biểu tượng rồng, văn hoá và những câu chuyện, của Nam Việt, Khánh
Linh [136]… Nhóm Kiến trúc gồm có khoảng 14 ấn phẩm, tiêu biểu là: Diễn
biến kiến trúc truyền thống Việt của Trần Lâm Biền [10]; Mỹ học kiến
trúc của Uông Chính Chương [18]; Tích hợp văn hóa Đông – Tây trong
kiến trúc của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ của Trần Thị Thu Hằng [35];
Nửa đầu thế kỷ kiến trúc Việt Nam của Hội KTS Việt Nam [46]; Bàn về
vấn dân tộc và hiện đại trong kiến trúc Việt Nam của Trường ĐH Kiến
trúc Hà Nội [88]; Diễn giải truyền thống trong kiến trúc Việt Nam
đương đại của Lê Trần Xuân Trang [125]; Saigon portrait of a city 2011
– 2020 của Alexander Garel, Tim Doling [146]; Southern Vietnamese
modernist architecture của Mel Schenck [149]… Số lượng tài liệu còn
lại là thuộc các lĩnh vực như: Mỹ học, biểu tượng, văn hóa, lịch sử, thị
giác… Qua các tài liệu tiếp cận thì NCS nhận thấy không có tài liệu
trùng với tên đề tài luận án và nội dung nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu NTTT trên một số công trình
kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975 để tìm ra đặc trưng, giá
trị nghệ thuật và đề xuất hướng phát huy trong giai đoạn mới.
Mục đích cụ thể:
3
- Đánh giá nghiên cứu tổng quan và cơ sở lý luận và thực tiễn
của đề tài nghệ thuật trang trí trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu
tại SG từ năm 1954 đến 1975.
- Nhận diện những yếu tố ảnh hưởng và thống kê, phân nhóm các
mô típ trang trí có giá trị đặc trưng của nghệ thuật trang trí trên một số
công trình kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975.
- Bàn luận về những giá trị của NTTT trên một số công trình kiến
trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975, đề xuất tiêu chí đánh giá
các giá trị nghệ thuật trang trí trên công trình kiến trúc. Kiến giải việc
phát huy những giá trị NTTT kiến trúc trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung, hình thức và ngôn ngữ biểu đạt của NTTT trên kiến
trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975, thông qua nhóm mô típ
trang trí linh vật, nhóm mô típ hoa văn hình học, hồi văn, nhóm mô típ
trang trí chiết tự, nhóm mô típ trang trí lam mặt đứng công trình.
4.2. Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu
4.2.1. Không gian nghiên cứu: Công trình thể loại chính trị - công
quyền (Dinh Độc Lập), công trình thể loại văn hoá công cộng (Thư viện
quốc gia SG), công trình thể loại giáo dục (ĐH Y khoa SG).
4.2.2. Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn từ 1954 đến 1975 đất
nước chia thành hai miền Nam – Bắc. Dinh Độc Lập (1962 – 1966),
Thư viện Quốc gia SG (1968 – 1972), Trường ĐH Y khoa SG (1962 –
1966).
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích Mỹ thuật học để vận dụng trong phân tích
những đặc trưng của Nghệ thuật trang trí. Đồng thời kết hợp với phương
pháp tiếp cận liên ngành nhằm làm rõ hơn những đặc trưng của đối
tượng nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau. Phương pháp nghiên
cứu điền dã, nghiên cứu lịch sử, tra cứu tài liệu, so sánh đối chiếu, thống
kê, mô tả làm rõ các nhận định của giả thuyết đặt ra để nhận diện tính
mới của luận án.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 cần có cơ sở lý luận thế nào để thấy rõ tiến
trình lịch sử phát triển mỹ thuật trang trí Việt Nam?
Câu hỏi 2: NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 có những kiểu thức trang trí đặc trưng gì?
Câu hỏi 3: NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 có giá trị gì và có thể kế thừa, phát huy trong
hiện nay như thế nào? Giả thuyết 1: Để nghiên cứu NTTT trên một số công trình kiến
trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975, luận án cần nghiên cứu một
số khái niệm, cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài. Khái quát NTTT để
thấy quá trình phát triển của mỹ thuật hiện đại Việt Nam và gắn liền với
nền mỹ thuật dân tộc.
Giả thuyết 2: NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 được sáng tạo do chính người Việt và ảnh
hưởng bởi các yếu tố: Địa văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường
đào tạo, hoạt động và chủ thể sáng tạo NTTT kiến trúc. NTTT đặc trưng
5
về yếu tố truyền thống kết hợp hiện đại thể hiện trong nội dung, hình
thức, chất liệu mô típ trang trí.
Giả thuyết 3: NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 có giá trị về nội dung kế thừa truyền thống
kết hợp được với hình thức, ngôn ngữ phong cách hiện đại thể hiện trên
mô típ trang trí kiến trúc. Cần tiếp thu những giá trị NTTT và đề xuất
hướng phát huy giá trị truyền thống dân tộc vào kiến trúc đương đại.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Nhận diện và đánh giá giá trị các nhóm mô típ trang trí (chủ đề,
bố cục, chất liệu) mang ý nghĩa biểu trưng văn hoá truyền thống. Những
giá trị đặc trưng của NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu có
tính kế thừa truyền thống dân tộc. Đề xuất hướng bảo tồn và phát huy
giá trị NTTT trên kiến trúc trong giai đoạn hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận án bổ sung một phần lý luận về phong cách kiến trúc hiện
đại tại SG, góp phần xây dựng hệ thống giáo trình trang trí đối với
NTTT kiến trúc và chuyên ngành mỹ thuật, lý luận và lịch sử mỹ thuật.
Góp vào nguồn tài liệu tham khảo, bảo tồn, trùng tu những công trình
thuộc giai đoạn 1954 - 1975.
8. Cấu trúc luận án
Luận án 148 trang gồm: Phần Mở đầu (20 trang); Phần Nội
dung nghiên cứu chia thành ba chương (tổng số 125 trang) gồm:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết, lý luận và thực tiễn nghiên cứu của
đề tài (35 trang).
6
Chương 2. Đặc trưng nghệ thuật trang trí trên một số công trình
kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ 1954 đến 1975 (51 trang).
Chương 3. Giá trị nghệ thuật trang trí trên một số công trình
kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ 1954 đến 1975 và đề xuất hướng phát
huy trong giai đoạn hiện nay (39 trang).
Phần kết luận (03 trang).
Danh mục công trình khoa học đã công bố (1 trang).
Tài liệu tham khảo (10 trang).
Phụ lục 1: Bảng biểu (26 trang).
Phụ lục 2: Hình ảnh minh hoạ (89 trang).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
Nghệ thuật trang trí (decorative arts): Từ điển Mỹ thuật ghi “Mỹ
thuật trang trí. Từ bao hàm mỹ thuật ứng dụng và cũng kể cả những đồ vật được
chế tạo cho mục đích trang trí” [72, tr. 303]. NTTT là làm đẹp, làm thăng hoa
giá trị thẩm mỹ cho các công trình kiến trúc nói riêng, nhằm phục vụ
cho đời sống vật chất và tinh thần của con người nói chung.
Kiến trúc (architecture): Là sáng tạo không gian sống cho con
người có sự kết hợp cái đẹp với cái thực dụng, nhằm tổ chức môi trường
sống vật chất và thẩm mĩ cho con người. Theo tự điển Petit Larousse
(Pháp): Kiến trúc là nghệ thuật của xây dựng sắp xếp và tô điểm trang
trí cho công trình. Nghệ thuật trang trí kiến trúc (Decorative art in architecture):
Là những cách thức bài trí, bố trí, mô típ không gian nội – ngoại thất
7
công trình kiến trúc, do con người sáng tạo, hoặc tiếp thu trong lịch sử,
được thể hiện, chế tác qua những thủ pháp như khắc, chạm, lộng, cẩn,
đắp, vẽ, sơn…, được làm bằng tay, bằng những công cụ trên nhiều chất
liệu, nhằm tạo nên những tác phẩm mỹ thuật trang trí trên kiến trúc, có
giá trị thẩm mĩ và thông điệp.
Nghệ thuật trang trí lam (Decorative art in Brise - soleil)
Lam (Brise – soleil) là bộ phận chắn nắng mặt đứng kiến trúc,
thông gió hoặc bẫy gió làm giảm nhiệt độ nóng đối với kiến trúc, nên
gọi là cấu trúc vỏ kép. Vậy Nghệ thuật trang trí lam được kiến trúc sư,
điêu khắc gia chú ý giải tỏa tính kết cấu khô khan của hệ lam trên kiến
trúc chủ nghĩa hiện đại. NTTT lam là hoa văn hình học, chiết tự, tứ linh
làm phong phú diện mạo kiến trúc phong cách hiện đại tại Sài Gòn.
Kiến trúc tiêu biểu (Exemplary architecture):Có thể trở thành
những biểu tượng văn hoá cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Vì thế kiến
trúc tiêu biểu là một loại hình, một trào lưu các tác phẩm kiến trúc có
dấu ấn đặc trưng riêng, đại diện cho một giai đoạn, một phong cách.
Biểu tượng (Symbol): Biểu là dấu hiệu riêng, tượng là hình tượng.
Là những ký hiệu hay dấu hiệu nhằm trình bày (biểu) về một điều gì đó
theo cách tượng trưng hoá tức là lấy hình này để tỏ ý kia (tượng), tạo ra
cảm xúc thiêng (tính tâm linh).
Hình tượng nghệ thuật (art icon): Là những cảm xúc thẩm mĩ
bay bổng, sáng tạo, không có tính thiêng, nên hình tượng khác với biểu
tượng. Mượn cái cụ thể để nói cái trừu tượng khái quát nhằm tạo ra cảm
xúc hoặc giá trị thẩm mĩ
8
Họa tiết (Textures): Là hình vẽ cách điệu, có khi trở thành biểu
tượng bởi tính chọn lọc hình và nét. Hình vẽ cách điệu trở thành hoạ
tiết trang trí, trải qua thời gian có giá trị lịch sử nó có thể trở thành hoa
văn trang trí có giá trị.
Hoa văn (Diaper Patterns): Là hình vẽ trang trí được biểu hiện
trên các đồ vật, đề tài về thực vật, động vật, hay chỉ là nét ký hiệu… tạo
thành các bố cục đường diềm, bố cục hình học kỹ hà, hoặc tự do. Hoa
văn thể hiện qua điêu khắc (phù điêu), chạm khắc gỗ.
Truyền thống (Traditional): Là cốt lõi, là bền vững đối với văn
hoá con người. Là tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, lễ
nghi…, được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho nền
văn hoá có tính kế thừa.
Bản sắc văn hóa (Cultural indentity): Là sắc thái, đặc tính, đặc
thù riêng khác. Bản sắc có tính chất đặc biệt, tạo thành phẩm cách riêng,
góp phần vào hình thành bản sắc văn hoá dân tộc, mà không lẫn vào bất
kỳ quốc gia nào.
1.1.2. Các lý thuyết vận dụng nghiên cứu
1.1.2.1. Lý thuyết Mỹ thuật học
Tiếp cập lý thuyết Mỹ thuật học giúp cho các nghiên cứu về nghệ
thuật, NTTT có cơ sở hệ thống những tư tưởng và định hướng về mỹ
thuật. Tiếp cận qua các tư tưởng triết mỹ về mỹ thuật học đó là Giordano
Bruno, Dana Arnold. Những khám phá và dự đoán về ý tưởng hiện đại,
nghệ thuật gắn với nghệ sĩ góp phần lý giải sự ảnh hưởng của yếu tố
chủ thể sáng tạo. Mỹ thuật học và lịch sử là phương tiện để nhìn nhận
và thấu hiểu (Hegel). Mỹ thuật học và nghệ thuật thị giác cho góc nhìn
phong phú hơn, cảm nhận được vẽ đẹp tiềm ẩn trong những “bức rèm
lam” trên mặt đứng kiến trúc và những hoa văn hình học. Tiếp cận lý
9
thuyết mỹ thuật học giải đáp về phạm vi mỹ thuật, sự sáng tạo, ngôn
ngữ tạo hình.
1.1.2.2. Lý thuyết Mỹ học
Lý thuyết của Theodor Adorno có tính liên ngành cao, trong đó
có lý thuyết về mỹ học kiến trúc. Kandinsky có cái nhìn sâu sắc về các
lớp văn hoá, ý nghĩa được đan cài trong tác phẩm mỹ thuật, lý giải mô
típ trang trí trên kiến trúc tại SG (1954 – 1975) có ý nghĩa văn hóa
truyền thống. Mỹ học kiến trúc (Uông Chính Chương) lý luận về nguồn
gốc và cái đẹp của nghệ thuật kiến trúc, yếu tố tạo hình, chất liệu,
khuyên người thực hành kiến trúc phải linh hoạt trong sáng tạo. Hegel
thì cho rằng tác phẩm trừu tượng mới thực sự là cội nguồn và cái đẹp
của kiến trúc. Góp phần lý giải yếu tố trừu tượng trong mô típ trang trí
kiến trúc SG (1954 – 1975).
1.1.2.3. Lý thuyết tiếp biến văn hoá và vùng văn hoá
Yếu tố giao lưu và tiếp biến văn hoá luôn xảy ra đối với vùng đất
SG. Cho nên, tiếp cận lý thuyết tiếp biến văn hoá của Lý Tùng Hiếu và
lý thuyết văn hoá vùng của Ngô Đức Thịnh làm cơ sở khi giải mã các
mô típ trang trí có ảnh hưởng các giá trị bản sắc vùng miền. Giá trị của
tính bản địa hình thành trong quá trình giao lưu và tiếp biến. Sự tiếp thu
phong cách hiện đại phương Tây và sự hội tụ của các nhà thiết kế du
học trở về làm nên phong trào cách tân mỹ thuật theo hướng mới (hiện
đại) có tính đặc thù, do chính người Việt tại SG sáng tạo nên.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát nghệ thuật trang trí kiến trúc tại Việt Nam từ
1954 đến 1975
Theo phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam thì giai đoạn 1954 –
1975 đã bước vào thời kỳ mỹ thuật hiện đại. Sáng tác theo chủ đề mang
10
tính hiện thực và xây dựng miền Bắc độc lập. Tính hiện thức đó chính
là tính hiện đại trong tác phẩm. NTTT kiến trúc hai miền lúc bấy giờ
ảnh hưởng trào lưu thế giới, tiếp biến phong cách quốc tế, tiếp thu tính
hiện thực của thời đại. Xây dựng và sáng tạo với ngôn ngữ biểu hiện
mới, loại bỏ chi tiết, quy về hình kỷ hà, bố cục hình học, chất liệu bê
tông. Phong cách hiện đại ảnh hưởng thế giới và Việt Nam, nhưng tác
NTTT kiến trúc (1954 – 1975) khéo léo tiếp thu, bản đại hóa. Đó là tinh
thần dân tộc đan cài trong tác phẩm. Như vậy NTTT kiến trúc tại Việt
Nam (1954 – 1975) là thực hành phong cách hiện đại, biểu đạt ngôn
ngữ hình khối, mô típ trang trí tối giản có đan cài nội dung mang tính
truyền thống của dân tộc.
1.2.2. Khái quát nghệ thuật trang trí kiến trúc tại Sài Gòn từ
1954 đến 1975
Cùng chung phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam, SG cũng trải
qua thời kỳ này, chịu sự ảnh hưởng của văn hoá phương Tây và văn hoá
Mỹ. Xã hội hình thành nền kinh tế thị trường, ứng xử linh hoạt, thực
dụng, chấp nhận sự khác biệt, tạo nên tính “hoà” và “mở” cho văn hoá
SG. Nghệ thuật thể hiện trừu tượng, bố cục phi truyền thống trước bối
cảnh xã hội, chính trị đầy bất trắc. Lúc bấy giờ tri thức du học từ phương
Tây về tiêu biểu là KTS Ngô Viết Thụ đã thiết kế Dinh Độc Lập, Trường
ĐH Y khoa SG. Còn có KTS Nguyễn Hữu Thiện (học Mỹ thuật Đông
Dương), Bùi Quang Hanh, Lê Văn Lắm thiết kế Thư viện quốc gia SG.
Ba công trình kiến trúc tiêu biểu đại diện cho NTTT phong cách hiện
đại giai đoạn này. Chính yếu tố địa - văn hoá đã góp phần định hướng
cho tư tưởng sáng tác, lồng ghép tính truyền thống bản địa vào những
mô típ trang trí có ngôn ngữ hình khối hiện đại. NTTT kiến trúc tại SG
11
từ năm 1954 đến 1975 là thành tựu kế thừa giá trị truyền thống kết hợp
yếu tố hiện đại còn lưu dấu trên các mô típ trang trí đến ngày nay.
Tiểu kết Chương 1
NTTT trên kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975 có
những giá trị đặc trưng được nhận diện và phân tích từ những khoảng
trống trong nghiên cứu tổng quan qua các tài liệu, công trình khoa học
của người đi trước. Thông qua những phương pháp tiếp cận nghiên cứu,
các khái niệm nhận diện về lĩnh vực đề tài cùng các lý thuyết tiếp cận
lý luận đã khái quát được tư tưởng, định hướng sáng tạo NTTT của Việt
Nam nói chung và tại SG nói riêng ở giai đoạn 1954 – 1975.
Chương 2
ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN MỘT SỐ
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU TẠI SÀI GÒN TỪ
NĂM 1954 ĐẾN 1975 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí trên
một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ năm 1954 đến
1975
2.1.1. Yếu tố địa - văn hoá
Địa - văn hoá (Culture – Geography) là địa lý văn hoá, là phương
pháp định vị văn hoá vùng. Tính bản địa bên trong yếu tố địa - văn hoá
cùng với giá trị truyền thống và giá trị di sản văn hoá tạo nên bản sắc
(indentity, style) trong văn hoá - nghệ thuật bao gồm cả trang trí kiến
trúc. Địa - văn hoá là môi trường tự nhiên chi phối sự hình thành và
phát triển văn hoá vùng, nhưng cũng chính nó giúp tách được yếu tố
đặc trưng từng địa phương, đó là tính bản địa, qua đó thấy được sự
tương đồng và dị biệt trong văn hóa khu vực. Hoa văn trang trí cách
12
điệu hình khối lược giản tưởng chừng như đặc trưng và dị biệt khác với
xung quanh, nhưng qua so sánh sự tương đồng thì có hoa văn đã được
trang trí kiến trúc khắp ba miền tại Việt Nam.
2.1.2. Yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội
Bối cảnh chính trị đất nước chia hai miền Nam Bắc, làm cho tư
tưởng và định hướng sáng tạo nghệ thuật cũng bị ảnh hưởng. SG (miền
Nam) thực hiện tái thiết làm thủ đô, sự di dân vào, làm cho diện mạo
SG biến đổi nhanh chóng. Nghệ thuật kiến trúc mới xây càng nhiều.
Nền kinh tế hàng hoá thị trường phát triển nhanh, đã tạo điều kiện cho
nhiều cá nhân đầu tư cơ sở hạ tầng, thẩm mĩ đô thị thay đổi không
ngừng. Xã hội chịu sự giao lưu văn hoá với phương Tây nên xảy ra quá
trình tiếp biến từ tư tưởng đến thực hành sáng tạo nghệ thuật. Cách tân
là xu hưởng chung toàn xã hội SG, làm ảnh hưởng tư tưởng sáng tác
nghệ thuật. Nhưng các KTS lúc bấy giờ có ý thức đề cao tính dân tộc
trong mỗi tác phẩm khi sáng tạo. Khéo léo đan cài nội dung truyền
thống hài hoà với hình thức trang trí mới – phong cách hiện đại.
2.1.3. Yếu tố môi trường đào tạo và hoạt động nghệ thuật trang
trí kiến trúc
Sự ra đời của các trường đào tạo về mỹ nghệ, nghệ thuật, kiến
trúc đã góp phần vào hoạt động NTTT, đó là: Trường Mỹ thuật bản xứ
Thủ Dầu Một; Trường Mỹ nghệ Biên Hoà; Trường trang trí Mỹ thuật
Gia Định; Trường Cao đẳng kiến trúc SG. Hoạt động nghệ thuật trang
trí kiến trúc có sự góp phần của các văn phòng kiến trúc lúc bấy giờ là
văn phòng Hoa – Thâng – Nhạc, văn phòng KTS Hoàng Hùng, văn
phòng KTS Tô Công Văn… Đây là thời kỳ tác phẩm kiến trúc có tên
tác giả, không còn tình trạng vô danh như trước. Mel Schenck đã khẳng
định trong ấn phẩm Kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam là “Việt
13
Nam là trung tâm của kiến trúc phong cách hiện đại”. Chứng tỏ nhu cầu
của xã hội và sự thực hành kiến trúc hiện đại của các văn phòng KTS
rất nhiều.
2.1.4. Yếu tố chủ thể sáng tạo nghệ thuật trang trí kiến trúc
Giai đoạn 1954 – 1975 số lượng KTS tại SG trên 50 người. KTS
Ngô Viết Thụ (Huế) du học về, tư tưởng sáng tác là sự kết hợp giữa triết
lý Á Đông và phong cách quốc tế mới, điều này được thể hiện trên tác
phẩm Dinh Độc Lập. Mô típ trang trí lam cảm hứng từ hình ảnh luỹ tre,
lá trúc, đề tài tứ linh, hoa văn, hồi văn, chiết tự được kế thừa từ mỹ thuật
cổ Việt Nam, đã tạo nên một công trình có dấu ấn đặc biệt. Ngô Viết
Thụ còn tham gia thiết kế Trường ĐH Y khoa SG có mô típ trang trí
đặc biệt, áp dụng hình học, tỉ lệ vàng. KTS Nguyễn Hữu Thiện (trường
Mỹ thuật Đông Dương), Bùi Quang Hanh (ngoại kiều) thiết kế Thư viện
Quốc gia SG rất đặc biệt bởi sự phức tạp về cầu trúc và sự đa dạng về
áp dụng vốn cổ dân tộc trang trí (tứ linh, hoa văn Vạn, chữ Thọ, phên
tre, ký hiệu mũi tên…). Ý chí của nhà đầu tư không quyết định chủ đạo
mà định hướng sáng tạo thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo thời kỳ này quyết
định hoàn toàn.
2.2. Đặc trưng nghệ thuật trang trí các đề tài và mô típ trang
trí trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ năm
1954 đến 1975
2.2.1. Nội dung và mô típ trang trí
2.2.1.1. Nhóm mô típ trang trí Linh thú - Tứ linh (Long, Ly, Quy,
Phụng)
Công trình Dinh Độc Lập trang trí mô típ rồng quanh mặt đứng
tạo nên biểu tượng vương quyền, mang ý nghĩa phồn vinh, sức mạnh
dân tộc có tính thiêng. Mặt đứng sau trang trí đề tài Lưỡng long triều
14
Nhật Nguyệt có ý nghĩa cầu mưa thuận gió hoà gắn liền tư tưởng triết
lý và ước vọng của cư dân văn minh lúa nước. Hai mặt đứng bên trang
trí Ly, Quy, Phụng mang ý nghĩa cát tường, tốt lành. Công trình Thư
viện quốc gia SG trang trí mô típ Long, Ly trên lam, Quy, Phụng trên
vách mặt đứng bên và sau. Tứ linh là biểu tượng cho ý nghĩa tốt đẹp,
mong ước cuộc sống như ý. Đặc biệt hình tượng Long ẩn Vân gợi ý đề
tài cá chép vượt vũ môn hoá rồng mang thông tiệp khoa cử dành cho
hiếu học, sĩ tử đỗ đạt. Trường ĐH Y khoa SG không trang trí tứ linh.
2.2.1.2. Nhóm mô típ trang trí hoa văn hình học, hồi văn
Dinh Độc Lập trang trí các dạng hoa văn hình học ô vuông, hình
chữ nhật, nét gạch ngắn, hoa văn xoắn ốc. Thư viện quốc gia SG trang
trí hoa văn kiểu chong chong bốn cánh (giống chữ Vạn 卐), các ô hình
chữ nhật ngắn dài, đan xen trên lam mặt đứng. Hoa văn xoắn ốc hình S
trang trí cửa, hoa văn ký hiệu mũi tên (>), (>>), vòng tròn (O) trên lan
can. Trường ĐH Y khoa SG trang trí hoa văn hình học chữ nhật và hình
vuông, áp dụng tỉ lệ vàng. Hoa văn hình học vách thông gió hội trường,
hoa văn xoắn ốc gấp khúc trang trí cửa phòng thực hành. Những nét
gạch, hay xoắn ốc, hình S là có ý nghĩa biểu trưng cho mây, sấm chớp,
những hoa văn tưởng chừng thô sơ nhưng chứa đựng ý niệm về thế giới
quan văn hoá nông nghiệp.
2.2.1.3. Nhóm mô típ trang trí chiết tự trong trang trí và tạo hình
kiến trúc
Ngô Viết Thụ là người đầu tiên thời kỳ này áp dụng tinh thần sử
dụng chiết tự bố trí mặt bằng kiến trúc như các đình chùa truyền thống Việt Nam (chữ Nhất, chữ Tam, nội Công 工 ngoại Quốc 国). Mặt bằng Dinh hình chữ Cát (吉), các mặt đứng áp dụng chiết tự (Tam, Vương,
Chủ, Khẩu, Trung, Hưng) mà tạo hình. Chữ Á (như dấu thập) được ẩn
15
hiện trong hoa văn hình học, chữ Thọ trong hoa văn xoắn ốc… Công trình ĐH Y khoa SG trang trí chữ Vạn (卐), chữ Á (亞), chữ Công (工 ) ẩn trong hoa văn hình học. Công trình Thư viện quốc gia SG trang trí chiết tự chữ Thọ trên lam trước, lam sau, lan cang… NTTT dùng chiết
tự là biểu trưng cho giá trị tốt đẹp (cát tường tự văn), là lời chúc tụng
cho công trình, gia chủ và đối tượng sử dụng công trình. Cách điệu chữ
có nguồn gốc từ ký hiệu học, là bước sáng tạo bậc cao trong mỹ thuật
trang trí.
2.2.1.4. Nhóm mô típ trang trí lam mặt đứng công trình
Lam (Brise -Soleil) có công năng chắn nắng, bẫy gió giảm bức
xạ nhiệt, được trang trí rất đặc thù, tạo nên dấu ấn cho phong cách kiến
trúc hiện đại miền Nam, Việt Nam. Hình tượng lam trúc mặt đứng Dinh
có ý nghĩa về tâm và tính gia chủ (tiết trực tâm hư), quân tử trong tư
tưởng nho gia. Thông điệp về pháp trị gửi gắm cho chủ nhân công trình.
Lam công trình Thư viện Quốc gia SG là sự tổ hợp đa hình đa nghĩa
(rồng, long ẩn vân, Vạn Thọ, ẩn hiện tấm phên tre đan)… tạo nên ý
nghĩa hoá rồng, hiếu học, trường tồn. Mô típ trang trí lam công trình
trường ĐH Y khoa SG là những hình học vuông, chữ nhật gắn kết theo
mạch ngang, mạch đứng ẩn chứa chiết tự chữ Vạn (卐) Phật gia, ẩn dụ
thông điệp hành y đức chuẩn mực, có tâm có đức.
2.2.2. Hình thức, chất liệu thể hiện
Nhóm mô típ trang trí tứ linh có hình thức bố cục chung là hình
chữ nhật trên mặt đứng. Trang trí Long, Ly chính diện dạng hổ phù.
Lưỡng Long triều nhật bố cục mặt bên… Thể hiện bằng nghệ thuật điêu
khắc – phù điêu, chất liệu đá.
Nhóm mô típ trang trí hoa văn hình học, hồi văn có hình thức nét,
mảng là những hoa văn hình vuông, xoắn ốc, hình chữ S, gạch ngắn
16
song song có nguồn gốc từ hoa văn Việt cổ, tạo kiểu hồi văn, dải hoa
văn…, bằng chất liệu đồng, sắt.
Nhóm mô típ trang trí chiết tự có hình thức ẩn trong hoa văn gợi
lên chữ. Hình thức chiết tự được trang trí nhiều trên ba công trình. Các
chữ Vạn, Thọ, Công là những mô típ trang trí bằng hình thức cách điệu,
trang trí bên ngoài và bên trong công trình. Đặc biệt chữ Vạn (卐) được ẩn trong hoa văn hình học dạng chong chóng trên lam. Chữ Á (亞), chữ Công (工) trong vách thông gió trường ĐH Y khoa. Chữ Thọ trang trí
Thư viện thể hiện hình thức âm bản và dương bản. Chất liệu thể hiện
nhóm hoa văn này là bê tông cốt thép, sắt, gỗ.
Nhóm mô típ trang trí lam mặt đứng có hình thức bố cục hàng
lối, phân chia các ô thành từng đơn nguyên (mô đun) phối hợp tạo thành
bức “rèm”. Công trình Dinh trang trí lam bằng đá mài trắng, Thư viện
trang trí đề tài (Vạn Thọ, hoá rồng) bằng bê tông cốt thép. Trường ĐH
Y khoa trang trí hình kỷ hà ô vuông, chữ nhật, chất liệu bê tông đá mài.
Nhìn chung, lam mặt đứng ba công trình có sự kế thừa từ tấm phên tre
đan (tấm dạn) trong ngôi nhà dân gian của người Việt xưa.
2.2.3. Ngôn ngữ biểu đạt
NTTT bằng ngôn ngữ thể hiện là điêu khắc – phù điêu trên chất
liệu đá, xi măng, bê tông đúc. Ngôn ngữ biểu đạt mô típ là hình khối
phổ biến trong trang trí thời kỳ này. Tuy vậy, ngôn ngữ biểu đạt có nét
đặc trưng riêng, phong phú bởi chất liệu. Những hoa văn vân xoắn, chữ
S (kim loại) tuy không phải thuần điêu khắc, hình khối nhưng có chung
ngôn ngữ tạo hình trang trí hài hòa, khúc chiết, hiện đại.
2.3. Nhận định về những thành công và hạn chế của nghệ
thuật trang trí trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn
từ 1954 đến 1975
17
Nhận định về những thành công và hạn chế của NTTT dựa trên
tiêu chí: Tiêu chí lý thuyết tiếp biến văn hóa và vùng văn hóa; Tiêu chí
lý thuyết mỹ học; Tiêu chí lý thuyết mỹ thuật học.
2.3.1. Những thành công
Thành công về mặt văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội và giá trị
của đề tài nghiên cứu. Đề cao tính bản địa trong văn hoá, tư tưởng sáng
tạo nội dung. Về mặt chính trị, kinh tế, xã hội do hoàn cảnh lịch sử,
công cuộc tái thiết thủ đô SG của nhà cầm quyền đã thúc đẩy quá trình
xây dựng diễn ra nhanh, ủng hộ trào lưu hiện đại dẫn đến hình thành
NTTT trên kiến trúc. Thành công về nhận diện được những đặc trưng
của yếu tố truyền thống đan cài với hình thức hiện đại trong các mô típ
trang trí (trào lưu cách tân nhưng ý thức đề cao tính dân tộc mạnh mẽ).
2.3.2. Những hạn chế
Về mặt chủ quan, khó đo đạc kích thước mô típ chính xác, nhận
diện mô típ trang trí bằng chất liệu bê tông dễ nhầm lẫn, vì có khi mô
típ trang trí cũng chính là bộ phận cấu tạo nhưng do mỹ thuật hóa.
Về mặt khách quan, hạn chế tài liệu đối chiếu, các công trình có
quản lý đặc thù nên không cho phép tiếp cận toàn diện. Đề xuất phát
huy NTTT vào thực tiễn đương đại cân nhắc vì yếu tố lịch sử thời kỳ.
Tiểu kết Chương 2
NTTT trên một số kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến
1975 có những yếu tố ảnh hưởng hình thành nên giá trị bản sắc cho
NTTT đó là yếu tố địa - văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội, yếu tố môi
trường đào tạo và hoạt động trang trí kiến trúc, yếu tố chủ thể sáng tạo
thẩm mĩ… Tất cả hợp thành một đại bộ phận chi phối làm nên tính đặc
trưng cho những nhóm mô típ trang trí công trình như tứ linh, hoa văn,
hồi văn, chiết tự, mô típ trang trí lam mặt đứng công trình. Sự thành
18
công của nội dung và hình thức thể hiện các giá trị đặc trưng của NTTT,
nhưng cũng có những hạn chế của đề tài nghiên cứu bởi các điều kiện
khách quan và chủ quan.
Chương 3
BÀN LUẬN VỀ GIÁ TRỊ VÀ KIẾN GIẢI VIỆC PHÁT HUY
NHỮNG GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN CÁC
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Những giá trị đặc sắc của nghệ thuật trang trí trên một
số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ năm 1954 đến 1975
3.1.1. Giá trị về nội dung
3.1.1.1. Giá trị tạo hình nghệ thuật trang trí kiến trúc có kế thừa
tinh thần truyền thống
Đề tài trang trí mô típ tứ linh, hoa văn xoắn ốc, hoa văn hình S,
hoa văn chữ Thọ, chữ Vạn, chữ Công…, là những kiểu thức có nguồn
gốc từ mỹ thuật trang trí Việt. Vì vậy, nội dung và hình thức lưu giữ giá
trị truyền thống bên trong. Đặc biệt hệ lam được trang trí đa dạng hình
khối nhưng chủ đề truyền thống và kế thừa tấm phên tre (tấm dạn) từ
ngôi nhà dân gian người Việt, tạo nên nét đặc thù cho kiến trúc phong
cách hiện đại tại SG (1954 – 1975).
3.1.1.2 Giá trị nghệ thuật trang trí trên một số kiến trúc tiêu biểu tại
SG từ năm 1954 đến 1975 là sự hội tụ giao lưu và tiếp biến với văn hóa Âu –
Mỹ tại Sài Gòn
Văn hóa Châu Âu (Pháp) đã xuất hiện từ trước, ảnh hưởng bản
xứ và tiếp biến tạo nên NTTT phong cách Đông Dương, nhưng sự tiếp
biến yếu tố truyền thống mang tính bị động. Đến giai đoạn 1954 – 1975
SG vẫn là nơi hội tụ giao lưu và tiếp biến với văn hoá phương Tây
(Pháp) và văn hoá Mỹ. Không chỉ là hội tụ văn hóa mà còn là sự hội tụ
19
của người Việt du học về, họ đã tiếp thu kiến thức và văn hóa phương
Tây. Cùng với bối cảnh chính trị và xã hội ảnh hưởng Mỹ, chính quyền
đương thời ủng hộ trào lưu hiện đại. Vì thế, khi thực hành thiết kế và
trang trí kiến trúc họ đã thể hiện sự cách tân mới, làm cho diện mạo mỹ
thuật đô thành SG khác lạ so với giai đoạn trước. Tuy vậy, KTS người
Việt đã ý thức đề cao tính dân tộc nên đan cài khéo léo vào NTTT trên
kiến trúc thời kỳ này, với tinh thần chủ động.
3.1.1.3 Giá trị nghệ thuật trang trí trên một số kiến trúc tiêu biểu
tại SG từ năm 1954 đến 1975 là tinh thần sáng tạo của người Việt
Tinh thần sáng tạo của người Việt mang tính chủ động trong thực
hành NTTT thật sinh động. Bố cục tứ linh tạo hình chính diện, nét,
mảng, khối hiện đại. Các hoa văn truyền thống như xoắn (vân), hình S
(Lôi), chữ Thọ được thể hiện qua hình khối cách điệu, lược giản. Chữ
Vạn được mô phỏng hình học như chong chóng bốn cánh được trang trí
nhiều nơi. Đặc biệt là tấm phên (tấm dạn) đã được chuyển hóa thành
bức rèm hoa văn bê tông độc đáo có chức năng che nắng giảm bức xạ
nhiệt cho công trình kiến trúc, giá trị sáng tạo này chỉ có ở Việt Nam.
3.1.1.4. Giá trị nghệ thuật trang trí trên một số kiến trúc tiêu biểu
tại SG từ năm 1954 đến 1975 là dấu ấn đặc sắc trong quá trình phát
triển nghệ thuật trang trí
NTTT trên kiến trúc tiêu biểu tại SG (1954 – 1975) là dấu ấn đặc
sắc thông qua ngôn ngữ tạo hình (hình kỷ hà, hình học, hình khối), đặc
sắc bởi hệ lam trang trí mặt đứng, đặc sắc bởi sự kết hợp hài hoà giữa
yếu tố hiện đại và truyền thống, đặc sắc bởi chất liệu bê tông, đá mài,
đá rửa thay thế gỗ… Tất cả hợp lại tạo nên dấu ấn đặc sắc, nét đặc trưng
riêng cho NTTT trên kiến trúc không lẫn với thế giới giai đoạn này.
20
3.1.2 Giá trị về hình thức ngôn ngữ biểu đạt
Hầu như các công trình thời kỳ lịch sử này có chung hình thức
thể hiện và ngôn ngữ biểu hiện trang trí là những đường nét ngang và
thẳng đứng, kết hợp nét cong ít, mảng lớn, hình học kỷ hà, khối hộp,
không trang trí rườm rà, dư thừa, chất liệu bê tông cốt thép, đá rửa, đá
mài phủ bề mặt. Bố cục trang trí hàng lối, đối xứng, ngôn ngữ điêu khắc
hình khối cách điệu, quan hệ chặt chẽ giữa hình và nền (chữ Thọ âm
bản - dương bản) trong trang trí lam tạo nên liên tưởng các lá trúc hay
chiết tự ẩn hiện bên trong (chữ Vạn, chữ Công, chữ Á).
3.2. Mối tương quan giữa nghệ thuật trang trí của các công
trình kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975 với các công
trình kiến trúc đồng thời tại khu vực khác ở Việt Nam
3.2.1. Tại khu vực Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
So sánh NTTT trên công trình ở khu vực Tp. HCM: Trường ĐH
Kinh tế Tp. HCM, Trung tâm truyền thông Giáo dục Sức khoẻ, Đài
tiếng nói Nhân dân Tp. HCM, Trung tâm Văn hoá Tp. HCM, Toà nhà
92 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Trung tâm Thương mại ITC… Những hoa
văn trang trí là những hình học kỷ hà cách điệu có ý nghĩa phù hợp với
thể loại và chức năng công trình. Và cũng có những hoa văn có nguồn
gốc từ mỹ thuật Huế, Việt Nam (Hoa văn đồng tiền, hoa văn tam giác,
hoa văn hình tròn, hoa văn bán nguyệt với hình học…).
3.2.2. Tại miền Tây Nam bộ
So sánh với vùng lân cận Tp. HCM: Trường ĐH xây dựng miền
Tây (Vĩnh Long). Hoa văn trang trí có giá trị về mặt địa phương vùng
miền, phù hợp với công trình (Hoa văn cách chim, hoa văn chín dòng
sông…)
21
3.2.3. Tại miền Trung
So sánh với khu vực miền Trung: Trường ĐH Sư phạm Huế,
Nhà sách Phương Nam (Huế)… Hoa văn trang trí có sự tương đồng
với công trình Thư viện Quốc gia SG. Có hoa văn thuộc nhóm mô típ
tứ linh trang trí (Hoa văn mô đun hình vuông, hoa văn hình học chong
chóng mô phỏng chữ Vạn 卐, hoa văn tứ linh, hoa văn chữ Thọ…)
3.2.4. Tại Hà Nội
So sánh với khu vực miền Bắc: Cung thiếu nhi HN, Ga HN…
Hoa văn trang trí có ý nghĩa phù hợp thể loại chức năng công trình. Có
Hoa văn tương đồng với hoa văn của công trình Thư viện Quốc gia SG
(Hoa văn hình quyển tập (sách), hoa văn hình học chong chóng mô
phỏng chữ Vạn 卐…).
Qua khảo sát, so sánh công trình từ Nam, Trung, Bắc nhận thấy
trang trí lam mặt đứng kiến trúc được chú ý đầu tư, mỗi công trình có
dấu ấn riêng. Vận dụng tinh thần kết hợp yếu tố truyền thống và hiện
đại. Hoa văn hình dạng chữ Vạn (卐), chữ Thọ, chữ S mang tính truyền
thống được trang trí nhiều nhất. Hình thức biểu hiện khối, ngôn ngữ
hình học kỷ hà cách điệu, chất liệu bê tông đúc, đá mài, đá rửa.
3.3. Khai thác những giá trị nghệ thuật trang trí trên một số
công trình kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975 trong
đời sống đương đại
3.3.1. Việc sử dụng các yếu tố trang trí tại các công trình kiến
trúc
Từ thời kỳ phong cách kiến trúc truyền thống, dân gian, đến
phong cách Đông Dương và phong cách hiện đại giai đoạn này, tính
dân tộc được đề cao và phát huy tính mới ở mỗi thời kỳ. Vì vậy, việc
sử dụng các yếu tố trang trí kiến trúc đó là yếu tố truyền thống kết hợp
22
phong cách hiện đại đề cao yếu tố đặc tính dân tộc. Tinh thần kế thừa
từ kiến trúc nhà sàn, nhà ba gian, tấm phên tre đến các mô típ trang trí
có nguồn gốc Việt cổ như tứ linh, chữ S, vân xoắn, chiết tự…, được
thể hiện hình thức mới, bằng chất liệu bê tông, đá mài, đá rửa. Yếu tố
mỹ thuật điêu khắc làm ngôn ngữ thể hiện trang trí, nhưng có trọng
tâm, trọng điểm, mảng khối thiên về hình học, đơn giản nhưng sâu sắc,
trừu tượng nhưng biểu cảm.
3.3.2. Đề xuất tiếp thu những giá trị của việc sử dụng các mô
típ trang trí trên cơ sở các tiêu chí
Tiếp thu những giá trị của các mô típ trang trí từ đó xây dựng tiêu
chí phát huy giá trị NTTT trên kiến trúc: Thứ nhất, Lam có chức năng
xử lý khí hậu nhiệt đới và lam là bộ mặt của kiến trúc, nên việc ứng
dụng trang trí trên lam phải chú ý đầu tiên; Thứ hai, nhóm mô típ hoa
văn Hình học, nhóm hoa văn Chiết tự là những ngôn ngữ hình học kỷ
hà phù hợp ngôn ngữ kiến trúc hiện đại dễ khai thác; Thứ ba, là nhóm
mô típ Tứ linh ít được thể hiện trên kiến trúc hiện nay. Cần phải cách
điệu phù hợp ngôn ngữ kiến trúc hiện đại, đặt đúng vị trí (linh điểm).
Dù sao Tứ linh vẫn tồn tại trong tâm thức người Việt, cần kế thừa.
Đề xuất tiêu chí phát huy sáng tạo NTTT trên kiến trúc:
Tiêu chí một (phù hợp môi trường, khí hậu): Mô típ trang trí Lam
cần chú ý yếu tố môi trường, khí hậu địa phương, hoa văn, hình khối
phù hợp chắn nắng, bẫy gió, làm giảm bức xạ nhiệt công trình.
Tiêu chí hai (phù hợp tính đặc thù địa phương, phù hợp kiến
trúc): Khai thác yếu tố địa - văn hoá, đồng thời ngôn ngữ biểu đạt phải
phù hợp với chức năng đặc thù của kiến trúc. Tiêu chí ba (phù hợp tạo hình thẩm mĩ): Sáng tạo hình thức mô
típ trang trí đạt thẩm mĩ cao, ngôn ngữ tạo hình phù hợp.
23
Tiêu chí bốn (chất liệu phù hợp địa phương, kiến trúc): Chất liệu
phù hợp văn hóa, khí hậu địa phương và tổng thể kiến trúc.
3.3.3. Những kiến nghị của tác giả luận án
Lập tiêu chí bảo tồn các giá trị NTTT trên kiến trúc SG: Phù hợp
với giá trị truyền thống dân tộc, bản sắc Việt Nam; Phù hợp với thể loại
chức năng của công trình; Phù hợp chất liệu có tính đặc thù riêng.
Đề xuất hướng bảo tồn lưu giữ hình ảnh tư liệu: Tổ chức cho sinh
viên nghiên cứu vẽ ghi kiến trúc, hoa văn trang trí; Ứng dụng công nghệ
Photogrammetry quét công trình di sản lưu dữ liệu ba chiều (3D).
Tóm lại, qua bàn luận và kiến giải luận án đề xuất cho giải pháp
phát huy các nhóm mô típ trang trí đặc trưng của kiến trúc tiêu biểu tại
SG (1954 – 1975) như sau:
Thứ nhất, chú ý yếu tố bối cảnh, khí hậu bản địa khi thiết kế các
mô típ trang trí lam mặt đứng công trình. Thẩm mĩ hài hoà với tổng thể
kiến trúc và cảnh quan địa phương. Nội dung mô típ trang trí ý thức giá
trị văn hoá truyền thống dân tộc.
Thứ hai, nhóm mô típ trang trí hoa văn, hồi văn, chiết tự phải kế
thừa các hoa văn mỹ thuật Việt cổ, chọn lọc hợp lý, phù hợp chung với
tổng thể kiến trúc, phù hợp văn hoá địa phương.
Thứ ba, phát huy đề tài tứ linh trang trí phải cách điệu phù hợp
ngôn ngữ kiến trúc, bố cục, chất liệu hợp thời đại.
Tiểu kết chương 3
NTTT trên một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm
1954 đến 1975 đã đạt được giá trị về mặt nội dung, hình thức biểu đạt.
Đó là nội dung mang ý nghĩa và triết lý có tính truyền thống được kế
24
thừa. Hình thức biểu đạt bằng ngôn ngữ điêu khắc với bố cục hình học
hiện đại, các mô típ trang trí điêu khắc hình khối kiểu mới…, tất cả hợp
lại tạo nên NTTT có dấu ấn đặc trưng riêng. Vì vậy, định hướng bảo
tồn các giá trị NTTT là rất cần thiết và định hướng phát huy các giá trị
NTTT vào nghệ thuật kiến trúc đương đại.
KẾT LUẬN
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt đã biết cách sáng
tạo nên nền NTTT kiến trúc mang dấu ấn đặc trưng. NTTT trên một số
công trình kiến trúc tiêu biểu tại SG từ năm 1954 đến 1975 là một dấu
son cho một giai đoạn lịch sử mỹ thuật trang trí Việt Nam. Các nghệ sĩ,
điêu khắc gia, kiến trúc sư đã kiến tạo nên những mô típ trang trí có nội
dung hàm chứa ý nghĩa truyền thống của dân tộc biểu hiện qua hình
thức và ngôn ngữ biểu đạt trên nghệ thuật điêu khắc – phù điêu sinh
động. Đã tạo nên các nhóm mô típ trang trí tứ linh, hoa văn hình học,
chiết tự, lam…, đan cài yếu tố truyền thống kết hợp với hiện đại có giá
trị đề cao tính dân tộc rất to lớn. Đặc biệt là sự thay thế từ chất liệu gỗ
truyền thống qua chất liệu bê tông cốt thép, chất liệu đá rửa, đá mài đã
tạo nên nét đặc thù về diện mạo trang trí cho kiến trúc giai đoạn 1954 –
1975 tại Sài Gòn, Việt Nam. Với giá trị của NTTT độc đáo như vậy cần
phải định hướng bảo tồn và đề xuất hướng phát huy giá trị tinh thần đó
trong nghệ thuật kiến trúc đương đại, thì những giá trị của NTTT trên
một số công trình kiến trúc tiêu biểu tại Sài Gòn từ năm 1954 đến 1975
sẽ được tiếp tục kế thừa và phát huy vào thực tiễn trong thời đại mới.
25
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Long Vĩnh (2019), Tính thời đại và tư tưởng thẩm mỹ qua
một số hình tượng nghệ thuật trang trí trong lịch sử văn hoá của dân
tộc, Hội thảo quốc tế về sáng tác nghệ thuật và thiết kế (IADW), Nxb
Văn Hoá Văn Nghệ, Tp. HCM, ISBN: 978-604-68-5469-2, tr. 174 -
184.
2. Lê Long Vĩnh (2020), Decorative traditional elements in the
works of general science library of Ho Chi Minh city a perspective from
the industrial revolution, International Conference on Art & Design
(ICAD), Handong Golal University, Korea, ISBN: 2713-9840, tr. 268
– 285.
3. Lê Long Vĩnh (2021), Yếu tố truyền thống trong mỹ thuật trang
trí trên kiến trúc Sài Gòn giai đoạn 1955 – 1975, Nxb Tài Chính, Hà
Nội, ISBN: 978-604-79-2760-9, tr. 22 – 27.